Mãi Mãi Tuổi Mười Chín
Tác giả: Gbaklanôp
Người dịch: Phương Nam
NXB Đà Nẵng - 1986
4
Ngay đêm ấy, Trêchiakov đưa pháo ra trận, cả
tiểu đoàn của họ được ném sang đâu đó bên cánh trái. Lúc nhập nhoạng tối, đại đội
trưởng, đại úy Pôvưxenkô tạt vào chỗ anh, chỉ tay lên tấm bản đồ :
- Cậu có thấy cái khe này chứ? Thấy cao điểm
này chứ? Sẽ cho đặt pháo ờ sườn bên kia. - Đại úy dưa móng tay như sắt vàng khè
vì thuốc lá vạch một đường thẳng. - Rõ chưa? Đài quan sát của tôi sẽ ở cao điểm
dương một trăm ba mươi hai phẩy bẩy. Bố trí khẩu đội, liên lạc với tôi.
Và đại úy hỏi lại :
- Rõ chưa?
- Rõ, - Trêchiakov đáp. Trên bản đồ tất cả
đều rất rõ ràng.
Xe xích kêu xình xịch bên cạnh, những tia lửa
từ ống xả bay ra sáng rõ trong bóng chiều. Những khẩu pháo phủ kín trong điều
kiện hành quân đã được móc vào xe xích nhưng các pháo thủ vẫn cứ chất đầy lên
pháo tất cả những gì đó mà họ đem theo.
Chuẩn úy đang chạy ngược chạy xuôi, bên cạnh
chiếc rơ-moóc chở đồ đạc của khẩu đội. Pôvưxenkô đưa mắt nhìn về phía đó rồi bước
đến gần.
Trong rơ-moóc, dưới mui bạt, Zavgarôtnhi,
trung đội trưởng trung đội pháo thủ đang bò lồm cồm trong bóng tối, những cơn
đau đang hành hạ anh ta. Mọi người muốn đưa anh ta về quân y tiểu đoàn, nhưng
ngoài mặt trận người ốm thường thường thấy mình giống như những kẻ vờ vĩnh. Ở
đây hoặc là bị thương, hoặc là bị giết chết, chứ còn có đau ốm gì ngoài mặt trận
cơ chứ? Lúc này bạn đang sống, một giờ sau đã bị giết chết - một người khỏe mạnh
hay một người đau ốm bị giết chết chả nhẽ khác nhau ư? Thế là Zavgarôtnhi nén
chịu những cơn đau. Tới phút chót chuẩn úy sực nhớ ra một phương thuốc đã được
thử nghiêm: quấy nửa cốc dầu hỏa với muối, bắt Zavgarôtnhi uống cạn:
- Thoạt đầu nó nóng ran, nóng ran lên rồi
sau đó sẽ kho...ỏi...
Bước đến bên thành xe đằng sau, Pôvưxenkô
ngó vào bên trong chiếc rơ-moóc tối om:
- Thế nào, đã đỡ chưa?
Chuẩn úy còn nói chêm vào:
- Có nóng ran không? Có nóng ran không?
Anh ta cảm thấy mình phải có trách nhiệm với
cả phương thuốc đó và với cả cái cơn bệnh đó.
- Đỡ đỡ! - Zavgarôtnhi cố sức rên rỉ đáp.
Anh vẫn quì gối trên đống áo va-rơi: anh không thể nằm xuống được.
- Một phương thuốc hiệu nghiệm đấy, - chuẩn
úy gieo hy vọng. - Nóng rát lên, nóng rát lên một chút rồi sau sẽ khỏi. - Anh
ta đưa tay vuốt ngực xuống đến chỗ khóa thắt lưng, nơi cơn đau cần phải dịu dần.
Bầu trời thâm thấp, xám xịt như một đám
sương mù dày đặc đang đè nặng trên đầu họ. Dưới bầu trời ấy, nhưng đám mây rời
rạc, đổ bóng đen như than. Trước cơn mưa, vạn vật đều tĩnh lặng. Những chiếc xe
xích đã mắc pháo đứng như trồng trong khu rừng thưa, phía bên phải sau cánh đồng
ngô, súng máy đập nhịp ầm ầm, những luồng đạn bay vút lên khỏi mặt đất, mọi vật
đều sáng rực lên.
- Thế này nhé. - đại đội trưởng suy nghĩ,
đôi môi vốn đã nứt nẻ vì dầu dãi gió mưa mím chặt lại. - Tôi sẽ đem theo trung
đội chỉ huy của cậu. Paravian, trung dội phó sẽ cùng với cậu. Rõ cả chưa? Thi
hành đi!
Khi quay ra, anh giơ tay chào, tóm chiếc áo
mưa vải bạt kêu sột soạt.
Họ chờ tối. Rồi lên đường. Sau khi nổ máy
xình xịch, những chiếc xe xích kéo pháo nghiền nát những bụi cây nhỏ dưới vòng
xích sắt và cuốn theo cả những cây con ở lối ra khỏi rừng. Đằng sau khẩu đội chỉ
còn lại dấu vết hằn sâu trên mặt đất tơi mịn.
Họ hành quán mò mẫm. Trên cao - bầu trời
đen ngòm, dưới chân con đường đầy bụi sang sáng trước mặt họ. Trời đổ mưa. Đất
đen bám chặt lấy các vành bánh xe và các lốp xe.
Mặt trận vẫn luôn luôn ở về phía bên phải;
nhờ thế mà Trêchiakov xác định hướng. Từ nơi đó pháo sáng vọt lên không cao rồi
tắt ngấm vì mưa. Trong ánh sáng chập chờn mờ ảo của pháo sáng. Trêchiakov nhìn
thấy các pháo thủ khoác áo mưa bạt ướt sũng đi theo sau những cỗ pháo. Và mặc
dù mưa vẫn dội xuống, nhưng vẫn có một vài người ngồi ủ rũ trên pháo, thiu thiu
ngủ.
- Paravian! Này, anh đuổi mọi người xuống
khỏi pháo di. Xóc lắm, họ sẽ ngã đấy,
pháo sẽ chẹt phải những người ngủ gật mất thôi.
Paravian, trung đội phó đẹp trai cao lớn,
nhìn anh bằng đôi mắt đen dưới hàng mi cong ướt nước mưa im lặng, ý không tán
thành nhưng vẫn bước đi thi hành nhiệm vụ.
- Anh muốn để pháo đè phải mọi người à? Nhắc
bao nhiêu làn rồi?
Trêchiakôv hiểu rằng nhắc anh ta bao nhiêu
thì mọi ngưòi cũng sẽ nhúc nhích chừng ấy. Anh cũng từng là chiến sĩ, anh cũng
từng bị đuổi xuống như thế, nhưng anh rẽ sang phía khác, thủ trưởng vừa mới khuất
mắt, anh lại leo lên pháo. Bởi lẽ anh muốn ngủ, mà ngủ ngồi thì hơn là vừa đi vừa
ngủ. Nhưng lúc này, không phải ai khác mà anh có thể chửi bới trong hàng, lại
chịu trách nhiệm thay anh, chính anh đang chỉ huy mọi người và anh phải chịu
trách nhiệm về mọi người. Vì thế anh ra lệnh đuổi các chiến sĩ đang ngủ gật xuống.
Vậy mà Paravian lại miễn cưỡng đi thi hành nhiệm vụ.
Ngoài Paravian, anh không biết mặt, biết
tên bất cứ một chiến sĩ nào khác. Anh dẫn họ đi, họ đi theo anh. Trong trung đội
thuộc quyền chỉ huy của mình, anh chưa kịp biết thêm một ai. Chuyện xảy ra vào
trước bữa ăn trưa, tiểu đội trưởng tiểu đội trinh sát Trabarov vừa thay trung đội
trưởng mới hy sinh, được gọi lên ban tham mưu, và được lệnh trao trung đội cho
anh - trung úy Trêchiakov. Trabarov một chiến sĩ kỳ cựu, nhìn chàng trung úy mười
chín tuổi được cử đến chỉ huy họ, không nói năng một lời nào, dẫn ngay anh đến
với các chiến sĩ.
Toàn thể trung đội, những ai lúc này không
lên đài trinh sát, đều đang đào hầm trú ẩn sau nhà, họ đào hầm không chỉ cho bản
thân mình, mà cho cả ban chỉ huy tiểu đoàn. Những chiếc cuốc chim vung lên rồi
bổ xuống, ở phía trên những mải đầu cắt tóc ngắn, ở phía trên những cặp nách ướt
sũng mồ hôi, ở phía trên những cái bụng căng ra lấy sức. Chiếc cuốc chim bập
vào đất đã bắt đầu hóa đá vì mặt trời, để lại vết kim loại và lại vung lên,
sáng loáng như thoi bạc.
Những người lính bị mặt trời thiêu đốt sau
cả một mùa hè này vẫn còn trắng, chỉ có mặt, cổ và tay là đen nhẻm đi vì nắng
hè. Họ là những chàng trai trẻ trung tràn đầy sức lực: vì chiến tranh họ trưởng
thành trong đội ngũ, chỉ có hai, ba người đã lớn tuổi, gầy guộc, bắp cơ nhão ra
vì công việc nặng nhọc, da bắt đầu xệ xuống. Tuy nhiên có một chiến sĩ trong số
họ nổi bật lên, anh ta to lớn như một tráng sĩ, lông đen mọc đầy từ eo xuống đến
thắt lưng, khi anh ta giơ cuốc lên, khổng phải xương sườn hiện ra dưới lớp da,
mà là bắp cơ nối lên cuồn cuộn giữa các xương sườn.
Lướt nhìn những thân hình sáng loáng mồ
hôi, Trêchiakov trông thấy sẹo của các vết thương cũ ở nhiều người da căng bóng
loáng và anh nhìn thấy mình bằng đôi mắt của họ: anh đứng đó trước mặt họ - những
người đang làm việc cật lực, lưng trần - mới tốt nghiệp trường sĩ quan, mũ
ca-lô mới toanh, cả người anh hệt như một viên đạn vừa lôi ra khỏi kẹp.
Trabarov đã không vô ích giới thiệu anh như vậy với trung dội, chính anh ta đã
chọn được thời điểm. Và bạn sẽ không phải dài dòng rằng thì là đã từng tham dự,
đã từng trải qua chiến tranh.
Sau đó đến lúc đi ăn trưa, Trabarov tập hợp
trung đội mang đầy đủ vũ khí, gamen trong tay, trao cho anh bản danh sách viết
tay. Còn chính anh ta, người vạm vỡ, hai gò má bạnh trên khuôn mặt màu đồng hun
cháy nắng, thấy rõ ràng mang trong mình dòng máu Mông cổ, tự mình đứng đầu hàng
bên phải, bằng tất cả hình dáng của mình cho thấy rằng anh ta tôn trọng kỷ luật,
còn việc tôn trọng anh chỉ huy mới của trung đội, thì còn phải chờ đợi. Và cả
trung đội đứng nhìn Trêchiakov và trước mặt anh là tên họ của các chiến sĩ ghi
trên tờ giấy.
- Đzedzelasvili! - Anh điểm danh. Thật đáng
ngạc nhiên, hai lần “Đze” để làm gì, khi mà chỉ một lần cũng đã là đủ. Và anh
còn kịp nhớ ra rằng có lẽ đó chính là người chiến sĩ lông đen mọc đầy ngực.
- Có tôi!
Một chàng trai bước ra khỏi hàng, anh ta
nom sáng sủa, má đỏ ửng mầuu cà rốt, mắt hung hung, nhìn vui vẻ: đó là
Đzedzelasvili. Anh chiến sĩ lực lưỡng ấy tên họ lại là: Naxrullaev. Dù anh có gọi
ai ra khỏi hàng, thì cũng chẳng có họ tên nào phù hợp với người được gọi. Buổi
đầu của anh là như vậy: bản danh sách như vậy, một trung đội như vậy. Đại đội
trưởng mang trung đội của anh trang bị cho một đài quan sát mới, còn anh thì
đưa pháo và các pháo thủ của Zavgôrôtnhi đang ở trong rơ-moóc đi. Chính anh
cũng không hình dung được rõ ràng anh đưa họ đi đâu. Đến ba giờ không không,
pháo cần được chốt ở trận địa thế mà họ vẫn chưa đi qua Iaxenhevki. Ở đó có khu
trại Iaxenhevki và Iablônhevka, đại đội trưởng nói, cố hiểu các địa danh ở chỗ
nếp gấp mờ mờ của tấm bản đồ. - Nói
chung, tự cậu sẽ trông thấy... Từ khu trại về phía bên phải, bên phải... Nhưng
họ đã đi một giờ rồi hai giờ, lợi dụng ánh sáng mờ mờ của pháo sáng bắn lên
trên màn đêm tiền duyên ẩm ướt. Biết bao bận Trêchiakov chăm chú nhìn mà vẫn
không trông thấy một khu trại nào. Anh đã đi lạc hướng, hoảng sợ với ý nghĩ
mình đưa mọi người không đến nơi, sợ xấu hổ, anh chỉ làm được điều duy nhất mà
anh có thể làm được: không để lộ ra ngoài, anh càng vững bước đi, thì niềm tin ấy
ở trong anh lại càng yếu ớt hơn. Cuối cùng ở phía trước hiện lên một cái gì đó
đen mờ. Một phát pháo sáng bay vọt lên và khi ngồi thụp xuống, Trêchiakov còn kịp
trông lên nền trời: những dãy nhà kho nào đó, dài thấp, và một cái gì đó nhô
cao lên đằng sau dãy nhà kho. Chắc là những cây bạch dương... Phát pháo sáng tắt
ngấm, bóng tối dày đặc khép chặt lại.
Trêchiakov vội vã, sung sướng, lướt ủng
trên đất đen ướt nhão, vượt qua chiếc xe xích, giơ tay vẫy lái xe: theo tôi. Dẫu
sao cũng không thể nghe thấy tiếng nói: Những gì từ xa anh cho là dãy nhà kho
thì hóa ra là pháo một trăm hai mươi hai milimét ở kề bên. Như những chiếc xe tải,
những khấu pháo nòng dài cùng với xe xích đứng bên lề đường, khẩu nọ nối đuôi
khẩu kia. Một người trùm áo mưa bạt từ đó tiến đến chỗ anh. Người đó bước lại,
giơ tay chào, sau khi giũ nước mưa ra khỏi chiếc mũ trùm đầu, bèn chìa bàn tay
ướt lạnh ra:
- Hãy tắt máy đi!
- Tắt máy để làm gì?
- Không trông gì ở đằng trước sao?
Vẫn chưa phân biệt được gì, chỉ hiểu được rằng
đây không phải là khu trại, và như thế có nghĩa là họ đã lạc đến đâu đó,
Trêchiakov hỏi:
- Mà laxenhevka phải ở đây chứ nhỉ,
laxenhevka... Đến laxenhevka còn xa không anh?
Dưới chiếc mũ trùm, gương mặt người đó mờ mờ,
trông đã già, đầy nếp nhăn. Nhưng trên ngực anh ta nơi chiếc áo mưa bạt phanh
ra, lấp lánh vòng khóa thắt lưng đeo bên ngoài áo ca pốt, dây chiếc xà cột đựng
bản đồ vắt chéo qua, và còn lủng lẳng chiếc ống nhòm ướt sũng nước mưa.
- Đến đó khoảng độ năm kilômét.
- Sao lại năm? Chỉ có bốn cây số, mà chúng
tôi đã đi hai giờ rồi...
- Ừ, rất có thể, bốn cây thôi, - người đó
lãnh đạm phẩy tay. - Trung đội trưởng phỏng? Tôi, cũng là loại Vanca đầu binh
cuối cán - trung đội trưởng. Chỗ anh pháo nòng ngắn một trăm năm mươi hai ly phải
không? Pháo cùa chúng tôi cũng vậy, rặt một đồ quỉ. Mười lăm tấn cả xe xích!
Phía trước có cầu đấy, giơ vai ra mà đỡ.
Họ cùng đi xem xét cầu. Các chiến sĩ từ hai
khẩu đội nối đuôi đi theo họ. Họ bước đi trên những tấm gỗ lát ướt át, trơn tuột
đến giữa cầu. Phía dưới có thể là khe xói, mà cũng có thể là lòng suối khô cạn
- từ nơi đây không nhìn thấy kỹ được.
- Thế laxenhevka ở hướng này à?
- Sao, laxenhevka ấy à? laxenhevka...
laxenhevka... Chiếc cầu này có trên bản đồ của cậu không? Ở bản đồ của tôi thì
không có. - Mở tấm bản đồ ra, trung đội trưởng đưa móng tay búng chất
xenlulôit, dưới lớp bột giấy, tấm bản đồ hiện lên lờ mờ, và anh ta dùng ống tay
áo va-rơi lau hết những giọt nước mưa trên bản đồ. - Trên bản đồ không có cầu,
thế mà nó - nó đây này!
Và để thấy rõ rành rành, anh ta đấm tay vào
cây gỗ tròn. Thậm chí anh ta còn nhảy cẫng lên trên những cây gỗ ấy. Các chiến
sĩ thuộc hai khẩu đội đứng vây quanh.
- Trên bản đồ không có, tức là ngoài địa
hình không nhất thiết có. Bởi lẽ, nếu có thì người ta đã đưa nó vào bản đồ. Tôi
hiểu thế đấy!
Anh ta đã hiểu đúng: người ta không đưa cầu
vào bản đồ, nó không phải chiến đấu.
Dầm chân trong cỏ cao, theo sườn dốc
Trêchiakov chạy xuống dưới gầm cầu. Mố cầu bằng gỗ tròn. Được nối với nhau bằng
những chiếc đinh chữ L. Khi anh nhìn như thế từ phía dưới lên, cả cái công
trình này trông không mấy tin cậy.
Ở trường sĩ quan người ta đã dạy cách tính
trọng tải của cầu. Thiếu tá Bachiuskov, dậy họ môn công binh. Lúc này khi mà chẳng
trông thấy gì, thì chỉ có quỷ mới tính được cái trọng tải ấy. Và tiếng nói của
tay trung dội trưởng cứ chui vào tai anh nghe rất khó chịu, anh ta cứ bám riết
theo anh, tay đấm vào từng mô cầu một...
- Trụ cầu thế đấy! Trụ cầu thế đấy! Chẳng lẽ
sẽ chịu được cả một trọng tải này sao? - Rồi anh ta bấm thử: cả cái trụ này mục
nát rồi...
Lúc này việc nói cho Trêchiakov nghe ra dường
như còn quan trọng hơn cả chính cuộc chiến tranh.
Một phát pháo sáng phóng lên, chỉ là là
trên mặt đất đen. Ánh sáng mờ mờ rọi xuống lòng khe, và chiếc cầu lồ lộ trên
lòng khe: chiếc cầu lát gỗ tròn và các chiến sĩ đứng dầm mua. Còn họ, cả hai
người đang đứng trong cỏ ở phía dưới. Bộ khung ô tô vận tải nằm chềnh ềnh giữa
những tảng đá, mưa quất vào nóc ca-bin ướt và bẹp dúm như chiếc hộp sắt tây. “Anh ta thuyết phục mình cái gì mới được?”,
Trêchiakov nổi khùng. Anh thấy ghét cái con người này vì sự thiếu cương quyết của
chính mình, anh leo lên trên.
Anh bước đến khẩu pháo đầu tiên :
- Anh em lái xe đâu?
Các chiến sĩ bắt đầu nhìn nhau, rồi một người
trong số họ, đứng gần bên, trông năng nổ hơn mọi người, đáp:
- Có tôi!
Hệt như bỗng anh ta lại tìm được mình giữa
tất cả mọi người. Nhưng anh ta không bước lên trước, vẫn đứng giữa các chiến
sĩ: như thế anh ta cảm thấy vững vàng hơn.
- Các khẩu đội trưởng, các lái xe đến gặp
tôi! - Trêchiakov ra lệnh, anh tách họ ra khỏi khẩu đội bằng cách đó.
Người nọ nối tiếp người kia bước đến và sáu
người xếp hàng trước mặt anh. Có thể nhận ra ngay cánh lái xe; tất cả bọn họ đều
nhọ nhem.
- Vậy thế này nhé, tất cả rời khỏi pháo.
Các khẩu đội trưởng tiến lên phía trước. Từng người một tiến lên trước pháo của
mình. Các lái xe chú ý: pháo gài số một. Khẩu nọ, đi qua mới đến khẩu kia. Rõ
chưa?
Im lặng.
- Tôi nói có rõ không?
Mãi sau họ mới trả lời loạc choạc “Rõ...”.
Còn khẩu đội ở đằng sau vẫn đứng đó và im lặng. Họ đồng lòng với nhau, còn anh
được đặt trước họ, không ai biết gì về anh, và anh lại rất đơn độc, việc chiếc
cầu có chịu được hay không chịu được - mọi người không tin nó tới mức như họ
không tin anh. Và khẩu đội kia chờ đợi, nhường đường cho họ lên trước.
- Xe xích của đồng chí đấy à? - Trêchiakov
chỉ tay vào người lái xe, mà thoạt đầu trông nổi hơn tất cả mọi người. Và anh
chỉ cả vào chiếc xe xích.
- Xe này ấy à? - Người lái xe kéo dài thời
gian, trên chiếc xe-xích ống xả bị nung nóng đến đỏ rực lên như những giọt nước
mưa vừa chạm vào đã bốc hơi lên. - Của tôi đấy.
- Họ tên đồng chí là gì ?
- Đồng chí trung úy, họ tên mà làm gì? Họ
tôi là Xêmakin đấy.
- Xêmakin, đồng chí sẽ dẫn khẩu pháo đầu
tiên.
- Thưa trung úy, tôi xin tuân lệnh! -
Xêmakin miệng nói lanh lảnh nhưng lại phẩy tay vẻ ngao ngán: ra cái điều anh ta
không tiếc bản thân mình. - Tôi sẽ đưa. Tôi luôn luôn hoàn thành mệnh lệnh! - Rồi
anh lắc đầu, vẻ phủ nhận. - Chỉ có điều chúng ta lấy gì mà kéo xe xích? Xe xích
sẽ nằm dưới gầm cầu. Cả pháo rồi thì cũng thế...
Anh ta nói, các pháo thủ im lặng đồng tình.
Tất cả họ cùng với nhau và từng người riêng biệt có trách nhiệm đối với đất nước,
đối với cuộc chiến tranh, đối với tất cả những gì tồn tại trên đời, ngay cả sau
khi chính họ không còn nữa. Nhưng để đưa pháo đến đúng hạn định, chỉ có một
mình anh chịu trách nhiệm. Chính anh chứ không phải họ chịu trách nhiệm...
- Nếu đồng chí sợ, không dám dẫn pháo, tôi
sẽ đứng dưới gầm cầu. Đồng chí sẽ cho pháo chạy trên đầu tôi!
Và sau khi ra lệnh:
- Lái xe về vị trí, tất cả các chiến sĩ rời
pháo! - Anh dẫn khẩu đội đến bên cầu.
Khi vòng xe xích lăn trên những tấm gỗ lát
cầu đầu tiên, sau cơn lạnh cóng người họ bắt đầu nhúc nhích đứng dồn lại,
Trêchiakov chạy xuống dưới. Có trung đội trưởng, họ đâm chùn lại, nhìn nhau, trọng
tải của mình có thể đè lên người anh ấy lắm chứ.
- Nào! - anh vẫy tay, hét lên từ phía dưới,
nhưng ở trên này cánh xe xich, họ không thể nghe thấy anh. Và ở dưới gầm cầu
anh đã bước vào số phận mình như thế đấy.
Phía trên đầu anh, phía trên gương mặt của
anh đang ngẩng lên - mọi cái đều võng xuống sức nặng chuyển từ súc gỗ này sang
súc gỗ khác. Hóa ra các mố cầu chỉ lún xuống. Và dây pháo đã tiến lên cầu. Chiếc
cầu rên rỉ, lắc lư. “Sập này!” - đến hơi thở cũng nghẹn lại. Các súc gỗ cọ vào
nhau, mùn rác từ trên cao rơi xuống. Chớp chớp đôi mắt đầy bụi, không trông thấy
gì, anh đưa những ngón tay sần sùi lên dụi mắt, cố nhìn một cách đui mù xem
chuyện gì xảy ra trên đầu anh, nhưng mọi vật đều nhấp nhoáng. Và qua tiếng xả
khí của động cơ vang lên tiếng gỗ răng rắc.
Không trông thấy, nhưng anh cảm thấy cả một
sức nặng khổng lồ chuyển từ mặt cầu sang mặt đất và chiếc cầu giãn ra trên đầu
anh. Chỉ đến lúc này anh mới cảm thấy hết cái sức mạnh từ trên cao nén xuống :
anh cảm thấy như các bắp cơ căng ra, cứ như chính anh đã giơ lưng đỡ chiếc cầu.
Trêchiakov leo lên khỏi lòng khe: anh không
việc gì phải đứng dưới gầm cầu suốt thời gian ấy, dẫu sao đó không phải là trò
xiếc. Sau khi ra lệnh tháo rơ-moóc và dùng dây chão dài để kéo, anh không đợi
đi qua cầu. Anh đi ngang qua những khẩu pháo, ngang qua các pháo thủ đứng bên
pháo, anh thấy mình đúng, anh đã làm những gì cần làm, nhưng vì sao nhìn họ lúc
này anh thấy khó chịu và thấy xấu hổ cho bản thân mình. Anh đã bò dưới gầm cầu,
hét lên điều gì đó... Chỉ đơn giản là ngồi cạnh người lái xe và bình tĩnh dẫn
khẩu đội đi: ít ồn ào và được việc hơn.
Đến nửa đêm, ở khu trại, sau khi gõ cửa một
ngôi nhà, họ dựng ông già dậy đưa đường. Ông già không mặc gì, chỉ khoác tấm vải
trắng ngồi lên xe xích: ông hy vọng, như thế chắc là ông sẽ được thương xót hơn
và họ sẽ thả ông ra sớm hơn. Họ choàng chiếc áo bông ngắn khét nắng lên vai
ông, và ông sau khi xỏ tay vào áo, lấy chân này ủ ấm chân kia.
- Chạy, chạy... Theo lối mòn này... - Cái cổ
gà chọi đầy lông trắng để trần của ông ta thò ra từ cổ áo.
- “Chạy, chạy”. - anh lái xe nhại; toàn
thân ướt sũng, đầu đội mũ ca-lô ướt. - Ông đưa tôi đi đâu đấy? Ở đây độc các mụ
toi cơm. Ông hãy đưa tôi đến nơi pháo cần đến ấy!
Ông già nhẫn nhục chớp chớp đôi mắt rớm nước,
từ chiếc áo bông ngắn, cánh tay run cầm cập chỉ ra, phía trước, trong mưa. Ông
dẫn khẩu đội đến cánh rừng thưa, và họ thả ông ra.
Máy tắt hết. Tiếng súng máy bỗng gõ đều gần
ngay bên. Từ mặt đất đen ngòm, những đường đạn sáng lóe, hiện lên rồi biến mất.
Tiền duyên ở một nơi nào không xa. Thế mà anh cùng với những cỗ đại bác hạng nặng
vẫn bị giam hãm nơi đây.
Cánh lái xe bước đến :
- Báo cáo trung úy, hết chất đốt.
- Sao lại hết?
- Đốt hết rồi.
- Chúng ta đi mãi, đi suốt đêm.
Một phát súng lẻ loi yếu ớt. Sau khi vạch
theo sau một vệt khói lấp lánh, phát pháo sáng bay vút lên. Nó cháy bùng, sáng
rực trên đầu họ và cánh rừng thưa, pháo, người - tất cả hiện rõ mồn một như
trên lòng bàn tay trần trụi.
- Sao lại hết chất đốt? - Trêchiakov hỏi, cảm
thấy chán nản và bất lực hoàn toàn. - Sao lại hết vào cái lúc đang cần?
Họ đứng trước mặt anh, mắt nhìn xuống đất
và im lặng. Và họ có thể đứng như vậy mãi mãi, anh thấy rõ điều đó. Ánh sáng vụt
tắt. Không biết phải làm gì bây giờ, phải nói thêm điều gì chứ gào lên và chửi
rủa, nói chung là vô ích - Trêchiakov bỏ đi. Hình như Zavgôrôtnhi gọi anh từ
bên trong chiếc xe rơ-moóc, tiếng rên rỉ của ai đó vang lên, nhưng anh làm ra bộ
không nghe thấy. Anh không cần an ủi, bởi vì anh ta, một người ốm, thì có thể
làm được gì từ nơi đó?
Những chú ngựa nào đó lang thang trong cánh
rừng thưa. Một chú ngựa bạch, mắt lim dim gặm cỏ cây. Hơi bốc lên từ thân hình
ướt đẫm của chú ngựa. Mãi đến lúc này Trêchiakov mới biết mưa đã tạnh. Từ mặt đất,
từ cỏ cây, sương mù bốc lên.
Nghe thấy tiếng người nói, anh bước lại gần
hơn. Khẩu đội vừa đẩy pháo vào chiến hào mới đào, vừa cãi vã nhau, vừa thở nặng
nhọc. Ghìm nòng pháo, ấn mạnh càng pháo, ấn mạnh bánh cao su, các pháo thủ gần
như ở trần, ướt đẫm vì mưa đang đẩy pháo xuống. Mọi người cố nén xúc động, đứng
vây quanh anh. Đây là trận địa của tiểu đoàn pháo. Anh đã tìm được trung đội
trưởng. Trông anh ta hơi già, mang ủng và quấn xà cạp như lính bộ binh, mỗi chiếc
ủng bám hàng pút (1 pút=16,38 kg) đất đen, thoạt đầu anh ta hoài nghi nghe
Trêchiakov. Rồi thì anh ta hiểu ra sự thể. Họ so đo các tấm bản đồ. Và đột
nhiên, hệt như khu vực đó xoay chuyển trước mắt, mọi cái đều trở nên dễ hiểu.
Sườn dốc cao điểm ấy, nơi họ cần đặt pháo cách đây có nửa cây số.
Khi trời chưa sáng, anh vội vã tìm trận địa
của khẩu đội, anh chui lủi khắp nơi, suy tính xem đưa pháo vào đây bằng con đường
nào, và anh trở lại cánh rừng thưa. Các chiến sĩ ngủ cả, chỉ còn Paravian trùm
áo bạt đi lại bên pháo. Họ ra lệnh báo thức. Các chiến sĩ lái xe lạnh cóng
trong những chiếc áo bông ngắn, không đủ ấm cả trong giấc ngủ, tiến lại gần,
ngáp rung cả người. Anh hướng dẫn cách đưa pháo vào, và chất đốt đã được tìm thấy.
- Ở đó trong các thùng phuy còn chút ít...
Cánh lái xe nhìn lảng đi. Họ nói rằng hết
chất đốt. Anh thấy lúng túng đến mức không kiểm tra lại ở các thùng. Nhưng bây
giờ không phải chỉ ở các thùng phuy, mà còn tìm được cả một thùng tônô. Nhưng
dù sao cánh lái xe cũng phải thôi: đi suốt đêm mà không biết rõ sẽ đi đâu, và tất
nhiên phải đốt gần hết nhiên liệu.
Trước lúc rạng đông, khi bóng tối nhờ nhờ đặc
quánh lại, để các chiến sĩ đào hầm cho pháo.
Trêchiakov đã liên lạc với đài quan sát. Trong chiếc hố con con mới đào,
Trabarôv đang cầm ống nghe:
- Đại đội trưởng đâu?
- Đại đội trưởng đang nằm ngủ ở bên trên ấy.
Một phát pháo sáng bay vọt lên nơi tiền
duyên và Trêchiakov trông thấy: áo mưa bạt trùm kín từ đầu, chỉ thò đôi ủng ướt
át ra ngoài, đại đội trưởng đang nằm ngủ ngoài bờ chiến hào.
- Đồng
chí đại úy! Đồng chí đại úy!...
Pôvưixenko ngồi dậy trên mặt đất, nheo mắt
lại vì ánh pháo sáng, trong giây phút đầu tiên anh ta nhìn bằng đồi mắt đỏ ngầu,
vẫn chưa hiểu chuyện gì. Rồi ngáp đến trào nước mắt, rùng mình, và lắc đầu hỏi:
- À... cậu đến bắt liên lạc đấy phải không?
Trong bóng tối, anh ta nhìn mãi những chiếc
kim dạ quang trên mặt đồng hồ.
- Cậu đi đâu mà lâu thế? Cậu họ gì,
Tretverikov phải không?
- Trêchiakov.
- Ừ nhỉ, Trêchiakov, đúng thế. Cậu được cử
ra chỗ chết đấy.
Khi tỉnh hẳn, đại úy đứng lên, vươn người
và lại ngáp.
- Đã đào hầm cho pháo xong chưa?
- Đang đào.
Vẫn văng vẳng bên tai Trêchiakov tiếng máy
kéo ầm ầm, và đôi chân anh dường như vẫn đang lội trong bùn đen. Sau suốt một
đêm khôug ngủ chỉ có cái đầu vẫn nhẹ nhàng, minh mẫn, và đại đội trưởng người
cao to choàng tấm áo bạt lúc thì thấy ở gần bên, lúc thì xa tít trong ánh sáng
hừng hực của đám cháy.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét