Patrick
Süskind
Mùi
Hương
Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016
11
Đúng là ông Baldini có cởi áo khoác tẩm nước hoa đại ra thật nhưng chỉ do thói quen. Đã từ lâu mùi nước hoa đại không cản trở gì ông trong việc ngửi vì đã cả chục năm nay áo ông tẩm mùi này nên ông chẳng còn cảm thấy nó nữa. Ông đã khóa cửa phòng làm việc và đã đòi được yên tĩnh nhưng không ngồi vào bàn viết để nghĩ ngợi và chờ cảm hứng vì ông biết rõ hơn Chénier rằng ông sẽ chẳng có cảm hứng nào cả, vì thật sự ông chưa từng có cảm hứng bao giờ. Đúng là ông đã già và suy nhược, đúng thế, và không còn là một nhà làm nước hoa có tài nữa nhưng ông biết rằng trong đời ông chưa bao giờ là một nhà làm nước hoa giỏi cả.
Bông hồng phương
Nam và Bó hoa thanh nhã của Baldini là ông mua lại của một người bán gia vị xứ
Genua trong một lần người ấy đi qua đây. Những nước hoa khác của ông là những hỗn
hợp biết đã từ lâu. Chưa bao giờ ông sáng tạo một cái gì cả. Ông không phải là
nhà sáng tạo. Ông là người hoàn thành cẩn trọng những mùi đã được ưa thích, như
một đầu bếp lão luyện có được cách nấu ngon, mở một tiệm ăn lớn nhưng không bao
giờ sáng tạo được một món riêng. Toàn bộ trò bịp nào phòng thí nghiệm, nào thí
nghiệm, nào cảm hứng, nào ra vẻ bí mật mà ông làm chẳng qua vì chúng là một phần
của cái hình ảnh chuẩn trong nghề của một Maitre Parfumer et Grantier. Một nhà
làm nước hoa cũng gần như một nhà giả kim, tạo nên phép lạ, người ta muốn thế
mà, được thôi! Chỉ riêng ông biết rằng nghệ thuật của ông cũng chỉ là một nghề
thủ công như mọi nghề khác thôi, và đấy là niềm tự hào của ông. Ông không hề muốn
là nhà sáng chế. Với ông thì sáng chế hết sức đáng nghi, vì nó luôn luôn có ý
nghĩa là phá bỏ lề luật. Ông chẳng hơi đâu mà sáng chế một loại nước hoa mới
cho bá tước Verhamont. Tất nhiên chiều nay ông cũng sẽ không để cho Chénier
thuyết phục mua Amor và Psyche của gã Pélissier. Ông có rồi. Nó nằm kia trong một
lọ thủy tinh nhỏ có nắp được mài trên bàn viết gần cửa sổ. Ông đã mua nó mấy
hôm trước, dĩ nhiên không phải đích thân ông. Làm sao mà ông có thể tự đến gã
Pélissier mua nước hoa được. Phải qua một trung gian, người này lại qua một
trung gian khác. Phải thận trọng chứ. Baldini đâu có định tẩm tấm da bằng nước
hoa đó, chút xíu thế kia thì bõ bèn gì. Ông có ý khác xấu xa hơn: bắt chước!
Thật
ra đâu ai cấm! Chỉ vô cùng không ổn thôi. Lén lút nhái nước hoa của đối thủ rồi
bán dưới tên mình là hết sức không ổn. Nhưng sẽ lại càng không ổn hơn nếu để bị
bắt gặp, chính vì thế mà Chénier không được biết tí gì cả vì ông ta không được
kín miệng.
Ôi,
thật khốn khổ khi một người ngay thẳng buộc phải làm cái việc lươn lẹo! Thảm biết
bao nhiêu khi bôi nhọ cái quý giá nhất của mình là danh dự bằng cái cách đê tiện
như thế! Nhưng ông phải làm gì? Dù sao bá tước Verhamont là một khách hàng mà
ông không thể để mất được. Hầu như ông chẳng còn khách hàng nào cả. Ông vẫn phải
chạy tìm khách hàng đấy chứ. Chẳng khác nào khi ông bắt đầu sự nghiệp hồi đầu
những năm hai mươi bằng cách đi khắp đường phố với một thùng hàng trước bụng.
Có Chúa biết là ông, Giuseppe Baldini, chủ cửa hàng nước hoa lớn nhất Paris, ở
một địa điểm buôn bán tốt nhất, chỉ sống sót qua việc ông đến nhà khách hàng với
một cái rương nhỏ trong tay. Ông chẳng thích thú tí nào với cái việc ấy vì ông
sắp bảy mươi rồi và ghét phải đợi trong tiền sảnh lạnh ngắt để giới thiệu cho
các hầu tước già nước hoa Nghìn hoa và dấm Bốn tên cướp hay thuyết phục họ mua
thuốc xoa trị bệnh nhức nửa đầu. Ngoài ra trong những tiền sảnh này là cả một sự
cạnh tranh kinh tởm. Như cái tay mới phất Brouet ở Rue Dauphine vỗ ngực tự xưng
là có nhiều loại pomát nhất Châu Âu, hay tay Calteau ở Rue Mauconseil xoay sở
được thành người cung cấp nước hoa cho gia đình nữ bá tước Artois, hay gã
Antoine Pélissier ở Rue Saint-André-des-Arts hoàn toàn không thể lường trước được
ấy, mùa nào gã cũng tung ra một loại nước hoa mới mà thiên hạ thích như điên.
Một
thứ nước hoa như thế của Pélissier có thể làm đảo lộn thị trường. Có năm nước hoa Hungari là mốt và Baldini đã phải trữ sẵn hoa oải hương, hoa cam chanh và hoa
cây hương thảo để đáp ứng nhu cầu thì gã Pélissier tung ra Air de Musc (không
khí xạ hương), một thứ nước hoa hết sức nồng mùi hương hươu xạ. Bỗng nhiên ai
cũng phải có mùi như thú vật và Baldini buộc phải chế biến hoa hương thảo thành
nước xoa dầu, còn hoa oải hương thì nhồi vào túi thơm. Rồi khi ông đã đặt mua đủ
lượng hương hươu xạ, cầy hương và hương hải ly cho năm sau, thì Pélissier sáng
chế một loại nước hoa tên là Hoa rừng và gã thành công ngay tức thì. Đến khi
Baldini, sau nhiều đêm thử tới thử lui hay tốn bộn tiền cho hối lộ, cuối cùng
tìm ra Hoa rừng gồm những chất gì thì Pélissier lại chiếm thượng phong với Đêm
Thổ Nhĩ Kỳ hay Hương thơm Lissbon, hoặc Bouquet de la Cours, hoặc có quỷ mới biết
được những gì nữa. Dù sao đi nữa thì với sự sáng tạo không kiềm chế được gã là
một mối đe dọa cho toàn ngành. Ước gì những lề luật khắt khe xưa kia của phường
hội lại được áp dụng. Ước gì có những biện pháp khắt khe đối với những kẻ phá
rào để chống lại sự lạm phát nước hoa. Rút lại giấy phép của gã, phạt nặng nếu
tiếp tục hành nghề… và gã phải học một khóa trước đã! Cái tay Pélissier này
không phải là nhà làm nước hoa và găng tay được đào tạo. Cha gã chỉ là một người
làm dấm và gã cũng chỉ là một tay làm dấm, thế thôi. Và vì làm dấm cho nên được
phép đụng chạm đến rượu cồn cho nên gã mới có thể xâm nhập vào lãnh vực dành
riêng cho giới nước hoa và làm loạn cả lên như một thứ chồn hôi.
Mỗi
mùa một thứ nước hoa mới để làm gì kia chứ? Có cần thiết không? Trước kia người
ta hài lòng với nước hoa đồng thảo và những bó hoa giản dị, cả chục năm mới đổi
chút ít. Suốt hàng nghìn năm con người ta vẫn hài lòng với trầm hương và mật
nhi lạp, một vài loại nhựa thơm, dầu thơm, rau thơm phơi khô. Ngay cả khi con
người ta học được cách dùng bình cổ cong và nồi chưng cất để nhờ hơi nước mà
tách mùi thơm dưới dạng dầu biến thành hơi khỏi cỏ, hoa và gỗ, hoặc ép nó ra từ
hạt, nhân, hoặc vỏ trái cây với những dụng cụ để ép bằng gỗ sồi, hay chiết nó
ra từ cánh hoa bằng mỡ đã được lọc cẩn thận thì số lượng nước hoa vẫn còn khiêm
nhường. Thuở ấy thì một gã như Pélissier đừng hòng giở trò vì lúc bấy giờ chỉ để
làm ra một thứ pomát đơn giản thôi đã cần phải có những khả năng mà cái gã làm dấm
giả kia không dám mơ tới. Anh không chỉ biết có chưng cất mà còn phải là người
làm thuốc mỡ, nhà bào chế, nhà giả kim, đồng thời là một nghệ nhân, nhà buôn,
nhà nhân văn học và người làm vườn. Anh phải phân biệt được mỡ cừu với mỡ bê,
cây đồng thảo Victoria với cây đồng thảo ở Parma. Anh còn phải biết tiếng La
tinh. Anh phải biết khi nào thì gặt cây hướng nhật quy, khi nào cây quỳ thiên
trúc nở hoa và khi nào hoa nhài mất thơm khi mặt trời mọc. Tất nhiên gã
Pélissier chẳng biết tí gì về những cái ấy. Có lẽ gã chưa bao giờ ra khỏi Paris
và chưa từng thấy hoa nhài nở trong đời gã. Nói chi tới biết phải làm cật lực
khủng khiếp để vắt được từ trăm nghìn bông hoa nhài một cục nhỏ Concrète (cô đặc)
hay vài giọt Essence absolute. Có lẽ gã chỉ biết cái chót, có nghĩa là biết hoa
nhài như một chất lỏng đậm đặc nâu sậm trong cái lọ nhỏ để trong tủ sắt, cạnh
nhiều lọ nhỏ khác mà gã vẫn dùng để pha những nước hoa thành mốt của gã. Không,
một tay như gã sẽ chẳng làm được trò trống gì trong cái thời nghệ nhân ra nghệ
nhân ngày trước. Bởi vì gã thiếu đủ thứ: cá tính, học vấn, sự tri túc và ý thức
về sự khép mình trong phường hội. Sự thành công của gã về nước hoa hoàn toàn dựa
vào một sáng kiến phát huy cách đây hai trăm năm của Mauritius Frangipani - một
người Ý thiên tài - rằng hương liệu hòa tan trong rượu tinh cất. Trộn bột thơm
với rượu tức là Frangipani đã chuyển mùi thơm sang chất lỏng dễ bay hơi, tách
mùi thơm khỏi vật thể, siêu trần hóa mùi thơm, biến thành mùi thơm thuần túy,
nói gọn là ông ta đã tìm ra nước hoa. Thật là một kỳ công! Một thành tựu có
tính thời đại! Đúng là chỉ có thể so sánh với những thành quả vĩ đại của loài
người như sáng tạo ra chữ viết của người Assyria, hình học Euclide, tư tưởng
Platon và sự biến thái của nho sang rượu vang của người Hy lạp! Một kỳ công thật
vô tiền khoáng hậu!
Tuy
nhiên cũng như mọi kỳ tích trí tuệ khác không chỉ rọi sáng mà còn phủ bóng tối,
đem lại cho nhân loại lợi ích lẫn phiền muộn và khốn khổ thì phát kiến tuyệt vời
của Frangipani tiếc thay cũng có hậu quả tai hại: bởi vì nay khi anh học được
cách giữ cái tinh túy của hoa, của cỏ, của gỗ cũng như của nhựa cây và của thú
vật trong rượu tinh chất, và cách đóng vào chai thì nghệ thuật chế biến nước
hoa cứ vuột dần khỏi tay một số người trong nghề có khả năng bao quát, để cho bọn
khoác lác len lỏi vào, miễn là chúng có được cái mũi tạm gọi là nhậy, cái gã chồn
hôi Pélissier này chẳng hạn. Chẳng bận tâm xem bằng cách nào có được cái chất
tuyệt vời trong các lọ con, gã cứ một mực theo ý thích của khứu giác, trộn cái
gã vừa nghĩ ra hoặc cái mà thiên hạ đang muốn.
Chắc chắn là gã chó đẻ Pélissier này tuy mới ba mươi
lăm tuổi mà đã có một gia tài lớn hơn của ông, Baldini, tích lũy được trong suốt
ba đời không ngừng làm việc vất vả. Và mỗi ngày gã một thêm giàu còn ông thì cứ
nghèo đi. Ngày trước làm gì có thể như thế được! Chỉ mới vài chục năm nay mới
có chuyện một nghệ nhân tăm tiếng đồng thời là một commercant (nhà buôn) có uy
tín phải đấu tranh vật lộn để tồn tại! Chỉ từ khi mà thói đam mê sự mới lạ một
cách quá trớn bùng ra khắp nơi và trong mọi lãnh vực thì mới sinh ra cái trò
tha hồ xông xáo, cái trò thí nghiệm điên cuồng, cái thói thèm khoe mẽ này trong
buôn bán, giao thông và khoa học!
Hay
là cái trò say mê vận tốc! Đường xá đào bới khắp nơi để làm gì, những cây cầu mới
nữa, để làm gì? Lợi lộc gì nếu đi từ đây đến Lyon chỉ mất có một tuần. Ai thích
mới được chứ? Cho ai? Hay là vượt Đại Tây Dương, phóng sang châu Mỹ trong một
tháng, làm như thể nghìn năm qua người ta sống không nổi vì không có cái châu ấy.
Con người văn minh đã đánh mất gì trong rừng già của người da đỏ hay nơi bọn da
đen? Họ còn đi đến cả Lappland tuốt trên phía Bắc muôn đời băng giá, nơi bọn mọi
rợ ăn thịt sống nhăn. Rồi họ còn muốn tìm một châu nữa nghe đâu ở nam Thái Bình
Dương, nghĩa là ở tận đâu đâu. Cái trò điên khùng ấy để làm gì? vì rằng những bọn
khác cũng làm như thế, bọn Tây Ban Nha, bọn Anh trời đánh, bọn Hà Lan vô liêm sỉ,
rồi thì sẽ phải đánh nhau thôi, mà cái này thì không kham nổi. Một cái tàu chiến
cũng phải đến 300.000 livres, từ thuế anh đóng, chỉ cần trúng một quả đại bác
là sẽ chìm ngay trong năm phút, chìm vĩnh viễn. Mới đây ngài bộ trưởng tài
chính đòi thu thuế tới một phần mười thu nhập, có nghĩa là sẽ đưa anh đến phá sản,
bấy nhiêu cũng đủ làm anh nản chí rồi, dù không trả đi chăng nữa.
Nỗi
bất hạnh của con người xảy đến vì anh không chịu ở yên trong cái phòng của anh,
Pascal nói thế. Mà Pascal là một vĩ nhân, một Frangipani của trí tuệ, xét cho
cùng là một nghệ nhân thật sự, và một người như thế này ngày nay chẳng ai cần đến
nữa. Bây giờ người ta đọc những sách gây bạo động của bọn Hugenot, [tên gọi những
người theo đạo Tin lành ở Pháp vào thế kỷ 16], hay bọn Anh. Hoặc là họ viết luận
văn hay những cái gọi là tác phẩm khoa học vĩ đại đặt lại không chừa một vấn đề
nào. Không còn gì là đúng nữa cả, mọi sự bỗng chốc khác đi. Mới đây họ lại bảo
rằng có những vật vô cùng nhỏ, trước không hề thấy, bơi trong ly nước, rằng
giang mai là một bệnh cũng bình thường chứ không phải là sự trừng phạt của Chúa
nữa, cũng như không phải Chúa đã khai thiên lập địa trong bảy ngày mà suốt cả
triệu năm và chắc gì đã là Chúa; rằng bọn mọi rợ cũng là người như chúng ta hay
chúng ta không biết cách dạy dỗ con cái, và trái đất không còn tròn trịa cho tới
nay mà dẹt ở trên và ở dưới như trái dưa, làm như khác biệt ghê gớm lắm! Trong
mỗi một lãnh vực họ đều đặt vấn đề, đào sâu, nghiên cứu, soi mói và thử lung
tung cả. Bây giờ chỉ nói cái ấy cái nọ là như thế này, như thế kia là không còn
đủ nữa; mọi sự phải được chứng minh, tốt nhất là có người chứng vào số liệu
cũng như vài thí nghiệm vớ vẩn nào đó. Những kẻ viết lách như Diderot,
d’Alembert, Voltaire, Rousseau hay tên là gì cũng vậy thôi, trong đó có cả các
ngài cố đạo và quý tộc nữa chứ, đã băn khoăn một cách xảo trá, đã thích thú
hoàn toàn khi không chịu chấp nhận hay vừa lòng với mọi chuyện trên đời, nghĩa
là đầu óc họ hỗn loạn không cùng. Thế mà họ đã đầu độc được toàn xã hội những
điều như thế đấy!
Nhìn
đâu cũng thấy cuồng nhiệt. Người ta đọc sách, kể cả phụ nữ. Cố đạo la cà trong
quán cà phê. Vậy mà khi cảnh sát ra tay, tống một trong những tên trùm vô lại
nói trên vào ngục thì giới xuất bản gào toáng lên, đưa thư thỉnh nguyện và những
ông những bà quyền qúy nhất sẽ dùng ảnh hưởng của họ để sau một vài tuần hắn được
thả ra hay cho ra nước ngoài để rồi hắn chẳng ngại ngùng mà không tiếp tục viết
những luận văn như thế. Trong các phòng khách người ta chỉ toàn tán gẫu về quỹ
đạo của sao chổi và các chuyến thám hiểm, về đòn bẩy và Newton, về xây kênh
đào, về sự tuần hoàn của máu, và về đường kính của quả đất.
Ngay
đến Đức Vua cũng vừa ngự lãm một sự vớ vẩn vừa thành mốt, một thứ sấm sét nhân
tạo gọi là điện: trước toàn thể triều đình, một gã cọ xát vào một cái chai, lửa
tóe ra và nghe đâu đã gây cho Hoàng thượng một ấn tượng sâu sắc. Không thể nào
hình dung ra được rằng cụ cố của Ngài, Đức vua Louis thật sự lỗi lạc mà Baldini
có diễm phúc được sống nhiều năm dưới sự trị vì đầy ân đức, lại cho phép giới
thiệu cái trò lố bịch đó trước mắt Ngài! Nhưng mà thời đại mới thì quan tâm mới
và rồi mọi sự sẽ kết thúc bất hạnh mà thôi!
Và
khi người ta có thể không ngần ngại hồ nghi một cách láo xược nhất quyền uy của
Giáo hội, khi mà người ta nói về nền quân chủ, cái này cũng là do ý Chúa mà ra,
và về cá nhân Hoàng thượng thiêng liêng như thể chỉ là hai thứ có thể thay đổi
trong cái danh mục các thể chế có thể chọn lựa tùy thích, khi mà người ta đã sa
đọa đến nỗi coi cả Chúa, coi chính đấng Toàn năng là không cần thiết và long trọng
tuyên bố rằng không có Người thì kỷ cương, đạo đức và hạnh phúc trên trái đất vẫn
hình thành được, hoàn toàn do nhân cách bẩm sinh và lý trí của chính con người…
thì lạy Chúa, lạy Chúa, người ta đừng ngạc nhiên khi trên dưới lộn tùng phèo, đạo
đức suy đồi, và sẽ hứng chịu sự trừng phạt của chính Ngài mà họ đã chối bỏ. Rồi
sẽ kết thúc khốn khổ thôi! Cái sao chổi khổng lồ năm 1681, mà họ chế nhạo rằng
chẳng phải gì khác ngoài một đống tinh vân, thật ra là một dấu hiệu cảnh tỉnh của
Chúa vì nó đã báo trước một thế kỷ suy tàn, băng hoại, rằng loài người rồi sẽ tự
chôn vùi trong vũng bùn tinh thần, chính trị và tôn giáo mà họ tự gây ra, và
trong đống bùn đó chỉ còn những loại hoa hôi rình lòe loẹt như gã Pélissier kia
phát triển, quả y như rằng.
Đứng
bên cửa sổ ông Baldini già nua cau có nhìn dòng sông, tránh tia nắng tà. Những
tàu hàng đột ngột nhô lên dưới chân ông, chậm chạp đi về phía Tây, hướng Pont
Neuf và bến cảng phía trước khu trưng bày tranh Louvre. Không tàu nào chống sào
đi ngược dòng tại đây, họ chọn nhánh sông bên kia hòn đảo. Ở nhánh sông này chỉ
có trôi đi tàu có hàng cũng như tàu không có hàng, xuồng chèo bằng mái và những
thuyền đáy bằng của dân chài, nước nâu dơ bẩn cũng như xoáy nước màu vàng, tất
cả trôi đi, chậm chạp, cùng khắp, không ngừng. Và khi Baldini nhìn chúc xuống
dưới, sát với tường nhà thì thấy như thể dòng nước cuốn đi cái móng của cây cầu
làm ông chóng mặt.
Mua
cái nhà trên cầu này là một sai lầm, chọn cái nhà ở phía tây là một sai lầm gấp
đôi. Giờ thì ông có trước mắt cái dòng sông không ngừng chảy đi và ông chợt
nghĩ rằng chính ông, ngôi nhà của ông và sự giàu có ông kiếm được trong hàng chục
năm cũng trôi đi như dòng sông mà ông thì quá già và quá yếu để cản cái sức chảy
mãnh liệt kia. Thỉnh thoảng khi có việc bên bờ trái, quanh cái khu Sorbonne hay
Saint-Sulpice, ông không đi ngang hòn đảo và Pont Saint-Michel mà chọn con đường
vòng qua Pont Neuf vì trên cầu này không xây nhà, rồi ông tựa thành cầu phía
đông nhìn về phía thượng lưu để được thấy ít nhất một lần mọi thứ trôi về phía
ông, để được đắm mình giây lát trong sự
tưởng tượng rằng chiều hướng của đời ông đã thay đổi và làm ăn phát đạt, gia
đình thịnh vượng, phụ nữ chạy theo ông và sản nghiệp của ông, thay vì hao mòn dần,
cứ lớn thêm mãi.
Nhưng
rồi khi ngước lên chỉ một chút thôi, ông thấy cách đó vài trăm mét ngôi nhà của
ông ọp ẹp và cao nghệu trên Pont au Change, thấy phòng làm việc của ông trên tầng
một, thấy cả ông đứng đó nhìn xuống dòng sông, quan sát làn nước trôi đi như
lúc này đây. Và thế là giấc mơ đẹp tan biến, chỉ còn Baldini đứng trên Pont
Neuf, quay đi, nản lòng hơn trước, nản lòng như lúc này đây khi ông rời khỏi cửa
sổ, ngồi vào bàn viết.
12
Trước mặt ông là lọ nước hoa của Pélissier. Cái chất lỏng nâu vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời, trong không gợn một tí vẩn đục nào. Trông vô tội vạ như nước trà nhạt vậy mà ngoài bốn phần năm cồn còn một phần năm cái hỗn hợp đầy bí mật có thể làm cả một thành phố náo động. Mặt khác cái hỗn hợp này có lẽ hình thành bởi ba hoặc ba mươi chất khác nhau, được pha trộn với một tỉ lệ nhất định trong không biết bao nhiêu khả năng. Đó là cái hồn của nước hoa, nếu như người ta có thể nói tới hồn ở nước hoa của cái tay lái buôn lạnh lùng Pélissier được; phải tìm cho ra thành phần của nó.
Baldini
hỉ mũi thật kỹ rồi buông mành cửa sổ xuống vì ánh nắng mặt trời trực tiếp không
tốt cho mọi hương liệu và làm giảm độ tinh khiết của mùi. Ông lấy từ trong ngăn
kéo bàn viết một cái khăn sạch, màu trắng rồi giở ra. Đoạn nhẹ nhàng vặn nắp để
mở cái lọ con. Trong lúc đó ông ngả hẳn đầu ra phía sau và bịt mũi lại, vì, lạy
Chúa, ông không muốn có một ấn tượng vội vàng thẳng từ cái lọ. Phải ngửi nước
hoa từ trạng thái hơi thăng hoa chứ không bao giờ đậm đặc. Ông vẩy vài giọt vào
cái khăn, ve vẩy trong không khí để xua
cồn đi rồi đặt vào mũi. Ông hít ba lần mạnh và ngắn cái mùi ấy vào trong
người như hít bột, rồi thở phù ra ngay, quạt mấy cái, hít thở như thế lần nữa
và cuối cùng hít một hơi thật dài và thở ra chầm chậm nhiều đợt như thể thả cho
nó trượt trên một cầu thang thoai thoải. Ông ném cái khăn lên bàn rồi ngả người
vào lưng ghế.
Cái
nước hoa thơm một cách đáng ghét. Tay Pélissier khốn kiếp này chẳng may có bản
lĩnh thật. Một bậc thầy, xin Chúa tha tội, cho dù gã vô học gấp nghìn lần đi nữa!
Baldini ước chi cái Amor và Psyche này là của ông. Không một chút gì tầm thường.
Hoàn toàn quen thuộc, trọn vẹn và hài hòa. Tươi mát mà không mê hoặc. Là hoa
nhưng lại không nhờn. Nó có chiều sâu, một chiều sâu nâu sậm, tuyệt diệu, dài
lâu, thừa thãi nhưng không quá độ hay cường điệu.
Baldini
đứng lên gần như kính cẩn, đặt khăn lên mũi lần nữa. “Tuyệt vời, tuyệt vời…”,
ông lẩm bẩm và hít lấy hít để, “nó có cái gì vui tươi, dễ thương như thể một điệu
nhạc, nó làm cho vui vẻ… Vớ vẩn, vui với vẻ!”. Rồi ông tức giận ném khăn lên
bàn, quay đi, tới cái góc xa nhất phòng, như thể xấu hổ về sự say mê của mình.
Để bị
lôi cuốn vào những lời tán dương như vậy thì thật khôi hài! “Như một điệu nhạc.
Vui tươi. Tuyệt vời. Vui vẻ” - Vớ vẩn! Rõ trẻ con! Lại vẫn ấn tượng nhất thời.
Lại phạm sai lầm cũ. Hẳn là do tính khí. Chắc vì có mang dòng máu Italy trong
người. Đừng phán đoán trong lúc đang ngửi. Đó là nguyên tắc thứ nhất. Baldini ạ,
đồ con lừa già! Ngửi cho ra ngửi rồi phán đoán sau khi ngửi xong! Amor và
Psyche không dở. Một sản phẩm thành công hoàn toàn. Một thứ khéo che đậy. Nếu
không nói là đồ bịp. Không thể chờ đợi gì hơn ngoài sự bịp bợm ở một gã như
Pélissier. Dĩ nhiên một gã như Pélissier đâu có sản xuất ra nước hoa rẻ tiền.
Tên vô lại này bịp hết sức tinh vi bằng cách làm rối loạn khứu giác với một sự
hài hòa tuyệt diệu; gã là một con sói đội lốt cừu trong nghệ thuật mùi thơm,
nói tóm lại, một tên khả ố có tài. Và như thế còn tệ hơn cả một kẻ làm ăn cẩu
thả nhưng thành thật.
Nhưng
còn mi, mi sẽ không để bị lừa bịp. Mi chỉ bị cái ấn tượng đầu tiên về cái đồ giả
đó làm cho ngạc nhiên mất một lúc thôi. Ai biết được một giờ nữa nó có mùi gì,
khi mà những chất bay hơi biến hết cả, trơ ra cái khung? Hay là tối nay, khi chỉ
còn những thành phần nặng, sẫm màu chứ bây giờ như thể trong lúc tranh tối
tranh sáng, mùi chúng bị che bởi cái mùi dễ chịu của tấm màn dệt bằng hoa? Cứ
chờ đi, Baldini ạ!
Nguyên
tắc thứ hai dạy rằng nước hoa sống trong thời gian, nó có thời trẻ, thời trưởng
thành và lúc già. Chỉ khi nào nó tỏa mùi dễ chịu như nhau trong cả ba giai đoạn
sống của nó thì mới được gọi là đạt. Đã bao lần cái hỗn hợp ta trộn tươi mát
tuyệt vời qua lần thử thứ nhất, sau ít lâu có mùi trái cây thối và sau chót chỉ
có mùi kinh tởm của xạ cầy hương nguyên chất mà ta đã cho quá nhiều. Phải rất
thận trọng với xạ cầy hương! Quá một giọt sẽ dẫn đến tai họa ngay. Thường hay
sai lầm là vì thế. Có thể, phải, rất có thể Pélissier đã dùng quá nhiều xạ cầy
hương? Đến tối nay biết đâu cái Amor và Psyche đầy tham vọng của gã chỉ còn là
một chút nước đái mèo? Rồi ta sẽ thấy.
Ta sẽ ngửi nó. Như một lưỡi búa sắc chặt tảng gỗ thành
từng mảnh nhỏ, mũi ta cũng phân nước hoa của gã thành từng phần riêng. Rồi sẽ
thấy rằng cái có vẻ như mùi thơm thần diệu này chỉ được tạo ra bằng cách hết sức
quen biết thông thường. Ta, Baldini, nhà làm nước hoa sẽ vạch thủ đoạn xảo trá
của gã làm dấm Pélissier. Ta sẽ lột mặt nạ để lộ ra cái chân tướng xấu xa của
gã, để chứng tỏ cho người mới vào nghề biết trường phái truyền thống có khả
năng gì. Cái nước hoa đang là mốt của gã sẽ được trộn y hệt. Nó sẽ sinh ra từ
tay ta, nhái hoàn hảo đến nỗi tên vô liêm sỉ kia không thể phân biệt nổi với thứ
của gã. Không! Như thế chưa đủ! Ta sẽ làm tốt hơn! Ta sẽ chứng minh cho gã thấy
chỗ dở, rồi loại đi, bằng cách đó bảo cho gã biết ngươi là một tay cẩu thả,
Pélissier ạ! Ngươi là đồ hôi thối, một tên mới phất trong nghề làm nước hoa chứ
chẳng là gì khác!
Bắt
tay vào việc đi, Baldini! Giữ mũi cho nhậy và đừng để tình cảm chi phối khi
đang ngửi! Hãy phân cái mùi ra theo nguyên tắc của nghệ thuật! Đến tối nay mi
phải có được công thức.
Thế
là ông ta đâm bổ lại bàn viết, lấy giấy mực và một khăn sạch ra, đặt ngay ngắn,
rồi bắt đầu cái công việc phân tích. Việc ấy như sau: ông sẽ kéo nhanh cái khăn
thấm nước hoa ngang mũi, tránh không để bị cái hỗn hợp phức tạp nọ làm lạc hướng,
tìm cách nắm bắt trong cái đám mây mùi thơm thoảng qua một thành tố nào đó, rồi
duỗi thẳng tay giữ khăn thật xa, ghi lại thật nhanh tên cái thành tố vừa tìm thấy,
rồi lại kéo nhanh khăn ngang mũi, chộp một thành tố nữa và cứ như thế.
13
Ông làm việc suốt hai giờ liền. Các động tác cứ hối hả hơn, chữ nguệch ngoạc trên giấy cứ cẩu thả hơn, lượng nước hoa vẩy trên khăn để đặt lên mũi cứ nhiều hơn.
Giờ
thì ông không còn ngửi thấy gì nữa cả, những chất bay hơi ông hít vào đã làm
mũi ông tê đi từ lâu rồi, đến nỗi không có thể nhận ra được những gì ông tin là
đã được phân tích chính xác lúc đầu. Ông biết rằng ngửi tiếp là vô ích. Ông sẽ
không bao giờ tìm ra cái nước hoa mốt mới này được cấu thành như thế nào, hôm
nay chắc chắn không rồi, ngày mai cũng sẽ thế thôi cho dù cái mũi ông, nhờ ơn
Chúa, bình thường lại. Ông chưa từng học cách phân tích bằng cách ngửi thế này.
Phân một mùi thơm, một toàn thể, dù nó được trộn khéo hay không, ra thành từng
mảng, đối với ông là một việc chán ngắt. Ông không thích. Ông không muốn nữa.
Nhưng
tay ông như cái máy, vẫn làm cái động tác mềm mại đã được tập cả nghìn lần: thấm
nước hoa vào cái khăn, rũ, phe phẩy ngang mặt rồi, cũng như cái máy, cứ mỗi lần
phe phẩy lại hít nhanh một chút không khí đẫm mùi thơm, nhả ra đúng cách… nghĩa
là từ từ. Ngửi cho đến lúc cái mũi giải thoát ông khỏi cực hình bằng cách sưng
tấy từ bên trong do dị ứng và nghẹt lại như thể bị nút lại bằng sáp. Giờ thì
ông không ngửi gì được nữa cả, thở cũng không nổi. Cái mũi bị đóng chặt như bị
cảm nặng và trong khóe mắt ông rơm rớm lệ. Lạy Chúa cả trên trời! Giờ thì ông
có thể chấm dứt mà không áy náy. Ông đã làm tròn bổn phận mình, làm hết sức,
theo đúng mọi nguyên tắc trong nghề và lại vẫn thất bại như mọi lần. Ultra
posse nemo obligatur [không ai bị bắt buộc làm quá khả năng (tiếng La
tinh)]. Sáng sớm mai
ông sẽ cho người tới gã Pélissier mua một lọ nước hoa Amor và Psyche để tẩm tấm
da quý cho bá tước Verhamont như đã được đặt làm. Rồi ông sẽ xách cái rương nhỏ
đựng xà bông lỗi thời, túi xạ, pomát, và túi bột thơm tìm tới các bà hầu tước
già. Rồi đến một ngày mà các bà hầu tước già cuối cùng nhắm mắt thì ông cũng mất
người khách hàng cuối cùng. Lúc ấy ông cũng lọm khọm và sẽ phải bán nhà, cho
Pélissier hay một tay lái buôn mới phất nào đấy, có thể được vài ngàn livre. Rồi
sẽ thu xếp một hai cái rương, cùng với bà vợ già của ông về lại Italia, nếu lúc
ấy bà còn sống. Và nếu ông sống sót về được đến Italia sau chuyến đi, ông sẽ
mua một căn nhà nhỏ ở vùng quê Messina cho rẻ. Rồi ông, Giuseppe Baldini - một
thời là nhà làm nước hoa vĩ đại nhất Paris - sẽ qua đời ở đó, khi nào Chúa muốn,
trong nghèo đói cùng cực. Thế cũng hay.
Ông
nút lọ nước hoa lại, buông bút và lau
trán lần cuối với cái khăn tẩm nước hoa. Ông chỉ còn cảm thấy cồn bốc hơi, thế
thôi. Ngoài kia mặt trời đang lặn.
Baldini
đứng dậy, kéo rèm cửa sổ và ông ngập tới gối trong nắng chiều, rực lên như thể
một ngọn đuốc còn âm ỉ. Ông nhìn cái đường viền đỏ thẫm của mặt trời phía sau
Louvre và cái ánh lửa nhạt trên những mái nhà lợp đá phiến. Phía dưới ông dòng
sông ánh lên như vàng, tàu bè đã biến mất cả. Hình như có gió vì mặt nước gợn
lên như vẩy cá, chỗ này chỗ nọ lấp lánh, mỗi lúc một nhiều hơn, như có một bàn
tay khổng lồ rải hàng triệu đồng Louis vàng xuống nước và trong một khoảnh khắc
dòng sông như thể đổi chiều, trôi về phía Baldini, cuồn cuộn vàng ròng.
Đôi
mắt Baldini ướt và buồn. Ông đứng lặng một hồi lâu, ngắm bức tranh tuyệt diệu.
Chợt ông giật mạnh cửa sổ, mở tung hai cánh và ném cái lọ nước hoa của
Pélissier lên cao theo hình cánh cung ra ngoài. Ông thấy nó rơi tõm xuống nước
và trong một thoáng xé toang cái tấm thảm óng ánh.
Khí
mát lùa vào phòng. Baldini hớp lấy hơi và nhận ra mũi không còn bị tấy nữa. Đoạn
ông khép cửa sổ. Đêm xuống gần như cùng lúc ấy và thật bất chợt. Cái bức tranh
óng ánh vàng của thành phố và dòng sông đông cứng lại thành cái bóng xám tro.
Căn phòng thoắt trở nên tối. Baldini lại đứng như lúc nãy, nhìn sững qua cửa sổ.
“Sáng mai ta sẽ không sai ai đến Pélissier cả”, ông nói, hai bàn tay bám lưng
ghế. “Ta sẽ không làm thế. Ta cũng sẽ không tìm đến các bà hầu tước già. Mà
sáng mai ta sẽ đến công chứng viên để bán nhà và cửa tiệm. Ta sẽ làm như thế. E
basta!”. [đủ rồi (tiếng La tinh)]
Ông
có vẻ mặt thách thức như của một thằng bé và chợt thấy rất hả hê. Ông lại là
Baldini xưa kia, một Baldini trẻ, gan góc và cương quyết như thuở nào, thách thức
số phận, cho dù sự thách thức lần này chỉ là bỏ cuộc. Đã sao nào! Không làm gì
khác được. Thời buổi túng cùng không cho phép chọn lựa. Chúa cho thời khấm khá
lẫn thời khó khăn và Người không muốn ta kêu ca, than khóc lúc khó khăn mà hiên
ngang vượt qua. Và Người đã báo trước rồi. Cái ảo ảnh vàng, đỏ như máu của
thành phố là một cảnh cáo đấy: hành động đi, Baldini, trước khi quá muộn! Nhà của
mi còn vững, kho của mi còn đầy, mi còn có thể đạt được giá hời cho cái cửa tiệm
xuống dốc. Mi còn tự định đoạt được. Cứu cánh của đời mi không phải là dưỡng
già, sống khiêm tốn ở Messina nhưng như thế vẫn danh dự hơn và hợp ý Chúa hơn
là tàn lụi huy hoàng ở Paris. Cái lũ như Brouet, Calteau và Pélissier cứ việc
reo hò chiến thắng. Giuseppe Baldini này nhường trận địa. Nhưng do ông tự nguyện
chứ không vì khiếp nhược!
Ông
khá tự hào với chính mình. Nhẹ nhõm biết mấy. Lần đầu tiên từ nhiều năm nay cái
chứng cứng gân vẫn làm cho căng gáy và hai vai ngày một còng thêm chợt biến khỏi
lưng ông, ông đứng thẳng người mà không phải gắng sức, hết đau, thoải mái và
vui sướng. Ông hít nhẹ. Ông cảm nhận rất rõ mùi của Amor và Psyche đầy trong
phòng, nhưng không để nó quấy rầy nữa. Baldini đã thay đổi đời ông và cảm thấy
tuyệt vời. Ông sẽ lên gặp vợ ngay bây giờ, cho bà biết những quyết định của ông
rồi sẽ hành hương sang Notre Dame để thắp một ngọn nến cám ơn Chúa đã chỉ đường
và đã ban cho ông cái cá tính cương quyết không ngờ.
Với
một sự sôi nổi gần như của một thanh niên, ông chụp bộ tóc giả lên cái đầu hói,
khoác cái áo choàng xanh, cầm ngọn nến trên bàn, rời phòng làm việc. Ông vừa mới
châm nến vào cái đèn đốt bằng mỡ ở cầu thang để soi lối lên lầu thì nghe tiếng
chuông dưới tầng trệt. không phải tiếng ngân nga của chùm chuông Ba Tư treo ở cửa
tiệm mà là tiếng lách cách ở cổng ra vào của người làm, một thứ tiếng khó chịu
vẫn làm ông bực mình. Ông vẫn muốn gỡ nó đi, thay bằng một cái chuông khác cho
dễ chịu song thấy tốn kém nên lại thôi; bây giờ thì mặc kệ, ông sẽ bán cái
chuông phá rầy này cùng với cái nhà. Mặc cho người ở sau bực mình! Ông chợt
nghĩ và cười khúc khích.
Cái
chuông lại kêu lách cách. Ông lắng nghe phía dưới. Chắc là ông Chénier đã đi rồi.
Cả cô người làm cũng chẳng thấy rục rịch. Thế là Baldini tự xuống mở cổng.
Ông
kéo then, đẩy cánh cửa nặng trịch; chẳng thấy gì cả. Bóng tối nuốt chửng ánh nến.
Mãi ông mới nhìn ra một hình dạng nhỏ thó, một đứa con nít hay một thằng nhỏ thấp
bé, ôm gì đó ở trong tay.
- Mày
muốn gì?
- Maitre
Grimal sai tôi đem tới bộ da lừa, - cái hình dạng nọ đáp, bước lại gần và chìa
cho Baldini cái cánh tay co lại, trên có vắt mấy tấm da chồng lên nhau. Trong
ánh nến Baldini nhận ra khuôn mặt một thằng nhỏ với đôi mắt sợ hãi, láo liên.
Nó đứng lom khom như thể nép mình sau cánh tay, giống như một đứa đang chờ bị
đánh. Nó chính là Grenouille.
14
Da lừa để tẩm nước hoa! Baldini sực nhớ. Mấy bữa trước ông đã đặt Grimal cung cấp loại da giặt được mềm nhất, mịn nhất để lót bàn viết cho bá tước Verhamont, mỗi miếng mười lăm quan. Nhưng bây giờ thì thật ra ông không cần đến nữa, ông có thể tiết kiệm được món tiền này. Mặt khác, nếu ông bảo thằng nhỏ quay về...? Biết đâu... có thể gây ấn tượng không tốt; người ta sẽ bàn tán rồi thì đồn đại rằng Baldini không được đặt hàng nữa rồi, Baldini không thể thanh toán nổi nữa... và như thế thì không tốt, không, không; như thế biết đâu chẳng làm giảm giá bán cửa tiệm. Tốt hơn là cứ nhận cái chỗ da lừa vô ích này. Chưa phải lúc để thiên hạ biết rằng Giuseppe Baldini này đã thay đổi đời hắn.
- Vào
trong này!
Ông
để nó vào và cả hai đi sang cửa tiệm, Baldini cầm nến đi trước, Grenouille theo
sau với đống da. Đây là lần đầu Grenouille bước vào một tiệm nước hoa, ở đây
mùi không phải là thứ phụ thuộc mà ngang nhiên đứng ngay giữa trung tâm của sự
chú ý. Dĩ nhiên nó biết mọi cửa tiệm nước hoa và thuốc trong thành phố, nó đã từng
đứng hàng đêm trước các cửa kính, gí mũi vào khe cửa. Nó biết hết mọi thứ nước
hoa bán ở đấy và thường tự nghĩ ra trong đầu nó những nước hoa tuyệt vời nhất.
Nó không chờ đợi gì mới cả. Nhưng hệt như một đứa bé giàu năng khiếu âm nhạc,
nôn nóng được thấy thật gần một dàn nhạc, hay được một lần leo lên chỗ ban đồng
ca trong nhà thờ, tới chỗ giàn phím của đại phong cầm, Grenouille nôn nóng muốn
được xem một tiệm nước hoa từ bên trong, nên khi nghe nói có da phải mang lại
cho Baldini thì nó tìm đủ cách để được giao việc ấy.
Và
giờ đây nó đứng trong tiệm của Baldini, một nơi chứa nhiều hương liệu nhà nghề
nhất của Paris trong một khoảng không gian hẹp nhất. Nó không thấy được nhiều
trong cái ánh nến thoáng qua, chỉ thoáng thấy bóng của cái quầy có để cái cân,
hai con cò trên cái chậu, một ghế bành cho khách, những tấm kệ sẫm trên tường,
cái ánh lóe lên của dụng cụ bằng đồng thau, nhãn ghi màu trắng dán trên những lọ
thủy tinh và hũ sành, và nó cũng không ngửi thấy gì hơn những gì đã ngửi thấy
ngay từ ngoài đường. Nhưng nó cảm thấy ngay sự trang trọng trong các phòng, có
thể nói được là một sự trang trọng thiêng liêng, nếu cái từ “thiêng liêng” đối
với Grenouille có được một ý nghĩa nào. Nó cảm thấy sự trang trọng lạnh lùng,
tính thực tế của nghề thủ công và cái đầu óc kinh doanh khô khan bám chặt vào mỗi
bàn ghế, mỗi dụng cụ, bám vào những bồn, những chai và những nồi nấu. Vì
Baldini chẳng hơi đâu bận tâm soi đường cho nó, nên nó phải lẽo đẽo trong cái
bóng của ông, đột nhiên nó tin rằng nó thuộc về đây chứ không đâu khác, rằng nó
sẽ ở lại đây và từ đây nó sẽ làm rung chuyển thế giới.
Dĩ
nhiên ý nghĩ rõ ràng không khiêm tốn và lố bịch. Không có gì, và thật sự chẳng
có tí gì cho phép một thằng nhỏ phụ việc thuộc da lang thang, nguồn gốc mờ ám,
không bà con hay người bảo trợ, chẳng có chút địa vị đáng kể nào lại có lý do
chính đáng để hy vọng được làm việc vững vàng trong cái tiệm bán nước hoa nổi
tiếng nhất Paris, huống chi việc giải thể của tiệm đã được quyết định rồi, như
chúng ta đã biết. Nhưng ở trong cái ý nghĩ không khiêm tốn của Grenouille thì
đó không phải là hy vọng mà là chắc chắn. Nó biết sẽ chỉ rời khỏi cái tiệm này
để về chỗ Grimal lấy quần áo, rồi không bao giờ rời nữa. Con bọ chét đã ngửi thấy
máu. Nó đã nằm im hàng năm rồi thu kín mình và chờ đợi. Bây giờ nó buông mình
rơi xuống, không mảy may hy vọng, cùng lắm là chết. Không còn cách nào khác.
Chính vì thế mà nó hết sức chắc chắn.
Cả
hai đã đi sang cửa tiệm. Baldini mở cái phòng sau nằm phía sông được dùng vừa
làm nhà kho vừa làm xưởng và phòng thí nghiệm, nơi nấu xà bông, khuấy pomát và
trộn nước hoa trong những lọ cong.
- Đây!
- ông nói và chỉ một cái bàn to trước cửa sổ, - Để xuống đấy!
Grenouille
bước ra khỏi bóng của Baldini, đặt đống da lên bàn rồi nhảy vội trở lại, đứng
giữa Baldini và cái cửa. Baldini còn đứng thêm một lúc nữa. Ông đưa nến qua một
bên để khỏi nhỏ xuống bàn rồi dùng sống ngón tay vuốt mặt láng miếng da. Rồi
ông lật ngược tấm trên cùng và lướt nhẹ trên cái mặt như nhung, hơi nhám và mềm.
Những miếng da này thật tốt. Đúng là để làm da quý. Khi khô nó không co lại,
khi vuốt đúng cách sẽ lại mềm ngay, chỉ cần bóp miếng da giữa ngón trỏ và ngón
cái là ông cảm thấy ngay, một lần tẩm có thể giữ được năm hay mười năm, thật là
một loại da rất tốt, có thể ông sẽ dùng để làm găng tay, ông ba đôi và vợ ông
ba đôi cho chuyến đi Messina.
Ông
rụt tay lại. Cái bàn làm việc nhìn xúc động quá, mọi thứ nằm đó như sẵn sàng,
chậu thủy tinh để tẩm nước hoa, tấm kính để phơi, cối giã để trộn chất làm màu,
chày, bay, cọ, lưỡi xén và kéo. Như thể những vật ấy chỉ ngủ vì trời đã tối,
sáng ra sẽ lại sống. Ông có nên mang theo cái bàn tới Messina không nhỉ? Và một
phần dụng cụ, chỉ những thứ quan trọng nhất thôi? Ngồi làm việc ở cái bàn này rất
tốt. Mặt bằng gỗ sồi, chân cũng vậy, lại thêm những thanh ngang thì không rung
mà cũng chẳng long được, a xít cũng chẳng hề hấn gì, dầu và dao cắt cũng thế,
nhưng chở nó đi Messina thì tốn kém quá, ngay cả đi bằng tàu thủy! Vì thế mà sẽ
phải bán, sáng mai cái bàn sẽ phải bán cùng với tất cả mọi thứ bên trên, bên dưới,
bên cạnh, bán tất! Bởi vì ông, Baldini này, có một trái tim đa cảm nhưng cũng
cá tính mạnh, vì thế ông sẽ thực hiện quyết định của mình dù không muốn mấy đi nữa,
ông sẽ ứa nước mắt mà bán hết nhưng ông vẫn làm vì ông biết thế là đúng, như điềm
đã báo hồi chiều.
Ông
quay người định đi. Cái thằng loắt choắt méo mó đứng ở cửa mà tí nữa ông quên.
- Được
rồi, - Baldini nói. - Nói lại với chủ mày là da tốt lắm. Vài ngày nữa ta sẽ qua
trả tiền.
-
Vâng, - Grenouille nói và đứng tại chỗ, chặn đường Baldini khi ông dợm bước ra
khỏi xưởng. Baldini hơi khựng lại nhưng không thắc mắc gì và cũng không cho
thái độ của thằng nhỏ là láo xược mà ngỡ là rụt rè.
- Gì
nữa? - ông hỏi. - Mày còn được giao chuyện gì nữa không? Thế nào? Cứ nói đi!
Grenouille
đứng co người nhìn Baldini như thể sợ hãi nhưng thật ra là do căng thẳng rình rập
như con thú rình mồi.
- Tôi
muốn làm việc cho ông, Maitre Baldini ạ. Cho ông, trong cửa tiệm của ông.
Nó
không nói như xin xỏ mà như đòi hỏi, đúng ra không phải là nói mà là hắt ra,
rít lên như rắn. Baldini lại cho sự tự tin ghê gớm của Grenouille là sự lúng
túng của thằng con nít. Ông cười thân thiện.
- Mày
là đứa học thuộc da, con ạ, - ông nói, - ta đâu dùng đứa học thuộc da vào việc
gì được. Ta đã có sẵn một thợ phụ rồi, không cần thu thêm kẻ học nghề.
- Ông
muốn tẩm những tấm da lừa, phải không Maitre Baldini? Ông muốn tẩm những tấm da
tôi mang đến chứ gì? - Grenouille rít như thể nó không để ý đến câu trả lời của
Baldini.
- Đúng
thế. - Baldini đáp.
- Với
Amor và Psyche của Pélissier? - Grenouille hỏi, co người thêm nữa.
Một nỗi kinh hoàng nhẹ lan trong cơ thể
Baldini. Không phải vì ông tự hỏi do đâu mà thằng nhỏ này biết rõ đến thế mà chỉ
vì cái tên của thứ nước hoa kinh tởm mà bữa nay ông đã thất bại không tìm ra giải
đáp.
- Tại
sao mày lại có cái ý nghĩ phi lý rằng ta định dùng nước hoa của kẻ khác để…
- Vì
người ông có mùi ấy, - Grenouille rít. - Ông mang mùi ấy trên trán, trong túi
áo khoác bên phải của ông có cái khăn tẩm nó. Cái Amor và Psyche này đâu có
hay, dở nữa, có quá nhiều cam chanh, hương thảo và quá ít dầu hoa hồng.
- À
há. - Baldini nói, hết sức ngạc nhiên vì cuộc nói chuyện chung chung chuyển
sang chính xác - Gì nữa?
- Hoa
cam, chanh lá cam, đinh hương, hương hươu xạ, hoa nhài, rượu tinh cất và một thứ
mà tôi không biết tên, đây rồi, ông thấy không, đấy! Trong cái chai đó!
Và
nó chỉ trỏ trong bóng tối. Baldini đưa nến về phía ấy, mắt theo ngón tay của
nó, nhìn vào một chai trên kệ chứa một thứ nhựa thơm màu vàng xám.
- Tô
hợp hương? - ông hỏi.
Grenouille
gật đầu.
- Phải.
Có cả cái đó trong nước hoa. Tô hợp hương. - Rồi nó gập người lại như bị co
rút, lẩm bẩm ít nhất cả chục lần - Tô hợp hương, tô hợp hương...
Baldini
cầm nến soi vào thằng nhãi ranh đang khò khè “tô hợp hương”, nghĩ thầm: hoặc là
nó bị quỷ ám, hoặc là một tên bịp bợm hoặc là thiên tài. Vì trộn đúng những chất
nọ có thể cho Amor và Psyche lắm, có thể lắm, thậm chí đúng nữa là đàng khác. Dầu
hoa hồng này, đinh hương này, tô hợp hương này, chiều nay ông cố tìm ba thứ này
mà không ra; những thứ kia ông tin có tìm ra, hợp với chúng như thể những miếng
của một cái bánh đẹp, tròn trịa.
Vấn
đề còn lại là phải trộn chúng theo tỷ lệ chính xác nào. Để tìm ra thì ông sẽ phải
thử tới thử lui mấy ngày ròng, một công việc ớn hết sức, gần như còn mệt hơn cả
tìm ra các thành tố, vì phải đo cân, ghi lại và phải cẩn thận từng ly từng tí,
một lơ đễnh nhỏ như run tay khi cầm ống hút, đếm giọt sai có thể làm hư hết. Và
mỗi lần thử sai là tốn hao vô cùng. Mỗi hỗn hợp là một gia tài nhỏ... Ông muốn thử
thằng nhỏ, muốn hỏi nó cái công thức chính xác của Amor và Psyche. Nếu nó biết
chính xác tới từng gam, từng giọt thì rõ ràng nó là thằng bịp, bằng cách nào đó
thuổng được công thức của Pélissier để mong xin được làm ở tiệm của ông. Còn nếu
nó đoán được gần đúng thì nó là thiên tài về mùi và như thế thì nó kích thích
máu tò mò nghề nghiệp của ông. Không phải là Baldini xét lại cái quyết định sẽ
bán lại cửa tiệm! Cũng chẳng phải vì cái nước hoa của Pélissier. Kể cả khi thằng
nhóc làm được cho ông hàng lít đi nữa thì ngay trong mơ Baldini cũng không nghĩ
tới sẽ dùng nó tẩm miếng da cho bá tước Verhamont, nhưng mà... Nhưng mà đâu phải
cả đời là nhà chế nước hoa, cả đời bận bịu với sự phối hợp hương liệu để rồi bỗng
chốc đánh mất sự đam mê nghề nghiệp được! Giờ thì ông muốn tìm ra công thức của
cái thứ nước hoa khốn kiếp kia, hơn nữa muốn xét tài của cái thằng nhỏ lạ lùng
này, cái thằng đã đọc nước hoa trên trán của ông. Ông muốn biết có gì bí ẩn
đàng sau. Ông tò mò hết sức.
- Mày
có vẻ như có một cái mũi nhậy đấy, chú bé ạ. - ông nói sau khi Grenouille ngưng
khò khè, rồi quay vào xưởng, đặt cẩn thận cây nến xuống bàn. - Đúng là một cái
mũi nhậy, nhưng mà…
- Tôi
có cái mũi nhậy nhất Paris, Maitre Baldini ạ. - Grenouille khò khè chen vào. - Tôi
biết mọi mùi trên thế giới, mọi mùi ở Paris, tất cả, duy có điều một số cái tôi
không biết tên, nhưng tôi có thể học, những mùi có tên không nhiều, vài nghìn
thôi, tôi sẽ học hết, tôi sẽ không bao giờ quên tên của nhựa thơm nọ, tô hợp
hương, nhựa ấy tên là tô hợp hương…
- Im!
- Baldini gắt, - Không được ngắt lời khi ta nói, mày thật hỗn láo và ngông cuồng.
Không ai biết tên của nghìn mùi. Ngay như ta cũng không biết đến nghìn tên, chỉ
vài trăm thôi, vì trong ngành của bọn ta không có nhiều hơn vài trăm mùi, những
thứ còn lại không phải là mùi mà là xú khí!
Trong
cái lúc phọt ra một thôi một hồi lời nói chen thì Grenouille gần như đứng thẳng
người lại, thậm chí khi sôi nổi nó còn vung cả hai tay để diễn tả cái “tất cả,
mọi thứ” mà nó biết, bỗng bị Baldini đập cho, tức thì co rúm lại như con cóc
đen, đứng rình bất động ở ngưỡng cửa.
- Dĩ
nhiên, - Baldini nói tiếp - ta biết từ lâu rằng Amor và Psyche gồm có tô hợp
hương, dầu hoa hồng, đinh hương, cam chanh và tinh dầu hương thảo vân vân. Để
tìm ra những thứ ấy chỉ cần đến một cái mũi nhậy, khá nhậy như đã nói, rất có
thể Chúa đã cho mày cũng như nhiều người khác một cái mũi khá nhậy, đặc biệt ở
vào tuổi mày. Song nhà chế nước hoa… - nói tới đây Baldini giơ ngón tay trỏ lên, ưỡn
ngực - …song nhà chế nước hoa cần nhiều thứ hơn một cái mũi nhậy. Ông ta cần một
khứu giác còn tốt, trung thực, được rèn luyện qua hàng chục năm, khiến ông ta
có thể giải đoán ra loại và lượng của những mùi phức tạp nhất cũng như sáng tạo
nên những hỗn hợp mùi mới chưa hề biết. Một cái mũi như thế… - ông gõ ngón tay
lên mũi mình - người ta không có được chú bé ạ! Một cái mũi như thế chỉ đạt được
qua sự bền bỉ và cần mẫn. Hay là mày có thể nói ngay cho ta biết công thức
chính xác của Amor và Psyche? Hả? Mày làm được chứ?
Grenouille
không đáp.
- Mày
có thể nói đại khái được chứ? - Baldini hỏi rồi cúi tới trước để nhìn con cóc
cho được rõ hơn. - Chỉ cần ước đoán thôi. Sao? Nói đi chứ, cái mũi nhạy nhất
Paris?
Nhưng
Grenouille vẫn im lặng.
- Thấy
chưa. - Baldini đứng thẳng dậy, vừa hài lòng vừa thất vọng nói. - Mày không biết.
Tất nhiên rồi. Làm sao mày biết được. Mày như một người ăn xúp biết được trong
đó có thảo hoàng liên hay là ngò tây. Chậc, thế cũng là khá rồi. Nhưng đâu có
nghĩa là mày biết nấu. Hãy ghi nhớ điều này trước khi mày ra về: trong mỗi một
nghệ thuật cũng như mỗi nghề thủ công, năng khiếu gần như chẳng là gì cả, ngược
lại, kinh nghiệm học hỏi được qua khiêm tốn và cần mẫn lại là tất cả.
Khi
ông cầm cây nến đang để trên bàn thì có tiếng Grenouille hắt ra, khò khè từ cửa:
- Tôi
không biết công thức là cái gì, Maitre, cái đó tôi không biết, ngoài ra tôi biết
tất!
- Công
thức là cái quan trọng nhất của mỗi loại nước hoa, - Baldini trả lời nghiêm khắc
vì ông muốn chấm dứt ngay buổi nói chuyện. - Nó là sự hướng dẫn tỉ mỉ các thành
tố phải trộn với tỉ lệ nào để có thứ nước hoa như ý muốn, không thể lẫn lộn, đấy
là công thức. Nó là cái toa, nếu như mày hiểu rõ cái từ này hơn.
- Công
thức, công thức, - Grenouille, giờ thấy cao hơn một chút nơi cửa, vẫn khò khè -
tôi không cần công thức. Tôi có cái toa trong mũi rồi. Cần tôi trộn nó cho ông
không, Maitre, cần tôi trộn không, cần không?
- Sao
cơ? - Baldini hơi cao giọng và soi nến sát mặt thằng lùn. - Trộn là thế nào?
Lần
đầu tiên Grenouille không co người lại.
- Mọi
thứ cần đến đều nằm sẵn kia, những cái mùi ấy, tất cả ở trong phòng này, - nó
nói rồi lại chỉ trỏ trong bóng tối. - Dầu hoa hồng kìa! Nhụy hoa cam kìa! Đinh
hương kìa! Hương thảo kìa!..
- Dĩ
nhiên chúng nằm đó! - Baldini gầm lên. - Mọi thứ nằm đó! Nhưng ta đã bảo mày rằng
không biết công thức thì chẳng ăn thua gì hết, đồ đầu bò!
-...Hoa
nhài kìa! Rượu cồn kìa! Cam chanh kìa! Tô hợp hương kìa! - Grenouille khò khè
tiếp tục và cứ sau mỗi tên nó lại chỉ trỏ vào một điểm trong căn phòng tối đến
độ giỏi lắm người ta cũng chỉ có thể đoán mò bóng cái kệ với chai lọ.
- Mày
nhìn được cả trong bống tối nữa cơ, hả? - Baldini cau có - Mày không chỉ có cái
mũi nhạy nhất mà còn có cặp mắt tinh nhất Paris phải không? Nếu mày chỉ có cái
tai khá thính thôi thì vểnh lên mà nghe ta nói này, mày là một thằng bịp nhóc
con. Chắc mày nghe loáng thoáng gì đó chỗ gã Pélissier, rình mò gì đó đúng
không? Rồi tin là qua mắt ta được à?
Giờ
thì Grenouille không còn co mình ở cửa nữa, mà đứng - tạm gọi là thế - nguyên
chiều cao, chân hơi dạng, tay hơi khuỳnh
ra khiến nó trông như con nhện đen đang bám chặt vào khung và bậu cửa.
- Ông
cho tôi mười phút, - nó nói khá trôi chảy, - tôi sẽ chế nước hoa Amor và Psyche
cho ông. Ngay bây giờ và trong phòng này, Maitre, cho tôi năm phút!
- Mày
tin rằng ta cho mày trộn ẩu trộn tả trong xưởng của ta ư? Với những tinh dầu trị
giá cả một gia tài? Mày?
- Phải.
- Grenouille đáp.
- Xì!
- Baldini la lên và xì ra hết chỗ hơi ông có. Rồi ông hít một hơi dài, nhìn cái
thằng Grenouille như con nhện ấy một lúc lâu, suy nghĩ. Dẫu sao thì cũng vậy,
ông nghĩ, đằng nào thì sáng mai cũng chấm dứt cả. Ta biết chắc là nó không làm
được điều nó quả quyết, không thể nào làm được. Nó hơn cả Frangipani vĩ đại chắc!
Nhưng tại sao lại không để nó biểu diễn trước mắt ta cái điều biết chắc? Bằng
không, biết đâu một ngày nào đó ở Messina, ta lại không tự trách rằng ta đã
không nhận ra một thiên tài về ngửi, một người được thừa thãi ân sủng của Chúa,
một thần đồng... Về già người ta đôi khi trở nên kỳ cục và cứ khăng khăng với những
ý nghĩ điên khùng nhất. Chắc chắn là không thể nào được. Theo lý trí của ta thì
không thể nào được... nhưng cũng có phép lạ, đó là điều chắc chắn. Chậc, sau này
khi nằm chờ chết ở Messina, cái ý nghĩ ấy đến với ta: ngày trước ở Paris, vào
buổi tối hôm đó mi có nhắm mắt trước một phép lạ hay không? Sẽ không thoải mái
tí nào cả, Baldini ơi! Cứ để cho cái thằng điên này làm phí vài giọt dầu hoa hồng
và xạ hương, giả tỉ mi vẫn còn quan tâm đến cái nước hoa của gã Pélissier chết
tiệt kia thì chính mi cũng đã làm phí rồi. Cho dù đắt, hết sức đắt thì vài giọt
nào có nghĩa gì khi sánh với sự biết chắc chắn và một tuổi già thanh thản?
- Nghe
đây, - ông nói với giọng làm ra vẻ nghiêm khắc. - Nghe đây. Ta... mày tên gì nào?
- Grenouille,
- Grenouille đáp. - Jean-Baptiste Grenouille.
- Ờ,
- Baldini nói - Chú ý này, Jean-Baptiste Grenouille! Ta đã cân nhắc. Mày cần có
được cơ hội bây giờ, ngay tức thì, để chứng minh sự khẳng định của mày. Đây đồng
thời cũng là cơ hội để cho mày học lấy đức khiêm tốn qua sự thất bại thảm hại, ở
tuổi mày, đức tính ấy chưa phát triển nên có thể tha thứ được, khiêm tốn là một
điều kiện tiên quyết không thể thiếu được cho sự tiến thân sau này của mày với
tư cách một thành viên của phường hội và đẳng cấp của mày, một người chồng, một
thần dân, một con người và một tín đồ gương mẫu. Ta sẵn sàng dạy cho mày bài học
ấy với sự tốn kém của ta bởi hôm nay ta thấy hào phóng vì những nguyên do nhất
định và biết đâu có thể một ngày nào đó nhớ lại được cái màn này ta cảm thấy
vui lòng. Nhưng đừng nghĩ rằng mày có thể bịp ta được. Mũi của Giuseppe Baldini
này tuy già nhưng vẫn còn nhậy, còn đủ nhậy để xác định tức thì cả sự khác biệt
nhỏ nhất giữa cái mày trộn và... - nói tới đây ông rút ra từ túi áo cái khăn thấm
Amor và Psyche và phe phẩy trước mũi Grenouille - ...cái sản phẩm này. Lại gần
đây, cái mũi nhậy nhất Paris! Lại gần cái bàn này và chứng minh tài cán của
mày! Nhưng cẩn thận, đừng làm đổ bể gì hết! Đừng đụng đến vội! Ta phải làm cho
sáng hơn đã. Chúng ta muốn thật sáng mắt với cái thí nghiệm nhỏ này, đúng
không?
Thế
là ông lấy hai cây nến nữa trên cạnh bàn gỗ sồi to tướng, thắp lên. Ông để ba
cây nến sát nhau trên rìa sau, đẩy chỗ da sang một bên, dọn trống phần giữa
bàn. Rồi nhanh mà chắc chắn, ông lấy ra từ cái giá nhỏ những dụng cụ cần thiết
cho công việc: một cái bình cổ cong thật to để trộn, một cái phễu thủy tinh, một
ống hút, hai cái ly để đong, một to, một nhỏ, đặt ngay ngắn trước mặt trên một
phiến gỗ sồi.
Trong lúc đó thì Grenouille đã rời khỏi khung cửa. Ngay
trong lúc Baldini còn thao thao bất tuyệt với những lời hoa mỹ thì nó đã mất đi
cái dáng điệu cứng đơ co rúm của một con vật rình mồi. Nó chỉ nghe thấy sự cho
phép, chỉ nghe thấy cái từ “Ừ” với sự reo hò trong lòng của một đứa bé quá cứng
đầu đã đạt được nhượng bộ mà không thèm đếm xỉa đến những hạn chế, những điều
kiện và những lời giáo huấn kèm theo. Nó đứng đó thoải mái, lần đầu tiên giống
người hơn vật, mặc cho Baldini nói tiếp, nó biết rằng nó đã thắng ông rồi.
Trong
lúc Baldini còn cắm nến lên bàn thì Grenouille đã tọt sang góc tối, nơi để kệ với
những tinh dầu, dầu và tinh chất đắt tiền, theo sự đánh hơi chắc chắn của mũi
mà chộp những chai lọ cần thiết. Nó lôi xuống chín thứ cả thảy: tinh dầu hoa
cam, dầu cam chanh, dầu đinh hương, dầu hoa hồng, tinh chất của hoa nhài, của
cam chanh, của đồng thảo, cồn xạ hương, nhựa tô hợp hương đặt ngay ngắn lên
bàn. Sau cùng nó vần đến một hũ rượu tinh cất. Rồi nó lại sau lưng Baldini, run
lên vì nôn nóng, chờ ông già tránh sang bên, nhường chỗ trong khi ông vẫn còn
đang sắp xếp những bình để trộn với một vẻ tỉ mỉ một cách quá đáng, xích bình
này một chút, xê lọ nọ tới chỗ kia, mọi thứ nằm đúng theo cái trật tự quen thuộc
và được mấy cây nến rọi sáng nhất.
- Xong!
- sau cùng Baldini nói và bước sang một bên. - Mọi thứ mày cần để thí nghiệm -
cứ gọi thế cho oai - đã được sắp xếp ngay ngắn! Đừng làm bể! Đừng làm đổ! Và nhớ
rằng những chất lỏng mà mày được đụng đến trong năm phút này rất đắt và rất hiếm,
mày sẽ không còn có dịp nào nữa trong đời được cầm trong tay dưới cái dạng đậm
đặc như thế đâu!
- Maitre,
tôi phải làm bao nhiêu cho ông? - Grenouille hỏi.
- Làm
cái gì? - Balidini bị ngắt lời, hỏi lại.
- Bao
nhiêu nước hoa? - Grenouille khò khè - ông muốn có bao nhiêu? Tôi làm đầy ắp
cái bình bự này nhé? - và nó chỉ vào cái bình để trộn, chắc phải đến ba lít.
- Không,
không được! - Baldini rú lên kinh hoàng, tiếng rú tự phát đồng thời mang nỗi sợ
thâm căn cố đế trước sự phí phạm của cải của ông. Chừng như xấu hổ vì cái tiếng
rú phơi bày sự thật, ông hét toáng lên ngay sau đó. - Còn mày cũng không được ngắt
lời ta! - rồi nói tiếp với một giọng
bình thản gần như châm biếm. - Cần gì tới ba lít cái thứ nước hoa mà cả mày lẫn
ta đều coi thường ấy? Thật ra chỉ cần một nửa cái ly để đong cũng đủ. Nhưng ít
quá như vậy khiến khó trộn được chính xác cho nên ta cho phép mày làm một phần
ba cái bình để trộn ấy.
- Được.
- Grenouille nói - Tôi sẽ đổ đầy một phần ba cái bình này với Amor và Psyche. Nhưng
mà Maitre Baldini ạ, tôi sẽ làm theo cách của tôi. Tôi không rõ đó có phải là
cách của phường hội hay không vì tôi không được biết cách đó, nhưng tôi sẽ làm
theo cách của tôi.
- Được
thôi. - Baldini nói nhưng biết rằng trong nghề này không có cách của tôi hay của
anh mà chỉ có một thôi, một cách duy nhất đúng qua sự biết công thức và qua những
tính toán thích hợp dựa trên lượng nước hoa muốn có mà tìm ra lượng những tinh
dầu khác nhau đã được cô lại, rồi sẽ phải cân đo hết sức chính xác, rồi cuối
cùng trộn với rượu cũng với một tỷ lệ chính xác, thường là giữa một phần mười
hay một phần hai mươi, thành nước hoa. Ông biết rõ rằng không có cách nào khác.
Chính vì thế mà lúc đầu ông còn lãnh đạm cười nhạo những gì ông được thấy, rồi
hoang mang và cuối cùng chỉ còn biết vô cùng sửng sốt theo dõi như thể toàn là
phép lạ xuất hiện. Cảnh này ghi sâu trong trí ông khiến cho đến khi nhắm mắt
ông cũng không thể nào quên.
15
Thoạt tiên thằng nhóc Grenouille mở nút hũ đựng rượu tinh cất. Nó bê cái hũ lên một cách khó khăn. Vì cái bình để trộn và cái hũ thủy tinh để cao quá nên nó phải nâng lên tới gần ngang đầu, nghiêng hũ để rót thẳng rượu sang bình trộn, không dùng đến ly đong. Baldini thấy rợn người vì cái tên quá sức vô tài bất tướng này, không những nó đã đảo lộn mọi quy tắc trong thuật chưng cất nước hoa vì đã sử dụng ngay dung môi dù chưa có tinh chất sẵn để hòa tan mà sức vóc như thế kia thì nó còn pha với chế gì cho nổi! Người nó run lẩy bẩy vì cố gắng quá mức, Baldini chỉ còn có nước chờ từng giây từng phút cái hũ nặng kia sẽ rơi xuống, làm bể tan tành mọi thứ trên bàn. Mấy cây nến, Chúa ơi, ông chợt nhớ ra mấy cây nến! Sẽ nổ mất! Nó đốt nhà tôi! Ông định nhảy tới để giằng cái hũ rượu ra khỏi tay thằng khùng đó thì Grenouille đã đặt hũ rượu xuống nền nhà không chút suy suyển rồi nút nó lại. Trong cái bình trộn sóng sánh cái chất lỏng nhẹ và trong, không giọt nào bắn ra ngoài. Grenouille thở lấy sức một chút, gương mặt đầy vẻ hài lòng như thể đã làm xong cái phần việc nặng nhất rồi. Đúng như thế, những việc tiếp theo xảy ra với một tốc độ mà Baldini nhìn theo cũng không kịp chứ chưa nói tới có thể nhận ra được thứ tự hay một tiến trình lớp lang nào.
Nhìn thì thấy Grenouille như thể chụp tùy tiện vào cái dãy
chai lọ đựng tinh dầu, giật nút thủy tinh lọ này, đưa lên mũi một giây, rẩy vào
phễu; nhỏ ít giọt từ lọ kia, rót một tí xíu từ lọ thứ ba và tiếp tục như thế. Ống
hút, ly thử, ly đong, muỗng con, que khuấy, là những thứ mà nhà chế tạo nước
hoa cần trong quá trình trộn phức tạp thì Grenouille không đụng đến lấy một lần.
Nó làm như thể đó chỉ là một trò chơi, như thể nó đập và vọc nước, giống một đứa
con nít bỏ cỏ, đất và nước vào nấu chung rồi nhất định bảo cái món gớm ghiếc
này là canh. Phải, như một đứa con nít, Balidni nghĩ thầm, bỗng dưng trông nó
như một đứa con nít thật dù hai bàn tay to xù, dù khuôn mặt chằng chịt những sẹo
và cái mũi to như mũi ông già. Ta cứ nghĩ là nó lớn hơn đấy, giờ thì nó lại có
vẻ nhỏ hơn, như chỉ ba hay bốn tuổi thôi, như những người vượn nhỏ thó, khó gần
gũi, khó hiểu và ngang ngạnh, tưởng như ngây ngô, chỉ biết có mình trên cõi đời,
họ muốn thống trị thế giới một cách bạo ngược và hẳn sẽ làm thế thật nếu được tự
do thực hiện cuồng vọng của họ, mà không bị những biện pháp giáo dục chặt chẽ
nhất khép dần vào kỷ luật để cuối cùng trở thành con người trưởng thành biết tự
chủ lấy mình. Một đứa con nít ngông cuồng như thế tiềm ẩn trong thằng nhỏ này
đây, nó đứng cạnh bàn, mắt ngời sáng, quên mọi thứ chung quanh, chừng như không
biết rằng trong xưởng có gì khác ngoài nó và những chai lọ mà nó vụng về nhưng
nhanh nhẹn nâng lên phễu để trộn cái nước hoa điên rồ của nó và rồi sẽ quả quyết
rằng đó là nước hoa tuyệt diệu Amor và Psyche, và tự nó cũng tin như thế thật
chứ! Baldini thấy rờn rợn khi ông quan sát cái con người đang làm cái việc ấy một
cách hết sức ngược đời nhưng hết sức tự tin trong ánh nến lung linh. Ngày trước
thì những hạng người như nó không thể nào có được, nó là một mẫu người mới, chỉ
có thể sinh ra trong cái thời buổi suy đồi và băng hoại này thôi, ông thầm nghĩ
và lại chợt buồn, thấy khốn khổ và tức giận như lúc xế chiều ông đứng nhìn cái
thành phố đỏ rực trong ánh hoàng hôn... Nhưng nó cần phải nhận được một bài học,
cái thằng oắt con mà cao ngạo này! Sau màn biểu diễn lố bịch này ông sẽ cạo cho
cái đồ rác rưởi kia một trận để cho nó lủi thủi cuốn gói, lẻn đi với cái tướng
nhẫn nhục của một tên vô danh tiểu tốt lúc nó mới đến. Quân vô lại! Thời buổi
này thật chẳng còn nên giao du với ai nữa vì nhan nhản toàn là phường vô lại nhố
nhăng!
Baldini mải tức giận ngấm ngầm và kinh tởm thời đại nên khi
Grenouille chợt nút lại tất cả các bình lọ, nhấc phễu ra khỏi bình trộn, bịt bằng
tay trái rồi lắc lia lịa thì ông không hiểu thế nghĩa là gì. Chỉ sau khi cái
bình xoay tít nhiều lần trong không khí, cái chất quý báu bên trong từ thân vọt
lên cổ bình rồi lại chảy xuống thân như nước chanh, thì Baldini mới bật ra tiếng
kêu giận dữ và kinh hoàng.
- Ngừng lại! - ông kêu thất thanh - Đủ lắm rồi! Ngừng lại!
Basta! Đặt ngay cái bình xuống bàn và không được đụng tới nữa, hiểu chưa? Cấm!
Ta đúng là điên nên mới đi nghe những lời bá láp vớ vẩn của mày. Cái cung cách
mày sử dụng đồ vật, sự thô bạo của mày, sự ngu muội ấu trĩ của mày cho thấy mày
là một thằng làm ăn ẩu tả mọi rợ, hơn thế nữa, một thằng nhãi bẩn thỉu hỗn hào
khốn kiếp. Ngay cả pha nước chanh mày cũng không làm nổi, bán nước cam thảo mày
cũng không làm nổi chứ đừng nói tới chuyện trở thành nhà chế tạo nước hoa! Mày
nên mừng, nên biết ơn và hài lòng khi chủ mày tiếp tục cho phép mày nghịch nước
nhuộm da! Đừng có mà liều lĩnh một lần nữa, nghe chưa, đừng có mà liều lĩnh một
lần nữa bén mảng tới ngưỡng cửa của một nhà chế nước hoa!
Baldini nói như thế đấy. Và trong lúc ông đang còn nói thì
căn phòng quanh ông đã đẫm mùi Amor và Psyche. Nước hoa có sức thuyết phục hơn
lời nói, ánh mắt, cảm tính và ý muốn. Sức thuyết phục của nước hoa thì không chống
lại được, nó đi vào bên trong ta như hơi thở đi vào phổi, nó rót vào ta, nó
tràn ngập ta, không có gì cưỡng lại được.
Grenouille đặt cái bình xuống, chùi bàn tay bịt cổ bình đẫm
nước hoa vào gấu áo. Bị Baldini sỉ vả một thôi một hồi, nó lùi lại một hai bước,
lóng ngóng gập người lại làm không khí lan ra như sóng, mang theo mùi nước hoa
mới hoàn thành. Không cần đợi lâu hơn nữa. Tuy Baldini vẫn còn giận dữ, kêu trời
và chửi mắng nhưng cái vẻ ngoài tức tối giảm đi, theo từng hơi thở. Ông đã cảm
thấy mình thua rồi nên chỉ còn biết làm cho những lời cuối thêm phần lâm ly, rỗng
tuếch. Rồi khi mà ông lặng thinh, lặng thinh một lúc lâu thì ông không cần phải
đợi Grenouille nói “xong” nữa. Ông đã biết rồi.
Tuy vậy, tuy lúc này không khí nặng trĩu Amor và Psyche trùm
lên ông từ mọi phía, ông vẫn bước lại cái bàn gỗ sồi cũ kỹ để kiểm chứng. Ông
rút từ túi áo bên trái một cái khăn sạch và trắng như tuyết, giở ra, dùng ống
hút vài giọt từ bình trộn chấm lên khăn. Ông duỗi tay, lắc khăn để bay bớt mùi
cồn rồi bằng động tác mềm mại lão luyện kéo khăn mũi, hít mạnh hơi nước hoa.
Ông ngồi xuống ghế đẩu trong lúc thở ra từng đợt ngắn. Mặt ông đang đỏ tía vì cơn thịnh nộ bỗng tái nhợt.
- Không tin nổi, - ông khẽ lẩm bẩm, - Chúa ạ, không tin nổi!
- rồi lại gí mũi vào khăn, ngửi, lắc đầu và lẩm bẩm “không tin được”, đúng là
Amor và Psyche, không còn chút nghi ngờ nào nữa, đúng là Amor và Psyche, cái nước
hoa tài tình mà đáng ghét, bắt chước y hệt, khiến ngay đến Pélissier hẳn cũng
không thể phân biệt được với sản phẩm của gã.
Baldini vĩ đại mặt tái nhợt ngồi co ro trên ghế đẩu với cái
khăn đưa lên mũi trông thật khôi hài, cứ như một cô gái bị sổ mũi. Ông như bị á
khẩu, không còn lẩm bẩm “không tin được”
nữa mà chỉ còn buột ra những tiếng đơn điệu “hừm… hừm… hừm… hừm” trong
lúc liên tục gục gặc đầu, mắt nhìn trân trối cái bình trộn. Một lúc sau
Grenouille lại gần, như một cái bóng bước không một tiếng động đến cạnh bàn.
- Đó không phải là thứ nước hoa tốt, - nó nói, - nó được trộn
rất tồi.
- Hừm, hừm, hừm. - Baldini nói và Grenouille tiếp:
- Maitre, nếu ông cho phép, tôi sẽ làm cho tốt hơn. Cho tôi
một phút, tôi sẽ biến nó thành nước hoa thích hợp cho ông.
- Hừm, hừm, hừm, hừm… - Baldini gật đầu. Chẳng phải vì đồng
ý mà vì ông đang ở trong một trạng thái uể oải đến nỗi ông cũng sẽ “hừm hừm” và
gật đầu với mọi người và mọi việc. Rồi ông tiếp tục gật và lẩm bẩm “hừm hừm”,
cũng chẳng tỏ ra ngăn cản khi Grenouille bắt đầu trộn lần thứ nhì: rót thêm cồn
tinh chất từ trong cái hũ vào chiếc bình trộn đựng nước hoa có sẵn, cũng vẫn lấy
chai lọ thể như tùy tiện, rót đại vào phễu. Lần này khi gần cuối quy trình,
Grenouille không lắc mạnh bình nữa mà xoay nhẹ như thể xoay một ly rượu cô nhắc, có thể vì tôn trọng sự nhạy cảm của Baldini,
có thể đối với nó vì lần này nước hoa quý giá hơn - chỉ khi mà cái chất lỏng
xoáy trong chai thì Baldini mới bừng tỉnh khỏi trạng thái hôn mê, đứng dậy, dĩ
nhiên vẫn với cái khăn trước mũi, như thể ông vũ trang để chống lại một cuộc tấn
công mới vào nội tạng của ông .
- Xong rồi, Maitre. - Grenouille nói - Bây giờ là nước hoa tốt
đấy.
- Ừ, được rồi, được rồi. - Baldini nói, phẩy cái tay không cầm
khăn.
- Ông không muốn thử sao? - Grenouille tiếp tục khò khè. - Không
ư, Maitre? Không thử sao?
- Lát nữa, bây giờ ta chưa định thử... ta còn bận nghĩ đến
chuyện khác. Mày về đi! Nhanh!
Rồi ông cầm một cây nến đi ra cửa, sang chỗ bán hàng.
Grenouille bước theo, đi qua cái hành lang hẹp dẫn ra cổng dành cho người làm.
Ông già lê ra cửa, kéo then mở cổng. Ông né sang bên cho thằng nhỏ đi qua.
- Tôi được làm việc cho ông không? Được không? - Grenouille
hỏi, đứng nơi bậu cửa, lại co người, lại
nhìn rình rập.
- Ta không biết. - Baldini đáp - ta sẽ suy nghĩ. Thôi đi đi!
Grenouille bị bóng đêm nuốt chửng. Baldini còn đứng đó, nhìn
trân trối vào bóng đêm. Tay phải cầm nến, tay trái cầm khăn như một người bị chảy
máu mũi nhưng thật ra ông sợ. Ông cài then vội vàng. Rồi nhét cái khăn đang che
mặt vào túi, đi ngang chỗ bán hàng trở vào xưởng.
Mùi thơm thật tuyệt diệu khiến ông ứa nước mắt. Ông không cần
thử, chỉ cần đứng ngay bàn, trước cái bình trộn mà ngửi. Cái nước hoa mới thơm
làm sao. So sánh với Amor và Psyche như một bản giao hưởng so với tiếng cò cử lẻ
loi của một cây vĩ cầm. Hơn nữa chứ. Baldini nhắm mắt và sống lại những kỷ niệm
tuyệt vời nhất. Ông thấy mình là một thanh niên trẻ trung đi trong các công
viên ở Napoli khi hoàng hôn xuống, thấy mình nằm trong vòng tay của một thiếu
phụ tóc đen, nhìn bóng một bó hoa hồng trên thành cửa sổ khi làn gió đêm thoảng
qua, nghe tiếng lũ chim ríu rít bay đi và tiếng nhạc vọng từ một quán nước trên
bến cảng, ông nghe tiếng thì thầm sát bên tai, nghe thấy tiếng em yêu anh, thấy
tóc dựng lên vì sung sướng tuyệt đỉnh, bây giờ! Ngay lúc này đây! Ông mở cboàng
mắt và rên lên sảng khoái. Nước hoa này không giống thứ đã biết. Đó không phải
là thứ làm cho người ta thơm hơn, không phải bột thơm, không phải đồ trang điểm.
Nó hoàn toàn mới, có thể tạo dựng cả một thế giới thần diệu, tráng lệ khiến người
ta quên ngay những bực bội quanh mình và cảm thấy rất giàu có, rất thoải mái, rất
tự do, rất cao thượng…
Những cái lông xù lên trên
cánh tay của Baldini xẹp cả xuống và tâm hồn ông thanh thản tuyệt vời.
Ông cầm tấm da lừa nằm cạnh bàn, lấy dao xén. Rồi ông để những miếng da vào
trong cái bồn thủy tinh, rót nước hoa mới lên trên. Ông nhấn một tấm kính vào bồn
rồi chắt nước hoa thừa vào hai cái lọ con, dán nhãn đề Nuit Napolitaire (Đêm
Napoli) rồi ông tắt đèn, đi lên lầu.
Ông không nói gì với vợ trong bữa ăn. tất nhiên là không đả
động gì đến cái quyết định long trọng mà ông toan tính hồi chiều. Vợ ông cũng
không nói gì cả vì thấy ông vui vẻ là bà mãn nguyện lắm rồi. Ông cũng không đi
sang Notre-Dame để cám ơn Chúa đã ban cho ông cá tính mạnh. Chẳng những thế,
đêm ấy là lần đầu tiên ông quên cả đọc kinh.
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét