Thứ Tư, 23 tháng 8, 2017

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 41 - 50)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

41

Nhưng ở Grasse có một người không tin vào sự bình yên. Ông ta tên là Antoine Richis, đệ nhị tổng lý thành phố, dinh cơ bề thế của ông tọa lạc ngay đầu Rue Droite.
Ông Richis góa vợ, có một con gái tên là Laure. Tuy chưa đến 40 và còn đầy sức sống, ông định đợi thêm ít lâu nữa mói nghĩ đến chuyện tục huyền. Trước hết lo dựng vợ gả chồng cho cô con gái đã. Và không phải là bất cứ ai đâu nhé, phải là môn đăng hộ đối cơ.
Ông đã thỏa thuận chuyện cưới xin với Nam tước de Bouyon rồi, ông này có một cậu con trai và một lãnh địa ở gần vùng Vence, có tiếng tăm nhưng khốn quẫn về mặt tài chính. Sau khi Laure yên chỗ rồi thì ông dự định sẽ dọ ý nơi những gia đình vọng tộc hạng cao như Drée, Maubert hoặc Fontmichel, không phải vì ông tự cao hay bằng mọi giá phải có được một người quý tộc để chung chăn gối, nhưng vì ông muốn xây dựng một dòng họ và đặt nền móng cho những thế lực chính trị xã hội cao nhất cho những kẻ nối dõi. Vì thế ông cần có thêm ít nhất hai đứa con trai nữa, một đứa sẽ nối nghiệp ông tiếp tục kinh doanh, còn đứa kia học luật để rồi hoạn lộ sẽ dẫn đến tòa án tối cao ở Aix và tiến thành quý tộc. Nhưng ở vào địa vị của ông thì tham vọng nọ chỉ có hy vọng thành công nếu cá nhân ông và gia đình gắn bó mật thiết với giới quý tộc trong vùng.
Antoine Richis dám có cao vọng như thế vì ông giàu sụ. Sản nghiệp của ông vượt xa mọi người khác. Ông không những có điền trang trong vùng Grasse để trồng cam, ô liu, lúa mì và cây gai, mà còn ở gần Vence và cả trên hướng đi Antibes nữa, những chỗ này ông cho lĩnh canh. Ông còn là chủ của nhiều ngôi nhà ở Aix và vùng quê, có cổ phần trong những tàu buôn với Ấn độ, có một văn phòng thường trực ở Genua và là nhà buôn sỉ lớn nhất nước Pháp về hương liệu, gia vị, dầu và da thuộc.
Nhưng thứ quý nhất mà Richis có được là cô con gái. Cô là con một, mới vừa 16, tóc nâu đỏ, mắt xanh. Gương mặt cô dễ thương đến nỗi ai trông thấy cũng sững sờ, không thể quay đi, dù là đàn ông hay đàn bà và ở mọi lứa tuổi, họ không ngớt hôn khuôn mặt cô bằng mắt như thể mút kem bằng lưỡi vậy, và lúc ấy vẻ mặt họ đầy nét say mê, đờ đẫn, đặc biệt như khi mê mải mút kem. Chính Richis khi nhìn con gái cũng sững sờ mất một lúc lâu, mười lăm phút, cũng có thể là nửa tiếng, quên tất cả thế giới và chuyện kinh doanh, điều này chưa hề xảy ra ngay cả khi ông ngủ, ông như tan ra trong sự chiêm ngưỡng con gái để rồi ngay sau đó không thể nói được mình đã làm gì. Ông phiền muộn nhận ra rằng, mới đây buổi tối, khi ông đưa cô vào giường đi ngủ hay đôi khi sáng ra ông vào đánh thức cô dậy, thấy cô còn nằm như có bàn tay Chúa đặt, hông và ngực hằn dưới làn áo ngủ mỏng, rồi từ cái vùng ngực, nách, khuỷu tay và cánh tay mịn màng áp vào má tỏa lên hơi thở đều và nóng… thì ruột gan ông như quặn lại, họng ông như thắt lại, ông nuốt nước miếng, lạy Chúa! Ông nguyền rủa mình sao lại là bố của cô chứ không phải là một người lạ, người nào cũng được, và cô nằm thế kia trước mặt gã như đang nằm trước mặt ông thì gã sẽ chẳng đắn đo gì mà không nằm xuống cạnh cô, trên cô, trong cô với tất cả thèm muốn. Ông toát mồ hôi, run lẩy bẩy trong lúc bóp chết cái dục vọng kinh hoàng kia, rồi cúi xuống đánh thức cô dậy bằng nụ hôn trong sạch của một người cha.
Vào lúc xảy ra những vụ giết người năm ngoái, ông chưa bị cám dỗ nguy hiểm đến như vậy. Cái ma lực của con gái ông lúc ấy chỉ là của đứa trẻ con, ít nhất là có vẻ như thế đối với ông. Nên ông chưa từng sợ thật sự rằng Laure có thể thành nạn nhân của kẻ giết người, vì ai cũng biết hắn không hại đàn bà và trẻ con mà chỉ toàn chọn trinh nữ. Tất nhiên ông đã cho canh gác dinh cơ kỹ hơn, thêm song sắt cho các cửa sổ lầu trên và bảo người hầu gái của Laure ngủ chung phòng với cô. Ông không gởi cô đi học xa như những người cùng địa vị, họ không những gởi con gái mà cả gia đình đi nữa. Ông thấy hành động như thế là đáng khinh, không xứng với một ủy viên hội đồng thành phố kiêm đệ nhị tổng lý, vốn phải là một tấm gương về sự bình thản, can đảm và bất khuất cho đám thị dân. Hơn nữa ông là một người không để cho ai ảnh hưởng đến quyết định của mình, một dúm kẻ sợ hãi hốt hoảng cũng vậy mà một tên giết người khốn kiếp lại càng không. Cho nên trong suốt thời gian kinh hoàng ấy, ông là một trong ít người không nhiễm phải cái cơn sốt sợ hãi mà luôn giữ được tỉnh táo. Nhưng bấy giờ lại khác, lạ lùng thật. Trong lúc ngoài kia người ta mừng như thể tên sát nhân đã bị treo cổ, chấm dứt những ngày tội ác của hắn và sắp quên hết chuỗi ngày khủng khiêp thì sự sợ hãi lại len vào trong tim Antoine Richis như một thứ thuốc độc ghê gớm. Trong một thời gian dài ông không dám thú nhận rằng đó là lý do khiến ông trì hoãn chuyến đi lẽ ra đã phải tiến hành từ lâu, rằng ông không thoải mái khi phải rời khỏi nhà và rút ngắn những buổi thăm viếng họp hành để về nhà cho mau. Ông viện cớ vì bất tiện và vì làm việc quá sức để tự bào chữa nhưng cũng tự thú nhận rằng cũng có hơi lo lắng về cô con gái đã tới tuổi cập kê, âu đó cũng là lo lắng thông thường của mỗi người cha… Chẳng phải sắc đẹp của cô đã được đồn đại ra ngoài sao? Chẳng phải người ta nghển cổ nhìn khi ông đưa cô đi nhà thờ xem lễ mỗi chủ nhật đó sao? Chẳng phải một số các vị trong hội đồng thành phố đã dạm trước cho con trai hoặc cho chính mình đó sao?

42

Nhưng rồi một ngày tháng Ba ông Richis ngồi trong phòng khách nhìn cô con gái đi ra vườn. Tóc cô xõa ra trên nền áo màu xanh da trời, ánh lên trong nắng. Ông chưa bao giờ thấy cô đẹp đến thế. Cô biến mất sau bờ dậu, rồi cô lại xuất hiện,  chỉ lâu hơn ông chờ đợi có hai nhịp tim thôi thế mà ông đã sợ muốn chết, vì trong khoảnh khắc hai nhịp tim ấy, ông nghĩ rằng ông đã mất cô vĩnh viễn rồi.
Đêm hôm ấy ông choàng dậy giữa giấc mơ kinh hoàng, không nhớ đã mơ gì nhưng có liên quan đến Laure, nhào vào phòng con gái, tin rằng cô đã bị làm nhục, bị giết, bị cắt tóc, nằm chết trên giường… nhưng thấy cô chẳng làm sao cả.
Quay về phòng riêng, mồ hôi như tắm, ông run rẩy vì khích động, không, không phải vì khích động mà vì sợ, bây giờ ông mới chịu thú nhận rằng đã bị nỗi sợ túm chặt, sự thú nhận làm cho ông bình tĩnh và tỉnh táo hơn. Ngay từ đầu ông đã không tin rằng lệnh rút phép thông công của đức giám mục sẽ có tác dụng, không tin cả cái chuyện tên sát nhân lảng vảng ở Grenoble, không tin luôn rằng hắn đã rời khỏi thành phố. Không, hắn vẫn còn ở đây, giữa những cư dân thành phố Grasse này, và sẽ có lúc hắn ra tay lại. Hồi tháng tám và tháng chín Richis có thấy mấy cô gái bị giết, Thấy mà kinh hoàng nhưng đồng thời lại ngây ngất như ông đã thú nhận, vì toàn là những nhan sắc hiếm có, mỗi người một vẻ. Ông không ngờ rằng ở Grasse lại có nhiều người đẹp không ai biết đến như thế. Tên sát nhân đã mở mắt cho ông. Quả thật hắn có một khiếu thẩm mỹ độc đáo. Hành động cũng có hệ thống nữa. Không phải chỉ vì vụ nào hắn cũng thực hiện gọn như nhau mà cách chọn nạn nhân bộc lộ một ý đồ được hoạch định chu đáo gần như là trong kinh doanh. Đúng là Richis thật sự không biết tên giết người muốn gì nơi các nạn nhân vì hắn đã không cướp của họ những thứ quý nhất, đó là nhan sắc và sự quyến rũ của tuổi trẻ… hay là có nhỉ? Nghe có vẻ phi lý nhưng theo ông thì tên sát nhân không phải là một con quỷ giết chóc mà là một kẻ sưu tầm tỉ mỉ. Đừng xét từng nạn nhân riêng rẽ một, Richis thầm nghĩ, mà hãy hình dung họ là những thành phần, những viên đá của một nguyên lý cao hơn và hãy tưởng tượng những nét đặc trưng của họ quyện lại với nhau bằng một cách lý tưởng nào đó thành một thể thống nhất, thì bức tranh được khảm từ những viên đá đẹp kia sẽ là bức tranh về sự tuyệt mĩ và ma lực của nó tỏa ra sẽ không còn là ma lực của con người nữa mà là của thần thánh. (Như chúng ta thấy Richis có lối suy luận của một bậc học giả, không e dè trước những kết luận dù là báng bổ, tuy ông suy luận về mặt thị giác chứ không phải là khứu giác, nhưng cũng đến được gần sát sự thật).
Cứ giả thư rằng tên sát nhân là kẻ sưu tầm sắc đẹp, Richis tiếp tục suy luận, và hắn đang thực hiện một bức tranh về sắc đẹp tuyệt mĩ, cho dù bức tranh ấy chỉ có trong sự tưởng tượng nơi cái đầu óc bệnh hoạn của hắn, giả thử thêm rằng hắn là một kẻ có khiếu thẩm mĩ cực cao và một phương pháp hoàn hảo, hắn cuộc thế thật đấy, thì không thể nghĩ rằng hắn có thể bỏ qua viên đá quý giá nhất trên cõi đời cho bức tranh của hắn: sắc đẹp của Laure. Không có sắc đẹp của con bé thì mọi chuyện giết người từ trước đến nay của hắn chẳng có ý nghĩa gì. Sắc đẹp của con bé sẽ là viên đá quý trên đỉnh tòa nhà của hắn.
Khi rút ra kết luận này thì Richis ngồi trên giường trong bộ đồ ngủ và ông ngạc nhiên sao mình bình tĩnh vậy. Ông không rùng mình cũng chẳng run. Cái nỗi sợ vô hình quấy rầy ông từ mấy tuần nay chợt biến mất nhường chỗ cho sự ý thức về một nguy cơ cụ thể: tên sát nhân đã nhắm Laure ngay từ đầu. Những vụ giết người kia chẳng qua chỉ là phụ trợ cho vụ tuyệt đỉnh cuối cùng. Đến giờ cũng không rõ những vụ giết người kia nhằm một mục đích nào nếu quả thật có mục đích. Nhưng Richis đã thấu rõ cái cơ bản, đó là phương pháp có hệ thống và động cơ lý tưởng của tên sát nhân. Càng nghĩ kỹ ông càng tâm đắc về hai điều trên và càng phục hắn, nói cho đúng thì chẳng khác gì ông tự phục mình vì chẳng gì thì chính ông, ông Richis này, đã truy ra được đối thủ bằng một suy luận rạch ròi.
Nếu Richis này là tên sát nhân ấy và cũng có những đam mê y hệt như hắn thì hẳn ông cũng sẽ không làm khác những gì hắn đã làm và cũng sẽ làm tất cả để giết Laure, cô gái đẹp có một không hai, để hoàn tất cái công trình của hắn đưa nó đạt đến đỉnh cao.
Ông hết sức hài lòng với ý nghĩ sau cùng này. Làm nổi cái chuyện qua suy luận mà đặt mình vào được hoàn cảnh kẻ sẽ giết con gái con ông nghĩa là ông trội hơn hắn rất xa. Vì dứt khoát là tên giết người dù thông minh đến đâu cũng không thể đặt mình vào hoàn cảnh của Richis được, chỉ vì chắc chắn không thể nào lường được Richis đã đặt mình vào hoàn cảnh của hắn từ lâu rồi. Xét cho cùng thì cũng chẳng khác gì trong sự kinh doanh, mutatis, mutantis  (với những thay đổi thiết yếu-trong so sánh), dĩ nhiên. Thấy trước ý đồ của kẻ cạnh tranh thì mình chiếm thượng phong thôi, đừng hòng mà chơi trội với ông, nhất là khi Richis này đã quá lõi đời và sẵn tính đấu tranh trong máu. Là nhà buôn hương liệu lớn nhất nước Pháp, cái tài sản của ông, chức vị đệ nhị tổng lý của ông có phải vì ai thương mà cho đâu, ông đã phải đấu đá, gan góc và mưu lược, lường trước nguy cơ, khôn khéo đoán trước dự tính của đối phương và đánh văng họ đấy chứ. Những mục tiêu sắp tới của ông, thế lực và địa vị quý tộc cho lũ con cháu, ông sẽ đạt được cả thôi. Rồi ông cũng sẽ làm thất bại những toan tính của tên sát nhân trong việc cạnh tranh với ông để giành Laure chứ không thể nào khác được, ngay cả nếu Laure cũng chỉ là viên đá trên đỉnh tòa nhà toan tính của ông đi chăng nữa. Dĩ nhiên ông yêu con bé nhưng ông cũng cần nó nữa.
Cái gì ông cần để thực hiện những tham vọng tột bực thì không để cho ai giật mất, ông sẽ giữ rịt bằng cả răng lẫn vuốt.
Giờ thì ông thấy thoải mái hơn. Sau khi đã đặt được những suy tính  trong đêm về cuộc đọ sức với tên quỷ nọ xuống bình diện đấu đá trong kinh doanh thì ông thấy thêm can đảm, thậm chí kiêu ngạo. Sự sợ hãi biến sạch, cái cảm giác do dự và lo âu bực bội vốn hành hạ ông như hành hạ một người già run rẩy vì lão nhược cũng biến mất luôn, cái màn sương của những linh cảm u ám mà ông phải lần mò trong đó mấy tuần nay cũng tan biến. Ở trên cái địa bàn quen thuộc này thì ông chấp nhận mọi thách đố.

43

Ông thấy nhẹ cả người, nhảy khỏi giường, gần như phấn khởi, ông kéo chuông và ra lệnh cho gã đầy tớ còn đang chuệch choạng vì ngái ngủ thu xếp quần áo và lương thực vì ông sẽ định đi đến Grenoble với cô con gái ngay sau hửng sáng. Rồi ông mặc áo quần và xua đám người làm ra khỏi giường.
Sinh hoạt hối hả choàng dậy ngay giữa đểm trong ngôi nhà ở phố Rue Droite. Lửa bừng lên trong bếp, lũ hầu gái rối rít qua lại trong hành lang, đám tớ trai vội vàng lên xuống cầu thang, tiếng chìa khóa của người giữ kho chạm vào nhau trong cái nhà kho xây hình vòm, sân bập bùng ánh đuốc, bọn giữ ngựa loay hoay quanh lũ ngựa, đám khác kéo bầy la ra khỏi chuồng, thắng yên cương, chạy lấy đồ chất lên chẳng khác cảnh đám quân ô hợp của Áo và Sardines trên đường cướp phá vào năm 1746, còn gia chủ thu vén để chạy trong cơn hoảng loạn. Đâu phải thế! Gia chủ ngồi đường bệ trước bàn giấy văn phòng như thể một thống chế của nước Pháp, uống cà phê sữa, ra chỉ thị cho lũ người hầu không ngớt hối hả vào ra. Trong lúc đó ông viết thư cho ông thị trưởng kiêm đệ nhất tổng lý, cho công chứng viên, cho luật sư của ông, cho chủ ngân hàng ở Marseille, cho Nam tước de Bouyon và những bạn hàng.
Khoảng sáu giờ thì ông kết thúc những thư từ giao dịch và những sắp xếp cần thiết cho kế hoạch của ông. Ông nhét hai khẩu súng ngắn vào người, cột chắc dây da đựng tiền, khóa bàn giấy lại. Đoạn đi đánh thức cô con gái.
Đúng tám giờ, đoàn người ngựa lên đường. Richis cỡi ngựa đi trước dẫn đường, trông thật đỏm dáng trong áo khóac màu rượu vang đỏ, viền vàng, quần đen, mũ đen gài lông đúng kiểu. Rồi đến cô con gái ăn mặc giản dị hơn nhưng đẹp lồ lộ, khiến người trên đường phố và sau các cửa sổ chỉ chăm chú nhìn cô với những tiếng “a”, “ô” trầm trồ, đám đàn ông ngả mũ như thể chào ngài đệ nhị tổng lý nhưng thật ra họ ngả mũ trước cô, bà hoàng của họ. Rồi đến người tớ gái không được ai chú ý tới, tiếp theo là gã tớ trai của ông Richis dẫn theo hai con ngựa thồ vì đường ở Grenoble có tiếng là xấu, không thể dùng xe được, cuối đoàn người là hai tên giữ ngựa trông coi một tá la chất đủ mọi thứ vật dụng. Tới Porte du Cours, đám lính gác bồng súng nghiêm chào và chỉ hạ súng xuống sau khi con la cuối cùng đã đi qua. Lũ trẻ con còn chạy theo vẫy đám người ngựa chậm chạp xa dần trên con đường dốc vòng vèo lên núi.
Chuyến đi của Antoine Richis và con gái đã tạo nên một ấn tượng sâu đậm kỳ lạ. Họ thấy như vừa chứng kiến một đám rước tế thần kiểu cổ xưa. Người ta kháo nhau rằng Richis đi Grenoble, nơi mà con quỷ sát nhân vừa đến không lâu. Họ chẳng biết phải nghĩ như thế nào nữa. Hành động của ông Richis là một sự bất cẩn không thể tha thứ hay là một can đảm đáng khâm phục? Là một sự thách thức hay xoa dịu thần thánh? Họ linh cảm hết sức mơ hồ là họ vừa được nhìn thấy cô gái tóc đỏ lần cuối cùng. Họ linh cảm rằng Laure Richis sắp bị kết liễu rồi.
Linh cảm này sẽ được chứng thực, dù chúng dựa trên những tiền đề hoàn toàn không đúng. Bởi vì Richis đâu có đi Grenoble. Chuyến khởi hành rềnh rang chỉ là mẹo lừa thôi. Đi về hướng tây bắc được một dặm rưỡi, tới gần làng Saint-Vallier thì ông ra lệnh dừng lại. Rồi ông trao cho gã người hầu giấy ủy quyền và giấy giới thiệu, bảo gã dẫn mấy tay coi ngựa và đoàn la đi Grenoble.
Còn ông dẫn Laure và người tớ gái nhắm hướng Cabris, họ nghỉ trưa ở đây rồi vượt rặng núi Tanneron đi về hướng Nam. Đường rất hiểm trở, nhưng có thể đi vòng xa thành Grasse và vùng lòng chảo theo một cánh cung về phía tây sẽ tới được bờ biển khi đêm xuống mà không ai hay biết… Kế hoạch của Richis là hôm sau sẽ cho người đưa ông và Laure sang nhóm đảo Lérins mà trên hòn đảo nhỏ nhất có tu viện Saint-Honorat rất kiên cố. Tu viện này được một nhóm tu sĩ coi sóc, tuy họ già cả rồi nhưng vẫn hoàn toàn còn có khả năng để tự vệ. Richis với họ là chỗ quen biết vì từ nhiều năm nay ông mua và tiêu thụ tất cả những gì tu viện có được về rượu bổ khuynh diệp, hạt tùng và dầu bách. Ông định sẽ để cô gái ở tạm trong chính tu viện Saint-Honorat đó, một nơi an toàn nhất vùng Provence, không kể nhà tù Château d’If và một nhà tù lớn hơn trên đảo Saint-Margueritte. Còn ông sẽ quay lại đất liền ngay sau đó, lần này đi vòng Grasse về phía đông theo ngã Antibes và Cagnes để chiều tối tới được Vence. Ông đã yêu cầu công chứng viên có mặt tại đó để chứng thực những thỏa thuận sắp tới với Nam tước de Bouyon về cuộc hôn nhân của hai trẻ Laure và Alphonse. Ông sẽ đễ nghị ngài Bouyon trang trải số nợ nần lên đến 4.000 livre của ngài, của hồi môn cũng gần chừng đó số tiền, thêm một số đất đai và một nhà máy ép dầu Maganosc, một niên lợi 3.000 livre cho đôi vợ chồng son, nhất định ngài Nam tước sẽ không từ chối. Điều kiện duy nhất của ông Richis là hôn lễ sẽ phải cử hành trong vòng mười ngày và phải thành thân ngay hôm ấy rồi sau đó hai vợ chồng sẽ về ở tại Vence.
Richis biết rằng việc tiến hành hôn nhân gấp gáp như thế này sẽ đẩy cái giá làm thông gia giữa nhà ông và nhà Nam tước de Bouyon lên  cao một cách không cân xứng. Chờ lâu thêm nữa thì ông sẽ được giá rẻ hơn nhiều. Bởi vì sắc đẹp của Laure cứ nức danh thêm, sản nghiệp của Richis cũng tăng nữa, còn sự túng quẫn của Bouyon cũng tăng thêm nốt thì lúc ấy ông nam tước sẽ phải lạy lục để được phép nâng cao địa vị con gái của một nhà buôn gốc bình dân qua việc chịu lấy con trai mình. Đành vậy! Trong chuyện gả bán này ngài Baron không phải là đối thủ, cái tên sát nhân vô danh kia cơ. Phải cho hắn một vố. Một phụ nữ có chồng, không còn là trinh nữ nữa và biết đâu lại có bầu thì hết còn thích hợp với cái phòng trưng tranh độc đáo của hắn. Như thế viên đá cuối cùng bị tì vết, Laure sẽ chẳng còn giá trị gì cho kẻ giết người và công trình của hắn sẽ tan vỡ. Và hắn phải thấm thía sự thất bại ấy! Richis dự định sẽ cho rước dâu ở Grasse, thật linh đình, trước sự chứng kiến của mọi người. Cho dù ông không hề biết mặt đối thủ của mình, và sẽ chẳng bao giờ biết cả, thì ông vẫn lấy làm thú vị khi biết rằng hắn sẽ chứng kiến sự kiện trên, và phải chính mắt hắn nhìn thấy người khác cướp đi cái mà hắn thèm muốn nhất.
Kế hoạch thật là xảo diệu. Một lần nữa chúng ta lại khâm phục cái trí óc nhậy bén của Richis đã đến gần sát sự thật. Nếu con trai của Baron de Bouyon thành thân với Laure Richis thì đó đúng là một đòn chí tử giáng vào tên giết người của thành Grasse. Nhưng kế hoạch vẫn chưa được tíến hành. Con gái ông vẫn chưa được yên chỗ. Ông vẫn chưa đưa được con gái sang cái tu viện kiên cố Saint-Honorat kia. Ba người vẫn còn đang rong ruổi qua rặng núi Tanneron hoang vu. Thỉnh thoảng họ phải xuống ngựa vì đường quá xấu. Họ tiến rất chậm. Họ hy vọng đến tối sẽ gặp bờ biển ở gần Napoule, một thị trấn nhỏ phía tây của Cannes.

44

Lúc Laure Richis cùng với cha cô rời khỏi Grasse  thì Grenouille đang ở trong xưởng của bà Arnulfi, tuốt đầu kia của thành phố và đang ngâm bấy hoa trường thọ. Chỉ có mình gã và gã đang phấn khởi. Thời gian gã ở lại Grasse sắp chấm dứt. Ngày vinh quang sắp đến rồi. Trong căn lều ngoài kia có một tráp gỗ lót bông với hai mươi bốn lọ bé xíu đựng mươi giọt tinh hoa của hai mươi bốn nàng trinh nữ, những tinh chất cực quý mà Grenouille lấy được trong năm vừa qua bằng những cách lấy được hơi thơm từ cơ thể họ với mỡ để nguội, sắc áo quần với tóc của họ rồi rửa với cồn và chưng cất. Tinh chất thứ hai mươi lăm tức là cái quý nhất và quan trọng nhất gã định đi lấy hôm nay. Cho lần này, gã đã chuẩn bị sẵn một hũ sành đựng mỡ được làm sạch đi sạch lại nhiều lần, một khăn len loại tốt nhất, một bầu rượu tinh cất thượng hạng. Địa hình đã được nghiên cứu tỉ mỉ. Đêm nay lại không trăng.
Gã biết rằng đột nhập vào cái dinh cơ được canh gác rất kỹ ở Rue Droite là vô ích. Cho nên gã định là ngay lúc trời vừa chạng vạng, cổng còn chưa đóng, sẽ lẻn vào núp ở một xó nào đó, vì gã không có mùi như một thứ ngụy trang che chở gã không bị người và vật phát giác. Khuya đến, khi mọi người đã ngủ cả, gã sẽ theo cái mũi như một thứ la bàn hướng dẫn trong đêm, leo lên phòng có báu vật. Gã sẽ lấy hương thơm bằng khăn tẩm mỡ ngay tại chỗ. Chỉ lấy theo tóc và áo quần như trước nay vì những thứ này rửa thẳng trong cồn được, làm trong xưởng thong thả hơn. Cần thêm một tối nữa mới xong khâu cuối cùng của pomát và chưng cất thành đậm đặc. Nếu mọi sự trôi chảy thì ngày mốt gã sẽ là chủ những tinh chất quý nhất cho loại nước hoa tuyệt nhất thế giới, và gã sẽ rời khỏi Grasse như một người thơm nhất thế gian, gã chẳng có lý do gì để nghi ngại rằng mọi sự sẽ không trôi chảy.
Gần trưa thì gã gần xong cái đống hoa trường thọ. Gã tắt bếp, đậy nồi mỡ lại, ra trước xưởng cho bớt nóng nực. Gió thổi đến từ hướng tây.
Qua hơi thở đầu tiên gã đã nhận ra ngay có điều gì không ổn. Bầu không khí như có xáo trộn. Qua tấm màn thơm của thành phố được dệt bởi nghìn vạn thứ mùi như những sợi vải thiếu mất cái sợi bằng vàng. Những tuần gần đây sợi thơm này đậm đến nỗi cho ở tuốt đãu này thành phố Grenouille dù ở trong lều cũng vẫn nhận ra. Bây giờ nó đi rồi, mất tiêu, đánh hơi cách mấy cũng không thấy tông tích. Grenouille gẫn như tê liệt vì hoảng sợ.
Nàng chết rồi, gã thầm nghĩ. Nhưng rồi còn khủng khiếp hơn nữa: đã có kẻ ra tay trước ta! Kẻ khác đã ngắt mất bông hoa của ta, lấy đi mùi thơm rồi! Gã không kêu lên nổi vì quá sức rung động, nhưng bỗng nhiên nước mắt tràn ra kẽ mắt, rơi xuống hai bên mũi.
Rồi Druot về nhà từ quán Quatre Dauphins sau bữa ăn trưa, ngẫu nhiên kể rằng sáng sớm nay ngài đệ nhị tổng lý cùng cô con gái đi Grenoble với 12 con la. Grenouille nuốt lệ, chạy biến đi, xuyên qua thành phố tới Porte du Cours. Gã dừng lại ở quảng trường, trước cổng thành, đánh hơi. Trong cái làn gió tây không bợn mùi thành phố, gã tìm lại được sợi chỉ bằng vàng của gã thật, tuy mảnh và thoang thoảng thôi, nhưng không nhầm được. Nhưng mùi hương yêu quý này không đến từ hướng Tây bắc, hướng đi Grenoble, mà từ hướng đi Cabris mới đúng, nếu không nói là theo hướng tây nam.
Grenouille hỏi lính canh hướng đi của viên đệ nhị tổng lý. Người lính chỉ về hướng bắc. Không phải là hướng đi Cabris hay sao? Hay là hướng nam đi Auribeau và Lanopoule? Người lính canh khẳng định là không, chính mắt anh ta trông thấy mà.
Grenouille chạy ngược về lều, nhét khăn len, hũ pomát, que, kéo và một khúc gỗ nhỏ ô liu nhẵn nhụi vào túi hành lý rồi gã lên đường tức thì, không theo hướng Grenoble, mà theo hướng mũi gã chỉ, về phía Nam.
Con đường dẫn thẳng đến Napoule này chạy dọc theo những ngọn đồi của rặng núi Tanneron và cắt ngang những thung lũng của sông Frayère và Siange. Đường tốt nên Grenouille đi được rất nhanh. Khi Auribeau xuất hiện bên triền núi tay phải thì hắn đã ngửi thấy sắp bắt kịp những kẻ chạy trốn. Chỉ một lát sau hắn đã ở ngang độ cao với họ. Gã ngửi ra từng người một, kể cả mùi mồ hôi ngựa nữa. Cùng lắm cách nửa dặm về phía tây, đâu đó trong khu rừng của rặng Tanneron. Họ đi về hướng nam, ra biển, đúng như gã đoán vậy.
Quãng năm giờ chiều Grenouille tới Napoule. Gã vào một lữ quán, ăn và thuê một chỗ trọ rẻ tiền. Gã kể mình là một thợ thuộc da ở Nice, và đang trên đường đi Marseille. Chủ quán bảo gã có thể ngủ qua đêm trong chuồng ngựa. Gã chọn một góc và nằm nghỉ. Gã ngửi thấy ba người đang cưỡi ngựa tới gần. Chỉ còn chờ nữa thôi.
Hai giờ sau họ tới nơi. Trời đã sắp tối hẳn. Để giữ bí mật, họ đã thay đổi y phục, hai người phụ nữ mặc đồ màu sẫm, che khăn, còn Richis mặc áo choàng đen. Ông xưng là nhà quý tộc đến từ Castillance, định sáng mai qua nhóm đảo Lerins, chủ quán lo hộ một cái xuồng, phải sẵn sàng ngay khi mặt trời mọc. Ngoài ông và những người cùng nhóm còn có người nào khác nữa không? Chủ quán thưa không, chỉ có một tay thợ thuộc da ngủ trong chuồng ngựa mà thôi.
Richis bảo con gái và người tớ gái lên phòng họ trước. Còn ông phải ra chuồng ngựa lấy vài thứ từ túi yên ngựa, ông nói thế. Mới đầu ông không tìm ra người thợ thuộc da nên kêu tay giữ ngựa đưa một chiếc đèn bão. Giờ thì ông trông thấy gã nằm trên đống rạ phủ một cái chăn cũ trong một góc, gối đầu trên túi hành lý ngủ say. Gã trông hoàn toàn tầm thường khiến thoạt tiên Richis có cảm tưởng như không hề có gã mà chỉ là một trong những dị hình gây ra bởi cái bóng của ngọn đèn bão đung đưa qua lại. Dẫu sao ông nhận thấy ngay rằng cái sinh vật vô hại đáng thương kia chẳng có gì nguy hiểm để phải lo sợ cả, ông rón rén đi ra để khỏi quấy rầy giấc ngủ của gã rồi trở vào quán.
Ông ăn tối với con gái ngay trong phòng của ông. Ông không giải thích cho cô về lý do và mục đích của chuyến đi kỳ lạ này dù cô có yêu cầu, ngay cả lúc này cũng thế. Ông nói rằng ngày mai sẽ tiết lộ và cô hãy tin rằng tất cả những gì ông sắp đặt và thực hiện đều vì cô và vì hạnh phúc của cô trong tương lai.
 Sau bữa ăn, hai cha con chơi mấy ván bài l’hombre mà ông hoàn toàn thua chỉ vì ông nhìn gương mặt của cô, khoan khoái vì nhan sắc của cô thay vì nhìn vào quân bài. Quãng chín giờ ông đưa cô sang phòng đối diện với phòng ông, hôn cô, chúc ngủ ngon rồi khóa cửa từ bên ngoài. Rồi ông cũng đi nằm.
Ông chợt thấy rất mệt vì một ngày và một tối căng thẳng nhưng cũng rất hài lòng với chính mình và sự diễn tiến. Ông ngủ ngay, không một chút lo âu, không một chút linh cảm ảm đạm vẫn giày vò ông cho tới tận tối hôm qua mỗi khi tắt đèn khiến ông thức trắng, ông ngủ không mộng mị, không rền rĩ, không co giật hay trăn trở bồn chồn. Lâu rồi ông mới có được một giấc ngủ ngon, thanh thản và hồi sức.
Cùng lúc ấy Grenouille chồm dậy trong chuồng ngựa. Gã cũng hài lòng với chính mình và với diễn tiến, thấy rất tỉnh táo dù chẳng ngủ một giây nào. Khi Richis vào chuồng ngựa để tìm gã, gã chỉ giả vờ ngủ để tạo rõ thêm nữa ấn tượng rằng gã vô hại. dù thật ra gã không có mùi đã đủ gây ấn tượng ấy rồi. Khác hẳn với Richis cảm nhận về gã, gã đã cảm nhận Richis hết sức chính xác qua khứu giác và sự kiện Richis như được trút bỏ gánh nặng không qua mắt gã.
Qua lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy người này tin vào sự vô tâm của người kia, một người đúng còn một người nhầm. Grenouille thấy như thế là tốt vì vô tâm giả của gã và sự vô tâm thật của Richis sẽ thuận lợi cho công việc của gã, chắc chắn Richis cũng sẽ nghĩ thế thôi nếu như xảy ra ngược lại.

45

Grenouille bắt tay vào việc với một sự ung dung chuyên nghiệp. Gã mở túi hành lý lấy ra cái khăn len, pomát và một cái que, rồi trải khăn lên cái chăn gã vừa mới nằm  đây, bắt đầu phết mỡ lên đấy. Đây là một công trình đòi hỏi nhiều thì giờ vì chỗ này phết lên một lớp mỡ dày, chỗ kia lại mỏng hơn tùy theo chỗ đó ôm bộ phận nào của cơ thể. Miệng, nách, ngực, bộ phận sinh dục, bàn chân cho nhiều mùi hơn ống chân, lưng, khuỷu tay chẳng hạn, lòng bàn tay cho nhiều mùi hơn mu bàn tay, lông mày nhiều hơn lông mi, vân vân. Và vì thế cần có nhiều mỡ cho tương xứng. Như thế có thể nói là Grenouille đắp lên tấm chăn mô hình của cái thân thể dưới dạng mùi thơm. Nói cho đúng thì việc làm này gã thích thú nhất vì nó chẳng khác gì nghệ thuật, đòi hỏi cùng lúc sự biết suy nghĩ, óc tưởng tượng, và đôi tay khéo léo, ngoài ra còn được thưởng thức trước một cách hay ho cái thành quả cuối cùng đang chờ đón.
Sau khi đã bôi hết mỡ trong hũ sành, gã còn chấm thêm đây đó ,lấy bớt mỡ chỗ này thêm vào chỗ kia, sửa lại, kiểm tra một lần nữa cái mô hình cảnh vật bằng mỡ, kiểm bằng mũi chứ không phải bằng mắt đâu nhé, vì gã làm việc này trong đêm tối om, đó có thể là một lý do nữa làm cho Grenouille vui vẻ và bình thản. Trong cái đêm không trăng này sẽ chẳng có gì khiến gã phải chia trí cả. Thế giới này chẳng có gì ngoài một chút ít mùi và tiếng sóng biển vỗ bờ. Đây là môi trường của gã. Đoạn gã gấp khăn lại như gấp thảm để những chỗ bôi mỡ chồng lên nhau. Gã thấy đau đớn vì biết rõ khi gấp như thế dù cẩn thận đến đâu một phần của cái đường nét vừa hình thành cũng sẽ bị bẹt và lệch đi, nhưng không có cách nào khác để mang theo tấm khăn. Sau khi đã gấp đủ gọn để có thể vắt lên tay mà không vướng víu, gã nhét que, kéo và khúc gỗ ô liu vào túi rồi lẻn ra ngoài.
Bầu trời đầy mây. Đèn trong nhà đã tắt cả. Ánh lập loè duy nhất trong cái đêm tối như mực này nhấp nháy ở phía đông, nơi ngọn hải đăng của pháo đài trên đảo Saint-Marguerite cách đây hơn một dặm như một đầu kim sáng nhỏ xíu trên tấm khăn đen ngòm. Từ phía vịnh thổi lại một cơn gió nhẹ mang mùi cá.  Lũ chó ngủ yên.
Grenouille đi tới cái cửa tò vò cuối cùng của nhà xay, ở đó có kê một cái thang. Gã nâng cái thang, giữ cho ngay bằng cách dùng một tay phải kẹp ba bậc thang, phần còn lại ép sát vào vai phải, đi như thế ngang sân tới dưới cửa sổ phòng nàng. Cửa sổ mở hé. Trong khi leo lên thang cũng dễ dàng như leo tam cấp, gã mừng vì hoàn cảnh cho gã lấy mùi thơm của cô gái ở Napoule này. Ở Grasse với cửa sổ có song sắt rồi dinh cơ được canh gác nghiêm cẩn thì mọi chuyện sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Ở đây, cô nàng thậm chí ngủ riêng một phòng. Gã không phải mất công giải quyết người tớ gái.
Gã đẩy cánh cửa sổ ra, chui vào phòng, để tấm chăn xuống đất. Rồi gã về hướng cái giường. Mùi thơm của tóc nàng vượt lên tất cả vì nàng nằm sấp, úp mặt trên gối, tay khoanh quanh đầu, phía sau đầu lộ ra rất tiện cho một cú đánh bằng gậy.
Tiếng nện nghe khô khốc và lạo xạo. Gã ghét cái thứ tiếng ấy. Gã ghét chỉ bởi vì đó là một tiếng động trong cái công việc đáng ra phải lặng lẽ như tờ của gã. Gã phải nghiến răng lại mới chịu đựng nổi cái thứ tiếng kinh tởm ấy, rồi sau khi xong xuôi gã còn đứng ngay đơ và tức tối mất một lúc, bàn tay cầm khúc gỗ co thắt lại như thể gã sợ cái tiếng động nọ có thể trở về đâu đó như một tiếng vọng. Không phải tiếng động mà là sự im ắng quay trở lại trong căn phòng, thậm chí còn im ắng hơn vì bây giờ không còn hơi thở nặng nề của cô gái nữa. Rồi tư thế căng thẳng của Grenouille chợt biến mất (cũng có thể gọi đó là một tư thế thành kính hoặc giả một phút mặc niệm cứng đờ). Thân thể gã mềm dẻo trở lại.
Gã cất khúc gỗ đi và bây giờ chỉ còn tất bật với công việc. Trước hết gã giở tấm khăn ra, trải sơ mặt dưới lên bàn và ghế, cẩn thận không để dính vào mặt có mỡ. Đoạn gã kéo chăn. Mùi thơm tuyệt diệu của nàng bốc lên, nồng ấm và cuồn cuộn nhưng không làm cho gã xúc động. Gã biết rồi, còn thưởng thức, thưởng thức đến say mèm thì để sau, khi gã thật sự làm chủ nó. Bây giờ phải lấy cho được thật nhiều, để mất thật ít, bây giờ phải tập trung và thật lẹ.
Gã dùng kéo mau lẹ rọc áo ngủ của nàng, cởi ra, vớ cái khăn tẩm mỡ chụp lên cái thân thể trần truồng. Rồi gã bế nàng lên, nhét cái khăn lòng thòng xuống phía dưới, lăn nàng như thợ bánh mì lăn bánh, túm đầu khăn, phủ kín nàng từ đầu đến chân. Chỉ có mái tóc còn thò ra khỏi cái xác ướp. Gã cắt tóc nàng sát da đầu, gói trong áo ngủ của nàng rồi buộc thành một gói. Sau hết gã ép chỗ dư của miếng khăn lên cái sọ đã trụi tóc, vuốt cho phẳng phiu, nhẹ nhàng dùng ngón tay ấn sát. Gã kiểm lại cái bó, không một kẽ hở, không một lỗ nhỏ, không một nếp gấp cộm lên toang hoác để mùi thơm của cô gái bay mất được. Nàng đã được gói rất kỹ. Không còn gì để làm nữa, ngoài việc đợi, đợi suốt sáu tiếng cho đến khi trời tờ mờ sáng.
Gã kéo cái cái ghế tựa có để quần áo của nàng sát lại gần giường, ngồi xuống đó.  Trong bộ đồ đen rộng còn phảng phất một làn hương thơm của nàng, còn lẫn với mùi hồi trong bánh ăn dọc đường nhét vào túi. Gã để chân lên thành giường gần chỗ chân nàng, lấy bộ đồ nàng đắp lên người rồi ăn chiếc bánh hồi. Gã mệt. Gã muốn ngủ nhưng ai lại đi nằm ngủ trong lúc đang làm việc, cho dù làm việc lúc này chỉ là chờ đợi. Gã hồi tưởng lại những đêm ngồi chưng cất trong xưởng của ông Baldini: cái nồi chưng đen bồ hóng, ánh lửa chập chùng, tiếng tinh chất từ ống làm lạnh nhỏ giọt nhè nhẹ trong bình Florentine. Thỉnh thoảng phải xem lại lửa, phải thêm nước vào cho nồi cất, đổi bình Florentine, thay bã trong nồi. Tuy nhiên gã luôn luôn nghĩ rằng người ta không thức canh để làm những thứ việc năm thì mười họa này mà sự thức canh có ý nghĩa riêng của nó. Theo Grenouille thì ngay trong căn phòng này đây sự thức canh cũng quan trọng dù có là cái quy trình enfleurage tự nó diễn ra, đúng thế, ngay cả kiểm tra không đúng lúc, lật lên hay tác động vào cái bó thơm kia sẽ chỉ tác dụng không tốt. Ngủ sẽ phương hại đến cái thần của thành quả.
Ngoài ra gã thấy thức chờ, canh không khó khăn gì dù gã mệt. Gã thích lần chờ đợi này. Ở hai mươi bốn cô trước gã cũng thích chờ chứ, vì đó không phải là một sự chờ đợi vớ vẩn cho qua thì giờ hay có ý mong đợi mà là một sự chờ đợi đi kèm với công việc, có ý nghĩa, trong một chừng mực là cần thiết. Trong khi chờ đợi cũng xảy ra đôi việc chứ: cái chính yếu đang diễn ra. Dù chính gã chẳng làm gì cả thì nó cũng vẫn diễn ra thông qua gã. Gã đã làm hết sức mình. Có bao nhiêu thủ thuật gã đã đem ra cả. Không phạm một sơ xuất nào. Tác phẩm của gã quả có một không hai. Thành công này sẽ đem lại cho nó vòng vương miện… Chi còn phải chờ thêm vài ba tiếng nữa thôi. Lần chờ đợi này làm cho gã vô cùng thỏa mãn. Trong đời, kể cả lúc ở trên núi trước kia, gã chưa từng thấy thoải mái, bình thản, kiên định, trọn vẹn và hài lòng như những giờ nghỉ trong khi làm việc như thế này, thức canh bên nạn nhân của mình trong đêm khuya. Đó là những khoảnh khắc hiếm hoi mà trong cái đầu óc đen tối của gã có được vài ý nghĩ vui vẻ.
Lạ lùng làm sao, những ý nghĩ này lại không hướng đến tương lai. Gã không nghĩ tới cái mùi thơm sẽ gặt hái được trong vài tiếng nữa, không nghĩ tới cái nước thơm từ tinh hoa của hai mươi lăm cô gái, không nghĩ đến những dự tính, may mắn và thành công trong tương lai. Không, gã tưởng nhớ về quá khứ. Gã nhớ lại những chặng đời của gã từ ngôi nhà của Madame Gaillard với đống gỗ ẩm và ấm trước cửa nhà cho đến chuyến đi hôm nay đến cái làng có mùi cá ở Napoule nhỏ bé này. Gã nhớ lại người thợ thuộc da Grimal, nhớ lại Giuseppe Baldini và Hầu tước de la Taillade-Espinasse. Gã nhớ lại thành phố Paris với cái hơi thở nồng nặc của hàng nghìn thứ mùi, gã nhớ đến cô bé tóc đỏ ở Rue des Marais, đến vùng quê mở rộng, đến những làn gió nhẹ và những cánh rừng. Gã cũng nhớ đến ngọn núi ở vùng Auvergne, đến cái hang của gã, đến cái không khí không bợn hơi người, gã không hề né tránh những kỷ niệm này. Gã nhớ đến cả những giấc mơ. Gã nhớ đến tất cả với chan chứa hài lòng. Đúng vậy, vì khi nhớ lại như thế thì gã thấy hình như gã là một người có may mắn đặc biệt và tuy số phận đã khiến gã phải chịu nhiều phen khốn khổ nhưng cuối cùng vẫn dẫn gã đúng đường, nếu không thì làm sao gã có thể tìm tới tận đây, trong căn phòng tối om này, đến được với cái đích của mong muốn? Nghĩ cho kỹ thì gã đúng là một đứa được thần tài phù hộ!
Gã xúc động, khiêm tốn và biết ơn. “Cám ơn mi”, gã nói khẽ, “Cám ơn mi, Jean Bapiste Grenouille, vì mi đã thật là mi!”. Gã cảm động quá chừng.
Rồi gã nhắm mắt lại, không phải để ngủ mà để say đắm với sự yên bình của cái đêm thiêng liêng. Yên bình trong trái tim gã. Và cả chung quanh nữa, như gã thấy. Gã ngửi thấy giấc ngủ êm đềm của người tớ gái trong phòng bên, giấc ngủ đầy vẻ hài lòng của Antoine Richis bên kia hành lang, gã ngửi thấy giấc ngủ hiền hòa  của chủ quán và bọn người làm, của lũ chó, những con vật trong chuồng ngựa, của cả cái làng này và của biển. Gió lặng rồi. Mọi sự đều yên ắng. Không có gì làm xáo trộn sự yên bình.
Gã co chân sang bên, chạm nhẹ chân Laure. Đúng ra không phải chân gã chạm chân nàng mà chạm phải cái khăn mỏng tẩm một lớp mỡ bọc chân nàng, thẫm đẫm mùi thơm tuyệt diệu của nàng.

46

Khi chim chóc bắt đầu kêu, nghĩa là còn khá lâu mới hửng sáng, gã đứng lên, làm nốt công việc. Gã giở tấm chăn ra, lột khỏi người chết như lột một miếng băng dán. Lớp mỡ tróc dễ dàng khỏi da. Chỉ ở những chỗ góc cạnh mới vướng lại một ít và gã lấy que hớt nốt. Gã lấy áo lót của Laure lau những vệt mỡ còn sót rồi chà từ đầu đến chân, kỹ đến nỗi cả chút dầu dính trong lỗ chân lông cũng dính theo, nghĩa là không sót một mảnh vụn mùi thơm nào của nàng. Đối với gã thì chỉ lúc ấy nàng mới thật sự chết, như đống hoa khi thải ra, héo rũ, nhợt nhạt, èo uột.
Gã ném cái áo lót vào cái khăn đẫm hơi nàng, chỉ trong cái khăn này nàng vẫn thành phố tục sống, gã để thêm bộ áo ngủ bọc tóc nàng vào đấy rồi cuộn chặt thành một gói nhỏ, kẹp trong cánh tay. Gã chẳng thèm đậy cái xác lại. Và mặc dù đêm đen đã chuyển sang tờ mờ sáng màu xám xanh và mọi vật trong phòng đã bắt đầu rõ nét, gã cũng không ném lấy được một cái nhìn xuống giường để nhìn nàng bằng mắt một lần duy nhất trong đời. Gã đâu chú ý gì đến hình dáng của nàng. Đôi với gã thì nàng đâu còn nữa trong cơ thể mà chỉ còn trong cái mùi thơm không thân xác thôi. Cái mùi thơm ấy gã mang theo, kẹp chặt trong tay.
Gã nhẹ nhàng nhảy lên thành cửa sổ, trèo xuống thang. Ngoài trời gió lại nổi lên, bầu trời sáng rõ ra, chiếu sáng lạnh lẽo màu xanh đậm lên cảnh vật.
Nửa tiếng sau những tớ gái nhóm lửa trong nhà bếp. Khi ra ngoài nhà lấy củi, cô thấy cái thang tựa ở đó nhưng vì còn ngái ngủ nên chẳng nghĩ ngợi gì. Sau sáu giờ thì mặt trời ló dạng, vươn lên từ biển giữa hai hòn đảo Lérins, đỏ chói, khổng lồ. Bầu trời không một gợn mây. Một ngày xuân phơi phới bắt đầu.
Richis thức dậy vào lúc bảy giờ trong căn phòng ở hướng tây của ông. Đây là lần đầu từ nhiều tháng nay ông mới thật sự ngủ ngon. Trái với thói quen, ông nằm nán thêm mười lăm phút, vươn người, thở phào sảng khoái, lắng nghe tiếng xôn xao dễ chịu vọng lên từ nhà bếp. Khi ông dứng dậy mở toang cửa sổ, thấy bên ngoài trời đẹp, hít không khí ban mai thơm ngát, nghe sóng biển vỗ bờ thì ông hào hứng tràn trề, chúm môi thổi một khúc hát vui tươi.
Ông huýt sáo lúc mặc áo quần và vẫn tiếp tục huýt sáo khi rời khỏi phòng nhanh nhẹn bước qua hành lang đến phòng con gái. Ông gõ cửa. Ông gõ nữa, rất khẽ để cô khỏi kinh động. Không có tiếng trả lời. Ông cười. Ông biết cô còn ngủ.
Ông rón rén tra chìa khóa vào ổ, nhẹ nhàng quay then gài, thật nhẹ để cô không thức giấc, gần như khao khát được thấy cô còn ngủ, để được đánh thức cô dậy bằng nụ hôn, một lần nữa, làn cuối cùng trước khi ông phải trao cô cho một người đàn ông khác.
Cửa bật mở, ông bước vào phòng, ánh sáng mặt trời vụt thẳng vào mặt. Mọi vật sáng choang như thể căn phòng lấp lánh những bạc làm ông phải nhắm mắt một lúc vì chói quá.
Khi mở mắt ra, ông thấy Laure nằm chết trên giường, trần truồng, trắng toát, tóc bị cắt sạch. Giống như cơn ác mộng ông mơ ở Grasse đêm hôm kia mà ông đã quên, giờ đây giấc mơ ấy như được một tia chớp soi rọi lại trong trí nhớ. Mọi sự bỗng dưng y hệt như giấc mơ nọ, có điều sáng chói hơn nhiều.

47

Tin Laure Richis bị giết truyền rất nhanh khắp vùng Grasse gây kinh hoàng chẳng kém, có khi còn hơn tin “Đức Vua băng hà!” hay “Chiến tranh!” hoặc “Bọn cướp biển đổ bộ lên bờ!”. Bỗng dưng sự sợ hãi mà người ta cố tình quên hết sạch vụt trở về, tai hại như trong mùa thu năm ngoái với mọi biểu hiện kèm theo: hốt hoảng, giận dữ, phẫn nộ, nghi ngờ bừa bãi và tuyệt vọng. Tối đến người ta ở nhà, giấu kín con gái, gài thật chắc mọi cửa giả, nghi kỵ lẫn nhau, không ngủ nữa. Ai cũng nghĩ sẽ lại như trước kia, mỗi tuần một vụ giết người. Chẳng khác gì thời gian quay ngược lại nửa năm.
Sự sợ hãi lần này làm thiên hạ đờ người ra., hơn cả nửa năm trước vì sự quay lại đột ngột của nỗi nguy hiểm tưởng đã qua từ lâu khiến người ta cảm thấy bất lực. Khi mà ngay cả lệnh rút phép thông công của đức giám mục cũng chẳng có tác dụng gì, khi mà ngay cả Antoine Richis, Richis vĩ đại, công dân giàu có nhất thành phố, đệ nhị tổng lý, một nhân vật uy quyền, thận trọng và có đủ mọi phương tiện cũng đã không thể che chở nổi con mình, khi mà bàn tay của tên sát nhân không chùn lại trước sắc đẹp thánh thiện của Laure - quả thật cô như một thánh nữ đôi với những người đã biết cô, đặc biệt bây giờ sau khi cô chết - thì còn hi vọng nào để thoát được kẻ giết người? Hắn tàn bạo hơn cả dịch hạch, vì người ta còn có thể trốn chạy bệnh dịch chứ không thể chạy trốn kẻ giết người, như trường hợp Richis đã cho thấy. Chắc hắn có những năng lực siêu nhiên. Chắc chắn hắn đã liên minh với ma quỷ nếu không phải chính hắn là ma quỷ. Thế là nhiều người, trước hết là những người dễ tin, không biết làm gì hay hơn là đi nhà thờ cầu nguyện. Ngành nghề nào cầu thánh bảo hộ nghê nấy, thợ nguội cầu thánh Aloysius, thợ dệt cầu thánh Krispinius, người làm vườn cầu thánh Antonius, người làm nước hoa cầu thánh Josephus. Và họ dẫn theo cả vợ lẫn con gái, cùng cầu nguyện, ăn ngủ trong nhà thờ, không ra khỏi nhà thờ nữa ngay cả ban ngày, họ tin rằng tìm thấy khả năng an toàn duy nhất, nếu như còn có an toàn, dưới sự che chở của cái cộng đồng tuyệt vọng và dưới mắt của Đức Bà.
Bởi vì giáo hội đã một lần thất bại, những kẻ ranh mãnh hơn họp thành những nhóm bí mật, bỏ ra nhiều tiền thuê một mụ phù thủy có giấy phép hành nghề ở Gourdon, rồi chui vào một trong nhiều hang đá vôi dưới lòng đất ở Grasse, tổ chức những buổi lễ cầu quỷ satan mong được quỷ đóai thương. Còn những người khác, đa số thuộc loại trưởng giả và quý tộc có học thức, lại bỏ tiền vào những phương pháp khoa học tân tiến nhất như “từ trường hóa” nhà cửa của họ, thôi miên con gái họ, tụ tập trong phòng khách thành những nhóm trầm tư mặc tưởng tĩnh lặng, thử dùng sự truyền tư tưởng tập thể để trục hồn của tên sát nhân qua thần giao cách cảm. Các phường hội tổ chức một buổi rước sám hối từ Grasse đi Napoule rồi trở về. Tu sĩ của năm tu viện trong thành phố tổ chức một lễ cầu an thường trực, hát liên tục, thành một lời than vãn không dứt, nay nghe thấy ở góc này, lát nghe thấy ở nơi khác trong thành phố, suốt ngày đêm. Chẳng có ai làm việc cả.
Người dân thành Grasse gần như là sốt ruột mong chờ vụ giết người kế tiếp trong sự thụ động náo nhiệt như thế đấy. Nó sắp xảy ra, không ai hoài nghi nữa cả. Người nào cũng âm thầm chờ cái tin khủng khiếp ấy với niềm hi vọng độc nhất rằng không phải cho mình mà cho người khác.
Tuy nhiên lần này các quan chức trong thành phố, vùng và tỉnh không để nhiễm phải tâm trạng kích động của đám dân đen như trước nữa. Lần đầu tiên kể từ khi tên sát nhân xuất hiện, một sự phối hợp có kế hoạch và hiệu quả hình thành giữa các cơ quan hành chính của Grasse, Draguignan và Toulon, giữa các biện lý, cảnh sát, quan giám quận, toà án tối cao của vùng và hải quân.
Sự hợp tác giữa các vị có quyền thế một phần là vì họ sợ dân chúng nổi loạn, mặt khác chỉ vì sau khi Laure Richis bị giết, người ta mới có được những đầu mối khiến có thể truy nã được hung thủ một cách có kế hoạch. Có người đã trông thấy tên sát nhân. Hẳn là cái tay thợ thuộc da đáng nghi nọ, trong đêm xảy ra án mạng, hắn có mặt trong chuồng ngựa của lữ quán làng Napoule và sáng hôm sau biến mất không tông tích. Theo những lời khai trùng hợp của chủ quán, của gã giữ chuồng ngựa và của Richis thì hắn nhỏ người, không có gì đặc biệt, áo khoác nâu và túi hành lý bằng len thô. Mặc dù trí nhớ của ba nhân chứng về những đặc điểm khác mơ hồ một cách kỳ lạ, chẳng hạn họ không thể tả được nét mặt, màu tóc hay cách ăn nói của hắn, nhưng chủ quán nói được rằng ông để ý thấy bộ dạng và dáng đi của kẻ lạ mặt có vẻ vụng về, cà nhắc như bị thương ở chân hay một bàn chân què quặt, nếu như ông không nhầm.
Có được những dấu hiệu này, ngay gần trưa hôm sau xảy ra án mạng, hai đội kỵ binh của Maréchaussée (hiến binh) đã theo hướng Marseille truy lùng hung thủ, một đội dọc bờ biển còn một đội kia theo con đường trong đât liền. Người ta cho những người tình nguyện lục soát khắp vùng chung quanh Napoule. Tòa án Grasse gởi hai phái viên đến Nice để điều tra về tay thợ thuộc da này. Ở các cảng Fréjus, Cannes và Antibes người ta kiểm soát mọi chuyến tàu rời bến, ở biên giới với Savoy mọi con đường bị chặn hết, ai qua đều phải trình giấy tờ. Một yết thị truy nã tả hung thủ cho những ai biết đọc dán tại các cổng thành Grasse, Vence, Gourdon và tại cổng nhà thờ của tất cả các làng. Yết thị này được rao to một ngày ba lần. Tuy nhiên dữ kiện cái chân tình nghi bị què lại càng củng cố thêm cái quan điểm chính hung thủ là quỷ sứ và vì thế gây hoảng hốt trong dân chúng hơn là được họ cung cấp thêm những thông tin có ích.
Chỉ sau khi chánh án tòa án Grasse, được ông Richis ủy nhiệm, bố cáo một phần thưởng không dưới hai trăm livre cho tin tức nào giúp bắt được hung thủ thì vài thợ thuộc da ở Grasse, Opio và Gourdon mới bị bắt qua tố giác, trong số đó có một tay chẳng may cà nhắc thật. Người ta đã định đem hắn ra tra tấn dù bằng chứng vắng mặt của hắn được nhiều nhân chứng xác nhận, thì - lúc ấy là ngày thứ mười sau khi án mạng xảy ra - một những trong đội lính gác thành phố trình diện ở biện lý và khai với các quan tòa như sau: ông ta tên là Gabriel Tagliasco, trưởng một đội gác thành phố, trưa hôm xảy ra án mạng, ông làm nhiệm vụ như bình thường ở Porte du Cours thì một gã khá giống như tả trong yết thị truy nã, như ông ta được biết bây giờ, đã đến bắt chuyện, không ngớt hỏi soi mói ngài đệ nhị tổng lý và đoàn người ngựa sáng hôm ấy đã rời thành phố theo con đường nào. Lúc đó và cả sau này ông không hề thắc mắc về dữ kiện trên, còn về gã nọ thì tự ông ta chắc chắn không tài nào nhớ ra nổi vì gã hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt, đáng để chú ý cả nếu như hôm qua ông không tình cớ gặp lại gã ngay tại thành Grasse này, trước xưởng của Maitre Druot và Madame Arnulfi ở Rue de la Louve, khi gã quay vào xưởng thì ông ta nhận thấy gã bị cà nhắc.
Một giờ sau Grenouille bị bắt. Chủ lữ quán ở Napoule và tay giữ chuồng ngựa đang có mặt ở Grasse để nhận diện những kẻ bị tình nghi nhận ngay ra gã là tay thợ thuộc da đã trọ đêm trong quán, chính là gã chứ không ai khác cả, gã hẳn là tên sát nhân đang bị truy bắt.
Người ta lục soát xưởng và căn lều trong vườn ô liu sau tu viện dòng Franciscain. Cái áo ngủ bị rọc, áo lót và mái tóc đỏ của Laure Richis nằm trong một góc, chỉ che giấu sơ. Khi đào nền, lần lần tìm thấy quần áo và tóc của hai mươi bốn cô gái kia. Người ta cũng tìm thấy cái túi hành lý bằng len cùng thanh gỗ gã dùng để nện các nạn nhân. Bằng chứng không chối cãi được. Người ta rung chuông nhà thờ. Viên chánh án cho dán yết thị và rao truyền rằng sau gần một năm truy tìm, tên sát nhân bỉ ổi đã bị bắt giam.

48

Thoạt tiên người dân không tin vào bố cáo. Họ cho rằng đó là kế để cơ quan công quyền che đậy sự bất lực của mình và trấn an không khí sục sôi nguy hiểm trong dân chúng. Họ còn nhớ rất rõ cái lần bố cáo rằng tên sát nhân đã đi Grenoble rồi. Lần này sự sợ hãi khắc quá sâu trong đầu óc họ.
Hôm sau, những tang vật được trưng bầy công khai tại quảng trường trước tòa thị chính, thật là rùng rợn khi nhìn thấy hai mươi lăm bộ áo quần với hai mươi lăm mái tóc móc thành hàng trên cột trước mặt nhà thờ như những bù nhìn đuổi chim, chỉ lúc ấy dư luận dân chúng mới thay đổi.
Từng đoàn hàng trăm người đi ngang cuộc trưng bày khủng khiếp. Thân nhân của những cô gái nhận ra áo quần của họ, khóc chết ngất. Những người khác muốn được nhìn thấy hung thủ, phần do hiếu kỳ, phần để được thuyết phục hoàn toàn. Người ta lớn tiếng đòi thấy gã, cái quảng trường nhỏ đầy ních người náo động đầy đe dọa khiến viên chánh án quyết định cho đem Grenouille từ phòng giam lên một cửa sổ lầu trên của tòa thị chính để trình diện gã trước dân chúng.
Khi Grenouille tới sát cửa sổ thì những tiếng la hét im bặt. Bỗng dưng hoàn toàn im ắng như vào một buổi trưa hè nóng nực và mọi người ở ngoài đồng hay chui vào một xó mát trong nhà. Không nghe một tiếng bước chân, một tiếng hắng giọng, một hơi thở. Đám người trố mắt, há miệng nhìn, mấy phút liền. Không ai có thể ngờ được cái gã nhỏ thó, lom khom, luống cuống nơi cái cửa sổ kia, cái đồ tầm thường kia, cái đống hèn mọn kia, cái con số không kia lại là hung thủ của hơn hai mươi vụ giết người. Gã chẳng có vẻ gì giống một tên sát nhân cả. Tuy không có ai có thể nói được con quỷ sát nhân lẽ ra phải như thế nào nhưng mọi người đều nhất trí rằng không thể như thế kia! Kẻ giết người không giống như thiên hạ tưởng, do đó lẽ ra ai cũng sẽ nghĩ rằng sự trình diện gã ít có sức thuyết phục, vậy mà, nghịch lý làm sao, nội cái chuyện con người này xuất hiện bằng xương bằng thịt trước cửa sổ và dữ kiện chỉ có gã chứ không còn ai khác được trình diện là kẻ giết người cũng đủ thuyết phục rồi. Họ đều nghĩ không đúng! Nhưng ngay lúc ấy họ biết rằng hẳn phải đúng.
Nói cho đúng thì chỉ sau khi lính gác lôi cái con người nhỏ thó kia khỏi cửa sổ, nghĩa là chỉ sau khi gã không còn đó, không còn trông thấy nữa mà chỉ còn như ký ức trong một tích tắc, hay có thể nói chỉ còn như một khái niệm - cái khái niệm về một tên sát nhân ghê tởm trong đầu óc thiên hạ, chỉ lúc ấy sự sửng sốt mới biến đi, nhường chỗ cho một phản ứng thích đáng: miệng họ ngậm lại, cả nghìn con mắt hồi sinh. Rồi một tiếng kêu đồng loạt, phẫn nộ đòi báo thù duy nhất vang như sấm “Giao gã ngay!”. Họ rục rịch chực xông vào tòa thị chính, muốn được tự tay bóp cổ gã, xé xác gã, băm vằm gã. Lính gác phải hết sức mới chặn được cổng, đẩy lui đám đông. Grenouille được đưa ngay xuống phòng giam. Viên chánh án tiến lại cửa sổ, hứa sẽ xử nhanh chóng và nghiêm khắc để làm gương.Nhưng cũng phải mất mấy giờ sau đám đông mới giải tán, mấy ngày sau thành phố mới tạm yên.
Quả nhiên vụ xử Grenouille tiến hành hết sức nhậm lẹ, không những vì tang vật rành rành mà còn vì bị can thú nhận không né tránh tội trạng những vụ giết người quy cho gã trong những lần hỏi cung.
Chỉ khi hỏi về lý do thì gã không trả lời được thỏa đáng. Gã cứ lập đi lập lại rằng gã cần những cô gái ấy nên phải đập chết họ. Khi hỏi gã cần họ để làm gì và thế nào là cần thì gã im lặng. Cho nên người ta cho tra tấn gã, treo gã ngược đầu luôn mấy tiếng, đổ vào miệng bảy pinte nước, kẹp chân mà chẳng ăn thua gì.  Gã như thể vô cảm giác trước những nhục hình, chẳng kêu lấy một tiếng và mỗi khi bị hỏi đều không trả lời gì khác hơn “Tôi cần họ”. Quan tòa cho rằng gã bị tâm thần. Họ ngừng tra tấn và quyết định xử cho xong, không thẩm vấn nữa.
Điều duy nhất gây nên trì hoãn là sự tranh chấp về mặt pháp lý với biện lý của Draguignan có thẩm quyền cho cả  La Napoule và với tòa án tôi cao vùng Aix, hai nơi này đều muốn giành xử vụ án. Nhưng quan tòa thành Grasse đâu có chịu. Chính họ đã bắt hung thủ, đa số vụ án mạng xảy ra trong phạm vi thẩm quyền của họ, nếu giao tên sát nhân cho một tòa án khác thì họ sẽ phải chịu hứng cơn thịnh nộ của dân chúng. Máu của hắn phải chảy ở Grasse này.
Ngày 15 tháng Tư năm 1766 bản án được phán quyết và tuyên đọc cho bị cáo nghe trong phòng giam như sau: 

"Trong vòng bốn mươi tám tiếng, tay thợ làm nước hoa Jean-Baptiste Grenouille sẽ bị điệu ra quảng trường trước cổng thành, tại đây bị trói vào một thập tự bằng gỗ, ngửa mặt lên trời, sẽ bị đánh ngay khi còn sống mười hai lần bằng gậy sắt cho nát những khớp xương tay, chân, hông, vai, sau đó phơi trên thập tự cho đến chết”. 

Viên đao phủ bị nghiêm cấm không được ban ân huệ cuối cùng như bình thường là dùng dây thắt cổ phạm nhân sau khi các xương vừa nói đã bị đánh nát, dù cho gã phải chịu đau khổ nhiều ngày trước khi chết. Xác sẽ đem vùi nơi chôn xác thú vật vào ban đêm và không được ghi dấu.
Grenouille bình thản tiếp nhận bản án. Viên thừa phát lại hỏi gã điều mong muốn cuối cùng, “Không cần gì cả”, Grenouille đáp, gã có đủ những thứ cần thiết rồi.
Một linh mục bước vào phòng giam dể cho gã xưng tội nhưng trở ra mười lăm phút uổng công. Kẻ bị kết án ngó ông lom lom, ngớ ra không hiểu khi nói đến Chúa, như thể gã mới vừa nghe đến lần đầu, rồi duỗi dài người trên bục, chìm ngay vào giấc ngủ say. Nói nữa cũng vô ích.
Trong hai ngày tiếp đó người ta lũ lượt đến để được thấy thật gần tên sát nhân nổi tiếng. Người gác ngục cho họ ghé mắt qua cái khe trên cửa phòng giam với giá sáu xu một lần nhìn. Một thợ chạm đồng muốn chạm phác chân dung gã phải trả hai quan. Nhưng mà đối tượng làm họ thất vọng. Kẻ tử tù nằm ngủ miết trên bục, chân tay bị xích. Gã quay mặt vào tường, không phản ứng dù gõ cửa hay kêu. Người vào xem bị nghiêm cấm không được vào phòng giam, nên người gác ngục không dám làm càn dù nhiều đề nghị rất hấp dẫn. Người ta sợ rằng gã có thể bị thân nhân của một trong những nạn nhân giết chưa phải lúc. Cũng vì thế mà không được dúi đồ ăn cho gã. Dám có thuốc độc lắm chứ. Suốt thời gian bị giam, Grenouille được cho ăn thức ăn của đám người làm trong tòa giám mục, sau khi viên quản ngục đã nếm trước. Tuy nhiên hai ngày gần đây gã không ăn gì cả. Gã chỉ nằm ngủ. Thỉnh thoảng nghe tiếng xích nghiến, khi người gác ngục chạy vội tới nhìn qua khe thì thấy gã uống một hớp nước từ chai rồi lại ngủ tiếp. Có vẻ như gã chán đời quá rồi, không muốn sống tỉnh táo những giờ cuối cùng nữa.
Trong khi đó quảng trường trước cổng thành được chuẩn bị cho vụ hành quyết. Thợ mộc dựng một giàn hành quyết, vuông vức mỗi chiều ba mét, cao hai mét, có bao lơn và cầu thang vững chắc, người ta chưa từng thấy một giàn hành quyết nào đồ sộ như thế ở Grasse. Rồi khán đài gỗ cho quan khách và một vòng rào cản để giữ đám dân đen ở một khoảng cách nhất định. Cửa sổ các nhà hai bên Porte du Cours và trong trại lính canh đã cho thuê với giá cắt cổ từ lâu. Ngay cả ở cái nhà thương nằm hơi chếch, tay phụ tá viên đao phủ cũng đã thuê lại phòng của bệnh nhân rồi cho những kẻ hiếu kỳ thuê tiếp, kiếm lời không ít. Người bán nước chanh pha sẵng hàng thùng nước cam thảo để dự trữ, người thợ chạm đồng cho in hàng trăm bản phác hoạ tên sát nhân mà ông ta đã phác trong nhà giam và gấp gáp thêm thắt qua tưởng tượng. Hàng tá những bán hàng rong đổ vào thành phố, thợ bánh mì nướng bánh lưu niệm.
Mấy năm nay không có phạm nhân nào phải đánh gẫy xương nên viên đao phủ Monsieur Papon, cho rèn một cây sắt nặng, vuông vức rồi vác vào lò mổ quật tới tấp trên xác thú vật. Ông chỉ được phép quật đúng mười hai lần vào mười hai khớp xương, phải nát mà không làm hại đến những bộ phận quý báu của cơ thể, chẳng hạn ngực hay đầu, đúng là một phận sự khó khăn, đòi hỏi một sự cực kỳ thông thạo.
Dân chúng chuẩn bị cho sự kiện này chẳng khác đón một ngày hội lớn. Nghỉ, không làm việc là chuyện đương nhiên rồi. Đàn bà ủi lễ phục cho thẳng thớm, đàn ông rũ áo khoác cho sạch bụi và cho đánh giầy ống thật bóng loáng. Ai có chức tước trong quân đội hay cơ quan công quyền, là trưởng phường hội, luật sư, công chứng viên, huynh trưởng giáo đoàn hay là gì quan trọng khác, thì đóng bộ đồng phục hay y phục chính thức với đủ mề đay, băng vải, dây chuyền và mang tóc giả rắc phấn trắng. Những người mộ đạo định sau khi xong xuôi sẽ họp lai cùng rước lễ, những kẻ khẩn cầu satan định sẽ làm lễ linh đình tạ ơn Ma vương, còn những nhà quý tộc có học thức sẽ đi họp về từ tính tại dinh cơ của các gia đình ở Cabris, Villeneuves và Fontmichels. Trong các nhà bếp, người ta nướng bánh, chiên thịt, lấy rượu vang từ dưới hầm, mua sẵn hoa ở chợ. Trong nhà thờ ban đồng ca đang tập dượt với người đánh đại phong cầm.
Tĩnh mịch phủ lên dinh cơ của ông Richis ở Rue Droite. Ông đã cấm chuẩn bị cho cái Ngày giải thoát - dân chúng gọi cái ngày hành quyết tên sát nhân như thế. Ông kinh tởm tất cả. Sự lo âu bùng lại bất chợt của thiên hạ làm ông gớm ghiếc, sự vui mừng náo nhiệt của họ làm ông kinh tởm. Ngay chính họ, cả lũ, làm ông kinh tởm. ông không dự buổi trình diện hung thủ và những nạn nhân của gã ở quảng trường trước nhà thờ, không dự phiên tòa, cũng không ở trong cái dòng người hiếu kỳ đáng ghét lũ lượt trước phòng giam tên tội phạm. Để nhận dạng tóc vào áo quần con gái, ông đã yêu cầu phía toà án đến nhà riêng, ông điềm tĩnh khai ngắn gọn rồi yêu cầu họ để lại những thứ trên để ông lưu niệm và được họ đồng ý. Ông mang vào phòng của Laure, để cái áo ngủ bị rọc và áo lót trên giường, trải búi tóc đỏ trên mặt gối rồi nhìn cả ngày lẫn đêm, không rời khỏi phòng, như thể ông muốn chuộc lại qua sự thức canh vô nghĩa này điều sơ suất ở La Napoule đêm hôm đó. Lòng ông chất đầy gớm ghiếc, gớm ghiếc thế giới, gớm ghiếc chính ông đã không thể khóc nổi.
Ông cũng gớm ghiếc cả tên sát nhân. Ông không muốn nhìn gã như người nữa mà chỉ như một nạn nhân bị tàn sát. Ông chỉ muốn nhìn gã ở buổi hành quyết, khi gã đã nằm trên thập tự giá và mười hai lần gậy sắt giáng nát xương gã, lúc ấy ông mới muốn nhìn thấy gã, nhìn thật gần, ông đã cho giữ chỗ ở một hàng đầu. Rồi sau khi dân chúng đã giải tán sau vài ba giờ, lúc ấy ông muốn bước xuống chỗ gã trên giàn hành quyết đẫm máu, ngồi xuống cạnh gã, thức canh suốt đêm, suốt ngày nếu cần thiết, ông sẽ nhìn vào mắt kẻ đã giết con gái ông, nhỏ vào mắt gã tất cả sự kinh tởm chất chứa trong người ông, hắt hết sự gớm ghiếc như a xít nóng bỏng vào gã trong cơn quằn quại hấp hối, cho đến khi con vật này chết một cách khốn khổ…
Rồi sau đó? Sau đó ông sẽ làm gì? Ông không biết. Có thể lại sống bình thường, có thể tục huyền, có thể sinh một đứa con trai, có thể không làm gì cả, có thể chết. Ông thấy sao cũng được. Suy nghĩ về câu hỏi này theo ông cũng vô nghĩa như suy nghĩ ông sẽ làm gì sau khi chết, chẳng làm gì, tất nhiên rồi. Chẳng làm gì cả, đấy là cái mà ông có thể biết lúc này.

49

Cuộc hành quyết được ấn định vào lúc năm giờ chiều. Những người hiếu kỳ đầu tiên đã tới ngay từ sáng để giữ chỗ. Họ mang theo ghế ngồi và ghế kê chân, nệm con, đồ ăn, rượu vang, và lũ con cái. Gần trưa dân quê từ mọi hướng nườm nượp kéo đến thì quảng trường đầy nghẹt, những kẻ đến sau phải tìm chỗ ở những thửa vườn và ruộng bậc thang thoai thoải phía bên kia và trên đường đi Grenoble. Hàng quán bán rất chạy, người ta ăn uống, ồn ào và náo nhiệt như ở hội chợ. Chẳng mấy chốc đã tới chục nghìn người, đông hơn cả hội chọn nữ hoàng hoa nhài, hơn cả đám rước lớn nhất, chưa từng thấy ở Grasse. Họ đứng tận trên sườn núi cheo leo. Họ bám trên cây, ngồi chồm hổm trên tường và nóc nhà, mười, mười hai người chen chúc nhau ở khung cửa sổ. Chỉ ở giữa quảng trường chừa một khoảng trống cho khánh đài và giàn hành quyết được chắn bởi những rào cản, như thể cái tảng bột được hình thành bởi đám người bị khoét mất chỗ đó vậy, còn giàn hành quyết bỗng dưng trông nhỏ xíu giống như đồ chơi hay như sân khấu dùng cho múa rối. Một lối đi từ pháp trường qua Porte du Cours tới tận Rue Droite cũng được chừa ra.
Ba giờ hơn, Monsieur Papon và người phụ tá xuất hiện. Tiếng vỗ tay ồ lên. Họ khiêng cái thập tự giá đóng bằng gỗ xà nhà lên giàn hành quyết, đặt trên bốn cái giá gỗ vững chắc để có được độ cao thích hợp lúc ra tay. Rồi một tay thợ mộc đóng đinh cho thật chắc. Mỗi một động tác của viên phụ tá đao phủ và người thợ mộc đều được vỗ tay tán thưởng. Đến khi Papon cầm gậy sắt lại gần, đi quanh giá gỗ, đo từng bước, đánh dứ phía này rồi phía nọ thì tiếng reo hò vang dậy.
Bốn giờ thì khán đài đông dần. Những ông nhà giàu đầy cung cách với gia nhân, những mệnh phụ xinh đẹp mang mũ rộng vành và áo quần óng ánh, nghĩa là có rất nhiều người quý phái để mà ngưỡng mộ. Tất cả giới quý tộc thành phố và vùng quê đều có mặt. Quý ông trong hội đồng thành phố đi thành đoàn, dẫn đầu bởi hai ngài tổng lý. Ông Richis mặc tang phục đen, mũ đen, tất đen. Theo sau Hội đồng là các viên chức toà án do ngài chánh án dẫn đầu. Sau cùng là đức giám mục được khiêng bằng kiệu mặc áo choàng tím rực rỡ, đội mũ màu xanh lá cây. Ai còn đội mũ thì lúc này ngả mũ chào. Không khí trở nên trang nghiêm.
Rồi gần mười phút liền chẳng có gì nhúc nhích. Quý ông quý bà đã yên vị, dân chúng cũng ngồi yên, không ai ăn uống nữa, mọi người chờ. Papon và tay phụ tá đứng như bị đóng đinh trên giàn hành quyết. Mặt trời to vàng lơ lửng trên ngọn núi Esterel. Một làn gió ấm từ vùng lòng chảo Grasse mang đến mùi thơm hoa cam. Trời rất nóng và im ắng lạ thường.
Rồi khi người ta ngỡ rằng sự căng thẳng không thể kéo dài thêm được nữa vì sẽ nổ bùng ngàn tiếng la ó, náo động hay điên loạn hoặc những hiện tượng gì khác của một đám đông thì trong im ắng có tiếng ngựa phi và tiếng bánh xe kẽo kẹt.
Một xe hai ngựa bít bùng đổ từ Rue Droite xuống, đó là xe của viên thiếu uý cảnh sát. Nó băng qua cổng thành và lúc này mọi người đều thấy nó trong cái lối đi hẹp dẫn ra pháp trường. Viên thiếu uý cảnh sát đòi phải làm như thế vì nếu không ông ta không tin rằng có thể bảo đảm an toàn cho phạm nhân. Tất nhiên hoàn toàn không bình thường tí nào. Nhà tù chỉ cách pháp trường không đầy năm phút và khi kẻ bị kết án vì lý do nào đó không đi bộ nổi một đoạn đường ngăn này thì cho lên xe hở mui, lừa kéo cũng được. Nhưng người ta chưa từng thấy một kẻ được chở đi hành quyết trong xe hòm, có xà ích, có người hầu mặc chế phục và có hộ vệ cưỡi ngựa theo hai bên như thế này bao giờ.
Tuy vậy không thấy đám đông xôn xao hay bực bội, mà ngược lại. Người ta hài lòng thấy có gì mới lạ, họ cho rằng dùng xe ngựa chở tù là một sáng kiến hay, giống như người ta vẫn thích thú khi được xem một vở kịch tuy đã biết rồi nhưng trình diễn bằng cách mới lạ, bất ngờ. Nhiều người còn cho rằng sự xuất hiện như thế là đúng tầm vóc. Một tội phạm ghê tởm lạ thường nhường ấy xứng đáng được đối xử ngoại lệ. Người ta không thể nào lôi gã trong xiềng xích tới pháp trường để gia hình như với một tên cướp đường tầm thường được. Thế thì chẳng còn gì là giật gân nữa cả. Đưa gã từ nệm xe đến thập tự giá, thế mới là sự tàn bạo đầy sáng tạo không gì bằng.
Chiếc xe ngựa dừng lại giữa giàn hành quyết và khán đài. Bọn gia nhân nhảy xuống, mở cửa xe, hạ bục đỡ chân xuống. Viên thiếu uý cảnh sát bước xuống trước, rồi đến một viên sĩ quan thuộc đội canh gác, Grenouille xuống sau chót. Gã khoác áo xanh da trời, sơ mi trắng, tất lụa trắng và giầy đen có khóa. Gã không bị trói. Không ai giữ tay gã cả. Gã bước xuống xe như một người hoàn toàn tự do.
Rồi một phép lạ xảy ra. Hay một cái gì giống như phép lạ vì không thể nào hiểu được, chưa từng thấy, không thể tin nổi khiến sau đó mọi nhân chứng sẽ đều gọi đó là phép lạ nếu như họ còn có dịp nhắc đến điều này. Nhưng dịp này không bao giờ đến bởi vì sau đó hết thảy bọn họ đều mắc cỡ vì đã có mặt.
Chỉ tại vì cả chục nghìn người trên quảng trường và trên những triền núi chung quanh bỗng chốc chan chứa niềm tin không lay chuyển rằng cái người nhỏ thó trong áo khoác xanh mới vừa từ xe ngựa bước xuống kia không thể nào là kẻ sát nhân được. Không phải họ hoài nghi rằng ở gã có chỗ nào trá ngụy! Đứng kia vẫn là con người mà họ đã thấy ở cửa sổ tòa thị chính, trên quảng trường nhà thờ mấy ngày trước, và nếu gã lọt vào tay họ thì họ sẽ nhai sống vì điên tiết rồi. Vẫn người đó đã bị kết án đúng luật hai ngày trước do những chứng cớ quá hiển nhiên và do tự thú nhận. Vẫn những đó mà một phút trước đây họ còn nôn nóng chờ tay đao phủ gia hình. Đúng là gã, không còn nghi ngờ gì nữa.
Ấy thế mà không phải gã, không thể là gã, gã không thể nào là tên sát nhân được. Cái người đàn ông đứng trên quảng trường kia là hiện thân của sự vô tội. Giây phút này ai cũng biết thế cả, từ đức giám mục đến gã bán nước chanh, từ bà hầu tước cho chí chị thợ giặt, từ ngài chánh án đến thằng nhóc cầu bơ cầu bất.
Cả Papon cũng biết thế. Và hai bàn tay cầm gậy sắt run rẩy. Hai cánh tay mạnh mẽ bỗng yếu xìu, đầu gối nhũn ra, sợ hãi như một đứa trẻ con. Chắc là ông ta không nhấc nổi cây gậy rồi, chẳng đời nào ông ta đủ sức nhấc gậy đánh cái con người vô tội nhỏ thó này. Ôi, ông ta sợ cái giây phút người ta dẫn gã lên giàn, ông - Papon dũng mãnh vĩ đại - run như cầy sấy, yếu đến nỗi phải chống cả cây gậy giết người để khỏi quỵ xuống!
Chục nghìn đàn ông, đàn bà, trẻ con, người già tụ tập ở đó cũng đều thế cả, họ nhũn người như một cô bé không cưỡng nổi vẻ quyến rũ của người tình. Lòng họ dạt dào mến thương, trìu mến, mê đắm rồ dại như trẻ nít. Lạy Chúa, họ yêu cả tên sát nhân nhỏ thó ấy nữa cơ, đúng như thế, mà họ không thể, không muốn cưỡng lại. Cũng như người ta không thể cưỡng được khóc, cưỡng được những dòng lệ bị nén từ lâu, nay trào lên từ đáy lòng, làm tan rã một cách kỳ diệu mọi sự dồn nén, hóa lỏng và tràn ngập tất cả. Trong lòng, linh hồn và trí tuệ của họ tan biến hết, họ chỉ còn là chất lỏng, một chất lỏng không hình thể, và không cảm thấy gì khác hơn là trái tim, họ bềnh bồng trong đó như một khối vật vờ, rồi từng người một đặt trái tim ấy vào bàn tay của người đàn ông nhỏ thó khoác áo màu xanh, vô điều kiện: họ yêu gã rồi.
Grenouille đã đứng luôn mấy phút ở cửa xe ngựa, không nhúc nhích. Tên gia nhân cạnh gã quỳ gối, cúi người xuống mãi cho đến khi hoàn toàn phủ phục như ở các nước phương Đông người ta vẫn làm thế trước vua hay trước Allah. Vậy mà hắn vẫn còn run rẩy, lắc lư, muốn cúi người xuống nữa, nằm dài trên đất, chui sâu xuống đất. Gã muốn chui mãi đến tận đầu kia của trái đất để tỏ sự khúm núm. Viên thiếu úy cảnh sát và viên sĩ quan đội gác là những kẻ dũng cảm, có phận sự điệu tội nhân lên giàn hành quyết giao cho viên đao phủ mà không thể làm nổi một hành động ăn ý nào. Họ khóc lóc, ngả mũ rồi lại đội mũ, quăng xuống đất, túm lấy nhau, rồi bỏ nhau ra, khoa tay múa chân như rồ dại, bàn tay vận vẹo, co quắp người, mặt nhăn nhó như bị động kinh.
Những bậc danh giá ngồi phía xa cũng để lộ sự  xúc động không kín đáo gì hơn. Mỗi người đắm mình theo sự giục giã của trái tim. Có những mệnh phụ nắm chặt tay trong lòng, thở dài vì khoái cảm, những bà khác ngất đi lúc nào chẳng biết vì khao khát chàng trai họ thấy tuấn tú kia. Có những ông cứ không ngớt đứng lên rồi lại ngồi xuống, thở như bò rống, tay nắm chặt đuôi kiếm như muốn rút ra, rồi mới rút ra lại tra vào liền khiến kiếm cứ rung lách cách trong bao, những vị khác câm nín, ngước mắt nhìn trời, hai bàn tay cứng đờ vì cầu nguyện, còn Đức Ông giám mục như thể bị nôn nao, chúi người ra phía trước, trán va phải đầu gối, cái mũ xanh lá cây to bằng bàn tay rơi ra khỏi đầu, lăn lông lốc, nhưng ngài đâu  có nôn nao, lần đầu tiên trong đời ngài được đắm mình trong sự say mê đạo giáo vì một phép lạ xảy ra trước mắt mọi người: chính Đức Chúa Trời đã ngăn chặn bàn tay của viên đao phủ kia khi Người tiết lộ cho hắn biết cái kẻ bị coi là giết người trước bàn dân thiên hạ kia là một thiên thần. Ôi một sự kiện như thế vẫn  xảy ra trong thế kỷ thứ 18 này. Người thật vĩ đại biết bao! Còn  cái kẻ đã tuyên cáo rút phép thông công mà chẳng hề tin, chỉ cốt để trấn an dân chúng, kẻ ấy mới hèn hạ làm sao! Ôi kiêu ngạo! Ôi thiếu lòng tin! Để rồi giờ đây Người làm phép lạ! Ôi quả là ân sủng khi thân làm giám mục mà được Người trừng trị bẽ bàng mà tuyệt diệu, nhục nhã mà ngọt ngào như thế.
Trong khi đó đám dân chúng đàng sau rào chắn càng buông thả trắng trợn hơn nữa theo cái tình cảm mê say kỳ quái do sự xuất hiện của Grenouille gây ra. Ai mới thoạt nhìn gã đều cảm thấy tội nghiệp và xúc động thì giờ đây không che giấu sự thèm muốn, ai mới đầu thán phục và thèm muốn thì giờ đây trở nên ngây ngất. Mọi người đều cho rằng cái gã đàn ông trong cái áo khoác xanh kia là kẻ đẹp đẽ nhất, quyến rũ nhất, hoàn toàn nhất mà người ta có thể hình dung được: gã như thể là hiện thân của Chúa Cứu Thế đối với các nữ tu sĩ, là Chúa tể rực rỡ của Bóng tối đối với các đỗ đệ satan, là Đấng Tối Cao đối với những bậc trí giả, là Hoàng tử trong chuyện thần thoại đối với những cô gái, là cái hình ảnh lý tưởng của chính họ đối với đám đàn ông. Ai nấy đều thấy gã như biết được và nắm được chỗ nhậy cảm nhất của mình, gã điểm trúng cái trung tâm tình dục của họ. như thể gã có cả vạn bàn tay vô hình đặt lên bộ phận “quý” của vạn người quanh gã, ve vuốt nó đúng cái cách mà mỗi người, dù đàn ông hay đàn bà, thèm khát nhất trong sự tưởng tượng bí mật của mình.
Hậu quả là cuộc hành quyết dành cho tên tội phạm ghê tởm nhất thời bấy giờ biến thành cơn cuồng lạc lớn nhất mà thế giới từng được chứng kiến từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên đến nay. Đúng là địa ngục.
Grenouille đứng đó, cười. Hay đúng hơn, những người nhìn gã thấy có vẻ gã đang có một nụ cười vô tội nhất, đáng yêu nhất, duyên dáng nhất đồng thời quyến rũ nhất thế gian. Nhưng thật ra đó không phải là nụ cười mà là một cái nhếch mép ngạo báng đáng ghét trên môi gã, phản ánh sự toàn thắng và tất cả  sự khinh miệt của gã. Gã, Jean-Baptiste Grenouille, sinh ra không có mùi ở một nơi hôi hám nhất thế gian, giữa rác rưởi, phân súc vật và những thứ thối rữa, lớn  lên không tình thương, sống thiếu hơi ấm của một tâm hồn người, chỉ dựa vào sức mạnh của phản kháng và kinh tởm, nhỏ con, gù, cà nhắc, xấu xí, bị xa lánh, một tên khả ố cả trong lẫn ngoài, gã đã đạt được chuyện làm cho cả thế gian yêu thích mình. Sao lại chỉ là thích? Phải là Yêu! Kính! Sùng bái! Gã đã hoàn thành một kỳ công chẳng khác thần Prometheus. Nhờ khéo léo không cùng, gã đã bền gan lấy được những tia lửa thần vẫn được dễ dãi đặt vào nôi mọi người nhưng riêng nôi gã lại không. Hơn nữa chứ. Vì đúng ra gã đã tự làm bật ra những tia lửa kia trong chính người của gã. Gã còn vĩ đại hơn cả Prometheus nữa. Gã đã tạo được một tinh hoa rạng rỡ và có tác dụng hơn mọi người trước gã. Và gã chẳng phải hàm ơn ai khác, cha không, mẹ cũng không, lại càng không một vị Chúa nhân đức nào, ngoài chính gã ra. Quả thật gã chính là chúa của gã, một vị chúa tuyệt diệu hơn vị chúa hôi mùi trầm hương trong nhà thờ nọ. Một giám mục bằng xương bằng thịt quỳ trước gã, khóc thút thít vì sung sướng. Những người giàu có, những kẻ quyền uy, những ngài và những mệnh phụ kênh kiệu chết lịm trong sự khâm phục, trong khi dân chúng khắp chung quanh, trong đó có cha, mẹ, anh chị em những nạn nhân của gã, nhân danh gã mừng cuộc cuồng lạc để vinh danh gã. Một cái vẫy tay của gã sẽ làm mọi người chối bỏ Chúa của họ, và tôn sùng gã, Grenouille Vĩ Đại.
Đúng, gã là Grenouille Vĩ Đại! Bây giờ thì thật rành rành. Năm xưa gã vĩ đại như thế nào trong cái giấc mơ gã tự yêu mình thì bây giờ cũng thế, nhưng mà trong thực tế. Gã đang sống những giây phút vinh quang nhất trong đời. Nhưng sự vinh quang lại làm gã kinh khủng.
Gã kinh khủng vì gã không thưởng thức được nó lấy một giây. Trong lúc gã bước từ xe xuống cái quảng trường chói nắng, phủ trên người lớp nước hoa mà gã đã thèm khát cả đời và phải mất hai năm làm việc ròng rã mới có được, cái nước hoa làm cho người ta yêu thích… trong cái lúc gã nhìn và ngửi thấy cái nước hoa ấy tỏa nhanh như gió, chế ngự mọi người quanh gã, không cưỡng lại được, thì cũng chính lúc ấy tất cả sự kinh tởm con người lại cuộn lên trong gã, làm ô uế mọi vinh quang khiến gã chẳng những không thấy gì vui mà cũng chẳng mảy may toại ý. Trong cái khoảnh khắc của sự thành công thì nỗi khát khao được con người yêu thích trở nên không thể chịu đựng nổi vì gã không yêu họ, gã ghét họ. Gã chợt hiểu rằng gã không bao giờ tìm thấy thoả mãn trong tình yêu, mà chỉ có thể trong thù ghét, ghét người và bị người ghét.
Nhưng sự thù ghét gã dành cho con người không được con người đáp lại. Lúc này gã càng ghét họ thì họ lại càng tôn sùng gã bởi vì họ không cảm nhận được gì từ gã ngoài cái tinh hoa vay mượn, cái mặt nạ mùi của gã, cái nước hoa ăn cướp của gã. Mà cái nước hoa tuyệt diệu này  đáng hâm mộ thật.
Gã chỉ muốn tiêu diệt cái bọn người ngu xuẩn, hôi hám, trở thành dâm ô này ra khỏi mặt đất, y như trước kia đã tiêu diệt những mùi lạ ở cái vương quốc trong tâm hồn u tối của gã. Gã mong họ nhận ra rằng gã ghét họ biết mấy, bởi vì đó là cái tình cảm thật duy nhất của gã, để họ ghét gã và cũng muốn tiêu diệt gã như đã định lúc đầu. Gã muốn được bộc lộ một lần trong đời. Gã muốn được một lần bộc lộ cõi lòng như mọi người khác, họ bộc lộ tình yêu và sự tôn kính ngu xuẩn còn gã bộc lộ sự thù ghét. Một lần, chỉ một lần duy nhất thôi, gã muốn rằng sự hiện hữu thật sực của gã được ghi nhận sự thù ghét, cái tình  cảm thật duy nhất của gã, được đáp lại.
Nhưng chẳng được gì. Không thể được gì. Hôm nay lại càng không. Vì gã đã ngụy trang dưới lớp nước hoa tuyệt diệu nhất thế gian. Dưới nó gã không có bộ mặt nào cả ngoài sự không mùi hoàn toàn. Gã cảm thấy nôn nao vì chợt  thấy sương mù bốc lên trở lại.
Giống như thời kỳ còn ở hang, khi ngủ trong trái tim của sự tưởng tượng, sương mù bỗng bốc lên trong giấc mơ, cái sương mù khủng khiếp của chính mùi gã mà gã không thể ngửi ra vì chính gã không có mùi. Như thời ấy, gã kinh hoàng tột cùng, tin rằng sẽ chết ngộp. Nhưng giờ đây là sự thật trần truồng, không chỉ là mơ, là ngủ như xưa. Và gã cũng không một thân một mình như thời ở hang mà đứng trên quảng trường, trước mặt cả vạn người. Cũng khác xưa, ở đây không một tiếng kêu nào giúp được gã choàng tỉnh, giải thoát gã, không một sự trốn chạy nào giúp được gã trở về với cái thế giới bao dung, ấm áp, tốt đẹp. Bởi vì chính nơi đây, ngay lúc này là thế giới, và chính nơi đây, ngay lúc này, giấc mơ của gã thành sự thật. Chính gã đã muốn như thế.
Làn sương mù khủng khiếp, ngột ngạt tiếp tục bốc lên từ cái đầm lầy của tâm hồn gã, trong khi đám dân quanh gã rên rỉ, co quắp vì khoái lạc của cuộc truy hoan. Một người đàn ông chạy gấp tới gã. Ông ta nhảy vọt lên từ hàng đầu của khán đài danh dự, đột ngột đến nỗi rơi cả cái mũ đen đang đội, phóng qua chỗ hành hình, áo choàng đen phấp phới trông như một con quạ hay thiên thần báo oán. Đó là Richis.
Ông sẽ giết ta thôi, Grenouille thầm nghĩ. Ông là người duy nhất không để bị lừa bởi cái mặt nạ của ta. Ông không thể nào để bị lừa được. Mùi thơm của con gái ông bám chặt vào ta, rõ ràng lật tẩy ta chẳng khác gì máu. Nhất định ông nhận ra và sẽ giết ta. Nhất định thế.
Rồi gã dang tay ra để đón thiên thần đang lao tới. Gã đã tin rằng cảm thấy dao găm hay kiếm thọc vào ngực, nhói lên tuyệt vời, xuyên thủng lớp áo giáp của mùi thơm và làn sương mù ngột ngạt, đâm vào giữa trái tim lạnh lẽo của gã. Có thế chứ, rồi tim gã cũng đã có được cái gì khác chứ không phải chỉ có chính gã mà thôi! Gã thấy như sắp được giải thoát.
Nhưng bỗng dưng Richis ngả đầu vào ngực gã, không, không phải là một thiên thần báo oán mà là một ông Richis quá đỗi xúc động, nức nở đến tội nghiệp, ôm chầm lấy gã, bấu hết sức chặt như thể không tìm ra chỗ bám nào khác giữa trùng dương của hạnh phúc tột cùng. Không có cú đâm giải thoát, không có cú thọc vào tim, không có được lấy một lời nguyền rủa hay chỉ một tiếng gào oán ghét. Thay vào đó ông Richis áp má đẫm lệ vào má gã, đôi môi run rẩy thút thít với gã “Tha lỗi cho ta, con trai của ta, con yêu quý, tha lỗi cho ta!”.
Thế là mắt gã hoa lên, trời đất tối sầm lại. Sương mù bị giam hãm đọng lại thành chất lỏng, réo ầm ầm như sữa nấu sôi sủi bọt. Nó tràn đầy người gã, căng lên với một sức ép không thể nào chịu nổi vào vách chắn bên trong người gã mà không thoát ra được. Gã muốn chạy trốn, chạy trốn, nhưng chạy đi đâu được hở trời… Gã muốn được rách toác ra, vỡ tan ra để khỏi bị chêt ngộp. Rồi gã ngục xuống, bất tỉnh.

50

Khi hồi tỉnh lại thì gã thấy mình đang nằm trên giường của Laure Richis. Những kỷ vật về cô gái, áo quần, tóc, đã được dọn đi. Trên cái bàn đêm leo lét một ngọn nến. Qua cửa sổ khép hờ gã nghe vọng từ xa lại tiếng reo hò của cả thành phố đang ăn mừng. Antoine Richis ngồi trên chiếc đẩu kê gần giường để trông chừng gã. Ông đặt bàn tay Grenouille trong lòng bàn tay mình, ve vuốt.
Trước khi mở mắt ra, Grenouille còn muốn kiểm nghiệm bầu không gian bao quanh mình đã. Trong nội tâm của gã thì lặng như tờ. Không có gì sôi sục và dồn ép nữa. Bóng đêm lạnh lẽo cố hữu lại chế ngự tâm hồn gã, cái bóng đêm rất cần thiết để ý thức của gã trở nên giá lạnh và trong suốt, hoàn toàn tập trung vào thế giới bên ngoài: chính ở đó gã ngửi thấy nước hoa của mình giờ đã có gì biến đổi. Những mùi đậm nhất giờ có phôi phai bớt đi nên hơi hướng của Laure lại tung những tia sáng lấp lánh trong màn đêm. Gã thấy yên tâm. Gã biết không có ai uy hiếp được mình trong vòng mấy tiếng đồng hồ nữa và mở mắt ra.
Ánh mắt của Richis dừng lại trên người gã. Trong đấy là tấm lòng nhân hậu không bờ bến, sự trìu mến, nỗi xúc cảm, sự thâm trầm ngu xuẩn, rỗng tuếch của một người tha thiết yêu thương.
Ông cười, siết chặt bàn tay của Grenouille hơn rồi nói “Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Công tố viên đã hủy bản án của con rồi. Mọi nhân chứng đều đã rút lại lời khai. Con được tự do. Con có thể làm những gì mà con muốn. Nhưng ta muốn con ở lại với ta. Ta đã mất đứa con gái nên muốn có được con làm con trai. Con giống con gái ta, con cũng đẹp như nó: tóc đen, miệng con, bàn tay con… Ta nắm bàn tay con suốt nãy giờ, thấy giống như bàn tay nó vậy. Và khi ta nhìn vào mắt con, như thể con gái ta đã nhìn thấy ta vậy. Con là anh nó và ta muốn con là con trai của ta, niềm tin, niềm tự hào và là người thừa kế của ta. Cha mẹ con còn sống cả chứ?”.
Grenouille lắc đầu và Richis đỏ bừng mặt vì sung sướng “Con bằng lòng làm con trai của ta nhé?”. Ông lắp bắp, nhỏm dậy, ngồi ghé xuống cạnh giường, siết nốt bàn tay kia của Grenouille. “Nhé? Nhé? Con nhận ta làm cha nhé? Đừng nói gì cả. Đừng nói. Con còn quá yếu. Đừng nói. Gật đầu là đủ rồi”.
Grenouille gật đầu. Hạnh phúc làm mồ hôi vã ra từ mọi lỗ chân lông trên làn da đỏ ửng của Richis, ông cúi xuống hôn lên trên môi gã.
- Ngủ đi con yêu quý của ta, - ông vừa nói vừa đứng lên, - Ta sẽ canh giấc cho đến khi con ngủ. - Sau khi đã yên lặng nhìn ngắm gã một lúc lâu trong niềm vui rạng rỡ, ông nói tiếp - Con đã làm cho ta vô cùng sung sướng.
Grenouille khẽ nhếch mép như đã nhìn thấy người ta cười. Rồi gã nhắm mắt lại. Gã đợi một lúc mới để cho hơi thở đều và sâu như ở những người ngủ thật. Gã cảm thấy ánh mắt thương yêu của Richis trên khuôn mặt gã. Có lần gã cảm thấy Richis lại cúi xuống, định hôn nhưng lại thôi vì sợ làm gã thức giấc. Rồi Richis thổi tắt nến đoạn nhón gót đi ra khỏi phòng.
Grenouille vẫn nằm cho đến khi không còn nghe tiếng động trong nhà và ngoài phố. Khi gã đứng dậy thì trời đã tờ mờ sáng. Gã mặc quần áo, nhẹ nhàng chuồn ra ngoài hành lang, rón rén xuống cầu thang, đi ngang qua phòng khách, ra ngoài hàng hiên.
 Vào những ngày đẹp trời từ đây người ta có thể nhìn qua tường thành, qua cả lòng chảo vùng Grasse tới tận biển. Lúc này một màn sương mù, một làn hơi thì đúng hơn, đang phủ lên đồng ruộng, và mùi thơm của cỏ của kim tước chi, của hoa hồng thoảng lại từ phía đó như được gột rửa, tinh khiết, mộc mạc, làm cho nhẹ nhõm. Grenouille băng ngang vườn, vượt qua tường.
Tới quảng trường, gã còn phải đột phá hơi người một lần nữa trước khi ra được tới vùng quê thênh thang. Cả sườn đồi lẫn quảng trường chẳng khác nào một doanh trại tiêu điều. Hàng nghìn thân thể say mèm nằm ngổn ngang, kiệt sức sau cái đêm ăn mừng trác táng. Đây đó khói vẫn còn cuộn lên từ những đống lửa họ đã dùng để nướng thịt, ngồi nhậu và nhảy múa chung quanh. Đó đây vẫn còn tiếng ngọng líu và tiếng cười khùng khục lẫn trong nghìn tiếng ngáy. Hẳn là vẫn còn có người thức và uống cho đến khi mẩu ý thức cuối cùng biến khỏi óc. Nhưng không ai nhìn thấy Grenouille cả khi gã thận trọng nhưng nhanh nhẹn bước qua những thân thể nằm rải rác như thể đi trên đầm lầy. Ai có thấy gã cũng không thể nhận ra được nữa. Gã đã mất sạch mùi rồi. Phép lạ đã chấm dứt.
Đến cuối quảng trường gã không theo đường rẽ đi Grenoble hay Cabris mà băng qua đồng ruộng đi về phía tây, không ngoái nhìn lại một lần cuối. Khi mặt trời đã lên cao, to tròn, vàng ửng và nóng gắt, thì gã đã biến mất từ lâu rồi.
Người dân thành Grasse thức giấc với một dư vị ghê gớm. Ngay những người không hề nhậu nhẹt cũng thấy đầu nặng như chì, bao tử nôn nao, lòng dạ xốn xang. Trên quảng trường, ngay giữa ban ngày ban mặt, những nông dân trung hậu đi tìm kiếm áo quần họ đã quăng đi trong cuộc cuồng lạc quá trớn, những phụ nữ đoan trang tìm kiếm chồng con, những người quen biết nhau, những hàng xóm, những vợ chồng, chợt đối diện nhau cực kỳ lúng túng bởi sự lõa lồ trước mắt mọi người.
Đối với nhiều người thì sự kiện này ghê sợ quá, hoàn toàn không giải thích nổi, không phù hợp với những quan niệm đạo đức đích thực của họ  nên họ vội xoá khỏi trí nhớ ngay lúc sự kiện diễn ra, xóa bỏ thật sự, nên hậu quả là về sau họ không thể nhớ gì về nó cả. Những người khác, không làm chủ được giác quan của mình một cách thần diệu như thế, nên tìm cách không nhìn, không nghe, không nghĩ, nhưng thật không dễ vì sự nhục nhã quá rõ ràng và liên quan đến quá nhiều người. Tới gần trưa thì quảng trường vắng hoe.
Người dân thành phố ở lì trong nhà và chỉ ra đường lúc giấc chiều, nếu phải mua sắm những thứ thật cần thiết. Có gặp nhau cũng chỉ chào sơ, có trò chuyện cũng chỉ vô thưởng vô phạt. Không một lời về sự kiện hôm qua và tối vừa rồi. Hôm qua họ mặc sức phóng túng bao nhiêu thì bây giờ họ cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu. Ai cũng thế vì ai cũng có lỗi. Chưa bao giờ người dân thành Grasse sống hòa hợp như bây giờ. Như thể họ sống trong bông gòn vậy.
Tất nhiên vì chức trách của mình, một số người phải đụng chạm trực tiếp hơn với chuyện vừa xảy ra. Tính liên tục của đời sống công cộng cũng như tính bất khả vi phạm luật pháp và trật tự đòi hỏi phải nhanh chóng có ngay biện pháp. Hội đồng thành phố họp ngay lúc xế trưa. Các vị ủy viên, trong đó có ngài đệ nhị tổng lý, lặng lẽ ôm nhau, chẳng khác chi thông qua cử chỉ này nhất trí đặt lại nền móng cho cơ quan của họ. Rồi họ nhất trí quyết nghị cho gỡ bỏ ngay “khán đài và giàn hành quyết ra khỏi quảng trường và lập lại tình trạng ngăn nắp trên những cánh đồng bị xéo nát chung quanh” mà không hề đả động gì đến những cuộc đã xảy ra, ngay cả cái tên Grenouille. Một trăm sáu mươi livre được chấp thuận cho những việc vừa nói.
Toà án cũng họp cùng lúc trong tòa thị chính. Không thảo luận gì hết, công tố viện đồng ý coi “vụ G” như đã kết thúc, khóa hồ sơ, lưu trữ không danh mục và mở một vụ án mới mà bị cáo là kẻ đến nay hãy còn vô danh, đã giết 25 cô gái trong vùng Grasse. Viên thiếu úy được lệnh tiến hành tức khắc cuộc điều tra.
Ngay ngày hôm sau đã bắt được kẻ sát nhân. Căn cứ vào những khía cạnh tình nghi rõ rệt người ta bắt giữ Dominique Druot, Maitre Parfumeur ở Rue de la Louve, bởi vì dẫu sao người ta quả đã tìm thấy trong lều của gã áo quần và tóc của các nạn nhân. Các quan tòa không bị lừa dù thoạt tiên hắn chối. Sau mười bốn giờ tra khảo, gã thú nhận tất cả và còn xin được hành hình càng sớm càng tốt, lời thỉnh cầu của gã được đáp ứng ngay ngày hôm sau. Người ta treo cổ gã ngay lúc trời tờ mờ sáng, không rềnh rang, không giàn hành quyết và khán đài, chỉ có tay đao phủ, một vài vị trong công tố viện, một bác sĩ và một linh mục. Sau khi đã chết, xác được xét nghiệm ghi vào biên bản rồi đem chôn ngay. Vụ án như thế là kết thúc.
Dù sao thành phố này đã quên rồi, quên sạch, khiến khách qua đường có dịp đến đây những ngày sau, ngẫu nhiên muốn hỏi về kẻ đã giết thanh nữ nổi tiếng vùng Grasse, không tìm ra được một người biết điều gì để cung cấp tin cho họ. Chỉ có mấy người điên trong nhà thương, bị bệnh tâm thần ai cũng biết, còn lảm nhảm chút gì về một buổi ăn mừng lớn ở Place du Cours, và vì thế mà họ phải nhường phòng.
Rồi cuộc sống nhanh chóng bình thường hoàn toàn trở lại. Người ta làm việc cần mẫn, ngủ ngon, lo việc kinh doanh và cư xử đàng hoàng. Nước vẫn trào lên như thuở nào từ biết bao nguồn và giếng, làm các ngõ hẻm ngập bùn. Thành phố, vẫn tồi tàn và kiêu hãnh, tiếp tục  chênh vênh dọc những sườn núi trên cái lòng chảo màu mỡ. Trời đã ấm rồi. Sắp tháng năm. Sắp đến mùa hái hoa hồng.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét