Một Vụ Bắt Rượu Lậu
Tác giả: Nguyễn Tuân
Lũ dân cày ở làng Phong Cốc, bây giờ thực
không còn lấy cớ gì để phàn nàn với nhau trong luỹ tre xanh và với người ngoài,
ở giữa những chợ đông, rằng quan trên không săn sóc tới.
Đấng phụ mẫu của họ là quan Phủ Thiệu Hóa -
làng Phong Cốc, thuộc về Thiệu Hóa phủ, Thanh Hóa tỉnh - những khi hành hạt qua
đó thường vẫn không quên bảo với thầy Đề rằng nên tạt vào đấy mươi lăm phút để
xem cái dân khí vùng đó lâu nay ra sao.
Ở đình làng, trong những ngày này, hương chức
kỳ cựu đều được quan phủ khuyến khích họ nên giảng giải cho lũ đàn em về cái đức
làm dân đối với bề trên không được tỏ vẻ kháng cự, và cái đạo làm dân trong một
nước thái bình, ở một thời yên lặng phải đóng sưu thuế, theo tạp dịch cho đều đều.
Nếu sự phục thiện của dân là kết quả một phần thì càng nên gắng nữa lên cho được
mười phần, càng nên cố sức nữa lên mãi mãi. Rồi Nhà nước sẽ thương tới, và quan
Phủ hứa thêm rằng ngài đã bẩm tỉnh cho, thì tha hồ mà được nhờ...
Nhưng lúc quan Phủ gần trẩy đi sang làng
khác, ngài vẫn không quên bảo thầy Lý mới, như mấy lần trước:
- Thầy nên coi chừng đến công việc của thầy
và sự hành động phi pháp của dân làng. Trách nhiệm của thầy nặng lắm đó! Thầy
giữ việc làng thay thầy Lý trước (bị chết một cách rất thê thảm và chẳng vinh dự
gì) trong khi thừa hành công vụ, chắc thầy rõ phận sự của thầy trong lúc này,
hơn ai hết thẩy.
Thầy Lý run lẩy bẩy, chỉ biết mồm “dạ dạ”
đưa mãi hai bàn tay chắp lên khỏi ngực. Thầy không dám nhìn thẳng vào quan và
thứ nhất là nhìn vào ông Đề ngồi gần ngang hàng với quan; trong một lúc nhốn
nháo ở đình lúc quan mới tới làng, thầy Lý đã dám liếc trộm ông Đề khi ngài này
sai bác Cửu châm đóm để ngài hút thuốc lào vào điếu gióng của quan Phủ, có cái
xe trúc uốn cầu vồng dài đến gần bốn thước ta. Ông Đề cặp mắt sáng như tia lửa,
những lúc nheo nheo mí mắt lại, thì không khác gì mắt con vọ lúc ở trên cành
cây gạo chú mục nhìn đống thịt chết ở mặt đất. Thầy Lý tin rằng nếu ngấc mắt
lên mà đụng gặp phải nhỡn tuyến của ông Đề già thì sẽ bị thôi miên mất; và thôi
miên thuật kia sẽ bắt thầy phải tường tận cung khai gia sản nhà mình ra xem của
chìm là bao nhiêu và của nổi là bao nhiêu, để ông Đề vui vẻ trả lời bằng ý nghĩ
rằng có một ngày rất gần đây, chúng nó sẽ phải thay đổi chủ và thầy thì cố
nhiên là sẽ mất quyền sở hữu ấy.
Nghĩ đến đấy, thầy Lý càng không dám giữ đầu
mình cho thẳng thắn, chỉ biết cúi mặt xuống đất hết nhìn đôi ủng da tây của
quan Phủ, đôi guốc kính của ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc
này thực là một hóa thân của sự sợ hãi. Thầy chỉ biết dạ, dạ mãi, để đáp lại những
lời đanh thép mà thầy chỉ hiểu một cách mang máng. Bỗng thầy giật bắn mình khi
nghe thấy quan gắt:
- Cái anh Lý này “chướng” quá. Người ta hỏi
thầy xem số rượu dân làng uống trung bình trong những ngày thường chênh lệch với
những ngày tế lễ như xuân tế, thu tế hoặc vào đám ăn chạ là độ bao nhiêu, mà thầy
cứ dạ là nghĩa lý chi? Vô lý quá!
- Dạ bẩm ông Lớn, về việc dân làng con uống
rượu, con cũng không lấy gì cho tường lắm. Dạ, con mới được dân cho con ra thay
anh Lý bất hạnh của con được độ mấy tháng.
Câu trả lời của thầy Lý có vẻ đần độn một
cách lừng khừng gần giống như lời bướng bỉnh thốt ra ở cửa miệng những dân cứng
đầu cứng cổ. Tuy rằng là thực thà, nhưng thầy Lý cũng vẫn đủ trí khôn nhận rằng
có lẽ nó sẽ làm cho quan Phủ đến phải nổi trận lôi đình. Mà quả như thế thực.
Thầy Lý hiền lành kia nghĩ đúng đấy. Vì quan Phủ đã biến sắc mặt, làm om cả
đình làng:
- Thầy làm việc quan như thế hỏng, hỏng to.
Đừng nói chi đến chuyện nay mai thầy mong được nhà nước cho tưởng lục hay là
mong điền vào chân chánh phó cai tổng khuyết: Nếu anh không thay đổi cách làm
việc thì cái triện lý trưởng của anh cũng khó lòng mà dắt cho được lâu đâu. Việc
dân trong làng uống rượu mà thầy mù tịt như vậy, thì chết thật. Thầy làm việc
không được mẫn tiệp rõ quá rồi. Nếu ta không thương anh, đem một việc này mà bẩm
tỉnh thì liệu anh có còn giữ được đồng triện không?
Ấy thế rồi quan và ông Đề và lính tráng trẩy
đi để một lũ kỳ cựu hương chức làng Phong Cốc đưa mắt nhìn nhau và nhìn ông Lý
vừa bị quan quở. Thầy Lý đâm mê và toát mồ hôi. Mồ hôi thấm qua cái áo lụa nâu
già và làm đẫm cả lưng chiếc áo the dài mầu nước dưa.
Thầy Lý ra khỏi đình làng. Trận gió bấc thổi
rụng lá vàng, thổi bay tà áo thầy và lớp mồ hôi gặp gió lạnh càng se đến đâu
càng làm cho thầy lạnh “trông thấy” đến đấy. Với không khí lạnh lẽo ở ngoài trời,
thầy thấy trong mình bớt bừng bừng và lúc về tới nhà, thì thầy đã lấy lại được
sự trật tự hoàn toàn cho bộ óc vừa bị kích động mạnh.
Vào đến nhà, bỏ khăn áo, thầy nằm vắt tay
nghĩ. Thầy bỏ bữa cơm ngon có rượu ngâm thuốc, có món nhắm tết. Trông thấy rượu,
thầy sực nhớ ra vì câu chuyện ban nãy mà thầy bị quở ở giữa làng. Thầy điên tiết
lên muốn đem lẳng “mẹ nó”, cả chai, cả nậm ra ngoài ao.
Bà vợ thấy chồng có thái độ lạ lùng, khác mọi
ngày, dám chê cả món thịt dê bóp tái và bánh tráng vừng bà công phu mua tận chợ
bên sông gặp ngày phiên, vội đón hỏi:
- Làm sao thế? Nghe nói quan về làng ta định
bắt dân mở trường và khai giếng thêm phải không? Sao lại bỏ bữa rượu? Thằng Kha
nhà theo tôi sang chợ ngoan lắm.
- Mở trường, khơi giếng! Ai bảo thế? Đình với
giếng gì? Việc triều đình nhà nước, u mày biết gì mà hỏi! Cất rượu đi!
Thầy Lý bỏ mặc vợ tưng hửng đang lủi thủi lấy
lồng bàn đậy mâm cơm để dành. Thầy đang lo đến cái tiền trình của tên Lý trưởng
vừa bị quan hạch là không đầy đủ bổn phận. Thầy càng ngẫm kỹ mấy câu quan vừa
nói ban nãy thì ra cái chân lý trưởng của thầy là bấp bênh. Nó như cái thế quả
trứng bị để ở đầu đẳng, sớm tối vỡ lúc nào không hay. Rồi thầy lại lẩn thẩn
nghĩ đến chuyện những chức phận ti tiểu lúc quên tạ ơn những vị đỡ đầu thì bị
quan thầy báo thù lại như thế nào... Nhưng không, thầy Lý nhớ rõ ràng rằng thầy
đã được quan Phủ ban cho thầy cái vinh dự bắc ghế đẩu ngồi gần quan trong tư thất,
sau khi quan đã rủ lòng thương nhận cho thầy cái phong bì “lễ mọn” mà thầy khom
khom mình cúi dâng lên bề trên bằng sự thành kính của kẻ biết ơn và tạ được ơn.
Thầy còn nhớ như in vào ruột những câu của quan giảng dụ hôm đó vồn vã ôn tồn
và những cách quan coi thầy như là đầy tớ tay chân... Thầy Lý đưa tay qua trán,
nhắm mắt lại, tưởng lại những phút ấy mà thầy rạo rực cả người. Sướng quá, thầy
tự hỏi mình rằng cái số phận tầm thường của một người lý trưởng được hưởng những
phút như phút ấy độ mấy lần trong một đời? Thầy so sánh quan Phủ hôm ấy và quan
Phủ hôm nay sao khác hẳn đi? Không có lẽ quan nhiều việc đến nỗi quên hẳn là
mình đã tạ lễ? Phải, không có thể như thế được. Thầy lại cho rằng hay tại mình
tạ thiếu. Nhưng không, vì hôm đó, quan đã khen thầy một câu: “Anh Lý người linh lợi lắm. Anh đưa túc số
như thế này, tôi tiêu nó thành được món”. Nếu thế thì là nghĩa lý gì, và
nguy hiểm quá nhỉ! vì ai còn biết manh mối đằng nào mà tìm, mà kiếm. Trong ba,
bốn ngày liền, thầy Lý cứ ăn kém đi vài bát cơm, ngủ kém đi vài canh dài, với
những ý nghĩa ấy nó không tha ám ảnh thầy.
Rồi, một buổi trưa kia, thầy vừa bỏ mẩu triện
đồng vào tráp đen, thì thấy lũ trẻ làng đang reo ầm lên ngoài cổng:
- A...a...a... Tây về! Có Tây về làng ta!
Thầy Lý thấy khác trong người, vì không biết
tại sao thầy nghĩ ngay tới sự chẳng lành sẽ xẩy ra. Thầy đang sửa lại khăn áo,
sắp ra xem là chuyện gì thì con chó mực ở sân gân cổ lên trời sủa váng cả nhà
lên. Một tốp người quần, áo, mũ, giầy, vàng khè một mầu ca-ky, đã tiến vào nhà,
đứng đầy cả sân. Thầy Lý nhìn họ: người nào cũng oai phong lẫm liệt, người cầm
thuốn sắt, kẻ đeo túi da đựng súng lục liên. Thầy lẩm bẩm: “Thôi bỏ mẹ, lại
lính Đoan” và tiến ra sân.
Lính đoan thấy ông Lý ra vội xúm cả lại
chung quanh cứ đặc cả lại như là đàn muông săn lúc vây được con sói rừng, đều một
loạt nói bô bô:
- Trong làng có rượu lậu! Ông đi ngay! Cô cả
quan Đoan về đấy!
Bấy giờ thầy Lý mới biết là có cả quan Tây
Thương chính về nữa. Thầy vội chạy ra vái dài quan Đoan, người Tây, tay cầm ba
toong song, đứng ở gần cổng; rồi cả bọn kéo đi rất nhanh theo một ông đội đoan
có bộ râu “củ ấu” là người dẫn đường xem có vẻ thông thạo đường lối trong làng
lắm.
Đến ngõ đình, cả bọn ập vào nhà bác nhiêu Tỉn.
Thầy Lý trong bụng phập phồng và từ lúc đi đến giờ, thầy chỉ biết theo nhà Đoan
thôi. Lúc đến nhà nhiêu Tỉn, thầy mới hiểu rằng quan Đoan về bắt rượu lậu ở nhà
tên nhiêu Tỉn, một ngjười mà thỉnh thoảng vẫn đưa lại nhà thầy những chai rượu
khê rất ngon trong những ngày nhà ông Lý có kỵ dùng thứ rượu cúng rất tinh khiết.
Thầy Lý than thầm cho nhiêu Tỉn đã gặp sự
chẳng lành. Cảnh náo nhiệt bày ra trong nhà người bị Đoan vào nhà khám xét đã
chiếm hết cả giác quan thầy Lý.
Lính Đoan gọi rầm rĩ:
- Chủ nhà là nhiêu Tỉn đâu? Nhiêu Tỉn đâu?
Bỗng ông đội Đoan vừa reo, vừa chạy:
- Nó đây rồi! Các thầy mau theo bắt lấy.
Kia kìa, nó đang mang vò cơm chạy! Nó vừa mới vọt ra cổng ngang!
Lính Đoan chạy, cả quan Đoan, cả thầy Lý
cũng chạy theo một người nhà quê đang ôm một cái chĩnh chạy miết ra bờ ao gần
đình làng, cách họ độ ba chục bước.
Trẻ con khóc. Chó sủa. Đàn bà kêu, và các
ông già bà lão trố mắt, chống gậy “càng cua” đứng nhìn theo đám bụi mù bay.
Lúc thầy Lý theo kịp được nhà Đoan đến bờ
ao thì thấy thằng cha nhiêu Tỉn đang lõm bõm ở giữa ao, hai tay bưng một cái
chĩnh có nắp. Chung quanh bờ ao, người đứng vây đen ngòm. Quan Đoan vừa nhìn thầy
Lý vừa nhìn ông đội nói một hồi tiếng Tây dài, mặt đầy vẻ tức giận, dẫm chân
múa tay, trông dáng ghê sợ lắm. Ông đội Đoan chỉ thuốn xuống phía ao bèo, nói
chõ xuống người bưng chĩnh.
- Mày có muốn sống không? Nhiêu Tỉn, mày có
chịu lên không? Chúng ông mà xuống tóm được mày thì mày bỏ đời!
Nhiêu Tỉn ở giữa ao, mếu máo nói lên:
- Con lạy các quan, các quan tha cho con.
Các quan đừng giết con.
- Ai “giết” mày? Mày cứ đưa cái vò lên đây!
- Lạy các quan, con trót dại có làm ít
tương để ăn. Lạy các quan, thật con có dám đem bán đâu!
- Tương với mắm gì? Mày không lên, ông mà
phải lội xuống thì... thì...
- Con khổ lắm. Các quan tha cho con! Ôi mẹ
thằng Tỉn đâu, tao khổ lắm! Các quan làm tội tao, thì tao đổ tương xuống ao đây
này!...
- Này thằng kia, nếu mày đổ vò cơm kia xuống
ao, thì quan Đoan sẽ bắn mày! Mày định làm phi tang đi, hở?
Quan Đoan, đứng ở trên bờ vừa chửi rủa bằng
tiếng Tây, vừa rút súng lục, tay trỏ bấm sẵn cò, chĩa vào nhiêu Tỉn. Ông đội
Đoan đứng nói với về phía thầy Lý:
- Này ông Lý nếu nó dìm chĩnh cơm để mất
tang chứng rượu lậu, ông phải chịu một phần trách nhiệm đấy.
Thầy Lý hoảng cả người. Thầy lại càng hoảng
nữa khi thấy quan Đoan chĩa súng về phía mình. Rồi liên tưởng, thầy nhớ đến vụ
đổ máu vừa xảy ra trong làng cách đây mấy tháng: trong một vụ bắt bớ hàng lậu
do quan Đoan Bét-nắc-đê chỉ huy, ông Lý trước mà mình thế chân bây giờ đã bị đạn
Nhà nước nổ chết trong giây lát, giữa một lúc mà người ta bảo rằng nhà Đoan cần
phải chân chính tự vệ. Thấy quan Đoan mắt đỏ ngầu, mòm sùi bọt, quát tháo rầm cả
góc ao, thầy càng cuống cả lên. Mà dưới ao thằng cha nhiêu Tỉn vẫn cứ mếu máo
và van lơn các quan đừng xuống ao, và nếu xuống hắn dọa sẽ đánh chìm cái chĩnh
tương đi mất!
- Thế thì muốn sống mày phải lên ngay!
Tiếp lời ông đội, thầy Lý cũng bảo nhiêu Tỉn:
- Thì mày lên đi! Tao xin mày đấy! Mày làm
chuyện phi pháp để lụy cả đến lý trưởng làng mày! Mày định cho tao theo ông lý
trước hay sao? Mày không nhớ đấy à?
- Con lạy ông, ông xin cho con, không có
các quan giết con mất.
- Thì mày cứ lên đi, tao sẽ xin cho. Mày cầm
cho khéo cái vò kia, rồi lên ngay đi! Ừ, lên đằng phía quan Đội ấy.
Bao nhiêu cặp mắt đều nhìn vào nhiêu Tỉn
đang lõm bõm bưng cái vò bước lên bờ ao. Hắn run lập cập, vì ngâm nước lạnh thì
ít mà vì sợ nhà Đoan thì nhiều. Ông Đội giằng lấy tay hắn lôi lại phía mặt quan
Tây Đoan, và truyền cho hắn mở ngay nắp chĩnh ra. Hắn sợ hãi nhìn quan Tây
Đoan, nhìn ông Đội, nhìn ông Lý và lập cập mở nắp chĩnh. Thấy quan Tây Đoan đã
bớt giận, ông Đội cũng tươi tỉnh được nét mặt, bảo nhiêu Tỉn:
- Ông tưởng mày ở cả ngày ở dưới ấy! - Ông
lấy làm khoái trá khi nhìn vào trong lòng chiếc chĩnh. Nhưng sao ông lại cau mặt
lại và mũi hít mạnh, đánh hơi. Ông sấn sổ hỏi nhiêu Tỉn:
- Cái gì ở trong chĩnh?
- Dạ bẩm tương. Con có dám nói bậy đâu, con
làm có một ít để kho cá ăn ở nhà chứ thực không dám đem ra chợ bán.
Ông Đội tỏ vẻ khó chịu trình với quan Tây
Đoan rằng đấy là một thứ nước chấm của nhà chùa thường ăn chay và người An Nam
dùng với cơm. Quan Tây Đoan bắt ông Đội nếm và hỏi ông có dám quả quyết như thế
không. Ông Đội trả lời nhất định rằng trong chĩnh đó không có chất gì để làm rượu.
Thầy Lý thấy câu chuyện khám xét kết cấu một cách ngộ nghĩnh không ngờ như vậy,
phải hỏi nhiêu Tỉn:
- Thế sao lại bưng vò tương mà chạy? Các
quan khám rượu lậu kia mà! Ai bắt tương? Cái lý của anh gian lắm! Anh phải khai
cho rõ ràng ra kẻo phiền cho đến tôi lắm đấy!
Nhiêu Tỉn hoàn hồn, khai với thầy Lý:
- Con thấy người làng đi chợ về, dạo này đồn
rằng nhà nước đánh thuế cả tương và nước mắm, con thấy tương của con làm không
có giấy phép nên con sợ, con phải chạy đem vứt đi...
Lúc sự yên lặng đã trở lại trong làng và mọi
người đã ngặt nghẽo cười khi giải tán - trừ nhà Đoan rời làng Phong Cốc với nỗi
tức bực thì trời đã xế bóng.
Bác nhiêu Tỉn cũng mỉm cười
bưng chĩnh tương về nhà, trong bụng nghĩ thương vợ phải một phen chạy rượu lậu
vất vả, và không biết vợ đã đem giấu kín vò cơm ở đâu đây. Bác tự nghĩ nếu
không có chĩnh tương này thì chỉ có Trời mới gỡ nổi cho bác khỏi ở tù.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét