Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014

Bản chúc thư - Ch 39

Bản chúc thư

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011

Chương 39

Lúc sáu giờ sáng Chủ nhật, Nate tắm nước nóng xong, lần tắm thứ ba trong vòng hai mươi bốn tiếng, và bắt đầu lên kế hoạch cho một cuộc ra đi nhanh chóng. Mới một đêm nơi thành phố lớn và anh đã bồn chồn muốn rời xa. Căn nhà sàn bên vịnh biển đang mời gọi anh. Washington đã là quê nhà của anh trong hai mươi sáu năm, và bởi vì đã quyết ý ra đi, anh càng nôn nao muốn lên đường.
Không có địa chỉ ra đi càng dễ. Anh gặp Josh nơi tầng hầm, ngồi nơi bàn giấy, đang nói chuyện điện thoại với một khách hàng ở Thái Lan. Vì Nate chỉ nghe loáng thoáng một nửa cuộc đối thoại về những trữ lượng gas thiên nhiên, anh hoàn toàn hài lòng rời khỏi việc hành nghề luật sư. Josh lớn hơn anh mười hai tuổi, rất giàu có, và ý nghĩ khôi hài chợt đến với anh là sao ông ta lại ngồi vào bàn giấy lúc mới 6 giờ rưỡi sáng mà lại là ngày Chủ nhật nữa. Đừng để điều đó xảy ra với ta, Nate tự nhủ, nhưng anh biết điều ấy sẽ chẳng xảy ra. Nếu anh quay trở lại văn phòng, anh sẽ quay về với sự cần mẫn nhàm chán. Anh không có ý chí mạnh mẽ như Josh. Có lẽ anh sẽ tiêu đời chỉ trong vòng mười năm nữa thôi.
Có chất men kích thích trong sự ra đi. Anh từng có một nghề nghiệp vững vàng và đã từng đạt nhiều thành công vang dội trong sự nghiệp của mình. Nhưng thành công chẳng mang lại cái gì khác hơn là sự cùng khổ, anh không đủ bản lĩnh để hành xử nó nên chính thành công đã ném anh xuống lỗ cống.
Bây giờ khi nỗi khiếp sợ về tù tội đã được cất đi, anh có thể hưởng thụ một cuộc đời mới.
Anh ra đi chỉ với một vali nhỏ quần áo, bao nhiêu thứ khác để lại trong một cái hòm để nơi garage của Josh. Tuyết đã ngừng rơi, nhưng những nắm tuyết vẫn còn lăn chập chờn trên mặt đường. Đường phố trơn bóng như thoa dầu. Tuy nhiên, sự giao thông rất thưa thớt và anh đi dọc từ Wisconsin đến Chevy Chase rồi đi vào đường Vành đai, nơi băng tuyết đã được quét sạch.
Một mình, trong chiếc xe hơi của mình, anh bắt đầu cảm thấy mình lại là người Mỹ. Anh nghĩ về Jevy trong chiếc xe tải nguy hiểm của cậu ta, một chiếc xe thổ tả lúc nào cũng gào rú ầm ầm như bò rống và tự hỏi anh còn chạy trên đường vành đai bao lâu nữa. Và anh nghĩ đến Welly, cậu bé nhà nghèo đến nỗi chẳng có được chiếc xe, dẫu là chiếc cà tàng cổ lỗ sỉ nhất. Nate dự định viết mấy bức thư trong những ngày tới và sẽ gởi một bức thư cho những người bạn ở Corumbá.
Chiếc điện thoại làm anh chú ý. Anh cầm điện thoại lên, hình như điện thoại vẫn bình thường.
Hẳn là Josh đã cho người lo trả hóa đơn tiền điện thoại đầy đủ. Anh gọi về nhà Sergio và họ nói chuyện với nhau cả hai mươi phút. Anh bị trách sao không gọi sớm hơn. Sergio đã lo lắng. Anh giải thích tình huống đó là do dịch vụ điện thoại hiếm hoi và khó khăn ở vùng Pantanal. Mọi việc đang diễn tiến theo chiều hướng khác, có những điều hãy còn là ẩn số, nhưng cuộc phiêu lưu của anh vẫn còn tiếp diễn. Anh đang từ giã nghề nghiệp hiện nay và đang chạy tránh vòng lao lí.
Sergio không hề hỏi về sự điều độ của anh. Chắc chắn là Nate đã nói với giọng mạnh mẽ và trong sáng. Anh cho số điện thoại của căn nhà ở vùng vịnh và họ hứa sẽ gặp nhau sớm để cùng đi ăn chung.
Anh gọi cho cậu con cả ở Northwestern, Evanston, và để lại lời nhắn trên recorder. Một cậu sinh viên hai mươi ba tuổi, đã tốt nghiệp, sẽ ở đâu vào lúc 7 giờ sáng Chủ nhật? Chắc là không đi dự lễ misa sớm ở nhà thờ rồi. Nate không muốn biết. Dẫu nó đang làm gì, chắc cũng không đến nỗi tệ như bố nó! Con gái anh hai mươi mốt tuổi, một sinh viên học hành thất thường, ở Pitt. Lần nói chuyện sau cùng của hai bố con là về học phí, một ngày trước khi Nate đi vào phòng motel với một chai rum và một túi đầy thuốc ngủ.
Anh không tìm được số phone của con gái.
Mẹ của chúng đã tái giá hai lần kể từ khi thôi Nate. Cô ta là một con người không có chút chi khả ái nên anh chỉ gọi khi nào thấy cần thiết mà thôi. Anh sẽ chờ vài ngày rồi sẽ hỏi cô ấy về số phone của con gái.
Anh quyết định làm một chuyến đi gian khổ về phía tây, đến Oregon, để ít nhất là gặp mặt hai đứa con nhỏ. Mẹ chúng cũng đã tái giá, nhưng với một luật sư khác, một tay rõ ràng sống đời sống trong sạch hơn anh. Anh muốn xin được tha thứ và cố gắng tạo ra những khởi đầu mong manh của một mối quan hệ. Anh không biết chắc bằng cách nào thực hiện điều này, nhưng anh đã hứa phải làm cho kì được.
Đến Annapolis, anh dừng lại ở một quán cà phê và ăn điểm tâm. Anh nghe những lời dự báo thời tiết từ một nhóm vô công rồi nghề la hét om sòm nơi một quầy sách báo và anh đọc lướt mấy hàng tít lớn trên tờ Washington Post mà không chú tâm cho lắm. Anh chẳng thấy có gì hứng thú. Tin tức thì cũng thế, lại lộn xộn ở Trung Đông, rắc rối ở Ái Nhĩ Lan, xì-căng-đan ở Quốc hội, thị trường chứng khoán lên rồi xuống, một vụ tràn dầu, thuốc mới chống AIDS, du kích giết nông dân ở Châu Mỹ La tinh, rối loạn ở Nga v.v…
Anh thấy quần áo mình mặc sao trở nên rộng thùng thình, thế nên anh ăn liền ba quả trứng với thịt lợn muối và bánh bích qui. Nhiều người nhất trí cho rằng tuyết đang rơi nhiều hơn trên đường.
Anh băng qua Chesapeake trên cầu Bay Bridge. Các xa lộ trên vùng bờ đông không được bằng phẳng cho lắm. Chiếc Jaguar nhảy lên hai lần và anh phải giảm tốc độ. Chiếc xe đã sử dụng được một năm và anh không thể nhớ khi nào đáo hạn thuê xe. Cô thư kí của anh lo thủ tục thuê và giữ giấy tờ. Anh không thích màu đỏ chói hiếu thắng của loại xe đua này nữa. Anh quyết định sẽ thoát ra khỏi nó càng sớm càng hay và tìm một chiếc xe kiểu cũ, loại hai cầu. Loại xe Jaguar thời thượng của giới luật sư trước đây đối với anh có vẻ quan trọng. Bây giờ anh chẳng cần thiết nữa.
Đến Easton, anh quay qua đường Nội bang số 33, một con đường với tuyết còn dày lên 2 inch trên mặt nhựa. Nate lần theo vết của những chiếc xe đi trước và rồi đi ngang qua những làng chài nhỏ đang còn ngủ yên với nhiều thuyền buồm trên các bến cảng nhỏ. Các bờ biển, eo vịnh ở Chesapeake còn phủ đầy tuyết, nước biển một màu xanh lam.
Làng chài Thánh Michaels có dân số một ngàn ba trăm người. Đường 33 trở thành Phố Chính với vài dãy nhà khi nó chạy ngang qua làng. Có hàng quán, cửa tiệm hai bên đường, những khu nhà kiểu cũ đứng kề nhau, khá xinh xắn và ngăn nắp.
Nate đã nghe nói về Saint-Michaels từ lâu. Nơi đó có một bảo tàng biển, có festival nghêu sò ốc hến, một bến cảng nhộn nhịp, hàng chục nhà trọ nho nhỏ nhưng tiện nghi, lịch sự, lôi cuốn dân thành phố về nghỉ cuối tuần. Anh đi qua nhà bưu điện rồi một tiểu giáo đường, nơi vị Mục sư đang xúc tuyết ở bậc thềm.
Căn lều của Josh ở Phố Xanh, hai dãy cách Phố Chính, quay mặt về hướng bắc, nhìn ra bến cảng. Xây cất theo kiểu thời Victoria với đầu hồi sinh đôi, và một cổng trước dài vòng quanh hai bên. Tuyết ngập dày đến thềm cửa trước. Bồn cỏ phía trước nhỏ nhắn, đường lái xe ngập dưới tuyết đến hai bộ. Nate phải đậu xe ở chỗ quẹo và vất vả tìm đường vào tới cổng. Anh bật đèn trong nhà lên và đi ra phía sau. Trong một phòng nhỏ nơi cổng sau, anh tìm được một cái xẻng bằng nhựa.
Anh tốn hết một giờ để làm sạch cổng, dọn dẹp các lối đi và con đường quay trở lại chiếc xe.
Không có gì ngạc nhiên, căn nhà được trang hoàng với những vật dụng tân tiến, được sắp xếp ngăn nắp, ấm cúng. Josh sai một cô hầu đến đây vào mỗi thứ tư để lau dọn. Bà Stafford nghỉ nơi đây hai tuần trong mùa xuân và một tuần trong mùa thu. Trong mười tám tháng vừa qua Josh đã ngủ ở đó ba lần. Có bốn phòng ngủ và bốn buồng tắm riêng. Một căn lều không tệ!
Nhưng không có sẵn cà phê, mà món này là điều khẩn cấp đầu tiên trong ngày. Nate khóa trái các cửa và quay xe xuống phố trở lại. Các vỉa hè đã sạch nhưng ướt át do tuyết đang tan. Theo nhiệt độ đang là ba mươi lăm độ Farenheit, (1,6 độ C). Các hàng quán cửa tiệm vẫn còn đóng cửa im ỉm. Nate nhìn kĩ các cửa sổ trong khi anh chạy xe từ từ theo đường phố. Trước mặt, những quả chuông nhà thờ bắt đầu ngân nga, gọi giáo dân đi lễ sáng.
Theo tờ tạp chí do người xếp chỗ trao cho Nate thì vị Mục sư trưởng là Phil Lancaster, một người nhỏ với đôi kính gọng sừng dày và mái tóc quăn vừa đỏ vừa xám. Ông ta có thể mới ở độ tuổi ba mươi lăm, mà cũng có thể đã năm mươi. Đám con chiên của ông, đến dự buổi lễ lúc mười một giờ sáng đều già và gầy ốm, chắc chắn là do thời tiết làm trở ngại. Nate đếm được hai mươi mốt người bên trong tiểu giáo đường, kể cả mục sư Phil và người đàn đại phong cầm. Đa số là những mái đầu bạc.
Đó là một giáo đường xinh xắn, với mái hình vòm, những hàng ghế và sàn nhà bằng gỗ màu sẫm, có bốn cửa sổ kính màu. Khi người xếp chỗ đơn độc ngồi vào hàng ghế sau cùng, mục sư Phil trong áo thụng đen, đứng lên giơ cao đôi tay đón chào mọi người đến với Nhà thờ Ba Ngôi, căn nhà chung cho mọi người. Ông nói giọng mũi rất cao nên không cần đến microphone. Trong bài Kinh cầu, ông tạ ơn Chúa về tuyết và mùa đông, về các mùa trong năm vẫn diễn ra theo đúng chu kì để nhắc nhở rằng Người vẫn luôn là Đấng Quan phòng cho thái hòa của vũ trụ…
Họ đối đáp qua những bài thánh vịnh và kinh cầu. Khi mục sư Phil đang giảng phúc âm, ông bỗng nhận thấy Nate, người khách đơn độc ngồi ở hàng ghế áp chót. Họ trao đổi nụ cười và trong một thoáng chốc, Nate bỗng phát hoảng là mình sẽ được đem giới thiệu với toàn bộ đám đông tín đồ nơi đây.
Bài thuyết giáo của ông nói về đề tài lòng nhiệt thành, một sự lựa chọn hơi kì khôi, xét theo độ tuổi trung bình của đám tín hữu có mặt tại đó. Nate cố phấn đấu để chú tâm, nhưng bắt đầu lơ mơ. Tư tưởng anh quay về với nhà nguyện nhỏ ở Corumbá, với cửa trước mở rộng, cửa sổ hướng lên trên, cái nóng tràn vào, Đấng Kitô đang chịu nạn chết trên thập giá, chàng trai trẻ với cây guitar.
Cẩn thận để không xúc phạm Phil, anh tìm cách dán mắt vào quả cầu mang ánh sáng lờ mờ trên tường, đằng sau và ở trên bục giảng. Anh hình dung rằng ông mục sư sẽ không nhận ra sự lơ đãng của anh đối với bài giảng bời ông ta mang đôi kính cận rất dày.
Ngồi bên trong nhà thờ nhỏ ấm cúng, anh hoàn toàn thoát khỏi những bất trắc của cuộc phiêu lưu lớn vừa qua, khỏi những cơn sốt và những cơn bão, khỏi những hiểm nguy của pháp luật, khỏi sự quyến rũ của nghiện ngập, khỏi sự suy kiệt tinh thần, Nate nhận ra rằng, lần đầu tiên mà anh còn nhớ được, anh đang hưởng bình an trong tâm hồn. Anh không sợ gì cả. Chúa đang kéo anh về phía Người. Anh chưa biết chắc về đâu nhưng anh không còn sợ hãi nữa. Hãy kiên tâm, anh tự nhủ.
Rồi anh thì thầm một bài kinh cầu. Anh tạ ơn Chúa đã cứu đời anh, và anh cầu nguyện cho Rachel vì anh biết nàng đang cầu nguyện cho anh.
Sự thanh thản làm anh mỉm cười. Khi bài kinh cầu dứt, anh mở mắt và thấy mục sư Phil đang mỉm cười với anh.
Sau lời ban phúc, họ sắp hàng đi ngang qua Phil ở cửa chính, mỗi người đều khen ngợi ông ta về bài thuyết giáo và kể ra vài mẩu tin liên quan đến nhà thờ. Hàng người di chuyển chậm rãi, đó là một nghi lễ.
- Cô của anh ra sao? - Phil hỏi một trong các con chiên rồi chăm chú nghe những lời thuật lại nỗi phiền muộn của bà cô ấy.
- Cậu nhỏ nhà bà thế nào? - ông hỏi một thiếu phụ. - Cháu Germany ra sao?
Ông nắm tay họ và nghiêng người về phía trước để nghe cho rõ từng lời. Ông biết họ đang nghĩ gì.
Nate kiên nhẫn đứng chờ ở cuối hàng người. Có gì đâu phải vội. Anh chẳng có chuyện gì khác để làm.
- Xin chào, - mục sư Phil nói trong lúc cầm lấy cả bàn tay lẫn cánh tay Nate. - Chúc mừng bạn đến nhà thờ Ba Ngôi.
Ông ta vồn vã siết chặt đến nỗi Nate tự hỏi phải chăng anh là người khách đầu tiên trong năm.
- Tôi là Nate O’Riley, - anh nói, rồi thêm, - Từ Washington tới.
- Thật hân hạnh là bạn có mặt cùng chúng tôi sáng nay, - Phil nói, đôi mắt lớn nhảy múa sau cặp kính. Đứng gần, những nếp nhăn tiết lộ là ông ta ít nhất cũng đã năm mươi. Đầu ông mang nhiều lọn tóc xám hơn là tóc đỏ.
- Tôi đang ở căn nhà của ông Stafford vài ngày. - Nate nói.
- À, à, một căn nhà rất xinh xắn. Ông đến lúc nào vậy?
- Sáng nay.
- Ông ở một mình?
- Vâng.
- Vậy thì ông phải đến dùng bữa trưa với chúng tôi.
Lòng hiếu khách quá ư vồn vã đó làm Nate cười.
- Ồ, cám ơn, nhưng…
Phil cũng cười lớn.
- Không nhưng gì cả, tôi thật lòng mong bạn đến mà. Mỗi khi trời đổ tuyết nhiều, bà nhà tôi lại làm món cừu hầm. Bây giờ món ấy đang sôi sùng sục trong nồi đấy. Về mùa đông chúng tôi hiếm khi được hân hạnh đón khách viếng nhà. Nào, xin mời, nhà của chúng tôi ngay phía sau giáo đường đây thôi.
Nate đã rơi vào tay một kẻ sẵn sàng chia sẻ bàn ăn ngày Chủ nhật của mình với hàng trăm người.
- Thực ra thì, tôi vừa mới tạt qua đây, và tôi…
- Hãy cho chúng tôi niềm vui được đón tiếp anh, - Phil nói, bấu chặt cánh tay Nate, kéo anh quay lại chỗ bục giảng. - Anh làm gì ở Washington?
- Tôi là luật sư, - Nate nói. Một câu trả lời đầy đủ e rằng sẽ gây ra rắc rối.
- Ngọn gió nào đưa anh đến đây?
- Đó là một câu chuyện dài.
- Thế thì tuyệt quá! Laura và tôi thích nghe ai kể chuyện lắm. Nào chúng ta vừa ăn trưa vừa phiếm đàm lai rai. Chúng tôi sẽ được một thời gian thích thú lắm đây.
Nhiệt tình của ông ta thật khó cưỡng. Tay này đang khát khao những câu chuyện sống động. Tại sao không? Nate nghĩ. Ở nhà anh chẳng có lương thực gì. Mọi cửa hàng hình như còn đóng cửa.
Họ đi qua bục giảng và đi qua một cửa lớn dẫn đến phía sau giáo đường. Laura đang tắt đèn nhà thờ.
- Đây là ông O’Riley, từ Washington đến, - Phil nói lớn với bà vợ. - Ông ấy đã nhận lời đến dùng bữa trưa với chúng ta.
Laura tươi cười bắt tay Nate. Bà ta có mái tóc cắt ngắn, màu xám, nom già hơn ông chồng cả mười tuổi là ít. Chẳng có vẻ gì cho thấy bà ngạc nhiên khi có người khách bất ngờ đến dùng bữa chung. Nate có cảm tưởng chuyện ấy xảy ra thường ngày với gia đình này.
- Xin cứ gọi tôi là Nate, - anh nói.
- Đến nơi rồi, Nate à, - Phil thông báo, vừa cởi áo chùng ra.
Căn nhà dành cho mục sư nằm kế bên nhà thờ, quay mặt ra một đường nhỏ. Họ cẩn thận bước qua tuyết.
- Bài thuyết giáo của tôi thế nào? - Phil hỏi bà vợ khi họ bước vào cổng chính.
- Hay lắm mình à, - bà nói mà không có vẻ hào hứng mấy. Nate nghe và mỉm cười, chắc rằng trong hàng bao nhiêu năm cứ mỗi Chủ nhật Phil đều hỏi câu hỏi ấy, vào cùng nơi chốn và thời điểm ấy, và đều nhận được cùng câu trả lời ấy.
Mọi ngại ngùng về việc ở lại dùng bữa trưa đều tan biến khi anh bước chân vào nhà. Mùi hương ngạt ngào, đậm đặc của món cừu hầm tỏa khắp căn nhà. Phil cời than hồng trong lò sưởi trong khi Laura sửa soạn bữa ăn.
Trong phòng ăn nhỏ, một bàn ăn đã được bày ra cho bốn người. Nate hài lòng đã nhận lời mời chân tình của ông mục sư hiếu khách.
- Chúng tôi thật vui khi anh đến đây, - Phil nói trong lúc họ ngồi xuống. - Tôi đã có dự cảm là hôm nay chúng tôi sẽ có khách.
- Chỗ của ai vậy? - Nate hỏi, hướng về chỗ ngồi còn trống.- Chúng tôi luôn luôn đặt bốn chỗ ngồi vào ngày Chủ nhật, - Laura nói và chỉ giải thích như thế. Họ nắm tay nhau trong lúc Phil lại đọc kinh tạ ơn Chúa về tuyết và các mùa và về thức ăn hàng ngày. Ông kết thúc bài Kinh với câu “Và khiến chúng con lúc nào cũng biết quan tâm đến nhu cầu và ước muốn của người khác”. Những lời đó khơi động một cái gì trong bộ nhớ của Nate. Anh đã nghe những lời đó trước đây, xa xăm bao nhiêu năm trước đây…
Trong lúc múc thức ăn, họ nói chuyện về buổi sáng. Trung bình có khoảng bốn mươi tín đồ đến dự buổi lễ lúc mười một giờ sáng. Nhưng tuyết rơi nhiều đã khiến nhiều người ngại đi. Và đang có dịch cúm trên bán đảo. Nate khen vẻ đẹp đơn sơ bên giáo đường. Hai người về xứ đạo này đã sáu năm.
Trong khi ăn, Laura nói:
- Lúc này là mùa xuân mà sao ông có làn da rám nâu như vậy? Hẳn là không phải ông có làn da đó ở Washington?
- Không. Tôi vừa mới quay về từ Brazil.
Cả hai ngừng ăn và nghiêng người về phía anh. Cuộc phiêu lưu được kể lại. Nate xơi một muỗng lớn thịt hầm thật ngon, rồi bắt đầu câu chuyện.
- Mời ông dùng, - cứ mỗi năm phút Laura lại giục. Nate cắn một miếng, nhai chậm rãi, rồi kể. Anh chỉ nhắc đến Rachel “cô con gái của một thân chủ”.
Những cơn bão càng lúc càng dữ dội hơn, những con rắn càng lúc càng dài hơn, to hơn, chiếc thuyền càng mong manh hơn, những người Da đỏ càng ít thân thiện hơn… Đôi mắt của Phil lúng liếng vì ngạc nhiên vui thích trong khi Nate kể từ chương này đến chương kia.
Đó là lần thứ nhì Nate kể lại câu chuyện từ khi anh trở về. Chỉ cường điệu thêm chút ít chỗ này chỗ kia chứ cơ bản anh vẫn dựa trên những sự kiện có thật. Và điều đó làm ngay cả anh cũng ngạc nhiên thích thú. Một câu chuyện đáng kể lại và những người chủ nhà đã được nghe một phiên bản phong phú và hấp dẫn. Họ cố chen vào những câu hỏi bất kì lúc nào có thể.
Khi Laura dọn bàn và đem bánh sôcôla hạnh nhân ra để tráng miệng thì Nate kể đến đoạn anh và Jevy vừa đặt chân đến buôn làng Ipicas đầu tiên.
- Cô ấy có ngạc nhiên khi thấy các bạn không? - Phil hỏi khi Nate tả cảnh đoàn người Da đỏ dẫn người phụ nữ ra khỏi làng để đến gặp họ.
- Hẳn là không, - Nate nói. - Hình như cô ta biết rằng chúng tôi đang đến.
Nate hết sức cố gắng để mô tả những người Da đỏ và nền văn hóa Thời Kì Đồ Đá của họ, nhưng từ ngữ không tạo nên được những hình ảnh chính xác. Anh ăn hết hai cái bánh sôcôla hạnh nhân, vét sạch đĩa với những miếng lớn trong những khoảng trống ngắn của cuộc kể chuyện.
Họ đẩy mấy chiếc đĩa ra xa và uống cà phê. Bữa ăn trưa ngày Chủ nhật đối với Phil và Laura là một cơ hội để chuyện trò hơn là để ăn uống. Nate thắc mắc không biết ai sẽ là người khách cuối cùng đủ may mắn để được mời ăn uống và chuyện trò.
Khi anh kết thúc câu chuyện, những câu hỏi lại bắt đầu. Phil muốn biết mọi điều về nhà nữ truyền giáo - về giáo phái của cô, về tín ngưỡng và việc hành đạo của cô đối với những người Da đỏ. Bà chị của Laura đã từng sống ở Trung Hoa trong mười lăm năm, làm việc trong một bệnh viện của giáo hội, và điều này lại trở thành đề tài cho nhiều câu chuyện tiếp theo…
Gần đến ba giờ chiều Nate mới đứng lên để ra khỏi cửa. Vợ chồng chủ nhà còn nấn ná muốn níu anh ngồi lại bàn để chuyện vãn đến tối, nhưng Nate cần tản bộ cho giãn gân cốt. Anh cám ơn họ về cuộc tiếp đãi ân cần, và khi vẫy tay từ biệt họ nơi cổng nhà, anh thấy dường như đã quen thân với họ từ bao năm qua.
Tản bộ một vòng khắp cái thị trấn Saint Michaels này mất độ một tiếng đồng hồ. Các con đường đều hẹp với những dãy nhà cổ dễ đến hàng trăm năm. Không có cái gì bị đặt sai chỗ, không có chó chạy rông ngoài đường, không lô đất nào bỏ trống, không một căn nhà hoang. Ngay cả tuyết cũng gọn gàng ngăn nắp - được xúc cẩn thận để đường phố và vỉa hè đều sạch sẽ, láng giềng không ai phiền lòng. Nate dừng chân ở cầu tàu và đứng ngắm những chiếc thuyền buồm. Anh chưa từng đặt chân lên loại thuyền này bao giờ.
Anh quyết định sẽ không rời Saint Michaels chừng nào anh chưa bị bắt buộc. Anh sẽ sống nơi căn nhà bên vịnh, ở lì đó cho đến khi nào Josh lịch sự trục xuất anh ra khỏi nhà. Anh sẽ để dành tiền, và khi vụ Phelan dàn xếp xong xuôi, anh sẽ tìm cách nào đó để xây một cái tổ trú thân.
Gần bến cảng anh gặp một tiệm tạp hóa nhỏ gần đóng cửa. Anh mua cà phê, xúp hộp, đồ gia vị, mì cháo ăn liền. Một dãy các loại bia chai được bày trên quầy. Anh mỉm cười với sự phô bày đó, hài lòng vì những ngày sa đọa đã lùi về phía sau.
--------------
Còn tiếp…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét