Luật Sư Nghèo
Tác giả: John Grisham
Người dịch: Hồng Vân
NXB Văn Nghệ TP HCM - 2001
Chương
22
Một phụ nữ nhỏ nhắn ngồi
tựa lưng vào cánh cửa của chúng tôi khi tôi đi làm vào sáng ngày thứ Tư. Mới gần
8 giờ và văn phòng vẫn khóa kín, nhiệt độ bên ngoài dưới độ không. Thoạt tiên
tôi nghĩ cô ta đã ngồi ở đây suốt đêm dùng cánh cửa của chúng tôi để chắn gió.
Nhưng khi cô ta thấy tôi bước tới gần cô ta lập tức nhảy lên và cất tiếng chào.
Tôi mỉm cười chào lại và bắt đầu mở khóa.
- Anh là luật sư à?
- Phải.
- Cho những người như tôi á?
Tôi đoán cô ta là một người
vô gia cư, và đó là tất cả những điều chúng tôi hỏi khách hàng.
- Đúng rồi. Vào nhà đi.
Tôi nói trong lúc mở cửa.
Trong nhà còn lạnh hơn cả bên ngoài nữa. Tôi chỉnh lại bộ điều chỉnh nhiệt, cái
vật mà như là tôi đã từng biết chẳng có nối vào bất cứ thứ gì sất. Tôi pha cà
phê và tìm được một bịch đậu phộng ở trong bếp. Tôi đưa cho cô ta và cô ta chộp
lấy ăn luôn.
- Tên cô là gì? - Tôi hỏi cô. Chúng tôi ngồi ở phòng ngoài ngay bên bàn của Sofia, đợi uống
cà phê và cầu mong cho bộ điều hòa nhiệt làm việc.
- Ruby.
- Tôi là Michael. Thế cô sống ở đâu?
- Loanh quanh đây đó. - Cô ta bận một bộ đồ thể thao của Georgetown màu xám, mang vớ dày màu nâu,
áo len trắng nhưng đã ngả màu cháo lòng chẳng có nhãn hiệu gì hết. Cô vào khoảng
từ 35 đến 40 tuổi, gầy gò và hơi bị hiếng.
- Đừng ngại. - Tôi mỉm cười nói. - Tôi muốn biết cô sống ở đâu. Trong trại à?
- Tôi đã từng ở trại nhưng rồi phải bỏ đi. Gần như bị hãm hiếp. Tôi có một
chiếc xe cũ.
Tôi chẳng nhìn thấy chiếc
xe nào đậu ở gần khi tôi đến đây:
- Cô có một chiếc xe à?
- Phải.
- Và cô lái nó?
- Nó không chạy được. Tôi ngủ ở trên xe.
Tôi đặt những câu hỏi mà
không ghi chép lại, một điều mà tôi vốn không được huấn luyện. Tôi để cà phê ra
hai chiếc li giấy bự và chúng tôi đi vào trong văn phòng của tôi, nơi mà may mắn
làm sao máy điều hòa vẫn còn hoạt động. Tôi đóng cửa lại. Mordecai sẽ đến ngay
bây giờ, mà ông ta thì không bao giờ biết đến cái nghệ thuật giữ yên lặng.
Ruby ngồi ở mép cái ghế gấp
màu nâu dành cho khách hàng của tôi, vai cô so lại, nửa trên thân người đổ về phía trước bọc lấy li
cà phê cứ như thể nó là một vật tỏa hơi ấm cuối cùng trong đời.
- Tôi có thể giúp gì cho cô đây? - Tôi hỏi, với lấy giấy bút.
- Con trai tôi, Terrence. Nó 16 tuổi và người ta cướp nó đi.
- Ai cướp nó?
- Thành phố. Những người nuôi nó.
- Bây giờ nó ở đâu?
- Người ta đang giữ nó.
Câu trả lời của cô ta ngắn
gọn, nỗi hoang mang hồi hộp toát ra trong mỗi câu trả lời.
- Sao cô không thư giãn một chút rồi kể cho tôi nghe về Terrence?
Và cô đã làm như tôi đề
nghị. Không có một điệu bộ nào trong ánh mắt, và với hai bàn tay khum lấy li cà
phê, cô kể cho tôi nghe câu chuyện của mình. Vài năm trước đây cô không nhớ
chính xác lắm nhưng lúc đó Terrence vào khoảng 10 tuổi, họ sống với nhau trong
một căn hộ nhỏ. Rồi cô bị bắt vì buôn bán ma túy. Cô bị tù 4 tháng. Terrence ở
với người chị của cô. Sau khi được thả cô đón bé về và hai mẹ con bắt đầu sống
cảnh màn trời chiếu đất như một cơn ác mộng. Họ ngủ trong những chiếc xe cũ,
chiếm cứ những ngôi nhà hoang, ngủ dưới gầm cầu khi thời tiết ấm hơn, và tìm đường
vào trại khi trời lạnh giá. Dù sao thì cô cũng cố để cho con được đi học, cô xin ăn bên lề đường,
cô bán thân “lừa bịp” như cô nói và bắt đầu bập vào bán ma túy. Cô làm bất cứ
thứ gì để giữ cho Terrence cơm no áo ấm và được đến trường.
Nhưng đồng thời cô cũng
nghiện ma túy và không thể bỏ được. Cô có bầu, và đứa trẻ vừa ra đời đã bị mang
đi, nó là sản
phẩm của ma túy.
Cô chẳng có tình cảm gì với
nó cả; chỉ dành tất cả cho Terrence. Thành phố bắt đầu đặt câu hỏi về nó và mẹ
con cô cứ trượt dần về cái hố tối tăm dành cho những kẻ không nhà. Quá tuyệt vọng cô
tìm đến một gia đình mà trước đây cô làm hầu phòng cho họ, gia đình Rowland, họ
có con nhưng đã lớn cả và ra ở riêng. Họ có một ngôi nhà nhỏ ấm cúng ở gần trường
Howard. Cô đề nghị trả cho họ 50 đô để Terrence được sống với họ. Có một căn
phòng nhỏ ở phía trên sân sau, căn phòng mà cô đã lau dọn nhiều lần và sẽ là chỗ ở lí tưởng cho
Terrence. Đầu tiên họ lưỡng lự nhưng rồi họ cũng đồng ý. Dù sao thì họ cũng là
những người tử tế. Ruby được phép đến chơi với con mỗi tối một giờ. Học lực của
con cô trở nên khá hơn, nó sạch sẽ và an toàn, và Ruby hoàn toàn hài lòng với
mình.
Cô tổ chức lại cuộc sống
của mình xoay quanh đứa con: chỗ ăn trưa và tối gần nhà Rowland, những trại tị
nạn khác nhau trong những trường hợp khẩn cấp, những con đường và công viên
khác nhau và những chiếc xe hư làm chỗ ở. Cô cóp nhặt tiền từng tháng một và
không bao giờ quên đến thăm Terrence mỗi tối.
Cho đến khi cô lại bị bắt
lần nữa. Lần bị bắt đầu tiên vì tội danh làm điếm, lần thứ 2 vì là ngủ trên ghế
trong quảng trường Farragut. Có thể có lần thứ 3 nữa nhưng mà cô không nhớ.
Một lần cô bị cấp cứu ở bệnh
viện trung tâm vì có một ai đó thấy cô nằm trên đường phố bất tỉnh nhân sự. Người
ta đưa cô đến trung tâm cai nghiện nhưng 3 ngày sau cô lại trốn ra vì nhớ con
quá.
Một đêm khi cô ở với con,
thằng nhỏ nhìn vào bụng cô và hỏi phải chăng cô lại có bầu nữa. Cô trả lời rằng
có lẽ thế. Ai là cha đứa bé trong bụng, con cô gặng hỏi. Cô trả lời rằng cô không
biết. Thằng nhỏ nguyền rủa cô và la hét đến nỗi nhà Rowland yêu cầu cô rời khỏi
nhà họ ngay.
Trong khi cô mang bầu
Terrence chẳng quan tâm gì tới mẹ nhiều. Thật là một cảnh đau lòng, ngủ đêm
trong những chiếc xe cũ, xin ăn từng xu trên vỉa hè, đếm từng giờ cho đến khi
cô có thể gặp con, rồi sau đó thì chẳng được con chú ý đành ngồi thu lu trong một
xó nhìn nó làm bài tập.
Ruby bật khóc khi cô kể đến
đoạn này. Tôi ghi lại một số ý, lắng nghe Mordecai đi đi lại lại huỳnh huỵch ở
phòng ngoài cố gắng khởi chiến với Sofia.
Đứa trẻ sơ sinh thứ 3 của
cô, mới năm ngoái, lại là một đứa ảnh hưởng của ma túy nữa, và người ta đã mang
nó đi ngay. Cô không gặp Terrence suốt trong 4 ngày cô ở lại bệnh viện hồi sức
sau khi sanh. Khi cô ra khỏi viện cô lại trở về với cuộc sống duy nhất mà cô biết.
Terrence là học sinh hạng
nhất, xuất sắc trong môn toán và tiếng Tây Ban Nha, một tay thổi kèn trumpet và
một diễn viên kịch trong đội kịch của nhà trường. Nó mơ ước vào học viện Hải
quân. Ông Rowland phục vụ trong quân đội.
Ruby đến thăm con vào một
ngày xấu đối với cô. Một cuộc đấu khẩu nổ ra trong bếp khi bà Rowland công kích
cô. Những lời lẽ nặng nề quăng qua quăng lại, tối hậu thư được đưa ra. Terrence
bị đẩy vào cuộc; ba chống một. Hoặc là cô được giúp đỡ hoặc là cô phải ra khỏi nhà.
Ruby tuyên bố rằng cô sẽ ra khỏi nhà và mang theo Terrence. Nhưng thằng này nói
rằng nó chẳng đi đâu hết.
Tối hôm sau một nhân viên
công tác xã hội của thành phố đến gặp cô với một số giấy tờ. Có ai đó đã mang
chuyện này ra tòa. Và Terrence được giao cho bố mẹ nuôi trông nom giám hộ. Gia
đình Rowland sẽ là cha mẹ mới của nó. Nó sẽ sống với họ 3 năm nữa. Những cuộc
viếng thăm sẽ bị hủy bỏ cho đến khi cô hoàn thành việc cai nghiện và sạch sẽ
lành mạnh ít nhất trong thời gian 60 ngày.
Ba tuần đã trôi qua.
- Tôi muốn gặp con trai tôi, tôi nhớ nó quá.
- Cô có trong thời kì cai nghiện không?
Cô lắc đầu thật nhanh và
nhắm mắt lại.
- Tại sao không?
- Không thể làm được.
Tôi chẳng có ý niệm gì về
những việc phải làm với những người nghiện, như việc đưa họ ra khỏi môi trường
của họ và tập trung vào những trung tâm cai nghiện, nhưng đã đến lúc phải tìm
hiểu rồi đấy. Tôi hình dung ra Terrence trong căn phòng ấm áp của nó; cơm no,
áo đẹp, an toàn, sạch sẽ, nghiêm trang đúng mực, đang làm bài tập về nhà dưới sự
hướng dẫn nghiêm khắc của ông bà Rowland người giờ đây đã dành cho nó một tình
thương cũng gần bằng tình yêu của Ruby đối với nó. Tôi có thể thấy nó bên bàn
ăn sáng của gia đình đọc lại từ vựng bên dĩa súp lúa mạch nóng hổi trong khi
ông Rowland phớt lờ tờ báo buổi sáng lo khảo bài tập tiếng Tây Ban Nha của nó.
Terrence chắc chắn và hoàn toàn phát triển bình thường không như những khách
hàng sống trong cảnh khốn cùng của tôi.
Và bây giờ người mẹ này
giao cho tôi trọng trách dàn xếp một cuộc đoàn tụ.
- Chuyện này phải mất thời gian đây.
Tôi nói, chẳng hề có ý niệm
gì là nó sẽ mất bao lâu. Trong một cái thành phố có tới 500 gia đình đợi chờ để
có một khoảng không gian bé nhỏ, thanh bình trong một cái trại dựng lên cho những
người vô gia cư này, thì cũng chẳng có sẵn chỗ dành cho một người nghiện ma
túy.
- Cô sẽ không gặp được Terrence cho đến khi cô cai nghiện xong. - Tôi nói cố làm cho giọng
của mình không có vẻ lên lớp.
Mắt cô giàn dụa nước mắt
và cô làm thinh. Tôi nhận ra rằng những điều tôi biết về những người nghiện ma
túy mới ít ỏi làm sao. Cô ta lấy thuốc ở đâu? Mất bao nhiêu tiền? Mỗi ngày mấy
cữ? Mất bao lâu để làm cho cô tránh xa thứ này? Rồi sau đó chữa chạy cho cô? Liệu
cô có cơ hội bỏ được cái thói quen dễ sợ cô đã nhiễm phải hàng chục năm nay?
Và thành phố đã làm gì với
những trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng của ma túy?
Cô chẳng có giấy tờ gì hết,
chẳng có địa chỉ, chẳng có cả chứng minh thư, chằng có gì hết ngoài một câu
chuyện thương tâm. Cô có vẻ như tuyệt đối hài lòng khi ngồi trong chiếc ghế ở
phòng tôi và tôi bắt đầu băn khoăn xem tôi có thể bảo cô ra về không. Cà phê
thì cũng hết rồi.
Cái giọng the thé của
Sofia đem tôi trở về với thực tế. Có nhiều giọng nói gắt gỏng trong phòng bà
ta. Trong lúc tôi nhào ra cửa, ý nghĩ đầu tiên trong trí tôi là một thằng điên
nào đó như kiểu Mister xông vào đây với một khẩu súng trong tay.
Thực sự thì có nhiều hơn
một khẩu súng. Trung úy Gasko đã trở lại với nhiều tay súng hơn. Ba cảnh sát mặc
đồng phục bao vây Sofia bà này đang la lối om sòm nhưng vô ích. Hai người nữa bận
quần jean và áo thể thao đang đứng chờ hành động. Khi tôi bước ra khỏi phòng
tôi thì cũng là lúc Mordecai bước ra khỏi phòng làm việc của ông.
- Chào Mikey. - Gasko nói với tôi.
- Chuyện quái gì thế này? - Mordecai gầm lên và những bức tường xung quanh
rung lên. Một trong những cơm mặc sắc phục vội đưa tay chạm vào khẩu súng lục của
hắn.
Gasko tiến về phía
Mordecai.
- Đây là lệnh khám xét, - hắn nói lôi ra một tờ giấy và giơ về phía
Mordecai. - Ông
là ông Green hả?
- Chính tôi. - Mordecai nói và giật lấy tờ giấy.
- Các anh tìm cái gì hử? - Tôi hét vào mặt hắn.
- Cũng một thứ thôi. - Hắn hét trả lại tôi. - Đưa lại cho chúng tôi rồi chúng tôi sẽ biến thôi.
- Nó không có ở đây.
- Hồ sơ nào vậy? - Mordecai hỏi, nhìn chằm chằm vào lệnh khám xét.
- Hồ sơ đuổi người. - Tôi đáp.
- Chưa thấy đơn kiện của anh. - Gasko nói với tôi. Tôi nhận ra hai người bận đồ cảnh
sát là Lilly và Blower. - Dọa trẻ con hả. - hắn nói tiếp.
- Cút ra khỏi đây mau! - Sofia sủa vào mặt Blower khi hắn ta dám dò xét những
thứ trên mặt bàn của bà.
Gasko là người chịu trách
nhiệm chính. Hắn nói với một điệu cười khinh khỉnh quen thuộc:
- Nghe đây thưa bà. Chúng tôi có thể tiến hành việc này bằng hai cách. Cách
thứ nhất, bà vui lòng đặt cái mông đít của bà lên ghế và câm miệng lại. Cách thứ
hai, để chúng tôi còng tay bà lại và xin mời bà ngồi sau xe trong vòng 2 tiếng
đồng hồ.
Một cảnh sát thò đầu về
phía văn phòng. Tôi cảm thấy Ruby thận trọng nép sau lưng tôi.
- Hãy bình tĩnh. - Moredecai nói với Sofia. - Xin hãy bình tâm.
- Cái gì ở trên lầu? - Gasko hỏi tôi.
- Kho lưu trữ. - Mordecai đáp.
- Của các ông à?
- Phải.
- Nó không ở đây đâu anh chỉ phí thời gian thôi. - Tôi nói.
- Vậy thì chúng ta sẽ tiêu phí thời gian thôi, phải vậy không?
Một khách hàng tương lai
của chúng tôi mở cửa trước làm tất cả chúng tôi giật cả mình. Đôi mắt của ông
ta đảo quanh phòng và khi nhìn ra ba cảnh sát ông ta vội vã đánh bài chuồn ra
ngoài phố nơi còn an toàn hơn.
Tôi bảo Ruby ra về và tôi
đi về phía văn phòng của Mordecai khép cánh cửa lại.
- Tập hồ sơ để ở đâu? - Ông ta thấp giọng hỏi.
- Không ở đây, tôi xin thề. Đấy chẳng qua là một sự quấy rối thôi.
- Lệnh khám xem ra rất nghiêm túc đấy. Đó là hành vi ăn cắp và cũng có lí khi
giả định rằng tập hồ sơ ở chỗ luật sư của người đã ăn cắp nó.
Tôi cố gắng nói một điều
gì đó đúng luật và khôn ngoan rằng một chút thông tin có giá trị nào đó sẽ chặn
đứng cuộc khám xét và đuổi bọn cớm đi. Nhưng lời lẽ bay đi đâu hết và thay vì
thế tôi lại cảm thấy xấu hổ vì đã rước bọn cảnh sát đến đây.
- Cậu có bản photo không?
- Có.
- Cậu có định mang trả lại bản chính cho họ không?
- Tôi không thể làm như vậy được. Như vậy có nghĩa là thừa nhận mình có tội.
Họ không có chứng cớ là tôi có bản đó trong tay. Hơn nữa nếu tôi trả lại thì họ
cũng biết ngay là tôi có bản photo.
Ông vò râu một lát và đồng ý với
tôi về điểm đó. Chúng tôi bước ra khỏi phòng vừa đúng lúc Lilly vấp phải chiếc
bàn bỏ không cạnh bàn làm việc của Sofia.
Một đống tài liệu đổ ập
xuống sàn. Sofia hét vào mặt hắn và Gasko lại hét trả vào mặt bà ta. Sự căng thẳng
nhanh chóng chuyển từ lời nói sang hướng đụng chân đụng tay.
Tôi khóa cửa lại để cho
khách hàng của tôi không biết gì về cuộc khám xét.
- Tôi có một cách này. - Mordecai tuyên bố. Mấy cớm giận dữ nhìn ông nhưng
cũng nóng lòng muốn biết ông này muốn gì. Khám xét một văn phòng luật sư có
khác với việc đột nhập vào một quán bar đầy những trẻ vị thành niên.
- Hồ sơ không có ở đây, OK. Chúng ta hãy bắt đầu với một lời cam kết. Các anh
có thể tìm tập hồ sơ mà các anh muốn nhưng không được mở nó ra. Điều đó sẽ vi
phạm bí mật của khách hàng. Đồng ý chứ?
Mấy cớm khác nhìn Gasko,
hắn nhún vai ngụ ý điều đó chấp nhận được.
Chúng tôi bắt đầu từ
phòng làm việc của tôi; tất cả 6 cớm, tôi và Mordecai quần thảo trong căn phòng
nhỏ, chú tâm vào lục lọi để tránh nhìn nhau. Tôi mở từng ngăn kéo của bàn làm
việc, chẳng có cái nào mở ra mà không phải giật thật mạnh. Một lúc nào đó tôi
nghe Gasko lầu bầu: “Phòng làm việc xịn thật”.
Tồi lấy ra từng tập hồ
sơ, dứ chúng dưới mũi của Gasko, đặt trả lại vị trí cũ. Tôi mới chỉ bắt đầu vào
thứ Hai cũng chẳng có nhiều nhặn gì cho hắn lục soát.
Mordecai rút ra khỏi
phòng đến bên bàn của Sofia gọi điện thoại. Khi Gasko tuyên bố phòng của tôi đã
được khám xét xong một cách chính thức, chúng tôi ra khỏi phòng vừa đúng lúc
nghe Mordecai nói vào ống nghe:
- Vâng thưa ngài Chánh án, cảm ơn ngài. Đây anh ta đây này.
Ông mỉm cười khoe hết cả
36 cái răng trong lúc ông ném cái ống nghe cho Gasko.
- Đây là ngài Chánh án Kisner, người đã kí lệnh khám xét. Ông ấy muốn nói
chuyện với anh đấy.
Gasko cầm lấy ống nghe cứ
như là nó vừa ở trong tay một người hủi.
- Gasko nghe đây. - Hắn nói để ống nghe cách xa đầu hắn.
Mordecai quay về phía những
tên cớm khác.
- Thưa quý ngài, các ngài có thể lục soát căn phòng này, thế thôi. Các ngài
không thể lục soát văn phòng các cá nhân khác. Lệnh của ngài Chánh án.
Gasko lầu bầu vào ống
nghe: “Vâng thưa ngài”. Và cúp máy. Chúng tôi ngồi quan sát họ lục soát từ cái
bàn làm việc này sang cái khác, bốn cái cả thảy kể cả bàn của Sofia. Sau một
vài phút họ nhận thấy rằng cuộc lục soát là vô ích và họ kéo dài cuộc khám xét
lâu chừng nào tốt chừng ấy. Chiếc bàn nào cũng phủ đầy những tập hồ sơ đã từ lâu không được đụng đến.
Một vài quyển sách và những ấn phẩm pháp luật trông cũ mèm như đã có từ bao đời
nay. Một vài đống sách phủ đầy bụi thậm chí còn vương cả mạng nhện nữa.
Mỗi một tập hồ sơ đều có
tên hoặc là bằng chữ in hoặc viết tay. Hai cớm ghi tên những tập tài liệu trong
khi cớm khác hoặc Gasko đọc to những cái tên đó lên. Một công việc chán ngắt và
vô tích sự. Họ kiểm soát bàn của Sofia cuối cùng, bà ta tự tay cầm từng thứ lên, đọc tên từng tập hồ
sơ, đánh vần những cái tên đơn giản như Jones, Smith, Williams. Bọn cớm giữ khoảng
cách với bà. Bà mở từng ngăn kéo đủ rộng để có thể liếc nhanh vào đó. Bà có một
ngăn kéo cá nhân và không ai muốn nhìn vào đó. Tôi thì chắc rằng trong đó có
súng.
Họ bỏ đi không thèm chào
một tiếng. Tôi xin lỗi Sofia và Mordecai về sự đột nhập này và rút lui an toàn
về phòng mình.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét