Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Bản chúc thư - Ch 52

Bản chúc thư

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011

Chương 52

Những cây thập tự màu trắng được làm bằng gỗ và đã được cắt, bào nhẵn bởi mấy người thổ dân rồi cột chéo lại với nhau bằng dây. Hai cây thập tự nhỏ, chỉ cao độ một bộ và được cắm xuống đất ở hai đầu mộ. Chẳng có dòng chữ nào ghi tên tuổi, ngày sinh, ngày mất của những người nằm dưới mộ.
Dưới tán cây dày, trời như màu sẫm tối. Nate đặt balô trên mặt đất giữa hai nấm mộ và ngồi lên đó. Thủ lĩnh bắt đầu kể chuyện, ôn tồn nhưng nhanh gọn.
- Bà ấy ở bên trái. Lako ở bên phải. Họ chết cùng một ngày, khoảng hai tuần trước đây.
Jevy dịch lại. Thủ lĩnh còn nói nhiều lời nữa, rồi tiếp:
- Bệnh sốt rét đã giết chết mười người từ khi chúng ta rời đi, - Jevy nói lại cho Nate.
Thủ lĩnh còn kể một thôi dài, không hề ngừng để Jevy kịp dịch. Nate nghe ông nói nhưng cũng như không nghe gì cả. Anh nhìn nắm đất phía bên trái, một khối đất đen được đắp chặt thành một hình chữ nhật có góc cạnh sắc nét, bao bọc chung quanh bằng những nhánh cây được cắt-gọt đều đặn. Nằm trong đó là Rachel Lane, con người dũng cảm nhất mà anh từng biết, bởi vì cô tuyệt đối không sợ hãi cái chết, cô thanh thản đón nhận khi ngày ra đi đã đến. Linh hồn cô cuối cùng lại trở về trong lòng Đấng Bao Dung, thân xác cô mãi mãi nằm lại giữa những con người cô trọn đời yêu mến.
Và Lako bên cạnh cô, giờ đây được cùng hưởng phước nơi nước trời.
Cơn chấn động nơi tâm hồn anh đến rồi đi. Cái chết của cô dù bi thảm nhưng nhìn kỹ lại là một cái chết thanh thản, cô đã an nhiên sống và chết trong niềm tin vào sứ mệnh cao cả của đời mình, anh không việc gì phải đau lòng. Cô không phải là một bà mẹ trẻ, một thiếu phụ nửa chừng xuân chết đi để lại cho người chồng bất hạnh phải lâm cảnh một mình, lo liệu cho cả đàn con thơ dại. Cô cũng chẳng có nhiều bạn bè để khi chết bao nhiêu người tấp nập đến tỏ lòng thương, chia buồn. Chỉ có một đám người nơi quê cha đất tổ của cô biết được rằng cô đã mất. Còn giữa những người đã chôn cất cô, cô là cả một hiện tượng li kì.
Anh biết cô khá đủ để hiểu rằng cô chẳng muốn ai muộn phiền, lưu luyến vì cái chết của mình. Cô không mong nhận những giọt nước mắt tiếc thương, còn Nate thì có vắt đến bảy ngày e cũng chẳng còn giọt lệ. Trong một lúc, anh nhìn đăm đăm vào mộ cô với lòng nghi hoặc, nhưng rồi sự thật đã quá rõ ràng. Đây không phải lả một người bạn cũ mà anh đã từng chia sẻ nhiều thời gian sống bên nhau. Anh chỉ mới biết rất sơ sài về cô. Những động cơ khiến anh đi tìm cô hoàn toàn có tính ích kỉ. Anh đã xâm phạm đời tư của cô và cô đã yêu cầu anh dừng trở lại.
Biết thế, nhưng sao lòng anh vẫn nhói đau. Anh đã nghĩ về cô từng ngày từ khi anh rời Pantanal. Anh đã mơ thấy cô, đã cảm nhận cái va chạm từ bàn tay cô, nghe giọng nói của cô, nhớ đến minh trí của cô. Cô đã dạy anh nguyện cầu và cho anh hi vọng. Cô là người đầu tiên, trong bao thập kỉ, thấy được còn có điều tốt nơi con người anh.
Anh chưa bao giờ gặp người nào như Rachel Lane, và anh cảm thấy dâng lên trong lòng nỗi tiếc thương vô hạn đối với nàng. Cho dầu tiếc thương mà người chẳng cần ta thương tiếc, thì tiếc thương hình như chưa tròn nghĩa tiếc thương. Nhưng biết làm sao được. Nỗi đau nào cần biết đến những suy luận, biện giải của lí trí...
Thủ lĩnh có vẻ trầm tư.
- Ông ta bảo chúng ta không thể ở lại đây lâu, - Jevy nói.
- Tại sao không? - Nate hỏi, vẫn còn nhìn đau đáu vào mộ cô.
- Những hồn ma đang nguyền rủa chúng ta về bệnh sốt rét. Bệnh xảy ra khi chứng ta đến đây lần đầu. Họ chẳng vui sướng gì khi thấy chúng ta đâu.
- Nói với ông ta rằng những hồn ma đó chỉ là một lũ hề.
- Ông ta muốn chỉ cho ông xem cái gì đó.
Chậm rãi Nate đứng lên, nhìn vào mặt thủ lĩnh. Họ đi qua cửa chính lều cô, cúi lom khom để chui lọt vào bên trong. Sàn nhà đầy bụi. Có hai phòng. Phòng trước với đồ đạc là một chiếc ghế bằng mây tre, một ghế xô-pha bằng gốc cây làm chân, rơm rạ làm nệm. Phòng sau là phòng ngủ và phòng bếp. Cô ngủ trong một chiếc võng giống như những người thổ dân Da đỏ. Dưới chiếc võng, trên chiếc bàn con, là một hộp nhựa trước đây dùng đựng thuốc men. Thủ lĩnh chỉ vào cái hộp và bắt đầu nói.
- Có những thứ trong đó để cho ông xem, - Jevy dịch.
- Cho tôi à?
- Đúng - Cô biết là cô sắp chết. Cô yêu cầu thủ lĩnh trông chừng giùm căn chòi của cô. Nếu có ông Mỹ đến, hãy chỉ cho ông ta cái hộp đó.
Nate e dè phải chạm vào nó. Thủ lĩnh cầm cái hộp lên trao cho anh. Anh đi lùi ra phòng ngoài, ngồi xuống chiếc ghế xô pha nệm rơm. Thủ lĩnh và Jevy bước ra ngoài.
Mấy bức thư của anh hình như không đến tay cô, chí ít là chúng không nằm trong hộp. Có một thẻ căn cước Brazil của cô, tấm thẻ người ta làm cho những người không phải là dân Da đỏ bản xứ. Có ba bức thư từ World Tribes. Nate không đọc chúng vì ở dưới đáy hộp anh thấy tờ chúc thư của cô.
Nó được để trong một phong bì màu trắng, kích cỡ văn bản pháp lí và có một cái tên Brazil được in cho địa chỉ phản hồi. Trên phong bì, cô viết bằng chữ in thật rõ dòng chữ:

Chúc thư cuối cùng của Rachel Lane Porter.

Nate nhìn trừng trừng vào đó, lòng đầy nghi hoặc. Tay anh run run khi anh thận trọng mở phong bì ra. Bên trong có hai tờ giấy trắng, khổ giấy viết thư, xếp lồng vào nhau. Trên tờ đầu, bằng chữ lớn, phía trên cùng, cũng lại là dòng chữ in đậm nét.

Chúc Thư Cuối Cùng của Rachel Lane Porter.

Tôi, Rachel Lane Porter, con chiên của Chúa, thường trú nơi Nước Chúa, công dân Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, trong tình trạng tinh thần minh mẫn, viết ra những điều sau đây như là chúc thư cuối cùng của tôi.

1. Tôi không có chúc thư nào trước đây để phế chỉ. Đây là bản chúc thư đầu tiên và cuối cùng của tôi. Mỗi chữ đều do tự tay tôi viết. Tôi cố ý làm một bản chúc thư viết tay.

2. Tôi có một bản sao chúc thư cuối cùng của bố tôi, Troy Phelan, đề ngày 9 tháng 12 năm 1996, trong đó ông cho tôi toàn bộ tài sản của ông. Nay tôi viết chúc thư này, theo sau và tham chiếu bản chúc thư của bố tôi để lại di sản cho tôi.

3. Tôi không khước từ phần di sản cho tôi. Nhưng tôi cũng không mong muốn nhận lãnh nó. Toàn bộ phần di sản mà bố tôi để cho tôi thừa kế, tôi muốn đưa vào một tổ hợp công ty. Tất cả thu nhập từ tổ hợp công ty đó sẽ được dùng cho những mục đích sau đây:

a. Hỗ trợ công cuộc hoằng pháp của các phái đoàn truyền giáo World Tribes trên khắp thế giới.

b. Truyền bá Phúc âm của đấng Ki-tô.

c. Bảo vệ quyền của những thổ dân ở Brazil và ở Nam Mỹ.

d. Cho người đói được ăn, người bệnh được chữa trị, kẻ không nhà có nơi nương tựa, trẻ bơ vơ được chăm sóc, được học hành.

5. Tôi ủy nhiệm người bạn của tôi. Nate O’Riley điều hành tổ hợp công ty, và tôi tín thác cho anh ấy những quyền hành tùy nghi rộng rãi trong việc quản trị toàn bộ di sản trên, với điều kiện làm đúng theo tinh thần của chúc thư này.

Corumbá, Brazil, ngày 06 tháng 01 năm 1997.
Kí tên Rachel Lane Porter.

Anh đọc đi đọc lại bản chúc thư. Tờ thứ hai được đánh máy, bằng tiếng Bồ. Phải chờ một lát.
Anh nhìn đám bụi bặm giữa đôi chân. Không khí như dính đặc lại và hoàn toàn tĩnh lặng. Cả chung quanh đều yên ắng, khổng thấy bóng người nào đi lại nơi buôn làng. Những người Ipicas vẫn còn ẩn trốn để tránh né ông Da trắng và những bệnh dịch theo chân ông ta.
Anh có nên lau quét bụi? Cho căn nhà sạch sẽ, ngăn nắp? Điều gì sẽ xảy ra nếu trời mưa và mái tranh bị dột? Nước sẽ xoáy bụi lên và biến nền nhà thành vũng bùn? Trên mấy bức vách trước mặt anh là những cái kệ làm bằng tay chứa đầy sách - những quyển Kinh thánh, những sách bổn, những quyển chuyên luận về Thần học. Mấy cái kệ đã hơi lệch, nghiêng về phía phải khoảng một, hai inch. Đây là căn nhà của cô từ mười một năm nay.
Anh đọc lại chúc thư.
Ngày sáu tháng Giêng là ngày anh ra khỏi bệnh viện ở Corumbá. Cô không phải là giấc mộng. Cô đã vỗ về anh và nói với anh rằng anh sẽ không chết. Rồi cô đã viết bản chúc thư.
Mái tranh rung rinh xào xạc khi anh di chuyển. Anh vẫn còn trong cơn hôn mê xuất thần khi Jevy thò đầu vào cửa chính và nói:
- Thủ lĩnh muốn chúng ta ra đi.
- Hãy đọc cái này, - Nate nói, đưa cho cậu ta hai tờ giấy, với tờ thứ hai đặt lên trên. Jevy bước tới trước để có ánh sáng từ ngoài cửa dọi vào.
Cậu ta đọc chậm rãi, rồi nói:
- Hai người ở đây. Người đầu là một luật sư, nói rằng ông đã nhìn Rachel Lane Porter ký vào bản chúc thư của cô nơi văn phòng ông, ở Corumbá. Tinh thần cô minh mẫn. Và cô biết cô đang làm gì. Chữ kí của ông ấy được đóng dấu chứng nhận bởi một... một... ông gọi là gì nhỉ?
- Một công chứng viên.
- Vâng, một công chứng viên. Người thứ nhì, ở bên dưới, là thư kí của luật sư, cũng nói những điều tương tự. Và công chúng viên cũng xác nhận chữ kí của cô ấy. Thế nghĩa là gì?
- Tôi sẽ giải thích cho cậu sau.
Họ bước vào trong ánh nắng chiều. Thủ lĩnh đứng khoanh tay trước ngực - hầu như ông đã hết kiên nhẫn.
Nate lấy máy ảnh ra khỏi balô và bắt đầu chụp hình căn lều và hai ngôi mộ.
Anh bảo Jevy cầm cái hộp đựng chúc thư của cô và ngồi xổm gần bên mộ.
Rồi Nate cầm nó và Jevy chụp hình.
Thủ lĩnh không đồng ý chụp hình chung với Nate. Ông ta né anh càng xa càng tốt. Ông ta nhăn mặt và Jevy sợ ông ta sẽ nổi giận.
Họ trở lại con đường mòn và quay về hướng rừng, tránh né buôn làng. Bóng cây càng dày hơn, Nate dừng lại và quay nhìn căn lều của cô lần cuối. Anh muốn đem căn lều theo với mình, bằng cách nào đó nâng cả căn lều lên và chở nó về Mỹ bảo tồn nó như một đền tưởng niệm để hàng triệu người được hưởng những điều tốt lành từ hạnh nguyện xả kỉ vị tha của cô, có nơi để tham quan và tỏ bày lòng mến mộ, tri ân. Và cả ngôi mộ đất với cây thánh giá bằng gỗ, cột chéo nhau bằng dây rừng, không ghi tên tuổi, của cô nữa. Cô xứng đáng được xây lăng tưởng niệm.
Nhưng chắc chắn cô không hề muốn điều đó. Jevy và thủ lĩnh đã khuất tầm nhìn, nên Nate vội vàng rảo bước về phía trước.
Họ đi về phía bờ sông và chẳng làm ai bị lây nhiễm dịch bệnh.
Thủ lĩnh làu bàu điều gì đó với Jevy khi hai người bước xuống thuyền.
- Ông ta bảo chúng ta đừng bao giờ quay lại, - Jevy nói.
- Bảo ông ta không việc gì phải lo.
Jevy không nói gì, nhưng thay vì vậy, cho nổ máy và chạy ra xa bờ.
Thủ lĩnh đã đi xa, hướng về buôn làng. Nate tự hôi không biết ông ta có nhớ Rachel. Cô đã sống nơi đó mười một năm nay. Có vẻ cô đã tạo được ảnh hưởng đáng kể đối với ông ta, nhưng cô vẫn chưa có thể thuyết phục ông ta cải đạo. Ông có tiếc thương cho cái chết của cô hay ông thấy thư thái vì giờ đây các thần linh và các hồn ma của bộ lạc ông lại tha hồ tung hoành? Điều gì sẽ xảy đến cho những người Ipicas đã trở thành tín đổ Kitô giáo, khi cô đã mất đi?
Anh nhớ lại những shalyuns - thầy mo, thầy phù thủy trong các buôn làng đã quấy rầy Rachel. Họ đã ăn mừng cái chết của cô. Và tấn công những người cải đạo. Cô đã chiến đấu quyết liệt và nay cô đang yên giấc nghìn thu.
Jevy tắt máy và dùng chèo để lái chiếc ghe. Nước êm đềm, dòng chảy lững lờ. Nate thận trọng mở Sat-Fone. Trời trong, tín hiệu mạnh và trong vòng hai phút, anh nghe tiếng cô thư kí của Josh lật đật chạy đi tìm ông chủ.
- Hãy nói tôi nghe là cô ấy đã kí vào các văn bản, Nate, - đó là những lời đầu tiên của ông Josh nói như hét vào điện thoại.
- Ông không phải la lớn, Josh. Tôi nghe rõ mà.
- Xin lỗi. Hãy nói là cô ấy đã kí.
- Cô đã kí văn bản thành lập tổ hợp, nhưng không phải văn bản chúng ta thảo ra. Cô ấy đã chết, Josh à.
- Không thể có chuyện đó!
- Có đấy. Cô đã chết cách đây hai tuần, sốt rét. Cô để lại một chúc thư viết tay, giống như bố cô.
- Cậu có chúc thư đó không?
- Có. An toàn. Tất cả tài sản thừa kế đưa vào tổ hợp. Tôi là người thụ ủy và điều hành.
- Cậu thấy đủ hiệu lực pháp lý không?
- Tôi nghĩ vậy. Một di chúc chính tay cô viết, kí tên, đề ngày tháng, được một luật sư và cô thư kí của ông ta ở Corumbá làm chứng và được xác nhận bởi một công chứng viên có kí tên, đóng dấu đàng hoàng.
- Như vậy, tôi thấy là có hiệu lực đấy.
- Hiện nay điều gì đang xảy ra? - Nate hỏi.
Anh có thể thấy Josh đứng đằng sau bàn giấy, nhắm mắt tập trung tư tưởng, một tay cầm điện thoại, tay kia vuốt tóc. Anh hầu như có thể nghe ông thở thật sâu bên kia điện thoại.
- Không có gì xảy ra. Chúc thư của ông ấy có hiệu lực. Di sản được phân chia.
- Nhưng cô ấy đã chết.
- Tài sản của ông ta được chuyển qua cho cô. Cô ấy chết có để lại chúc thư hợp lệ, tài sản lại chuyển quyền sở hữu cho người thừa kế mới.
- Còn những người thừa kế kia?
- Hợp đồng hòa giải vẫn có hiệu lực thi hành. Họ sẽ lãnh phần tiền của họ, hay những gì còn lại sau khi các luật sư xén phần bánh của họ. Những thừa kế kia đang là những người hạnh phúc nhất trên mặt đất, nếu phải chi không bị đám luật sư cắn những miếng quá đau. Họ không có gì để công kích. Chúng ta đang nắm hai di chúc có đầy đủ hiệu lực. Có vẻ như cậu đã trở thành một thụ ủy chuyên nghiệp rồi đấy.
- Tôi được tín thác những quyền hạn tùy nghi rộng rãi.
- Cậu còn được nhiều hơn thế. Hãy đọc cho tôi nghe coi.
Nate lục ra bản chúc thư từ đáy ba lô và chậm rãi đọc lên, từng chữ một.
- Cậu về nhà gấp, - Josh nói.
Jevy cũng lắng nghe từng lời, mặc dù cậu ta làm như đang ngắm nhìn dòng sông. Khi Nate dứt cuộc điện đàm và cất máy, Jevy hỏi:
- Số tiền kia thuộc về ông?
- Không đâu. Tiền bạc đi vào một trust.
- Một trust là cái gì?
- Cứ nghĩ nó giống như một tài khoản lớn ở ngân hàng. Nó được kí thác vào ngân hàng, được bảo vệ, và sinh lợi. Người thụ ủy quyết định việc phân phối số lợi tức đó.
Jevy vẫn còn lờ mờ, chưa hiểu rõ lắm. Cậu ta còn muốn hỏi nhiều câu nữa, và Nate cảm nhận được sự bối rối nơi cậu. Nhưng đâu phải lúc để thuyết minh, giải trình về những đề tài chúc thư, di sản, tổ hợp công ty... những cái rắc rối sự đời đó, mà một người học đến bạc tóc nát óc cũng còn thấy... quá ư hiểm hóc!
- Chúng ta đi thôi, - Nate nói.
Động cơ lại nổ giòn, và họ lướt trên mặt nước, uốn lượn ở những khúc cong, một màn hơi nước phun lên liên tục đằng sau họ.
Họ gặp chiếc xà lan lúc đã xế chiều. Welly đang câu cá. Đám phi công, cơ trưởng, hoa tiêu xúm nhau chơi bài phía sau thuyền. Nate gọi lại cho Josh và bảo ông ta rút chiếc chuyên cơ từ Corumbá trở về. Anh sẽ không cần tới nó nữa. Anh muốn nhẩn nha, chưa vội về nhà.
Josh phản đối, nhưng rồi... thôi. Vụ Phelan đã được dàn xếp ổn thỏa. Thật ra cũng không còn việc gì phải vội.
Nate bảo các phi công liên hệ với luật sư Valdir khi họ quay về, rồi nói lời tạm biệt và vẫy tay tiễn họ.
Thủy thủ đoàn trên chiếc xà lan nhìn theo chiếc trực thăng biến đi như một con sâu ngoằn ngoèo, uốn éo giữa bầu trời, rồi mất dạng. Jevy ngồi trước tay lái. Welly ngồi dưới thấp, phía mũi tàu, thõng chân khuấy nước. Nate tựa lưng vào một kiện hàng, cố đánh một giấc ngủ ngắn. Nhưng động cơ diesel ở sát bên với tiếng nổ xình xịch làm anh không sao ngủ được.
Chiếc tàu này kích thước chỉ bằng một phần ba chiếc Santa Loura. Nate ngồi ngắm cảnh hai bên bờ sông từ từ lướt qua.
Một cách nào đó, cô đã biết rằng anh không còn say sưa, nghiện ngập nữa, rằng những cơn nghiện đã rời bỏ anh, rằng những lũ quỉ ma ám chướng đời anh đã mãi mãi bị khống chế. Cô đã thấy thiện căn trong lòng anh vẫn sâu bền, mạnh mẽ, sẽ giúp anh vươn lên vững chãi, xứng với tầm cao sứ mệnh mà cô đã tín thác cho anh. Một cách nào đó, cô đã biết rằng anh đang đi tìm, và cô cảm nhận rằng anh đã được ơn thiên triệu, anh đã mơ hồ nghe ra lời gọi của Đấng Tối Cao. Chúa đã mặc khải cho cô điều ấy.
Jevy đánh thức anh sau khi trời tối.
- Trăng lên kìa! - cậu ta nói.
Họ cùng ngồi nơi mũi thuyền, Welly cầm tay lái, ngay đằng sau họ, lái thuyền theo ánh trăng đầy trên dòng sông Xeco uốn khúc như  rắn lượn để đổ vào sông lớn Paraguay.
- Thuyền trôi chậm quá, - Jevy nói. - Phải mất hai ngày mới về đến Corumbá.
Nate mỉm cười. Thuyền có lững lờ trên dòng sông hoang sơ này cả tháng nữa mới về đến bến anh cũng vẫn bình thản.

Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét