Những trận Không chiến dữ dội
nhất lịch sử Thái Bình Dương
(Hồi ký của một Samurai)
Tác giả: Saburo Sakai, Martin Caidin và Fred Saito.
Người dịch: Nguyễn Nhược Nghiễm.
Nhà xuất bản Sông Kiên - Sài Gòn, 1972
Lời nói đầu
Saburo Sakai đã
trở thành một huyền thoại “sống” ở Nhật Bản trong suốt thời đệ nhị thế chiến.
Khắp nơi, các phi công Nhật Bản đã nói đến những chiến công không thể tưởng
tượng được của Sakai với tất cả sự nể phục.
Sakai đã hưởng
được một tăm tiếng khác thường mà tất cả những phi công chiến đấu hằng ôm ấp
trong lòng. Giữa các phi công Nhật Bản bắn rơi trên mười phi cơ địch, Saburo
Sakai là phi công duy nhất chưa bao giờ để mất một đồng đội nào bay sát cánh
với anh trong khi chiến đấu. Đó là điều đáng kinh ngạc đối với một người đã
từng tham dự hơn 200 trận không chiến, và việc này đã giải thích tại sao sự
ganh đua ráo riết nhiều khi xảy ra xung đột giữa những phi công khác để dành
bay cho được ở vị trí kề cận bên anh.
Nhân viên bảo trì
cho phi cơ anh tâng bốc anh không tiếc lời. Một chuyên viên cơ khí sẽ lấy làm
hãnh diện khi được chỉ định săn sóc cho chiếc chiến đấu cơ Zero của Sakai. Theo
lời những nhân viên dưới đất, trong suốt hơn 200 phi vụ chiến đấu, Sakai khéo
léo đến nỗi chưa bao giờ phải thực hiện 2 lần đáp, chưa bao giờ để cho phi cơ
lật nhào hoặc va chạm cho dù phải đáp xuống trong đêm, người mang đầy thương
tích và phi cơ bị hư hại nặng nề.
Saburo Sakai nhận
lãnh những vết thương trầm trọng trong trận không chiến ở Guadalcanal vào tháng
8 năm 1942. Anh đã cố gắng hết sức để đưa chiếc chiến đấu cơ què quặt trở về
Rabaul, với các vết thương gây tê liệt cho cánh tay trái và chân trái, với con
mắt bên mặt mù hẳn và con mắt trái chỉ thấy lờ mờ, với những mảnh kim loại ghim
vào ngực và lưng, và với 2 viên đạn đại liên 12,7 mm chui vào nằm trong hộp sọ
của anh. Hai vết thương sau cùng này là một trong những thiên anh hùng ca trên
không vĩ đại nhất, một biến cố mà tôi tin rằng sẽ trở thành một huyền thoại
giữa các phi công chiến đấu cơ.
Hai vết thương này
đã quá đầy đủ để chấm dứt những ngày chiến đấu của bất cứ ai. Hãy hỏi bất kì
một cựu phi công chiến đấu nào đã từng gặp những khó khăn kinh khiếp, xem họ có
bao giờ lâm trận chỉ với một con mắt hay không? Nhứt là khi viên phi công một
mắt đó phải quay lại chiến đấu trong một chiến đấu cơ Zero cổ lỗ để chống lại
những chiếc chiến đấu cơ Hellcat tối tân và siêu đẳng của Hoa Kỳ vừa đưa vào sử
dụng.
Sau những tháng
dài dằng dặc oằn oại đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, giữa lúc hy vọng trở lại
với tình yêu đầu, tức không gian bao la kia, đã tắt hẳn. Một lần nữa Sakai lại
bước vào trận chiến. Không chỉ lấy lại phong độ khéo léo của ngày trước, anh
còn hạ thêm bốn chiến đấu cơ địch nữa nâng tổng số lên 64 phi cơ địch bị anh
hạ.
Người đọc chắc hẳn
sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng Saburo Sakai chưa bao giờ nhận bất kì một loại
huy chương hoặc tuyên dương công trạng nào do chính phủ của anh ban tặng. Những
loại ban tặng này, người Nhật chưa hề biết đến. Công trạng chỉ được thừa nhận
sau khi một người đã nằm xuống. Trong khi những phi công giỏi (hạ trên 10 phi
cơ địch) của các quốc gia khác, bao gồm cả Hoa Kỳ, trên ngực họ sẽ lòe loẹt hết
dãy huy chương này đến dãy huy chương khác và kèn trống rình rang mỗi khi được
ban tặng. Sakai và những phi công đồng đội thực hiện các phi vụ chiến đấu không
biết bao nhiêu lần mà họ vẫn chưa từng được nếm mùi sự thừa nhận công khai như
vậy.
Lần đầu tiên câu
chuyện của Saburo Sakai sẽ cung cấp cho người đọc một sự hiểu biết cặn kẽ về
phía “đối phương”. Sakai tiêu biểu cho một lớp người Nhật mà chúng ta ít biết
hoặc chưa từng biết đến. Đây là những Samurai (Võ sỹ đạo) lừng lẫy, những chiến
sỹ thiện nghệ, bỏ cả một đời để phục vụ cho xứ sở họ. Thế giới của họ là một
thế giới cách biệt hẳn với thế giới của chính dân tộc họ. Bây giờ, lần đầu
tiên, các bạn sẽ có thể nghe được suy tư, cảm xúc và xúc động của những người
đã từng chĩa “mũi dùi Nhật Bản” vào không trung ấy.
Trong lúc viết
quyển sách nầy, tôi có được sự may mắn đàm luận với nhiều người bạn Hoa Kỳ
trong số những người đã từng lái chiến đấu cơ tham dự mặt trận Thái Bình Dương
trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Những người nầy đã nhìn các phi công chiến đấu
Nhật Bản, địch thủ của họ, như là một thực thể khó hiểu. Họ không bao giờ nghĩ
các phi công chiến đấu Nhật là một con người đúng nghĩa của nó, mà là một cái
gì xa lạ và khác biệt đối với họ. Chẳng hạn như Sakai.
Samurai! Những kẻ
đã mang trận chiến trên không ở Thái Bình Dương vào một phối cảnh mới. Các nỗ
lực tuyên truyền thời chiến của Hoa Kỳ đã bóp méo hình ảnh người phi công Nhật,
biến họ thành một bức hoạt kê khó chấp nhận được. Nội dung của bức hoạt kê nầy
đã mô tả một kẻ xẩy chân từ trên không trung xuống với đôi mắt kèm nhèm, và hắn
ta sở dĩ còn lơ lửng được là nhờ ơn trời.
Thái độ khinh
thường nầy là một thái độ nguy hiểm. Saburo Sakai là một thiên tài bậc nhất
trên không, không thua gì các phi công tài ba nào của bất kì quốc gia nào. Anh
luôn luôn phải được xếp vào hàng những phi công vĩ đại nhứt mọi thời đại. 64
phi cơ đã rơi trước họng súng của anh. Tiếng chuông báo tử sẽ gõ nhiều hơn nữa,
nếu anh không nhận lãnh những vết thương trầm trọng.
Hành vi và lòng
can đảm của các phi công Hoa Kỳ được mang ra thử thách trong suốt cuộc Đệ Nhị
Thế Chiến không cần đòi hỏi sự biện giải. Chúng ta (người Mỹ) cũng có sự vĩ đại
và tầm thường của chúng ta. Tuy nhiên, rất nhiều trong số những chiến thắng
trên không của chúng ta được ghi vào tài liệu cũng chỉ dựa trên giấy tờ.
Chẳng hạn như câu
chuyện phi thường của Đại úy Colin P.Kelly Jr, người đọc sẽ không tìm thấy một
mảy may hứng thú nào trong câu chuyện kể của Sakai về cái chết của Kelly vào
ngày 10 tháng 12 năm 1941 trong quyển sách nầy.
Theo câu chuyện về
cái chết của Kelly trước đó: ông đã tấn công và đánh chìm thiết giáp hạm
Haruna, ông đã tả xung hữu đột mở lối xuyên qua một nhóm chiến đấu cơ đối
phương, ông đã tự sát bằng cách bổ nhào xuống một chiến hạm địch, ông đã được
truy tặng huân chương Danh Dự của Quốc Hội Hoa Kỳ. Nhưng tất cả chỉ là một câu
chuyện sai lầm. Tại vì sự quan sát chiến trường không chính xác hoặc tại vì nôn
nóng muốn tìm cho ra một vị “anh hùng” sau trận Trân Châu Cảng của dân chúng
Hoa Kỳ?
Vào lúc mà chiếc
Haruna được báo cáo bị đánh chìm, nó đang ở phía khác của Nam Hải, đảm trách
nhiệm vụ yểm trợ cho mặt trận Mã Lai Á. Không có một thiết giáp hạm nào của
Nhật ở quần đảo Philippine. Chiến hạm mà Kelly đã tấn công nhưng không đánh
chìm, theo Sakai và các phi công Nhật bay bao che trên chiến hạm này là một
tuần dương hạm hạng nhẹ 4000 tấn. Sau khi tấn công, Kelly rời khu vực trước khi
các phi cơ Nhật phát hiện và truy đuổi. Ông không cho phi cơ bổ nhào xuống
nhưng vừa trốn chạy vừa thả bom từ cao độ 22.000 bộ và sau đó bị Saburo Sakai
bắn rơi gần phi trường Clark ở Philippine. Kelly được truy tặng, không phải là
huân chương Danh Dự của Quốc Hội Hoa Kỳ mà là huy chương Chiến Công Bội Tinh.
Để bổ túc đầy đủ thành
tích và câu chuyện của Saburo Sakai, trong vòng một năm Fred Saito đã gặp Sakai
mỗi cuối tuần, để khai quật quá khứ chiến đấu của một phi công đại tài Nhật
Bản, hiện nay vẫn còn sống ngay sau chiến tranh, Sakai đã sắp xếp lại tập ghi
chép đồ sộ về những kinh nghiệm mà anh đã trải qua. Tập ghi chép nầy, cộng thêm
hàng ngàn câu hỏi được đặt ra bởi Saito, một thông tín viên tài ba và kinh
nghiệm của Associated Press đã làm
sống lại câu chuyện riêng của Sakai.
Sau đó, Saito đã
tìm tòi lục lọi qua hàng ngàn trang hồ sơ của Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản. Ông
đã đi khắp nước Nhật, phỏng vấn nhiều sỹ quan và phi công còn sống sót, để thâu
thập những câu chuyện do họ kể lại. Nhằm tạo ra tập tài liệu xác thực này, quân
nhân mọi cấp, từ anh binh nhì thuộc nhóm chuyên viên bảo trì cho đến hàng tướng
lãnh và đô đốc đều được hỏi dò. Thật ra, nhiều câu chuyện kể về các trận đánh
của Sakai vẫn vấp nhiều khiếm khuyết, bởi lẽ những hồ sơ chính thức của Nhật
Bản hoặc Hoa Kỳ không thể dùng làm tài liệu được.
Tài liệu có giá trị
đặc biệt là nhật ký chiến đấu của cựu đại tá phi công Hải quân Masahisa Saito.
Đại tá Saito, cấp chỉ huy của Sakai ở Lae, đã ghi chép tỉ mỉ các biến cố xảy ra
trong suốt thời gian ông chiến đấu tại khu vực nầy. Vì đây là một quyển nhật ký
cá nhân nên không phải đệ trình lên Tổng Hành Dinh Hoàng Gia, Fred Saito và tôi
xem nó như là một tài liệu đơn độc có giá trị nhất của cuộc không chiến trên
Thái Bình Dương.
Có một khuyết điểm
vào lúc đó, là các sỹ quan hầu như không báo cáo những khó khăn vấp phải trong
khu vực chỉ huy tiền tuyến của họ về tổng hành dinh hậu phương. Sự kiện đặc
biệt thường xảy ra trong hệ thống chỉ huy của Hải Quân Hoàng Gia. Nhật ký cá
nhân của đại tá Saito đã ghi lại đầy đủ chi tiết con số phi cơ trở về hoặc
không trở về từ các phi xuất được thực hiện hầu như hàng ngày ở mặt trận New
Guinea. Ông cũng ghi lại nhiều cuộc chiến thắng của phi công Hoa Kỳ với sự
chứng kiến trực tiếp của ông. Đại tá Saito vẫn còn sống, và những cuộc phỏng
vấn kéo dài với ông đã chứng tỏ sự giá trị của quyển sách này.
Trung tá phi công
hải quân Tadashi Nakajima, nhân vật xuất hiện hầu như trong suốt quyển sách
nầy, hiện thời là một đại tá trong tân Không lực Nhật Bản. Qua nhiều cuộc tiếp
xúc với đại tá Nakajima, ông đã cung cấp cho chúng tôi nhiều dữ kiện cần thiết
nhất. Đồng thời giúp chúng tôi nhận được sự giúp đỡ lớn lao của trung tướng
Minoru Genda, nguyên là một đại tá phi công Hải quân và là người đã chỉ huy
Sakai trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
Chúng tôi cũng
mang ơn đại tá Masatake Okumiya hiện thời là giám đốc cơ quan tình báo kiêm tham
mưu trưởng hỗn hợp Nhật Bản.
Đại tá Okumiya,
một trong những người cộng tác với tôi để viết 2 quyển “Zero” và “Chiến đấu cơ
Zero”, đã tham dự nhiều trận không chiến hơn bất kì sỹ quan Nhật Bản nào khác,
và vào năm cuối của cuộc chiến, ông đã chỉ huy công việc phòng không nội địa
của Nhật Bản. Qua các cố gắng của ông, chúng tôi mới được xem qua những hồ sơ
cần thiết trong các văn khố của Bộ Hải Quân Hoàng Gia trước kia.
Tôi thấy cũng cần
phải nói qua thái độ của Sakai đối với đời sống hiện tại của anh, trong tư cách
một phi công đại tài nhất của Nhật Bản còn sống sót. Sakai cảm thấy rằng sở dĩ
anh còn sống sót trong cuộc bại trận và trong những trận không chiến từ năm
1943 trở về sau đó, chỉ là may mắn. Có nhiều phi công Nhật Bản đại tài khác
như: Nishizawa, Ota, Takatsuka, Sasai v.v... những người đã chiến đấu cho đến
khi các trận không chiến quá chênh lệch đã hạ gục họ.
Đây là những lời
nói sau chiến tranh của Sakai:
“Hồi ở trong Hải quân Hoàng gia Nhật Bản, tôi
chỉ biết một đường lối duy nhứt là làm sao để điều khiển một chiếc chiến đấu cơ
và làm sao để tiêu diệt cho nhiều kẻ thù của xứ sở tôi. Việc này tôi đã làm gần
5 năm, ở Trung Hoa và trên Thái Bình Dương. Tôi không biết đời sống nào khác.
Tôi là một chiến sỹ của không trung.
Với cuộc đầu hàng, tôi bị quăng ra khỏi Hải quân. Mặc
dù người mang đầy thương tích và thời gian phục vụ khá lâu, tôi không được lãnh
một món tiền trợ cấp nào cả. Chúng tôi là những kẻ trắng tay, và tiền hưu bổng
hoặc trợ cấp tàn phế chỉ được dành cho những cựu chiến binh của một quốc gia
chiến thắng.
Ngay cả việc ngồi trên ghế lái phi cơ tôi cũng bị nhà
cầm quyền chiếm đóng cấm đoán, không cần biết đó là loại phi cơ gì. Trong 7 năm
chiếm đóng dài đằng đẵng của Đồng Minh, từ năm 1945 đến 1952, tôi bị cấm nhận
lãnh bất kì chức vụ công nào. Việc này không có gì khó hiểu, tôi từng là một
phi công chiến đấu.
Sự kết thúc của cuộc chiến Thái Bình Dương chỉ mở ra
cho tôi một cuộc xung đột, còn tồi tệ hơn bất kì cuộc xung đột nào mà tôi đã
từng gặp trong khi chiến đấu. Có nhiều kẻ thù mới và ghê gớm hơn, nghèo khổ,
bệnh tật, bịnh hoạn và bao nỗi bực bội khác. Nhà cầm quyền chiếm đóng đã xây
một hàng rào sừng sững quanh tôi. Hai năm của một kẻ lao động chân tay nhọc
nhằn nhứt, tôi chui rúc trong các khu ổ chuột, với quần áo đầy chí rận và hiếm
khi no lòng.
Một cú đấm chí tử: cái chết của người vợ thân yêu nhất
của tôi do bịnh hoạn gây ra. Dưới những trận mưa bom, dưới những hiểm nguy của
cuộc chiến, Hatsuyo đã tồn tại. Tuy nhiên nàng không thể nào thoát khỏi tay kẻ
thù mới này.
Cuối cùng, sau nhiều năm thiếu thốn, đói khổ tôi đã
góp nhóp dành dụm tiền để mở ra một quán ăn nhỏ. Có công mài sắt... và ít tia
sáng đã nhìn thấy trước mắt.
Tôi đi tìm ngay góa phụ của đề đốc Takijiro Onishi, mà
tôi đã gặp nhiều tháng trước đây. Đề đốc Onishi đã mổ bụng tự sát ngay sau cuộc
đầu hàng vào năm 1945. Ông không muốn sống trong lúc những người nhận tử lệnh
của ông không bao giờ trở về. Bởi lẽ, cha đẻ của Thần Phong Kamikaze không ai
khác hơn là Onishi.
Đối với tôi bà Onishi còn hơn là một góa phụ của một
vị đề đốc, bà chính là người dì của trung úy Sasai, một người bạn thân nhất của
tôi. Sasai đã bay vào cõi chết trên không phận New Guinea giữa lúc tôi còn nằm
trong một bệnh viện.
Nhiều năm nay bà Onishi tàn tạ, rách rưới, lang thang
xin ăn trên đường phố. Tôi xúc động khi nhìn thấy thân thể gầy gò của bà ghém
trong manh áo tả tơi, nhưng tôi không biết cách nào để giúp đỡ.
Bây giờ, với một quán ăn nhỏ, tôi cố thuyết phục bà
đến làm việc với tôi. Công ăn việc làm của chúng tôi sớm phát đạt. Tôi lại để ý
tìm kiếm và mang về cơ sở thêm nhiều góa phụ khác, cũng như một số anh em của
những người bạn thân đã từng bay với tôi và chết trận trước đây.
Cũng may, mọi việc đều biến chuyển. Hiện thời chiến
tranh đã chấm dứt hơn 10 năm rồi. Cơ sở của chúng tôi càng ngày càng phát đạt
và những người làm việc với tôi đã phục hồi lại nếp sống của họ.
Quả thật, những năm sau này là những năm đầy lạ lùng
đối với tôi. Trong tư cách khách mời danh dự, tôi được lên thăm viếng một số
hàng không mẫu hạm và các tàu chiến khác của Hoa Kỳ. Việc thay đổi bất ngờ từ
những chiếc chiến đấu cơ Zero, Hellcat cổ lỗ sang các phản lực chiến đấu cơ tối
tân khiến tôi kinh ngạc. Tôi đã gặp những người từng đối đầu với tôi trên
không, ngồi bên nhau nói chuyện, và tìm thấy tình thân mật.
Nhiều lần tôi được mời cộng tác với tân không lực Nhật
Bản, nhưng tôi đã từ chối. Tôi không muốn trở lại quân đội, tôi không muốn quá
khứ sống lại trong tôi.
Nhưng bay, cũng giống như bơi lội, không dễ gì quên
được. Tôi đã ở trên mặt đất hơn 10 năm. Tôi luôn luôn thấy như mình đang rờ mó
lại tất cả những dụng cụ trên phi cơ tất cả những gì mà người phi công đã biết.
Không, tôi không bao giờ quên được nghề bay. Nếu Nhật
Bản cần tôi, nếu quốc gia của chúng tôi bị đe dọa xâm lăng, tôi lại bay nữa.
Nhưng tôi chân thành cầu nguyện rằng đó không phải là lý do để tôi trở về với
bầu trời cao”.
Saburo Sakai - Martin
Caidin.
Đông Kinh, 1956 - New
York, 1956.
Chương 1
Trên hòn đảo chính
Kyushu ở cực Nam Nhật Bản, thành phố Saga nhỏ bé nằm giữa lộ trình đưa đến hai
trung tâm quan trọng, mà những năm gần đây đã trở thành quen thuộc đối với hàng
nhiều ngàn người Mỹ. Ở Sasebo có căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ với hầu hết hạm đội đã
tham dự vào cuộc chiến Triều Tiên, và từ các phi trường ở Ashiya, chiến đấu cơ
và oanh tạc cơ Mỹ cất cánh bay ngang qua eo biển nhỏ hẹp Tsushima để tấn công
quân Trung Cộng và Bắc Hàn.
Các cuộc viễn
chinh xuyên eo biển Tsushima không phải mới mẻ gì đối với thành phố Saga. Tổ
tiên của chúng tôi đã từng có chân trong lực lượng Nhật Bản, phát xuất từ Saga,
xâm chiếm Triều Tiên vào năm 1592. Hình ảnh của cuộc xung đột mới ở Triều Tiên
không phải là không có trước đây. Cuộc chiến Nhật Bản - Triều Tiên thời Trung
Cổ, năm 1597, đã bị đẩy vào nước bí sau khi triều đình nhà Minh tung lực lượng
Trung Hoa vào phía Triều Tiên, giống như hành động của Trung Cộng ở cuộc chiến
hiện đại.
Như vậy, giòng họ
của tôi có một nguồn gốc binh nghiệp, và trải qua nhiều năm, tổ tiên của tôi đã
trung thành phục vụ lãnh chúa Saga cho đến kỳ Trung Ương tập quyền vào thế kỷ
XIX, tất cả lãnh chúa đều qui về tay Thiên Hoàng.
Trong thời phong
kiến, dân chúng Nhật Bản chia ra làm bốn giai cấp, giòng họ tôi được hưởng đặc
quyền của giai cấp cầm quyền, đó là giai cấp Samurai. Sống cách biệt hẳn với
các giai cấp khác, giới Samurai kiêu hãnh không quan tâm đến các vấn đề riêng
tư, họ tận tụy với công việc điều hành chính quyền địa phương, và luôn luôn
chuẩn bị các biến cố đòi hỏi lòng dũng cảm chiến đấu của họ. Vị lãnh chúa sẽ
đảm bảo đời sống của các Samurai, họ không cần chú ý đến gia sản hoặc lợi lộc
nào khác.
Việc phế bỏ các
giai cấp vào thế kỷ XIX như một cú đấm chí tử nện vào giới Samurai đầy kiêu
hãnh. Chỉ một cú đấm, tất cả những đặc quyền trước đây của họ đều bay hết, và
họ bắt buộc phải chuyển sang nghề buôn bán, nghề nông. Họ không thể nào thích
nghi với đời sống mới.
Có lẽ vì vậy mà
hầu hết Samurai trở nên nghèo khốn, cố gắng tìm miếng ăn bằng những nghề lao
động ti tiện nhứt, hoặc quần quật suốt ngày trên mảnh đất nhỏ bé của họ. Đời
sống của ông nội tôi không hơn gì các bạn hữu của ông. Khi rời nghiệp võ, ông
được cấp cho một nông trại nhỏ. Ở đó, ông đã quần quật sống một cách thống khổ,
và ở đó vào ngày 26 tháng 8 năm 1916, tôi chào đời. Ba tôi có 4 trai, 3 gái,
tôi thứ ba.
Mỉa may thay, tôi
lại bước trên con đường gần gũi với con đường mà ông nội tôi đã đi qua. Khi
Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh tháng 8 năm 1945, tôi là phi công dẫn đầu các phi
công hạ trên 10 phi cơ địch còn sống sót của xứ sở tôi. Tôi đã chính thức đốn
ngã 64 phi cơ địch trong các trận không chiến. Tuy nhiên, với sự kết thúc của
chiến tranh, tôi bị sa thải khỏi Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản và bị cấm nhận bất
kì công việc nào của chính phủ. Không một xu dính túi, không nghề không nghiệp,
tôi không thể tìm được một việc làm thích hợp trong một thế giới mà tất cả đều
đổ nát quanh tôi. Giống như ông nội của tôi, tôi đã sống bằng sức lao động chân
tay, nhọc nhằn không kể xiết. Nhiều năm phấn đấu gay go, tôi tìm cách dành dụm
đủ số tiền để mở một nhà ăn nhỏ và lấy đó làm sinh kế...
Công việc trồng
trọt nhọc nhằn trên mảnh đất nhỏ bé của gia đình oằn xuống đôi vai của má tôi,
người đã bỏ cả một đời cho 7 đứa con. Khi tôi lên 7, gánh nặng trên vai má tôi
oằn thêm, vì người trở thành góa phụ. Những gì mà tôi nhớ về má tôi vào thời
gian đó là hình ảnh một người đàn bà cần cù làm việc, còng lưng hết giờ này sang
giờ trên thửa đất dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, với đứa con gái nhỏ nhất
đai trên lưng.
Người đàn bà ấy,
không bao giờ tôi nghe hở môi than thở một lời. Bà là một trong những người can
đảm nhứt mà tôi từng thấy, một mẫu người Samurai, kiêu hãnh và cứng rắn, nhưng
không phải là không có một trái tim biết xúc động.
Thỉnh thoảng tôi
bị bọn học sinh lớn tuổi đánh đập, tôi khóc sướt mướt trở về nhà. Những giọt
nước mắt của tôi không làm má tôi động lòng, người còn nhíu mày và gay gắt nói:
“Con không biết xấu hổ à! Đừng quên con là con trai
của một Samurai, con không được quyền khóc”.
Lúc còn theo học
trường tiểu học trong làng, tôi chăm chỉ học hành và luôn đứng đầu lớp trong
suốt 6 năm. Nhưng con đường học vấn xa hơn nữa của tôi quá mù mịt. Điều quan
trọng là nếu muốn học cao hơn nữa, gia đình học sinh phải đài thọ tiền bạc. Dĩ
nhiên, điều này quá khả năng đối với gia đình tôi, vì chỉ lo ăn, lo mặc cũng
vẫn chưa đủ. Tuy nhiên, bất ngờ người chú bà con xa của tôi ở Đông Kinh đề nghị
lo liệu hết mọi khoản phí học hành của tôi. Gia đình tôi đã chấp nhận lòng tốt này
không một chút đắn đo. Chú tôi là một viên chức có địa vị ở Bộ Giao Thông, và
đề nghị của ông: ngoài việc nuôi ăn học còn nhận tôi làm con nuôi. Chúng tôi
tiếp đón dịp may này với lòng biết ơn.
Khắp nước Nhật,
lãnh địa phong kiến Saga là một trong những lãnh địa nghèo nhất. Trải qua nhiều
thế hệ, giai cấp Samurai ở Saga đã sống một đời sống khắc khổ, và nổi tiếng nhờ
kỷ luật bản thân nghiêm ngặt của họ. Saga là tỉnh lỵ duy nhứt xem Bushido (tức
tâm niệm của giới Samurai) như là một giáo lý. Một trong những câu chánh yếu
của tâm niệm nầy:
“Samurai đã sống một đời sống như vậy, hắn luôn luôn
chuẩn bị để chết”.
Trong những năm
chiến tranh, những tâm niệm Bushido đã trở thành sách giáo khoa cho tất cả học
đường Nhật Bản. Chúng đã thâm nhập vào tôi, và giúp tôi rất nhiều trong đời
sống lúc còn đi học, cũng như những năm chiến đấu sau nầy.
Mọi thứ ở Đông
Kinh đều làm tôi ngơ ngác. Tôi chưa bao giờ biết qua một thành phố lớn nào hơn
Saga, với 50.000 dân cư của nó. Sự ồn ào náo nhiệt ở thủ đô Nhật Bản khó có thể
tưởng tượng nổi. Với tiếng động ầm ĩ suốt ngày, những tòa nhà vĩ đại và mọi
hoạt động khác, có thể nói nơi đây là một trong những thành phố lớn nhất thế
giới. Tôi cũng nhận thấy Đông Kinh vào năm 1929 là một nơi chốn ganh đua trên
mọi lĩnh vực, không chỉ các học sinh đã ra trường ganh đua một cách gay go để
tìm chỗ làm, nhưng ngay cả các học sinh nhỏ cũng ganh đua ráo riết để giành
giựt cho được một chỗ ngồi trong mấy học đường danh tiếng.
Những tưởng những
gì tôi đã đạt ở thôn quê đã là giỏi giang và dư sức có được chỗ học. Tôi nghĩ
rằng sự phi thường của tôi trong tư cách là một học sinh dẫn đầu lớp trong suốt
cả 6 năm ở bậc tiểu học. Nhưng ở đây, tôi không bao giờ đối đầu nổi với các học
sinh cặm cụi đèn sách ngày đêm, luôn luôn rình mò để đánh bại các bạn đồng lớp
của mình. Các trường trung học chọn lọc ở Đông Kinh, đều tuyển chọn những học
sinh xuất sắc của các trường tiểu học. Hơn nữa cứ 30 học sinh dự tuyển chỉ chọn
1 học sinh là cùng.
Đó là điều không
thể nào ngờ đối với một đứa trẻ nhà quê như tôi. Không khí náo loạn và xa lạ này
đã khiến tôi ngơ ngác. Không hy vọng vô học trong các học đường danh tiếng, tôi
đành ghi tên vô trường Aoyama Gakuin, do các nhà truyền giáo Hoa Kỳ thiết lập
nhiều năm trước đó. Mặc dù trường nầy không nổi danh bằng các trường khác,
nhưng nó cũng có chút ít tiếng tăm.
Đời sống của tôi
trong gia đình người chú rất dễ chịu. Mặc dù chú tôi nghiêm khắc, ít chú ý đến
con cái, nhưng mợ tôi và mấy đứa em bà con của tôi tỏ ra tử tế và thân mật.
Trong không khí vui vẻ này, tôi lại bắt đầu những ngày của một học sinh trung
học, với lòng đầy nhiệt thành và tham vọng. Tôi nhứt quyết phải luôn luôn đứng
đầu lớp.
Không đầy một tháng
sau, giấc mộng của tôi tan biến. Hy vọng dẫn đầu lớp như trước kia của tôi đã
vỡ thành từng mảnh. Việc này hiển nhiên không chỉ do lỗi mấy ông thầy trường
làng của tôi mà cũng do chính tôi nữa. Tôi nhận thấy có nhiều học sinh chưa bao
giờ đứng đầu lớp hồi còn ở tiểu học lại học giỏi hơn tôi khi lên bậc trung học.
Điều này khó tin, nhưng là sự thật. Bởi lẽ họ biết nhiều thứ mà tôi không biết
cho dù tôi cố học ngày học đêm, tôi cũng không thể nào tiến bộ mau lẹ hơn họ
được.
Kỳ thi đệ nhứt lục
cá nguyệt chấm dứt vào tháng Bảy. Hạng trung bình trong kết quả học của tôi
khiến chú tôi thất vọng não nề, và gây nhiều chán nản, tôi biết sở dĩ chú tôi
đài thọ tất cả tiền bạc ăn học cho tôi vì ông cảm thấy tôi là một đứa trẻ đầy
hứa hẹn, có thể luôn luôn đứng đầu lớp. Sự bất mãn của ông không thể nào phủ
nhận được. Do đó, thời gian nghỉ hè, tôi cắm đầu cắm cổ lo học. Trong khi các
bạn đồng lớp vui chơi, tôi miệt mài đèn sách, quyết định lấp đầy khoảng trống
học vấn của mình. Nhưng niên học bắt đầu vào tháng Chín đã chứng minh các nỗ
lực của tôi là vô ích. Tôi không đạt được một tiến bộ nào.
Việc học hành gặp
hết thất bại này đến thất bại khác đã làm cho tôi tuyệt vọng cùng cực. Không
những các môn học của tôi chỉ đứng trung bình trong lớp, mà ngay cả những môn
thể thao tôi cũng thua sút mọi người. Rõ ràng có nhiều học sinh trưởng thành
nhanh nhẩu, hoạt bát hơn tôi.
Thay vì tiếp tục
cố gắng để vượt qua các bạn đồng học xuất sắc trong lớp, tôi làm bạn với một số
học sinh kém cỏi. Tôi cầm đầu bọn nầy, và sau đó tôi bắt đầu khai chiến với các
học sinh lớn tuổi. Không ngày nào tôi không tìm cách đánh nhau với họ. Hầu như
mỗi đêm tôi đều về nhà với mình mẩy bầm dập. Tuy nhiên, tôi đã giấu kín những
cuộc phiêu lưu này một cách kín đáo.
Cú đấm đầu tiên
giáng xuống vào cuối niên học của tôi. Một bức thư của thầy học thông báo cho
chú tôi biết tôi là một “học sinh cần phải lưu tâm”. Điều tốt nhất mà tôi có
thể làm là bỏ qua những trận đấm đá không quan trọng, nhưng tôi không bỏ qua
những phương cách chứng tỏ rằng tôi là một học sinh “tốt hơn” các học sinh lớn
tuổi. Vì vậy, những bức thư của thầy dạy tôi tiếp tục bay về nhà nườm nượp, và
cuối cùng, chú tôi được mời đến trường để nghe báo cáo trực tiếp về hành vi xấu
xa của tôi.
Tôi chấm dứt niên
học thứ nhì hầu như ở cuối danh sách. Như vậy, đối với chú tôi cũng đã quá
nhiều rồi.
Những bài “lên
lớp” của ông càng lúc càng gia tăng thịnh nộ, và bây giờ quyết định của ông là
không cho tôi ở Đông Kinh nữa.
Lời nói sau cùng
của chú tôi:
“Saburo, chú chán rầy la cháu rồi, và chú
thấy không thể làm gì khác hơn, nhưng dù sao hình như chú đã làm cho một người
con đầy kiêu hãnh của giòng họ Sakai đi vào con đường quấy. Cháu nên trở về
Saga”.
Không biết làm sao
hơn. Tôi không thốt ra một lời bào chữa nào, vì những điều chú tôi nói đều đúng
sự thật. Tôi nhận tất cả phần lỗi về tôi. Nhưng tôi không để lộ vẻ gì gọi là
tủi hổ khi phải trở về Saga. Tôi quyết định dấu kín nỗi lo lắng, nhứt là với
con gái của chú tôi, Hatsuyo, người mà tôi rất yêu mến. Tôi lên đường, như là
một chuyến về thăm gia đình ở Kyushu.
Tuy nhiên, đêm đó,
khi xe lửa rời nhà ga Trung Ương Đông Kinh trực chỉ 800 dặm đến Saga, tôi không
thể nào cầm được nước mắt. Tôi đã làm cho gia đình tôi thất vọng, và tôi cảm
thấy sợ hãi khi phải trở về nhà.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét