Các Hung Thần Lên Cơn Khát
Tác giả: Anatole France
Dịch giả: Trần Mai Châu
Nhà xuất bản Văn học - 2015
XXI
Trong thời gian này, vẫn trong chiếc áo
khoác màu xanh vỏ chai, Julie Gamelin ngày nào cũng tới khu vườn cạnh lâu đài
Luxembourg. Ngồi trên một chiếc ghế dài ngay đầu một lối đi, chị đợi người tình
xuất hiện ở một khung cửa sổ nhỏ. Họ làm dấu, trao đổi ý nghĩ bằng thứ ngôn ngữ
không lời do họ sáng chế ra. Nhờ đó chị biết anh đang sống ở một phòng khá tốt
cùng với những con người dễ chịu, anh đang cần một cái mền, một chiếc bình chườm
và anh tha thiết yêu chị.
Chị không phải là người duy nhất đến gần
tòa lâu đài đã biến thành nhà tù này để nhìn lại một khuôn mặt thân yêu. Một bà
mẹ còn trẻ ngồi gần chị cũng dán mắt vào một cửa sổ đóng kín và ngay khi cửa vừa
mở, đã vội nâng đứa con nhỏ lên khỏi đầu. Một bà già mặt che mạng đăng ten, ngồi
im hàng giờ trên chiếc ghế xếp đợi một cách vô vọng anh con trai đến tận lúc vườn
đóng cửa trong khi anh chơi đánh đáo trong sân nhà tù vì sợ mủi lòng lúc trông
thấy mẹ.
Trong những buổi chờ đợi dài đằng đẵng dưới
bầu trời u ám hay trong xanh, có một người đàn ông đứng tuổi, khá mập, quần áo
tươm tất ngồi ở một chiếc ghế gần đấy; ông thường lấy hộp thuốc hay chiếc dây đồng
hồ ra nghịch, hoặc mở một tờ báo mà không hề đọc. Ông ăn mặc theo lối cũ của những
người tư sản, mũ ba vành có dải vàng, áo màu tím đỏ, gilê xanh thêu chỉ bạc.
Trông ông có vẻ thực thà, có lẽ là một nhạc sĩ nếu căn cứ vào đầu ống sáo thò
ra khỏi túi. Không lúc nào ông rời mắt khỏi con người bé nhỏ giả trai, luôn
luôn mỉm cười với anh, thấy anh đứng dậy cũng đứng dậy lủi thủi đi theo. Vì đau
khổ, cô đơn, Julie cũng thấy xúc động vì mối thiện cảm kín đáo của người đàn
ông tốt bụng.
Một hôm khi chị vừa ra khỏi vườn thì mưa bắt
đầu rơi. Người đàn ông lại gần chị và giương chiếc dù lớn màu đỏ đề nghị cho
phép cùng che mưa. Bằng một giọng thật trong trẻo chị nhỏ nhẹ trả lời rằng chị
đồng ý. Nhưng vừa nghe chị nói và hình như cảm thấy có hơi phụ nữ mơ hồ toát ra
từ người chị, ông vội vàng tránh ra xa, để chị đứng trơ một mình giữa cơn mưa
giông, chị hiểu ngay, nên dù đang có nhiều điều phiền muộn vẫn không ngăn nổi nụ
cười.
Julie ở một gian phòng sát mái phố
Cherche-Midi, chị giả dạng là một viên thư ký xưởng dệt da đang đi tìm việc. Bà
Gamelin biết rõ chị càng gần mình bao nhiêu càng nguy hiểm bấy nhiêu nên đã cố
đưa chị rời xa quảng trường Thionville và phân khu Cầu Mới. Bà cung cấp thức
ăn, quần áo cho chị theo khả năng của bà. Hàng ngày Julie nấu nướng, đi đến
Luxembourg để nhìn mặt người yêu rồi lại trở về căn phòng lụp xụp. Công việc diễn
ra đều đều, buồn chán như vậy cũng phần nào làm dịu bớt nỗi đau đớn và vì chị
còn trẻ, khỏe mạnh, suốt đêm chị vẫn ngủ thực đẫy giấc. Tính chị dũng cảm, lại
quen với những cuộc phiêu lưu, có những buổi tối bị bộ quần áo nam nhi khoác
lên người kích thích, chị đi đến tiệm rượu ở phố Four có chiếc bảng mang tên “Hồng
thập tự”. Đây là nơi hội tụ đủ hạng người, kể cả bọn phụ nữ lẳng lơ. Người ta uống
rượu vui chơi, làm tình và luôn luôn xảy ra các vụ ẩu đả. Chị đọc báo, chơi thò
lò với một anh làm công trong tiệm hay một chàng lính hút tẩu thở khói vào mũi
chị.
Một buổi tối, một gã đàn ông đang uống rượu
thì nghe thấy tiếng vó ngựa ở ngã tư, hắn vén màn che cửa nhìn ra ngoài và khi
nhận ra công dân Hanriot*, chỉ huy trưởng
đoàn quân cảnh vệ đang phóng ngựa về phía bộ tham mưu, hắn lẩm bẩm trong miệng:
“Đúng là con lừa của lão Robespierre**.”
*[Hanriot François (1761-1794): là chỉ huy trưởng
quân đội và các phân khu ở Paris trong thời gian có cuộc khủng bố. Bị chết chém
ngày 7-7-1794]
**[Thành ngữ này còn dùng để chỉ người say rượu
bét nhè]
Nghe nói thế, Julie cười phá lên.
Nhưng một công dân yêu nước có ria mép phê
phán gay gắt:
- Kẻ nào nói như vậy chỉ là một tên quý tộc
mạt hạng, cho nó ngồi rũ tù là tao khoái nhất. Các người cần nhớ tướng Hanriot
là người yêu nước chân chính; khi cần đến, ông sẽ bảo vệ Paris và Hội đồng Quốc
ước, chính vì thế mà bọn Bảo hoàng đã không dung thứ ông.
Nói xong, nhìn chằm chằm vào mặt Julie vẫn
tiếp tục cười lớn:
- Còn thằng nhãi, coi chừng không tao đá
đít để dạy mày biết kính trọng những người yêu nước.
Có những tiếng nhao nhao:
- Hanriot là một tên say rượu, một thằng
ngu ngốc!
- Hanriot là người Jacobin tốt! Hanriot
muôn năm!
Hai nhóm hình thành. Họ đánh nhau, đấm vào
đầu, vào mặt nhau làm rách, bẹp nón mũ, xô đổ bàn ghế, ly tách bắn lên tung
tóe, đèn tắt, phụ nữ rú lên thất thanh. Bị nhiều công dân yêu nước xông vào
đánh, Julie dùng một chiếc ghế con làm vũ khí; bị quật ngã, chị cào cấu cắn xé
địch thủ. Chiếc áo choàng hở toang, khăn quàng ngực rách để lộ bộ ngực phập phồng
hổn hển. Một nhóm tuần tra nghe thấy tiếng ồn ào kéo đến nhưng Julie luồn qua
chân lính sen đầm trốn thoát.
Ngày ngày những chiếc xe vẫn đi qua chở đầy
người bị kết án.
- Dù sao con không thể để người yêu của con
chết được. - Julie nói với mẹ.
Chị quyết định xin xỏ, vận động, đi tới các
ủy ban, các văn phòng, đến nhà các đại biểu, thẩm phán, bất kỳ nơi nào cần đi.
Không có áo dài, chị nhờ mẹ mượn nữ công dân Blaise cho chị một chiếc áo có sọc
và chiếc khăn choàng đầu bằng đăng ten. Thế rồi ăn mặc như một phụ nữ, một phụ
nữ yêu nước, chị đến nhà quan tòa Renaudin, một căn nhà ẩm thấp, tối tăm ở phố
Mazarine. Chị run rẩy trèo lên chiếc cầu thang vừa bằng gỗ vừa lát gạch và được
viên thẩm phán tiếp tại một phòng làm việc tồi tàn, đồ đạc chỉ có một cái bàn gỗ
thông và hai cái ghế nhựa nhồi rơm. Giấy phủ tường đã rách bươm từng mảnh.
Renaudin là một người có mái tóc đen dính bệt nhau, đôi mắt tối tăm, ảm đạm,
môi hếch, cằm nhô. Y ra hiệu để chị nói và yên lặng ngồi nghe.
Chị nói mình là em gái công dân de
Chassagne bị bắt giam ở Luxembourg. Hết sức khéo léo, chị trình bày hoàn cảnh
anh bị bắt, cố chứng minh là anh vô tội và tỏ ra vô cùng khẩn khoản.
Nhưng y vẫn trơ trơ, khắc nghiệt.
Chị quỳ xuống chân y, năn nỉ khóc lóc.
Thấy chị khóc, nét mặt y thay đổi: cặp đồng
tử đen hơi đỏ bỗng rực cháy, bộ hàm xanh to bè rung lên như để nuốt nước miếng
xuống chiếc cổ họng khô rát.
- Nữ công dân, cần phải làm gì, chúng tôi sẽ
làm. Chị đừng lo.
Rồi mở cửa, y đẩy người phụ nữ đến nhờ vả y
vào một phòng khách nhỏ màu hồng, có những bức tranh sơn, những tượng sứ, một
chiếc đồng hồ treo tường, những bộ đèn nến thếp vàng, những ghế bành thấp, một
ghế dựa dài có trang trí một bức họa đồng quê của Boucher. Julie sẵn sàng chấp
nhận tất cả để cứu người yêu.
Renaudin hành động như một con thú vật và
thật nhanh chóng. Khi đứng dậy sửa lại chiếc áo đẹp của nữ công dân Élodie, chị
bắt gặp cái nhìn độc ác và chế nhạo của tên đàn ông; chị cảm thấy ngay mình đã
hy sinh vô ích.
- Ông đã hứa trả tự do cho anh tôi, - chị
nói.
Hắn cười khẩy.
- Nữ công dân, ta sẽ nói là ta sẽ làm mọi
điều cần thiết, nghĩa là sẽ thi hành luật pháp, không hơn không kém. Ta đã nói
với chị không phải lo ngại, mà tại sao lại lo ngại chứ? Tòa án Cách mạng bao giờ
cũng công bằng.
Julie đã định xổ tới cắn hắn, móc mắt hắn.
Nhưng cảm thấy làm như vậy càng đẩy nhanh Fortuné Chassagne đến chỗ chết, chị
chạy trốn và trong gian phòng áp mái, chị cởi bỏ chiếc áo dài đã hoen ố của
Élodie. Rồi một mình, chị ngồi suốt đêm gào thét vì căm giận, vì đau đớn.
Hôm sau, khi quay lại Luxembourg, chị thấy
lính sen đầm đã chiếm lĩnh khu vườn đang xua đuổi đàn bà, con trẻ. Lính gác ở
các lối đi ngăn không cho người qua đường liên lạc với những người bị giam giữ.
Bà mẹ trẻ ngày nào cũng ẵm con trên tay nói với Julie là hình như có âm mưu gì
đó trong các nhà tù, và người ta đổ tội cho phụ nữ tụ tập ở khu vườn để gây xúc
động trong nhân dân làm lợi cho bọn quý tộc và bọn phản bội.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét