Đất Vỡ Hoang
Tác giả: M. Sholokhov
Dịch giả: Vũ Trấn Thủ
NXB Cầu Vồng - Moskva, 1985 (In tại Nga Xô)
Tập I
Chương 27
Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ Iakốp Lukits
nghe thấy tiếng chân bước, tiếng lịch kịch ngoài cổng, nhưng không làm sao tỉnh
dậy được. Và khi đã ráng hết sức dứt mình được ra khỏi giấc ngủ, thì là nghe thấy,
lần này chính tai nghe thấy một tấm gỗ hàng rào kêu cót két như dưới sức nặng của
người ai đè lên, và đâu như có một cái gì bằng sắt kêu loảng xoảng.
Lão nhảy bổ
ra cửa sổ, dán mắt vào khe cửa, và trông thấy trong bóng tối như hũ nút của lúc
trước rạng đông một bóng ai cao lớn, nặng nề nhảy qua hàng rào, nghe đánh huỵch
một cái. Nhìn bóng cái mũ nổi lên trăng trắng trong đêm, lão đoán ra là Pôlốptxép.
Lão khoác véttông vào, lôi đôi ủng da trên lò sưởi xuống, xỏ vào, bước ra ngoài.
Pôlốptxép đã dắt con ngựa vào sân, đóng cổng, cài then lại. Iakốp đón lấy cương
ngựa ở tay y. Con ngựa ướt sũng đến tận đầu sống lưng, thở dốc ruột và bước đi
loạng choạng. Pôlốptxép không đáp lại lời chào, thì thào hỏi, giọng khản đặc:
- Anh chàng... Liachépxki vẫn đấy chứ?
- Đang ngủ. Đến là khổ với ông ta... thời
gian qua độc nốc rượu...
- Quỷ tha ma bắt hắn đi! Quân ôn vật... Con
ngựa của mình, hình như đã bắt nó chạy quá sức...
Giọng Pôlốptxép nghe nhỏ khác thường, không
nhận ra nữa, và trong giọng nói ấy Iakốp Lukits cảm thấy có một cái gì tan vỡ,
một nỗi lo ngại lớn và sự mệt mỏi.
Vào tới gian phòng xép, Pôlốptxép tháo ủng,
rút trong xắccốt ra một chiếc quần sarôva kô-dắc màu xanh có nẹp đỏ, mặc vào,
còn cái vừa thay ra thì ướt đẫm đến tận thắt lưng, y treo hong lên trên đầu giường.
Iakốp Lukits đứng tựa cửa, theo dõi những động
tác cử chỉ chậm chạp của viên chỉ huy của mình; tên này ngồi xuống phản, hai
tay ôm đầu gối, hơ sưởi hai lòng bàn chân để trần ngồi đờ ra thiu thiu đi một
phút. Rõ là y buồn ngủ rũ, nhưng y ráng sức cậy mắt ra, đăm đăm nhìn một lúc
lâu tên Liachépxki đang đánh giấc li bì của kẻ say rượu, và hỏi:
- Rượu thế lâu chưa?
- Ngay từ những hôm đầu. Uống say bí tỉ!
Tôi đâm ra khó ăn khó nói với người ta. Ngày nào người ta cũng thấy mình vác vốtka
về. Họ có thể nghi.
- Ôn vật! - Pôlốptxép rít răng lại nói, bằng
một giọng hết sức khinh bỉ. Và lại ngồi thiếp đi, gật gà gật gù cái đầu to hoa
râm.
Nhưng chỉ sau vài ba phút cơn ngủ ập đến
như vậy, y lại giật mình tỉnh dậy, buông hai bàn chân xuống, mở mắt ra.
- Ba ngày đêm nay không ngủ rồi... các sông
tràn bờ hết. Con sông Grêmiatsi này cũng phải bơi qua mới được.
- Đi nằm đi, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ.
- Đi nằm đây. Xin tí thuốc. Thuốc tôi ướt cả.
Rít hai hơi ra rít xong, Pôlốptxép tỉnh táo
hẳn lại. Cơn buồn ngủ díp biến khỏi đôi mắt y, giọng y rắn rỏi lại.
- Thế nào, công việc ra sao?
Iakốp Lukits kể lại vắn tắt; rồi đến lượt
lão hỏi:
- Thắng lợi đến đâu rồi, hả ông? Sắp chưa?
- Trong những ngày này đây, hoặc là...
không bao giờ cả. Đêm mai, anh sẽ đi với tôi sang Vôxkôvôi. Phải nổi dậy từ đấy
nổi đi. Gần huyện lỵ hơn. Ở đấy hiện có một đội tuyên truyền. Ta sẽ thử sức với
nó. Đi chuyến này tôi rất cần đến anh. Anh em kô-dắc bên đấy biết anh, lời anh
nói sẽ kích động được họ. - Pôlốptxép ngừng lại, đưa bàn tay rộng bè bè âu yếm
vuốt ve hồi lâu con mèo đen vừa nhảy vào lòng y. Rồi thều thào, và trong cái giọng
thều thào ấy có một vẻ thiết tha trìu mến không phải là thói thường của y: -
Meo! Miu! Sao lông mày đen thế hả mèo? Anh Iakốp Lukits ạ, mình thích chơi mèo
lắm nhá! Ngựa và mèo là những con vật sạch sẽ nhất... Nhà mình trước có con mèo
Xibia, to, lông mịn mà... Bao giờ nó cũng ngủ với mình... Lông nó màu... - Pôlốptxép
lim dim mắt mơ màng, mỉm cười, mấy ngón tay xua xua: - xám xám tro lốm đốm trắng.
Một con mèo tuyê-ê-ệt đẹp! Thế anh không thích chơi mèo à, hả Iakốp Lukits? Còn
chó thì mình không ưa, mình ghét cay ghét đắng. Này, hồi bé ấy mà, mình bị một
chuyện, lúc ấy mình lên tám thì phải. Nhà mình hồi ấy có một con chó con, bé
tí. Một hôm mình đùa với nó, mình xem chừng đã làm nó đau. Thế là nó đớp lấy
ngón tay mình, cắn vãi máu ra. Mình cáu quá, vớ lấy thanh củi khô, vụt. Nó chạy,
mình đuổi sát và cứ thế vụt, vụt... bằng thích tay! Nó chạy vào nhà kho, mình
vào theo, nó chui xuống gậm thềm, nhưng vào đấy mình cũng với tới và cứ quất,
quất. Mình quất đến nỗi nó đái tung té ướt hết người nó, và không còn kêu ăng ẳng
được nữa, mà chỉ rên khừ khừ và nấc lên... Thế là lúc ấy mình ôm nó lên... -
Pôlốptxép mỉm cười bẽn lẽn, ngượng ngịu, chỉ nhếch một bên mép. - Mình ôm nó
lên rồi thương nó quá, òa khóc, khóc đến thắt ruột thắt gan lại! Bà cụ mình chạy
tới, còn mình nằm lăn dưới đất cạnh con chó, bên nhà xe, chân giẫy đành đạch...
Từ hồi ấy mình không chịu nổi giống chó. Còn mèo thì mình thích ghê lắm. Cả bọn
trẻ con nữa. Bọn bé bé ấy. Mình yêu chúng nó lắm, thành như một cái tật. Nghe
trẻ con khóc mình không chịu nổi, ruột gan cứ nao nao... Còn anh, anh bạn già,
anh có thích mèo không?
Iakốp Lukits lắc đầu, vô cùng sửng sốt trước
biểu hiện của những tình cảm giản dị đầy tính người như vậy, trước những lời
chuyện trò ít thấy ở viên chỉ huy của mình, viên sĩ quan già đời ngay từ hồi
chiến tranh chống Đức đã khét tiếng tàn bạo đối với người kôdắc. Pôlốptxép im lặng
một lát, nghiêm sắc mặt lại, và hỏi, bây giờ thì bằng giọng bàn việc khô khan:
- Lâu nay có thư từ gì không?
- Nước lũ, sông ngòi dâng lên đầy ắp cả, đường
xá xấu. Tuần rưỡi nay không có chuyến thư nào.
- Trong làng có nghe nói gì về bài của
Xtalin không?
- Thưa bài nào ạ?
- Bài đăng báo, nói về chuyện nông trang ấy.
- Không, không nghe thấy gì. Chắc là các
báo ấy không về đến ta. Trong bài nói cái gì vậy, thưa ông Alếchxanđrơ
Anhiximôvits?
- Chậc, chả có gì... Chả lý thú gì đối với
anh. Thôi, đi ngủ đi. Ba tiếng nữa nhớ cho ngựa uống nước. Và tối mai xoay lấy
đôi ngựa nông trang, xẩm tối là ta sẽ đi Vôxkôvôi. Anh đi không thôi, không cần
yên, đây sang đấy cũng gần.
Sáng hôm sau Pôlốptxép ngồi nói chuyện hồi
lâu với Liachépxki lúc ấy đã dã cơn say. Chuyện trò xong, Liachépxki đi xuống bếp,
mặt hầm hầm, tái mét.
- Có lẽ, cần tí cay chăng? - Iakốp Lukits hỏi
đón trước, nhưng Liachépxki nhìn đi tận đâu đâu, qua đầu lão, và đáp dằn từng
tiếng:
- Bây giờ thì không cay đắng gì hết!
Rồi hắn trở vào phòng, nằm úp sấp mặt xuống
giường.
Trực chuồng ngựa nông trang đêm ấy là Ivan
Batansikốp, một trong những người đã được Iakốp Lukits kết nạp vào “Liên minh
giải phóng sông Đông”. Nhưng với hắn Iakốp Lukits cũng không nói rõ là mình đi
đâu, có việc gì. Khi Batansikốp hỏi, lão chỉ trả lời lấp lửng; “Phải đi đàng
này, việc sự nghiệp của chúng ta”. Batansikốp không chút ngần ngừ, dắt luôn hai
con ngựa hay nhất ra. Iakốp Lukits dẫn chúng đi vòng sau kho thóc, buộc vào
hàng rào, và đi gọi Pôlốptxép. Đến gần cửa gian buồng xép, lão nghe thấy tiếng
Liachépxki kêu lên: “Nhưng như thế có nghĩa là chúng ta sẽ bị đánh bại, ông có
hiểu không?”. Đáp lại, Pôlốptxép nói một câu gì gay gắt bằng giọng ồm ồm. Iakốp
Lukits, trong lòng canh cánh cái linh cảm về một chuyện gì chẳng lành, đưa tay
gõ cửa.
Pôlốptxép vác yên ngựa ra. Họ ra cổng, tháo
ngựa. Rồi phóng nước kiệu. Ra khỏi làng, họ lội qua sông. Suốt dọc đường Pôlốptxép
không nói không rằng, cấm hút thuốc và ra lệnh tránh đường cái, đi men cách dăm
chục xagien. [1xagien
= 2,13m]
Ở Vôxkôvôi người ta đang đợi họ. Khoảng hai
chục dân làng tụ tập tại nhà một lão kô- dắc bạn bè với Iakốp Lukits. Đa số là
ông già. Pôlốptxép bắt tay mọi người, rồi kéo một người ra cửa sổ, thì thầm nói
gì trong dăm phút. Những người khác ngồi lẳng lặng, hết nhìn Pôlốptxép lại nhìn
Iakốp Lukits. Ngồi bên bậu cửa, giữa đám người lạ, ít quen biết, Iakốp Lukits cảm
thấy lúng túng, ngượng ngịu.
Các cửa sổ đều che kín bên trong bằng vải bố,
cánh cửa đóng chặt, ngoài sân có anh con rể của chủ nhà đứng canh, mặc dù vậy,
Pôlốptxép vẫn nói nhỏ:
- Thưa các vị kô-dắc, giờ của chúng ta sắp
điểm! Thời nô lệ của các vị sắp chấm dứt, ta phải hành động. Tổ chức chiến đấu
của ta đã sẵn sàng. Tối ngày kia, ta sẽ khởi sự. Một bán đại đội kỵ binh sẽ tới
Vôxkôvôi đây, và nghe thấy loạt súng đầu tiên, các ông sẽ xông vào những nhà...
bọn đội tuyên truyền đóng. Làm sao cho không một thằng nào sống sót! Tôi trao
cho ông quản Marin trách nhiệm chỉ huy phân đội của các ông. Tôi khuyên các ông
trước khi hành động nên khâu vào mũ mỗi người một chiếc băng trắng, để trời tối
khỏi bắn nhầm nhau. Mỗi người phải chuẩn bị sẵn sàng một con ngựa, vũ khí của
mình sẵn có - gươm, súng trường, hoặc súng săn cũng được - và lương ăn ba ngày.
Sau khi thanh toán xong đội tuyên truyền và bọn cộng sản địa phương các ông,
phân đội các ông sẽ nhập vào bán đại đội tới tăng viện cho các ông. Quyền chỉ
huy sẽ chuyển giao sang tay ông chỉ huy bán đại đội ấy. Ông ta dẫn các ông đi
đâu, các ông phải tuân lệnh đi đấy. - Pôlốptxép thở dài sâu một cái, rút mấy
ngón tay của bàn tay trái ra khỏi thắt lưng tấm áo kiểu Tônxtôi, đưa mu bàn tay
quệt mồ hôi trên trán, lên cao giọng nói tiếp: - Vị kô-dắc Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp
mà các ông ở đây đều biết cả, là người trung đoàn tôi, ở Grêmiatsi Lốc hôm nay
đi cùng với tôi sang đây. Ông ấy sẽ nói để các ông rõ dân chúng Grêmiatsi Lốc
đã sẵn sàng đi cùng chúng ta tới mục tiêu vĩ đại giải phóng vùng sông Đông khỏi
ách cộng sản. Nói đi, Ôxtơrốpnốp!
Cái nhìn nặng ngàn cân của Pôlốptxép đã lôi
bật Iakốp Lukits rời khỏi mặt ghế đẩu. Lão đứng phắt dậy, cảm thấy sức nặng ấy đè
lên toàn thân lão, và một cái gì nóng bỏng trong cổ họng khô đắng. Nhưng lão
không kịp nói: một trong những người tới dự cuộc họp này đã cướp lời nói trước,
một lão kô-dắc nom vẻ già nhất đám, ủy viên ban quản trị nhà xứ, trước chiến
tranh là trùm trưởng trường dòng Vôxkôvôi. Lão đứng dậy cùng một lúc với Iakốp
Lukits, và không để cho Iakốp Lukits kịp mở miệng, hỏi luôn:
- Bẩm quan lớn, bẩm ngài quan lớn, thế vậy
ngài đã nghe tin về cái chuyện rằng là... Nghĩa là trước khi ngài tới, mấy
chúng tôi có hội ý... Là mới có cái tờ báo hay lắm ạ...
- Sa-a-ao? Ông nội bảo cái gì? - Pôlốptxép
hỏi, giọng khàn lại.
- Dạ, tờ báo ạ, tôi bảo có tờ báo ở
Mátxcơva về, trong ấy đăng bức thư của ông chủ tịch toàn Đảng...
- Ông bí thư chứ! - Tiếng ai trong đám ngồi
bên bếp lò đính chính lại.
- ...À phải, của ông bí thư toàn Đảng, tức
là đồng chí Xtalin. Đây, tờ báo ấy đây, đề ngày mồng hai tháng này. - Ông lão
nói, giọng già chậm rãi, the thé, miệng nói, tay đã rút ở túi áo trong ra một tờ
báo gấp cẩn thận làm tư. - Mấy bà con chúng tôi đã xướng lên đọc cho nhau nghe,
ấy chỉ có một tí trước khi ngài tới thôi, và... thành thử là nhờ có tờ báo ấy
mà ngài đi đường ngài còn chúng tôi sẽ đi đường chúng tôi thôi ạ! Đường chúng
tôi, nghĩa là anh em dân cày chúng tôi, là con đường khác, thành thử là... Hôm
qua chúng tôi nghe nói có tờ báo ấy, và thế là sáng nay, tôi lên ngựa, và chẳng
quản tuổi già sức yếu đâm bổ đi lên quận lỵ. Qua vực Lépsốp phải bơi, phát khóc
lên, nhưng rồi cũng qua được. Tôi đến hỏi một bà con trên quận lỵ, viện cả Chúa
ra nữa mới mua được tờ báo, trả tiền ông ta. Giá là mười lăm rúp! Mua xong mới
xem thì tờ báo đề giá có năm kôpếch! Chậc, tiền thì rồi tập thể sẽ góp trả tôi,
thu mỗi nhà một hào, chúng tôi đã quyết nghị như thế. Nhưng tờ báo cũng đáng tiền
đáng của, còn rẻ nữa ấy chứ...
- Cụ cứ nói hươu nói vượn cái gì vậy? Già
đâm ra lẫn rồi chắc? Ai cử cụ thay mặt tất cả những người ngồi đây phát biểu? -
Pôlốptxép hỏi vặn, giọng giận dữ run lên.
Thế là một bác kô-dắc dáng người bé nhỏ,
nom trạc bốn mươi, có bộ ria mép vàng hoe cắt ngắn và cái mũi tẹt, tiến ra. Bác
ta tiến ra từ chỗ đám người ngồi ven tường, lên tiếng thách thức và uất hận:
- Đồng chí cựu sĩ quan ơi, ông đừng có quát
tháo các cụ chúng tôi, thời xưa các ông quát tháo các cụ đã nhiều. Các ông làm
cha làm mẹ thế đã đủ rồi, bây giờ không được ăn nói sỗ sàng. Dưới chính quyền
xôviết, chúng tôi không còn quen nghe những giọng ấy nữa, ông hiểu chưa? Và cụ
đây nói đúng đấy, chúng tôi có hội ý với nhau, và cứ như cái bài đăng trên báo
"Sự thật" thì chúng tôi quyết định không nổi dậy nữa. Chúng tôi và
ông, ai đi ngả người nấy! Chính quyền ấp chúng tôi có làm nhiều chuyện bậy bạ,
ép bừa người ta vào nông trang, quy sai cho nhiều bà con trung nông thành kulắc,
và có một điều này các ông chính quyền ấp chúng tôi không hiểu ra, là người ta
có thể ép duyên chứ không ép dân được. Như cái ông chủ tịch xôviết chúng tôi,
ông ta khóa mõm chúng tôi ghê quá đến nỗi vào họp, cấm ai dám phát biểu chống lại
một câu. Ông ta thít dây đai bụng chúng tôi chặt quá đến nỗi không còn thở được
nữa, mà một ông chủ tốt thì qua bãi cát, qua quãng đường xấu, sẽ thả lỏng cương
cho ngựa, sao cho con ngựa được thoải mái hơn... Trước đây, tất nhiên là chúng
tôi tưởng từ trên trung ương có cái lệnh như vậy, bảo phải vắt chúng tôi như vắt
quả chanh; thế cho nên chúng tôi cũng ngỡ là cái sự tuyên truyền này là do từ
Ban chấp hành Trương ương cộng sản đưa xuống, bà con chúng tôi bảo nhau là
không có lửa thì làm gì có khói. Vì thế chúng tôi mới quyết định nổi dậy và
tham gia "liên minh" của các ông. Ông rõ chưa? Nhưng bây giờ hóa ra
là những anh cộng sản địa phương cứ lùa ép dân vào nông trang và đóng cửa nhà
thờ chẳng thèm hỏi ai, thì bị Xtalin cạo cho nên thân và cách chức. Và hóa ra
là dân cày đã dễ thở rồi, dây đai bụng được nới ra rồi, muốn vào nông trang thì
vào, muốn ở cá thể thì ở. Thế là chúng tôi quyết định: chia tay vui vẻ với ông.
Ông trả chúng tôi những tờ giấy chúng tôi đã dại dột ký đưa ông, rồi ông đi đâu
tùy ông, chúng tôi sẽ chẳng hại gì ông đâu, vì cái lẽ chúng tôi cũng dơ mặt...
Pôlốptxép bước ra chỗ cửa sổ, tựa lưng vào
khung cửa, tái mặt đi đến nỗi ai cũng trông thấy, nhưng giọng y vẫn rắn rỏi,
khô đanh khi y đảo nhìn một vòng, hỏi:
- Thế là thế nào, anh em kôdắc? Phản bội à?
Một cụ già khác đáp:
- Ông muốn gọi là gì thì gọi, nhưng bây giờ
thì ông đi đằng ông, chúng tôi đi đằng chúng tôi thôi. Khi mà chính vị to nhất
đứng ra bênh vực chúng tôi, thì chúng tôi việc gì phải rẽ ngang rẽ ngửa đi đâu
nữa? Như tôi đây đã bị tước oan mất quyền bầu cử, họ đe dọa trục xuất tôi,
nhưng thằng con tôi đi Hồng quân, và thế là quyền bầu cử của tôi sẽ được trả về
cho tôi. Chúng tôi không chống lại Chính quyền xôviết, chỉ chống lại những cái
bừa bãi trong xóm ấp mình thôi, thế mà ông lại muốn hướng chúng tôi chống lại
Chính quyền xôviết. Không, chuyện ấy chúng tôi không mê đâu! Ông hãy trả lại
chúng tôi giấy tờ trong khi chúng tôi còn đề nghị tử tế.
Một bác kô-dắc khác nữa đã cứng tuổi phát
biểu, vừa nói vừa từ tốn đưa tay trái lên vuốt bộ râu xoăn tít:
- Chúng tôi lầm to rồi, đồng chí Pôlốptxép ạ...
Chúa chứng kiến là chúng tôi đã lầm to! Chúng tôi dính với ông là lầm đường lạc
lối rồi đấy. Trước, chúng tôi nghĩ: cứ thử cái xem, chẳng mất gì, nhưng bây giờ
thì chúng tôi sẽ thẳng đường cái mà đi thôi, không loanh quanh nữa... Lần trước,
chúng tôi nghe ông nói hứa hẹn với chúng tôi những núi vàng núi bạc mà chúng
tôi cứ lấy làm lạ: những điều ông hứa nghe ngon quá! Ông bảo chúng tôi là ta nổi
dậy thì quân đồng minh sẽ gửi tắp lự sang cho chúng ta súng ống và đồ quân dụng.
Ta chỉ độc có việc bắn giết cộng sản thôi. Nhưng sau đó chúng tôi suy nghĩ lại,
và kết quả nó là thế nào? Họ sẽ đổ bộ vũ khí sang cho ta, cái đó chẳng đáng bao
nhiêu, nhưng cẩn thận đấy, liệu rồi họ có đổ bộ chính họ lên đất ta không? Họ
vào, rồi thì mời được họ ra cũng khó đấy! Rồi lại đến phải dùng súng gươm mà tống
cổ họ ra khỏi đất Nga này thôi. Cộng sản là người giống nòi ta, họ là ta, xuất
thân như thế rồi, còn bọn quỷ sứ nhà giời kia thì xì xà xì xồ cái thứ tiếng gì
chả biết, lại vênh váo, giữa mùa đông cũng đừng hòng xin được họ nắm tuyết, và
nếu rơi vào tay họ thì đợi đấy họ buông tha! Hồi năm hai mươi tôi đã ra nước
ngoài rồi, đã nếm thử bánh mì Pháp ở Galipôli, và chỉ muốn chạy thoát khỏi đấy
thôi! Chà, bánh mì của họ, sao mà nó cay đắng thế! Tôi đã được mắt thấy nhiều
nước, và tôi xin nói là ngoài cái dân Nga ra, chả có dân nào đáng yêu hơn, tốt
bụng hơn. Tại Kônxtantinôpôn [một thành phố lớn ở Thổ Nhĩ Kỳ - ND] và Aphitnư [Aphinư - Thủ đô Hy
Lạp (Tiếng Pháp là Aten) - ND], tôi đã làm ở cảng, đã từng thấy bọn
Anh, bọn Pháp chán rồi. Cái quân ôn vật quần áo bảnh bao ấy đi qua gần mình thì
bĩu môi nhăn mặt, bởi vì rằng, tôi nói ông nghe, mình râu tóc bù xù, bẩn như hủi,
mồ hôi khét lẹt nó trông thấy mình nó đã muốn buồn nôn. Nó cứ như con ngựa sĩ
quan, được rửa ráy kỳ cọ đến tận khấu đuôi, và nó lấy thế làm vênh vang, và ghê
tởm mình. Bọn lính thủy của họ vào quán rượu sinh sự với anh em ta, hơi tí giở
bốc ra với mình. Nhưng bà con sông Đông và Kuban ta sống ở nơi đất khách quê
người rồi cũng quen dần, và cũng bắt đầu chơi lại! - Bác kô-dắc mỉm cười, hàm
răng sáng xanh lên giữa chòm râu như một ánh dao sắc loáng. - Một dân chọi nhà
ta đã cho thằng Anh một đòn kiểu Nga, thằng cha này ngã quay lơ ra, nằm thẳng cẳng,
tay ôm đầu, miệng thở dốc. Đối với quả đấm Nga thì xương thịt họ mềm quá, họ ăn
thì đẫy, thế mà yếu như sên. Các vị đồng minh ấy chúng tôi đã va chạm và biết tỏng
rồi! Thôi, thôi, chúng tôi sẽ tìm cách nào tự mình dàn xếp hòa hảo với chính
quyền của chúng tôi thôi, trong nhà có điều gì không hay thì đóng cửa bảo nhau.
Những giấy tờ ấy xin ông hãy trao trả lại chúng tôi!
"Hắn sắp nhảy qua cửa sổ bây giờ, còn
trơ khấc lại mình, như con tôm trên bãi cát! Sướng cái thân đời chưa... Ôi mẹ
ơi, mẹ đẻ ra con vào cái giờ chết giẫm rồi! Tự nhiên đi dính vào cái thằng hai
lần trời đánh này! Thật là ma đưa lối, quỷ dẫn đường!" - Iakốp Lukits nhấp
nha nhấp nhổm trên chiếc ghế đẩu, nghĩ bụng như vậy, mắt theo dõi Pôlốptxép
không rời. Nhưng Pôlốptxép vẫn thản nhiên đứng bên cửa sổ, và bây giờ má y
không phải là tái nữa mà tím bầm vì giận dữ và quyết tâm. Hai đường gân xanh to
chạy ngang trên trán y nổi phồng, hai bàn tay bám chặt lấy thành cửa sổ:
- Đã thế thì, thưa các vị kôdắc, nhân tâm tùy
các vị, các vị không muốn đi với chúng tôi, chúng tôi không yêu cầu, không van
nài. Còn giấy tờ thì tôi không trả, tôi không mang theo đây, mà để trên bộ tham
mưu. Các vị đừng ngại, tôi đây không tố giác các vị với GPU đâu.
- Thế cũng được. - Một cụ già tỏ vẻ đồng ý.
- ...Mà đáng sợ không phải là GPU đâu... -
Pôlốptxép từ nãy giờ vẫn nói thong thả, nhỏ nhẹ, bỗng quát tướng lên: - Đáng sợ
là chúng tao đây! Chụng tao sẽ bắn chết hết chúng mày, như những tên phản bội!...
Thôi, dãn ra! Đứng sang một bên! Sát vào tường! - Và rút súng lục, cầm lăm lăm
giơ ra đằng trước, y tiến ra cửa.
Đám kô-dắc dãn cả ra, kinh ngạc. Iakốp
Lukits đi trước Pôlốptxép lấy vai đẩy tung cánh cửa, vọt ra hiên, như viên sỏi
bắn vút ra từ chiếc súng cao su.
Họ tháo ngựa mò trong tối, rồi phi nước kiệu,
chuồn. Từ trong nhà vẳng tới tai họ những tiếng giận dữ nhao nhao thốt lên,
nhưng không ai chạy ra, không một ai trong đám kô-dắc nghĩ đến chuyện bắt giữ họ
lại.
*
* *
Về tới Grêmiatsi Lốc, sau khi Iakốp Lukits
đã đi trả lại chuồng ngựa nông trang đôi ngựa nhễ nhại mồ hôi sau một cuộc phi
nhanh, Pôlốptxép gọi lão vào căn phòng xép của y. Y để nguyên quần áo, mũ mãng;
vừa bước chân về, y đã ra lệnh cho Liachépxki chuẩn bị, đọc lướt qua bức thư do
liên lạc cưỡi ngựa mới mang tới trước khi họ về một lát. Đọc xong thư, y ném
vào lò đốt đi và bắt đầu xếp đồ lề vào xắccốt.
Iakốp Lukits bước vào phòng thì thấy y đang
ngồi bên bàn. Liachépxki, mắt long lanh, đang lau khẩu Maude bằng những động
tác nhanh nhẹn và chính xác lắp lại các bộ phận tháo rời đã bôi dầu mỡ. Nghe tiếng
kẹt cửa, Pôlốptxép nhấc bàn tay đang ôm lấy trán ra, quay mặt về phía Iakốp
Lukits, và đây là lần đầu tiên lão trông thấy những giọt nước mắt lăn ra từ đôi
mắt trũng sâu đỏ hoe của viên quan ba, và long lanh trên sống mũi rộng của y..
- Tôi khóc vì công việc của chúng ta không
thành... không thành lần này... - Pôlốptxép nói oang oang, và bằng cử chỉ dứt
khoát, kéo chiếc mũ lông trắng xoăn xoăn trên đầu xuống, cầm lau nước mắt: -
Sông Đông đã vợi hết những người kô-dắc chân chính rồi, sinh sôi nảy nở ra toàn
những loại chó má: bọn phản bội và bọn vô lại. Bây giờ chúng tôi đi, Iakốp
Lukits ạ, nhưng chúng tôi sẽ trở lại! Tôi vừa nhận được lá thư này... Ở Tubianxki
và ở quê tôi, bọn kô- dắc cũng từ chối, không muốn nổi dậy. Xtalin đã nhờ bài
báo ấy lôi kéo được họ. Chà, ước gì... ước gì mình... - Trong họng Pôlốptxép có
thứ tiếng gì sôi lên òng ọc, dưới hai bên gò má bắp thịt hàm nổi cuộn lên, mười
ngón tay của hai bàn tay chắc nịch quắp lại, nắm chặt đến tấy lên ở những quãng
đầu khớp. Thở hắt ra một hơi dài khò khè, y từ từ duỗi mười ngón tay ra, nhếch
một bên mép, cười khẩy: - Dân ngu-u-u-u lạ! Súc sinh!... Đần độn, trời đánh
thánh vật!... Chúng nó không hiểu rằng bài báo ấy chỉ là một sự lừa bịp xấu xa,
một mưu kế mà thôi! Và chúng nó tin... như lũ con nít. Ôi, bọn dân ngu khu đen!
Bọn ngu xuẩn ấy, người ta nhử mồi chúng nhằm một mưu đồ chính trị, như thả mồi
câu nhử cá, người ta nới dây đai cho chúng để chúng khỏi nghẹt thở mà chết, tất
cả những thứ bạc giả ấy, chúng lại ngỡ là bạc thật... Nhưng, thôi được! Chúng sẽ
hiểu ra, và sẽ hối tiếc, chỉ có điều lúc ấy đã quá muộn. Chúng tôi đi đây, anh
Iakốp Lukits. Chúa ban phước lành cho anh vì lòng mến khách của anh, vì tất cả.
Đây là mệnh lệnh của tôi, anh hãy chấp hành: cứ ở nông trang, đừng ra, và tìm mọi
cách gây thiệt hại cho chúng. Còn với những người đã vào "liên minh"
của chúng ta, anh hãy bảo họ như thế này, và coi đó là những lời tôi nói như
đinh đóng cột: tạm thời chúng tôi rút lui, nhưng chúng tôi không phải đã bị
đánh bại. Chúng tôi sẽ còn trở lại, và lúc ấy thì liệu hồn những kẻ xa lìa
chúng tôi, phản bội chúng tôi và sự nghiệp, sự nghiệp vĩ đại giải phóng quê
hương sông Đông khỏi chính quyền của bọn bônsêvích. Chết dưới lưỡi gươm kô-dắc,
đó sẽ là sự trừng phạt đối với họ, anh cứ nói với anh em như thế.
Lời nói và những giọt nước mắt của Pôlốptxép
đã làm lão mủi lòng, trong thâm tâm lão mừng thầm đã thoát được mấy ông khách
trọ nguy hiểm kia, và tất cả câu chuyện này đã kết thúc một cách êm đẹp như vậy:
từ nay không còn phải lo sợ cho tài sản, cho cái đầu của lão nữa.
- Tôi sẽ nói. - Lão nhắc lại và đánh bạo hỏi:
- Thế bây giờ các ông đi đâu, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits?
- Anh hỏi làm gì? - Pôlốptxép cảnh giác vặn
lại.
- Thưa, phòng có việc gì cần, hoặc có ai đến
tìm ông chăng?
Pôlốptxép lắc đầu, đứng dậy:
- Không, tôi đi đâu không thể nói anh biết
được. Nhưng khoảng ba tuần nữa, anh đợi tôi. Thôi, chào anh! - Và y chìa ra bàn
tay lạnh giá.
Y tự tay đóng yên cương cho ngựa, vuốt cẩn
thận tấm dạ lót yên, kéo căng đai bụng. Liachépxki đang từ biệt Iakốp Lukits ở
sân, dúi vào tay lão hai tờ giấy bạc.
- Thưa, ông đi bộ ạ? - Iakốp Lukits hỏi hắn.
- Đi mấy bước ra khỏi cổng đây thôi; ngoài
đường cái đằng kia là ô tô riêng của tôi đợi đấy rồi. - Viên quan một vẫn nói
đùa, chẳng tỏ ra mất tinh thần tí nào, và đợi cho Pôlốptxép ngồi lên yên xong,
hắn nắm lấy dây đeo bàn đạp: - Nào, phi đi, hoàng tử, một mạch tới trận địa
quân thù, chưa biết chừng đi bộ tôi lại tới trước đấy!
Iakốp Lukits tiễn khách ra quá ngoài cổng,
nhẹ hẳn cả người, cài then cửa lại, làm dấu phép, và băn khoăn rút trong túi ra
món tiền nhận được của Liachépxki. Trong bóng đêm trước buổi rạng đông, lão
căng mắt ra cố xem xem món tiền là bao nhiêu, và sờ soạng, nghe tiếng giấy sột
soạt mà xác định là bạc thật hay giả.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét