Luật Sư Nghèo
Tác giả: John Grisham
Người dịch: Hồng Vân
NXB Văn Nghệ - 2001
Chương
2
Được chỉ định như là thư kí của nhóm, tôi
ngồi vào chỗ mà Mister chỉ bằng cây súng trong lúc ông chộp lấy những tờ fax.
Các bạn đồng nghiệp của tôi đã đứng gần hai tiếng, lưng tựa vào tường vẫn bị
trói dính vào nhau, rất khó cử động; họ bắt đầu có vẻ lừ đừ mệt mỏi và trông rất
tội nghiệp.
Nhưng sự khó chịu của họ mới chỉ bắt đầu
tăng lên một cách có ý nghĩa.
- Anh trước, - Mister nói với tôi. - Tên
anh là gì?
- Michael Brock, - tôi trả lời thật lịch sự.
- Rất vui được gặp ông.
- Anh kiếm được bao nhiêu tiền năm ngoái?
- Như tôi đã nói với ông. 120.000 đô chưa
đóng thuế.
- Anh cho đi bao nhiêu?
Tôi chắc rằng tôi có thể nói láo. Tôi không
phải là luật sư về thuế, nhưng tôi tin rằng tôi có thể làm xiếc với câu hỏi
này. Tôi lấy tờ kê khai của tôi và mất một lúc để đọc qua những tờ giấy này.
Claire kiếm được 31.000 đô với tư cách là bác sĩ nội trú năm thứ hai, vì thế
chúng tôi kiếm được kha khá. Nhưng chúng tôi phải trả thuế tất cả 53.000 đô - gồm
có thuế lợi tức liên bang và ti tỉ những loại thuế khác - và sau khi trả nợ tiền
vay đi học thời sinh viên, tiền học phí cho Claire, 2.400 đô tiền thuê một căn
hộ sang trọng ở Georgetown, tiền thế chấp bắt buộc cho hai chiếc xe đời mới, và
một lô những chi phí thông thường khác phục vụ một cuộc sống tiện nghi, chúng
tôi chỉ còn số vốn đầu tư sinh lời là 24.000 đô một năm.
Mister nghe tôi một cách kiên nhẫn. Trong
thực tế sự kiên nhẫn của ông ta bắt đầu làm tôi lo ngại. Tôi đồ rằng những
thành viên của đội đặc nhiệm đang bò trong ống thông hơi, trèo trên những ngọn
cây mọc gần đấy, chạy trên các mái nhà của tòa nhà bên cạnh, quan sát thiết kế
của tòa nhà này, làm tất cả những gì mà bạn thấy trên TV với một mục tiêu là
ghim một viên đạn vào sọ ông ta, và dường nhưng chính ông cũng biết điều đó.
Ông ta chấp nhận số phận và sẵn sàng chết. Nhưng còn tất cả chúng tôi thì sao?
Ông ta tiếp tục nghịch nghịch cái que màu đỏ
và làm cho tim tôi đập đến trên 100 nhịp.
- Tôi hiến 1.000 đô cho Yale, - tôi nói, - và
2.000 đô cho United Way tại đây.
- Anh đưa cho người nghèo bao nhiêu?
Tôi không biết là Yale có dùng số tiền này
cho sinh viên nghèo không.
- Vâng United Way rải số tiền này khắp
thành phố, và tôi tin rằng một phần lớn số tiền này sẽ được đưa đi giúp người
nghèo.
- Anh đã cho người đói bao nhiêu tiền?
- Tôi trả thuế 53.000 đô, và một số lớn
trong đó là vào phúc lợi xã hội như là trợ cấp y tế, trợ cấp cho những trẻ em
nghèo, đại loại như vậy.
- Anh làm tất cả những điều này một cách tự
nguyện với tất cả tâm hồn của mình chứ?
- Tôi không phàn nàn gì hết, - tôi nói dối
như tất cả mọi người.
- Anh đã đói bao giờ chưa?
Ông ta thích những câu trả lời đơn giản, và
sự thông minh hài hước của tôi chẳng có tác dụng gì.
- Không, - tôi đáp, - chưa bao giờ.
- Anh đã bao giờ ngủ trong tuyết chưa?
- Chưa.
- Anh làm ra rất nhiều tiền, vậy mà anh quá
tham lam keo kiệt để có thể cho tôi vài đồng lẻ trên lối đi. - Ông ta vung súng
chỉ những người còn lại. - Tất cả các anh, các anh bước qua chỗ tôi ngồi ăn
xin. Các anh tiêu cho một bữa cà phê sang trọng còn nhiều hơn những bữa ăn của
tôi. Tại sao các anh không giúp người nghèo, người ốm, người không cửa không
nhà? Các anh giàu quá mà.
Tôi bắt gặp mình đang nhìn những con người
tham lam này cùng với Mister, và đó chẳng phải là điều đẹp đẽ gì. Hầu hết mọi
người đều nhìn xuống chân mình. Chỉ có Rafter là nhìn xuống bàn họp, nghĩ về những
gì hiện ra trong đầu tất cả chúng tôi khi chúng tôi bước qua mặt Mister ở D.C.
này: Nếu tôi cho ông tiền lẻ thì ông sẽ (1) nốc đẫy rượu vào, (2) chỉ có nài
thêm nữa thôi, (3) sẽ không bao giờ rời lề đường đó.
Im lặng nữa. Một chiếc trực thăng xà quần gần
đó, và tôi có thể hình dung họ đã sắp đặt như thế nào ở bãi đậu xe. Theo chỉ thị
của Mister, điện thoại đã bị gác, vì thế mà chẳng có liên hệ với bên ngoài. Ông
ta chẳng có mong muốn trao đổi hay thương lượng gì hết. Ông ta đã có cử tọa
trong phòng họp này.
- Ai trong số này kiếm được nhiều tiền nhất?
- ông ta hỏi tôi.
Chỉ có Malamud là người hùn vốn, và tôi xáo
những tờ giấy cho đến khi tìm thấy tờ phiếu của ông ta.
- Chắc là tôi, - Malamud nói.
- Tên ông là gì?
- Nate Malamud.
Tôi đọc qua bản kê khai của Malamud. Thật
là một khoảnh khắc hiếm hoi được ghé mắt nhìn những chi tiết bí mật trong bản
kê thu nhập của một người hùn vốn, nhưng tôi chẳng vui vẻ gì về chuyện đó hết.
Ôi niềm vui của bản thống kê thu nhập. Thưa
ông, ông muốn biết gì? Tổng số ư? Tổng số đã được điều chỉnh ư? Phần phải chịu
thuế ư? Thu nhập từ lương và phụ cấp? Hay thu nhập từ việc kinh doanh và đầu
tư?
Lương công ty trả cho Malamud một tháng là
50.000 đô, và tiền thưởng hàng năm của ông ta, một điều mà tất cả chúng tôi đều
mơ ước, là 510.000 đô. Năm ngoái là một năm bội thu tất cả chúng tôi đều biết
thế. Ông là một trong nhiều người hùn vốn có số thu nhập trên một triệu đô một
năm.
Tôi quyết định chơi thật an toàn. Có nhiều
khoản thu nhập được giấu ở phần sau của bản thông kê - tiền cho thuê những cơ sở
vật chất, cổ tức, và những công cuộc kinh doanh nhỏ - nhung tôi sợ rằng Mister
có thể chộp lấy bản thông kê và đánh vật với những con số.
- Một triệu mốt, - tôi đáp bớt đi hai trăm
ngàn đô.
Mister ngẫm nghĩ con số đó trong một lúc.
- Ông làm ra hàng triệu đô, - Mister nói với
Malamud, người thậm chí chẳng hề xấu hổ về điều đó.
- Vâng.
- Ông đã cho người đói và người không cửa
không nhà bao nhiêu?
Tôi có thể dò xét được ông ta biến báo như
thế nào.
- Tôi không nhớ chính xác, vợ chồng tôi làm
từ thiện rất nhiều. Tôi nhớ có một khoản 5.000 đô cho vào Quĩ Greater D.C.
Fund, nơi này như tôi biết phân phối tiền cho những người cần. Chúng tôi làm từ
thiện nhiều lắm. Chúng tôi rất vui khi làm như vậy.
- Tôi chắc là ông rất vui rồi, - Mister nói
với một vẻ hài hước đầu tiên.
Ông ta không cho phép chúng tôi giải thích
là chúng tôi đã hào phóng như thế nào. Ông ta chỉ cần những sự thật trần trụi.
Ông hướng đẫn tôi kê tên 9 người và bên cạnh tên là cột tổng thu nhập năm ngoái
và tổng số tiền làm từ thiện.
Việc này cũng phải mất một lúc, tôi không
biết là nên làm vội vã hay cứ từ từ. Liệu ông ta có giết tất cả chúng tôi khi
ông ta không thích những con tính này không? Có lẽ là tôi chẳng nên vội vã làm
gì. Thật rõ ràng là những người giàu có chúng tôi đã cho không đi rất ít. Cũng
lúc đó tôi hiểu rằng tình huống này càng kéo dài bao nhiêu thì cuộc giải cứu
càng trở nên điên rồ bấy nhiêu.
Ông ta không hề nói gì đến việc thịt tất cả
những con tin. Ông ta không nói gì đến việc giải phóng bạn bè ông ta ra khỏi
tù. Ông ta có vẻ không muốn gì hết, thật thế.
Tôi cứ thong thả. Malaxnud dẫn đầu, kế đó
là Colbum, một luật sư làm việc năm thứ ba có tổng thu nhập là 86.000 đô. Tôi nản
chí khi khám phá ra là anh bạn tôi Barry Nuzzo thu nhập nhiều hơn tôi 11.000.
Chúng tôi sẽ thảo luận về chuyện này sau.
- Nếu ông muốn biết thì con số tổng thu nhập
của chúng tôi là 3 triệu đô một năm, - tôi nói với Mister người hình như chợt
thiếp đi tay vẫn giữ cái que màu đỏ.
Ông chậm rãi lắc đầu:
- Và bao nhiêu tiền cho người nghèo?
- Tổng số tiền đóng góp cho người nghèo là
180.000 đô.
- Tôi không muốn tổng số đóng góp. Đừng có
đổ đồng tôi và những người của tôi vào một bọn với các người như trong một dàn
nhạc giao hưởng, trong tất cả các câu lạc bộ đẹp đẽ của bọn da trắng các người
nơi các người uống rượu xịn và bán đấu giá bút tích rồi bố thí một vài đồng cho
lũ hướng đạo sinh. Tôi đang nói về thức ăn. Thức ăn cho những người đói sống ở
đây, trong cùng một thành phố với các ông đây này. Thức ăn cho trẻ nhỏ. Ngay tại
đây này. Ngay trong thành phố này, nơi với bọn các người kiếm tiền bạc triệu,
chúng tôi có những đứa trẻ sơ sinh khóc suốt đêm, khóc vì đói. Bao nhiêu tiền
cho thức ăn nào?
Ông nhìn tôi, tôi nhìn xuống tờ giấy trước
mặt, tôi không thể nói dối.
Ông tiếp tục.
- Bọn này có những bếp ăn từ thiện ở khắp
thành phố, nơi những người nghèo và những người không cửa không nhà có thể kiếm
chút gì bỏ vào miệng. Bọn các người đưa bao nhiêu tiền cho những bếp ăn này? Có
không?
- Không trực tiếp, - tôi nói, - nhưng một số
cơ sở từ thiện...
- Im mồm, - và ông ta lại vung súng lên. - Thế
còn những trại cho người vô gia cư. Chỗ chúng tôi ngủ nhiệt độ là 10 độ*. Có
bao nhiêu cái trại như thế trong những tờ giấy này?
*[10
độ F = -12,2 độ C]
Đầu tôi chịu không nghĩ ra được điều gì.
- Không, - tôi nói nhẹ nhàng.
Ông nhảy lên làm hết thảy chúng tôi giật
mình kinh sợ, những cái que màu đỏ rung rinh trong miếng giấy thiếc. Ông đá cái
ghế lùi lại.
- Thế còn các trại tế bần. Chúng tôi có một
số nhà thương thí nho nhỏ nơi các bác sĩ - những người đứng đắn tốt bụng, từng
kiếm được khôi tiền đấy - đến đây và cống hiến thời gian của họ cho những người
bệnh. Họ chẳng được trả lương gì hết. Chính phủ đã từng giúp trả tiền thuê mặt
bằng, tiền mua thuốc và dụng cụ y tế. Nhưng bây giờ khi Newt nắm quyền điều
hành thì tiền bạc đi đâu mất. Các anh đã công hiến vào những nhà thương này bao
nhiêu?
Rafter nhìn tôi như thể muốn tôi làm một
cái gì đó như là bất thình lình nhìn thấy một cái gì đó trong đông giấy tờ và
kêu lên. “Ô, nhìn này! Chúng tôi đã cống nộp vào các bếp ăn từ thiện và các nhà
thương thí nửa triệu đô”.
Đó chính là cái điều mà Rafter sẽ làm nhưng
không phải tôi. Tôi không muốn xơi một viên đạn. Mister thông minh hơn cái vẻ
bên ngoài nhiều.
Tôi chúi đầu vào mớ giấy tờ trong lúc
Mister đến bên cửa sổ, nhìn qua khe rèm.
- Cớm ở khắp mọi nơi, - ông ta nói, đủ cho
chúng tôi nghe thấy. - Và rất nhiều xe cứu thương.
Sau đó ông ta quên đi cảnh tượng bên dưới,
lê bước đến một đầu bàn đi tiếp cho đến khi ông đến gần các con tin. Họ quan
sát từng cử chỉ của ông, với một sự chú ý đặc biệt đến một tiếng nổ. Ông từ từ
nâng khẩu súng lên nhắm ngay vào mũi Colburn, chỉ cách khoảng hơn một mét.
- Anh cho các nhà thương bao nhiêu tiền?
- Không, - Colburn nói nhắm chặt mắt lại, sẵn
sàng khóc òa lên.
Trái tim tôi cứng lại trong lồng ngực, tôi
nín thở.
- Bao nhiêu tiền cho bếp ăn từ thiện?
- Không.
- Bao nhiêu tiền cho cho trại tị nạn của những
người vô gia cư?
- Không.
Thay vì bắn Colburn, ông nhắm vào Nuzzo và
lặp lại ba câu hỏi trên. Nuzzo trả lời tương tự và ông từ từ chuyển xuống cuối
hàng người, dí súng vào mũi họ, hỏi ngần ấy câu và nhận được bằng ấy câu trả lời
giống nhau. Ông không bắn Rafter, thật không may cho chúng tôi quá.
- Ba triệu đô, - ông nói vẻ kinh tởm, - và
không một xu cho những người bệnh và những người đói khát. Các anh là những kẻ
khốn khổ thảm hại.
Chúng tôi cảm thấy khốn khổ thật. Và tôi nhận
thấy là ông sẽ không giết chúng tôi. Làm cách nào mà một gã ma cà bông ngoài phố
có thể có mìn? Ai dạy ông ta cách cài mìn chứ?
Khi trời tối ông nói ông đói và bảo tôi gọi
điện cho sếp và gọi món súp từ Methodist Mission giữa đường L và đường 17, vùng
Đông Bắc. Ở đây họ cho nhiều rau trong nước súp, Mister nói và bánh mì thì
không quá cứng như ở các nơi khác.
- Bếp từ thiện này có mang súp đến không? -
Rudolph hỏi với giọng ngỡ ngàng. Giọng của ông vọng lên trong phòng từ cái loa.
- Hãy làm thế đi Rudolph. - Tôi sủa vào
máy, - và làm cho đủ 10 người ăn.
Mister bảo tôi cúp máy và lại gác ống nghe
lên.
Tôi có thể nhìn thấy bạn bè tôi và cả một
tiểu đội cảnh sát bay ngang qua thành phố, trong giờ cao điểm nhất đến một hội
thánh nhỏ yên tĩnh nơi những người vô gia cư rách rưới nhất đang cúi người trên
tô súp, họ sẽ tự hỏi không biết chuyện quái quỷ gì xảy ra thế này. Mười phần
súp cùng với bánh mì.
Mister lại ra đứng bên cửa sổ khi chúng tôi
nghe tiếng máy bay lên thẳng một lần nữa. Ông ghé mắt nhòm và quay lại gãi gãi
râu suy nghĩ về tình thế này. Không hiểu chiến lược của họ là gì mà dùng đến cả
máy bay thế này, có thể là để chuyển những người bị thương.
Umstead bồn chồn không yên cả giờ rồi, thật
là không may cho Rafter và Malamud những người bị trói chung với anh ta. Cuối
cùng anh ta không thể chịu được nữa.
- Ô xin lỗi ông, ơ nhưng, nhưng mà tôi ơ
không thể chịu được nữa. Tôi muốn đi toilet.
Mister vẫn gãi râu.
- Toilet hả, mà là cái gì kia chứ.
- Tôi muốn đi tiểu thưa ngài, - Umstead nói
khổ sở như một học sinh lớp 3. - Tôi không thể nhịn lâu hơn nữa.
Mister nhìn quanh phòng thấy một cái bình sứ
đặt một cách vô tư trên bàn uống cà phê. Với một cái vẫy nữa ông ra lệnh cho
tôi cởi trói cho Umstead.
- Toilet kia kìa. - Mister nói.
Umstead bỏ hoa tươi ra khỏi bàn và quay
lưng lại chúng tôi anh ta mất một lúc để xả bầu tâm sự trong khi chúng tôi cắm
mặt xuống sàn nhà. Khi anh ta xong xuôi, Mister bảo chúng tôi khiêng cái bàn họp
đến gần cửa sổ. Bàn dài 5 mét bằng gỗ óc chó chắc nịch như tất cả những đồ gỗ ở
Drake & Sweeney, và chúng tôi mỗi người một đầu bàn lặc lè khênh chiếc bàn
đi độ gần ba mét cho đến khi Mister bảo dừng lại. Ông bảo tôi trói tay Rafter
và Malamud lại với nhau để cho Umstead được tự do. Tôi sẽ không bao giờ hiểu được
tại sao ông làm vậy.
Tiếp đó ông bảo bảy con tin bị trói còn lại
ngồi lên bàn lưng tựa vào tường. Không ai dám mở miệng hỏi tại sao nhưng tôi
đoán ông muốn dùng họ làm bia đỡ đạn từ bên ngoài. Sau này tôi được biết rằng cảnh
sát đã cho những người bắn tỉa núp ở tòa nhà bên cạnh. Có lẽ Mister đã nhìn thấy
họ.
Sau khi đã đứng suốt 5 giờ, Rafter và mọi
người khoan khoái được duỗi dài chân ra. Umstead và tôi được bảo ngồi trên ghế,
Mister thì ngồi ở cuối bàn. Chúng tôi đợi.
Cuộc sống trên phố phường chắc là dạy cho
người ta lòng kiên nhẫn, ông ta xem ra có vẻ hài lòng ngồi yên lặng một lúc thật
lâu, cặp mắt giấu sau cặp kính và mái đầu im phăng phắc.
- Ai tiến hành việc đuổi người thuê nhà? -
Ông hỏi không nhằm vào một người cụ thể nào, ông để cho một vài phút trôi qua
trước khi lặp lại một lần nữa.
Chúng tôi nhìn nhau bối rối chẳng hiểu là
ông ta nói cái gì nữa. Ông rõ ràng là đang nhìn vào một điểm trên bàn cách chân
phải của Colburn không xa.
- Các người không những không thèm quan tâm
đến những người vô gia cư, các người còn tiếp tay trong việc tống cổ họ ra
ngoài đường nữa.
Chúng tôi tất nhiên là giữ im lặng, cũng là
một kiểu thôi mà. Nếu ông ta muốn chất chồng tội lỗi lên chúng tôi bằng cách
nói thế thì chúng tôi hoàn toàn ngoan ngoãn chấp nhận.
Đồ ăn được mang tới vài phút trước 7 giờ. Một
tiếng gõ mạnh lên cánh cửa. Mister bảo tôi gọi điện thoại thông báo với cảnh
sát rằng chỉ cần ông ta nhìn hay nghe thấy có người ở bên ngoài ông ta sẽ giết
ngay một người trong chúng tôi. Tôi giải thích cặn kẽ với Rudolph về điều này,
nhấn mạnh rằng mọi cố gắng giải cứu là không cần thiết. Chúng tôi đang thương
lượng.
Rudolph nói là ông hiểu chuyện đó.
Umstead bước ra cửa, mở khóa và nhìn Mister
đợi chỉ thị. Mister đi ngay sau Umstead, với khẩu súng chỉ cách đầu anh ta
không đầy nửa mét.
- Từ từ mở cửa ra.
Tôi đứng sau Mister hơn một mét khi cửa mở.
Thức ăn để trên một chiếc xe đẩy nhỏ, một loại xe mà các phụ tá luật sư thường
dùng để chở một lượng khổng lồ giấy tờ mà chúng tôi sản xuất ra. Tôi có thể
nhìn thấy bốn thố bằng plastic lớn đựng súp và một bịch giấy nâu đựng đầy bánh
mì. Tôi không biết là có gì để uống không. Chúng tôi sẽ không bao giờ biết điều
này.
Umstead bước một bước ra ngoài cửa chộp lấy
cái xe đẩy, và đang chuẩn bị đẩy nó trở vào phòng họp thì một phát súng xé
không khí vang lên. Một cảnh sát bắn tỉa núp sau một cái bàn nhỏ gần quầy tiếp
tân của bà Devier, cách đấy chưa đầy 20 mét, đã có được một đường ngắm rất tốt.
Khi Umstead cúi xuống kéo chiếc xe, đầu của Mister nhô ra trong giây lát và người
bắn tỉa đã nổ súng.
Mister ngã vật ra sau không thốt lên được một
tiếng, còn mặt tôi ngay lập tức phủ đầy máu và chất dịch lầy nhầy. Tôi nghĩ là
tôi cũng bị trúng đạn luôn và tôi nhớ là đã kêu lên vì đau đớn. Umstead la hét
đâu đó trong hành lang. Bẩy người kia bò lổm ngổm như nhũng con chó bị dội nước
sôi, tất cả đều la hét và cố sống cố chết chạy ra cửa, người này giằng tay người
kia. Tôi khuỵu xuống, bịt chặt lấy mắt chờ mìn nổ, sau đó tôi phóng ra cửa bên
kia, tránh xa cảnh hỗn loạn trên. Tôi mở khóa, tông thật mạnh ra ngoài và hình ảnh
cuối cùng của Mister mà tôi nhìn thấy là ông nằm ngay đơ trên một tấm thảm
phương Đông đắt tiền của chúng tôi. Hai tay ông bỏ thõng hai bên mình, chẳng đụng
tới được những cái que màu đỏ.
Hành lang bỗng đầy những cảnh sát đặc nhiệm,
tất cả đều đội mũ bảo hiểm và mặc áo chống đạn, nhiều người bò ra từ chỗ nấp.
Trông họ lờ mờ. Họ túm lấy chúng tôi và mang chúng tôi qua khu vực tiếp tân ra
thang máy.
- Ông có bị thương không?
Tôi trả lời không biết, mặt tôi đầy những
máu và một chất gì đó lầy nhầy mà sau này các bác sĩ nói là chất dịch não.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét