Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2024

Luật Sư Nghèo - Chương 10

Luật Sư Nghèo

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Hồng Vân
NXB Văn Nghệ TP HCM - 2001

Chương 10

Ngày Chủ nhật bắt đầu bằng cú điện thoại vào lúc gần trưa của Claire, lại một cuộc trao đổi giả tạo nữa trong đó nàng chỉ có ý muốn thông báo cho tôi biết khi nào nàng sẽ về đến nhà. Tôi gợi ý là chúng tôi sẽ ăn tối tại một trong những nhà hàng ưa thích của chúng tôi, nhưng nàng không hào hứng gì với đề nghị đó. Tôi cũng chẳng buồn hỏi xem là có chuyện gì xảy ra vậy. Chúng tôi chẳng bao giờ đi sâu vào chi tiết.
Bởi vì căn hộ của chúng tôi ở lầu ba, người phát thư báo không thể chuyển tờ Post Chủ nhật đến cho chúng tôi được. Chúng tôi phải áp dụng nhiều cách khác nhau, nhưng chẳng bao giờ chúng tôi có được báo đúng giờ cả.
Tôi tắm rửa và mặc vào người mấy lớp áo. Xướng ngôn viên thời tiết dự báo nhiệt độ cao nhất là 25 độ, và tôi đang sẵn sàng rời khỏi căn hộ thì phát thanh viên loan báo tin mới nhận được. Chúng làm tôi cứng người lại, tôi nghe rõ từng tiếng nhưng mà sao đầu tôi không tiếp nhận ngay được. Tôi bước lại gần chiếc TV đặt trên kệ bếp, chân nặng như chì, trái tim đông cứng trong lồng ngực, miệng há hốc vì sửng sốt và kinh hoàng. Vào lúc 11 giờ đêm qua cảnh sát thành phố tìm thấy một chiếc xe hơi nhỏ đậu gần công viên Fort Totten, ở vùng Đông bắc trong một khu vực tội phạm hoành hành. Nó đậu trên đường phố, những chiếc bánh mòn vẹt của nó kẹt trong tuyết. Trong xe một người mẹ trẻ và bốn đứa con nằm chết vì ngạt. Cảnh sát cho rằng gia đình này sống trong chiếc xe và đã cố gắng sưởi ấm. Ống xả của xe bị vùi trong một lớp tuyết dày trên đường phố. Một vài chi tiết nữa nhưng không có tên tuổi nạn nhân.
Tôi lao xuống đường, trượt đi trong tuyết nhưng vẫn đứng vững, xuôi xuống đường P đến Wisconsin, qua đường 34 đến một sạp báo. Hụt cả hơi và vô cùng kinh hoàng tôi chộp lấy tờ báo. Ở cuối trang nhất là câu chuyện đó, rõ ràng là được lên khuôn vào phút chót. Không có tên tuổi.
Tôi mở toang phần A, để rơi những trang còn lại trên lề đường ẩm ướt. Cầu chuyện tiếp tục ở trang 14 với một vài nhận định sơ bộ của cảnh sát và những cảnh cáo trước về những mối nguy hiểm khi ống xả bị tắc. Và sau đó là những chi tiết bi thảm. Người mẹ 22 tuổi tên là Lontae Burton. Đứa bé nhất là Temeko. Hai đứa trẻ sinh đôi là Alonzo và Dante. Đứa lớn nhất là Ontario, bốn tuổi.
Chắc hẳn tôi kêu lên một tiếng lạ lùng, vì một người chạy bộ nhìn tôi quái đản chắc nghĩ là tôi rất nguy hiểm. Tôi bắt đầu bước đi, vẫn mở toang tờ báo, dẫm lên những trang báo bỏ rơi.
- Xin lỗi, - một giọng nói the thé phía sau lưng. - Ông có tính trả tiền không đây?
Tôi cứ bỏ đi tiếp.
Hắn ta chạy phía sau tôi la lên.
- Này, anh bạn!
Tôi dừng lại đủ thời gian để rút trong túi ra tờ 5 đô, ném xuống chân hắn mà không thèm nhìn.
Trên đường P gần nhà tôi, tôi tựa lưng vào một bức tường gạch đã rạn nứt trước một dãy nhà đẹp. Lề đường đã được dọn kĩ lưỡng, tôi đọc bài báo một lần nữa, chậm hơn hi vọng là bằng một cách nào đó nó sẽ kết thúc khác đi. Những suy nghĩ và những câu hỏi đến tới tấp, tôi cũng không theo kịp nữa. Nhưng có hai câu hỏi cứ lặp đi lặp lại: tại sao họ không quay lại trại? Và phải chăng đứa bé gái quấn trong chiếc áo khoác len dày của tôi đã chết thật rồi?
Suy nghĩ cũng là một gánh nặng. Bước đi tiếp là chuyện không thể được. Sau cú sốc là cảm giác tội lỗi. Tại sao tôi không làm một cái gì đó cho họ ngay trong đêm thứ Sáu tôi gặp họ lần đầu tiên? Tôi có thể đưa họ đến một căn nhà trọ và cho họ ăn uống cơ mà.
Chuông điện thoại reng khi tôi về đến nhà. Đó là Mordecai, hỏi xem tôi đã đọc bài báo chưa. Tôi hỏi xem ông có nhớ chuyện cái tã ướt không. Gia đình ấy đấy, tôi nói. Ông chưa nghe thấy tên họ. Tôi kể cho ông nghe thêm về câu chuyện giữa tôi và Ontario.
- Tôi rất buồn, Michael, - ông nói giọng rầu rĩ.
- Tôi cũng thế.
Tôi không thể nói chuyện tiếp vì tôi nói không thành tiếng, chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau sau.
Tôi bước lại ghế sofa nơi tôi ngồi bất động hàng tiếng.
Sau đó tôi xuống xe bỏ ra những túi đựng thức ăn, đồ chơi, quần áo mà tôi mua cho họ.
Chỉ vì tò mò mà Mordecai ghé qua chỗ làm việc của tôi vào buổi trưa. Ông đã từng thấy nhiều văn phòng tráng lệ trong đời, nhưng ông muốn nhìn cái chỗ mà Mister đã ngã xuống chết. Tôi đưa ông đi xem một vòng thật nhanh với một vài lời vắn tắt về sự kiện đó.
Chúng tôi rời khỏi văn phòng của tôi bằng chiếc xe của ông. Tôi phải cảm ơn ngày Chủ nhật xe cộ rất thưa thớt vì rằng Mordecai chẳng hề chú ý đến các xe khác.
- Mẹ của Lontae Burton mới 38 tuổi ngồi tù 10 năm vì buôn bán ma túy. - Ông thông báo cho tôi sau khi gọi một cú điện thoại. - Hai người em cũng ở trong tù. Lontae có tiền sử làm gái mại dâm và liên quan đến ma túy. Không biết gì về người cha hoặc là những người cha của bọn trẻ.
- Ai cung cấp tin cho ông?
- Tôi gặp bà ngoại cô ta ở một nhà cho người già. Lần cuối cùng bà ta gặp cô ấy, cô mới chỉ có ba con và đang bán ma túy với mẹ. Theo người bà này thì bà cắt đứt liên lạc với con gái và cháu gái vì vấn đề ma túy.
- Ai sẽ chôn họ?
- Cũng những người đã chôn DeVon Hardy.
- Một đám ma tươm tất mất bao nhiêu?
- Giá thương lượng. Cậu quan tâm đến chuyện đó à?
- Tôi muốn họ được mồ yên mả đẹp.
Chúng tôi lại đi trên đại lộ Pennsylvania, ngang qua những tòa nhà làm văn phòng khổng lồ của Quốc hội, điện Capitol, và tôi không thể ngăn không thốt ra lời nguyền rủa những kẻ đã lãng phí hàng tỉ bạc mỗi tháng trong khi có những người không chốn nương thân. Làm sao mà lại có bốn đứa trẻ vô tội, chết trên hè ngay dưới bóng của điện Capitol này chỉ bởi vì chúng không có nơi nương náu?
Chúng lẽ ra không nên ra đời, những người bên phía tôi sẽ nói vậy.
Thi thể của họ được đưa vào văn phòng của trung tâm giám nghiệm y khoa, và cũng là nhà xác. Đó là một ngôi nhà hai tầng màu nâu của bệnh viện trung tâm. Xác của họ sẽ được để ở đây cho đến khi có người nhận. Nếu trong vòng 48 tiếng không có người đến nhận thì chúng sẽ được xử lí bằng hóa chất, cho vào quan tài và đem đi chôn thật nhanh tại nghĩa địa gần RFK.
Mordecai đậu xe ở một bãi xe hỏng, dừng lại một giây và hỏi:
- Cậu có chắc là cậu muốn vào trong đó không?
- Tôi nghĩ là có.
Ông đã từng đến đây trước và cũng đã gọi điện thoại trước. Một người bảo vệ trong bộ đồng phục xấu xí dám chặn chúng tôi lại, Mordecai quặc lại to đến nỗi làm tôi cũng phải sợ. Dù sao thì bụng tôi cũng quặn lại.
Người bảo vệ rút lui, vui vẻ vì tránh xa được chúng tôi. Một loạt những cánh cửa bằng kính trên có dòng chữ NHÀ XÁC sơn đen hiện ra. Mordecai cứ xông vào như thể ông làm chủ nơi này.
- Tôi là Mordecai Green, luật sư của gia đình Burton. - Ông làu bàu với một người đàn ông ngồi sau bàn, đó là một lời thách thức nhiều hơn là một lời thông báo.
Người đàn ông kiểm tra một cái bìa kẹp hồ sơ, giở một vài tờ giấy trong đó.
- Anh làm cái quái gì vậy? - Mordecai quát anh ta.
Người đàn ông nhìn lên định sửng cồ, nhưng khi nhìn thấy đôi thủ của gã to lớn như thế nào đành nói:
- Xin chờ một phút, - và đi về phía máy tính.
Mordecai quay về phía tôi và nói thật to.
- Cậu chắc phải nghĩ là họ có đến hàng ngàn xác chết ở đây ấy.
Tôi nhận ra là ông không có một chút xíu kiên nhẫn nào với những nhân viên bàn giấy và những viên chức nhà nước, và tôi nhớ đến câu chuyện của ông về lời xin lỗi của cô thư kí ở Sở An sinh xã hội. Với Mordecai, một nửa công việc của người luật sư là hăm dọa và quát tháo.
Một người đàn ông xanh xao với mái tóc nhuộm đen xấu xí và một cái bắt tay nhèm nhẹp hiện ra tự giới thiệu anh ta tên là Bill. Anh ta bận một chiếc áo khoác ngoài vô trùng màu xanh, mang giày có đế bằng cao su dày. Họ kiếm được những người chịu làm việc trong nhà xác ở đâu vậy?
Chúng tôi đi theo anh ta qua một cái cửa, vào một hành lang vô trùng, nơi nhiệt độ đột nhiên hạ thấp xuống và cuối cùng thì đi đến nhà xác.
- Anh có bao nhiêu cái xác hôm nay? - Mordecai hỏi như thể ông ghé qua chỉ để đếm những xác chết.
Bill xoay nắm đấm và nói:
- Mười hai.
- Cậu không sao chứ? - Mordecai hỏi tôi.
- Tôi cũng chẳng biết nữa.
Bill đẩy cánh cửa kim loại và chúng tôi bước vào. Không khí trong phòng giá lạnh, sặc mùi thuốc diệt khuẩn. Sàn nhà lát gạch trắng, đèn huỳnh quang màu xanh. Tôi đi theo Mordecai, đầu cúi xuống, cố không nhìn quanh, nhưng mà không thể. Những cái xác phủ drap trắng từ đầu đến chân như bạn thấy trong TV ấy. Chúng tôi đi qua những chiếc chân trắng, một cái thẻ gài vào ngón chân. Rồi đến những cái chân màu nâu.
Chúng tôi quay lại và dừng ở một góc, một chiếc xe đẩy ở bên trái, một chiếc bàn ở bên phải.
Bill nói:
- Lontae Burton. - và lật nhanh tấm vải đến tận thắt lưng. Đó đúng là mẹ của Ontario, trong chiếc áo liệm màu trắng đơn giản. Cái chết không để lại một dấu vết nào trên mặt cô. Cô đã và đang trong một giấc ngủ an lành. Tôi không thể quay mặt đi chỗ khác.
- Đúng là cô ấy rồi, - Mordecai nói như thể ông quen biết cô hàng năm rồi. Ông nhìn tôi chờ một lời xác nhận, và tôi cố gắng gật gật đầu. Bill đẩy một cái xe khác đến và tôi nín thở. Chỉ có một tấm vải phủ trên người những đứa trẻ.
Chúng nằm thành một dãy thẳng hàng sát bên nhau, tay chắp lại trên chiếc áo liệm của chúng, những tiểu thiên sứ đang ngủ, những chiến binh bé nhỏ của đường phố cuối cùng cũng yên giấc ngàn năm.
Tôi muốn chạm vào người Ontario, vỗ vào vai bé và nói rằng tôi thật sự rất tiếc. Tôi muốn đánh thức bé dậy, dẫn bé về nhà tôi, cho bé ăn, và cho bé bất cứ thứ gì mà bé có thể muốn.
Tôi dặm một bước về phía trước để nhìn rõ hơn.
- Đừng đụng vào! - Bill ngăn lại. Khi tôi gật đầu, Mordecai nói:
- Chính là họ.
Và Bill lại phủ tấm drap lên mặt những đứa bé. Tôi nhắm mắt lại thầm đọc một lời cầu nguyện ngắn ngủi, một lời cầu nguyện cho một sự khoan dung và tha thứ. Đừng bao giờ để chuyện đó xảy ra nữa, đức Chúa trời nói với tôi như thế.
Ở một căn phòng phía lối đi, Bill lôi ra 2 chiếc thùng lớn đựng những vật đụng cá nhân của gia đình. Ông ta đổ chúng lên bàn và tôi giúp ông ghi lời kê khai. Quần áo của họ dơ bẩn và rách rưới. Chiếc áo khoác của tôi là món đồ đẹp nhất mà họ có. Có 3 cái chăn, một cái ví, một ít đồ chơi rẻ tiền, đồ dùng cho bé sơ sinh, một cái khăn tắm, một số quần áo dơ nữa, 2 cái bao cao su, và khoảng 20 đô tiền mặt và một ít tiền lẻ.
- Chiếc xe đang ở trong bãi đậu xe của thành phố, - Bill nói, - người ta nói rằng nó đầy những món đồ tầm tầm.
Chúng tôi kí tên vào những tờ kê khai và rời nhà xác với gia tài của gia đình Lontae Burton.
- Ông định làm gì với những thứ này? - tôi hỏi.
- Đưa đến cho bà ngoại cô ta. Cậu có muốn lấy lại cái áo khoác không?
- Không.
Chủ một dịch vụ mai táng là một cha cố mà Mordecai quen biết. Ông không thích ông cha này bởi vì cha không đủ lòng từ tâm đối với những kẻ không nhà, nhưng ông có thể thương lượng được với cha.
Chúng tôi đậu xe ở trước nhà thờ trên đại lộ Georgia gần trường đại học Howard, một vùng tương đối tươm tất của thành phố không có những tấm ván bịt cửa sổ.
- Tốt nhất là cậu nên ngồi lại trong xe, - ông nói, - tôi có thể thương lượng tốt hơn nếu chỉ có chúng tôi với nhau.
Tôi không muốn ngồi một mình trong xe tí nào, nhưng dù sao thì lúc ấy tôi cũng tin tưởng giao phó cả đời tôi cho ông.
- Được thôi. - tôi lẩm bẩm, ngả sâu vào lưng ghế và nhìn quanh.
- Cậu sẽ ổn thôi.
Ông bỏ đi và tôi khóa cửa xe lại. Vài phút sau tôi ngồi thư giãn và bắt đầu suy nghĩ. Mordecai muốn một mình gặp cha cố để mặc cả. Sự có mặt của tôi sẽ làm cho mọi việc phức tạp hơn. Tôi là ai và có mối quan tâm gì đến gia đình này? Giá cả sẽ lập tức tăng lên.
Ngoài vỉa hè rất nhộn nhịp. Tôi nhìn đám người bước gấp, gió lạnh quất vào mặt họ buốt rát. Một người mẹ cùng 2 con đi ngang qua chỗ tôi. Quấn mình trong những bộ quần áo đẹp, tay trong tay nhau. Họ ở đâu đêm qua trong khi Ontario và gia đình nó chen chúc trong chiếc xe lạnh cóng đầy chất khí monoxide carbon cho đến khi hồn lìa khỏi xác? Tất cả chúng tôi ở đâu vào lúc đó?
Cuộc sống ngừng trôi. Chẳng có cái gì có ý nghĩa hết. Trong vòng chưa đầy một tuần lễ tôi đã chứng kiến sáu cái chết của những người lang thang không cửa không nhà, và tôi quá yếu đuối để qua nổi cú sốc đó. Tôi là một luật sư da trắng, học hành tử tế, có một cuộc sống no đủ và giàu có, đang trên con đường đi đến cuộc sống giàu sang phú quý vô kể có thể mua bất cứ thứ gì tuyệt vời nhất. Chắc là cuộc hôn nhân sẽ đổ vỡ nhưng rồi tôi cũng sẽ vượt qua thôi. Còn bao nhiêu phụ nữ tốt đẹp trên đời này. Tôi chẳng có gì phải lo lắng cả.
Tôi nguyền rủa Mister vì đã làm đảo lộn cuộc sống của tôi. Tôi nguyền rủa Mordecai vì đã làm cho tôi có mặc cảm tội lỗi. Và Ontario vì đã làm tan nát trái tim tôi. Một tiếng gõ trên cánh cửa đã làm cho tôi giật mình. Thần kinh của tôi trở nên quá nhạy cảm. Đó là Mordecai đứng cạnh xe dưới làn tuyết. Tôi quay cửa kính.
- Ông ta bảo sẽ lo mai táng cho cả 5 người với giá 2.000 đô.
- Thế cũng được, - tôi nói và ông ta biến mất.
Vài phút sau ông quay lại ngồi sau tay lái và chúng tôi phóng đi.
- Ngày thứ Ba người ta bắt đầu cử hành tang lễ, ngay trong nhà thờ, quan tài bằng gỗ tốt. Ông ta sẽ cho trang trí hoa, cậu biết đấy, để cho dễ coi hơn. Ông ta đòi 3.000 cơ nhưng tôi thuyết phục ông ta rằng sẽ có quay phim và ông ta sẽ được lên T.V. Ông ta thích lắm. 2.000 cũng không đắt đâu.
- Cảm ơn ông Mordecai!
- Cậu ổn chứ?
- Tôi không sao đâu.
Chúng tôi nói với nhau rất ít trong khi lái xe đi.
* * *
Em trai của Claire, James, bị chuẩn đoán là bị bệnh Hodgkin - vì thế mà cả gia đình tụ họp ở Province. Chuyện đó chẳng có liên quan gì đến tôi. Tôi lắng nghe nàng kể chuyện về kì nghỉ, về cú sốc khi cả nhà biết tin, những giọt lệ và những lời cầu nguyện khi họ tựa vào nhau an ủi James và vợ của cậu ta. Gia đình nàng là một gia đình rất dễ bộc lộ cảm xúc. Tôi thầm cảm ơn Claire vì nàng đã không gọi tôi đến. Những biện pháp điều trị được tiến hành ngay lập tức và có chiều hướng tốt.
Nàng có vẻ vui sướng được về nhà và có người để thổ lộ tất cả. Chúng tôi uống rượu trong phòng xép bên ngọn lửa từ lò sưởi hắt ra chập chờn trên chân chúng tôi. Khung cảnh thật là lãng mạn nhưng tôi quá sợ hãi dù là chỉ nghĩ đến việc trở nên tình cảm hơn. Tôi đã phải có một nỗ lực vượt bực để nghe câu chuyện của nàng, biểu lộ một nỗi buồn thích hợp với tình trạng bệnh tật của James, đưa ra những câu hỏi đúng chỗ, phù hợp.
Nhưng đó chẳng phải điều tôi chờ đợi và tôi cũng không chắc là tôi có thực tình muốn thế không. Chẳng bao lâu sự tình phải trở nên xấu đi, rồi trở nên lịch sự hơn khi chúng tôi dàn xếp chuyện li thân như những người lớn thật sự. Nhưng mà sau vụ Ontario, tôi không được chuẩn bị để đối phó với những vấn đề liên quan đến xúc cảm. Tôi mệt muốn chết. Nàng cứ nói mãi là trông tôi mới mệt mỏi làm sao. Tôi gần như cảm ơn nàng về điều đó. Tôi lắng nghe nàng một cách chăm chú sau đó câu chuyện xoay sang tôi và kì nghỉ cuối tuần của tôi. Tôi kể cho nàng nghe mọi chuyện về cuộc sống mới của tôi với vai trò là một người tình nguyện trong các trại người nghèo, sau đó về Ontario và gia đình của bé. Tôi cho nàng xem bài báo đó.
Nàng xúc động thật sự nhưng cũng tỏ ra bối rối. Tôi đã không còn là con người trước đây một tuần nữa và nàng không chắc là nàng có thích con người mới này hơn người cũ không. Cả tôi cũng không chắc về mình nữa.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét