Bản
chúc thư
Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011
Chương
51
Valdir
đang đứng chờ nơi sân bay Corumbá khi chiếc Gulfstream lăn bánh vào trạm đỗ nhỏ.
Lúc đó là 1 giờ sáng, sân bay vắng ngắt, chỉ có mấy chiếc máy bay nhỏ đậu ở đầu
kia của đường băng. Nate liếc nhìn chứng, và tự hỏi không biết anh chàng phi
công Milton có quay về từ Pantanal hay không.
Họ
chào nhau như những người bạn cũ. Valdir thấy Nate khỏe hẳn ra so với trước
đây. Đúng là hai hình ảnh trái ngược: khi họ gặp nhau lần cuối, Nate đang bị
cơn sốt xuất huyết hành hạ vật vã, nom chỉ còn như một bộ xương.
Họ
đi ra khỏi sân bay trong chiếc xe Fiat của Valđir, hạ cửa xe xuống, không khí
nóng ẩm thổi ùa vào mặt Nate. Hai viên phi công và tay cơ trưởng chạy theo sau
trong một chiếc taxi. Các đường phố bụi bặm đang vắng người. Không thấy ai đi lại.
Đến trung tâm thị xã, họ dừng lại trước Palace Hotel. Valdir trao chìa khóa
cho anh.
- Phòng
hai - mười hai, - ông ta nói. - Tôi sẽ gặp anh lúc 6 giờ sáng.
Nate
ngủ độ bốn tiếng, rồi thức giấc, ra đứng chờ trên vỉa hè khi ánh mặt trời ban
mai xuyên qua các tòa cao ốc. Bầu trời trong vắt và đó là một trong những điều
trước tiên anh ghi nhận. Mùa mưa đã chấm dứt từ tháng trước. Khí hậu lạnh đang
đến gần, mặc dầu ở Corumbá nhiệt độ lúc cao nhất vào ban ngày hiếm khi xuống
dưới bảy mươi lăm độ Farenheit.
Trong
cái balô nặng trịch của anh, là giấy tờ, một máy camera, một Satfone mới, một
Cell-phone mới, một pager mới, một lọ lớn thuốc chống côn trùng loại mạnh nhất
của nền công nghệ hóa dược hiện đại, một món quà nhỏ cho Rachel và hai bộ quần
áo để thay. Tay chân đều được phủ kín quần kaki dày bọc kín đôi chân, áo tay
dài. Có thể anh không được thoải mái và phải đổ mồ hôi, nhưng không một côn
trùng nào xuyên thủng bộ giáp của anh được.
Đúng
6 giờ Valdir tới và họ lái nhanh về hướng phi trường. Thành phố dần dần hồi
sinh.
Valdir
đã thuê một chiếc trực thăng từ một công ty ở Campo Grande với giá 1000 đô/giờ.
Nó có thể chở bốn hành khách, có hai phi công, và khả năng bay một mạch ba trăm
dặm.
Valdir
và các phi công đã nghiên cứu kĩ mấy tấm bản đồ Jevy đưa cho, về con sông Xeco
và các phụ lưu đổ vào nó. Với mùa nước ròng, vùng Pantanal dễ đi lại hơn nhiều
cả trên mặt nước lẫn ở trên không. Các con sông thu mình về dòng chính của
chúng, để lộ rõ hai bên bờ. Các ao hồ cũng co cụm lại. Các trang trại
(fazendas) nổi cao trên mặt nước và có thể tìm thấy trên các bản đồ không lưu.
Trong
khi Nate quẳng balô vào trong chiếc trực thăng anh cố không nghĩ về chuyến bay
trên vùng Pantanal lần vừa qua. Thần may rủi vẫn phù hộ anh. Không thể nào anh
lại... tử nạn trên những chuyến bay tiếp theo.
Valdir
thích ngồi phía sau hơn, gần với điện thoại, ông ta chẳng thích bay, nhất là
trong một chiếc trực thăng, đặc biệt là bay trên vùng Pantanal.
Bầu
trời yên tĩnh, không vẩn mây khi máy bay vọt lên cao. Nate mang dây đai an
toàn và đội nón bảo hộ. Họ bay theo con sông Paraguay, ra khỏi Corumbá. Nhiều
ngư dân vẫy tay chào họ. Những đám nhóc đứng trong sông nước ngập đầu gối dừng
lại và chăm chăm ngước nhìn theo. Họ bay qua một chiếc xà lan chất đầy chuối,
chạy về hướng bắc như họ. Rồi những chiếc xà lan ọp ẹp khác chạy về hướng nam.
Nate
tự điều chỉnh với tiếng ồn và độ rung của máy bay. Anh nghe với bộ earphone
trong lúc hai phi công nói chuyện với nhau bằng tiếng Bồ. Anh nhớ tới chiếc
Santa Loura và dư vị khó chịu sau lần say rượu lúc anh rời Corumbá đi về hướng
bắc trong lần trước.
Họ
bay lên độ cao hai ngàn feet và giữ cao độ đó. Ba mươi phút bay và Nate thấy điểm
buôn bán của Femando ở ven sông.
Anh
ngạc nhiên thích thú về sự khác biệt ờ vùng Pantanal từ mùa này đến mùa khác, vẫn
là một tập hợp vô tận những đầm lầy, ao hồ và các nhánh sông dọc ngang đan nhau
như mạng nhện tỏa ra khắp hướng nhưng mùa này xanh hơn nhiều khi các con lũ đã
rút đi.
Chiếc
trực thăng đứng yên bên trên con sông Paraguay hồi lâu. Bầu trời vẫn trong
xanh dưới đôi mắt mở rộng của Nate. Anh hồi tưởng vụ tai nạn trong chiếc máy
bay của Milton vào đêm Giáng Sinh vừa qua. Cơn bão đã sôi trào cuồn cuộn ùa tới
từ bên kia núi chỉ trong nháy mắt.
Hạ
thấp xuống một ngàn bộ bằng cách xoáy vòng, các phi công bắt đầu chỉ chỏ làm
như đã tìm thấy mục tiêu. Nate nghe từ Xeco và thấy một chi lưu đổ vào sông
Paraguay. Tất nhiên anh chẳng nhớ gì về sông Xeco cả. Trong lần đầu gặp nó,
anh nằm co quắp dưới tấm bạt, sát đáy chiếc xuồng máy và chỉ muốn chết đi
thôi. Họ quay về hướng tây và rời dòng sông chính, vặn vẹo theo dòng chảy ngoằn
ngoèo của sông Xeco, quay đầu về hướng các ngọn núi của Bolivia. Các phi công
quan tâm hơn với những vật ở bên dưới. Họ đang tìm kiếm một chiếc xà lan màu
lam và vàng.
Bên
dưới, Jevy nghe tiếng u u từ xa của chiếc trực thăng. Cậu ta nhanh chóng đốt một
trái sáng màu cam và ném vụt lên cao. Welly cũng làm theo như vậy. Hai trái
sáng cháy rực lên và để lại một làn khói màu xanh, màu cam và màu bạc. Trong
vòng mấy giây, chiếc trực thăng xuất hiện và chậm rãi lượn vòng.
Jevy
và Welly đã dùng rìu phát quang một khoảng cây, cách mép sông độ 50 yards. Chỗ
đất trống đó một tháng trước đây còn ngập nước. Chiếc trực thăng quần mấy
vòng để quan sát địa hình rồi từ từ đáp xuống bãi đất trống.
Sau
khi mấy cánh chong chóng ngừng quay, Nate nhảy ra và ôm mấy người bạn nhỏ. Anh
đã không gặp họ cả hơn hai tháng nay, và sự kiện anh quay lại đó quả là một
điều ngạc nhiên cho cả ba người.
Thời
gian rất quí báu. Nate sợ giông bão, đêm tối, lũ lụt và muỗi mòng, và anh muốn
di chuyển càng nhanh càng tốt. Họ đi đến chiếc xà-lan đậu trên sông. Kế bên chiếc
xà-lan là một chiếc xuồng máy có vẻ như đang chờ chuyến đi lần đầu. Cột vào
chiếc xuồng máy là chiếc ghe đuôi tôm mới toanh, tất cả là những quà tặng từ
tài sản nhà Phelan. Nate và Jevy nhanh chóng nhảy vào chiếc xuồng máy và nói lời
tạm biệt với Welly và các phi công, rồi vọt đi.
Các
khu định cư cách đó hai giờ, Jevy giải thích, la lớn để át tiếng động cơ. Chiều
hôm qua cậu ta và Welly đã đến với chiếc xà-lan. Con sông đã trở nên quá hẹp
ngay cả đối với chiếc xà-lan vì vậy họ đã neo nó gần khoảng đất bằng để chờ
chiếc trực thăng đến. Rồi họ đã đi thăm dò bằng chiếc xuồng máy, cuối cùng đã đến
gần khu định cư thứ nhất. Cậu ta đã nhận ra địa điểm cũ, nhưng đã quay xuồng lại
trước khi những thổ dân Da đỏ nghe biết họ.
Hai
giờ, có lẽ ba giờ đã trôi qua. Nate hi vọng sẽ không đến năm giờ. Dầu bất kì
tình huống nào anh cũng không muốn ngủ trên đất, hay trong một lều bạt, hay
trên một chiếc võng. Không một khoảng da nào được phơi bày cho những hiểm nguy
của rừng rậm. Nỗi khủng khiếp của bệnh sốt xuất huyết hãy còn tươi rói.
Nếu
họ không thể tìm được Rachel, thì anh sẽ quay về Corumbá bằng trực thăng, ăn tối
với Valdir, ngủ trên giường nệm có mùng màn đầy đủ, rồi ngày mai sẽ đi tìm lại.
Nếu cần, mua luôn chiếc trực thăng để đi tìm cô ấy cũng còn được.
Nhưng
Jevy có vẻ tin tưởng, điều không phải là bình thường. Họ lướt băng băng trên
mặt nước với động cơ mới toanh, rất mạnh. Có một chiếc ghe đuôi tôm luôn nổ
máy đều đều, rẽ nước phăng phăng thật là thích. Họ cảm thấy mình bất khả chiến
bại.
Lại
một lần nữa Nate bị mê hoặc bởi vùng Pantanal; bọn cá sấu lượn lờ trong dòng nước
nông khi ghe họ băng qua, những con chim lao xuống dòng sông để bắt cá, sự
cách ly huy hoàng của nơi chốn hoang sơ. Họ đã vào quá sâu để còn có thể thấy
bóng đáng các trang trại của những người mới nhập cư sau này. Họ đang đi tìm những
cư dân đã từng ở đây hàng bao thế kỉ hay hàng bao thiên niên kỉ nay.
Hai
mươi bốn giờ trước đây anh còn ngồi nơi cổng căn nhà sàn, quấn người trong chiếc
mền bông thật dày, nhâm nhi cà phê, nhìn các thuyền câu đi vào vịnh chờ mục sư
Phil gọi tới nói rằng ông ta đang đi xuống tầng hầm nhà thờ để làm việc. Cần đến
cả giờ ngồi trong chiếc ghe đuôi tôm để anh điều chỉnh lại mình đang ở đâu.
Con
sông trông không có vẻ thân thuộc. Lần trước khi họ đi tìm bộ lạc Ipicas họ đã
bị lạc, ướt loi ngoi, đói lả người và phó mặc cho sự hướng dẫn của một người
đi câu trẻ tuổi. Nước sông dâng cao, các điểm mốc bị che phủ, họ không còn biết
đâu là đâu.
Nate
nhìn lên trời như thể anh đang chờ bom đạn trút xuống. Chỉ cần một dấu hiệu mây
đen đủ làm anh lo sốt vó.
Rồi
một đoạn sông cong nom có vẻ quen quen, nhưng mơ hồ thôi. Có lẽ họ đã gần đến
nơi. Cô sẽ chào đón anh với một nụ cười, một vòng ôm thân thiết, rồi cùng ngồi
trong bóng râm, chuyện trò bằng tiếng Anh? Có cơ may nào không khiến cô... nhớ
nhung anh hay nghĩ về anh? Cô đã nhận được mấy bức thư chưa? Thư được gửi đi
giữa tháng Ba, mấy bưu kiện gởi cho cô cũng vào khoảng đó. Cô đã có chiếc xuồng
mới và thuốc men cần thiết chưa?
Hay
cô sẽ chạy trốn? Cô sẽ đến với vị tù trưởng và yêu cầu ông bảo vệ cô, để thoát
khỏi tên người Mỹ ưa quấy rầy đó cho rồi? Anh còn có cơ may nào gặp lại nàng nữa
không, người nữ cao cả, người nữ thánh thiện, người nữ tuyệt vời đã nguyện
dâng trọn đời mình cho Chúa và cho những con người bất hạnh chốn trần gian.
Lần
này anh thầm hứa mình sẽ kiên quyết hơn, sẽ dứt khoát hơn. Đâu phải lỗi của
anh nếu cụ Troy đã để lại một chúc thư kì quặc như thế; anh cũng đâu có dính
dáng gì vào sự kiện cô lại là con gái ngoại hôn của Troy. Bản thân cô cũng
không thể thay đổi những chuyện đã rồi và không phải là đòi hỏi quá nhiều khi
anh yêu cầu cô một sự hợp tác nhỏ thôi: hoặc là chấp thuận đề án thành lập tổ hợp
công ty hoặc là kí tên vào văn bản khước từ quyền thừa kế. Anh sẽ không rời đi
khi chưa lấy được chữ kí của cô.
Cô
có thể khước từ của cải thế gian, cô có thể quay lưng lại với cái thế giới đầy
tham sân si, muốn tranh quyền đoạt lợi, nhưng cô vẫn là con gái của cụ Phelan,
và được cụ ủy thác trọng trách thừa kế để sử dụng cái di sản lớn lao kia vào mục
đích tốt đẹp. Đó là hạnh nguyện đầy thiện đức của người đã khuất mà cô không thể
phụ lòng; một hạnh nguyện hoàn toàn phù hợp với lời dạy của Chứa, với lí tưởng
cao cả mà cô đã một đời theo đuổi. Sao cô còn từ chối?
Nate
buột miệng tuôn ra một cách hùng hồn những luận chứng đó như đang say sưa thuyết
phục người đối diện; Jevy chỉ nghe loáng thoáng tiếng được tiếng mất mà không kịp
hiểu gì. ông Mỹ này lại bị cơn sốt tái phát mà nói mê sảng đó chăng? Anh chàng
ngơ ngác...
Anh
sẽ nói với cô về đám anh chị em dị hợm của cô. Anh sẽ vẽ ra một bức tranh về những
gì sẽ xảy ra nếu để họ nhận toàn bộ di sản. Anh sẽ nêu lên những công đức lớn
lao mà cô sẽ đem lại cho bao người, chỉ cần cô chịu kí tên vào văn bản thành lập
tổ hợp công ty. Anh thực tập và thực tập...
Cây
cối trên hai bờ càng lúc càng dày dặc hơn và nghiêng mình soi bóng nước nơi họ
vừa chạm đến. Nate nhận ra cái đường hầm tàng cây trước kia anh đã đi qua.
- Kia
kìa, - Jevy nói, chỉ tay về hướng trước mặt, bên phải, ngay chỗ mà trước đây
họ đã thấy đám con nít nô đùa bơi lội trong sông. Cậu ta giảm van tiết lưu và họ
chạy chầm chậm ngang qua khu định cư đầu tiên nhưng chẳng thấy bóng dáng một
thổ dân nào. Khi các túp lều đã khuất, con sông gấp khúc và dòng chảy trở nên
hẹp hơn.
Một
vùng đất quen. Họ chạy dzích dzắc sâu hơn vào trong rừng, con sông ngoằn ngoèo
gần như xoay vòng tròn, các ngọn núi xa xa thấp thoáng ẩn hiện qua những khoảng
rừng thưa, bãi trống. Đến khu định cư thứ hai, họ dừng lại gần cái cây to nơi
bước đây họ đã ngủ lại đêm đầu tiên, vào tháng giêng. Họ bước lên bờ ngang
chính chỗ Rachel đã đứng khi cô vẫy tay chào tạm biệt, đúng lúc cơn sốt bắt
đầu hành anh. Cái ghế băng dài vẫn còn đó, trông vẫn còn rất vững chải.
Nate
đang nhìn ngắm buôn làng trong khi Jevy buộc neo thuyền. Một chàng trai Da đỏ
chạy từ đường mòn ra đón họ. Tiếng nổ của chiếc ghe đuôi tôm đã đánh động bầu
khí tĩnh mịch của buôn làng.
Anh
chàng Da đỏ này không biết nói tiếng Bồ nhưng qua nụ cười và ngôn ngữ đôi tay
truyền đi thông điệp rằng họ nên đứng ở đó, gần bờ sông, đợi lệnh thủ lĩnh đã.
Anh chàng không biểu lộ dấu hiệu có nhận ra người quen hay không, mà lại ra vẻ
sợ sệt.
Vì vậy
họ ngồi trên băng ghế dài và chờ. Đã gần 11 giờ sáng. Có biết bao điều để nói.
Trước đó Jevy đã bận rộn trên sông, đi trên các xà-lan chở lương thực và tiếp
liệu vào vùng Pantanal. Tình cờ anh ta gặp được một chiếc thuyền du lịch, được
tiện nghi thoải mái hơn.
Họ
nói chuyện về chuyến đi vừa qua của Nate, về chuyện họ đã chạy khỏi vùng
Pantanal với động cơ mượn của Femando như thế nào, những kinh hoàng nơi bệnh viện,
cố gắng cùa họ để tìm Rachel ở Corumbá.
- Tôi
muốn nói với ông là, - Jevy mở lời. - Tôi đã nghe ngóng nhiều trên sông, và bà
ấy không hề đến. Bà ấy không tới bệnh viện. Lúc đó anh chỉ mơ đấy thôi, ông bạn
à.
Nate
không đủ tự tin về chuyện đó để tranh cãi.
Người
chủ của chiếc Santa Loura đã vu khống, nói xấu Jevy khắp cả thị xã. Chiếc
thuyền chìm khi được giao cho anh, nhưng ai cũng biết là do cơn bão. Nhưng thằng
chả tiếc của cứ buộc tội và bêu xấu Jevy.
Như
Nate dự đoán, cuộc đàm thoại nhanh chóng chuyển qua đề tài tương lai của Jevy ở
xứ Hoa Kỳ mà chàng ta hằng ấp ủ. Jevy đã xin visa, nhưng cần một người bảo trợ
và một việc làm. Chuyện này đặt Nate vào thế tiến thoái lưỡng nan bởi anh
không thể tập trung đủ can đảm để nói với anh bạn trẻ Jevy rằng chính anh cũng
sắp sửa phải đi tìm một việc làm mới để mưu sinh đây. Thế là ngài luật sư tiếng
tăm lừng lẫy, giàu có ghê gớm (trong trí tưởng của Jevy) đến từ xứ sở siêu cường
kia, bắt buộc phải lượn lờ, lửng lơ để né những lời yêu cầu khẩn thiết của
tay đàn em tưởng rằng mình đã may mắn kế cận một thủ lĩnh ngon lành.
“Để
anh xem nếu làm gì được cho cậu, anh sẽ cố”. Jevy còn có thêm một người anh em
họ hiện ở bang Colorado bên Mỹ cũng đang đi tìm việc.
Một
con muỗi bay vòng quanh bàn tay Nate. Phản ứng đầu tiên của anh là cho nó tan
xác bằng một cú đập thật mạnh, nhưng anh kịp kiềm chế để quan sát và đo lường
hiệu quả của loại thuốc diệt côn trùng siêu hạng anh mới dùng. Khi đã mệt
với việc kiểm tra mục tiêu, con muỗi đột ngột đâm bổ nhào xuống phía lưng bàn
tay phải của anh. Nhưng còn cách hai inch, nó đột ngột dừng lại, đổi hướng bay
và... biến. Nate cười thỏa mãn. Tai, mặt, cổ cùa anh đã được bôi đầy lớp dầu
đó.
Cuộc
tấn công lần thứ nhì của bệnh sốt nhiệt đới thường gây ra xuất huyết. Sẽ còn
ghê gớm hơn lần đầu, thường đưa đến hậu quả chết người. Nate O’Riley không thể
là nạn nhân một lần thứ hai.
Họ
nhìn về phía buôn làng trong lúc nói chuyện và Nate quan sát mọi chuyển động.
Anh trông chờ được thấy Rachel xuất hiện với vẻ thanh nhã giữa các túp lều và
đi dọc con đường mòn để đến đón anh. Đến lúc này, chắc cô đã biết rằng cái ông
da trắng đã trở lại.
Nhưng
liệu cô có biết rằng đó là Nate không? Nếu nhỡ anh chàng Ipicas đó không nhận
ra họ, và Rachel phát hoảng vì có người nào khác đi tìm cô?
Rồi
họ thấy vị tù trưởng chậm rãi tiến về phía họ. Ông ta mang một cây lễ trượng
dài, có một người Ipicas khác theo sau, mà Nate nhận ra. Họ dừng bước nơi cuối
con đường mòn, cách băng ghế hai người đang ngồi độ năm mươi bước. Họ không
tươi cười, thực tế, vị tù trưởng tỏ ra không mấy vui vẻ. Bằng tiếng Bồ ông hỏi:
- Mấy
người muốn gì?
- Nói
với ông ấy bọn mình muốn gặp nhà truyền giáo. - Nate nói và Jevy dịch lại.
- Tại
sao? - câu hỏi vụt đến gay gắt.
Jevy
giải thích rằng ông Mỹ đã đi một quãng đường rất dài để đến đây vì chuyện rất
quan trọng cần gặp người phụ nữ đó. Thủ lĩnh lại hỏi gằn:
- Tại
sao?
Bởi
vì họ có nhiều chuyện để bàn với nhau, những chuyện lớn mà Jevy và thủ lĩnh đều
không thể hiểu được. Chuyện đó rất... rất quan trọng, nếu không ông Mỹ đã không
đến đây.
Nate
nhớ lại thủ lĩnh là một người có tính cách bộc trực, ưa cười nói rổn rảng, có
phần hiếu chiến nhưng cũng rất phóng khoáng. Giờ đây vẻ mặt ông ta có vẻ vô cảm,
không biểu lộ. Đôi mắt ông ta có vẻ trầm trọng, dè chừng, dù hai bên đứng cách
nhau đến năm mươi bước, ông ta đã từng ân cần mời anh và Jevy ngồi bên bếp lửa
cùng ăn bữa điểm tâm với ông ta. Thế mà nay ông ta lại đứng cách xa như có ý thủ
thế. Có điều gì trục trặc rồi đây. Có cái gì đó đã thay đổi.
Ông
bảo họ đứng đó chờ, rồi ông lại đi, chậm rãi quay trở lại buôn làng. Nửa giờ
qua. Giờ đây Rachel đã biết được họ là ai, thủ lĩnh hẳn đã kể cho cô nghe. Vậy
mà cô vẫn chưa đến gặp họ.
Một
áng mây bay ngang che khuất mặt trời, và Nate chăm chú quan sát. Đó là một đám
mây trắng, cuộn tròn rồi lan tỏa ra, không hề có dấu hiệu đe dọa của những đám
mây vần vũ mang theo giông tố, thế nhưng không hiểu tại sao vầng mây đó vẫn làm
anh sợ hãi, vẫn cho anh linh cảm một triệu bất tường. Không có tiếng sấm nào
vọng lại từ khoảng trời xa, vậy mà anh vẫn bồn chồn muốn di động. Họ ngồi ăn
vài miếng bánh kẹp với phô-mai ở trong thuyền.
Thủ
lĩnh huýt sáo gọi họ và làm gián đoạn bữa ăn nhẹ. Ông ta đi ra từ buôn làng có
một mình. Họ gặp nhau ở giữa đường và theo chân ông ta khoảng một trăm mét, rồi
đổi hướng và di chuyển sau các túp lều, trên một đường mòn khác. Nate có thể thấy
khu quần cư của buôn làng. Nơi đó giờ vắng tanh, không thấy bóng một người
Ipicas nào đi lại quanh đó. Không thấy bọn trẻ nô đùa. Không thấy những thiếu
phụ quét dọn, lau chùi quanh các chỗ ở. Không thấy các bà làm bếp, nấu nướng,
giặt giũ. Không một âm thanh nào. Chuyển động duy nhất là các làn khói uốn éo bốc
lên từ các bếp lửa.
Rồi
họ thấy những khuôn mặt nơi các khung cửa sổ, những chiếc đầu nhỏ thập thò qua
cửa chính. Họ đang bị nhìn ngắm, theo dõi. Thủ lĩnh bảo họ tránh xa các túp lều,
làm như thể họ đang mang tai họa đến. ông ta quẹo qua con đường mòn khác, một
con đường đi xuyên qua các cánh rừng một hồi lâu. Khi họ đi vào một khoảng đất
trống, họ đi ngang qua căn lều của Rachel.
Không
thấy dấu hiệu gì của cô. Thủ lĩnh dẫn họ đi qua cửa chính rồi đến hông lều,
nơi đó, dưới những cây cổ thụ có tán lá dày, họ thấy hai ngôi mộ.
-------------
Còn
tiếp…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét