Cái Thủ Lợn
Tác giả:
Nguyễn Công Hoan
ĐỜI MỚI
xuất bản 1945
26
Thua
keo này, bày keo khác, đó
là sự làm việc của người kiên nhẫn.
Trung
kể là kiên nhẫn vào bực nhất. Ông phải cố hết sức để thắng nổi Liễu mới nghe.
Cho
nên sau một tháng tẩm bổ, ông khỏe mạnh như thường, thì một dịp tốt đưa đến,
ông không bỏ lỡ, đó là việc ông chạy Hàn lâm.
Không
biết ông phải tốn kém mất bao nhiêu, mà dân làng phải rất đỗi ngạc nhiên, là thấy
bao nhiêu văn tự ruộng, ông cầm ráo cả. Về việc này, quan huyện phải thức suốt
một đêm mới nghĩ ra công của Trung, để chữa vào lý lịch. Bởi vì ngài nói:
-
Thầy phải làm một việc gì công ích cho dân, hoặc xây đường mở chợ, lập trường
cho làng, hoặc bỏ tiền ra phát chẩn cho dân bị lũ lụt thì tôi xin mới dễ.
Nhưng
Trung gãi tai, thật thà đáp:
-
Lạy quan lớn, chúng con không dám kêu man cửa quan lớn, mấy năm nay, con chót
tranh nhau vị thứ với thầy chánh tổng, nên kiệt sức lắm rồi. Giờ con chỉ đủ để
đến kêu cửa quan lớn và các nơi mà thôi. Việc này dù tốn kém bao nhiêu mà được
việc con cũng xin cố.
Bởi
vậy quan huyện ghi cho Trung là đã có công lớn về việc cứu tế xã hội. Ngài khai
chính Trung giúp các quan về việc hộ đê năm ngoái và hết lòng với cuộc trị an.
Nhưng
lời khai cứ là lời khai, mà cái kết quả của sự đắc thắng phải là tiền. Quan huyện
đưa Trung vào lạy lục cụ Tuần, rồi bởi có hai ngài mạnh thế, và độ ấy xin phẩm
hàm không khó khăn lắm, nên Trung được thưởng hàm Đãi-chiếu.
Liễu
như chết điếng. Ông không chịu cho một thằng dốt nát hưởng hàn lâm, để rồi nó
được ăn tiên chỉ. Ông nói:
-
Tôi tố cáo đến kỳ cùng. Nó chỉ làm hại làng chứ đã làm cho làng được cái gì?
Song,
nghĩ đến kiện cáo, ông lại giật mình. Ông bèn tìm đến cách trả thù không tốn tiền,
là viết những bức thư dài, tố cáo tội trạng của Trung, để gửi ngầm lên quan
trên. Ông yên chí rằng rồi Trung sẽ bị thu lại bằng sắc. Nhưng đến nửa tháng,
công việc của ông chẳng có kết quả gì.
Ông
thở dài. Mà ức nhất là bị Trung gọi lại bằng thầy. Thấy người làng gọi Trung là
quan hàn Trung, có kẻ trịnh trọng gọi Trung là quan hàn Nguyễn, Liễu bầm gan
tím ruột. Thật là không còn trời đất nào nữa. Lại ít lâu nay, sao lắm người đến
chơi nhà Trung thế. Hình như họ nghĩ đến tiệc khao sẽ tới mà phải gây cảm tình
sẵn với người cho ăn. Không thể như thế được. Liễu bèn xin từ chánh tổng, để
Trung mất gọi mình xách mé, rồi xui người làng làm đơn kiện Trung, xin nhà nước
tiêu thu bằng sắc của người có tội. Ông đành bỏ tiền ra vậy.
Ông
sửa một bữa rượu, mời dân làng đến chén, rồi đứng dậy nói:
-
Thưa các cụ, việc ông lý Bá làng ta được hưởng hàn lâm, chắc các cụ đã biết.
Cái đó, âu cũng là một sự danh giá cho làng. Nhưng tôi thiển nghĩ, hàm hàn lâm
chỉ dành cho những người văn hay chữ tốt hoặc người đã có nhiều công trạng. Tôi
xét ông lý Trung không đáng được nhà nước thưởng về một lẽ gì cả. Cho nên anh
em ta nên ký chung vào một đơn, để tố cáo ông ta. Xin nhà nước xóa cái hàm ấy
đi. Bởi vì, nếu bất cứ ai có tiền cũng được phẩm hàm, thì rồi ai thiết làm việc
gì công ích nữa.
Các
cụ ngồi nghiêm chỉnh, nhìn nhau để xem ý nhau.
Bút
khen:
-
Cụ chánh nói phải lắm.
Liễu
tiếp:
-
Đây tôi đã thảo một lá đơn, giá một mình tôi ký rồi đệ lên quan trên cũng được,
nhưng tôi muốn xin cả chữ các cụ cho lời nói thêm sức mạnh.
Soang
nói:
-
Cụ kể tội lý Bá những gì?
-
Vâng, tôi nói sơ lược cho các cụ nghe, rồi chốc nữa xin cùng bàn để viết đơn.
Năm Tý, lý Trung hà lạm tiền thuế, sự đó dân đã kêu đến tai quan trên. Năm Sửu,
Trung đánh dân, bắt dân đi đê mà chẩm món tiền Nhà nước trả lại. Sự này khi cụ
Tú còn làm chánh hội có phát đơn kiện. Năm Mão, Trung ăn tiền của thân nhân người
mắc bệnh thời khí để giấu quan trên, đến nỗi làng bị tai hại. Năm Thìn, Trung bỏ
việc tuần phòng, có cướp vào mà không biết, sau quan trên hỏi, lại trình là có
trộm. Lại năm Thìn, Trung đã lộng quyền, bắt đám người che lọng khi rước sắc thần
từ miếu về đình, lại năm Thìn nữa, khi
tranh cử nghị viện, Trung dám cắm đằng mũi ô tô chiếc cờ vàng, lá cờ của vua.
Bà
Xích ngắt lời:
-
Ấy, hình như đấy là xe có bảo hiểm nên có cờ ấy đấy chứ.
Liễu
cau mặt:
-
Thì vàng hẳn hoi, mắt ông trông thấy mà lị.
Bút
nói:
-
Những việc về năm Thìn, ông xếp đặt cho có thứ tự trước sau.
-
Vâng, lại năm nay, Trung nói dối Nhà nước để xin tư phẩm hàm. Đấy, tôi chỉ đơn
cử những việc lớn.
Mọi
người bàn đi tán lại, rồi Liễu loay hoay viết đơn. Nhưng khi ngẩng lên, ông chỉ
thấy còn có bảy người nằm quanh bàn đèn. Còn những mặt đỏ khác, cái nhăn nhó
kêu đau bụng phải vội về, cái hốt hoảng đi, nói rằng con ốm nặng; cái vờ vĩnh
nói bận chút việc chốc nữa lại đến; cái sợ sệt, thú rằng không muốn lôi thôi.
Liễu
tức lắm, đành lấy bảy chữ ký, họp với mình là tám. Rồi ông nói:
-
Tám chúng ta không bắt lý Trung phải thất điên bát đảo à?
Liễu
thắng ngựa lên huyện.
Từ
lúc ấy, tiếng xì xào trong làng trở nên ồn ào dần. Chỗ này người ta đoán Trung
bị tước Hàn lâm; chỗ kia người ta chắc rồi quan huyện đến phải triệt.
Nhưng
sự thực, Trung đã vọt lên huyện trước Liễu để nói lót. Nên khi Liễu đến công đường,
quan cầm lấy đơn, mỉm cười vỗ vai, mời Liễu ngồi và ôn tồn nói:
-
Thầy khí chậm quá. Tôi tiếc không làm được thầy vừa lòng. Vả lại nếu thầy bảo
Nhà nước lầm, thì Nhà nước là ai? Nhà nước là tôi, là cụ Tuần, là cụ Chánh sứ,
là cụ Thống sứ chứ ai? Vậy thầy thử nghĩ xem, thầy đương là dân, vậy có nên tố
giác sự lầm lẫn của quan trên hay không. Bởi vì đây không phải là thầy kiện Hàn
Trung mà chính là thầy kiện các quan kia đấy.
Liễu
gãi tai không đáp thế nào được nữa. Ông huyện lại nói:
-
Nghĩa là công việc đồng lần, rồi vài tháng nữa triều đình có ân điển, ai muốn tự
xin hàn lâm, tôi lại xin cho.
Câu
nói làm Liễu nghĩ ngợi:
-
“Hay mình cũng xin”.
Ý
mới ấy luẩn quẩn trong óc Liễu. Ông huyện cười, nói sát sạt:
-
Được hàn lâm bao giờ chả hơn. Làm gì cũng không được danh giá bằng quan hàn.
Liễu
ngẩn ngơ hỏi:
-
Lạy quan lớn, một làng hai hàn lâm có được không ạ.
Quan
cười:
-
Một trăm, một nghìn hàn lâm cũng được, chỉ sợ không có người đủ tiền lo mà thôi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét