Đất Vỡ Hoang
Tác giả: M. Sholokhov
Dịch giả: Vũ Trấn Thủ
NXB Cầu Vồng - Moskva, 1985 (In tại Nga Xô)
Tập I
Chương 12
Cuộc sống ở Grêmiatsi Lốc đang lồng lên như
một con ngựa bất kham trước một chướng ngại khó vượt. Ban ngày anh em kô-dắc
túm năm tụm ba trong nhà ngoài ngõ, tranh cãi, bàn luận chuyện nông trang, đề
xuất sáng kiến. Họp hành bốn đêm liền và đêm nào cũng kéo dài tới lúc gà gáy
sáng.
Những ngày này Nagunốp gầy tọp hẳn đi như vừa
qua một cơn bệnh nặng liệt giường dai dẳng. Còn Đavưđốp vẫn giữ được vẻ bình
tĩnh, duy chỉ có hai nếp hằn bướng bỉnh ở hai bên mép anh là càng hằn sâu xuống
hơn. Anh cũng đã khéo truyền được niềm tin cho cả Radơmiốtnốp thường dễ bốc và
cũng dễ mất tinh thần. Anđrây chạy ngược xuôi khắp làng, đi xem xét các chuồng
tập thể với một ánh cười hóm hỉnh đầy tin tưởng trong đôi mắt khó đăm đăm. Anh
cứ luôn mồm nói với Akaska Mênốc, người được chỉ định phụ trách nông trang
trong khi chờ đợi bầu ban quản trị:
- Ta sẽ cho họ biết tay! Rồi thì ai ai cũng
sẽ vào nông trang cả cho mà xem.
Đavưđốp cho liên lạc hỏa tốc phi ngựa mang
lên huyện bản báo cáo trình bày mới có ba mươi hai phần trăm nông hộ gia nhập
nông trang, nhưng công tác vận động đang được tiếp tục khẩn trương.
Bọn kulắc bị trục xuất khỏi nhà kéo đi ở nhờ
nhà bà con bạn bè. Phrôn Mũi toác sau khi cử thằng con giai Chimôphây chạy thẳng
lên khu kêu với công tố ủy viên, đã đến ở nhà một người thân cận là Bôrsép,
chính cái anh chàng trong hội nghị bần nông hôm trước từ chối không biểu quyết.
Ngôi nhà nhỏ hai gian của Bôrsép đã thành nơi tụ tập những tên kulắc sừng sỏ nhất.
Để tránh con mắt theo dõi kiểm soát, bọn
chúng tới nhà Bôrsép tụ tập ban ngày thường đi từng đứa hoặc hai đứa một, lẻn
qua lối hậu và qua nhà đập lúa, khỏi đập vào mắt thiên hạ, và khỏi bị Xôviết để
ý. Lui tới đây có Đavứt Gaiép và tên đại bợm Lápsinốp từ sau ngày bị tịch thu
gia sản đã biến thành kẻ giả vờ mất trí; thỉnh thoảng Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp
cũng mò đến để thăm dò. Bám vào cái “bộ tham mưu” ấy có một số trung nông dứt
khoát chống lại nông trang: Nhikôlai Liusnhia và vài người nữa. Ngoài Bôrsép ra
lại còn có hai bần nông khác: Vaxili Atamatsukốp, một anh chàng kô-dắc cao lênh
khênh, đầu tóc mày râu cạo nhẵn nhụi, trọc lông lóc như quả trứng vịt, và
Nhikita Khốprốp, cựu pháo thủ cận vệ thuộc đội quân Pốtchenkốp, trong thời kỳ nội
chiến trốn nghĩa vụ suốt và đến năm 1919 rốt cuộc lại rơi vào làm lính đội quân
tiễu phạt của tên đại tá bạch vệ Astưmốp. Chính chuyện ấy đã quyết định cuộc đời
Khốprốp sau này dưới chính quyền Xôviết. Số là trong làng có ba người - bố con
Ôxtơrốpnốp và lão già Lápsinốp - hồi 1920 trong cuộc rút lui về Kútsépka đã
trông thấy anh ta ở trong đội quân tiễu phạt Astưmốp với cái lon trắng hạ sỹ
quan; và cũng trông thấy anh ta cùng với ba tên kô-dắc bạch vệ khác là người
dân tộc Canmức giải đám công nhân hỏa xa về cho Astưmốp hỏi cung... Họ đã trông
thấy... Và anh đã mất bao nhiêu hồn vía khi rời Nôvôrôxixkơ về Grêmiatsi Lốc được
biết hai bố con Ôxtơrốpnốp và Lápsinốp vẫn còn sống nguyên! Anh lính pháo binh
cận vệ có bộ ngực nở nang ấy đã trải qua biết bao phen hãi hùng trong những năm
trấn áp phản cách mạng quyết liệt! Và anh, lúc đóng móng cho ngựa chỉ cần nắm lấy
hai chân sau của nó là có thể kìm chặt được bất cứ con ngựa nào cứ run bắn lên
như chiếc lá sồi héo khô vì băng giá mỗi khi bắt gặp nụ cười láu tôm láu cá của
Lápsinốp. Anh hãi hắn nhất. Gặp hắn, anh lắp bắp không ra hơi:
- Lạy cụ cứu vớt cho một linh hồn kô-dắc, đừng
tố giác!
Lápsinốp làm ra bộ không hài lòng, nói:
- Anh dớ dẩn lắm, anh Nhikita ạ! Nhưng tôi
cũng chẳng chấp anh làm gì! Tôi chẳng đeo thánh giá trước ngực đây hay sao? Và
Đấng Cứu thế đã dạy rằng: “Hãy thương yêu người ta như mình vậy”. Anh đừng có
nghĩ lôi thôi, tôi sẽ không nói gì đâu! Vặn răng cũng chẳng nói. Tính tôi nó thế
đấy... Nhưng anh nữa, anh cũng phải giúp tôi, nếu như... họp hành, có thể có đứa
muốn hại tôi, hoặc chính quyền có đả kích tôi... Trường hợp ấy, anh hãy bênh vực
tôi... Lá lành đùm lá rách. Và kẻ nào vung gươm thì sẽ chết vì gươm. Có phải thế
không? À mà tôi muốn nhờ anh cày giúp cho đám ruộng. Chúa đã cho tôi thằng con
dở người, chẳng nhờ vả được gì cả. Còn thuê người thì công xá đắt lắm...
Năm này qua năm khác Nhikita Khốprốp đã “giúp”
Lápsinốp như vậy. Anh làm không công, cày, kéo, đứng đút những bó lúa của nhà
Lápsinốp vào máy đập nhà Lápsinốp. Rồi về đến nhà mình, anh ngồi vào bàn, vùi
cái mặt to bành bạnh có bộ ria hung hung vào hai lòng bàn tay như sắt nguội, ngẫm
nghĩ: “Cứ thế này đến đời kiếp nào? Tao sẽ giết mày”.
Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp thì không đòi hỏi
gì cả, chẳng dọa dẫm, và thừa biết rằng nếu mình có yêu cầu một chai vốtka hoặc
cái gì khác thì Khốprốp cũng chẳng dám từ chối. Mà vốtka thì Iakốp Lukits tới uống
ở nhà anh ta luôn, và lần nào uống xong cũng không quên cảm ơn: “Đa tạ anh”.
“Rượu vật chết cha mày đi!” - Khốprốp nghĩ
bụng, hai nắm tay như hai quả tạ căm hờn bóp chặt lại dưới gầm bàn.
Pôlốptxép vẫn ở tại nhà Iakốp Lukits, trong
gian phòng xép, trước đây là phòng của mẹ Ôxtơrốpnốp. Mụ già chuyển ra trốc lò
sưởi. Và Pôlốptxép suốt ngày ở tịt trong gian phòng con, nằm dài trên tấm phản
ngắn, hai bàn chân không và gân guốc gác lên viên gạch nóng, hút thuốc lá liên
chi hồ điệp. Đêm đêm y thường đi vơ vẩn trong ngôi nhà thiêm thiếp ngủ (không
có một tiếng kẹt cửa, vì các bản lề đã được trát mỡ ngỗng cẩn thận). Đôi lúc
khoác áo varơi vào, y dập tắt thuốc lá, bước ra thăm con ngựa giấu trong kho
rơm vụn. Con ngựa, đứng ỳ mãi đó đã ê ẩm, đón chào chủ khẽ hí lên một tiếng run
run, dường như nó cũng biết rằng chưa phải lúc bộc lộ tình cảm một cách thoải
mái. Chủ vỗ về nó, đưa những ngón tay cứng đơ rắn như sắt nguội nắn nắn khớp
chân nó. Có lần, vào một đêm đặc biệt tối trời, y lôi con ngựa ra phi cồm cộp
lao vào thảo nguyên. Y trở về trước lúc trời sáng. Con ngựa ướt đẫm, cứ như được
tắm bằng mồ hôi, rùng rùng hai bên hông, chốc chốc lại run bắn lên một cái. Đến
sáng, y nói với Iakốp Lukits:
- Đêm qua tôi về làng. Chúng nó đang tìm
tôi... Anh em kô-dắc đã sẵn sàng, chỉ còn đợi lệnh.
Chính là theo lời chỉ bảo của Pôlốptxép mà
trong đại hội nông dân lần thứ hai của ấp Grêmiatsi Lốc bàn về chuyện nông
trang, Iakốp Lukits đã xin gia nhập và kêu gọi anh em khác cũng nên theo mình.
Và lão đã làm cho Đavưđốp mừng rơn vì lời phát biểu có tình có lý của lão, và
vì lão là người có uy tín trong làng nên sau khi lão tuyên bố xin vào nông
trang thì lập tức có ba mươi mốt người nữa xin vào.
Iakốp Lukits nói về nông trang tập thể cứ
ngọt xớt, nhưng hôm sau, đi một vòng quanh các nhà, thết rượu bằng tiền của Pôlốptxép
những trung nông hắn tin cậy và phản đối nông trang, sau khi làm vài hớp rượu
lão thở ra một giọng khác hẳn:
- Này chú ơi, chú lạ thật! Tôi ở cái thế buộc
phải vào nông trang hơn chú chứ, và không thể nói chống được. Tôi làm ăn khá giả,
họ có thể quy tôi thành phần kulắc, còn chú thì đâm đầu vào đấy làm gì? Cái ách
sờ sờ ra đấy, chú không thấy sao? Chú ạ, vào nông trang người ta sẽ thúc vào
lưng lùa chú đi, không mở được mắt mà trông ánh sáng mặt trời nữa đâu.
Và lão hạ giọng, bắt đầu tuôn ra một tràng
những chuyện đã học thuộc lòng về cuộc nổi dậy sắp tới, về cộng vợ cộng chồng,
và nếu người nghe tỏ ra ăn giọng và cay cú thì lão rủ rê, gạ gẫm, đe dọa một sự
trừng phạt khi “quân ta” ở ngoại quốc kéo về, và cuối cùng lão đạt tới ý định:
lão ra về với sự đồng ý của người kia xin gia nhập “hội”.
Mọi chuyện trơn tru trót lọt. Iakốp Lukits
đã kết nạp được gần ba mươi người, nghiêm cấm họ không được hở với ai về việc
mình vào “hội” và về những chuyện đã nghe lão nói. Nhưng đến khi lão tới bộ
tham mưu kulắc để hoàn thành công cuộc của mình (lão và Pôlốptxép có lòng tin
tuyệt đối vào bọn kulắc đã bị tịch thu tài sản và vào những kẻ tập hợp quanh
chúng, cho nên việc kết nạp bọn này được coi là chuyện dễ và gác lại để sau
cùng), thì lần đầu tiên lão đã bị vấp... Iakốp Lukits khoác áo dipun vào, tới
nhà Bôrsép vào lúc xẩm tối. Trong gian buồng trước đây vẫn bỏ không, cái bếp lò
cháy hồng. Tất cả đông đủ. Chủ nhà là Chimôphây Bôrsép đang quỳ lom khom đút
cành củi khô vào lò. Phrôn Mũi toác, Lápsinốp, Gaiép, Nhikôlai Liusnhia, Vaxili
Atamantsukốp và anh lính pháo thủ Khốprốp thì ngồi trên mấy tấm ghế dài và trên
đống bí ngô vỏ vằn đen vàng, kiểu vằn của dải huân chương thánh Ghêorghi.
Chimôphây, thằng con lão Phrôn Mũi toác, vừa mới ở trên khu về ngày hôm ấy,
đang đứng tựa lưng vào cửa sổ. Nó kể lại chuyện ông công tố ủy viên đã tiếp nó
với thái độ rất găng, không những không xét đơn khiếu nại mà lại còn định bắt
nó, trả về huyện. Iakốp Lukits bước vào, Chimôphây đang nói, im bặt. Bố nó giải
thích:
- Bà con ta cả, con ạ, cứ nói đi, đừng ngại.
Chimôphây kể nốt; nó nói, đôi mắt long lên
sòng sọc:
- Sống khổ sở thế này thì chỉ ước gì có loạn,
cháu sẽ nhảy phốc lên lưng ngựa đi cắt tiết bọn cộng sản ngay tắp lự!
Iakốp Lukits gật gù:
- Khó sống, khó sống thật đấy... Nhưng nếu
chỉ như thế này thôi thì hãy còn là phúc...
Phrôn Mũi toác điên tiết lên:
- Lại còn thế nào nữa? Ông không bị đụng chạm
gì, ổn quá rồi, còn tôi đây thì chết cháy. Hồi Sa hoàng ông với tôi gần như
tương tự một cảnh sống, nhưng bây giờ ông béo trương béo nứt, còn tôi thì mất sạch
trơn, đôi giầy chẳng còn.
- Tôi đâu sợ chuyện ấy, mà lo chuyện khác...
- Chuyện gì?
- E rồi lại nội chiến...
- Lạy Chúa ban cho nội chiến đi thì tốt
quá! Cầu thánh Ghêorghi Bách chiến bách thắng phù hộ chúng ta! Sao cho nổ ra
ngay đi! Kinh Phúc âm cũng dạy rằng...
- Gậy gộc choảng đi thôi, như dân Vôsenxkaia
hồi năm mười chín ấy!
- Chà, tôi sẽ tuốt xác chúng nó, hưưừm!...
Atamantsukốp, bị thương vào họng trong trận
gần làng Philônốpxkaia, phát biểu bằng một giọng léo nhéo khó nghe như tiếng
sáo chăn cừu:
- Dân đã điên lên rồi, sẽ cắn xé moi gan
chúng nó!...
Iakốp Lukits úp úp mở mở kể chuyện ở mấy
làng bên xem có vẻ nhộn nhạo, thậm chí ở đôi nơi bà con đã dạy cho bọn cộng sản
một bài học, theo lối kô-dắc, như xưa kia người ta đã dạy cho bọn ataman ở lại
bám đít Mátxcơva, nghĩa là rất đơn giản: bao tải trùm đầu, rồi tùm luôn xuống
sông. Lão nói chậm rãi, suy tính từng lời. Nhân tiện lão kể chơi rằng khắp miền
Bắc Cápcadơ này tình hình bất an, rằng ở mấy thôn ấp dưới đã chung vợ chung chồng,
rằng cộng sản là những kẻ đầu tiên ngang nhiên ngủ với vợ người khác, và sang
xuân có thể có đổ bộ. Tin này là do một ông sĩ quan cũ cùng trung đoàn đã nói
cho lão biết khi ông ta qua Grêmiatsi Lốc một tuần trước đây. Iakốp Lukits chỉ
giấu một điều là viên sĩ quan ấy từ bấy đến nay vẫn sống lẩn lút ở nhà lão.
Đến đấy thì Nhikita Khốprốp từ nãy vẫn ngồi
lặng thinh, hỏi:
- Ông Iakốp Lukits ạ, có điều này tôi còn
chưa rõ: được rồi, ta sẽ nổi dậy, sẽ giết sạch bọn cộng sản ở ta, thế rồi sao nữa?
Bọn dân vệ, ta sẽ thanh toán xong, nhưng bộ đội họ kéo về ụp ta thì lúc ấy thế nào?
Ai sẽ chỉ huy chúng ta chống cự lại họ? Sĩ quan chẳng có, chúng mình thì ù ù cạc
cạc, mò đường chỉ biết nhìn sao trên trời... Mà chiến đấu thì bộ đội đâu có đi
mò! Bộ đội tìm đường trên giấy, các bộ tham mưu của nó vẽ nên bản đồ. Tay thì
ta có đấy, nhưng đầu thì không.
Iakốp Lukits quả quyết khẳng định:
- Đầu cũng sẽ có! Sĩ quan sẽ về. Các ông ấy
thì tài giỏi hơn bọn chỉ huy đỏ. Các ông sĩ quan Iunke ngày xưa sẽ đứng ra chỉ
huy, họ tinh thông võ nghệ. Còn bọn chỉ huy đỏ thì ra cái thá gì? Ta cứ lấy thằng
Maka Nagunốp của ta đây mà xem. Chặt đầu người ta thì nó làm được đấy, nhưng nó
mà lại chỉ huy được một đại đội ư? Có mạt kiếp! Nó mà nhìn vào bản đồ thì biết
đằng nào mà lần?
- Nhưng các ông sĩ quan ấy ở đâu ra?
- Trong bụng mẹ chui ra! - Iakốp Lukits
điên tiết lên. - Kiểu đâu đấy, hả anh Nhikita? Sao anh cứ bám lấy tôi như con bọ
chó bám vào đuôi con chó thế? “Ở đâu ra, ở đâu ra”!... Tôi biết được họ ở đâu
ra?
- Các ông ấy ở ngoại quốc về. Thế nào cũng
về! - Phrôn Mũi toác tràn trề hy vọng.
Và, thưởng thức trước cảnh đổi đời, cái vị
ngọt ngào nồng hơi máu của cuộc rửa hận nay mai, hắn khoan khoái phồng cái lỗ
mũi độc nhất còn lại, phì phò hít lấy hít để làn không khí xanh khói thuốc.
Khốprốp đứng dậy; đưa chân đá một quả bí rồi
vuốt bộ râu rậm đỏ hung hung, dõng dạc nói:
- Ra là thế đấy... Chỉ có điều là dân kô-dắc
đã khôn ra rồi. Họ đã bị một trận nhừ tử vì cái tội nổi loạn. Họ sẽ chẳng nổi nữa
đâu. Vùng Kuban sẽ không hưởng ứng...
Iakốp Lukits cười ruồi trong bộ ria đốm bạc,
khẳng định:
- Dân kô-dắc sẽ nổi dậy, muôn người như một!
Và tất cả vùng Kuban sẽ bùng lửa... Cái trò đánh nhau vẫn thế: bây giờ thì tôi
nằm dưới, vai bẹp dí xuống đất đấy, nhưng rồi xem, chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ cưỡi
lên đối thủ và cho nó ao.
Khốprốp nói, trong lòng trỗi dậy một quyết
tâm làm anh gai gai lạnh:
- Không, các ông anh ạ, tùy các ông anh
thôi, nhưng tôi không đồng ý chuyện ấy đâu! Tôi không nổi loạn chống chính quyền
và không khuyên người khác làm việc ấy. Và ông, ông Iakốp Lukits ạ, ông xúi giục
người ta làm những trò ấy là sai rồi... Cái ông sĩ quan nào ăn ngủ ở nhà ông là
một người lạ mặt khả nghi lắm. Ông ta sẽ khoắng nước đục lầm lên rồi lỉnh, và lại
chúng ta giơ đầu chịu báng cho mà xem. Trong cuộc nội chiến vừa rồi, họ đã đẩy
chúng ta ra chống lại chính quyền Xôviết, họ gắn lon cho anh em kô-dắc, nặn anh
em thành những sĩ quan đẻ non, còn bản thân họ thì rúc ở hậu phương, trong các
bộ tham mưu, đi nhởn với các cô tiểu thư thắt đáy lưng ong... Ông nhớ lại mà
xem, đến cái lúc thanh toán nợ nần, ai đã phải è cổ ra trả giá những tội mọi
người cùng làm? Ở Nôvôrôxixkơ, quân đỏ đã lôi người Canmức ra bến tàu chặt đầu,
trong khi đó thì bọn sĩ quan và các ngài quý tộc khác ngồi bảnh chọe trên tàu bể,
chuồn ra nước ngoài đi tìm những nơi khí hậu ấm áp. Toàn bộ đạo quân sông Đông
vón lại ở Nôvôrôxixkơ như một đàn cừu, nhưng các ngài tướng tá thì đi đâu?...
Chà! Mà tiện đây tôi cũng muốn hỏi ông: cái ngài “quan lớn” hôm nọ ngủ lại nhà
ông, ngài ấy vẫn còn đang chui rúc đấy phải không? Tôi có đôi lần trông thấy
ông xách nước xuống nhà đập lúa. Tôi cứ thắc mắc: quái, Lukits mang nước xuống
đấy làm gì thế nhỉ? Cho ma nào uống? Rồi một hôm tôi nghe thấy tiếng ngựa hí.
Khốprốp lấy làm khoái trá nhận thấy mặt Iakốp
Lukits chuyển sang đồng màu với bộ ria muối tiêu của lão. Cả bọn lúng túng sợ
hãi. Một niềm vui hung ác làm căng phồng lồng ngực Khốprốp. Anh ném ra từng
câu, anh có cảm giác như mình đứng ngoài, anh nghe thấy tiếng mình, như nghe một
người khác nói.
Iakốp Lukits ấp úng:
- Nhà tôi làm gì có ông sĩ quan nào? Con ngựa
cái nhà tôi nó hí đấy chứ, tôi xách nước bao giờ? Có xách nước vo thì có... tôi
nuôi con lợn ở đấy...
- Tiếng hí con ngựa cái nhà ông, tôi còn lạ
gì, ông đừng bịp tôi! Nhưng chuyện ấy tôi mặc xác ông. Còn như việc các ông vừa
mới bàn thì tôi không tham gia, lý do làm sao các ông tự đoán lấy...
Khốprốp đội mũ vào, nhìn quanh một vòng, rồi
bước ra cửa. Lápsinốp chạy ra cản anh lại. Chòm râu đốm bạc của hắn rung rung,
hắn lom khom đến ngộ, hai tay dang ra, hỏi:
- Thằng Giuđa, mày đi tố giác đấy hả? Mày
bán tao hả? Thế ngộ như tao nói toẹt ra mày đã bắt tay bọn Canmức, đi lính tiễu
phạt thì mày nghĩ sao?
Khốprốp điên lên một cơn điên lạnh như tiền,
dứ nắm đấm như quả tạ vào râu Lápsinốp, nói:
- Ông nội ơi, ông không cần phải bép xép!
Tôi sẽ tố giác tôi trước, sẽ nói toạc ra thế này: tôi đã đi lính tiễu phạt,
đóng lon hạ sĩ quan, các ông xử tôi đi... Nhưưưng, chúng mày cũng giờ hồn! Mày,
thằng cáo già... Và mày... - Khốprốp thở hổn hển, lồng ngực rộng của anh phì
phò như bễ lò rèn. - Mày đã hút cạn máu tao! Ít ra tao cũng được một lần cười
vào mũi mày!
Chẳng cần vung tay lấy đà, anh thoi cho
Lápsinốp một quả vào giữa mặt, đóng sầm cửa bước ra, chẳng thèm nhìn lão già
ngã quay lơ bên bậu cửa. Chimôphây Bôrsép chạy đi lấy cái thùng không. Lápsinốp
lổm ngổm quỳ dậy, úp mặt vào miệng thùng. Máu đen từ trong mũi hắn ộc ra như từ
một mạch máu đứt. Trong không khí hoang mang lặng ngắt ấy chỉ còn nghe thấy tiếng
Lápsinốp thở khò khè, nghiến răng ken két, và tiếng máu xuôi theo râu Lápsinốp
rỏ tong tong xuống đáy thùng.
Gaiép, tên kulắc mới bị tịch thu gia sản và
có đàn con nhung nhúc, nói:
- Giờ thì chết cả nút!
Và thế là Nhikôlai Liusnhia đứng bật dậy,
chẳng chào ai, chẳng đội mũ, chuồn thẳng. Atamantsukốp từ tốn bước ra theo, nói
với lại bằng cái giọng khản the thé:
- Giải tán đi, không thì lôi thôi to đấy!
Iakốp Lukits ngồi lặng đi vài phút. Tim lão
dường như giãn bung ra, lộn lên tận cổ. Lão khó thở. Máu trong đầu đập rình
rình, trán toát mồ hôi lạnh. Lão đứng dậy khi mọi người ra về đã gần hết; lão
kinh tởm bước tránh Lápsinốp đang cúi gục xuống cái thùng, khẽ bảo thằng
Chimôphây, con lão Mũi toác:
- Chimôphây, đi theo tôi.
Chimôphây lẳng lặng khoác áo véttông, đội
mũ vào. Hai người đi ra. Trong làng, những ánh đèn cuối cùng đã tắt ngấm.
Chimôphây hỏi:
- Ta đi đâu?
- Đến nhà tôi.
- Làm gì?
- Tí nữa sẽ biết, rảo rảo lên!
Iakốp Lukits chủ tâm tạt qua trụ sở Xôviết:
không có ánh lửa, các cửa sổ đen ngòm. Họ về đến nhà Iakốp Lukits. Tới bên thềm,
Iakốp Lukits dừng lại, nắm tay áo Chimôphây, bảo:
- Đợi đây một lát. Tôi sẽ gọi anh vào sau.
- Vâng.
Iakốp Lukits gõ cửa. Cô con dâu ra mở then:
- Thày đấy phải không?
- Thày đây.
Lão cài chặt then cửa lại, lão không vào thẳng
mà tới gõ cửa gian buồng xép. Một giọng trầm khê nặc hỏi:
- Ai đấy?
- Tôi đây. Vào được chứ, ông Alếchxanđrơ
Anhiximôvits?
- Vào đi.
Pôlốptxép đang ngồi viết gì đó bên chiếc
bàn con đối diện với cửa sổ che một tấm khăn vuông đen. Bàn tay rộng và gân guốc
đặt úp lên che tờ giấy đang viết dở, y quay cái đầu trán dô lại, hỏi:
- Thế nào? Công việc ra sao?
- Hỏng rồi... Lôi thôi to...
- Sao? Nói mau lên!...
Pôlốptxép đứng bật dậy, đút tờ giấy viết dở
vào túi, hấp tấp cài khuy cổ áo lại, rồi máu bốc lên mặt đỏ rừ, y khom mình lại
trong tư thế con thú dữ chuẩn bị vồ.
Iakốp Lukits ấp úng kể lại chuyện vừa xảy
ra. Pôlốptxép nghe, không hé răng một lời. Từ hai hốc mắt sâu, đôi đồng tử xanh
lơ của y nhìn chòng chọc vào Iakốp Lukits. Y từ từ ưỡn thẳng người lên, hai bàn
tay hết nắm lại mở, cuối cùng bĩu đôi môi cạo nhẵn thín lại nom đáng sợ, y bước
sấn tới Iakốp Lukits.
- Đồ chó-o-o chết! Làm ăn thế à, thằng già
đê tiện, định hại tao hả? Định phá hoại hả? Cái cơ sở ngu ngốc của mày đã phá
hoại một nửa công cuộc rồi đấy. Tao đã ra lệnh cho mày thế nào? Tao đã ra lệnh
cho-mày-thế-nà-o? Phải thăm dò ý tứ từng đứa một trước đã! Nhưng mày thì cứ như
con bò đực lao đầu xuống khe!... - Cái giọng thì thầm trầm trầm sôi sùng sục và
cố nén lại của y làm Iakốp Lukits tái mét mặt và càng hãi, càng cuống. - Làm thế
nào bây giờ? Thằng Khốprốp ấy đã đi báo cáo chưa? Thế nào? Chưa chứ? Nói đi, đồ
mặt mẹt! Chưa chứ? Sau đó nó đi đâu, mày có theo dõi không?
- Không... Thưa ông Alếchxanđrơ
Anhiximôvits ân nhân của tôi, chúng ta nguy to rồi!
Iakốp Lukits ôm đầu. Một giọt nước mắt từ từ
lăn trên cái má nâu xạm xuống bộ ria muối tiêu làm lão buồn buồn.
Nhưng Pôlốptxép chỉ nghiến răng ken két:
- Mày! Cái đồ đàn bà... Phải hành động, chứ
không phải là... Thằng con mày có nhà không?
- Tôi không rõ... Tôi có đưa một thằng đến
đây.
- Thằng nào?
- Con lão Phrôn mũi toác.
- À... Đưa nó đến làm gì?
Bốn mắt gặp nhau, hiểu nhau chẳng cần nói một
lời. Iakốp Lukits quay mặt đi trước, và nghe Pôlốptxép hỏi: “Thằng ấy có tin được
không?” - chỉ im lặng gật đầu. Pôlốptxép giận dữ giật cái áo varơi treo trên
đinh xuống, rút dưới gối ra khẩu súng lục mới lau chùi sạch sẽ, xoay cái ổ, và
trong các lỗ của ổ đạn, các đầu đạn mạ kền ánh lên thành một vòng tròn sáng
loáng. Vừa cài khuy áo varơi, Pôlốptxép vừa ra lệnh dõng dạc như ra lệnh chiến
đấu:
- Đi lấy cái rìu. Xem xem đường nào gần nhất
dẫn tao đi... Từ đây đến đấy mất mấy phút?
- Gần thôi ạ, cách độ tám nhà...
- Nó có vợ con không?
- Có độc vợ.
- Hàng xóm gần không?
- Một bên là nhà đập lúa, bên kia là vườn.
- Thế trụ sở Xôviết?
- Cách xa...
- Đi!
Trong khi Iakốp Lukits đi ra đống củi lấy
cái rìu thì Pôlốptxép giơ tay trái nắm lấy khuỷu tay Chimôphây, nói nhỏ:
- Tuyệt đối nghe theo lệnh tôi! Ta đến nhà
nó, rồi chú đổi giọng cho khác đi, bảo nó chú là người thường trực của Xôviết ấp,
có giấy cần đưa nó. Làm thế nào cho đích thân nó ra mở cửa.
- Cẩn thận đấy, đồng chí ạ, không biết gọi
ông thế nào... tôi chưa được biết ông... thằng Khốprốp ấy, nó như con bò mộng,
khỏe lắm, nếu không đánh gục ngay thì với hai bàn tay không nó có thể chơi cho...
- Chimôphây nói đến đây đã liến thoắng.
- Thôi! - Pôlốptxép ngắt lời nó và chìa tay
ra với Iakốp Lukits: - Đưa đây tôi. Đi trước dẫn đường.
Pôlốptxép cầm lấy cái rìu cán gỗ hòe và còn
âm ấm hơi tay của Iakốp Lukits, luồn vào trong áo, giắt vào thắt lưng quần
sarôva, rồi kéo lật cổ áo lên.
Chúng lẳng lặng đi theo lối ngõ ngang. Bên
cái bóng dáng cao lớn, chắc nịch của Pôlốptxép, Chimôphây nom như một thiếu
niên. Nó đi bên viên đại đội trưởng kỵ binh đang bước những bước thấp bước cao,
nhìn đăm đăm vào mặt y. Nhưng trời tối và cái cổ áo lật đứng của y làm nó không
nhìn rõ mặt...
Chúng lách hàng rào qua nhà đập lúa. Pôlốptxép
thì thào ra lệnh:
- Đi giẫm đúng vào lốt chân người trước, để
cho có vết chân một người thôi.
Chúng đi trên tuyết còn trắng nguyên không
một vết chân, bước theo một hàng dọc, người nọ dẫm vào lốt chân người kia. Tới
gần cổng hàng rào, Iakốp Lukits áp lòng bàn tay ôm lấy mạng sườn trái, thều
thào buồn bã:
- Lạy Chúa!...
Pôlốptxép trỏ vào cửa:
- Gõ đi!...
Chimôphây nhìn đôi môi y mấp máy mà đoán ra
như vậy hơn là nghe thấy. Nó khẽ lắc cái núm cửa kêu lạch cạch và liền đó nghe
thấy tiếng mấy ngón tay người lạ mặt đội mũ lông trắng đứng ở bên phải cửa, giận
dữ cào cào, giằng khuy áo varơi ra. Chimôphây gõ lần nữa. Iakốp Lukits kinh
hoàng thấy một con chó chui ra từ trong cái cũi sắt đặt ngoài sân. Nhưng con
chó rét cóng sủa không ra tiếng. Nó rên lên và bỏ chạy về phía ngôi nhà kho lợp
lá sậy.
*
* *
Khốprốp về đến nhà trong bụng rối bời, tuy
dọc đường có nguội đi đôi chút. Chị vợ dọn cho anh ăn tối.
Anh ăn uể oải, buồn bã nói:
- Thèm một quả dưa muối quá, Maria ạ.
Chị tủm tỉm:
- Cho giã rượu chứ gì?
- Rượu chè gì đâu! Mình ạ, mai tôi sẽ ra
thú với chính quyền trước kia có đi lính tiễu phạt. Sống như thế này mãi tôi
không sống nổi.
- Ồ, mình cứ nghĩ quẩn! Mà hôm nay sao nom
mình rũ rượi? Tôi thật chả hiểu.
Nhikita mỉm cười, vê vê bộ ria mép rậm hung
hung đỏ.
- Mình sắp sửa cho tôi ít lương khô, hoặc
nướng ít mã đề. Tôi sắp đi tù.
Sau đó anh nằm hồi lâu, bỏ ngoài tai những
lời khuyên can của vợ, hai mắt mở thao láo, ngẫm nghĩ: “Mình sẽ khai hết về
mình, và cả về thằng Ôxtơrốpnốp để người ta tống nốt cả bọn quỷ sứ ấy nữa vào
tù! Nhưng mình thì rồi sẽ thế nào đây? Liệu có bị đem bắn không? Mình sẽ ngồi
tù vài ba năm, đẵn gỗ trên ngàn, rồi sẽ trở về sạch vết. Bấy giờ thì không còn
ai trách móc quá khứ của mình được. Mình sẽ chẳng phải đi làm đầy tớ không công
cho ai nữa. Mình sẽ nói thật làm sao mà mình lại rơi vào làm lính cho Astưmốp.
Mình cứ nói thẳng ra thế này: mình ở mặt trận đã đào ngũ trốn về. Ai lại muốn
đưa đầu ra làm bia đỡ đạn? Tùy họ xử, chuyện qua lâu rồi, người ta cũng nhẹ tay
thôi. Mình sẽ kể hết! Tay mình chưa hề bắn ai, còn như cái chuyện roi vọt... Ừ
thì mình cũng có cầm roi quật cả lính kô-dắc đào ngũ lẫn mấy anh chàng nào mà họ
bảo là bônsêvích... Hồi ấy mình tối tăm mù mịt, nào có biết ngô khoai ra sao”.
Anh ngủ thiếp đi. Vừa chợp được một tí thì
tiếng gõ cửa làm anh tỉnh dậy. Anh nằm rốn một lát. “Ai mà giờ này mà còn đến
thế nhỉ?”. Lại tiếng gõ nữa. Nhikita ề à một tiếng khó chịu, nhỏm dậy, định
châm đèn thì chị Maria thức giấc, thì thào:
- Hay lại gọi họp? Đừng đốt đèn. Ngày không
yên, đêm cũng lại chẳng yên. Mả mẹ họ, chứ họ hóa rồ rồi!
Nhikita đi chân không bước ra nhà ngoài.
- Ai đấy?
- Cháu đây, bác Nhikita ạ, cháu ở Xôviết xuống
đây.
Giọng trẻ con lạ lạ... Nhikita bỗng cảm thấy
trong bụng như bồn chồn, kiểu như chột dạ, và hỏi:
- Nhưng cháu là ai? Có việc gì?
- Cháu là Nhikôlai Kugienkốp đây. Có giấy của
ông chủ tịch gửi bác, ông ấy bảo bác lên trụ sở Xôviết ngay.
- Cứ đút qua khe cửa.
... Phía bên ngoài cửa im lặng giây lát...
Từ dưới cái mũ lông phóng ra một cái lừ mắt thúc giục, dọa dẫm, và sau một
thoáng lúng túng, Chimôphây nghĩ bật ra một kế:
- Bác cứ mở ra, phải biên nhận cơ.
Nó nghe thấy Khốprốp hậm hực đi lại, hai
bàn chân không bước loạt soạt trên nền đất nện. Then cửa lạch cạch. Bóng trắng
của Khốprốp hiện ra trên nền đen của khoang cửa. Đúng lúc ấy Pôlốptxép bước xấn
chân trái lên ngưỡng cửa, vung rìu bổ cho Khốprốp một nhát vào giữa đầu sống
mũi.
Như một con bò trước khi mổ thịt bị một
nhát búa tạ vào sọ, Khốprốp quỵ xuống, nhũn người đổ ngửa ra. Pôlốptxép ra lệnh
nhỏ:
- Vào đi! Cài then lại!
Y sờ soạng tìm qủa đấm cửa buồng, cái rìu vẫn
khư khư trong tay. Và khi tìm thấy rồi, y mở toang cửa ra.
Từ góc nhà, chỗ có kê cái giường, đưa ra tiếng
vải sột soạt, và một tiếng đàn bà lo ngại:
- Lại đánh đổ cái gì rồi đấy hử?... Ai đấy,
anh Nhikita?
Pôlốptxép buông rìu ra, hai tay giơ ra đằng
trước, lao vào cái giường.
- Ối làng nước ơi! Ai thế này?... Cứu...
Chimôphây vừa va đầu vào khung cửa một cái
đau điếng, chạy bổ vào. Nó nghe thấy tiếng lục đục và tiếng thở hổn hển trong
góc nhà. Pôlốptxép đè xấn lên người đàn bà, chẹn cái gối lên mặt chị ta và bẻ
quặt cánh khuỷu, lấy khăn tay trói lại. Hai cùi tay y miết lên đôi vú núng nính
mềm mềm của chị đàn bà, và dưới người y, lồng ngực chị ta lùng nhùng lún xuống.
Y cảm thấy hơi ấm của cái thân thể cường sức đang giẫy giụa cố gỡ ra như một
con chim bị người bắt, y nghe thấy tim chị đập. Trong y bỗng bùng lên, và chỉ
trong giây lát thôi, một dục vọng bỏng rát như lửa đốt. Nhưng y gầm lên một tiếng,
điên dại luồn bàn tay xuống dưới gối, móc hàm chị như móc hàm một con ngựa. Dưới
mấy ngón tay quắp lại của y, hàm dưới của chị rãn ra, rồi mềm nhũn, rách hẳn.
Ngón tay y nhầy nhụa máu nong nóng. Và bây giờ thì người đàn bà đã hết ú ớ rền
rĩ: y đã lấy cái váy vo tròn lại, tọng vào mồm chị đến tận họng.
Pôlốptxép đặt Chimôphây đứng canh chị chủ
nhà bị trói chặt, còn mình thì đi ra phòng ngoài. Y thở khò khè như con ngựa sổ
mũi.
- Đánh diêm lên!
Iakốp Lukits xòe que diêm. Dưới ánh sáng lù
mù, Pôlốptxép cúi xuống nhìn Khốprốp bị quật ngã bổ ngửa. Anh lính pháo thủ nằm,
hai cẳng bẻ gập lại một cách oái oăm, má áp xuống sàn đất. Anh vẫn còn thở. Bộ
ngực nở nổi gồ lên của anh cứ phập phồng từng cơn, và mỗi lần anh thở hắt ra
thì bộ ria hung hung đỏ lại nhúng vào vũng máu. Que diêm lụi tắt, Pôlốptxép mò
mẫm sờ trán Khốprốp, nắn nắn chỗ rìu bổ. Ngón tay hắn chạm vào xương vỡ, thấy
xào xạo.
Iakốp Lukits thều thào:
- Ông cho tôi về... Cứ thấy máu là tôi tối
tăm mặt mũi...
Lão phát sốt phát rét, chân tay bủn rủn.
Nhưng Pôlốptxép không đáp, mà ra lệnh:
- Mang rìu lại đây. Trong kia kìa... cạnh
giường. Lấy cả ít nước nữa.
Nước lạnh làm Khốprốp hồi tỉnh. Pôlốptxép
chặn đầu gối lên ngực anh, hỏi, giọng thì thầm rin rít:
- Mày đã đi báo cáo chưa, thằng phản bội?
Ê, thằng kia, đánh diêm lên!
Que diêm lại soi tỏ trong vài giây khuôn mặt
và một con mắt mở he hé của Khốprốp. Tay Iakốp Lukits run run, và ngọn lửa nhỏ
xíu cũng run run. Ở phòng ngoài, những ánh lửa vàng khè nhảy nhót trên bó lá sậy
trên mái rủ xuống. Que diêm tàn, bén cả vào đầu ngón tay Iakốp Lukits, nhưng hắn
cũng chẳng thấy rát. Pôlốptxép nhắc lại câu hỏi hai lần nữa, rồi bắt đầu bẻ
ngón tay Khốprốp gãy răng rắc. Anh rên lên một tiếng rồi bỗng lật sấp xuống, và
từ từ khó nhọc nhổm lên, đứng dậy. Pôlốptxép hì hục cố vật ngửa anh trở lại như
cũ, nhưng sức khỏe như sức gấu đã giúp anh đứng thẳng dậy được. Anh vung tay
trái nắm lấy thắt lưng Iakốp Lukits còn tay phải thì tóm lấy cổ Pôlốptxép. Pôlốptxép
rụt cổ lại để những ngón tay lạnh ngắt của Khốprốp khỏi xiết lấy họng mình, và
kêu lên:
- Đánh diêm lên!... Đồ ăn hại! Bảo đánh
diêm lên kìa!
Tối quá, hắn không sờ thấy cái rìu đâu cả.
Thằng Chimôphây ở trong bếp thò đầu ra,
chưa biết đầu cua tai nheo ra sao, thì thào rõ mồn một:
- Ông ơi, ông! Ông cứ tương cho nó vào mạng
sườn. Cho một rìu vào mạng sườn, đằng lưỡi ấy, nó khắc nói ngay!
Pôlốptxép đã vớ được cái rìu, ráng hết sức
giằng ra khỏi bàn tay Khốprốp, rồi lần này thì bằng đằng lưỡi, bổ rìu xuống một
nhát, hai nhát, Khốprốp ngã xuống, và trong khi ngã va đầu vào tấm ghế dài. Chiếc
xô đặt trên ghế rơi đánh xoảng một cái, như tiếng súng nổ. Pôlốptxép nghiến
răng bồi cho người đã nằm sóng soài dưới đất một cú chết hẳn: y lấy chân rờ tìm
cái đầu, rồi cứ chỗ ấy mà bổ rìu xuống. Y nghe thấy tiếng máu phun ra ồng ộc. Rồi
y đẩy dúi Iakốp Lukits vào buồng ngủ, đóng cửa lại, miệng nói khe khẽ:
- Đồ mày! Nhát như cáy! Giữ chặt lấy đầu
con mẹ này, phải tra cho ra: chồng nó đã đi báo hay chưa? Còn thằng kia, đè lên
cẳng nó.
Pôlốptxép tì sấp ngực xuống người đàn bà bị
trói. Người y sặc mùi mồ hôi chua loét. Y hỏi, dằn từng tiếng:
- Tối hôm nay chồng mày về có lên trụ sở
Xôviết hay đi đâu không?
Trong bóng đêm mờ mờ, y nhìn thấy một đôi mắt
kinh hoàng dại hẳn đi, ứ nước mắt húp híp, một bộ mặt tím ngoét vì ngạt thở. Y
thấy nôn nao, muốn cút ngay ra khỏi nơi đây, ra chỗ nào thoang thoáng... Y căm
hờn và ghê tởm lấy ngón tay bóp vào chỗ sau tai người đàn bà. Bị đau dữ dội, chị
giãy lên, ngất xỉu đi một lát. Rồi chị tỉnh lại, bỗng lấy lưỡi đẩy mạnh cái giẻ
đầm nước bọt nong nóng rơi ra; nhưng chị không kêu, chỉ nghẹn ngào thều thào
van lơn:
- Trăm lạy các quan!... Tha cho làm phúc!
Con xin nói hết!
Chị nhận ra Iakốp Lukits. Chẳng vì lão là
chỗ thân thích của gia đình nhà chị, và sáu bảy năm về trước, chị với lão cùng
đỡ đầu thằng cháu con bà chị ruột chị. Chị khó nhọc mấp máy đôi môi bị xé rách
xễ xuống, nói như người lắp:
- Bác! Ối bác ơi!... Sao lại thế này hả
bác?
Pôlốptxép sợ hãi giơ bàn tay to tướng bịt mồm
chị. Trong một phút rạo rực một tia hy vọng được rủ lòng thương, chị hôn vào
bàn tay ấy bằng đôi môi nhầy nhụa máu me. Chị muốn sống! Chị sợ!
- Chồng mày có đi đâu không?
Chị lắc đầu. Iakốp Lukits túm lấy tay Pôlốptxép.
- Quan... Quan lớn... Ngài Alếchxanđrơ
Anhiximôvits!... Tha cho nó... Ta đe nó thì nó sẽ không nói gì đâu!... Không
dám hé răng đến già!...
Pôlốptxép đẩy lão ra. Lần đầu tiên trong suốt
những giây phút ghê gớm này, y đưa mu bàn tay lên quệt mồ hôi trên mặt. Y nghĩ
bụng: “Mai là nó sẽ đi tố cáo! Nhưng nó là đàn bà, một người đàn bà kô-dắc,
mình là một sĩ quan, đáng xấu hổ... Mẹ kiếp!... Phải bịt mắt nó lại, cho nó khỏi
trông thấy...”.
Y kéo ngược tấm áo lót vải thô của chị úp
lên đầu chị. Mắt y dừng lại giây lát trên thân thể nõn nà của người đàn bà ba
mươi tuổi chưa con cái ấy. Chị nằm nghiêng, chân co chân duỗi, như một con chim
trắng to tướng trúng đạn rơi... Trong bóng tối lờ mờ, chợt Pôlốptxép nhìn thấy
cái khe vú và cái bụng ngăm ngăm nước da bánh mật của chị bóng nhẫy mồ hôi. “Nó
hiểu tại sao mình lại trùm đầu nó. Mẹ kiếp!...”. Pôlốptxép hực một cái rồi bổ
lưỡi rìu xuống cái mặt người trùm kín tấm áo lót.
Iakốp Lukits bỗng cảm thấy cái thân thể chị
người thân của mình rùng rùng giãy chết trong khoảnh khắc. Mùi máu tươi tanh
tanh xộc vào mũi lão... Iakốp Lukits loạng choạng bước tới lò sưởi, ruột đau quặn,
muốn lộn mửa.
Ra tới bậc thềm, Pôlốptxép lảo đảo, gục áp
môi vào lan can, ngoạm lấy một ít tuyết xôm xốp mát lạnh rơi bám vào đó. Chúng
đi ra cổng. Chimôphây tụt lại sau; hắn đi vòng đường, hướng tới cái tiếng nhạc
phong cầm réo rắt từ phía trường học vọng lại. Đám trai gái đang vui chơi ở đó.
Chimôphây véo mấy cô, lách vào trong đám hỏi mượn anh bạn nhạc sĩ cây đàn. Một
cô đề nghị:
- Anh Chimôphây! Làm một bài Digan! Láy ác
vào.
Chimôphây đỡ lấy cây đàn từ tay chủ nó, và
để tuột xuống đất. Nó gượng cười, nhấc cây đàn lên rồi lại tuột tay rơi, không
sao quàng nổi sợi dây đeo lên vai trái. Nó không làm chủ được mấy ngón tay nó.
Nó vẩy vẩy ngón tay, cười, trả lại đàn.
- Lại nốc vào ở đâu rồi!
- Nom kìa, chị em ơi, có đúng cậu cả say
không?
- Nôn cả ra áo kìa! Say bí tỉ!
Các cô tránh xa Chimôphây ra. Người có đàn
bực mình thổi phù phù những bông tuyết dính trên phím, rồi ngập ngừng kéo một bản
nhạc Digan. Uliana Akhơvátkina, cô gái cao lớn nhất đám, mà làng nước đặt cho
cái tên là “mụ hộ pháp”, bước ra, nện gót giày lách cách xuống đất, hai cánh
tay giang thẳng như chiếc đòn gánh. “Phải ở đây đến sáng, - Chimôphây tự nhủ thầm,
như nhủ ai, - để khi điều tra chúng nó khỏi nghi”. Nó đứng dậy, và lần này thì
cố tình giả bộ say, bước lảo đảo, tới gục đầu vào cái đùi non nóng hổi của một
cô ngồi ở ngưỡng cửa:
- Bắt hộ anh con chấy, em ơi!...
*
* *
Còn Iakốp Lukits thì mặt tái xanh như tàu
lá cải, vừa về đến nhà đã lăn đùng xuống giường và không ngóc đầu lên được nữa.
Lão nghe thấy tiếng Pôlốptxép xát xà phòng vào tay, vốc nước ong óc, xì xục rửa
ráy rồi bước về buồng. Đang nửa đêm hắn khua mụ chủ nhà dậy:
- Có món chè lê không, bà chị? Cho xin một
cốc.
Y cạn cốc, (Iakốp Lukits nằm úp sấp mặt vào
gối, nghé một bên mắt lên nhìn), vớ lấy quả lê luộc, nhai tóp tép, đi đi lại lại,
vừa đi vừa hút thuốc khói mù, tay xoa xoa bộ ngực núng nính, nhẵn thín như ngực
đàn bà.
Nằm trong căn phòng xép, Pôlốptxép duỗi hai
chân đặt lên viên gạch còn nóng. Đêm ngủ, y vẫn thích hơ hai bàn chân đau bệnh
khớp của y như vậy. Y mắc phải bệnh ấy năm 1916, khi bơi qua sông Búc giữa mùa
đông, đem hết cái lòng trung thành phụng sự Đức Hoàng đế, bảo vệ quê cha đất tổ.
Từ đó viên quan ba Pôlốptxép mê cái hơi nóng, mê một đôi giày lót nỉ ấm áp...
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét