Bản
chúc thư
Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011
Chương
39
Lúc
sáu giờ sáng Chủ nhật, Nate tắm nước nóng xong, lần tắm thứ ba trong
vòng hai mươi bốn tiếng, và bắt đầu lên kế hoạch cho một cuộc ra đi
nhanh chóng. Mới một đêm nơi thành phố lớn và anh đã bồn chồn muốn
rời xa. Căn nhà sàn bên vịnh biển đang mời gọi anh. Washington đã là
quê nhà của anh trong hai mươi sáu năm, và bởi vì đã quyết ý ra đi,
anh càng nôn nao muốn lên đường.
Không
có địa chỉ ra đi càng dễ. Anh gặp Josh nơi tầng hầm, ngồi nơi bàn
giấy, đang nói chuyện điện thoại với một khách hàng ở Thái Lan. Vì
Nate chỉ nghe loáng thoáng một nửa cuộc đối thoại về những trữ
lượng gas thiên nhiên, anh hoàn toàn hài lòng rời khỏi việc hành nghề
luật sư. Josh lớn hơn anh mười hai tuổi, rất giàu có, và ý nghĩ khôi
hài chợt đến với anh là sao ông ta lại ngồi vào bàn giấy lúc mới 6
giờ rưỡi sáng mà lại là ngày Chủ nhật nữa. Đừng để điều đó xảy
ra với ta, Nate tự nhủ, nhưng anh biết điều ấy sẽ chẳng xảy ra. Nếu
anh quay trở lại văn phòng, anh sẽ quay về với sự cần mẫn nhàm chán.
Anh không có ý chí mạnh mẽ như Josh. Có lẽ anh sẽ tiêu đời chỉ trong
vòng mười năm nữa thôi.
Có
chất men kích thích trong sự ra đi. Anh từng có một nghề nghiệp vững
vàng và đã từng đạt nhiều thành công vang dội trong sự nghiệp của
mình. Nhưng thành công chẳng mang lại cái gì khác hơn là sự cùng khổ,
anh không đủ bản lĩnh để hành xử nó nên chính thành công đã ném anh
xuống lỗ cống.
Bây
giờ khi nỗi khiếp sợ về tù tội đã được cất đi, anh có thể hưởng
thụ một cuộc đời mới.
Anh
ra đi chỉ với một vali nhỏ quần áo, bao nhiêu thứ khác để lại trong
một cái hòm để nơi garage của Josh. Tuyết đã ngừng rơi, nhưng những
nắm tuyết vẫn còn lăn chập chờn trên mặt đường. Đường phố trơn bóng
như thoa dầu. Tuy nhiên, sự giao thông rất thưa thớt và anh đi dọc từ
Wisconsin đến Chevy Chase rồi đi vào đường Vành đai, nơi băng tuyết đã
được quét sạch.
Một
mình, trong chiếc xe hơi của mình, anh bắt đầu cảm thấy mình lại là
người Mỹ. Anh nghĩ về Jevy trong chiếc xe tải nguy hiểm của cậu ta,
một chiếc xe thổ tả lúc nào cũng gào rú ầm ầm như bò rống và tự
hỏi anh còn chạy trên đường vành đai bao lâu nữa. Và anh nghĩ đến
Welly, cậu bé nhà nghèo đến nỗi chẳng có được chiếc xe, dẫu là
chiếc cà tàng cổ lỗ sỉ nhất. Nate dự định viết mấy bức thư trong những
ngày tới và sẽ gởi một bức thư cho những người bạn ở Corumbá.
Chiếc
điện thoại làm anh chú ý. Anh cầm điện thoại lên, hình như điện
thoại vẫn bình thường.
Hẳn
là Josh đã cho người lo trả hóa đơn tiền điện thoại đầy đủ. Anh gọi
về nhà Sergio và họ nói chuyện với nhau cả hai mươi phút. Anh bị
trách sao không gọi sớm hơn. Sergio đã lo lắng. Anh giải thích tình
huống đó là do dịch vụ điện thoại hiếm hoi và khó khăn ở vùng
Pantanal. Mọi việc đang diễn tiến theo chiều hướng khác, có những
điều hãy còn là ẩn số, nhưng cuộc phiêu lưu của anh vẫn còn tiếp
diễn. Anh đang từ giã nghề nghiệp hiện nay và đang chạy tránh vòng
lao lí.
Sergio
không hề hỏi về sự điều độ của anh. Chắc chắn là Nate đã nói với
giọng mạnh mẽ và trong sáng. Anh cho số điện thoại của căn nhà ở
vùng vịnh và họ hứa sẽ gặp nhau sớm để cùng đi ăn chung.
Anh
gọi cho cậu con cả ở Northwestern, Evanston, và để lại lời nhắn trên
recorder. Một cậu sinh viên hai mươi ba tuổi, đã tốt nghiệp, sẽ ở đâu
vào lúc 7 giờ sáng Chủ nhật? Chắc là không đi dự lễ misa sớm ở nhà
thờ rồi. Nate không muốn biết. Dẫu nó đang làm gì, chắc cũng không
đến nỗi tệ như bố nó! Con gái anh hai mươi mốt tuổi, một sinh viên
học hành thất thường, ở Pitt. Lần nói chuyện sau cùng của hai bố con
là về học phí, một ngày trước khi Nate đi vào phòng motel với một
chai rum và một túi đầy thuốc ngủ.
Anh
không tìm được số phone của con gái.
Mẹ
của chúng đã tái giá hai lần kể từ khi thôi Nate. Cô ta là một con
người không có chút chi khả ái nên anh chỉ gọi khi nào thấy cần
thiết mà thôi. Anh sẽ chờ vài ngày rồi sẽ hỏi cô ấy về số phone của
con gái.
Anh
quyết định làm một chuyến đi gian khổ về phía tây, đến Oregon, để ít
nhất là gặp mặt hai đứa con nhỏ. Mẹ chúng cũng đã tái giá, nhưng
với một luật sư khác, một tay rõ ràng sống đời sống trong sạch hơn
anh. Anh muốn xin được tha thứ và cố gắng tạo ra những khởi đầu mong
manh của một mối quan hệ. Anh không biết chắc bằng cách nào thực
hiện điều này, nhưng anh đã hứa phải làm cho kì được.
Đến
Annapolis, anh dừng lại ở một quán cà phê và ăn điểm tâm. Anh nghe
những lời dự báo thời tiết từ một nhóm vô công rồi nghề la hét om
sòm nơi một quầy sách báo và anh đọc lướt mấy hàng tít lớn trên tờ
Washington Post mà không chú tâm cho lắm. Anh chẳng thấy có gì hứng
thú. Tin tức thì cũng thế, lại lộn xộn ở Trung Đông, rắc rối ở Ái
Nhĩ Lan, xì-căng-đan ở Quốc hội, thị trường chứng khoán lên rồi
xuống, một vụ tràn dầu, thuốc mới chống AIDS, du kích giết nông dân
ở Châu Mỹ La tinh, rối loạn ở Nga v.v…
Anh
thấy quần áo mình mặc sao trở nên rộng thùng thình, thế nên anh ăn
liền ba quả trứng với thịt lợn muối và bánh bích qui. Nhiều người
nhất trí cho rằng tuyết đang rơi nhiều hơn trên đường.
Anh
băng qua Chesapeake trên cầu Bay Bridge. Các xa lộ trên vùng bờ đông không
được bằng phẳng cho lắm. Chiếc Jaguar nhảy lên hai lần và anh phải
giảm tốc độ. Chiếc xe đã sử dụng được một năm và anh không thể nhớ
khi nào đáo hạn thuê xe. Cô thư kí của anh lo thủ tục thuê và giữ giấy
tờ. Anh không thích màu đỏ chói hiếu thắng của loại xe đua này nữa.
Anh quyết định sẽ thoát ra khỏi nó càng sớm càng hay và tìm một
chiếc xe kiểu cũ, loại hai cầu. Loại xe Jaguar thời thượng của giới
luật sư trước đây đối với anh có vẻ quan trọng. Bây giờ anh chẳng cần
thiết nữa.
Đến
Easton, anh quay qua đường Nội bang số 33, một con đường với tuyết còn
dày lên 2 inch trên mặt nhựa. Nate lần theo vết của những chiếc xe đi
trước và rồi đi ngang qua những làng chài nhỏ đang còn ngủ yên với
nhiều thuyền buồm trên các bến cảng nhỏ. Các bờ biển, eo vịnh ở
Chesapeake còn phủ đầy tuyết, nước biển một màu xanh lam.
Làng
chài Thánh Michaels có dân số một ngàn ba trăm người. Đường 33 trở
thành Phố Chính với vài dãy nhà khi nó chạy ngang qua làng. Có hàng
quán, cửa tiệm hai bên đường, những khu nhà kiểu cũ đứng kề nhau,
khá xinh xắn và ngăn nắp.
Nate
đã nghe nói về Saint-Michaels từ lâu. Nơi đó có một bảo tàng biển,
có festival nghêu sò ốc hến, một bến cảng nhộn nhịp, hàng chục nhà
trọ nho nhỏ nhưng tiện nghi, lịch sự, lôi cuốn dân thành phố về nghỉ
cuối tuần. Anh đi qua nhà bưu điện rồi một tiểu giáo đường, nơi vị
Mục sư đang xúc tuyết ở bậc thềm.
Căn
lều của Josh ở Phố Xanh, hai dãy cách Phố Chính, quay mặt về hướng
bắc, nhìn ra bến cảng. Xây cất theo kiểu thời Victoria với đầu hồi
sinh đôi, và một cổng trước dài vòng quanh hai bên. Tuyết ngập dày
đến thềm cửa trước. Bồn cỏ phía trước nhỏ nhắn, đường lái xe ngập
dưới tuyết đến hai bộ. Nate phải đậu xe ở chỗ quẹo và vất vả tìm
đường vào tới cổng. Anh bật đèn trong nhà lên và đi ra phía sau. Trong
một phòng nhỏ nơi cổng sau, anh tìm được một cái xẻng bằng nhựa.
Anh tốn
hết một giờ để làm sạch cổng, dọn dẹp các lối đi và con đường quay
trở lại chiếc xe.
Không
có gì ngạc nhiên, căn nhà được trang hoàng với những vật dụng tân
tiến, được sắp xếp ngăn nắp, ấm cúng. Josh sai một cô hầu đến đây
vào mỗi thứ tư để lau dọn. Bà Stafford nghỉ nơi đây hai tuần trong mùa
xuân và một tuần trong mùa thu. Trong mười tám tháng vừa qua Josh đã
ngủ ở đó ba lần. Có bốn phòng ngủ và bốn buồng tắm riêng. Một căn
lều không tệ!
Nhưng
không có sẵn cà phê, mà món này là điều khẩn cấp đầu tiên trong
ngày. Nate khóa trái các cửa và quay xe xuống phố trở lại. Các vỉa
hè đã sạch nhưng ướt át do tuyết đang tan. Theo nhiệt độ đang là ba
mươi lăm độ Farenheit, (1,6 độ C). Các hàng quán cửa tiệm vẫn còn đóng
cửa im ỉm. Nate nhìn kĩ các cửa sổ trong khi anh chạy xe từ từ theo
đường phố. Trước mặt, những quả chuông nhà thờ bắt đầu ngân nga, gọi
giáo dân đi lễ sáng.
Theo
tờ tạp chí do người xếp chỗ trao cho Nate thì vị Mục sư trưởng là
Phil Lancaster, một người nhỏ với đôi kính gọng sừng dày và mái tóc
quăn vừa đỏ vừa xám. Ông ta có thể mới ở độ tuổi ba mươi lăm, mà
cũng có thể đã năm mươi. Đám con chiên của ông, đến dự buổi lễ lúc
mười một giờ sáng đều già và gầy ốm, chắc chắn là do thời tiết
làm trở ngại. Nate đếm được hai mươi mốt người bên trong tiểu giáo
đường, kể cả mục sư Phil và người đàn đại phong cầm. Đa số là những
mái đầu bạc.
Đó
là một giáo đường xinh xắn, với mái hình vòm, những hàng ghế và
sàn nhà bằng gỗ màu sẫm, có bốn cửa sổ kính màu. Khi người xếp
chỗ đơn độc ngồi vào hàng ghế sau cùng, mục sư Phil trong áo thụng
đen, đứng lên giơ cao đôi tay đón chào mọi người đến với Nhà thờ Ba
Ngôi, căn nhà chung cho mọi người. Ông nói giọng mũi rất cao nên không
cần đến microphone. Trong bài Kinh cầu, ông tạ ơn Chúa về tuyết và
mùa đông, về các mùa trong năm vẫn diễn ra theo đúng chu kì để nhắc
nhở rằng Người vẫn luôn là Đấng Quan phòng cho thái hòa của vũ trụ…
Họ
đối đáp qua những bài thánh vịnh và kinh cầu. Khi mục sư Phil đang
giảng phúc âm, ông bỗng nhận thấy Nate, người khách đơn độc ngồi ở
hàng ghế áp chót. Họ trao đổi nụ cười và trong một thoáng chốc,
Nate bỗng phát hoảng là mình sẽ được đem giới thiệu với toàn bộ đám
đông tín đồ nơi đây.
Bài
thuyết giáo của ông nói về đề tài lòng nhiệt thành, một sự lựa
chọn hơi kì khôi, xét theo độ tuổi trung bình của đám tín hữu có
mặt tại đó. Nate cố phấn đấu để chú tâm, nhưng bắt đầu lơ mơ. Tư
tưởng anh quay về với nhà nguyện nhỏ ở Corumbá, với cửa trước mở
rộng, cửa sổ hướng lên trên, cái nóng tràn vào, Đấng Kitô đang chịu
nạn chết trên thập giá, chàng trai trẻ với cây guitar.
Cẩn
thận để không xúc phạm Phil, anh tìm cách dán mắt vào quả cầu mang
ánh sáng lờ mờ trên tường, đằng sau và ở trên bục giảng. Anh hình
dung rằng ông mục sư sẽ không nhận ra sự lơ đãng của anh đối với bài
giảng bời ông ta mang đôi kính cận rất dày.
Ngồi
bên trong nhà thờ nhỏ ấm cúng, anh hoàn toàn thoát khỏi những bất
trắc của cuộc phiêu lưu lớn vừa qua, khỏi những cơn sốt và những cơn
bão, khỏi những hiểm nguy của pháp luật, khỏi sự quyến rũ của
nghiện ngập, khỏi sự suy kiệt tinh thần, Nate nhận ra rằng, lần đầu
tiên mà anh còn nhớ được, anh đang hưởng bình an trong tâm hồn. Anh
không sợ gì cả. Chúa đang kéo anh về phía Người. Anh chưa biết chắc
về đâu nhưng anh không còn sợ hãi nữa. Hãy kiên tâm, anh tự nhủ.
Rồi
anh thì thầm một bài kinh cầu. Anh tạ ơn Chúa đã cứu đời anh, và anh
cầu nguyện cho Rachel vì anh biết nàng đang cầu nguyện cho anh.
Sự
thanh thản làm anh mỉm cười. Khi bài kinh cầu dứt, anh mở mắt và
thấy mục sư Phil đang mỉm cười với anh.
Sau
lời ban phúc, họ sắp hàng đi ngang qua Phil ở cửa chính, mỗi người
đều khen ngợi ông ta về bài thuyết giáo và kể ra vài mẩu tin liên
quan đến nhà thờ. Hàng người di chuyển chậm rãi, đó là một nghi lễ.
- Cô
của anh ra sao? - Phil hỏi một trong các con chiên rồi chăm chú nghe
những lời thuật lại nỗi phiền muộn của bà cô ấy.
- Cậu
nhỏ nhà bà thế nào? - ông hỏi một thiếu phụ. - Cháu Germany ra sao?
Ông
nắm tay họ và nghiêng người về phía trước để nghe cho rõ từng lời.
Ông biết họ đang nghĩ gì.
Nate
kiên nhẫn đứng chờ ở cuối hàng người. Có gì đâu phải vội. Anh chẳng
có chuyện gì khác để làm.
- Xin
chào, - mục sư Phil nói trong lúc cầm lấy cả bàn tay lẫn cánh tay
Nate. - Chúc mừng bạn đến nhà thờ Ba Ngôi.
Ông
ta vồn vã siết chặt đến nỗi Nate tự hỏi phải chăng anh là người
khách đầu tiên trong năm.
- Tôi
là Nate O’Riley, - anh nói, rồi thêm, - Từ Washington tới.
- Thật
hân hạnh là bạn có mặt cùng chúng tôi sáng nay, - Phil nói, đôi mắt
lớn nhảy múa sau cặp kính. Đứng gần, những nếp nhăn tiết lộ là ông
ta ít nhất cũng đã năm mươi. Đầu ông mang nhiều lọn tóc xám hơn là
tóc đỏ.
- Tôi
đang ở căn nhà của ông Stafford vài ngày. - Nate nói.
- À,
à, một căn nhà rất xinh xắn. Ông đến lúc nào vậy?
- Sáng
nay.
- Ông
ở một mình?
- Vâng.
- Vậy
thì ông phải đến dùng bữa trưa với chúng tôi.
Lòng
hiếu khách quá ư vồn vã đó làm Nate cười.
- Ồ,
cám ơn, nhưng…
Phil
cũng cười lớn.
- Không
nhưng gì cả, tôi thật lòng mong bạn đến mà. Mỗi khi trời đổ tuyết
nhiều, bà nhà tôi lại làm món cừu hầm. Bây giờ món ấy đang sôi sùng
sục trong nồi đấy. Về mùa đông chúng tôi hiếm khi được hân hạnh đón
khách viếng nhà. Nào, xin mời, nhà của chúng tôi ngay phía sau giáo
đường đây thôi.
Nate
đã rơi vào tay một kẻ sẵn sàng chia sẻ bàn ăn ngày Chủ nhật của
mình với hàng trăm người.
- Thực
ra thì, tôi vừa mới tạt qua đây, và tôi…
- Hãy
cho chúng tôi niềm vui được đón tiếp anh, - Phil nói, bấu chặt cánh
tay Nate, kéo anh quay lại chỗ bục giảng. - Anh làm gì ở Washington?
- Tôi
là luật sư, - Nate nói. Một câu trả lời đầy đủ e rằng sẽ gây ra rắc
rối.
- Ngọn
gió nào đưa anh đến đây?
- Đó
là một câu chuyện dài.
- Thế
thì tuyệt quá! Laura và tôi thích nghe ai kể chuyện lắm. Nào chúng ta
vừa ăn trưa vừa phiếm đàm lai rai. Chúng tôi sẽ được một thời gian
thích thú lắm đây.
Nhiệt
tình của ông ta thật khó cưỡng. Tay này đang khát khao những câu
chuyện sống động. Tại sao không? Nate nghĩ. Ở nhà anh chẳng có lương
thực gì. Mọi cửa hàng hình như còn đóng cửa.
Họ
đi qua bục giảng và đi qua một cửa lớn dẫn đến phía sau giáo đường.
Laura đang tắt đèn nhà thờ.
- Đây
là ông O’Riley, từ Washington đến, - Phil nói lớn với bà vợ. - Ông ấy
đã nhận lời đến dùng bữa trưa với chúng ta.
Laura
tươi cười bắt tay Nate. Bà ta có mái tóc cắt ngắn, màu xám, nom già
hơn ông chồng cả mười tuổi là ít. Chẳng có vẻ gì cho thấy bà ngạc
nhiên khi có người khách bất ngờ đến dùng bữa chung. Nate có cảm
tưởng chuyện ấy xảy ra thường ngày với gia đình này.
- Xin
cứ gọi tôi là Nate, - anh nói.
-
Đến nơi rồi, Nate à, - Phil thông báo, vừa cởi áo chùng ra.
Căn
nhà dành cho mục sư nằm kế bên nhà thờ, quay mặt ra một đường nhỏ.
Họ cẩn thận bước qua tuyết.
- Bài
thuyết giáo của tôi thế nào? - Phil hỏi bà vợ khi họ bước vào cổng
chính.
- Hay
lắm mình à, - bà nói mà không có vẻ hào hứng mấy. Nate nghe và mỉm
cười, chắc rằng trong hàng bao nhiêu năm cứ mỗi Chủ nhật Phil đều hỏi
câu hỏi ấy, vào cùng nơi chốn và thời điểm ấy, và đều nhận được
cùng câu trả lời ấy.
Mọi
ngại ngùng về việc ở lại dùng bữa trưa đều tan biến khi anh bước
chân vào nhà. Mùi hương ngạt ngào, đậm đặc của món cừu hầm tỏa
khắp căn nhà. Phil cời than hồng trong lò sưởi trong khi Laura sửa soạn
bữa ăn.
Trong
phòng ăn nhỏ, một bàn ăn đã được bày ra cho bốn người. Nate hài lòng
đã nhận lời mời chân tình của ông mục sư hiếu khách.
- Chúng
tôi thật vui khi anh đến đây, - Phil nói trong lúc họ ngồi xuống. - Tôi
đã có dự cảm là hôm nay chúng tôi sẽ có khách.
- Chỗ
của ai vậy? - Nate hỏi, hướng về chỗ ngồi còn trống.- Chúng
tôi luôn luôn đặt bốn chỗ ngồi vào ngày Chủ nhật, - Laura nói và chỉ
giải thích như thế. Họ nắm tay nhau trong lúc Phil lại đọc kinh tạ ơn
Chúa về tuyết và các mùa và về thức ăn hàng ngày. Ông kết thúc
bài Kinh với câu “Và khiến chúng con lúc nào cũng biết quan tâm đến
nhu cầu và ước muốn của người khác”. Những lời đó khơi động một
cái gì trong bộ nhớ của Nate. Anh đã nghe những lời đó trước đây, xa
xăm bao nhiêu năm trước đây…
Trong
lúc múc thức ăn, họ nói chuyện về buổi sáng. Trung bình có khoảng
bốn mươi tín đồ đến dự buổi lễ lúc mười một giờ sáng. Nhưng tuyết
rơi nhiều đã khiến nhiều người ngại đi. Và đang có dịch cúm trên bán
đảo. Nate khen vẻ đẹp đơn sơ bên giáo đường. Hai người về xứ đạo này
đã sáu năm.
Trong
khi ăn, Laura nói:
- Lúc
này là mùa xuân mà sao ông có làn da rám nâu như vậy? Hẳn là không
phải ông có làn da đó ở Washington?
- Không.
Tôi vừa mới quay về từ Brazil.
Cả
hai ngừng ăn và nghiêng người về phía anh. Cuộc phiêu lưu được kể lại.
Nate xơi một muỗng lớn thịt hầm thật ngon, rồi bắt đầu câu chuyện.
- Mời
ông dùng, - cứ mỗi năm phút Laura lại giục. Nate cắn một miếng, nhai
chậm rãi, rồi kể. Anh chỉ nhắc đến Rachel “cô con gái của một thân
chủ”.
Những
cơn bão càng lúc càng dữ dội hơn, những con rắn càng lúc càng dài
hơn, to hơn, chiếc thuyền càng mong manh hơn, những người Da đỏ càng ít
thân thiện hơn… Đôi mắt của Phil lúng liếng vì ngạc nhiên vui thích
trong khi Nate kể từ chương này đến chương kia.
Đó
là lần thứ nhì Nate kể lại câu chuyện từ khi anh trở về. Chỉ cường
điệu thêm chút ít chỗ này chỗ kia chứ cơ bản anh vẫn dựa trên những
sự kiện có thật. Và điều đó làm ngay cả anh cũng ngạc nhiên thích
thú. Một câu chuyện đáng kể lại và những người chủ nhà đã được
nghe một phiên bản phong phú và hấp dẫn. Họ cố chen vào những câu
hỏi bất kì lúc nào có thể.
Khi
Laura dọn bàn và đem bánh sôcôla hạnh nhân ra để tráng miệng thì Nate
kể đến đoạn anh và Jevy vừa đặt chân đến buôn làng Ipicas đầu tiên.
- Cô
ấy có ngạc nhiên khi thấy các bạn không? - Phil hỏi khi Nate tả cảnh
đoàn người Da đỏ dẫn người phụ nữ ra khỏi làng để đến gặp họ.
- Hẳn
là không, - Nate nói. - Hình như cô ta biết rằng chúng tôi đang đến.
Nate
hết sức cố gắng để mô tả những người Da đỏ và nền văn hóa Thời Kì
Đồ Đá của họ, nhưng từ ngữ không tạo nên được những hình ảnh chính
xác. Anh ăn hết hai cái bánh sôcôla hạnh nhân, vét sạch đĩa với những
miếng lớn trong những khoảng trống ngắn của cuộc kể chuyện.
Họ
đẩy mấy chiếc đĩa ra xa và uống cà phê. Bữa ăn trưa ngày Chủ nhật
đối với Phil và Laura là một cơ hội để chuyện trò hơn là để ăn
uống. Nate thắc mắc không biết ai sẽ là người khách cuối cùng đủ may
mắn để được mời ăn uống và chuyện trò.
Khi
anh kết thúc câu chuyện, những câu hỏi lại bắt đầu. Phil muốn biết
mọi điều về nhà nữ truyền giáo - về giáo phái của cô, về tín
ngưỡng và việc hành đạo của cô đối với những người Da đỏ. Bà chị của
Laura đã từng sống ở Trung Hoa trong mười lăm năm, làm việc trong một
bệnh viện của giáo hội, và điều này lại trở thành đề tài cho
nhiều câu chuyện tiếp theo…
Gần
đến ba giờ chiều Nate mới đứng lên để ra khỏi cửa. Vợ chồng chủ nhà
còn nấn ná muốn níu anh ngồi lại bàn để chuyện vãn đến tối, nhưng
Nate cần tản bộ cho giãn gân cốt. Anh cám ơn họ về cuộc tiếp đãi ân
cần, và khi vẫy tay từ biệt họ nơi cổng nhà, anh thấy dường như đã
quen thân với họ từ bao năm qua.
Tản
bộ một vòng khắp cái thị trấn Saint Michaels này mất độ một tiếng
đồng hồ. Các con đường đều hẹp với những dãy nhà cổ dễ đến hàng
trăm năm. Không có cái gì bị đặt sai chỗ, không có chó chạy rông
ngoài đường, không lô đất nào bỏ trống, không một căn nhà hoang. Ngay
cả tuyết cũng gọn gàng ngăn nắp - được xúc cẩn thận để đường phố
và vỉa hè đều sạch sẽ, láng giềng không ai phiền lòng. Nate dừng
chân ở cầu tàu và đứng ngắm những chiếc thuyền buồm. Anh chưa từng
đặt chân lên loại thuyền này bao giờ.
Anh
quyết định sẽ không rời Saint Michaels chừng nào anh chưa bị bắt buộc.
Anh sẽ sống nơi căn nhà bên vịnh, ở lì đó cho đến khi nào Josh lịch
sự trục xuất anh ra khỏi nhà. Anh sẽ để dành tiền, và khi vụ Phelan
dàn xếp xong xuôi, anh sẽ tìm cách nào đó để xây một cái tổ trú
thân.
Gần
bến cảng anh gặp một tiệm tạp hóa nhỏ gần đóng cửa. Anh mua cà phê,
xúp hộp, đồ gia vị, mì cháo ăn liền. Một dãy các loại bia chai được
bày trên quầy. Anh mỉm cười với sự phô bày đó, hài lòng vì những
ngày sa đọa đã lùi về phía sau.
--------------
Còn
tiếp…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét