Thứ Năm, 4 tháng 1, 2024

Luật Sư Nghèo - Chương 1

Luật Sư Nghèo

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Hồng Vân
NXB Văn Nghệ - 2001

Chương 1

Người đàn ông mang ủng cao su bước vào thang máy ngay sau tôi nhưng tôi không nhìn thấy ông trước. Mặc dù tôi có ngửi thấy mùi của ông một cái mùi hôi hám của thuốc lá trộn với mùi rượu rẻ tiền, mùi của một cuộc sống lang thang đã lâu không biết đến xà bông và nước sạch. Chỉ có tôi và ông khi thang máy đi lên, và khi rốt cuộc tôi cũng nhìn thấy đôi ủng đen bằng cao su, dơ dáy và quá khổ. Một cái vạt áo khoác sờn rách và te tua trên đầu gối ông. Dưới cái áo khoác là một đống áo cộm lên ở phía giữa, vì thế mà trông ông to tướng gần như là phì nộn. Nhưng mà không phải vì ăn uống tốt mà vì D.C. (quận Columbia) đang là giữa mùa đông, những người lang thang ở đây mặc bất cứ cái gì mà họ có, hay có vẻ là như thế.
Ông ta là người da đen và đã đứng tuổi - râu và tóc của ông đã ngả sang màu xám tro và chắc là không biết đến dao cạo và xà bông hàng năm rồi. Ồng nhìn thẳng về phía trước qua cặp kính dày hoàn toàn không biết có tôi trên đời này, và làm cho tôi ngạc nhiên trong một giây là cớ sao tôi lại phải để tâm đến ông kia chứ.
Ông không phải là người ở đây. Cao ốc này không phải là chỗ của ông, thang máy này không phải nơi ông có thể bước chân vào, đây không phải chỗ mà ông có đủ khả năng để ở. Nhiều luật sư làm việc trong tám tầng lầu này trong những giờ căng thẳng vẫn còn xa lạ đối với tôi dù tôi đã làm ở đây 7 năm rồi.
Lại một tên ma cô nào đó dạt vào đây vì mùa đông. Chuyện này vẫn thường xảy ra ở trung tâm, nhưng làm sao ông ta có thể lọt vào đây, chúng tôi có bảo vệ để ngăn chặn chuyện này mà.
Chúng tôi dừng lại ở lầu 6, và lần đầu tiên tôi nhận ra là ông ta không hề ấn nút. Ông ta chỉ đi theo tôi. Tôi bước ra thật nhanh và trong khi tôi tiến về phòng đợi lát cẩm thạch sang trọng của Công ty Drake & Sweeney, tôi liếc nhanh qua vai quan sát ông đang đứng ngoài thang máy, chẳng nhìn vào đâu cả và không thèm chú ý gì đến tôi.
Bà Devier một trong những người tiếp tân giỏi chịu đựng của chúng tôi chào đón tôi với một cái nhìn khinh khỉnh kiểu cách.
- Để ý thang máy đấy, - tôi nói.
- Tại sao?
- Một thằng lang thang ngoài phố. Bà phải gọi cho cảnh vệ ngay.
- Những người này... - bà ta nói với cái giọng lai Pháp.
- Lấy một ít thuốc tẩy uế luôn.
Tôi bỏ đi cởi áo khoác ngoài ra và quên luôn người đàn ông mang ủng cao su nọ. Có một cuộc họp không nghỉ cho tới tận chiều đang chờ tôi, một hội nghị quan trọng với những người quan trọng. Tôi rẽ vào phòng, định nói gì đó với Polly, thư kí của tôi thì tôi nghe thấy tiếng súng đầu tiên.
Bà Devier đứng ngay sau quầy, kinh hoàng tê cứng nhìn vào họng súng dễ sợ dài thòng trong tay của ông bạn ma cà bông nọ. Bởi vì tôi là người đầu tiên chạy đến giúp bà cho nên họng súng cũng lịch sự chĩa luôn vào tôi và làm tôi cứng người vì sợ.
- Đừng bắn, - tôi nói, hai tay đưa lên trời. Tôi đã xem khá đủ nhũng bộ phim hành động để biết chính xác phải làm gì trong những trường hợp này.
- Câm miệng, - ông ta lẩm bẩm với một giọng chắc nịch.
Có nhiều giọng nói vang lên ngoài hành lang phía sau lưng tôi. Một ai đó hét lên: “Hắn có súng!”. Và sau đó những tiếng nói lao xao tắt dần, lịm hẳn khi mà các bạn đồng nghiệp của tôi, chạy bắn ra cửa sau. Tôi gần như có thể thấy họ muốn nhảy qua cửa sổ luôn.
Ngay ở phía tay trái của tôi là một cái cửa gỗ đồ sộ, mở vào một phòng họp lớn lúc này ngẫu nhiên có 8 luật sư ở bộ phận tố tụng. Tám vị luật sư cao ngạo chẳng coi ai ra gì và cũng chẳng hề sợ gì trên đời này hết đang tiêu phí thời giờ vàng ngọc của họ để ăn sống nuốt tươi kẻ khác. Người ghê gớm nhất là một “sát thủ” ưa gây gổ tên là Rafter, và hắn ta giật mạnh cánh cửa la lên: “Chuyện chó gì thế này?”, lập tức họng súng chuyển từ tôi sang hắn, và người đàn ông mang ủng cao su làm đúng cái điều mà hắn ta muốn.
- Bỏ súng xuống, - Rafter ra lệnh từ lối đi và chưa đến một giây sau một phát súng nổ vang khu tiếp tân, một phát nữa chui thẳng lên trần ở ngay trên đầu Rafter biến hắn trở lại một người phàm tham sống sợ chết. Xoay khẩu súng sang phía tôi, ông ta gật đầu và tôi vâng lời, bước vào phòng họp ngay sau Rafter. Cái cuối cùng tôi nhìn thấy bên ngoài là bà Dever run lẩy bẩy bên bàn, hoàn toàn hồn xiêu phách lạc, ống nghe lủng lẳng trước ngực, đôi giày cao gót xếp ngay ngắn cạnh giỏ giấy vụn của bà.
Người đàn ông với đôi ủng cao su, đóng cửa lại sau lưng, từ từ vung khẩu súng lên để cho tất cả 8 luật sư có thể chiêm ngưỡng nó. Cử chỉ này có vẻ được việc lắm; thông điệp chết chóc của nó còn dễ nhận thấy hơn cái mùi nồng nặc của chủ nhân nó.
Trong phòng sừng sững một chiếc bàn dài chất đầy những giấy tờ và tài liệu mà chỉ vài giây trước đây còn cực kì quan trọng. Một dãy cửa sổ trông xuống bãi gửi xe. Hai cánh cửa mở ra ngoài hành lang.
- Quay lưng vào tường, - ông nói dùng khẩu súng như một cây đũa chỉ huy hữu hiệu. Sau đó ông ta dí nó vào đầu tôi ra lệnh: - Khóa cửa lại.
Và tôi làm theo lệnh.
Không một lời từ phía 8 luật sư kia trong khi họ giật lùi về phía sau. Không một lời từ miệng tôi trong khi tôi nhanh chóng khóa cửa lại sau đó nhìn ông tìm sự biểu đồng tình.
Vì một lí do nào đó, tôi cứ nghĩ mãi đến chuyện xảy ra ở bưu điện và tất cả phát súng kinh khủng ở đó, một nhân viên bất mãn trở về sau bữa ăn trưa với một khẩu súng và lia một phát cho về chầu trời cả 15 đồng nghiệp của hắn. Tôi nghĩ đến một vụ thảm sát ở một khu vui chơi - và một vụ thảm sát khác ở một cửa hàng thức ăn nhanh.
Mà nạn nhân lại là những đứa trẻ vô tội, nếu không thì cũng là những công dân đàng hoàng. Còn chúng tôi thì lại là một lũ luật sư!
Nhả ra những tiếng cằn nhằn cáu kỉnh và vung vẩy khẩu súng, ông ta sắp 8 luật sư thành một hàng quay lưng vào tường, và khi việc sắp đặt đã vừa ý, ông quay sang chú ý đến tôi. Ông ta muốn gì? Ông ta có cật vấn điều gì không? Nếu thế thì chắc chắn ông sẽ rất hài lòng. Tôi không nhìn thấy mắt của ông ta, vì cặp kiếng mát dày cộp, nhưng ông ta có thể nhìn thấy tôi. Khẩu súng đang chĩa vào mắt tôi. Ông ta cởi chiếc áo khoác cáu bẩn, cuộn lại như thể nó quý hóa lắm rồi đặt lên giữa bàn. Cái mùi khó chịu ban nãy trong thang máy lại bốc lên nhưng bây giờ nó không còn quan trọng nữa. Ông đứng ở một đầu bàn, cởi đến lớp thứ hai, một chiếc áo khoác len dày sù sụ màu xám.
Dày vì một lí do. Bên trong áo, quấn ngang người ông là những sợi dây điện đỏ, rõ ràng là mìn dưới đôi mắt không có kinh nghiệm của tôi. Dây điện giống như những sợi mì ống đủ màu cuốn hai đầu những cái que, và một tờ giấy thiếc kết chúng lại với nhau.
Phản ứng đầu tiên của tôi là giật bắn người lên, vùng vẫy chân tay bò ra ngoài cửa, hi vọng một dịp may, hi vọng một phát súng bắn trượt khi tôi mò tìm ổ khóa, sau đó lại một phát trượt nữa khi tôi phóng qua ngưỡng cửa ra ngoài. Nhưng mà tôi run như dẽ, máu tôi đông đặc lại. Có tiếng thở hào hển và tiếng rên nho nhỏ từ 8 luật sư đang đứng áp lưng vào tường, và điều đó quây rầy kẻ bắt giữ chúng tôi.
- Làm ơn giữ yên lặng, - ông ta nói với cái giọng kiên nhẫn của một ông thầy.
Sự bình tĩnh của ông ta làm cho tôi sợ cuống lên. Ông ta kiểm tra lại mấy sợi mì ông quấn quanh bụng, sau đó lôi từ trong một cái túi của cái quần rộng thùng thình ra một cuộn dây nilon màu vàng và một con dao bấm.
Với cái nhìn thăm dò cẩn thận, ông vung vẩy khẩu súng trước các khuôn mặt cắt không còn hột máu đang đứng phía trước ông và nói:
- Tôi không muốn làm ai bị thương đâu.
Thật là nhẹ cả người khi nghe điều đó nhưng khó mà tin được. Tôi đếm những cái que màu đỏ - 12 cái cả thảy - tôi chắc chắn nó làm cho tất cả chết không kịp ngáp.
Khẩu súng lại chĩa về phía tôi.
- Anh, - ông ta nói, - trói những người này lại.
Rafter chắc là đã cảm thấy quá đủ rồi. Hắn bước lên một bước và nói:
- Xem này ông bạn, chính xác là ông muốn gì vậy?
Phát đạn thứ ba sượt qua đầu hắn ghim vào trần nhà và nằm gọn ở trên đó. Nó vang lên như một khẩu canon và tiếng bà Devier hay một phụ nữ nào đó ré lên trong phòng đợi. Rafter chúi xuống và trong lúc hắn ta cố gượng dậy thì cái cùi chỏ mập mạp của Umstead thúc ngay vào ngực hắn, đưa hắn trở lại vị trí đứng dựa tường ban đầu.
- Im mồm đi. - Umstaed nói với hàm răng nghiến chặt.
- Đừng có gọi tôi là ông bạn nghe chưa. - Người đàn ông nói và từ “ông bạn” này ngay lập tức bị loại bỏ.
- Vậy ông muốn chúng tôi gọi ông là gì? - Tôi hỏi, cảm thấy rằng tôi đang trở thành thủ lĩnh của những 10 con tin này. Tôi nói với một vẻ nhẹ nhàng và tôn trọng hết sức. Ông ta đánh giá cao sự kính trọng của tôi.
- Mister, - ông ta đáp.
Mister là tuyệt đối tốt với tất cả chúng tôi. Điện thoại reng và tôi nghĩ trong vòng 1 phần 10 giây là ông ta sẽ bắn nó. Thay vì thế ông ta khoát tay và tôi đem nó lại đặt trên bàn ngay trước mặt ông. Nhấc ống nghe lên bằng tay trái, tay phải ông vẫn giữ khẩu súng và nó vẫn chĩa vào Rafter.
Nếu chúng tôi có bất cứ một hành động gì thì Rafter sẽ là con cừu tế thần đầu tiên. Tám người cho một.
- Xin chào, - Mister nói. Ông ta chỉ nghe một lát sau đó cúp máy. Ông ta thận trọng lùi đến một cái ghế ở một đầu bàn và ngồi xuống.
- Cầm lấy sợi dây đi, - ông bảo tôi.
Ông ta muốn tất cả tám người đều bị trói dính với nhau ở cổ tay. Tôi cắt sợi dây, và buộc lại cố hết sức không nhìn vào mặt đồng nghiệp trong lúc tôi đẩy họ đến gần cái chết. Tôi có thể cảm thấy họng súng sau lưng mình. Ông ta muốn họ bị trói thật chặt, và tôi làm bộ xiết chặt hết cỡ trong lúc tôi cố gắng để dây lỏng như tôi có thể làm được.
Rafter làu bàu gì đó trong họng và tôi muốn tát vào mặt hắn. Umstead gồng cổ tay lên vì thế sợi dây gần như lỏng tuột trên tay anh trong khi tôi trói anh xong. Malamud toát mồ hôi hột và thở rất gấp. Ông lớn tuổi nhất là người chung vốn duy nhất trong những con tin, hai năm trước ông đã trải qua một cơn bệnh tim.
Tôi không thể không nhìn Barry Nuzzo, một trong những người bạn của tôi. Chúng tôi cùng tuổi 32 và gia nhập công ty cùng một năm. Anh học ở Princeton, tôi ở Yale. Cả hai bà vợ của chúng tôi đều quê ở Providence. Cuộc hôn nhân của anh tốt đẹp - ba đứa con trong 4 năm. Còn cuộc hôn nhân của tôi thì đang trong giai đoạn cuối cùng của một thời gian dài tan vỡ.
Mắt chúng tôi gặp nhau và chúng tôi cùng nghĩ về bọn trẻ. Tôi cảm thấy may mắn là tôi chưa có con.
Nhũng tiếng còi hú vang lên và Mister bảo tôi hạ kín rèm trên năm cái cửa sổ lớn. Tôi làm theo chỉ thị một cách có phương pháp, căng mắt nhìn xuống bãi đậu xe phía dưới làm như nếu có ai đó nhìn thấy là có thể cứu được mạng tôi. Một chiếc xe cảnh sát trống rỗng đậu phía dưới, đèn vẫn nhấp nháy liên hồi, cảnh sát chắc chắn đã ở trong tòa nhà.
Và chúng tôi thì ở đây, chín thằng da trắng và Mister.
Theo thống kê mới nhất, Drake & Sweeney có 800 luật sư ở các văn phòng của nó trên khắp thế giới. Một nửa số luật sư này ở D.C. trong tòa nhà mà Mister đang khủng bố này. Mister lệnh cho tôi gọi cho “sếp” thông báo rằng ông ta có vũ trang và cài khắp người 12 dây mìn. Tôi gọi cho Rudolph, người chung vốn phụ trách bộ phận của tôi, chuyên về luật chống độc quyền, và truyền đạt lại thông điệp trên.
- Cậu không sao chứ, Mike? - ông hỏi tôi.
Chúng tôi đang ở cùng Mister với cái loa điện thoại được mở hết cỡ.
- Tốt lắm, - tôi nói. - Làm ơn hãy làm theo bất cứ những gì ông ta muốn.
- Ông ta muốn gì?
- Tôi cũng chưa biết nữa.
Mister vẫy khẩu súng lên và cuộc trao đổi kết thúc.
Tránh khỏi họng súng tôi bước lại đứng gần cái bàn họp, cách Mister hơn một mét. Ông ta bỗng có một thói quen bứt rứt là nghịch nghịch những cái que đỏ trước ngực một cách lơ đãng.
Ông ta nhìn xuống và gẩy nhẹ vào một cái que đỏ.
- Cái que đỏ này này, tôi chỉ cần kéo mạnh một cái là tất cả đi đời. - Cặp kính mát nhìn tôi trong khi ông kết thúc lời đe dọa.
Tôi cảm thấy phải nói một cái gì đó.
- Tại sao ông lại phải làm thế? - tôi hỏi, mở một cuộc đối thoại một cách tuyệt vọng.
- Tôi chẳng muốn thế đâu, nhưng sao lại không chứ?
Tôi ngạc nhiên trước cách ăn nói của ông ta, một nhịp điệu chính xác chẳng có gì vội vã, và mỗi âm được phát ra với cùng một cao độ. Ông ta là một gã lang thang đầu đường xó chợ, nhưng hẳn đã có những ngày tốt đẹp.
- Tại sao ông lại muốn giết chúng tôi? - Tôi hỏi.
- Tôi sẽ không tranh luận với anh, - ông tuyên bố. - Không một câu hỏi nào nữa thưa quan tòa.
Bởi vì tôi là luật sư và sống dựa vào chiếc đồng hồ, tôi liếc nhìn đồng hồ để bất cứ điều gì xảy ra có thể được thuật lại một cách chính xác, nếu như chúng tôi có cơ may sống sót. Bây giờ là một giờ hai mươi phút chiều. Mister thích mọi người giữ yên lặng, vì thế chúng tôi chịu đựng những khoảnh khắc rạn nứt cả hệ thần kinh kéo dài hàng chục phút.
Tôi không tin rằng chúng tôi sẽ chết. Có vẻ như là không có một động cơ, một lí do nào để giết chúng tôi. Tôi chắc rằng không một ai trong chúng tôi từng gặp ông ta. Tôi nhớ lại việc xảy ra trong thang máy, trên thực tế dường như ông ta không biết là phải đi đâu. Ông ta chỉ là một thằng điên khủng bố những con tin, một điều mà đáng buồn thay đã làm cho việc giết người trở thành cơm bữa trong cuộc sống hôm nay.
Nó chính là một kiểu thảm sát vô nghĩa sẽ chiếm hàng tít lớn nhất trên trang nhất trong vòng 24 giờ và làm cho mọi người lắc đầu. Sau đó thì câu chuyện đùa về những luật sư đã nghẻo sẽ bắt đầu.
Tôi có thể nhìn thấy bản tin và nghe những gì nhà báo bình luận, nhưng tôi từ chối tin vào điều đó. Tôi nghe những giọng nói lao xao trong phòng đợi, tiếng còi xa xa và tiếng máy bộ đàm của cảnh sát cọt kẹt đâu đó dưới lối đi.
- Bữa trưa anh ăn gì? - Mister hỏi tôi, giọng ông phá vỡ sự yên lặng.
Quá ngạc nhiên để nghĩ đến chuyện nói dối, tôi do dự một giây rồi nói:
- Gà chiên ở Caesar.
- Một mình hả?
- Không, tôi gặp một người bạn.
Anh ấy là một người bạn học từ trường luật ở Philly.
- Hết bao nhiêu tiền cho cả hai người?
- Ba mươi đô.
Ông ta không thích điều này.
- Ba mươi đô cho hai người. - Ông lặp lại, lắc đầu, rồi nhìn về phía 8 người kia. Nếu ông ta cật vấn họ tôi mong họ chuẩn bị sẵn việc nói dối. ở đây có nhiều cái dạ dày thật sự đấy, 30 đô không đủ thỏa mãn sự háu đói của họ đâu.
- Anh có biết tôi ăn gì không?
- Không.
- Tôi ăn súp. Súp và bánh xốp ở một trại tị nạn. Súp miễn phí và tôi rất sung sướng được ăn. Anh có thể nuôi 100 người bạn của tôi với 30 đô ấy, anh biết không?
Tôi gật đầu một cách thận trọng như thể bất thình lình tôi nhận ra tội lỗi ghê gớm của mình.
- Thu hết ví, tiền, đồng hồ, và đồ trang sức mang lại đây, - ông nói, lại vung khẩu súng lên lần nữa.
- Tôi có thể hỏi tại sao không?
- Không.
Tôi đặt ví, đồng hồ và tiền mặt lên bàn, và bắt đầu thò tay móc túi những người bạn đồng nghiệp.
- Đó là để cho những người bà con ngoài kia, - Mister nói và tất cả chúng tôi thở hắt ra.
Ông ta bảo tôi đặt tất cả của cải cướp được vào trong cặp táp khóa lại và gọi cho “sếp” lần nữa. Rudolph trả lời ngay sau hồi chuông đầu tiên. Tôi có thể mường tượng thấy trưởng nhóm cảnh sát đặc nhiệm đang cắm trại ở ngay phòng ông.
- Rudolph, đây là Mike. Tôi đang bên ống nghe.
- Phải, Mike. Cậu có sao không?
- Không sao. Người này muốn tôi mở cái cửa ở gần khu tiếp tân và đặt cái cặp đen này ở lối đi. Sau đó tôi sẽ đóng cửa và khóa lại hiểu chứ?
- Hiểu.
Với một khẩu súng sau lưng tôi chậm chạp bưởc ra cửa, thảy chiếc cặp táp ra ngoài hành lang. Tôi chẳng nhìn thấy ai cả.
Có rất ít điều khiến cho một luật sư ở một công ty lớn xao lãng niềm vui kiếm tiền. Ngủ là một, dù hầu hết chúng tôi rất ít ngủ. Ăn thì thực sự kích thích việc kiếm tiền đấy, nhất là bữa ăn trưa mà khách hàng phải thanh toán. Trong khi từng phút chậm chạp trôi qua tôi thấy mình đang băn khoăn một nỗi là làm sao mà 400 luật sư còn lại trong tòa nhà này có thể cố gắng kiếm tiền trong lúc chờ đợi vụ bắt cóc con tin kết thúc. Tôi có thể nhìn thấy họ thoát ra khỏi đây, trong bãi đậu xe, hầu hết ngồi trên xe cho khỏi lạnh, tán chuyện qua điện thoại cầm tay, phí điện thoại do người khác trả. Công ty sẽ không thể để thua trận này tôi nghĩ vậy.
Một số trong những thằng cắt cổ dưới kia chẳng thèm quan tâm chuyện sẽ kết thúc ra sao. Chúng chỉ vội vã lên và muốn kết thúc cho rồi.
Mister có vẻ như thiếp đi một giây, cằm của ông trễ xuống và hơi thở trở nên nặng nề hơn. Rafter làu bàu để thu hút sự chú ý của tôi, sau đó hất đầu sang một bên như ý muốn nhắc tôi phải hành động. Chết nỗi Mister cầm súng tay phải và nếu ông ta thực sự ngủ thì ông ta sẽ làm một việc chết người với cái que đỏ ông ta nắm chặt trong tay.
Và Rafter muốn tôi thành một người anh hùng. Mặc dù hắn ta rất bần tiện và là một trong những luật sư giỏi nhất của công ty, hắn vẫn chưa phải là người hùn vốn. Hắn không cùng trong một bộ phận với tôi và chúng tôi không phải trong quân đội. Tôi chẳng nhận lệnh từ ai hết.
- Năm ngoái anh kiếm được bao nhiêu tiền? - Mister chợt thức dậy, hỏi tôi với giọng rất rõ ràng. Một lần nữa tôi lại giật mình.
- Tôi, để, ờ, coi nào.
- Đừng có nói láo.
- 120.000 đô.
Ông ta cũng chẳng thích điều đó nốt.
- Anh cho đi bao nhiêu tiền?
- Cho đi?
- Phải. Làm từ thiện ấy.
- Ô tôi không nhớ. Vợ tôi lo việc quản lí tiền bạc và những chuyện như thế.
Tất cả 8 luật sư dường như cứng người lại ngay lập tức.
Mister không thích câu trả lời của tôi, và ông ta không phủ nhận điều đó.
- Ai điền phiếu nộp thuế cho anh?
- Ông muốn nói đến Sở thuế quốc nội IRS phải không?
- Phải, chính thế.
- Nó được bộ phận thuế ở lầu hai phụ trách.
- Cũng trong tòa nhà này à?
- Vâng.
- Thế thì lấy lên đây cho tôi. Lấy cho tôi báo cáo về thuế của mỗi người ở đây.
Tôi nhìn vào mặt mọi người, một vài người như muốn nói: “Cứ làm theo lời y và giết tụi tôi đi”. Tôi chắc là do dự hơi lâu vì Mister hét lên: “Làm ngay đi!”, ông ta vung vẩy khẩu súng khi ông hét lên.
Tôi gọi cho Rudolph, người cũng tỏ ra do dự vậy nên tôi hét trả lại:
- Hãy fax ngay lên đây. Năm ngoái thôi.
Chúng tôi sững sờ nhìn máy fax ở góc phòng trong vòng 15 phút, sợ rằng Mister có thể hành hình chúng tôi nếu những tờ khai thuế theo mẫu 1040 của chúng tôi không tới lẹ lẹ một chút.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét