Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 21-22)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 21

Thứ Năm 26 Tháng 5, 2005 

Per-Gunnar Gerdin vẫn còn ngủ nướng khi Chánh Thanh tra Göran Aronsson trở lại trang trại Bellringer và kinh ngạc phát hiện ra Allan Emmanuel Karlsson đang ngồi trên võng ngoài hiên gỗ rộng. 
Benny, Người Đẹp và Buster bận rộn mang nước vào chuồng mới của Sonya trong nhà kho. Julius đã để râu, nhờ thế nhóm cho phép ông đi cùng với Bosse đến Falkoping để mua các thứ. Allan ngủ quên trên võng đến khi Chánh Thanh tra tới đánh thức. 
- Chắc cụ là Allan Karlsson? - ông Chánh Thanh tra Aronsson hỏi.
Allan mở mắt ra và đáp cụ cũng đồ là như thế. Nhưng mặt khác, cụ lại chẳng biết ai đang gọi mình. Người lạ mặt có thể bật mí một tí về chuyện đó được không?
Chánh Thanh tra lập tức trả lời. Ông nói tên mình là Aronsson, Chánh Thanh tra lực lượng cảnh sát, rằng ông đã tìm kiếm Cụ Karlsson một thời gian và Cụ Karlsson bị bắt giữ vì tình nghi đã giết người. Bạn của Cụ Karlsson, Ông Jonsson, Ông Ljungberg và Cô Björklund cũng bị bắt vì vụ đó. Cụ Karlsson có biết họ ở đâu không?
Allan không vội trả lời. Cụ nói mình phải nghĩ cái đã, cụ vừa mới ngủ dậy và tin rằng Chánh Thanh tra hiểu điều đó. Ai lại đi cằn nhằn bạn bè mình mà không suy nghĩ cẩn thận. Chắc là Chánh Thanh tra cũng đồng ý thế chứ?
Chánh Thanh tra đáp ông chỉ có một lời khuyên cho Cụ Karlsson là hãy nhanh chóng nói ra những gì cụ biết. Nhưng, quả thật, Chánh Thanh tra không cần phải vội.
Allan thấy yên tâm và mời Chánh Thanh tra ngồi lên võng, để cụ vào bếp lấy ít cà phê.
- Ông thanh tra uống cà phê với đường nhé? Hay sữa? 
Chánh Thanh tra Aronsson không phải là người để cho tội phạm bị bắt giữ được phép nhung nhăng đi lại, cho dù là xuống nhà bếp ngay cạnh đấy. Nhưng riêng vụ này thì có thể bình tĩnh một chút. Thêm nữa, từ chỗ cái võng, Chánh Thanh tra có thể nhìn rõ nhà bếp và Allan làm gì ở đó. Vì vậy, Aronsson cảm ơn Allan về lời mời.
- Sữa, cụ ạ. Không đường, - ông nói và thả mình thoải mái trên chiếc võng.
Allan, tội phạm mới bị tóm, bận rộn trong bếp. (“Thêm cái bánh quy Đan Mạch nữa nhé?”) trong lúc Chánh Thanh tra Aronsson ngồi trên hiên quan sát cụ. Aronsson không hiểu sao trước đây mình có thể suy luận quá vụng về. Tất nhiên, ông đã nhìn thấy cụ già ngoài hiên trang trại mà cứ chắc mẩm đấy là bố của Bo Ljungberg, lẽ ra chuyện đó phải đưa Aronsson đến chỗ cậu con trai và sau đó anh ta sẽ xác nhận rằng không ai trong số những kẻ bị truy nã ở quanh đây, và cả chuyến đi đến Västergötland thành ra vô ích.
Nhưng khi Aronsson đến gần cái hiên, té ra cụ già trong võng chính là Allan Karlsson. Cú bắn từ xa hóa ra lại trúng hồng tâm! Aronsson đã cư xử một cách bình tĩnh và chuyên nghiệp với Allan, nếu có thể nói chuyên nghiệp là để cho một nghi phạm giết ba mạng người vào bếp đun cà phê, nhưng lúc này ông ngồi đó, cảm thấy mình như một kẻ nghiệp dư. Allan Karlsson, 100 tuổi, trông chẳng có gì nguy hiểm, nhưng Aronsson phải làm gì nếu ba kẻ tình nghi kia xuất hiện, và có thể cùng với cả Bo Ljungberg, kẻ cũng đáng bị bắt vì chứa chấp tội phạm.
- Sữa không đường à? - Allan gọi với từ bếp ra. - Ở tuổi tôi, dễ quên lắm.
Aronsson lặp lại yêu cầu cho sữa vào cà phê của mình, rồi lôi điện thoại ra gọi các đồng nghiệp ở Falköping tới tiếp ứng. Để an toàn, ông cần hai xe. 
Tuy nhiên, điện thoại lại nhanh hơn cả thanh tra. Nó réo lên trước khi ông có thể gọi. Tất nhiên là Aronsson trả lời. Đó là công tố viên Ranelid - với một số thông tin giật gân.

Chương 22 

Thứ Tư 25 tháng Năm 2005 - Thứ Năm 26 tháng Năm 2005

Gã thủy thủ Ai Cập đã thả thi thể bốc mùi của “Thùng Gỗ” Bylund Bengt vào miệng cá Biển Đỏ cuối cùng cũng đến Djibouti để nghỉ phép ba ngày.
Trong túi quần sau của gã có cái ví của Ốc Vít với 800 crown Thụy Điển tiền mặt. Gã chẳng biết nó giá trị bao nhiêu nhưng vẫn hy vọng, và kiếm một nơi nào đó để đổi tiền.
Thủ đô của Djibouti, thật khó tin, lại trùng tên với nước này, và là một chỗ rất trẻ trung, sống động. Sống động vì Djibouti có vị trí chiến lược ở mũi Châu Phi, ngay chỗ Biển Đỏ đổ ra đại dương. Và trẻ trung vì người sống ở Djibouti không thọ. Sinh nhật 50 đã là một cái gì ngoại lệ.
Gã thủy thủ Ai Cập dừng lại ở chợ cá của thành phố, có lẽ định ăn một món gì chiên trước khi tiếp tục tìm nơi để đổi tiền. Ngay chỗ gã đứng có một người đàn ông địa phương, đẫm mồ hôi, đứng nhấp nhổm đổi chân liên tục, mắt bồn chồn, dáo dác. Gã thủy thủ không lạ khi thấy anh ta đẫm mồ hôi, vì trời ít nhất phải 35 độ C trong bóng râm, thêm nữa, người đàn ông đang mặc hai chiếc sarong, hai áo sơ mi dưới cái mũ kiểu Thổ kéo sụp xuống.
Người đàn ông đẫm mồ hôi trạc 24-25 tuổi, và chẳng hề muốn sống lâu hơn. Tâm trí anh ta đang hướng về cuộc cách mạng. Không phải vì thực tế rằng một nửa dân số của đất nước bị thất nghiệp, vì cứ năm người dân thì có 1 người bị HIV hoặc AIDS, không vì tình trạng thiếu nước uống đến vô vọng, cũng không vì sa mạc đang lan rộng trên toàn quốc nuốt chửng số đất canh tác nhỏ đến thảm hại mà họ từng có. Không, người đàn ông tức giận vì Mỹ đã thành lập một căn cứ quân sự ở nước này.
Mà tất nhiên không chỉ có một mình Mỹ. Lính Lê dương Pháp đã ở đấy. Có một liên hệ chặt chẽ giữa Pháp và Djibouti. Nước này từng được gọi (tất nhiên bằng tiếng Pháp) là Somaliland thuộc Pháp cho đến khi họ được phép tách ra độc lập vào những năm 1970.
Nhưng ngay cạnh căn cứ lính Lê dương, Mỹ đã thương lượng quyền thành lập căn cứ riêng của mình ở một khoảng cách thuận tiện từ vùng Vịnh và Afghanistan, và quả thực một chuỗi bi kịch Trung Phi chỉ chờ dịp bùng nổ. Người Mỹ thấy thế là hay, trong khi hầu hết dân Djibouti không quan tâm. Họ còn đang bận bịu để sinh tồn ngày qua ngày.
Nhưng có một trong số họ rõ ràng có thời gian để nghĩ đến sự hiện diện của Mỹ. Hoặc có thể anh ta chỉ hơi cuồng tín với tôn giáo tốt nhất thế gian của mình.
Dù lý do thì anh ta giờ đang lang thang ở trung tâm thủ đô, tìm kiếm một nhóm lính Mỹ sắp nghỉ phép. Vừa đi, anh ta vừa căng thẳng lần tay vào sợi dây mà mình sắp kéo - vào đúng thời điểm - để thổi bay bọn Mỹ xuống địa ngục còn anh ta sẽ bay theo hướng ngược lại.
Tuy nhiên, như ta đã biết, trời nóng vã mồ hôi (nó thường thế ở Djibouti). Quả bom gắn vào bụng và lưng anh ta còn được bọc bởi hai lớp quần áo. Kẻ đánh bom tự sát gần như sôi lên trong nắng mặt trời và cuối cùng anh ta vô tình kéo sợi dây hơi quá tay.
Thế là anh ta biến mình và những người không may đứng gần anh ta thành món thịt bằm. Hai người Djibouti nữa chết còn chừng mười người bị thương nặng.
Không ai trong số các nạn nhân là người Mỹ. Tuy nhiên, người đứng gần kẻ ôm bom tự sát nhất hình như là người châu Âu. Cảnh sát tìm thấy ví của anh ta, lạ thay vẫn còn khá nguyên vẹn, bên cạnh phần thi thể sót lại của người sở hữu nó. Ngoài 800 crown Thụy Điển tiền mặt, chiếc ví còn chứa hộ chiếu và giấy phép lái xe.
Ngày hôm sau, lãnh sự Thụy Điển ở Djibouti đã được thị trưởng thành phố thông báo rằng các bằng chứng cho thấy công dân Thụy Điển Erik Bengt Bylund đã là nạn nhân vụ đánh bom điên rồ ở chợ cá của thành phố.
Thành phố tiếc rằng không thể giao phần còn lại của Bylund vì cơ thể anh ta bị tàn phá nặng nề. Nhưng những mảnh tử thi ngay lập tức đã được hỏa táng, với nghi thức trang trọng.
Tuy nhiên, lãnh sự Thụy Điển vẫn nhận được ví của Bylund, trong đó có hộ chiếu và giấy phép lái xe (còn số tiền dường như đã bốc hơi dọc đường). Thị trưởng bày tỏ hối tiếc rằng thành phố đã không thể bảo vệ công dân Thụy Điển, nhưng ông cảm thấy có nghĩa vụ phải chỉ ra một điều, nếu Ngài Lãnh sự cho phép.
Vấn đề thực tế là Bylund đã ở Djibouti mà không có thị thực hợp lệ. Thị trưởng không biết ông đã nêu ra vấn đề này bao nhiêu lần với người Pháp và cả Tổng thống Guelleh. Nếu người Pháp muốn đưa lính Lê dương trực tiếp đến căn cứ của mình thì đó là việc của họ. Tuy nhiên, cùng lúc đó, một người lính Lê dương rời căn cứ để đi vào thành phố Djibouti (“thành phố của tôi” như thị trưởng gọi) với tư cách dân sự thì trước hết anh ta phải có giấy tờ hợp lệ. Thị trưởng không nghi ngờ rằng Bylund là lính Lê dương nước ngoài, ông quá biết kiểu đó. Người Mỹ giữ nghiêm luật lệ không sơ sẩy, nhưng người Pháp cư xử như thời họ vẫn còn ở Somaliland.
Lãnh sự cảm ơn thị trưởng về lời chia buồn, nói dối và hứa hẹn sẽ thảo luận về vấn đề thị thực với các đại diện của Pháp vào một dịp thích hợp. 
* * *
Đó là một khám phá thực sự khủng khiếp với Arnis Ikstens, người chẳng may điều khiển chiếc máy nghiền ở bãi xe hơi phế thải ở ngoại ô phía nam của Riga, thủ đô Latvia. Khi chiếc xe cuối cùng trong hàng đã bị đè bẹp dí, đột nhiên ông thấy một cánh tay người thò ra khỏi tấm kim loại hình vuông mà mới đây còn là một chiếc xe hơi. 
Tất nhiên Arnis gọi điện ngay cho cảnh sát rồi bỏ về nhà mặc dù mới giữa ngày. Hình ảnh cánh tay chết còn ám ảnh anh ta một thời gian dài. Anh ta cầu Chúa rằng người này đã chết trước khi mình đè bẹp chiếc xe trong máy nghiền.
Cảnh sát trưởng ở Riga đích thân thông báo cho đại sứ Thụy Điển rằng công dân của họ, Henrik Mikael Hultén được tìm thấy đã chết trong chiếc Ford Mustang ở bãi xe hơi phế thải vùng ngoại ô phía nam Riga.
Họ chưa thể xác nhận đó chính là anh ta, nhưng các thứ trong chiếc ví mà người chết mang theo cho giả định là danh tính của anh ta như thế. 
* * *
Vào lúc 11 giờ 15 sáng ngày 26 tháng Năm, Bộ Ngoại giao Thụy Điển ở Stockholm nhận được một telefax từ lãnh sự quán tại Djibouti, gồm các thông tin và tài liệu liên quan đến một công dân Thụy Điển đã chết. Tám phút sau, một bản fax thứ hai đến, về cùng một chủ đề, nhưng lần này được gửi từ Đại sứ quán ở Latvia.
Nhân viên trực ở Bộ ngoại giao nhận ra ngay tên và hình ảnh những người chết - cách đây không lâu, ông đã đọc về họ trên báo lá cải. Ông lấy làm lạ rằng họ đã chết quá xa Thụy Điển, vì các bài báo chẳng hề đưa ra gợi ý nào như thế. Nhưng đấy là việc của cảnh sát và công tố viên. Nhân viên của Bộ scan lại hai bức telefax rồi viết một e-mail chứa tất cả các thông tin liên quan đến hai nạn nhân, gửi cho phòng cảnh sát huyện ở Eskilstuna. Ở đó, một nhân viên khác đọc email, nhướn mày, và chuyển nó đến công tố viên Ranelid.
Công tố viên Ranelid thấy đời mình vỡ vụn. Vụ án ông già trăm tuổi giết ba người là bước đột phá nghề nghiệp mà Ranelid đã chờ đợi một thời gian dài, và ông thực sự xứng đáng với nó.
Nhưng bây giờ té ra nạn nhân thứ nhất đã chết ở Sörmland, ba tuần sau lại chết một lần nữa ở Djibouti. Và nạn nhân hai, đã qua đời ở Småland, rồi lại chết nữa ở Riga, Latvia.
Sau mười lần thở sâu qua cửa sổ văn phòng để mở, não công tố viên Ranelid bắt đầu làm việc trở lại. Phải điện thoại cho Aronsson, Ranelid kết luận.
Và Aronsson phải tìm thấy nạn nhân số 3. Và phải có liên hệ về ADN giữa ông già trăm tuổi và số ba. Phải là như thế.
Nếu không Ranelid đã xử sự như một thằng ngốc. 
* * *
Khi Chánh Thanh tra Aronsson nghe giọng Ranelid qua điện thoại, ông lập tức bắt đầu kể với Ranelid mình đã tìm thấy Allan Karlsson và Karlsson giờ đã bị bắt (mặc dù kẻ bị bắt đang đứng trong bếp pha cà phê cho Aronsson).
- Về những người khác, tôi ngờ rằng họ đang ở quanh đây, nhưng tôi nghĩ tốt nhất tôi nên gọi người đến tăng cường đã...
Công tố viên Ranelid cắt ngang báo cáo của thanh tra và tuyệt vọng nói với ông rằng nạn nhân số một được tìm thấy đã chết ở Djibouti, và nạn nhân thứ hai thì ở Riga, và chuỗi bằng chứng gián tiếp đã hoàn toàn vỡ vụn.
- Djibouti? - Chánh Thanh tra Aronsson hỏi. - Nó ở đâu? 
- Tôi chẳng biết, - công tố viên Ranelid nói, - nhưng nếu nó cách làng đúc Aker hơn 20km thì lập luận của tôi bị suy yếu kinh khủng. Bây giờ, ông phải tìm thấy nạn nhân số 3, ông có nghe tôi nói không Göran? Ông phải tìm thấy anh ta.
Đúng lúc đó, Per-Gunnar Pike Gerdin vừa tỉnh giấc, bước ra hiên. Hắn ta gật đầu một cách lịch sự nhưng có phần thận trọng với Chánh Thanh tra Aronsson đang nhìn hắn đầy kích động.
- Tôi tin chắc rằng nạn nhân số ba vừa tìm thấy tôi, - ông nói.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét