Mãi Mãi Tuổi Mười Chín
Tác giả: Gbaklanôp
Người dịch: Phương Nam
NXB Đà Nẵng - 1986
22
Ôlếc Xêlivanov, như mọi bận, khoác áo capốt,
ngó vào phòng bệnh, vẫy Trêchiakov ra hành lang.
- Đi thôi!
- Chở đến rồi đấy à?
Gương mặt Ôlếc đỏ bừng vì gió, lông tơ vàng
óng trên lớp da thô nơi cằm.
- Đi nhanh lên. Tớ đã nói với thủ trưởng
quân y viện, cậu được phép rồi.
Bước nối bước, vết ủng in thành vệt trên
tuyết đã đông kết lại, họ bước đi trên phố. Băng nằm cả ở trong bóng râm; tuyết,
các tấm gỗ ở bờ dậu, những chiếc ghế dài nơi cổng con - tất cả mọi cái như được
bao phủ một lớp tro, một lớp sương xam xám từ hồi đêm. Dưới ánh mặt trời, tuyết
bị xe trượt mài bóng lên, lại càng lấp lóa. Và hương xuân đã phảng phất giữa
ngày đông.
Lần đầu tiên Trêchiakov công khai đi dạo phố
giữa ban ngày: Ôlếc Xêlivanov, nổi bật lên với cặp kính trắng, đai da thắt
ngang lưng, vừa áp tải, vừa hộ vệ anh.
- Ôlếc, làm thế nào mà cậu xin phép được ?
Ôlếc chỉ mỉm cười.
- Cậu nghĩ rằng, nếu tớ ở đây tớ phải thông
thạo và biết cách như thế à? Thế mà tớ chẳng biết quái gì cả. Và tớ cũng chẳng
cả thông thạo nữa. May mà, gặp được người như thế, dường như anh ta biết, và tự
đề xuất.
- Ôlếc, cảm ơn cậu nhé.
- Nếu cậu muốn biết, bây giờ chính mình
cũng cảm thấy dễ chịu đấy.
Họ đi rất nhanh, vừa đi vừa nói chuyện, miệng
phả ra từng luồng hơi ngắn. Đấy, đừng có bao giờ thề nguyền trước. Lần ấy tiễn
Ôlếc, Trêchiakov đã từng mong cho anh ta đừng đến nữa. Và Trêchiakov còn không
biết rằng chính anh đã phải đến tìm bằng được Ôlếc, và anh còn vui sướng khi
trưởng ban quản trị dẫn Ôlếc đến.
“Ôlếc
này, - anh nói với Ôlếc, bởi vì chẳng có ai để mà nhờ cậy. - mình cần một xe củi”.
Thế là mắt Ôlếc bỗng tròn hơn mắt kính, “Vôlôđia, nhưng tớ lấy đâu ra củi mới
được chứ? Mà lại cả một xe đầy?” - “Tớ không biết”. Nhưng cả hai cùng hiểu rằng:
cần phải có củi. Trong lớp họ, trong số tất cả bè bạn chỉ có mình Ôlếc ở lại hậu
phương.
Nếu xin cho mình, Trêchiakov đã chẳng xin,
nhưng anh không thể để Xasa đi nhặt than dưới gầm tầu. Và anh tin chắc: Ôlếc đã
muốn là làm bằng được. Vào năm thứ ba của cuộc chiến tranh, những người đã qua
hội đồng quân y, biết đánh giá cuộc sống của mình còn quí hơn một xe củi, mà Ôlếc
lại là thư ký của Hội đồng quân y. “Anh ta có dấu đấy!” - trưởng ban quản trị
nói thế. Đối với Trêchiakov, con dấu không có ý nghĩa gì, nhưng qua vẻ kính nể
của người nói, anh hiểu: số phận của mọi người nằm trong tay Ôlếc. Và anh càng
thêm vững tin: Ôlếc có thể làm được. Và Ôlếc đã làm được. Anh ta hãnh diện đến. Chứ sao nữa, làm
được việc tốt cho người khác - điều đó cũng đáng là một thử thách.
Thở hổn hển vì đi nhanh, nhưng khi họ đến
nhà thì chiếc xe không còn ở đó nữa, những khúc gỗ dài hai mét chất thành núi
trên tuyết trước nhà kho. Xasa đang khuân gỗ. Ôm những súc gỗ bạch dương trong
tay, mặt cô hồng hào, vui sướng, cô nhìn hai người:
- Em cứ nghĩ là họ chở đến cho chị Phaia
cơ. Em gọi Phaia, nhưng họ đọc mảnh giấy, và bảo chở đến cho em. Và em còn từ
chối nữa chứ!
- Họ đi rồi à? - Ôlếc hỏi.
- Không hiểu sao họ rất vội vã. Họ thả gỗ
xuống thật nhanh, thậm chí không cả lấy tiền nữa. “Chúng tôi lấy tiền làm gì?
Giá cô cho chúng tôi ít rượu thì tốt...”. Nhưng em đào đâu ra rượu? - Xasa bước lại gần họ, đập bao tay vào nhau phủi
mùn gỗ. - Anh Vôlôđia, em chẳng hiểu gì cả.
- Nào, em làm quen đi: anh Ôlếc Xêlivanov.
- Anh đặt tay lên lưng đẩy Ôlếc lên phía trước. - Một con người vĩ đại và toàn
năng... Anh ấy học cùng lớp với anh. Mọi chuyện này là do anh ấy cả.
Xasa mềm mại chìa bàn tay ấm áp vừa rút khỏi
bao, và cô ngước đôi mắt xám dưới hàng mi đen nhìn Ôlếc, Ôlếc sau khi chào hỏi,
trở nên bối rốị, và bắt đầu lau kính.
- Thật đích đáng, toàn là gỗ bạch dương. - Xasa
trầm trồ. - Anh nhìn này, bao nhiêu là gỗ bạch dương!
- Thôi bọn anh không nhìn đâu - Trêchiakov
tháo thắt lưng, quàng lên vai. Anh thấy việc họ chở củi đến còn gây cho Xasa ấn
tượng mạnh hơn việc Ôlếc đến. - bây giờ bọn anh sẽ cưa ra, rồi bổ củi và xếp
vào kho, lúc ấy mới nói: xong!
Cái giá đỡ được tìm thấy ở bên kho nhà
Piaxtôlov.
Choàng chiếc khăn lông lên vai, Phaia mang
cưa ra. Rồi lại chui ra mang theo một cái rìu. Khi được ra dáng chủ nhà, điều
đó rất hợp với Phaia, cô sung sướng giúp đỡ, và lấy làm vui sướng vì các vị
hàng xóm.
Họ nện chặt tuyết quanh giá đỡ, vần những
thân gỗ lớn cưa trước:
- Nào, Xasa!
Khi đoạn gỗ tròn đầu tiên bị cưa đứt rơi xuống
tuyết, Ôlếc Xêlivanôv nhận bổ củi. Cứ mặc nguyên cả áo capốt, đeo thắt lưng da,
đai da, anh ta vung rìu quá đầu, làm tuột cả kính trên mũi, và bây giờ anh ta
ngồi trên khúc gỗ, buồn phiền vì mình vụng về, tay mân mê và ngắm nhìn đôi mắt
kính mờ mờ vì những đường rạn nứt. Và thế là hai người cưa củi với nhau.
Mạt cưa trắng bắn tóe ra dưới lưỡi cưa: bám
lên ủng của Xasa, bám vào vạt áo capốt, vào đôi ủng của anh đặt bên cạnh. Chúng
nằm thành từng lớp dưới chân, trên mặt tuyết đã bị xéo nát, trong giá lạnh mùi
gỗ xẻ thơm sực lên, tinh khiết.
Xasa mặt đỏ bừng, cổ tháo khăn quàng ra,
tóc bết lại bên má.
- Em có mệt không?
Xasa lắc đầu:
- Không ạ!
Lưỡi cưa sắc chạy băng băng, tay vẫn mang
bao, Xasa kéo cưa về phía mình, rồi sau cô tháo cả bao tay ra: nóng quá. Sau
lưng cô, giống như những làn khói không cất lên khỏi mặt đất, những cây bạch
dương chìm trong sương giá, ngay đơ bởi sự tĩnh lặng, in bóng trên nền trời.
Giữa trưa trời ấm hơn lên, mây che kín, tuyết
rơi dày đặc và vạn vật nhòa đi, xoay tít, mùi gỗ bạch dương xẻ càng nồng hơn, hệt
như nỏ bay ra từ tuyết mới vậy. Xasa phủi tuyết khỏi bao tay, nhưng tuyết vẫn cứ
bám vào.
Từ ngoài ga vẳng lên tiếng bánh xe chạy vun
vút, âm vang từ mặt đất, lúc thì dồn dập như lao theo toa cuối cùng, lúc thì đầu
đặn, nện đi nện lại nơi chỗ nối đường ray. Làn khói tàu hỏa cũng bị cuốn theo.
Và dường như không phải tuyết bay, mà là chúng lao vùn vụt, lao vùn vụt xuyên
qua tuyết... Còi tàu rúc lên giục anh gấp gấp, dưới sàn tàu bánh xe lao sầm sập.
Anh nhìn Xasa, anh sẽ mãi mãi ghi nhớ hình ảnh cô như thế.
Gương mặt ai đó hiện lên trăng trắng, thấp
thoáng qua ô kính cửa sổ nhà bếp đen sì.
Xasa bắt gặp cái nhìn của anh.
- Mẹ em đấy! - Cô kêu lên qua tiếng cưa
xoèn xoẹt. - Em đưa mẹ về hôm qua. Mẹ lạ lùng làm sao, gì cũng hỏi. Đi lại khắp
nhà, cứ như không nhận ra vật gì hết. - Xasa dừng lại thở. - Hóa ra, ở đó mẹ bị
viêm phổi. Chẳng ai nói với em cả.
Cánh tay trắng vẫy vẫy nơi cửa số. Xasa chạy
vào nhà. Ôlếc ngồi lạnh cóng, đến thay chỗ Xasa. Rồi họ ngồi hút thuốc trên những
súc gỗ. Tuyết đang rơi từ những đám mây, bỗng ngừng hẳn. Mặt trời lại ló ra.
Trêchiakov đưa mắt ước lượng xem họ có đủ sức cưa hết chỗ gỗ không, và anh đặt
bàn tay nóng rực vì lao động lên đầu gối Ôlếc, lòng bàn tay dường như sưng phồng
lên:
- Ôlếc, cảm ơn cậu nhé.
Ôlếc sung sướng :
- Kìa cậu! Tớ thấy rõ rồi. Có điều tớ không
được biết thế. Tiếc thật. Cậu chẳng nói với tớ sớm hơn.
Xasa mang đồ uống ra cho họ, rồi lại quay
vào bếp. Rồi cô lại từ bếp chạy ra, vung vẩy hai ống tay áo bông ấm áp, vạt dài
đến gần đầu gối.
- Chị Phaia trang điểm cho em đấy! - cô
tươi cười vén tay áo. Trong chiếc áo bông ấy, trông cô vẫn xinh đẹp, Trêchiakov
nhận thấy Ôlếc buồn rầu ngắm nhìn cô.
Xasa chuyển củi vào trong kho, và hai người
lại cưa tiếp. Mặt trời vòng lên trên những ngọn cây bạch dương, chiếu vào cửa sổ
nhà bếp, từ ô cửa ấy mọi người đã gọi vào mấy bận rồi, nhưng anh hiểu rằng bọn
anh không thể bắt tay vào công việc lần thứ hai, vì không quen nên đã mất khá
nhiều sức lực, và chỉ đến khi cưa xong hết số gỗ, đưa giá đỡ vào kho, và Xasa dọn
dẹp hết các mảnh vụn, vỏ cây, mùn cưa trên tuyết họ mới cầm cưa rìu, cùng nhau
vào nhà.
Trêchiakov đứng nhìn ngoài bậc thềm, lấy mũ
phủi mùn cưa và tuyết trên người: anh gìn giữ khoảnh khắc này cho riêng mình.
Trước nhà kho trống trơn. Họ có thể làm được và đã giành thắng lợi chỉ một lần.
Người nọ nối người kia họ khẽ bước vào bếp, dựng rìu và cưa bên cửa.
- Đây không phải là những người làm công,
mà là các thiên thần. - Phaia đón họ bằng giọng nói trầm trầm và lắc đầu, hai
tay đặt trên bụng, người cô chiếm mất nửa gian bếp. Rồi anh trông thấy một bà
già gầy gò choàng khăn của Xasa đang đứng bên bếp lò. Xasa ôm lấy bà, ghì chặt
vào người, cô làm dáng, nói: - Đây là mẹ em.
Rồi cô sốt sắng muốn hiểu trông mặt anh ấy
thế nào nhỉ? Sau đó cô nói với mẹ:
- Mẹ ơi, đây là anh Vôlôđia.
- Vôlôđia, - bà mẹ nhắc lại, ngượng ngập
che cái miệng không còn răng cửa. Tay bà trắng bệch mất máu, thậm chí trông lạnh
toát, móng tay cũng trắng bệch.
- Ở đó không hiểu sao họ lại cắt hết tóc mẹ.
- Xasa nói, điệu đà vén tóc lên tai. - Tóc mẹ em còn dài hơn tóc em nhiều, thế
mà mẹ lại để cho họ cắt ngắn. Nếu em mà biết thì em đã chẳng đồng ý.
Hai người cao lớn đứng bên ngưỡng cửa: một
trông rất bệ vệ, đeo kính, mang quân hàm, đeo thắt lưng da; còn người kia chỉ mặc
độc chiếc áo capốt của lính không cài cúc, thế mà cô con gái lại nói: “Mẹ ơi!
đây là anh Vôlôđia”.
- Các anh cứ cởi áo khoác ngoài ra, - bà mẹ
nói. - Ở nhà chúng tôi lúc nào cũng ấm
áp. Các anh cởi áo ra rồi ngồi vào bàn. Xasa, con chỉ nơi treo áo cho các anh.
Khi họ cởi áo và treo áo capot ở trong nhà,
Xasa lướt nhìn vào mắt anh, anh mỉm cười, gật đầu. Sung sướng vì thấy anh mến mẹ
mình, để khẳng định thêm cho mẹ mình, Xasa nói nhanh với anh:
- Trước mẹ em hoàn toàn không thế đâu, ở đằng
bệnh viện về mẹ cứ hốt hoảng, đến em cũng còn không nhận ra mẹ nữa.
Trong nhà bếp, suốt chiến tranh không được
quét vôi nay trần nhà trở nên đen sì, ám khói vì đèn, tường và bệ cửa sổ ngả
sang màu sẫm, giờ đây ánh mặt trời chiếu xuống, tuyết hất vào bàn, chiếc khăn
trải bàn cũ kỹ, đã mạng lại, hồng rực lên trong ráng chiều. Và cả những chiếc
đĩa sâu lòng cũng lấp lánh ánh hồng.
Phaia từ chối không ngồi vào bàn, và ra về.
Bà mẹ bê từng chiếc đĩa đến bên bếp lò, múc đầy xúp nóng rồi đặt xuống bàn cho
từng người. Món xúp này hoàn toàn không có thịt, không có mỡ, chỉ có lá bắp cải
ướp lạnh và khoai tây, vậy mà ngon và thơm đến nỗi một người no nê cũng chưa
bao giờ được ăn những món ngon như thế.
Và trong suốt lúc họ ăn uống và chuyện trò,
Trêchiakov luôn luôn cảm thấy cái nhìn của bà mẹ hướng vào anh. Bà mẹ nhìn anh,
và rồi lại nhìn, nhìn mãi. Ôlếc ngồi đó buồn rầu và phiền muộn, mặt trời lấp
lánh trên đôi mắt kính của anh. Chính vì phiền muộn và lúng túng nên chỉ mình
anh ta xơi bánh mì mà không nhận ra rằng mọi người không lấy bánh: anh cầm lấy
lát bánh mi, bẻ nhỏ ra và ăn lơ đãng.
Qua ô cửa vẫn nhìn thấy những ngọn cây bạch
dương. Chỉ những ngọn cao nhất, nhưng cành cây rực hồng nhấp nháy như ánh lửa,
còn thân cây trong ánh sáng màu huyết dụ trong vắt lại mang màu tim tím. Tàu chạy
qua, khói cuồn cuộn bốc lên sau mái nhà kho, và ánh sáng trên bàn lay động.
Mặt trời lặn, ngày đã tàn, các bức tường
càng tối sầm lại, và những gương mặt ngược sáng rất khó phân biệt. Nhưng lúc
nào anh cũng cảm thấy cái nhìn của bà mẹ xoáy vào anh.
Tiễn Olếc xong, khi anh và cô cùng đi đến
quân y viện, trời đã tối hẳn.
Cô hỏi:
- Anh có thích mẹ em thật không?
- Em giống mẹ lắm, - anh nói.
- Anh không thể hình dung được là em giống
mẹ làm sao! Mẹ để tóc dài trông rất trẻ, mọi người cứ cho em với mẹ là hai chị
em gái, họ không chịu tin chứ. Từ bệnh viện mẹ trở về như vậy đấy, già đi, đúng
là một bà già, em không dám nhìn mẹ nữa.
Họ dừng lại bên bờ tường. Gió hắt tuyết lên
ủng anh, thổi tung tà áo capốt. Anh lấy lưng chắn gió cho Xasa, tay anh ủ ấm
tay cô, trong thâm tâm anh đang chia tay với cô.
“Mẹ
ơi, - đêm hôm đó cúi gập người bên khung cửa sổ, nơi anh vẫn nhìn ra ga,
nhìn những đoàn tàu đang chạy, anh viết thư về cho mẹ, - xin mẹ hãy tha thứ cho con tất cả mọi điều. Bây giờ con mới hiểu con đã
làm hỏng cuộc đời mẹ. Nhưng mà khi ấy con chưa hiểu được điều đó, còn bây giờ
thì con hiểu ra rồi, mẹ ạ!”.
Một bận, trong giây phút tuyệt vọng, mẹ đã
nói với anh: “Con chưa hiểu là vào năm tháng của chúng ta, việc dám nhận về nhà
mình vợ của một người bị bắt là như thế nào đâu. Lại còn cả hai đứa con thơ nữa.
Con không hiểu là làm việc đó phải là một người như thế nào chứ!...”. “Con
không cần ai đón nhận về! - lúc đó anh đã trả lời mẹ như vậy. - Con không cần
ai nhận con cả!”.
Thế rồi anh bỏ học vào trường kỹ thuật để
được nhận học bổng; anh muốn chuyển luôn vào ký túc xá ở, nhưng họ chỉ nhận những
người từ thành phố khác. Giờ đây anh đã hiểu ra rằng anh thật là độc ác trong
cái phải của mình. Có một điều gì đó hoàn toàn khác bỗng trở nên rất dễ hiểu.
Và lần đầu tiên anh chợt ngnĩ ra rằng nếu cha anh còn sống và trở về, cha anh
cũng hiểu và sẽ tha thứ. Và ở cuối thư bất ngờ, anh còn thêm dòng chữ:
“Mẹ hãy chăm sóc Lianka!”.
-----------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét