Thứ Bảy, 6 tháng 1, 2024

Luật Sư Nghèo - Chương 7

Luật Sư Nghèo

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Hồng Vân
NXB Văn Nghệ TP HCM - 2001

Chương 7

Tất nhiên là căn hộ vắng vẻ khi tôi về tới nhà vào ti ngày thứ Sáu, nhưng có một điều mới mẻ. Đó là một mẩu giấy đặt trên quầy trong bếp. Theo gương tôi, Claire cũng về thăm nhà nàng vài ngày ở Providence. Không đưa ra lí do. Nàng bảo tôi gọi điện cho nàng khi về đến nhà.
Tôi gọi về nhà ông bà già vợ và làm ngắt quãng bữa ăn tối. Chúng tôi mất 5 phút chuyện phiếm về việc cả hai chúng tôi đều khỏe. Thời tiết ở Memphis rất đẹp và Providence cũng thế, hai bên gia đình đều khỏe và nàng sẽ về nhà vào chiều thứ Bảy. Tôi cúp máy, pha cà phê vừa uống vừa nhìn đăm đăm qua cửa sổ trong bếp nhìn dòng xe trôi qua đường P vẫn còn phủ tuyết trắng xóa. Nếu tuyết bắt đầu tan thì cũng chẳng rõ lắm.
Tôi cho rằng Claire đang nói với cha mẹ nàng cũng về cái câu chuyện không may mà tôi đã trút ra với cha mẹ mình. Có một điều thật đáng buồn và kì quặc dù không đáng ngạc nhiên chút nào khi chúng tôi có thể thành thực với cha mẹ mình trước khi đối mặt với nhau. Tôi cảm thấy mệt mỏi quá rồi, và nhìn nhận rằng chẳng bao lâu có thể là vào ngay sáng Chủ nhật này, chúng tôi sẽ ngồi lại với nhau ở đâu đó, có lẽ là ngay trong bàn ăn này mà đối diện với thực tế. Chúng tôi sẽ bày tỏ những cảm xúc và những nỗi lo sợ của chúng tôi, và như tôi chắc chắn, chúng tôi sẽ hoạch định một tương lai sống không có nhau. Tôi biết là nàng muốn điều đó lắm, tôi chỉ không biết là nàng muốn như thế nào thôi.
Tôi thực tập nói to những điều mà tôi dự định sẽ nói với nàng cho đến khi nghe ra chúng có vẻ có sức thuyết phục rồi tôi bỏ ra ngoài đi dạo. Ngoài trời là 10 độ và gió rất rát, cái giá lạnh cắt da cắt thịt xuyên qua cả áo khoác của tôi. Tôi đi ngang qua những ngôi nhà đẹp, những dãy nhà ấm cúng tiện nghi, nơi tôi nhìn thấy những gia đình thật sự đang ăn uống, cười đùa và tận hưởng hơi ấm không chỉ của lò sưởi mà còn cả tình thân, rồi tôi xuôi xuống đường M, nơi có những hàng quán tràn ra ngoài lề đường. Thậm chí trong một đêm thứ Sáu rét mướt như đêm nay cũng vẫn nhộn nhịp như thường; các quán bar đầy người, người ta xếp hàng trong các nhà hàng, còn các quán cà phê thì đông nghẹt. Tôi đứng bên một cái cửa sổ của một hộp đêm lắng nghe một bản nhạc buồn trong khi tuyết phủ lên khuỷu tay, tôi ngắm nhìn những đôi bạn tình uống rượu và khiêu vũ. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình không thuộc vào lớp người trẻ nữa. Tôi mới 32 tuổi, nhưng mà trong bảy năm qua tôi đã làm việc hơn hầu hết những gì người ta làm trong lứa tuổi 20. Tôi mệt mỏi, chưa già nhưng đã cảm thấy gánh nặng của tuổi trung niên trên vai, và tôi thừa nhận rằng tôi không còn phơi phới thanh xuân như lúc mới rời trường đại học. Nhũng cô gái ở đây sẽ không thèm liếc nhìn tôi đến lần thứ hai.
Tôi lạnh cóng và tuyết lại tiếp tục rơi. Tôi mua một cái bánh sandwich và mệt mỏi tìm đường về nhà. Tôi làm một li rượu mạnh, rồi nhóm lò sưởi lên, và tôi ngồi ăn trong bóng tối nhập nhoạng, hoàn toàn đơn độc.
Trước đây, sự vắng mặt của Claire vào cuối tuần cho tôi một cảm giác nhẹ nhõm vì thoát khỏi cảm giác áy náy khi tôi ở lại làm việc thêm trong cơ quan. Giờ đây ngồi bên đống lửa tôi cảm thấy ghê tởm cho cái ý nghĩ ấy. Drake & Sweeney sẽ đứng vững đầy tự hào sau khi tôi ra đi, và những khách hàng với những vấn đề tối nghiêm trọng của họ sẽ lại được chuyển giao cho một đội quân luật sư khác. Bộ phận của tôi sẽ chỉ hơi khựng lại một chút trên con đường đi tới của công ty, một cái vấp chẳng dễ gì nhận thấy. Công ty của tôi sẽ chỉ cần vài phút ổn định sau khi tôi ra đi.
Sau chín giờ một chút chuông điện thoại reo lên dứt tôi ra khỏi tâm trạng suy tư ủ dột. Đó là Mordecai Green, giọng ông ta oang oang trên điện thoại.
- Cậu bận không?
- Ồ không bận lắm đâu. Mà có chuyện gì không?
- Rét như ở địa ngục ấy, tuyết lại đổ xuống nữa chứ, mà chúng tôi thì lại thiếu người. Cậu có thể giúp cho vài giờ được không?
- Mà làm gì chứ?
- Làm việc. Chúng tôi cần một số người. Các trại và các bếp ăn từ thiện chật cứng mà chúng tôi lại không có đủ người tình nguyện.
- Tôi không biết là tôi có biết làm gì không.
- Cậu biết trét bơ đậu phộng lên bánh mì không?
- Biết.
- Thế thì cậu dư sức làm ở đây.
- Được, nhưng tôi phải đến đâu?
- Ở cách văn phòng của chúng tôi chừng 10 khối nhà gì đó. Đến khu vực giữa đường 13 và đường Euclid, cậu sẽ trông thấy một ngôi nhà thờ màu vàng bên tay phải, tên nó là Ebenezer Chritian Fellowship. Chúng tôi ở dưới tầng hầm.
Tôi ghi vội những chỉ dẫn vào giấy, mỗi một chữ một thêm run rẩy bởi vì chỗ mà Mordecai gọi tôi đến là vùng hoành hành của dân đầu gấu. Tôi muốn hỏi là tôi có nên mang theo súng. Tôi tự hỏi là liệu ông có súng không. Nhưng mà ông là người da đen còn tôi thì da trắng. À mà còn chiếc xe đắt giá của tôi thì sao?
- Cậu đến nhanh nhé, - ông gầm gừ sau một chút im lặng.
- Được. Tôi sẽ có mặt trong vòng 20 phút, - tôi gan dạ đáp, tim tôi đập thùm thụp trong lồng ngực.
Tôi thay quần jean, áo thể thao, và ủng đi bộ đường dài. Tôi bỏ thẻ tín dụng, và phần lớn tiền mặt ở nhà. Ở trên cùng tủ áo tôi tìm thấy một chiếc áo khoác len dày, dính sơn và cà phê, một kỉ vật còn lại từ ngày đi học, và khi tôi đứng trước gương tròng chiếc áo vào người tôi hi vọng là trông tôi không có vẻ có tiền. Nhưng mà không phải thế. Nếu một nghệ sĩ trẻ mặc nó chụp lên trang bìa của tờ Vanity Fair, nó lập tức trở thành mốt thời thượng ngay.
Tôi muốn mặc một chiếc áo chống đạn bên trong. Tôi sợ hãi, nhưng khi tôi khóa cửa và bước ra ngoài tuyết lạnh, lạ lùng làm sao tôi lại cảm thấy phấn khích.
Cảnh bắn súng và những cuộc tấn công của các băng tội phạm mà tôi dự đoán đã không xảy ra. Thời tiết làm cho đường phố yên tĩnh và an toàn, ít nhất là trong lúc này. Tôi tìm thấy nhà thờ và đậu xe ở một bãi trống bên kia đường. Trông nó giống như một giáo đường nhỏ, ít nhất cũng hàng trăm tuổi và chẳng có nghi ngờ gì là những giáo dân gốc cũng chẳng còn được bao nhiêu người lui tới.
một góc, tôi nhìn thấy mấy người tụm lại chờ đợi ở ngoài cửa. Tôi vượt qua họ, như thể tôi biết chính xác nơi tôi muốn đến, và tôi bước vào thế giới của những người không nhà. Mặc dù tôi cũng muốn xô đẩy như mọi người, giả vờ như đã từng chứng kiến cảnh này, và tôi có việc phải làm, nhưng tôi không thể nhúc nhích được. Tôi trố mắt ra vì ngạc nhiên trước cảnh bao nhiêu người nghèo chen chúc trong tầng hầm. Một số người nằm trên sàn cố chợp mắt, một số người ngồi thành từng nhóm. Một số người ngồi ăn bên những chiếc bàn dài, còn một số thì ngồi trên những chiếc ghế xếp. Dọc theo các bức tường không có một chỗ trng nào, người ta ngồi tựa lưng vào những bức tường nhọ nhem. Bọn trẻ con hoặc khóc lóc hoặc nhảy nhót chung quanh, trong khi những bà mẹ cố gắng giữ chúng bên cạnh mình. Những người nghiện rượu nằm ngay như phỗng, ngáy o o. Những người tình nguyện chuyển cho họ chăn mền, và len lỏi trong đám người ngổn ngang để đưa cho họ những trái táo.
Bếp ở cuối nhà thờ, nơi rộn rã với những hoạt động nấu nướng và phục vụ. Tôi trông thấy Mordecai đứng trong bếp đang rót nước quả ra những cái li giấy và nói chuyện không ngừng. Một hàng người kiên nhẫn đợi trước những cái bàn phục vụ.
Căn phòng ấm cúng; hơi người, mùi thức ăn, mùi gas hòa trộn thành một cái mùi đậm đặc nhưng không đến nỗi khó chịu. Một người đàn ông độn không biết bao nhiêu áo quần trong người giống như Mister, đâm sầm vào tôi và đã đến lúc phải đi rồi.
Tôi đi đến chỗ Mordecai, ông này rất mừng khi trông thấy tôi. Chúng tôi bắt tay nhau như những người bạn cũ, ông giới thiệu tôi với hai người tình nguyện có những cái tên mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ.
- Trời như đang điên ấy, - ông nói. - Một trận bão tuyết, rồi rét cắt da cắt thịt, chúng tôi làm việc suốt đêm. Mang bánh mì lại đây. - Ông chỉ vào một khay đầy những lát bánh mì trắng. Tôi cầm lên và theo ông đến một cái bàn.
- Cũng khá phức tạp đấy. Cậu lấy bơ ở đây, mù tạt và nước sốt ở kia. Một nửa bánh sandwich chét mù tạt, một nửa thì phết nước sốt, cùng với một lát bơ, và hai lát bánh mì. Thỉnh thoảng có làm thêm một chục bánh với bơ đậu phộng nhé, cậu hiểu chứ?
- Hiểu.
- Mà cậu hãy làm nhanh nhanh lên nhé. - Ông đập vào vai tôi rồi biến mất.
Tôi vội vã làm một chục bánh sandwich, và cho rằng mình làm rất giỏi. Sau đó tôi làm chậm lại rồi quay sang quan sát mọi người trong khi họ đứng đợi thành hàng, mắt họ nhìn quanh quất nhưng vẫn hướng về phía đồ ăn ở phía trước. Tay họ cầm một cái đĩa bằng giấy, tô và muỗng bằng plastic, và một cái khăn giấy. Khi đến lượt chiếc tô sẽ đầy súp, một nửa cái bánh sandwich sẽ được đặt vào đĩa, thêm một quả táo, một cái kẹo và cuối cùng là một li nước táo.
Đa số mọi người lặng lẽ cảm ơn lúc người tình nguyện đưa cho họ nước trái cây, sau đó họ tản đi nâng niu trên tay những thứ đã nhận được. Ngay cả trẻ con cũng cẩn thận giữ gìn đồ ăn của chúng.
Hầu hết mọi người ăn một cách từ tốn, tận hưởng hơi nóng phả lên mặt, nhấm nháp hương vị của đồ ăn trong miệng. Những người khác thì ăn ngấu nghiến.
Ở gần chỗ tôi là một cái bếp gas lớn với 4 ngọn lửa trên đó 4 nồi súp to đang sôi sùng sục. Ở đầu bên kia là một chiếc bàn chất đầy cần tây, cà-rốt, hành, cà chua và những con gà nguyên con. Một người tình nguyện đang dùng một con dao lớn chặt chặt thái thái như cái máy, hai người nữa phục vụ quanh bếp. Một số người chuyển đồ ăn ra bàn, trong lúc này tôi là người làm bánh sandwich duy nhất.
- Chúng tôi cần một số bánh nữa, anh làm được không?
Mordecai hỏi khi ông quay lại bếp. Ông cúi xuống lôi ra một chiếc bình cỡ chín, mười lít đựng bơ đậu phộng.
- Tôi là chuyên gia đấy. - Tôi đáp.
Ông nhìn tôi làm việc, hàng người đã ngắn dần, và ông muốn nói chuyện.
- Tôi nghĩ ông là một luật sư chứ! - Tôi bắt đầu.
- Tôi là một con người trước khi là một luật sư. Có thể là cả hai cùng một lúc, ấy đừng có cho nhiều bơ quá. Chúng ta phải trở nên thành thạo.
- Thức ăn ở đâu mà có?
- Ở ngân hàng thức ăn. Tất cả đều là đồ cứu trợ. Tối nay chúng tôi may mắn có thịt gà, thường thì chỉ có rau thôi. Thật là ngon lành.
- Bánh mì hơi cũ.
- Nhưng không mất tiền. Từ một cửa hàng bánh kẹo lớn, hàng tồn mà. Cậu có thể xơi một chiếc nếu muốn.
- Cảm ơn nhưng tôi ăn rồi. Ông có ăn ở đây không?
- Ít khi lắm.
Phải rồi, chỉ nhìn qua cũng đủ biết là ông không phải người duy trì chế độ ăn kiêng với rau và táo. Ông ngồi ở một đầu bàn và chăm chú nhìn đám đông.
- Đây là lần đầu tiên cậu đến một nơi như thế này à?
- Vâng.
- Từ gì đầu tiên xuất hiện trong óc cậu?
- Vô vọng.
- Có thể đoán được, nhưng rồi cậu sẽ quen thôi.
- Có bao nhiêu người sống ở đây?
- Không, đây chỉ là một cái trại cấp cứu thôi. Bếp thì hoạt động suốt ngày phục vụ bữa trưa và tối. Nhà thờ cũng chỉ đủ tử tế mở cửa vào những ngày thời tiết thật xấu thôi.
Tôi sẽ cố gắng hiểu điều này.
- Nếu vậy những người này sống ở đâu?
- Một số người ở lậu. Họ sống trong những căn nhà bỏ hoang và họ là những kẻ may mắn. Số còn lại lang thang trên đường phố, ngủ trong công viên, trong trạm xe buýt, dưới gầm cầu. Họ vẫn có thể sinh tồn được nếu thời tiết còn có thể chịu đựng được chứ như tối hôm nay thì họ chết cóng mất.
- Vậy những cái trại này mở ra ở những đâu?
- Ở khắp mọi nơi. Có 20 cái cả thảy. Một nửa do kinh phí của các tổ chức phi chính phủ, còn lại là của thành phố, vì chính sách cắt giảm ngân sách chẳng bao lâu sẽ đóng cửa 2 cái trong số này.
- Có bao nhiêu giường tất cả?
- Năm ngàn, ít hay nhiều hơn một chút.
- Có bao nhiêu người vô gia cư?
- Đó luôn luôn là một vấn đề bởi vì những người này không dễ quản lí. Có lẽ là 10.000 người.
- Mười ngàn?
- Phải, đó là chỉ tính những người lang thang trên hè phố. Có thể còn khoảng 20.000 người tạm sống với gia đình hoặc bạn bè, họ mới chỉ mất nhà khoảng một hai tháng gì đó.
- Vậy là có ít nhất là 5.000 người lấy hè phố làm nhà. - Tôi nhắc lại không khỏi sững sờ.
- Ít nhất là như vậy.
Một người tình nguyện đến hỏi thêm bánh sandwich. Với sự giúp đỡ của Mordecai, tôi làm thêm chục cái nữa. Sau đó chúng tôi dừng lại và bắt đầu quan sát đám đông. Cánh cửa mở ra một bà mẹ trẻ bồng một con nhỏ chậm chạp bước vào theo sau có 3 đứa lít nhít nữa. Một đứa nhỏ chân không giày, chỉ mang một đôi vớ len ngắn trông đã te tua. Một chiếc khăn tắm choàng qua cổ trùm xuống tận vai. Hai đứa kia ít ra thì cũng mang giày nhưng ăn mặc phong phanh. Đứa bé nhất hình như đang ngủ.
Người mẹ trông có vẻ đờ đẫn, và khi đã bước vào phòng rồi vẫn lúng túng không biết đi đâu. Không còn chỗ nào trên bàn ăn. Cô dắt díu bọn trẻ đi về phía bàn phân phát thức án. Hai người tình nguyện tươi cười tiến về phía họ. Một người dẫn họ về phía gần bếp và bắt đầu lấy đồ ăn cho họ, một người lấy chăn mền đắp cho họ.
Mordecai và tôi quan sát cảnh đó, tôi cố không nhìn chằm chằm nhưng ai thèm chú ý đến tôi chứ?
- Cô ta sẽ đi đâu sau khi bão tan?
- Ai mà biết được, sao cậu không hỏi cô ấy?
Ấy, điều này sẽ làm tôi dấn sâu thêm mà tôi thì chưa sẵn sàng làm bẩn tay mình. Tôi thầm nghĩ.
- Cậu có tham gia luật sư đoàn ở D.C. không?
- Cũng có, mà sao chứ?
- Chỉ là tò mò thôi. Trong luật sư đoàn có nhiều người tình nguyện giúp đỡ những người vô gia cư.
Ông ta đang thả câu nhưng tôi đâu có dễ dàng bị mắc câu đến thế.
- Tôi chỉ tham dự những vụ thật khó chơi thôi, - tôi tự hào nói và về một khía cạnh nào đó tôi nói đúng. Bốn năm trước tôi giúp một trong những khách hàng của tôi tiến hành thủ tục kiện cho một tù nhân ở Texas. Công ty của tôi có chính sách cho một số luật sư làm công việc tư vấn không công cho tất cả các đối tác của nó với điều kiện việc làm này không ảnh hưởng gì đến lợi nhuận của công ty.
Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát bà mẹ trẻ với 4 đứa con nhỏ. Hai đứa trẻ mới chập chững biết đi ăn kẹo trước trong khi chờ tô súp nguội đi. Người mẹ trông như hóa đá hoặc quá mệt mỏi.
- Có một chỗ nào đó cho cô ta đến sống không? - Tôi hỏi.
- Chắc là không, - ông thản nhiên đáp, đôi chân to tướng của ông đung đưa dưới gầm bàn. - Cho đến ngày hôm qua danh sách đăng kí cho một trại đã lên đến 500 người.
- Cho một trại thôi ư?
- Phải, có một trại đặc biệt của thành phố chỉ mở cửa trong những ngày rét đậm. Có thể đó là cơ may duy nhất của cô ta. Nhưng tôi chắc rằng nó chật cứng tối nay. Rồi hội đồng thành phố lại đóng cửa khi thời tiết khá hơn.
Người phụ trách phải ra về và vì tôi là người tình nguyện đứng gần bếp nhất lại đang rảnh cho nên tôi bị huy động vào công việc. Trong khi Mordecai làm bánh thì tôi thái cần tây, cà-rốt và hành trong vòng một tiếng đồng hồ dưới con mắt giám sát sít sao của bà Dolly, một người của nhà thờ chịu trách nhiệm nấu ăn cho những người vô gia cư trong 11 năm qua. Đây là bếp của bà. Tôi có vinh dự lắm mới được lọt vào đây đấy, và tôi được bảo cho biết là cần tây thái quá to, lập tức chúng được thái nhỏ lại. Tạp dề của bà trắng tinh và không có lấy một vết bẩn, bà tự hào ghê gớm về công việc của mình.
- Có bao giờ bà trở nên quen thuộc với cảnh này không? - Tôi hỏi bà vào một lúc nào đó. Chúng tôi đang đứng gần bếp lửa, và bị cắt ngang bởi một cuộc cãi vã ở phía sau. Mordecai và một mục sư phải can thiệp, hòa bình mới được lập lại.
- Không bao giờ cưng à. - bà nối lại câu chuyện, lau tay vào một chiếc khăn. - Nó bao giờ cũng làm tan vỡ trái tim tôi. Nhưng nói như một câu tục ngữ: Phúc cho kẻ nào mang miếng ăn đến cho kẻ khó. Chính điều này đã khiến cho tôi đứng vững được.
Bà quay đi khuấy nồi súp.
- Gà đã sẵn sàng. - bà nói hướng về phía tôi.
- Thế là sao ạ?
- Có nghĩa là cậu phải vớt gà ra, đổ nước luộc gà vào cái bình kia, chờ cho gà nguội rồi lóc thịt gà ra.
Lóc thịt gà cũng là cả một nghệ thuật, nhất là dưới sự hướng dẫn của bà Dolly. Ngón tay tôi nóng dẫy gần như là phồng lên sau khi tôi hoàn thành nhiệm vụ.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét