Đất Vỡ Hoang
Tác giả: M. Sholokhov
Dịch giả: Vũ Trấn Thủ
NXB Cầu Vồng - Moskva, 1985 (In tại Nga Xô)
Tập II
Chương 25
Buồn đến mụ mẫm người, và tinh thần mỗi
ngày một sa sút vì cái cảnh ăn không ngồi rồi bắt buộc, Pôlốptxép và Liachépxki
vẫn tiếp tục giết thời gian hết ngày này qua đêm khác trong gian phòng xép chật
chội nhà Iakốp Lukits.
Thời gian gần đây không hiểu sao các chuyến
liên lạc đã thưa hẳn đi, và các lời hứa hẹn tràn đầy hy vọng của tổng hành dinh
khởi nghĩa gửi cho chúng trong những phong bì nom sơ sài nhưng niêm phong rất cẩn
thận, từ lâu nay đã mất hết tác dụng đối với chúng...
Pôlốptxép xem ra chịu đựng khá hơn cái cảnh
tù túng kéo dài thế này, thậm chí bề ngoài y có vẻ lại càng phớt tỉnh. Nhưng
Liachépxki thì thỉnh thoảng lại lên cơn, mỗi lần một kiểu khác nhau. Lần thì suốt
mấy ngày liền y không nói một câu, cứ ngồi nhìn bức tường trước mặt bằng con mắt
mất hết thần sắc. Lần thì y trở nên đặc biệt ba hoa, nói nhiều đến chối tai,
không chịu nổi, và những lúc ấy, mặc dầu nóng bức, Pôlốptxép lại lấy chiếc áo
burka [kiểu
áo thường mặc ở vùng Cápcadơ - ND] trùm kín đầu, chốc chốc trong bụng
lại sôi lên một ý muốn gần như không nén nổi, ý muốn đứng bật dậy, rút kiếm ra
khỏi vỏ, thẳng cánh chém một nhát xuống cái đầu chải chuốt nắn nót của
Liachépxki. Rồi một lần, trời vừa đổ tối Liachépxki đã biến đi đâu lúc nào
không biết, gần sáng mới mò về, ôm theo một bó hoa tướng ướt đẫm sương.
Suốt đêm hôm ấy Pôlốptxép không chợp được mắt,
trong bụng lo sốt vó vì tên đồng đảng mất tăm, tai vểnh lên nghe mỗi lần có tiếng
động dù là rất nhỏ từ bên ngoài vọng vào. Liachépxki đi chơi về nom phấn khởi,
vui vẻ, toàn thân toát ra cái tươi mát của đêm khuya. Y xách ở ngoài hiên vào một
xô nước, thận trọng thả hoa vào đó. Gian phòng bí hơi sực lên hương thơm ngây
ngất của những bông hoa pêtunhia [một giống hoa cánh to, nhiều màu - ND],
hoa thuốc lá, hoa đổng thảo và những hoa gì nữa Pôlốptxép không biết tên, và
lúc ấy đã xảy ra một chuyện bất ngờ: Pôlốptxép, viên quan ba kỵ binh lòng gang
dạ sắt ấy, sau khi hít mạnh đầy lồng ngực những hương hoa lâu ngày rồi đã quên,
bỗng òa khóc... Nằm trên cái giường hôi hám, trong bóng tối trước lúc bình
minh, y đưa hai bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lên ôm mặt, và khi những cơn nức nở bắt
đầu làm y nghẹt thở, y vùng mạnh quay phắt vào tường, cắn chặt răng vào góc gối.
Liachépxki đi chân đất, nhẹ bước đi đi lại
lại trên mặt sàn âm ấm của gian phòng xép. Cái phong cách tế nhị lịch thiệp của
thuở ngày xưa thức tỉnh lại trong con người y, và y huýt sáo rất nhẹ một khúc
nhạc ôperetta, làm ra vẻ như không nghe, không trông thấy gì...
Mười một giờ trưa, choàng tỉnh dậy sau một
giấc ngủ ngắn nhưng nặng chĩu, Pôlốptxép định mắng cho Liachépxki một trận tàn
nhẫn về chuyện tự ý bỏ đi chơi, nhưng lại chỉ nói:
- Phải thay nước trong xô đi... kẻo hoa héo
mất.
Liachépxki vui vẻ đáp:
- Xin chấp hành ngay tắp lự.
Y xách vào một bình nước giếng mát lạnh,
còn nước ấm trong xô thì đem vẩy sàn.
- Anh lấy hoa này ở đâu thế? - Pôlốptxép hỏi.
Ngượng ngùng vì cơn yếu đuối của mình, xấu
hổ vì những giọt nước mắt y đã khóc lúc ban đêm, y quay mặt nhìn đi chỗ khác.
Liachépxki nhún vai:
- Nói “lấy” thì lịch sự quá, ngài Pôlốptxép
ạ. Phải nói là “ăn cắp”, nghe chối tai đấy, nhưng đúng hơn. Tôi đang đi tha thẩn
quãng trường học thì ngửi thấy đúng mùi thần tiên thơm ngào ngạt, tôi liền vượt
hàng rào vào vườn nhà lão giáo Spưn, vặt trụi đi một nửa hai luống hoa đem về để
phần nào làm cho cuộc sống khốn nạn của chúng ta đỡ tẻ nhạt. Tôi xin hứa từ nay
sẽ cung cấp cho ngài đủ hoa tươi.
- Ấy chớ!
- Tôi nhận thấy ông cũng chưa hoàn toàn mất
hết những tính người, - Liachépxki nói nhỏ, giọng ám chỉ, và nhìn Pôlốptxép
chòng chọc.
Tên này nín thinh, làm ra vẻ không nghe thấy...
Hai đứa mỗi tên giết thời giờ một cách. Pôlốptxép
thì ngồi bên bàn hàng giờ liền bói bài, mấy ngón tay chuối mắn sờ vào những
quân bài cáu bẩn, mặt nhăn lại ghê tởm. Còn Liachépxki thì ngồi giường đọc lại
lần thứ hai mươi rồi chứ không ít cuốn sách độc nhất y có trong tay, cuốn Quo vadis của Xienkêvits, thưởng thức từng
chữ một của cuốn tiểu thuyết ấy.
Đôi lúc Pôlốptxép quẳng bài đấy, ngồi xếp bằng
tròn dưới sàn, trải miếng bạt ra, lấy khẩu trung liên mà không cần lau lại cũng
đã sạch bóng tháo ra, lau lại, chùi sạch từng bộ phận, rồi bôi mỡ, cái mỡ lau
súng đã chảy ra vì nhiệt độ của căn phòng. Sau đó lại thủng thỉnh lắp khẩu súng
vào, ngồi ngắm nghía, cái đầu trán dô nghiêng bên nọ, nghiêng bên kia. Rồi thở
dài một cái, y bọc khẩu súng vào mảnh vải bạt ấy, đem cất cẩn thận dưới gầm giường,
lấy băng đạn ra lau, lắp đạn trở lại, và ngồi vào bàn, rút ở dưới đệm ra cây kiếm
sĩ quan, thử lưỡi kiếm vào móng tay cái, rồi cầm hòn đá mài khô thận trọng liếc
qua vài cái vào lưỡi thép ánh lên một ánh mờ mờ. “Như lưỡi dao cạo!” - y hài
lòng lẩm bẩm.
Những lúc như thế, Liachépxki lại gấp sách
lại, nheo nheo con mắt độc nhỡn, mỉm một nụ cười cay độc:
- Tôi lấy làm lạ, hết sức lấy làm lạ vì cái
bệnh tình cảm ngớ ngẩn của ngài! Việc gì mà ngài phải nâng niu con dao thái thịt
của ngài như một thằng ngốc nâng niu một đồ cổ giả thế? Ngài nên nhớ rằng bây
giờ là năm ba mươi rồi và thời đại của những thanh kiếm, xà mâu, gươm giáo và mọi
thứ đồ sắt rèn khác đã vĩnh viễn qua rồi. Ngài thân mến ạ, trong cuộc chiến
tranh vừa qua, quyết định hết thảy là pháo binh chứ không phải là lính tráng cưỡi
ngựa hoặc không cưỡi ngựa. Và pháo binh cũng vẫn sẽ quyết định kết quả những trận
đánh và những cuộc chiến tranh tương lai. Là một pháo thủ già đời, tôi xin khẳng
định với ngài một cách hết sức dứt khoát như vậy!
Pôlốptxép, như thường lệ, le lé mắt nhìn
Liachépxki, rít răng lại nói:
- Thế anh định khởi sự bằng gì? Ngay từ đầu
bằng hỏa lực lựu pháo hay bằng lính tráng cầm kiếm? Anh cứ đưa tôi dù chỉ một
khẩu đội bảy nhăm mà thôi, tôi cũng sẽ sẵn sàng trao ngay thanh kiếm của tôi
cho mụ vợ Ôxtơrốpnốp. Nhưng nếu không có thì anh hãy im mồm đi, đồ quý tộc bẻm
mép ạ! Nghe anh lải nhải mà tôi buồn nôn. Những chuyện về vai trò pháo binh
trong chiến tranh vừa qua, anh hãy đem kể cho các cô tiểu thư quý tộc Ba Lan,
chứ đừng kể với tôi. Và nói chung, anh luôn luôn kiếm cơ hội ăn nói với tôi bằng
cái giọng ngạo mạn, nhưng thưa ngài đại diện của nước Ba Lan vĩ đại, tôi báo
cho ngài biết là không xong đâu. Cái giọng của ngài, và những câu chuyện rông
dài của ngài không ngửi được. Tiện đây, tôi nói cho ngài biết là những năm hai
mươi người ta đã nói về cái tổ quốc của ngài như sau: “Nước Ba Lan chưa chết,
nhưng đã thối hoắc mùi tử thi...”.
Liachépxki thốt lên bằng giọng làm ra bi
đát:
- Lạy Chúa, một sự nghèo nàn về trí tuệ đến
khủng khiếp! Hết quân bài lại lưỡi kiếm, hết lưỡi kiếm lại quân bài... Nửa năm
nay không thấy ngài đọc được lấy một chữ in nào. Ngài đã trở lại mọi rợ rồi! Thế
mà ngài đã có hồi nào cũng dạy trường trung học cơ đấy...
- Tôi đi dạy học là do tình thế bắt buộc,
thưa ngài quý tộc Ba Lan yêu quý ạ! Ngậm đắng nuốt cay mà dạy học đấy!
- Hình như ông Tsêkhốp của các ngài có một
mẩu chuyện về dân kôdắc như thế này: ở một ấp nọ có một tay địa chủ kôdắc vô học
có hai anh con lớn đần độn suốt ngày chỉ làm có độc một việc là một anh bắt gà
trống trong chuồng ra tung hê lên trời để anh kia cầm súng bắn. Và cứ như thế hết
ngày này sang ngày khác. Chẳng đọc sách, chẳng có một nhu cầu văn hóa nào, chẳng
một mảy may quan tâm gì đến các giá trị tinh thần... Đôi lúc tôi thấy hình như
ngài là một trong hai anh con trai ấy thì phải... Hay tôi lầm?
Pôlốptxép chẳng buồn trả lời, hà hơi lên lưỡi
thép ánh lên một màu chết chóc của thanh gươm, ngồi nhìn vệt hơi nước xanh xanh
lan ra rồi tan dần đi. Rồi y lấy vạt áo Tônxtôi xám của y lau sạch lưỡi kiếm và
thận trọng, thậm chí với một vẻ trìu mến, đút thanh kiếm vào trong cái vỏ đã sờn,
nhẹ nhàng, không nghe thấy một tiếng cọ xát.
*
* *
Nhưng không phải những cuộc chuyện trò nổ
ra bất ngờ và những lời châm chọc lẫn nhau ấy bao giờ cũng kết thúc êm ả như thế.
Gian phòng ít khi được mở cửa, bí hơi đến ngột ngạt; thời tiết ngày càng nóng bức
làm cho cuộc sống khốn khổ khốn nạn của chúng tại nhà Ôxtơrốpnốp càng trở nên
khó chịu. Và càng ngày càng có nhiều lúc Pôlốptxép đang nằm trên cái giường nhớp
nháp và sặc mùi mồ hôi, nhảy bổ xuống đất, nén giọng lại mà gầm lên: “Như cái
nhà tù! Ta đến chết rục trong cái nhà tù này mất!”. Rồi ngay cả ban đêm, ngủ mê
y cũng luôn luôn nhắc đến cái tiếng nặng nề ấy, cho đến lúc Liachépxki phát sốt
ruột, phải bảo y:
- Ngài Pôlốptxép ạ, nghe có thể tưởng như
trong cái vốn từ vựng đã quá nghèo nàn của ngài chỉ còn giữ lại được có độc một
tiếng “nhà tù”. Nếu ngài mê cái tổ chức từ thiện ấy thì tôi thực tình khuyên
ngài: ngài hãy lên GPU huyện ngay hôm nay đi, và đề nghị họ cho vào tù nghỉ mát
tối thiểu là hai chục năm gì đó. Tôi cam đoan với ngài đề nghị ấy sẽ không bị họ
khước từ đâu!
- Cái ấy gọi là cái gì nhỉ? Tiếng Ba Lan gọi
là một câu pha trò có duyên phải không? - Pôlốptxép mỉm cười méo xệch, nói.
Liachépxki nhún vai:
- Ngài thấy nó nhạt quá chăng?
- Tôi thấy anh là một con vật, - Pôlốptxép
hờ hững nói.
Liachépxki lại nhún vai cười gằn:
- Có thể lắm. Tôi sống bên cạnh ngài lâu
quá rồi cho nên nếu có mất hết tính người thì cũng chẳng lấy gì làm lạ...
Sau cuộc đụng chạm ấy, suốt ba ngày ba đêm
chúng không nói với nhau một lời. Nhưng đến ngày thứ tư thì xảy ra một chuyện
làm chúng bắt buộc phải nói...
Sáng sớm hôm ấy, Iakốp Lukits còn chưa ra
trụ sở thì có hai người lạ mặt bước vào sân. Một người mặc áo mưa vải sơn mới
tinh, còn người kia thì mặc chiếc áo choàng vải thô lem luốc, có mũ trùm. Người
thứ nhất cắp nách một cái cặp to, phồng căng, còn người thứ hai thì vắt vai một
chiếc roi ngựa, cán roi kết ngù có dây da nom rất sang. Theo đúng điều quy định
với nhau từ lâu, Iakốp Lukits nhìn qua cửa sổ thấy có người đến, bước vội vào
hiên trong gõ hai tiếng thong thả vào cửa phòng xép hai tên ở, rồi lững thững
bước ra thềm, chân bước tay vuốt ria.
- Bà con đến tìm tôi phải không ạ? Cần lấy
cái gì ở kho nông trang chăng? Các vị là ai? Người ở đâu đến?
Người béo mập cầm cặp mỉm cười niềm nở, hai
má phinh phính lúm xuống hai đồng tiền như má đàn bà, đưa tay lên vành chiếc mũ
cátkét đã sờn, nói:
- Bác là gia chủ đây phải không? Xin chào
bác Iakốp Lukits. Bà con láng giềng nhà ta giới thiệu chúng tôi sang gặp bác.
Chúng tôi đi thu mua gia súc, tiếp phẩm cho anh em thợ mỏ, để anh em bồi dưỡng,
như người ta thường nói. Chúng tôi trả giá cao, cao hơn giá thu mua nhà nước
quy định một chút. Chúng tôi trả giá cao là vì phải cho anh em thợ mỏ ăn tử tế
một tí và không được gián đoạn. Bác là quản lý nông trang, chắc bác hiểu nhu cầu
của chúng tôi... Nhưng chúng tôi không mua gia súc của nông trang đâu, chúng
tôi chỉ mua gia súc riêng của nông trang viên thôi, và của bà con cá thể nữa.
Chúng tôi nghe nói bác có con bò cái tơ. Bác có bán không? Về giá cả chúng tôi
không cò kè đâu, và tiền nào của ấy.
Iakốp Lukits nín thinh một lát, đưa tay gãi
gãi lông mày nghĩ ngợi, tính nhẩm trong bụng là nếu bán được cho những anh tiếp
phẩm dễ tính thì hời đây, lại khỏi phải lê la ngoài chợ. Rồi lão trả lời như đa
số những nông dân thạo mua bán thường trả lời:
- Bò cái tơ để bán thì nhà tôi chả có.
- Có lẽ bác cứ cho xem, may ra chúng ta đồng
ý với nhau được giá đây. Tôi xin nhắc lại lần nữa, chúng tôi sẵn sàng trả giá hời
một tí.
Iakốp Lukits lại im lặng một phút, đưa tay
lên vuốt ria mép, rồi để cho có vẻ quan trọng, chậm rãi nói, như nói với mình:
- Kể ra bò cái tơ thì nhà tôi cũng có một
con đấy, mà lại béo tốt, nom rất là mỡ màng! Nhưng chúng tôi cũng cần giữ nó,
vì con mẹ già rồi, phải thay, mà giống này thì tốt sữa, tốt bơ, tốt lắm cơ.
Không, các đồng chí tiếp phẩm ạ, nhà tôi không bán đâu!
Người béo mập cầm cặp thất vọng thở dài:
- Đành vậy, bán hay không là ở gia chủ...
Thôi thế xin lỗi bác, chúng tôi đi mua nhà khác vậy, - và một lần nữa anh ta lại
vụng về đưa tay lên chiếc lưỡi trai mũ nhàu nát, rồi đi ra.
Anh chàng dắt bò nom lực lưỡng, cổ cày vai
bừa, cũng bước ra theo sau, tay vung vẩy cái roi, mắt lơ đãng nhìn đảo một lượt
cái sân, mấy gian nhà ở, mấy cửa sổ, và khung cửa con đóng kín mít của gian buồng
áp mái...
Đến đây thì máu tham của Iakốp Lukits không
nén được nữa. Để cho hai ông khách ra đến cổng ngoài, lão lại réo gọi người béo
mập:
- Này, đồng chí tiếp phẩm ơi. Quay lại tí
đã! Đồng chí trả bao nhiêu một cân hơi.
- Cái đó ta sẽ bàn. Nhưng tôi đã nói với
bác là giá cả thì chúng tôi không cò kè đâu, và chúng tôi được tự quyền chi. Tiền
chúng tôi không nhiều đâu, nhưng cũng không đến nỗi thiếu, - người béo mập dừng
lại ở cổng đợi và đưa bàn tay phốp pháp vỗ vỗ lên cái cặp nom cũng phốp pháp,
có ý khoe.
Iakốp Lukits bước từ trên thềm xuống với vẻ
dứt khoát:
- Nào ta đi xem bò, trong khi nó chưa đi nhập
đàn. Nhưng xin các đồng chí nhớ cho là rẻ thì tôi không bán đâu đấy. Nể các đồng
chí quá, vì thấy các đồng chí dễ dãi, không bủn xỉn như những tay con buôn. Những
loại con buôn bủn xỉn ấy thì đừng hòng đặt chân vào nhà tôi!
Cả hai anh lái thịt xem xét và sờ nắn con
bò rất kỹ lưỡng, xoi mói bới lông tìm vết, sau đó người béo mập mặc cả róng riết,
còn người cầm roi xem vẻ chán ngấy cái trò ấy, miệng thổi sáo, chân bước lang
thang sân trước sân sau, mắt thì đưa đảo ngó hết chuồng gà, đến cái chuồng ngựa
bỏ không, ngó khắp, kể cả những chỗ không nên ngó đến... Và lúc ấy Iakốp Lukits
mới như chợt bừng tỉnh: “Ôi, lạy Chúa, họ vào đây chưa chắc đã phải để mua bò
đâu!”.
Lão lập tức đồng ý bớt bảy mươi lăm rúp,
nói:
- Thôi được, để bồi dưỡng các đồng chí thợ
mỏ thì tôi cũng sẵn lòng bán thiệt một chút vậy. Bây giờ xin lỗi các đồng chí,
tôi phải ra trụ sở, không tiếp các đồng chí được. Các đồng chí dắt bò đi ngay
bây giờ chứ? Thế thì cho xin tiền ngay đi!
Người béo mập đứng bên cửa nhà kho, nhấp nước
bọt ngón tay, dềnh dàng đếm tiền, thêm mười lăm rúp vào số tiền đã ngã giá, rồi
nháy mắt một cái bắt tay Iakốp Lukits đang nóng ruột như bào:
- Thế nào, mua bán xong xuôi rồi ta cũng phải
làm một chai chứ hả bác Iakốp Lukits? Nghề mua bán của chúng tôi là lúc nào
cũng phải có tí chất cay trong túi để khao mà! - Và vẫn dềnh dàng như thế, anh
ta rút trong túi ra một chai vốtka còn nguyên tem ánh lên mờ mờ dưới nắng sớm.
Iakốp Lukits làm ra vẻ hồ hởi đáp:
- Để đến tối, các bác ơi, đến tối! Tối tôi
rất lấy làm vui mừng được ngồi tiếp các bác một cốc. Cái chất tươi đóng chai
bác vừa giơ ra ấy thì ở nhà chúng tôi đây cũng có, nhờ trời chúng tôi cũng chưa
đến nỗi kiết xác, còn bây giờ thì các bác thứ lỗi cho: sức khỏe tôi bắt tôi phải
kiêng rượu buổi sáng, thêm nữa công việc bận, tôi còn phải ra trụ sở. Xẩm tối mời
các bác đến, ta sẽ chạm cốc mừng cho con bò nhà tôi.
- Ít ra thì bác cũng mời chúng tôi vào nhà
nếm thử cốc sữa của con bò mẹ chứ nhỉ, - người béo mập cười tươi roi rói hai má
lúm đồng tiền, nắm lấy khuỷu tay Iakốp Lukits nói như năn nỉ.
Nhưng Iakốp Lukits vẫn không đổi ý kiến.
Toàn thân lão co lại trong một quyết tâm căng thẳng đến tột độ, và lão trả lời
với nụ cười có phần nào khinh bỉ:
- Các ngài ạ, dân kôdắc chúng tôi có cái lệ
là không phải khách muốn vào thăm lúc nào thì đến, mà khi được chủ mời mới vào.
Ở chỗ các vị khác thế chăng? Nhưng nhập gia tùy tục, các vị ạ: tối ta sẽ gặp
nhau, đồng ý chứ? Sáng sớm chả nên nhiều lời. Thôi, xin chào!
Quay lưng lại hai ông khách mua, và cũng chẳng
thèm ngó đến con bò mà người to lớn lực lưỡng đang đủng đỉnh tròng dây, Iakốp
Lukits lắc lư người, ì ạch bước lên thềm. Tay trái nắm lấy ngang lưng, lão ề à,
giả vờ rên lên một tiếng, bước lên từng bậc một. Nhưng vào tới trong hành lang
thì lão thôi hết mọi cái vờ vịt, tay ôm ngực đứng độ một phút, mắt nhắm lại,
đôi môi tái nhợt thều thào: “Mả cha chúng bay!”. Rồi cơn đau nhói ở tim lão dịu
đi, đầu cũng hết choáng váng. Iakốp Lukits đứng độ một lát nữa, rồi gõ cửa buồng
Pôlốptxép, lễ phép nhưng kiên trì.
Bước qua ngưỡng cửa, lão mới kịp nói: “Khốn
rồi, ngài ơi!...” - thì liền lúc đó như dưới một ánh chớp lóe lên giữa đêm dông
bão, lão trông thấy một nòng súng lục chĩa vào lão, cái hàm răng bạnh và nhô ra
đằng trước của Pôlốptxép, con mắt trừng trừng nhìn không chớp của y, và anh
chàng Liachépxki ngồi trên giường trong một dáng điệu vụng về, hai bả vai tựa
chặt vào vách, với khẩu trung liên kê trên hai đầu gối hơi chồng lên, cái nòng
súng chĩa ra cửa, ngay tầm ngực Iakốp Lukits... Tất cả những cái đó, Iakốp
Lukits đã thoáng thấy như trong giây lát một quầng sáng lóe lên chói lòa, kể cả
cái nụ cười của Liachépxki và cái ánh long sòng sọc trong con mắt độc nhỡn của
y, trong khi đó thì tai lão nghe thấy như vọng từ xa lại:
- Ông chủ thân mến ơi, ông rước ai về nhà
ông thế vậy?
Iakốp Lukits đang lúc rối bời, không nhận
ra tiếng nói ấy của ai, cứ như đó là tiếng của một người thứ ba nào đó, vô
hình, một tiếng nói hổn hà hổn hển, xen những tiếng rin rít. Một sức mạnh không
lệ thuộc vào lão đã buộc lão biến đổi hẳn đi trong khoảnh khắc: hai cánh tay
lão đang ở tư thế nghiêm buông thẳng cứng dọc theo nẹp quần bỗng trùng lại ở
hai khuỷu, toàn thân lão mềm nhũn, rủ xuống. Nhưng lão cất tiếng nói, và lời
lão nói, mặc dầu không mạch lạc gì và bị ngắt quãng, đã nghe là một giọng khác:
- Tự họ dẫn xác đến chứ tôi đâu có rước ai
về. Và các ngài ơi, các ngài còn định quát tháo hành hạ tôi như quát tháo một
thằng nhãi ranh thế này đến bao giờ nữa mới thôi? Tôi không thể chịu được nữa rồi!
Tôi nuôi không các ngài ăn, mua rượu các ngài uống, hầu hạ các ngài đủ vành. Mẹ
con nhà nó thì giặt rũ quần áo các ngài, thổi nấu các ngài xơi mà không đòi lấy
một xu... Giết tôi thì các ngài có thể làm lúc nào cũng được, ngay lập tức cũng
được, nhưng sống mà có các ngài ở trong nhà như thế này thì gay go quá chừng!
Và con bò cái tơ tôi đã đành bán lỗ vốn đi vì cũng phải có cái gì mời các ngài
xơi chứ? Chả lẽ quan lớn như các ngài mà tôi toàn mời xúp suông mãi, nhất thiết
cũng phải có tí thịt mới coi được. Các ngài lúc nào cũng đòi rượu vốtka... Và
khi mấy cái thằng khách không mời mà đến ấy dẫn xác vào nhà, tôi cũng đã báo
trước các ngài rồi, và về sau, vừa mới phát hiện ra chúng chỉ là đóng giả khách
mua thôi, tôi đã quay đít đi ngay: “Thôi được, con bò tôi biếu không các vị đấy,
nhưng các vị hãy đi khỏi đây nhanh lên!”. Ấy thế mà các ngài lại còn... Ôi, nói
với các ngài mà làm gì? - Iakốp Lukits khoát tay một cái tuyệt vọng, rồi áp ngực
vào khung cửa, hai tay ôm mặt.
Pôlốptxép, từ lâu nay sinh ra có thái độ dửng
dưng một cách lạ lùng, bỗng nói bằng một giọng mất hẳn thần sắc:
- Ông Liachépxki ạ, lão già nói có lý đấy.
Xem chừng động rồi, chúng ta phải chuồn khỏi nơi này thôi, trong khi còn chưa
muộn. Ý kiến ông thế nào?
- Phải đi ngay hôm nay, - Liachépxki phát
biểu dứt khoát và thận trọng đặt khẩu trung liên xuống đống chăn gối nhàu nát.
- Nhưng còn liên lạc?
- Sau hẵng hay. - Liachépxki hất hàm chỉ
Iakốp Lukits. Rồi quay sang phía lão, nói bằng giọng gay gắt: - Này, Iakốp
Lukits, thôi cái trò đàn bà ấy đi! Ông hãy kể chúng tôi nghe xem đã nói chuyện
gì với hai thằng lái buôn ấy. Chúng đã trả xong tiền chưa? Chúng có còn đến đây
nữa không?
Iakốp Lukits khóc thút thít như trẻ con, xỉ
mũi vào vạt chiếc áo sơmi buông thõng không thắt dây lưng, đưa mu bàn tay lên
quệt mắt, quệt râu ria, rồi mắt chẳng nhìn lên, lão kể lại ngắn gọn đầu đuôi
câu chuyện nói với hai người tiếp phẩm, về thái độ khả nghi của người dắt bò,
không quên nhắc lại chuyện họ hẹn tối sẽ lại uống rượu ăn khao.
Pôlốptxép và Liachépxki nghe kể, cứ lẳng lặng
đưa mắt nhìn nhau.
- Hay lắm! - Liachépxki cười bẳn, nói. -
Nhà anh không nghĩ ra được cái trò gì khác là mời chúng nó đến chén à? Mả mẹ
anh chứ sao ngu thế, tối như hũ nút!
- Tôi đâu có mời, tự chúng nó đến đấy chứ,
mà lại còn định xộc vào nhà ngay lúc ấy nữa, tôi đã phải giở đủ trò để hoãn binh
đến tối. Và thưa các ngài quan lớn, thật tôi cũng chả biết gọi các ngài thế
nào, các ngài chửi mắng tôi, coi tôi là thằng ngu thế thì cũng không phải... Lạy
Chúa, mả mẹ tôi dại gì mà lại mời chúng nó vào nhà trong khi các ngài còn ngồi
lù lù ra đây? Để chúng nó treo cổ tôi lên cùng với các ngài à?
Đôi mắt rơm rớm của Iakốp Lukits ánh lên một
ánh bực tức và lão nói tiếp bằng giọng đã hằn học ra mặt:
- Thưa các ngài sĩ quan, cho đến năm mười bảy,
các ngài vẫn cho chỉ có các ngài là thông minh thôi, còn lính tráng và những
dân lành kôdắc chúng tôi đều là những kẻ ngu ngốc cả. Bọn đỏ đã dạy cho các
ngài một bài học, nhưng xem ra thì họ cũng chưa dạy được đến nơi đến chốn...
Bài học và trận đòn ấy cũng chưa làm được cho các ngài mở mắt ra!
Pôlốptxép nháy mắt một cái với Liachépxki.
Tên này cắn môi, lẳng lặng quay mặt ra phía khung cửa sổ buông rèm kín, còn Pôlốptxép
thì bước tới sát người Ôxtơrốpnốp, đặt tay lên vai lão, cười đấu dịu:
- Này anh Iakốp Lukits, việc gì mà anh phải
bực dọc vì những lời nói không đâu? Lúc nóng lên thì người ta bạ đâu nói đấy,
ta cũng chả nên chấp nhặt từng câu từng lời. Anh nói cái này thì đúng này: hai
thằng mua bò ấy là nhân viên tiếp phẩm thì chẳng khác nào tôi là giáo chủ vậy.
Cả hai thằng đều là nhân viên công an cả. Ông Liachépxki đã nhận mặt được một
thằng. Anh hiểu chưa? Chúng đang tìm chúng tôi, nhưng còn là tìm mò, cho nên
chúng phải đóng giả cán bộ tiếp phẩm. Bây giờ thế này: từ giờ đến trưa, chúng
tôi phải rời khỏi nơi đây, đi lẻ từng người một. Anh hãy đi tìm và giữ chân hai
thằng ấy lại hai ba giờ gì đó tùy anh, và bằng cách nào cũng tùy anh. Anh có thể
kéo chúng nó đến nhà một bà con nào đó trong đám chiến hữu của chúng ta hiện có
mặt ở nhà, ngồi uống rượu và tán chuyện với chúng. Nhưng cầu Chúa giữ cho anh
và anh chủ nhà kia là đừng có say lúy túy rồi mà phun ra hết! Tôi mà biết, tôi
sẽ giết cả hai! Điều ấy anh nên nhớ cho kỹ! Và trong khi anh chuốc rượu kìm
chân chúng thì chúng tôi bí mật theo đường khe sau nhà đây, luồn ra thảo
nguyên. Và ra đến đấy rồi thì có thánh tìm được chúng tôi! Anh bảo thằng con
anh ngay bây giờ đem thanh kiếm của tôi, khẩu trung liên, mấy băng đạn và cả
hai khẩu súng trường của chúng tôi giấu kỹ trong kho chứa phân bò.
- Giấu khẩu súng trường của ngài thôi, khẩu
của tôi tôi mang theo, - Liachépxki nói chen vào.
Pôlốptxép im lặng nhìn hắn, rồi nói tiếp:
- Tất cả những thứ ấy phải bọc kỹ trong cái
chăn và bí mật đem vào trong kho, trước khi đem vào phải quan sát kỹ xung quanh
đã. Tuyệt đối không được giấu một cái gì trong nhà. Có một yêu cầu này nữa với
anh, nói cho đúng hơn là một mệnh lệnh: thư từ gửi đến đề tên tôi, anh cứ nhận,
và nhận xong thì giấu ngay dưới cái cối đá đập lúa bên nhà kho. Ban đêm thỉnh
thoảng chúng tôi sẽ rẽ qua xem. Rõ cả chưa?
Iakốp Lukits thều thào:
- Rõ.
- Thôi, anh đi đi, và đừng rời mắt hai cái
thằng tiếp phẩm khỉ gió ấy! Đưa chúng nó đi đâu cách xa đây càng xa càng tốt,
trong khoảng hai giờ là chúng tôi không còn đây nữa. Anh có thể mời chúng nó tối
nay đến nhà. Giường này thì đem gác trên phòng áp mái, mở cửa buồng ra cho
thoáng khí. Đem vài thứ đồ tầm tầm quẳng vào đây cho chúng khỏi ngờ, và nếu
chúng yêu cầu, cứ cho chúng đi xem khắp nhà một lượt... và chắc chắn chúng sẽ
kiếm cớ này cớ khác đòi đi xem nhà anh đấy... Chúng tôi đi độ một tuần rồi sẽ
quay lại. Chuyện ăn uống vừa qua của chúng tôi anh đừng cằn nhằn! Tất cả chi
phí của anh, tất cả những tốn kém anh phải chịu vì chúng tôi, sẽ được đền bù lại
cho anh gấp bội khi sự nghiệp của chúng ta thắng lợi. Nhưng chúng tôi sẽ phải
trở lại đây nữa, vì cuộc nổi dậy trong khu vực tôi phụ trách sẽ được khởi sự từ
Grêmiatsi đây. Và giờ hành động sắp đến rồi! - Pôlốptxép trịnh trọng kết luận
và ôm hôn Iakốp Lukits một cái vội vàng: - Thôi đi đi, anh bạn già, cầu Chúa
phù hộ cho anh!
*
* *
Cánh cửa vừa khép lại sau lưng Ôxtơrốpnốp
thì Pôlốptxép ngồi vào bàn, hỏi:
- Ông đã gặp thằng nhân viên GPU ấy ở đâu?
Ông có chắc chắn không nhớ nhầm không?
Liachépxki nhích ghế lại gần, cúi ghé vào
Pôlốptxép và có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt thời gian chúng biết nhau, hắn
nói bằng giọng không có chút mỉa mai châm biếm:
- Giêsu Maria! Tôi nhầm làm sao được! Cái
thằng ấy thì tôi nhớ cho đến ngày xuống lỗ! Ngài có trông thấy má nó có cái sẹo
không? Đó là tôi cầm dao găm xỉa cho nó khi nó đuổi bắt tôi đấy. Và mắt tôi,
con mắt trái của tôi đây này, là tay nó đánh lòi ra trong khi tra hỏi tôi. Ngài
có trông thấy nắm tay nó khiếp thế nào không? Chuyện đó xảy ra cách đây bốn
năm, ở Kraxnôđa. Một con đàn bà đã làm phản, đi khai báo tôi, nhưng ơn bề trên,
nó đã chết ngoẻo rồi! Tôi đang còn ngồi tù thì anh em ta đã phát hiện ra tội
nó. Tôi vượt ngục được hai ngày thì nó đã phải đền tội. Con khốn nạn ấy, nó rất
trẻ, và đẹp, một đứa con gái kôdắc Kuban, một con chó cái Kuban thì đúng hơn.
Câu chuyện là như thế... Ngài có biết tôi đã vượt ngục thế nào không? -
Liachépxki xoa xoa vào nhau hai bàn tay nhỏ khô khốc, mỉm cười mãn nguyện. -
Trước sau đằng nào chúng cũng sẽ lôi tôi ra bắn. Tôi chẳng còn cái gì để mất nữa,
cho nên tính kế liều, thậm chí phải dùng đến cái sách cũng hơi hèn hạ một tí...
Đầu tiên tôi bịp bọn dự thẩm, khai mình là một tên lính tốt đen chẳng biết gì,
thì chúng quẳng tôi vào xà lim cấm cố, giam rất nghiêm ngặt. Tôi bèn quyết định
đi nước bài cuối cùng để mưu cách thoát: tôi khai ra một thằng kôdắc ở ấp Kôrênốpxkaia.
Nó cũng ở trong tổ chức của ta, nhưng là khâu cuối của dây chuyền. Nó chỉ có thể
khai thêm ba người nữa cùng làng mà thôi, vì ngoài ra nó không còn biết một ai
khác trong chúng ta cả. Lúc ấy tôi nghĩ bụng: “Chúng sẽ đem bốn thằng ngu ngốc ấy
ra bắn hoặc đưa đi đầy, nhưng mình sẽ thoát, và đối với tổ chức thì tính mệnh của
riêng mình còn quan trọng bằng vạn lần tính mệnh của bốn con vật kia”. Phải nói
ngài biết rằng trong tổ chức của ta ở Kuban, tôi đóng một vai trò không kém
quan trọng. Có thể đánh giá vai trò ấy qua sự việc là từ năm hai mươi hai đến
nay tôi đã vượt biên năm lần đi Pari gặp tướng Kuchêpốp. Thấy tôi khai ra bốn
tên, lão dự thẩm đã nới tay với tôi: nó cho phép tôi được đi dạo tại sân trong
cùng với các tù nhân khác. Tôi phải hành động ngay, không thể chậm trễ được. Điều
ấy chắc ngài hiểu. Một buổi chiều, đi dạo chơi lẫn trong đám đầu trộm đuôi cướp
Kuban bị án tử hình, ngay từ vòng đầu tôi đã để ý thấy có cái thang bắc tựa vào
nhà chứa cỏ, có vẻ là mới được đặt đấy ít lâu gì đó thôi. Hồi ấy đang là mùa cắt
cỏ và hàng ngày bọn công an vẫn chở cỏ về cho ngựa. Tôi đi một vòng nữa, hai
tay chắp sau lưng, đúng như quy định. Sang vòng thứ ba, tôi điềm nhiên đi tới
cái thang, mắt chẳng ngó nghiêng, rồi từ từ trèo lên thang, hai tay vẫn chắp sau
lưng, như người làm xiếc... Tôi đã dự kiến rất chính xác, ngài Pôlốptxép ạ!
Chính xác về mặt tâm lý. Ngẩn tò te trước sự táo tợn đến lạ lùng của tôi, bọn
lính gác đã để cho tôi có đủ thời gian leo lên đến bậc thứ tám rồi mới có một đứa
giật mình quát lên: “Đứng lại!”. Trong khi đó thì tôi đã bò rạp người chạy lên
được hai bậc nữa, rồi như một con dê, nhảy phốc lên mái nhà kho. Súng bắn loạn
xạ lên nhá, và gào thét, và chửi! Nhảy tiếp hai cái là đến mép mái nhà, và một
cái nữa là xuống dưới đường. Thế là xong. Ngay sáng hôm ấy tôi đã có mặt ở Maikốp,
trốn tại một cơ sở bí mật tin cẩn... Tên cái thằng hộ pháp đã làm tôi chột mắt ấy
là Khigiơnhiắc. Hôm nay ngài đã trông thấy nó rồi đấy, cái tượng hộ pháp mặc quần
ấy. Vậy thì ngài bảo làm sao tôi lại có thể để nó lọt khỏi tay tôi mà sống đàng
hoàng được? Không, nó đã đánh tôi lòi một mắt thì tôi phải cho nó nhắm tịt cả
hai mắt lại! Một đổi lấy hai!
- Ông điên rồi ư? - Pôlốptxép kêu thốt lên
phản đối. - Vì tư thù mà ông định làm hỏng việc lớn hay sao?
- Ngài cứ yên trí. Tôi sẽ khử thằng
Khigiơnhiắc và tên đồng chí của nó không phải ngay tại đây đâu, mà sẽ phục ở một
quãng nào đó, cách ấp Grêmiatsi Lốc này xa. Tôi sẽ dựng lên một vụ giết người
cướp của là xong thôi mà! Tiền của chúng tôi sẽ lấy. Anh lái buôn mà để bị cướp
là anh lái buôn tồi... Khẩu súng của ngài cứ giấu, còn khẩu của tôi, tôi sẽ thủ
vào áo đi mưa, mang theo. Ngài không nên nghĩ đến chuyện ngăn cản tôi. Ngài
nghe ra chưa? Một khi tôi đã quyết là tôi làm! Tôi sẽ đi trước, ngài đi ra sau
một lát. Thứ bảy này chúng ta sẽ gặp nhau vào lúc xẩm tối ở khu rừng cạnh ấp
Tubianxki, bên bờ suối, nơi chúng ta đã gặp nhau lần trước. Xin chào ngài, ngài
Pôlốptxép ạ! Những ngày ở đây chúng ta đã đi tới chỗ hơi quá đáng, hiểu theo
nghĩa thần kinh bị mất thăng bằng, và phải thừa nhận là đôi lúc tôi đã đối xử với
ngài không được xứng đáng.
- Thôi được rồi... Hoàn cảnh của chúng ta
thì nên miễn những lời yếu đuối, - Pôlốptxép bối rối càu nhàu, tuy vậy vẫn ôm lấy
Liachépxki, đặt môi lên cái trán tái nhợt của hắn với thái độ một người cha.
Liachépxki xúc động trước biểu hiện bất ngờ
của tình bạn ấy, nhưng quay đi, không muốn để lộ ra là mình bồi hồi. Tay đã nắm
lấy quả nắm cửa rồi, y nói:
- Tôi sẽ đem thằng Măcxim Kharitônốp bên
Tubianxki đi theo. Nó có súng, hơn nữa nó là đứa có thể tin cậy được trong những
lúc khó khăn. Ngài không phản đối chứ?
Pôlốptxép im lặng một lát, rồi đáp:
- Kharitônốp trước là hạ sĩ quan ở đại đội
tôi. Chọn hắn là phải. Ông cứ đem hắn đi cùng. Không biết bây giờ hắn thế nào
nhưng ngày xưa hắn là xạ thủ xuất sắc đấy. Tôi hiểu tâm trạng của ông. Ý ông thế,
ông cứ tiến hành, nhưng tuyệt đối không được tiến hành ở lân cận Grêmiatsi Lốc,
không tiến hành trong thôn xóm, mà phải chọn chỗ nào đó ngoài thảo nguyên...
- Xin vâng. Thôi, chào ngài.
- Chúc ông thành công.
Liachépxki bước ra hành lang, khoác lên vai
chiếc áo dipun cũ của Ôxtơrốpnốp, ghé mắt nhìn qua khe cửa ra lối ngõ vắng
tanh. Một phút sau y lững thững bước qua sân, khẩu cácbin kỵ binh kẹp bên sườn
trái, rồi cũng lững thững như thế y đi khuất góc nhà kho. Nhưng vừa mới nhảy xuống
cái kho sau nhà xong là lập tức y biến đổi hẳn: y xỏ tay mặc hẳn áo dipun vào,
cầm khẩu cácbin ra tay, mở chốt an toàn, len lén men theo con đường lên dốc
núi, dáng điệu như một con dã thú, mắt sắc sảo quan sát tứ phía, tai vểnh lên lắng
nghe từng tiếng xào xạc nhẹ, và chốc chốc lại ngoái nhìn xuống cái xóm phía dưới
kia còn đang chìm trong làn khói lam buổi sớm.
*
* *
Hai ngày sau, vào buổi sáng thứ sáu, trên
quãng đường giữa hai ấp Tubinaxki và Vôixkôvôi, cách khe Phong khoảng sáu chục
mét, có hai nhân viên tiếp phẩm đã bị giết cùng với một con ngựa trong đôi ngựa
kéo chiếc xe của họ. Người đánh xe, một anh kôdắc dân làng Tubianxki, đã chặt đứt
dây thắng con ngựa còn lại, cưỡi lên nó chạy thoát về được Vôixkôvôi. Và anh ta
đã đến Xôviết ấp trình báo sự việc.
Nhân viên cảnh vệ địa phương cùng với chủ tịch
Xôviết, người đánh xe ngựa và mấy người làm chứng đã ra xem xét tại chỗ xảy ra
vụ thảm sát, và đã xác định được diễn biến sự việc như sau: bọn cướp nấp ở
trong rừng đã bắn ra khoảng mươi phát súng trường. Phát đầu tiên đã giết chết
tươi người chăn bò cao lớn lực lưỡng có đôi vai rộng. Anh ta đã bị đạn bắn
trúng tim và ngã sấp mặt từ trên xe xuống. Anh tiếp phẩm lùn mập đã hét lên bảo
người đánh xe: “Phóng lên!” rồi giằng lấy roi ở tay anh ta, vung lên định quất
con ngựa bên phải, nhưng chưa kịp quất thì bị phát đạn thứ hai quật ngã gục xuống
xe. Viên đạn bắn trúng đầu anh ta, phía trên tai trái một chút. Hai con ngựa lồng
lên, và xác anh ta rơi xuống đường, cách xác anh thứ nhất khoảng hai chục mét.
Tiếp theo đó là vài loạt đạn nữa từ hai khẩu súng trường đồng thời bắn ra. Con
ngựa gióng trái đang phi bị trúng đạn ngã lộn một vòng, làm gãy cái càng xe và
kéo theo cái xe đổ lật nhào đè lên nó. Người đánh xe đã chặt đứt dây thắng của
con ngựa còn sống, nhảy lên phi như bay. Bọn cướp đã bắn mấy phát đuổi theo anh
ta nhưng chỉ là bắn dọa chứ không chủ tâm giết, vì theo lời anh ta kể lại, đạn
bay vèo vèo qua đầu anh ta rất cao.
Túi quần áo hai tử thi được lộn trái ra,
nhưng không thấy có giấy tờ gì. Chiếc cặp rỗng không của anh nhân viên tiếp phẩm
nằm lăn lóc trong đám cỏ ven đường. Người dắt bò đã bị bọn cướp lật ngửa ra để
lục soát, và căn cứ vào dấu vết hằn trên da mặt thì anh đã bị chúng dùng gót
giày giẫm lòi mắt trái.
Chủ tịch Xôviết Vôixkôvôi, một anh kôdắc
già đã tham gia hai cuộc chiến tranh, phát biểu ý kiến với anh nhân viên cảnh vệ:
- Xem này, Luka Nadarưts, cái thằng chó má
nào người ta chết rồi nó còn hành hạ, không tha! Anh này đã chắn ngang đường nó
đang theo chăng? Hay là tranh nhau một mụ đàn bà? Chứ nếu chỉ là cướp đường
thôi thì không tàn ác với nhau đến như thế này đâu.. - Và cố tránh không nhìn
cái hốc mắt rỗng hoác đỏ lòm kia và cái dòng máu chảy xuôi xuống má đã khô vón
lại kia, đồng chí chủ tịch Xôviết lấy khăn tay của mình đắp lên mặt tử thi, rồi
đứng thẳng dậy thở dài: - Cái bọn này táo tợn thật! Chắc chắn là chúng nó đã
theo dõi hai anh này từ lâu, và tiền của các anh ấy chúng khoắng được rõ ràng
phải đến hàng nghìn... Quân khốn kiếp! Chỉ vì đồng tiền mà chúng giết oan giết
uổng những con người cường tráng như đại bàng thế này...
Ngay ngày hôm ấy, tin Khigiơnhiắc và Bôikô-Glukhốp
bị giết đã loan về tới Grêmiatsi Lốc. Ngồi lại một mình với Đavưđốp ở trụ sở
ban quản trị, Nagunốp hỏi:
- Xêmiôn ạ, cậu có hiểu được câu chuyện này
rồi sẽ ra thế nào không?
- Cũng tàm tạm hiểu được như cậu hiểu. Đây
là bàn tay thằng Pôlốptxép hoặc đồng đảng của chúng nó đây, thực tế thế!
- Đích thị thế rồi. Có một điều mình không
hiểu: nhưng làm sao mà chúng nó đã phát hiện ra hai anh này là ai, vấn đề là
như vậy! Và kẻ nào đã làm công việc điều tra phát hiện ấy?
- Vấn đề ấy thì mình với cậu chả thể giải
quyết nổi. Nó là một bài toán có hai ẩn số, mà chúng mình thì không cứng về số
học và đại số học gì cho lắm. Cậu đồng ý không?
Nagunốp ngồi im lặng hồi lâu, chân vắt chữ
ngũ, mắt nhìn đăm đăm vào mũi chiếc ủng bụi trắng mà thực ra để tâm tận đâu
đâu, rồi anh nói:
- Một ẩn số mình giải được rồi...
- Cái nào vậy?
- Con chó sói không bao giờ bắt mồi ở gần
hang nó...
- Thế nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là những tên kia từ xa đến, chứ
không phải từ Tubianxki, và cũng không phải từ Vôixkôvôi. Điều ấy thì chính
xác!
- Vậy cậu cho là từ Sakhơtư hay từ Rôxtốp
sao?
- Không nhất thiết. Biết đâu lại không từ
làng ta?
- Rất có thể, - Đavưđốp ngẫm nghĩ một lát rồi
nói. - Maka ạ, vậy cậu có ý kiến gì đề xuất không?
- Phải chỉ thị cho các đảng viên mở to mắt
ra mà nhìn, ban đêm bớt ngủ đi và bí mật tuần tra khắp làng, quan sát kỹ. Biết
đâu chúng ta lại chẳng vớ được ở ngay trong làng hoặc quanh làng chính cái thằng
Pôlốptxép ấy, không thì cũng là một kẻ lạ mặt khả nghi nào đó. Sói thường xuyên
lượn ban đêm...
- Thế cậu bảo chúng mình là sói à? - Đavưđốp
khẽ nhếch mép mỉm cười.
Nhưng Nagunốp không cười. Anh ta cau mày lại,
nói:
- Sói là chúng nó, còn chúng mình là người
săn sói. Phải luận ra mà hiểu chứ.
- Đừng cáu. Mình đồng ý với cậu, thực tế thế!
Bây giờ ta triệu tập các đảng viên tới họp ngay đi.
- Không nên ngay, mà muộn tí, chờ cho mọi
người ngủ đi đã.
- Ý kiến ấy cũng đúng. - Đavưđốp đồng ý. -
Nhưng không nên đi tuần, vì sẽ làm động dân làng ngay. Nên ngồi phục thì hơn.
- Biết chỗ nào mà phục? Phục chỉ uổng công
vô ích! Mình phục thằng Chimôphây thì dễ: nó chỉ mò đến nhà con Luska thôi,
ngoài ra nó không còn đường nào khác. Còn bọn này thì bảo đợi chúng nó ở đâu?
Trời đất thì rộng, trang trại trong làng thì nhiều, người đâu mà rải ra nhà nào
cũng canh?
- Việc gì phải nhà nào cũng canh.
- Biết chọn nhà nào?
- Ta hãy điều tra xem hai đồng chí tiếp phẩm
đã vào nhà nào mua gia súc, rồi cứ những nhà ấy ta theo dõi. Hai đồng chí ấy chỉ
quanh quẩn phần lớn các nhà những người khả nghi và vào mua gia súc các nhà ấy...
Bọn giặc cỏ kia sẽ lần mò đến nhà một tên nào đó trong đám ấy... Cậu hiểu chưa?
- Cậu quả là cao kiến! - Nagunốp chịu phục.
- Đôi lúc cậu cũng nảy ra được những ý kiến khá ra phết!
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét