Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 1)

Người Lữ Hành Kỳ Dị

Tác giả: Harold Robbins
Người dịch: Mạnh Hà - Thanh Sơn
NXB Văn Học - 1987

Mục lục

Quyển một. Giônơx - 1925
Quyển hai. Chuyện của Nevada Smith
Quyển ba. Giônơx - 1930
Quyển bốn. Chuyện của Raina Malovi
Quyển năm. Giônơx - 1935
Quyển sáu. Chuyện của Đêvit Ulf
Quyển bẩy. Giônơx - 1940
Quyển tám. Gienny Dentơn
Quyển chín. Giônơx - 1945

Nguyên bản tiếng Pháp: THE CARPETBAGGER

Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn

Quyển một. Giônơx - 1925

1

Khi Renô hiện ra phía dưới tôi, mặt trời bắt đầu lặn dần xuống sa mạc Nêvađa trắng xóa. Tôi từ từ nghiêng cánh chiếc Oaco, nhằm thẳng hướng đông. Tôi nghe rõ tiếng gió rít vèo vèo qua các thanh giằng và mỉm cười một mình. Cụ già hẳn sẽ điên người lên khi nom thấy cái của này đây. Nhưng rõ ràng là chẳng cái gì khiến cho cụ ấy bực được cả. Cụ không phải tốn một xu về cái máy bay này. Tôi chơi súc sắc được nó.
Tôi đẩy cần lái về phía trước và hạ dần xuống năm trăm thước. Lúc này tôi đang bay phía trên đường 32, hai bên sa mạc trắng mờ đang vùn vụt lùi lại phía sau. Xoay đầu máy bay về hướng chân trời, tôi nhìn sang bên cạnh. Kia rồi, cách khoảng mười cây nữa. Giống hệt như một con cóc xấu xí, ngồi chồm chỗm trên xa mạc. Cái nhà máy.

THUỐC NỔ CORD

Tôi đẩy cần lái thêm về phía trước và lao vèo qua nhà máy ở độ cao ba mươi mét. Tôi làm một vòng lượn Imenman [Vòng lộn nhào và đổi hướng bay: máy bay ngóc lên một nửa vòng và lăn nửa thân theo trục dọc của nó] và ngoái cổ lại.
Bọn họ đều đã ngó qua cửa sổ. Những cô gái Mêhicô da đỏ mặc quần áo sặc sỡ, những người đàn ông trong bộ đồ lao động bạc phếch. Tôi hầu như nhìn thấy được cả những cặp mắt nhợt đi vì sợ hãi của họ nom theo tôi. Tôi ngoác miệng ra cười. Cuộc đời của bọn họ đã đủ buồn chán lắm rồi. Giờ để cho họ biết một tí hồi hộp thực sự cho đời thêm tươi chút.
Tôi ngóc lên đỉnh vòng lộn nhào ở độ cao tám trăm. Rồi đẩy cần lái, tôi nhằm mái nhà quét nhựa đường của nhà máy, cắm đầu liệng xuống.
Tiếng cái động cơ Prat và Uytni to sụ gầm lên mỗi lúc một lớn đến điếc cả tai. Gió quật vào mắt và mặt tôi rát rạt. Tôi nheo mắt lại, cắn chặt môi. Có thể cảm thấy được máu đang chảy mạnh trong người tôi, tim đập thình thịch, bao nhiêu sinh lực đang cuộn lên trong lòng.
Mạnh lên, mạnh nữa lên! Lên cao trên kia, nơi thế giới trở thành một thứ đồ chơi ở phía dưới. Nơi tôi cầm cái cần lái như nắm lấy cái “củ giống” của tôi ở trong tay và không một ai, ngay cả cha tôi, nói với tôi rằng không được nữa!
Cái mái đen của nhà máy nằm trên mặt cát trắng hệt như một cô gái nằm trên tấm ga giường, vạt lông tôi tối của nàng thì thào mời chào trong màn đêm chập choạng. Hơi thở tôi nghẹn trong họng. Mẹ ơi, tôi không muốn quay đi. Tôi muốn về nhà.
Păng! Một thanh giằng nhỏ đứt phựt. Tôi nhấp nháy mắt và liếm mép. Vị muối của nước mắt mằn mặn trên môi. Tôi đã nhìn thấy được những hòn sỏi xám nhạt lẫn trong lớp nhựa đường ở trên mái xưởng. Tôi từ từ kéo cần lái về phía sau và bắt đầu lượn ra khỏi vòng nhào. Ở độ cao hai trăm bảy mươi, tôi lấy thăng bằng và lượn rộng ra để hạ xuống cái sân bay sau nhà máy. Tôi đâm ngược chiều gió và nhẹ nhàng tiếp đất bằng cả ba bánh. Và đột nhiên cảm thấy mệt rã rời. Từ Lôx Angiơlex về đây đường quả là dài.
Nêvađa Xmith sải bước trên sân bay tới chỗ tôi trong khi máy bay lăn bánh chậm dần để dừng lại. Tôi tắt các công tắc. Động cơ ngừng, thở hắt ra khỏi cacbuaratơ giọt xăng cuối cùng. Tôi nhìn Nêvađa.
Nêvađa không hề thay đổi. Từ cái lúc tôi mới lên năm và lần đầu tiên nhìn thấy anh đi tới hàng hiên trước, anh vẫn như thế. Cái dáng đi vất vả, khuỳnh khuỳnh vòng kiềng, xiêu xiêu, dường như không bao giờ quen rời mình ngựa. Những nếp nhăn bé xíu trăng trắng vì sương gió ở khóe mắt. Đã mười sáu năm trời. Khi đó là năm 1909.
Tôi đang lúi húi chơi ở góc hiên và cha tôi thì đang đọc tờ tuần báo Renô trên cái ghế xích đu to ở gần cửa chính. Đã tám giờ sáng và mặt trời đã lên khá cao rồi. Tôi nghe thấy tiếng vó ngựa khua lốp cốp và chạy ra xem.
Một người đàn ông đang xuống ngựa. Anh ta chuyển động chậm chạp một cách cố tình. Quẳng dây cương lên cái cọc buộc ngựa, anh ta đi về phía nhà. Đến chân thềm, anh ta dừng lại và ngước lên.
Cha tôi bỏ tờ báo xuống, đứng dậy. Ông ta là một người cao lớn. Một mét tám lăm. Vạm vỡ. Mặt hồng hào, da xạm lại vì nắng. Ông nhìn xuống.
Nêvađa ngước nhìn ông:
- Ông Jonas Cord?
Cha tôi gật đầu:
- Phải.
Người đàn ông hất chiếc mũ chăn bò vành rộng về phía sau, để lộ ra mái tóc đen nhánh.
- Nghe đâu ông đang cần một người làm thì phải.
Cha tôi không bao giờ trả lời có hay không trước bất kỳ một câu hỏi nào.
- Thế anh có thể làm được cái gì? - Ông hỏi.
Nụ cười của người đàn ông không để lộ ra cái gì cả. Anh ta đưa mắt từ từ nhìn ngôi nhà rồi nhìn ra sa mạc. Anh ta quay lại phía cha tôi:
- Tôi có thể chăn gia súc, nhưng ông chẳng có con nào. Tôi có thể chữa hàng rào. Mà hàng rào thì nhà ông cũng chẳng có.
Cha tôi im lặng một lúc.
- Anh sử dụng cái kia thế nào? - Ông hỏi.
Và bây giờ tôi mới nhận thấy khẩu súng lục ở đùi người đàn ông. Anh ta đeo nó thật trễ và thật chặt. Báng súng đen bóng do cầm nhiều. Cò súng và nòng súng sáng lên dưới lớp dầu mờ mờ.
- Tôi là loại lẹ tay, - Anh ta đáp.
- Anh tên là gì?
- Nêvađa.
- Nêvađa gì?
Câu trả lời phát ra không lưỡng lự, “Xmith. Nêvađa Xmith”.
Cha tôi nín nặng. Lần này thì người đàn ông không đợi ông nói. Anh ta khoát tay về phía tôi:
- Con trai ông đấy phải không?
Cha tôi gật đầu.
- Mẹ nó đâu rồi?
Cha tôi nhìn anh ta, rồi nhấc tôi lên. Tôi cảm thấy rất khoái được ở trong vòng tay ông. Giọng ông không lộ một chút tình cảm:
- Cô ấy chết cách đây mấy tháng.
Người đàn ông chằm chằm nhìn chúng tôi:
- Tôi đã nghe thấy như vậy.
Cha tôi chằm chằm nhìn lại anh ta một lúc. Tôi thấy bắp thịt ở tay cha tôi cứng lại phía sau lưng tôi. Rồi, không kịp thở, tôi đã thấy mình bị tung vèo lên không, bắn qua lan can hàng hiên.
Người đàn ông bắt tôi bằng một tay ôm cuộn tôi vào lòng, khuỵu một gối xuống để giảm chấn động. Hơi ở phổi tôi trào hắt ra và trước khi tôi kịp mếu máo khóc, cha tôi đã nói:
- Hãy dạy cho nó biết cưỡi ngựa. - Môi ông thoáng nụ cười. Ông nhặt tờ báo lên, đi vào nhà, không hề ngoảnh lại.
Một tay vẫn ôm tôi, người đàn ông tên là Nêvađa bắt đầu nhỏm dậy. Tôi nhìn xuống. Khấu súng ở tay kia anh ta, như một con rắn đen sống, đã chĩa vào cha tôi. Trong khi tôi nhìn, nó lại nhanh chóng biến vào bao. Tôi ngẩng lên nhìn vào mặt Nêvađa.
Khuôn mặt Nêvađa nở nụ cười dịu dàng, ấm áp. Anh cẩn thận đặt tôi đứng xuống đất.
- Ồ, Giônơx con, - Anh nói, - chú đã nghe thấy ba nói rồi đấy. Nào đi.
Tôi ngước nhìn lên trần nhà, nhưng cha tôi đã khuất hẳn. Khi ấy tôi còn chưa biết, nhưng đó là lần cuối cùng cha tôi ôm tôi trong tay.
Từ đấy trở đi, gần như tôi là con của Nêvađa.
Tôi vừa vắt một chân ra khỏi buồng lái thì Nêvađa đã tới. Anh nheo mắt ngước nhìn tôi:
- Chú đã bận lắm phỏng?
Tôi nhẩy bộp xuống đất cạnh anh, cúi nhìn anh. Không hiểu sao tôi không hề quen được với cái cảnh như vậy. Tôi thì mét tám nhăm giống như cha tôi, còn Nêvađa một mét bảy nhăm.
- Bận thật, - tôi công nhận.
Nêvađa nhướng người ngó vào buồng lái sau.
- Đẹp đấy. - Anh nói, - Chú kiếm được bằng cách chi vậy?
Tôi mỉm cười:
- Em chơi súc sắc thắng được đấy.
Anh nhìn tôi, tỏ ý hỏi thêm.
- Đừng ngại, - tôi vội vã nói thêm. - Em đã để cho anh ta sau đó thắng lại hai trăm đô la.
Nêvađa gật đầu, hài lòng. Đó cũng là một trong những điều Nêvađa đã dạy tôi. Đừng bao giờ rời khỏi bàn đánh bạc sau khi đã thắng được con ngựa của một người nào đó mà không để anh ta gỡ lại của mình ít nhất là chỗ tiền đặt cửa ngày mai. Điều ấy sẽ không làm mình hụt số tiền được đi được bao nhiêu, và ít nhất cái gã bị rút ruột kia thôi chơi cũng cảm thấy hắn ta đã thắng lại được ít nhiều.
Tôi với tay vào buồng lái sau kéo ra hai con chèn, quẳng một con cho Nêvađa và đi vòng sang bên kia, chặn nó vào một cái bánh.
 Nêvađa cũng làm tương tự với cái bánh xe bên này.
- Cha chú chắc không khoái cái này đâu. Chú nghịch phá banh cả ngày sản xuất hôm nay rồi.
Tôi cúi thẳng người dậy:
- Em đoán chắc chả sao đâu. - Tôi đi vòng qua cánh quạt tới chỗ anh. - Làm thế nào mà ông ấy biết được việc đó sớm như vậy?
Môi Nêvađa hiện lên nụ cười buồn buồn quen thuộc.
- Chú đưa cô ta tới nhà thương. Họ báo cho bố mẹ cô ta. Cô ta nói lại với bố mẹ trước khi chết.
- Họ đòi bao nhiêu?
- Hai mươi ngàn.
- Có thể trả họ được năm.
Anh không đáp. Thay vào đó, anh nhìn xuống chân tôi.
- Chú đi giày vô rồi đi đi. - Anh nói. - Cha chú đang chờ đó.
Anh quay lại, đi về phía đầu kia sân bay. Tôi nhìn xuống chân. Mặt đất âm ấm dễ chịu dưới mấy ngón chân. Tôi ngoáy ngoáy ngón chân vào dưới cát một tý, rồi quay lại buồng lái, móc ra một đôi huarachô (một kiểu dép bện bằng các sợi da lại với nhau) Mêhicô. Tôi xỏ chân vào, băng qua sân bay sau Nêvađa.
Tôi rất ghét đi giày. Bó buộc tức không thở được.

2

Chân đi đôi huarachô, tôi đá tung cát thành những đám bụi nhỏ trên đường tới nhà máy. Mũi tôi ngửi thoang thoảng thấy mùi lưu huỳnh người ta dùng trong việc làm thuốc nổ. Đó cũng là cái mùi trong bệnh viện đêm tôi đưa cô ta vào. Mùi ấy không hề có trong cái đêm bọn tôi làm ra đứa trẻ.
Đêm đó thật mát mẻ và trong trẻo. Chỉ có mùi của đại dương và sóng vỗ bờ bay vào qua khung cửa sổ mở của ngôi nhà nhỏ của tôi ở Malibu. Nhưng trong phòng thì sực lên cái mùi hương rạo rực của người con gái cùng với nỗi thèm muốn của cô ta.
Chúng tôi đã vào phòng ngủ, đã cuống cuồng cởi vội quần áo vì những đòi hỏi khẩn thiết của sức sống của chúng tôi. Cô ấy nhanh hơn tôi, đã ở trên giường, ngước nhìn tôi mở ngăn kéo tủ quần áo, lấy ra một hộp đựng các túi cao su.
Giọng cô ta trở thành thì thào trong đêm tối:
- Đừng, anh Giôny, lần này thì đừng.
Tôi nhìn cô ta. Trăng Thái Bình Dương vằng vặc tãi trên cửa sổ. Chỉ có mặt cô ta khuất trong bóng tối. Không hiểu sao, những lời cô ta vừa rồi lại làm không khí hừng hực hẳn lên.
Cái con chồn cái này nhất định là cũng đã cảm thấy điều ấy. Cô ta sờ soạng tìm tôi và hôn tôi.
- Em ghét những cái chết tiệt ấy lắm, anh Giôny. Em muốn cảm thấy được anh ở trong em.
Tôi ngần ngừ. Cô ta kéo tôi ngã đè trên mình. Giọng cô ta thì thào bên tai tôi:
- Sẽ không xảy ra cái gì đâu, Giôny. Em sẽ cẩn thận.
Và rồi tôi không thể chờ thêm được nữa, tiếng thì thào của cô ta đột nhiên bật lên thành tiếng rên. Tôi nghẹn thở. Cô ta yêu tôi, quả thật thế. Cô ta yêu tôi đâu ra đấy, đến mức năm tuần sau, cô ta bảo tôi rằng chúng tôi phải cưới nhau. Lần này thì chúng tôi ngồi trong ôtô của tôi, ở hàng ghế trước, trên đường đi xem bóng đá về.
Tôi ngoảnh sang cô ta:
- Để làm gì?
Cô ta ngửng nhìn tôi. Cô ta không hề sợ, không phải khi ấy. Cô ấy cảm thấy quá tự tin. Giọng nói gần như xấc xược:
- Vẫn cái lý do thông thường ấy. Còn lý do nào khác nữa khiến cho một anh chàng và một người con gái lấy nhau nào?
Giọng tôi trở nên chua chát. Tôi biết tôi đã bị đưa vào bẫy khi nào.
- Đôi khi, điều đó là bởi vì họ muốn lấy nhau.
- Ôi, em muốn cưới, - cô ta nhích lại gần tôi.
Tôi đẩy cô ta về ghế của cô.
- Ôi, anh lại không muốn!
Cô ta bắt đầu khóc.
- Nhưng anh đã bảo anh yêu em.
Tôi không nhìn cô ta, “Gã con trai lảm nhảm vô số chuyện khi anh ta đang vượt đèo”. Tôi cho xe cà bánh vào lề đường và đỗ lại. Tôi ngoảnh sang cô ta:
- Anh nghĩ là em đã nói rằng em sẽ cẩn thận.
Cô ta chấm nước mắt bằng cái mùi xoa bất lực, bé tí.
- Giôny, em yêu anh. Em muốn có một đứa con của anh.
Từ khi cô ta nói chuyện này với tôi, giờ tôi mới cảm thấy nhẹ người hơn. Đó là một trong những cái phiền phức khi phải làm Giônơx Cođơ (con). Quá nhiều cô gái và các bà mẹ của họ nghĩ rằng cái tên đó có nghĩa là tiền. Rất nhiều tiền. Nhất là từ khi có chiến tranh, khi cha tôi tiếp nhận được cả một đế quốc trong địa hạt thuốc súng.
Tôi nhìn xuống cô ta:
- Thế thì đơn giản lắm. Em sẽ có nó.
Vẻ mặt cô ta thay đổi. Cô ta nhích lại phía tôi.
- Anh nói thế có nghĩa... có nghĩa... là chúng mình sẽ cưới nhau?
Vẻ đắc thắng mơ hồ trong mắt cô ta tắt ngay khi tôi lắc đầu.
- Hừ, hừ, anh muốn nói là em cứ giữ lấy đứa bé, nếu em muốn thế.
Cô ta nhích ra xa. Đột nhiên mặt cô ta sắt lại lạnh lẽo. Giọng nói trở nên bình thản và thực tiễn:
- Em không muốn đến thế. Không, trừ khi có cái nhẫn trên tay. Em sẽ phải loại bỏ nó đi.
Tôi ngoác miệng cười, chìa ra cho cô ta một điếu thuốc lá:
- Cô bé ơi, nói năng thế mới hợp lẽ chứ.
Cô ta cầm lấy điếu thuốc, tôi châm lửa cho cô ta.
- Nhưng làm thế sẽ tốn kém lắm, - cô ta nói.
- Bao nhiêu, - tôi hỏi.
Cô ta hít vào một mồm đầy khói.
- Ở khu Mêhicô có một bác sĩ. Bọn con gái nói ông ta giỏi lắm. - Cô ta nhìn tôi dò hỏi. - Hai trăm, được không?
- Ôkê, xong! - tôi đáp nhanh.
Thế là đã thỏa thuận. Người trước đấy đã làm tôi mất ba rưỡi. Tôi búng điếu thuốc lá qua thành xe và mở máy. Tôi lái nhập vào đoàn xe, hướng về phía Malibu.
- Ồ, anh đi đâu thế này? - Cô ta hỏi.
Tôi ngoảnh sang cô ta.
- Đi về ngôi nhà ở biển, - tôi đáp, - chúng mình nên tận dụng hết cái tình cảnh này.
Cô ta phì cười và nhích lại gần tôi, ngẩng lên nhìn mặt tôi:
- Em không biết má sẽ nói năng sao, nếu má biết em đã làm đến mức nào để tóm được anh. Má đã bảo em đừng để sót một thủ thuật gì hết cả.
Tôi phá lên cười:
- Đúng là em không bỏ một cái gì.
Cô lắc đầu:
- Tội nghiệp má. Má đã vạch cả kế hoạch sửa soạn đám cưới.
Tội nghiệp má thật. Có lẽ nếu bà già ấy ngậm miệng lại thì cô con gái bà ta có thể sống đến hôm nay.
Đêm sau, khoảng mười một giờ rưỡi, điện thoại của tôi réo chuông. Tôi vừa mới lơ mơ chợp mắt được. Làu bàu rủa, tôi với lấy cái ống nghe.
Giọng của cô gái vọng tới, thì thào sợ hãi:
- Giôny, em đang bị ra máu.
Cơn buồn ngủ bay vèo qua đầu tôi như một viên đạn:
- Chuyện gì đã xảy ra, hả?
- Em đã đến khu Mêhicô chiều nay và giờ có cái gì làm sao ấy. Em không ngừng ra máu. Em sợ lắm.
Tôi nhỏm dậy trên giường:
- Em đang ở đâu?
- Chiều nay em vào ở khách sạn Oextut. Phòng chín-không-chín.
- Quay lại giường nằm ngay. Anh đến đây.
- Nhanh lên anh, nhanh lên!
Oextut là một khách sạn thương mại ở khu làm ăn của Lôx Angiơlex. Không một ai buồn nhìn đến lần thứ hai khi tôi bước lên thang máy mà không xưng danh ở bàn hướng dẫn. Tôi dừng lại ở phòng 909 và xoay nắm cửa. Cửa không khóa. Tôi bước vào.
Chưa bao giờ trong đời, tôi nhìn thấy nhiều máu đến thế. Máu ở kín khắp cái thảm rẻ tiền trải sàn, ở trên ghế cô gái ngồi gọi điện thoại cho tôi, ở trên những tấm ga trắng trên giường.
Cô ta đang nằm trên giường, mặt trắng bợt như cái gối ở dưới đầu. Mắt cô ta nhắm nghiền. Tôi lại gần. Mắt cô ta mở ra, sáng lóe lên.
Môi cô ta mấp máy nhưng không phát ra lời.
Tôi cúi xuống.
- Em đừng cố nói nữa. Anh sẽ gọi bác sĩ. Rồi em sẽ qua khỏi thôi.
Cô ta nhắm mắt lại. Tôi đến máy điện thoại. Chỉ đơn thuần gọi một bác sĩ thì không có tác dụng gì. Cha tôi sẽ không vui nếu tôi để tên gia đình một lần nữa trương lên báo. Tôi gọi Mac Alixtơ. Anh ta là luật sư điều khiển công việc của hãng ở Caliphonia.
Người quản gia của anh ta gọi anh ta đến bên máy. Tôi cố giữ giọng bình thản:
- Tôi cần ngay một bác sĩ và một chiếc xe cấp cứu.
Rồi ngay lập tức, tôi hiểu ra tại sao cha tôi dùng Mac. Anh ta không mất thì giờ hỏi những câu vô ích. Chỉ ở đâu, khi nào, và ai. Không hề tại sao. Giọng anh rất chính xác: “Mười phút nữa một bác sĩ và một xe cấp cứu sẽ ở đó. Tôi khuyên anh nên đi khỏi đó đi. Anh dính líu vào chuyện ấy thế là đủ rồi, dính sâu thêm nữa không có tác dụng gì đâu”.
Tôi cám ơn Mac, đặt máy xuống. Tôi liếc lại phía giường. Mắt cô ta nhắm, có vẻ như đang ngủ. Tôi bước về phía cửa. Cô gái mở mắt ra:
- Đừng đi, Giôny, em sợ lắm.
Tôi quay lại, ngồi xuống cạnh giường. Tôi nắm lấy cô ta và cô ta nhắm mắt lại. Xe cấp cứu đến sau mười phút. Và cô ta không rời khỏi tay tôi cho đến khi tới bệnh viện.

3

Tôi bước vào nhà máy, tiếng động và mùi vị của nó ập ngay tới, bọc quanh tôi như một cái kén tằm. Tôi có thể cảm thấy công việc ngừng lại một thoáng ở những chỗ tôi đi ngang qua và nghe được những tiếng thì thầm đã nhỏ giọng lại bay theo tôi:
- El hijo.
Cậu con. Họ biết tôi theo cái cách như vậy. Họ nói về tôi với lòng quý mến và tự hào, như cha ông họ nói về con cái của các ông chủ. Nó đem lại cho họ một cảm giác nào đấy về sự tách biệt với những người khác và gắn bó với nhà máy này, làm cho cuộc sống bần hàn của họ ít nhiều đỡ nặng nề hơn.
Tôi đi qua các bể trộn, máy dập và khuôn đúc tới cầu thang sau của văn phòng cha tôi. Bước chân lên cầu thang, tôi ngoái lại nhìn họ.
Hàng trăm khuôn mặt mỉm cười với tôi. Tôi mỉm cười và vẫy tay lại, như đã từng làm từ khi là một đứa trẻ lần đầu leo lên phòng làm việc này của cha tôi.
Tôi bước qua cửa phòng ở đầu cầu thang. Tiếng động của nhà máy im bặt ngay khi cách cửa đóng lại sau tôi. Tôi đi dọc hết cái hành lang ngắn, bước vào căn phòng làm việc ngoài.
Đenbai ngồi ở bàn của anh ta, lập cập lia bút chì theo cái lối thường lệ. Một cô gái ngồi bên cái bàn vuông góc với bàn Đenbai, múa tay đánh máy chữ như điên. Hai người nữa đang ngồi trên chiếc đivăng khác. Một người đàn ông và một người đàn bà.
Người đàn bà mặc đồ đen, đang vặn vẹo một cái khăn mùi xoa bé tí trong tay. Bà ta ngẩng lên nhìn tôi khi thấy tôi đứng sững ở cửa.
Chả phải bảo ai nói cho tôi biết bà ta là người nào. Cô ta trông đủ giống mẹ. Mắt tôi gặp mắt bà ta. Bà ta ngoảnh mặt đi.
Đenbai đứng dậy, vẻ căng thẳng:
- Cha cậu đang đợi đấy.
Tôi không đáp. Anh ta mở cửa phòng làm việc của cha tôi và tôi bước qua. Anh ta khép cửa lại. Tôi nhìn quanh gian phòng.
Nêvađa dựa người vào tủ sách suốt tường phía bên trái, mắt lim dim nheo trong cái vẻ tỉnh táo nhưng nom bề ngoài tưởng lờ đờ rất đặc biệt của anh. Mac Alixtơ ngồi trên một cái ghế vuông góc với cha tôi. Anh ngoảnh đầu lại nhìn tôi. Cha tôi ngồi đằng sau một cái bàn gỗ sồi to sụ, cũ kỹ, mắt nẩy lửa dõi thẳng vào tôi. Ngoài tất cả những cái đó, phòng làm việc vẫn như tôi nhớ.
Các bức tường ốp gỗ sồi sẫm, những cái ghế bành to bọc da. Các tấm màn nhung xanh lá cây trên cửa sổ, bức ảnh cha tôi và tổng thống Uynxơn ở bức tường sau bàn. Cạnh cha tôi là cái bàn điện thoại để ba cái máy nói và liền ngay đó muôn thuở là cái bình đựng nước, chai uyxki ngô và hai chiếc cốc. Chai uyxki còn một phần ba. Có nghĩa là ba giờ chiều. Tôi xem lại đồng hồ. Ba giờ kém mười. Cha tôi thuộc loại một-chai-một-ngày.
Tôi đi ngang qua phòng và đứng lại trước mặt ông. Tôi nhìn xuống, đối diện với cặp mắt đang quắc lên.
- Con chào ba.
Bộ mặt đã đỏ ửng của ông giờ đỏ sậm thêm. Các mạch máu ở cổ ông dựng hằn hết cả lên. Ông thét:
- Mày chỉ nói có thế sao, sau khi đã làm hỏng sản lượng cả một ngày, làm một nửa số công nhân sợ mất mật vì cái trò nhào lộn ấy?
- Ba nhắn là phải cấp tốc về ngay. Và thưa ba, con đã cố gắng hết sức về càng nhanh càng tốt.
Nhưng giờ thì không thể dừng ông cụ lại được nữa rồi. Ông đã phát khùng. Cha tôi có cái máu như vậy. Vừa mới bình thản và lặng lẽ phút trước, phút sau đã có thể thịnh nộ xung thiên.
- Vì sao mày không xéo ngay khỏi cái phòng khách sạn ấy khi Mac Alixtơ đã bảo? Mày mò đến bệnh viện làm gì? Mày có biết mày đã làm gì không? Bây giờ là trơ ra với tội tòng phạm khuyến khích cho một vụ nạo thai trái phép [Ở Mỹ thời ấy, nạo thai là phạm pháp].
Giờ đến lượt tôi phát cáu. Tôi cũng không thiếu một giọt nào cái máu khùng như cha mình.
- Thế thì người ta định bảo con phải làm gì? Cô ta bị ra máu đến gần chết và sợ lịm người. Con phải dửng dưng bỏ đi, để cô ta chết một mình sao?
- Phải, nếu như mày còn tí trí khôn nào, mày phải làm đúng như vậy. Con bé ấy dù sao cũng sẽ chết, và việc mày ở lại đấy chẳng làm tình thế khác đi được. Giờ thì mấy cái người khốn khiếp ngoài kia đang đòi hai mươi nghìn đôla, nếu không họ sẽ báo cảnh sát? Mày nghĩ là tao có đủ hai mươi nghìn đô la cho tất cả những con ranh mày phang đấy phỏng? Đây là đứa thứ ba trong năm nay mà mày bị tóm rồi!
Việc cô ấy đã chết cũng không hề làm ông xúc động. Mà là hai mươi nghìn đô la. Nhưng rồi tôi nhận ra ngay, không, không phải chuyện tiền, nguyên nhân sâu xa hơn thế.
Cái giọng cay đắng ẩn trong lối nói của ông đã soi sáng cho tôi. Tôi nhìn thẳng vào ông và chợt hiểu. Cha tôi đã già mất rồi, và điều đó làm ông khổ sở. Nhất định là Raina đã lại mè nheo ông. Đã hơn một năm kể từ cái đám cưới linh đình ở Rênô, và vẫn không hề xảy ra một sự gì.
Tôi quay lưng, bước ra phía cửa, chẳng nói chẳng rằng. Cha tôi thét lên ở đằng sau:
- Mày định đi đâu nữa hở thằng kia?
Tôi quay lại nhìn ông:
- Trở lại Lox Angiơlex. Ba cũng chẳng cần có tôi mới quyết định nổi công việc. Ba có thể hoặc trả tiền cho họ hoặc không. Điều ấy chẳng có ảnh hưởng gì tới tôi cả. Ngoài ra tôi còn có hẹn.
Ông nhào qua bàn đuổi theo tôi.
- Để làm gì? - ông thét lên: - Lại làm chửa một con nữa ư?
Tôi quay hẳn lại, dàn mặt với ông. Nghe chửi rủa thế là đủ rồi.
- Thôi xin cụ nghỉ làu bàu đi. Đáng lẽ ba phải mừng là trong nhà vẫn có người... còn tốt. Nếu không, Raina có thể nghĩ là chúng ta bị làm sao.
Mặt cha tôi méo xệch đi vì giận. Ông nhấc cả hai tay lên như định đánh tôi. Môi ông ngoạc ra, xiết chặt vào như chực cắn, gân trán hằn lên đỏ tía, rung bần bật. Rồi đột nhiên, như dòng điện cắt phụt ngọn đèn, mọi biểu hiện trên mặt ông biến vụt đi. Ông lảo đảo, húc nhào người về phía tôi.
Theo phản xạ, tay tôi đưa vụt ra, kịp đỡ lấy ông. Trong một giây, mắt ông trong vắt, nhìn thẳng vào mặt tôi. Môi ông mấp máy:
- Giônơx, con...
Rồi mắt ông khép lại, người ông nặng chịch đè lên tay tôi, rồi trượt dần xuống nền nhà. Tôi nhìn xuống. Tôi biết rằng ông đã chết.
Biết trước cả khi Nêvađa lật người ông lại, xé toang cổ áo ông.
Khi Đenbai bước vào cửa, Nevađa đang quỳ dưới sàn nhà bên cạnh cha tôi, Mac Alixtơ đang gọi điện thoại cho bác sĩ, tôi nhấc chai rượu Giắc Đaniel lên.
Anh ta rúm người lại, chạm vào cửa, tờ giấy trên tay anh ta run lẩy bẩy.
- Lạy chúa, cậu trẻ ơi. - anh ta kinh hoàng thốt lên. Mắt anh ta ngước từ dưới sàn lên tới tôi. - Ai sẽ ký cái hợp đồng Đức bây giờ?
Tôi liếc sang Mac Alixtơ, Mac gật đầu, rất kín đáo, hầu như không thấy.
- Tôi sẽ ký, - tôi trả lời.
Dưới sàn, Nêvađa đang vuốt mắt cho cha tôi. Tôi đặt chai uyxki còn nguyên nắp xuống, nhìn lại vào Đenbai.
- Và từ giờ đùng có gọi tôi là cậu trẻ nữa, - tôi nói.

4

Lúc bác sĩ tới, chúng tôi đã nhấc cha tôi lên đi văng và phủ một cái chăn lên người ông. Bác sĩ là một người gầy dong dỏng, rắn chắc, đầu hói, đeo kính dầy cọp. Ông nhấc cái chân lên, nhìn. Rồi ông buông chân xuống.
- Ông ấy đã chết, chết hẳn rồi.
Tôi lặng thinh. Mac Alixtơ là người hỏi, trong khi tôi đung đưa người trong cái ghế của cha tôi.
- Vì sao?
Ông bác sĩ đi đến bàn.
- Tắc mạch máu não. Đột quỵ. Máu cục đông ở não, nom bên ngoài thì biết. - Ông ta nhìn tôi. - Anh nên lấy làm mừng vì sự việc đã xảy ra nhanh chóng. Ông ấy đã không khổ sở vì đau đớn.
Sự việc đúng là xảy ra nhanh, quá nhanh. Vừa mới phút trước, cha tôi còn sống, phút sau ông đã chả là gì nữa; thậm chí còn không đủ sức phủi được con ruồi đang từ từ bò qua mép cái chăn trên khuôn mặt đã đậy lại của ông. Tôi không nói.
Ông bác sĩ ngồi phịch xuống cái ghế đối diện tôi. Ông lấy ra một cái bút và một tờ giấy. Ông đặt tờ giấy lên bàn. Tôi có thể đọc được dòng chữ in đậm trên đầu nó. GIẤY CHỨNG TỬ. Cái bút bắt đầu kêu sột soạt trên mặt giấy. Sau một thoáng, bác sĩ ngẩng lên.
- Đồng ý để tôi đề tắc mạch máu là nguyên nhân chết nhé, hay các anh yêu cầu phải giải phẫu xác?
Tôi lắc đầu:
- Tắc mạch máu là ổn rồi. Mổ xác bây giờ cũng chả khác gì nữa.
Bác sĩ lại viết. Một thoáng sau, ông đã xong và đẩy tờ giấy lại tôi:
- Xem lại xem tôi đã ghi mọi thứ đúng chưa.
Tôi nhặt lên. Ông ta ghi đúng cả. Khá tốt đối với một bác sĩ hôm nay mới gặp chúng tôi lần đầu. Nhưng thực ra bất kỳ người nào ở bang Nêvađa này đều biết mọi cái về gia đình Cođơ cả. Tuổi 67. Để lại: vợ - Raina Malovi Cođơ; con trai - Giônơx Cođơ (con). Tôi đẩy tờ giấy lại phía ông ta.
- Được rồi.
Ông ta cầm lấy, đứng dậy.
- Tôi sẽ viết vào sổ và bảo cô thư ký gửi các bản sao cho ông.
Ông ta đứng lưỡng lự, có vẻ như đang cân nhắc xem có nên ngỏ lời an ủi hay không. Rõ ràng là ông ta quyết định không, nên lẳng lặng đi ra cửa.
Giờ Đenbai lại bước vào.
- Còn những người ngoài kia thì sao ạ? Tôi bảo họ đi nhé?
Tôi lắc đầu, họ sẽ lại tìm đến thôi.
- Đưa họ vào đây đi.
Họ bước vào, ông bố và bà mẹ cô gái ấy, nét mặt lộ rõ vẻ lẫn lộn kỳ lạ giữa nỗi buồn đau và lòng ái ngại.
Ông bố nhìn tôi:
- Tôi lấy làm tiếc rằng chúng ta đã không thể gặp nhau trong hoàn cảnh vui vẻ hơn, thưa ông Cođơ.
Tôi nhìn ông ta. Mặt người đàn ông là mặt một ngưòi trung thực. Ông ta cảm thấy thực sự như vậy.
- Tôi cũng thế, - tôi đáp.
Và bà vợ đột nhiên oà lên khóc.
- Thật khủng khiếp, khủng khiếp quá. - Bà ta khóc tu tu, nhìn thi thể cha tôi đã được đậy lại ở đivăng.
Tôi nhìn bà ta. Cô con gái giống mẹ, nhưng sự giống nhau chỉ đến bề ngoài là hết. Người con gái có một vẻ chân thành trẻ tươi. Còn con mẹ này là một đứa gian manh tử thuở lọt lòng.
- Làm sao mà bà phải khóc? - Tôi hỏi, - mãi tới hôm nay bà mới biết ông ta. Mà cũng là đến để hỏi ông ta tiền.
Bà ta trố mắt nhìn tôi, choáng người. Giọng bà ta the thé lên:
- Sao mà anh nói thế được cơ chứ? Bố đẻ anh còn đang nằm kia, và sau những cái anh đã gây cho con gái tôi như thế.
Tôi đứng dậy. Giả dối là điều tôi không chịu được.
- Sau những cái tôi đã gây cho con gái bà! - tôi thét lên. - Tôi dã không hề làm cái gì mà con gái bà không thích tôi làm cả. Có lẽ nếu bà không nói với cô ấy rằng đừng từ một cái gì để ràng buộc tôi, thì cô ấy chắc còn sống đến hôm nay. Cô ấy đã bảo tôi rằng bà đã chuẩn bị cả đến lễ cưới rồi!
Ông chồng quay ngoắt lại phía bà ta. Giọng ông ta run rẩy:
- Thế có nghĩa rằng bà biết nó có mang?
Bà ta nhìn ông ta, kinh sợ:
- Không, anh Henry, không. Em chỉ nói với nó rằng nếu nó lấy được anh ta thì hay lắm. Em chỉ nói thế thôi.
Môi ông ta mím lại, và trong một thoáng, tôi tưởng ông ta sẽ đánh bà ta. Không, ông ta không đánh. Mà ông ta quay sang phía tôi:
- Tôi xin lỗi ông, thưa ông Cođơ. Chúng tôi sẽ không làm phiền ông thêm nữa.
Ông ta kiêu hãnh đi về phía cửa. Bà vợ lập cập đuổi theo.
- Nhưng... anh Henry, - bà ta kêu lên, - anh...
- Im đi! - Ông ta quát, mở cửa và gần như đẩy bật bà ta ra trước. - Bà đã nói thế còn chưa đủ sao?
Cửa đóng lại phía sau họ, tôi quay sang Mac Alixtơ:
- Liệu tôi thế là đã hết rắc rối chưa nhỉ?
Mac lắc đầu.
Tôi nghĩ ngợi một thoáng.
- Tốt hơn là ngày mai anh tới gặp ông ta ở chỗ ông ta làm việc. Giờ chắc là ông ấy sẽ tha thôi. Ông ta có vẻ là một người trung thực.
Mac Alixtơ chậm rãi mỉm cười:
- Anh cho rằng một người trung thực sẽ xử sự như vậy hả?
- Đấy là một trong những điều tôi học được ở cha tôi. - Vô tình tôi liếc cái đivăng. - Ông thường nói rằng người nào cũng có cái giá riêng của mình. Đối với người này, là tiền bạc, đối với người khác, là đàn bà, đối với kẻ thứ ba, là vinh quang. Nhưng đối với người trung thực thì ta không phải mua gì cả - anh ta sẽ giải quyết việc, không lấy của anh cái gì.
- Cha anh là một người thực tiễn. - Mac Alixtơ nói.
Tôi chằm chằm nhìn người luật sư:
- Cha tôi là một lão ích kỷ, tham lam, muốn vơ tất cả mọi thứ trên đời này vào tay mình. Tôi chỉ mong đủ trưởng thành để được như ông ấy.
Mac Alixtơ tư lự xoa cằm:
- Rồi anh sẽ làm được thế đấy.
Tôi khoát tay về phía cái đivăng:
- Sau này chẳng bao giờ tôi còn được giúp đỡ luôn nữa.
Mac Alixtơ nín lặng. Tôi liếc nhìn Nêvađa. Suốt thời gian vừa rồi, anh đứng tựa tường, không nói một lời. Mắt anh lóe sáng sau mi mắt lim dim. Anh lấy ra một gói thuốc rời và giấy, sửa soạn quấn một điếu hút. Tôi quay sang Mac Alixtơ:
- Tôi sẽ cần được giúp đỡ rất nhiều. - Tôi nói.
Mắt Alixtơ ánh lên, chăm chú. Anh lặng thinh.
- Tôi cần một cố vấn, một chuyên gia, và một luật sư. - tôi tiếp tục nói, - anh có thể nhận lời được không nhỉ?
Mac đáp từ từ:
- Không biết tôi có thể tìm ra đủ thì giờ không anh Giônơx ạ. Tôi bận lắm.
- Đến mức nào?
- Một năm tôi làm được sáu mươi ngàn.
- Một trăm ngàn có thể chuyển được anh tới Nêvađa này không?
Câu trả lời của anh ta đến rất nhanh:
- Nếu anh để tôi thảo ra bản hợp đồng.
Tôi rút ra một bao thuốc, mời anh ta một điếu. Anh cầm. Tôi cắm một điếu vào miệng mình, bật diêm, chìa cho Mac. “Ôkê”, tôi đáp.
Que diêm trên tay Mac chững lại giữa chừng. Anh nhìn tôi rất kỳ quặc:
- Mà làm sao anh chắc được anh có thể trả tôi số lương đến như vậy?
Tôi châm thuốc cho mình và mỉm cười:
- Tôi không hề biết, cho đến khi anh ưng thuận. Và giờ thì chắc.
Một nụ cười đáp lại hiện trên miệng Mac rồi biến mất. Anh ta trở lại hoàn toàn được ngay với công việc:
- Việc đầu tiên chúng ta phải làm là triệu tập một cuộc họp ban giám đốc và bầu anh làm chủ tịch công ty. Anh thấy có trở ngại nào trong việc này không?
Tôi lắc đầu:
- Tôi nghĩ rằng không. Cha tôi không ưa chung đụng làm ăn. Ông nắm đến chín mươi phần trăm cổ phần và theo di chúc của ông thì chúng sẽ chuyển sang tôi sau khi ông chết.
- Anh có bản sao di chúc nào không?
- Không, - tôi đáp, - nhưng nhất định Đenbai có. Anh ta sao chép lại mọi cái cha tôi làm.
Tôi ấn chuông. Đenbai bước vào.
- Tìm cho tôi một bản sao di chúc của cha tôi.- Tôi ra lệnh.
Một thoáng sau, nó đã ở trên bàn - tất cả đều hợp lệ, có thị thực của luật sư - một cái tem xanh. Tôi đẩy nó cho Mac Alixtơ. Anh ta lật lật xem nhanh.
- Đâu vào đấy, - anh nói, - cổ phần đúng là của anh. Chúng ta phải đem nó đi nhận thực ngay.
Tôi quay sang Đenbai, dò hỏi. Đenbai không kịp đợi được hỏi, lập cập đáp ngay:
- Ông thẩm phán Haxken ở Rênô đã có nó trong hồ sơ.
- Thế thì gọi điện cho ông ta bảo thực hiện ngay căn cứ vào nó. - tôi nói. Đenbai chực đi. Tôi ngăn lại, - Và sau khi nói chuyện với ông ta xong, anh gọi tất cả các giám đốc bảo họ rằng sáng mai có cuộc họp đặc biệt toàn thể vào bữa điểm tâm. Tại nhà tôi.
Đenbai đi khỏi, tôi quay sang Mac Alixtơ:
- Còn việc gì tôi phải làm nữa không, anh Mac?
Anh chậm rãi lắc đầu.
- Không, giờ thì không. Chỉ còn có cái hợp đồng Đức. Tôi không biết nhiều lắm về nó nhưng đã nghe cha anh nói rằng đấy là một cơ hội lớn. Có liên quan đến một loại sản phẩm mới. Plaxtic - hình như cha anh gọi thế thì phải.
Tôi dụi tắt mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn trên bàn:
- Bảo Đenbai đưa anh xem hồ sơ về việc đó. Đêm nay anh nghiên cứu và sáng mai trình bày để tôi hay trước cuộc họp ban giám đốc. Mai năm giờ tôi sẽ dậy.
Mặt Mac lộ một vẻ kỳ lạ. Thoạt đầu tôi không hiểu, rồi tôi nhận ra đó là cái gì. Sự kính nể.
- Năm giờ mai tôi sẽ tới, anh Giônơx ạ.
Mac đứng dậy đi ra. Tôi gọi với theo trước khi anh đến cửa:
- Trong khi anh xem tài liệu, bảo Đenbai cho anh danh sách những cổ đông của công ty. Tôi thiết tưởng cũng phải biết tên họ trước cuộc họp.
Vẻ kính nể trên mặt Mac hiện ra sâu sắc thêm.
- Vâng, được, anh Giônơx ạ. - anh đáp, đi khuất.
Tôi quay ngoắt lại với Nêvađa và nhìn anh.
- Anh nghĩ sao, - tôi hỏi.
Anh lặng thinh hồi lâu rồi mới trả lời. Anh dứt khỏi miệng một miếng giấy thuốc lá dính vào mép.
- Tôi nghĩ rằng ông cụ chú giờ hoàn toàn nghỉ yên được rồi.
Anh làm tôi sực nhớ. Tôi đã gần như quên bẵng. Đứng lên khỏi ghế, tôi đi vòng quanh bàn, tới đi văng. Tôi nhấc chăn lên, nhìn ông.
Mắt ông nhắm, miệng mím lại nghiêm nghị. Trên thái dương bên phải, có một quầng thâm xanh, chạy đến tận chân tóc. Hẳn đó là chỗ xuất huyết, tôi tự nhủ.
Không hiểu sao, ở sâu xa trong lòng, tôi muốn trào ra một chút nước mắt khóc ông. Nhưng không có được. Ông đã từ bỏ tôi lâu rồi, lâu lắm rồi - từ cái ngày ở hàng hiên ông ném tôi cho anh Nêvađa.
Tôi nghe thấy tiếng mở cửa sau lưng. Thả cái chăn xuống, tôi quay lại. Đenbai đứng ở ngưỡng cửa.
- Thưa ông, có Giắc Plat muốn gặp ông ạ.
Giắc là giám đốc nhà máy. Ông ta trông nom cho máy móc chạy. Ông ta cũng để ý nghe ngóng chiều gió và lúc này hẳn là tin đã lan khắp nhà máy.
- Cho ông ta vào, - Tôi đáp.
Lời tôi vừa dứt, ông ta đã xuất hiện ở khung cửa, cạnh Đenbai. Người to lớn nặng nề. Thậm chí bước đi cũng có vẻ nặng nề nữa. Ông ta bước vào phòng, chìa bàn tay ra.
- Tôi vừa nghe được cái tin buồn này. - Ông ta bước đến đivăng, cúi nhìn cha tôi, mặt mang vẻ người Airơlen [Người Airơlen có tục canh người chết một đêm mới chôn] trang trọng nhất. - Thật là một tổn thất xót xa. Cha cháu là một con người vĩ đại. - Ông ta lắc đầu vẻ tang tóc. - Một người vĩ đại.
Tôi đi lại sau bàn. Và lão thì là một diễn viên vĩ đại, Giắc Plat ạ, tôi thì thầm. Tôi nói:
- Xin cảm ơn ông, ông Giắc.
Ông ta xoay lại phía tôi, mặt tươi rói lên với ý nghĩ là đã kết thúc lớp kịch.
- Và bác mong cháu biết rằng nếu cần gì ở bác, cần bất cứ cái gì, cháu cứ gọi bác ngay.
- Cảm ơn bác, bác Giắc, - tôi lại nói, - biết được những người như bác giúp đỡ cháu thật quí hóa quá.
Ông ta tươi hơn hớn hẳn lên trước lời tôi. Giọng ông ta hạ xuống, thì thầm vẻ bí mật:
- Cả nhà máy đã biết. Cháu có nghĩ là bác phải nói với họ một vài lời chăng? Cháu biết bọn họ đấy - toàn Mêhicô và da đỏ. Có thể họ sẽ thấy xúc động và hơi hồi hộp, cần phải làm tí trấn an.
Tôi nhìn ông ta. Có lẽ ông ta nói phải, “Ý bác hay đấy, bác Giắc ạ. Nhưng thiết tưởng tự cháu nói với họ có khi lại tốt hơn đấy”.
Thích hay không, Giắc cũng phải đồng ý với tôi. Đó là chủ trương của ông ta. Không bao giờ bất đồng với ông chủ.
- Đúng rồi, Giônơx ạ, - ông ta đáp, giấu kín sự không hài lòng. - Nếu như cháu muốn vậy.
- Cháu đang muốn vậy, - tôi đáp, bước ra cửa.
- Thế còn ông ấy thì sao? - Giọng Nêvađa đuổi theo tôi.
Tôi quay lại nhìn theo ánh mắt anh tới cái đivăng.
- Gọi hiệu đám ma và giao cho họ. Bảo họ rằng ta muốn có cái quan tài tốt nhất nước Mỹ này.
Nêvađa gật.
- Rồi đón em ở cổng trước với cái ôtô. Chúng ta sẽ cùng về.
Tôi ra khỏi cửa, không chờ lời đáp lại. Giắc lật đật theo sau tôi, xuống qua hành lang sau, bước ra cầu thang dẫn tới xưởng.
Mọi cặp mắt trong nhà máy dều ngoảnh hết về phía tôi khi tôi bước qua khung cửa ra cái hiên nhỏ ở đầu cầu thang. Giắc giơ tay lên, và im lặng bắt đầu trùm lên nhà máy. Tôi chờ cho lần lượt tất cả máy trong toà nhà tắt hẳn rồi mới nói. Có một vẻ gì đấy thật kinh dị. Lần đầu tiên tôi thấy cả nhà máy hoàn toàn chết lặng. Tôi bắt đầu mở miệng, giọng tôi âm vang kỳ quái suốt tòa nhà.
- Mi pađrê ha muêrtô. - Tôi nói tiếng Tây Ban Nha. Cái vốn tiếng Tây Ban Nha của tôi không khá lắm, nhưng đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tôi tiếp tục, - và tôi, con trai của ông, có mặt ở đây và mong kế tục được công việc tốt đẹp của ông. Thật đáng tiếc là cha tôi không có mặt ở đây để diễn tả sự đánh giá tốt của ông đối với các bạn về mọi cái các bạn đã làm khiến cho công ty ta thành đạt. Tôi hy vọng các bạn sẽ cảm thấy vừa lòng được biết rằng ngay trước khi qua đời, cha tôi đã chính thức ra lệnh tăng lương năm phần trăm cho tất cả mọi người làm việc ở nhà máy ta.
Giắc cuống cuồng giật giật cánh tay tôi. Tôi giằng ra và tiếp tục:
- Tôi thực tâm mong rằng tôi sẽ tiếp tục có được sự giúp đỡ tự nguyện tương tự như các bạn đã tặng cha tôi. Tôi tin tưởng rằng các bạn sẽ tỏ ra kiên nhẫn với tôi vì tôi còn phải học hỏi nhiều. Xin cảm ơn các bạn, và mong chúa phù hộ các bạn.
Tôi bước xuống thang, Giắc đi theo. Những người công nhân giãn ra thành đường cho tôi qua. Phần lớn im lặng, thỉnh thoảng có người đụng tay vào tôi, tỏ ý cam đoan. Hai lần tôi thấy nước mắt ở ai đó. Thế là ít nhất cha tôi không phải chết đi không có ai khóc. Dù cho những giọt nước mắt ấy có ở trong mắt những người không biết ông.
Tôi bước khỏi nhà máy, ra ngoài trời. Tôi nhấp nháy mắt. Mặt trời vẫn chưa lặn. Tôi hầu như đã quên bẵng rằng nó vẫn còn kia. Dường như đã lâu lắm rồi.
Chiếc xe Piơx-Arâu đã đỗ ngay trước cổng. Nêvađa ngồi sau tay lái. Tôi chực bước thì bị bàn tay Giắc giữ cánh tay tôi lại. Tôi quay sang ông ta.
Giọng ông ta gần như than vãn rên rỉ:
- Cháu đã làm cái gì thế, và làm thế để làm gì Giônơx? Cháu không hiểu bọn họ, bọn khốn kiếp ấy, bằng bác đâu. Chìa cho chúng thêm một mẩu, chúng sẽ tợp cả một miếng. Cha cháu trước luôn luôn ủng hộ ý kiến bác giữ mức lương thấp.
Tôi lạnh lùng nhìn ông ta chằm chằm. Có những kẻ biết điều chậm quá.
- Lúc nãy ông có nghe tôi nói gì ở trong kia không, ông Giắc.
- Bác đã nghe cháu nói, Giônơx. Bác cũng đang nói về việc ấy đấy. Bác...
Tôi ngắt lời:
- Tôi nghĩ rằng ông đã không nghe, ông Giắc ạ. - tôi nói rất dịu dàng. - Mấy lời mở đầu của tôi là “Mi pađrê ha muêrtô. Cha tôi đã chết”.
- Phải, nhưng...
- Những lời ấy thực sự hàm ý như vậy, ông Giắc ạ. Cha tôi đã chết. Còn tôi thì không. Tôi đang ở đây và điều duy nhất ông nên nhớ rằng tôi giống hệt cha tôi ở một điểm. Tôi sẽ không chấp nhận một lời chỉ trích chê bai của bất kỳ một ai làm cho tôi, và bất kỳ kẻ nào không ưa những cái tôi làm đều có thể xéo khỏi đây!
Giắc hiểu ra rất nhanh. Ông ta đã ở bên ô tô mở cửa cho tôi:
- Tôi không có ý gì cả, Giônơx ạ, tôi chỉ...
Đối với ông ta, thật phí công mà giảng giải rằng nếu ta trả nhiều, ta sẽ thu được nhiều. Hãng Ford đã chứng minh được điều đó khi ông ta tăng lương cho công nhân năm ngoái. Ông ta tăng sản xuất được lên gấp ba. Tôi chui vào xe và ngoảnh lại nhìn nhà máy. Lớp nhựa đường đen xì, nhớp nháp trên mái đập vào mắt tôi. Tôi nhớ đến lúc ở trên máy bay.
- Này Giắc, - tôi nói, - ông có nhìn thấy mái nhà kia không?
Ông ta quay lại, chăm chú nhìn tôi. Giọng lộ vẻ bối rối:
- Dạ, sao cơ ạ?
Đột nhiên tôi thấy bải hoải cả người. Tôi ngả ra tựa vào thành ghế xe, mắt nhắm lại:
- Sơn trắng nó đi, - tôi nói.

5

Tôi gà gà ngủ trong khi chiếc Piơx kềnh càng nuốt hết chặng đường hai mươi dặm giữa nhà máy với tòa nhà mới của cha tôi. Thỉnh thoảng, tôi mở mắt ra một giây, thoáng thấy Nêvađa đang chăm chú nhìn tôi qua gương phản chiếu của xe, rồi mắt tôi như đeo chì, lại nhắm nghiền lại.
Tôi ghét cha tôi, tôi ghét mẹ tôi và giá như tôi có anh chị em, tôi cũng ghét họ. Không, tôi đã không ghét cha tôi. Giờ tôi không ghét nữa. Ông đã chết. Người ta không ghét người đã chết. Ta chỉ nhớ đến họ. Và tôi cũng không ghét mẹ tôi. Đó không phải là mẹ tôi. Tôi có một bà mẹ kế. Tôi không ghét mẹ kế tôi. Tôi yêu em.
Chính vì vậy mà tôi đã đem em về nhà. Tôi muốn lấy em. Nhưng cha tôi nói tôi còn quá trẻ. Mười chín tuổi là quá trẻ, ông nói. Còn ông thì không quá trẻ. Ông lấy em một tuần sau khi tôi quay về trường đại học của mình.
Tôi gặp Raina ở câu lạc bộ hè hai tuần trước khi hết hè. Em từ miền Đông tới, ở một nơi nào đó gọi là Bruclin, bang Maxachuset, và khác hẳn bất kỳ người nào tôi đã gặp. Tất cả bọn con gái ở đây đều đen, cháy nắng vì dầu dãi ngoài trời. Bọn họ đi đứng như đàn ông, thậm chí cưỡi ngựa như đàn ông. Cái lúc duy nhất ta có thể chắc rằng họ khác ta là buổi tối. Khi họ mặc váy chứ không phải mặc quần bò Lewis’, bởi vì ngay cả ở bể bơi, theo mốt đang thịnh hành, trông họ cũng như đàn ông, ngực lép và mông hẹp.
Nhưng Raina là con gái. Không thể nào nhầm được. Nhất là khi trong bộ quần áo tắm, như cái lần đầu tiên tôi thấy em. Em người dây, phải, và vai rộng, có lẽ hơi quá rộng đối với đàn bà. Nhưng ngực em to và đầy đặn, rắn chắc nhô lên khỏi cái áo chẽn lụa ngược với mốt bấy giờ. Nhìn chúng, miệng ta không khỏi cảm thấy như được nếm vị ngọt ngào như mật, như sữa của chúng. Chúng nằm thoải mái trên một khung ngực cao, vuốt xuôi xuống thành một cái eo hẹp rồi lại tỏa ra thành cặp hông và mông thon thả nhưng tròn.
Mái tóc em màu vàng nhạt, để dài và buộc chặt ở sau đầu - lại ngược với mốt bấy giờ. Lông mày cao, cặp mắt to, cách xa nhau và hơi xếch; màu xanh của chúng phản chiếu lại cái ánh lửa nóng bỏng bên trong, được giấu sau một bề ngoài lạnh lùng. Mũi em thẳng và không mỏng quá - dấu vết của nguồn gốc Phần Lan của em. Miệng em rộng - không phải rộng rãi một cách hào phóng, vì môi em chưa đủ dầy. Đó là một cái miệng biết kìm giữ nụ cười, trên cái cằm thon, quả quyết.
Em đã qua những trường tư thục Thụy sĩ, ít phá lên cười và rất ý tứ giữ gìn. Sau hai ngày, em đã làm tôi thẫn thờ hết cả hồn. Giọng của em dịu dàng, trầm, phảng phất vẻ nước ngoài lơ lớ, nghe cứ ngân lên trong tai.
Và mười ngày sau, trong buổi khiêu vũ tối thứ bảy ở câu lạc bộ, tôi lần đầu tiên nhận thấy mình muốn có em như thế nào. Chúng tôi nhảy một điệu van chậm chạp và chặt chẽ. Đèn trong phòng xanh tối mờ mờ. Đột nhiên em bước hụt nửa bước. Em ngẩng lên nhìn tôi, mỉm cái nụ cười chậm chạp ấy của em.
- Anh khỏe quá, - em nói, và ép thêm người sát vào tôi.
Tôi có thể cảm thấy hơi nóng ở thắt lưng em đang hừng hực trút sang tôi. Và cuối cùng, không nén nổi nữa, tôi nắm tay em, kéo ra khỏi sàn nhảy.
Em lặng lẽ bước theo tôi ra ngoài tới xe. Chúng tôi chui vào chiếc Đuyxenbeg đồ sộ. Tôi cài số, chúng tôi lao vụt trên đường. Đêm trên sa mạc thật ấm. Tôi liếc mắt nhìn em. Đầu em dựa vào thành ghế, mắt nhắm nghiền trước gió.
Tôi rẽ vào một khóm rừng chà là nhỏ, tắt máy. Em vẫn ngả người trên ghế. Tôi cúi xuống hôn lên miệng em.
Miệng em không trả mà cũng không nhận. Như một cái giếng giữa một ốc đảo trên sa mạc. Nó ở đó khi ta khao khát cần nó. Tôi với tay lên ngực em. Tay em nắm lấy tay tôi giữ lại.
Tôi ngẩng đầu, nhìn em. Mắt em mở to, nhưng không lộ điều gì cả. Tôi không thể nhìn sâu vào trong đó được. “Anh muốn em”, tôi nói.
Mắt em không thay đổi. Tôi gần như không nghe thấy tiếng em.
- Em biết.
Tôi nhích lại phía em. Lần này, tay em được đặt lên ngực tôi, ngăn lại:
- Cho em mượn khăn mùi xoa của anh, - em nói, tay rút nó khỏi túi ngực tôi.
Nó lất phất trăng trắng trong bóng tối rồi biến mất cùng với hai bàn tay em. Em không nhấc đầu khỏi thành ghế, em không nói, em chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt không hề để lộ điều gì.
Tôi cảm thấy những ngón tay em đang lần lần, tôi cúi người về phía em, nhưng không hiểu bằng cách nào đấy, em đã ngăn được tôi không nhích lại gần hơn. Rồi đột nhiên, một cơn đau nhói chạy ngược từ xương cụt tôi lên, tôi gần như nhoi hẳn người lên khỏi ghế.
Tôi lấy ra một điếu thuốc, tay run bần bật châm lửa trong khi em vo cái khăn mùi xoa thành một cục tròn, rồi vứt ra khỏi xe. Rồi em nhấc điếu thuốc khỏi mồm tôi, đặt vào miệng mình.
- Anh vẫn muốn em, - tôi nói.
Em trả điếu thuốc cho tôi, lắc đầu.
- Tại sao vậy? - Tôi hỏi.
Em ngoảnh mặt lại phía tôi, gương mặt sáng mờ mờ trong bóng tối:
- Bởi vì hai hôm nữa em sẽ về nhà. Bởi vì trong cuộc phá sản thị trường chứng khoán năm hăm ba, cha em đã bị mất sạch mọi thứ. Bởi vì em sẽ phải tìm được và lấy được một người chồng giàu. Em không được làm bất cứ cái gì nguy hại tới điều đó.
Tôi trố mắt nhìn em một thoáng, rồi mở máy. Tôi cho xe lùi khỏi chùm chà là rồi băng lên đường về nhà. Tôi không đáp, nhưng tôi có tất cả câu trả lời cho em. Tôi giàu. Hoặc một ngày kia sẽ giàu.
Tôi để Raina ngoài phòng khách, bước vào phòng làm việc của cha tôi. Như thường lệ, ông đang lúi húi ngồi ở bàn, ngọn đèn đơn hắt ánh sáng xuống mặt bàn giấy. Ông ngẩng lên.
- Gì thế? - Ông hỏi, dường như tôi là một ai đó ở văn phòng của ông, bước vào vì một công việc nào đó.
Tôi ấn công tắc đèn tường, căn phòng sáng lòa lên.
- Con muốn lấy vợ, - tôi nói.
Ông nhìn tôi một lúc, lơ đãng như đang ở đâu rất xa. Đúng thế, nhưng ông quay về rất nhanh.
- Mày điên rồi,- ông bình thản nói. Ông lại cúi xuống bàn.- Đi ngủ đi, đừng quấy rầy ba.
Tôi đứng sững.
- Con không đùa đâu, ba thân yêu ạ,- tôi nói. Đây là lần đầu tiên tôi gọi cái tên ấy kể từ khi đã lớn.
Ông từ từ đứng dậy.
- Không,- ông nói,- con còn quá trẻ.
Ông chỉ nói có vậy. Ông không hề nghĩ là phải hỏi ai, thế nào, làm sao. Không chỉ vì tôi còn quá trẻ.
- Thôi cũng được, ba ạ,- tôi nói, quay ra phía cửa,- Xin nhớ cho là con đã hỏi ba.
- Hượm đã, - ông nói. Tôi dừng lại, tay trên nắm cửa. - Cô ta đâu?
- Đang chờ ngòai phòng khách, - tôi đáp.
Ông ranh mãnh nhìn tôi:
- Cậu cả quyết định khi nào thế?
- Tối nay, - tôi trả lời, - vừa mới tối nay ạ.
- Hẳn là cô ta là một trong những con bé ngớ ngẩn nhí nhảnh mò đến câu lạc bộ và nhấp nhỏm chờ bắt được ông già nào chứ gì? - Ông nói.
Tôi hăng lên bảo vệ cho em:
- Cô ấy không phải thế đâu. Thậm chí thực ra cô ấy cũng không biết là con đang ở đây hỏi ba.
- Thế có nghĩa là con chưa hề hỏi cô ta?
- Con không cần, - tôi chả lời, dương dương tự tin vì những tuổi đời kinh nghiệm cua rmình. - Con biết rõ câu trả lời của cô ấy.
Cha tôi lắc đầu:
- Anh cũng nên hỏi cô ấy lấy một tiếng chứ, chí ít cũng là để vào sổ đăng kí.
Tôi bước ra và dẫn Raina vào phòng.
- Raina - đây là ba anh. Ba - Đây là Raina Malovi ạ.
Raina nhã nhặn cúi đầu. Nom em xử sự, cứ ngỡ lúc này là ban ngày ban mặt, giữa trưa chứ không phải là hai giờ đêm khuya khoắt.
Cha tôi nhìn em, tư lự. Mặt ông đột nhiên hiện lên một vẻ rất kỳ quặc, tôi chưa từng thấy bao giờ. Ông đi vòng qua bàn, chìa tay ra cho em:
- Xin chào cô, cô Raina Malovi,- ông dịu dàng nói. Tôi trố mắt. Chưa bao giờ tôi thấy ông làm như vậy với bạn bè của tôi cả.
Em nắm lấy tay ông:
- Chào bác ạ.
Tay vẫn cầm tay Raina, ba tôi nói, nửa đùa nửa thật, vẻ thú vị:
- Con trai tôi nghĩ rằng anh ấy muốn lấy cô, thưa cô Malovi. Còn tôi thì cho rằng anh ta quá trẻ. Cô thấy sao?
Raina nhìn tôi. Trong một thoáng, tôi có thể nhìn được ánh mắt em. Sáng ngời, và rồi ngay lập tức, một tấm màn sụp xuống chúng.
Em quay sang cha tôi:
- Thật ngượng quá. Thưa ông Cođơ, phiền ông vui lòng đưa tôi về được không ạ?
Bàng hoàng, không thốt lên lời, tôi nhìn cha tôi đỡ lấy tay em và cùng em bước ra khỏi phòng. Một thoáng sau, có tiếng chiếc Đuyxenbeg rồ lên. Phát khùng, tôi nhìn quanh để tìm cái gì trút cơn hằn học. Chỉ có mỗi cái đèn bàn. Tôi vồ lấy, ném choang vào tường, nó vỡ vụn ra thành từng mảnh.
Hai tuần sau, đang ở trường, tôi nhận được điện của ba tôi:

“Raina và ba đã làm lễ cưới sáng nay, ba và cô ấy đang ở khách sạn Oanđơ - Axtoria, Niu Yooc. Mai sẽ lên tàu Viễn Dương sang châu Âu để hưởng tuần trăng mật”.

Tôi vồ lấy điện thoại, gọi ông:
- Không có một thằng ngu nào như một thằng ngu già! - Tôi thét lên qua ba ngàn dặm dây ở giữa chúng tôi. - Ba không biết rằng lý do duy nhất cô ta lấy ba là vì tiền của ba sao?
Cha tôi thậm chí không hề giận. Ông thậm chí còn cười khùng khục:
- Có cậu mới là đứa ngốc ấy. Tất cả những gì cô ta muốn là một người đàn ông; chứ không phải một thằng trẻ ranh. Cô ấy thậm chí còn một mực đòi phải ký một bản thỏa ước về tài sản trước khi lấy ba cơ.
- Ra thế ư? - Tôi thốt lên. - Ai thảo ra cái bản đó vậy? Luật sư của cô ta chứ gì?
Ba tôi lại cười khùng khục:
- Không. Ba.- Giọng ông đột nhiên thay đổi. Trầm, khàn đầy ý nghĩa: - Thôi giờ lo học hành đi, cu con ạ. Và đừng có dính vào những việc không liên quan tới con. Ở đây bây giờ là nửa đêm,ba đi ngủ đây.
Ống nghe tắt lịm trên tay tôi. Tôi chằm chằm nhìn nó hồi lâu, rồi từ từ đặt nó xuống. Đêm ấy tôi không ngủ được, loang loáng trong óc tôi hiện lên những cảnh Raina và ông bố tôi đang ôm ghì lấy nhau. Mấy lần, tôi choàng tỉnh, người đầm đìa mồ hôi lạnh.
Tay ai đang nhẹ nhàng lay tôi. Tôi từ từ mở mắt. Tôi gặp ngay bộ mặt Nêvađa.
- Dậy đi, Gionơx,- anh nói,- ta tới nhà rồi.
Tôi chớp chớp mắt cố xua đi cơn ngái ngủ.
Mẩu mặt trời cuối cùng đang từ từ khuất sau tòa nhà. Tôi lắc đầu, bước xuống xe. Tôi ngẩng nhìn ngôi nhà. Ngôi nhà xa lạ. Có lẽ tôi đã ở trong đó được tổng cộng hai tuần lễ từ ngày cha tôi xây nó, và bây giờ thì nó thuộc về tôi. Giống như tất cả mọi cái khác cha tôi đã làm.
Tôi bước hướng lên thềm. Raina đã tính toán nghĩ đến mọi cái. Trừ điều này. Cha tôi đã chết. Và tôi sắp sửa báo cho em.

6

Cửa chính mở khi tôi bước lên hè. Cha tôi đã xây một tòa nhà kiểu đồn điền miền nam điển hình và để trông nom nó, ông đã đem Rôbe từ Niu Olean lên. Rôbe là một quản gia da đen điển hình.
Bác ta là một người khổng lồ, lừng lững hơn tôi một cái đầu, và đồ sộ như thế nào thì cũng dịu dàng và được việc chừng ấy.
Cha ông bác đã từng làm quản gia, mặc dù khi ấy họ còn là nô lệ, và họ đã truyền lại cho bác niềm kiêu hãnh với nghề nghiệp của mình. Trong công việc, bác như có giác quan thứ sáu. Bằng cách nào không rõ, bác luôn có mặt khi được cần.
Bác đứng tránh sang bên cho tôi bước vào.
- Xin chào cậu, cậu Cođơ,- bác chào tôi bằng cái tiếng Anh da đen nhẹ nhàng của mình.
- Chào bác, Rôbe. - Tôi nói, quay lại phía bác, trong khi bác lúi húi đóng cửa - Bác vào đây với tôi.
Rôbe lẳng lặng theo tôi vào phòng làm việc của cha tôi. Mặt bác không để lộ điều gì cả. Tôi nhìn bác ta.
- Ba tôi chết rồi,- tôi nói.
- Tôi đã biết rồi ạ, - bác ta đáp, - ông Đenbai gọi điện tới.
- Những người khác có biết không? - Tôi hỏi.
Bác ta lắc đầu.
- Tôi bảo với ông Đenbai rằng bà Cođơ đi vắng, còn tôi thì chưa nói gì với gia nhân cả.
Có tiếng động khe khẽ bên ngòai cách cửa đóng. Rôbe vừa tiếp tục nói vừa lẹ bước đến cửa.
- Tôi nghĩ rằng cậu muốn thông báo cái tin ấy từ chính cậu.- Bác mở toang cánh cửa ra.
Bên ngoài không có ai. Rôbe bước nhanh ra khỏi cửa. Tôi theo sau. Thoáng có bóng người chạy vội lên cầu thang dài vòng trong phòng ngoài lên tầng trên.
Giọng Rôbe nhỏ nhưng đầy vẻ uy quyền:
- Luidơ.
Cái bóng dừng lại. Đó là cô hầu gái của Raina.
- Xuống đây, - Rôbe ra lệnh.
Luidơ ngập ngừng bước xuống. Tôi có thể thấy vẻ sợ hãi trên nét mặt cô ta.
- Dạ thưa ông Rôbe gì ạ?- Giọng cô ta cũng sợ hãi.
Lầu đầu tiên, Rôbe cho tôi thấy bác đã bắt đám gia nhân vào khuôn phép như thế nào. Bác tiến tới uể oải, gần như lười biếng nhưng tay vả vào mặt cô ta nhanh như một phát đạn. Giọng rành rọt, khinh miệt:
- Đã bao nhiêu lần tao bảo mày không được nghe trộm ngoài cửa, hả?
Cô ta đứng sững hai tay ôm mặt. Nước mắt bắt đầu chảy trên má cô ta.
- Giờ đi vào bếp ngay. Tao sẽ nói chuyện sau.
Tay vẫn ôm mặt, cô ta chạy về phía bếp. Rôbe quay lại tội:
- Tôi xin lỗi vì đã để cô ta như thế, thưa ông Cođơ.- Giọng bác một lần nữa trở lại trầm và dịu dàng.- Thông thường, gia nhân của tôi vốn không bao giờ làm chuyện như vậy. Nhưng cái đứa này thì khá khó bảo cho biết điều.
Tôi rút ra một điếu thuốc và gần như trước khi tôi kịp đưa lên miệng, Rôbe đã bật diêm châm cho tôi. Tôi hít một hơi dài.
- Đúng thế, bác Rôbe ạ. Nhưng tôi chắc là cô ta sẽ không còn được ở đây lâu nữa đâu.
Rôbe dập tắt que diêm và cẩn thận bỏ nó vào một cái gạt tàn:
- Vâng ạ.
Tôi trầm ngâm nhìn lên cầu thang. Thật lạ lùng. Tôi thấy ngần ngại.
Giọng Rôbe vọng lại từ sau vai tôi:
- Bà Cođơ đang ở buồng bà đấy ạ.
Tôi nhìn Rôbe. Mặt bác ta là khuôn mặt của một người quản gia không thể nào đoán được ý nghĩ.
- Cảm ơn bác, Rôbe. Tôi sẽ lên nói với bà ấy.
Tôi bước lên cầu thang. Giọng bác làm tôi dừng chân.
- Ông Cođơ ạ?- Tôi quay lại.
Khuôn mặt đen của bác sáng lên:
- Thưa, mấy giờ thì tôi dọn cơm chiều được ạ?
Tôi nghĩ một thoáng.
- Khoảng tám giờ,- tôi đáp.
- Thưa vâng, - Bác nói và đi về phía nhà bếp.
Tôi khẽ gõ cửa phòng Raina. Không có trả lời. Tôi mở cửa bước vào. Giọng Raina vọng ra từ buồng tắm:
- Luidơ, đem hộ tôi một cái khăn tắm lại đây.
Tôi bước vào buồng tắm, với lấy một cái khăn to trong một đống khăn trên cái giá ở phía trên bàn phấn của Raina. Tôi vừa định tiến tới cái bồn tắm quay kín, thì em đẩy cánh cửa kính sang bên.
Người em vàng chói, trắng muốt, lấp lánh những giọt nước chảy xuôi xuống. Em đứng sững lại một thoáng, ngạc nhiên. Hầu hết đàn bà đều sẽ che vội lấy người. Nhưng Raina thì không. Em chìa tay lấy cái khăn tắm.
Em quấn nó quanh mình một cách thành thạo và bước khỏi bồn.
- Luidơ đâu? - em hỏi, ngồi xuống trước bàn phấn.
- Ở dưới nhà, - tôi đáp.
Raina bắt đầu lau mặt bằng một chiếc khăn khác.
- Cha anh sẽ không thích thế này đâu.
- Ông ấy sẽ không bao giờ biết được. - tôi trả lời.
- Làm sao anh biết được là tôi có nói hay không.
- Em sẽ không nói, - tôi khẳng định.
Khi đó em bắt đầu cảm thấy có cái gì đó không ổn. Em ngẩng đầu lên nhìn tôi trong gương, nét mặt đột ngột trở lên nghiêm nghị:
- Giữa anh và cha anh đã xảy ra cái gì thế, Giônơx?
Em nhìn tôi một hồi lâu, đăm đăm, tỏ ý khó hiểu. Em đưa cho tôi một cái khăn nhỏ:
- Ngoan nhé, Giônơx. Lau hộ tôi cái lưng được không? Tôi không với tới.- Và mỉm cười vào gương.- Anh thấy đấy, thực sự là tôi cần Luidơ.
Tôi cầm khăn, lại gần hơn. Em để cái khăn choàng to tuột khỏi hai vai. Tôi chấm những giọt nước ẩn trên làn da mịn của em. Hương thơm người em bay vào mũi tôi, sực nức lên thêm sau khi tắm nước nóng.
Tôi miết môi mình vào cổ em. Em ngạc nhiên quay lại:
- Giônơx, ngừng ngay cái trò đó lại đi! Sáng nay cha anh nói anh là một gã cuồng, nhưng anh không phải cố chứng minh điều đó đâu.
Tôi nhìn thẳng vào mắt Raina. Không có vẻ gì sợ hãi ở trong đó cả. Em tự tin lắm. Tôi chậm rãi mỉm cười.
- Có thể ông ấy đúng,- tôi nói.- hoặc có thể ông ấy quên mất thế nào là tuổi trẻ rồi.
Tôi kéo em nhào khỏi ghế về phía tôi. Cái khăn từ từ tuột xuống cho đến mắc lại ở chỗ người chúng tôi ép vào nhau. Tôi gắn chặt miệng vào miệng Raina, tay tóm lấy ngực em. Bộ ngực rắn chắc, cứng và đầy đặn, tôi cảm thấy rõ tiếng tim đập thình thịch điên dại ở phía dưới.
Có thể là tôi lầm, nhưng trong một thoáng, tôi cảm thấy em hừng hực truyền lửa sang tôi. Rồi, cáu kỉnh, em dằn ra khỏi tôi. Cái khăn rơi sóng soài trên mặt sàn.
- Anh điên rồi hả?- em nhổ vào tôi, ngực phập phồng.- Anh biết rất rõ rằng ba anh có thể bước vào đây bất cứ lúc nào bây giờ qua cái cửa kia.
Tôi đứng lặng đi một giây, rồi tất cả sức ép dồn nén trong phổi tôi trút ra trong một tiếng thở dài.
- Ông ấy sẽ không bao giờ bước qua cái cửa ấy nữa đâu,- tôi nói.
Mặt Raina dần dần bợt đi.
- Anh... anh nói thế có nghĩa là... nghĩa là sao?- em lắp bắp.
Tôi nhìn thẳng vào mắt em. Lần đầu tiên, tôi có thể đọc được những gì trong đó. Em kinh sợ. Giống như tất cả những người khác khi phải nhìn tới một tương lai không hề biết.
- Thưa bà Cođơ,- tôi chầm chậm nói,- chồng bà đã chết.
Con ngươi mắt em, trong một thoáng, quay lộn điên loạn. Em từ từ ngã phịch xuống ghế. Tay em theo phản xạ, nhặt lấy một cái khăn lên, quấn quanh người.
- Tôi không thể tin được,- em nói thờ thẫn.
- Em nói không thể tin được cái gì hở Raina? - tôi cay nghiệt hỏi, - rằng ông ta đã chết hay em đã nhầm khi em lấy ông ta mà không lấy anh?
Có lẽ Raina không nghe thấy lời tôi. Em ngẩng lên nhìn tôi, mắt ráo hoảnh, nhưng trong mắt có một nỗi buồn dịu dàng - một niềm yêu thương, mà tôi không hề biết là em có thể có.
- Có xảy ra đau đớn gì không?- em hỏi.
- Không, - tôi đáp, - rất nhanh. Đột quỵ. Vừa mới phút trước còn đầy sức sống và gầm lên như sư tử, và phút sau đã... - tôi búng ngón tay đánh tách,- như thế đấy.
Em vẫn chằm chằm nhìn tôi.
- Tôi mừng thay cho ông ấy,- em nói dịu dàng.- Tôi không hề mong ông ấy phải vật vã đau đớn.
Em từ từ đứng dậy. Cái màn che lại phủ xuống ánh mắt.
- Có lẽ giờ anh nên đi đi thì tốt hơn.
Đấy lại là Raina quen thuộc, người tôi muốn tách riêng ra - Cái con người xa xăm, con người kiêu sa không với tới nổi, con người tính toán.
- Chưa, - tôi đáp, - anh chưa xong.
Em đi ngang qua tôi:
- Còn phải xong cái gì nữa?
Tôi vồ lấy tay em, kéo em lại phía mình.
- Chúng ta chưa xong,- tôi nói với khuôn mặt ngẩng lên của em.- Anh và em. Anh đem em về nhà đêm nọ là bởi vì anh muốn em. Nhưng em lại chọn cha anh bởi ông đưa được một món đền bù nhanh hơn cho em. Anh nghĩ rằng anh đợi thế đã là đủ lâu rồi.
Em chăm chú nhìn lại tôi. Em không hề sợ. Đây là cái miếng đất quen thuộc em thường chống trả.
- Anh đừng có liều động vào!
Thay cho câu trả lời, tôi giật phăng tấm khăn khỏi người em. Em quay ngoắt lại chạy khỏi phòng nhưng tôi túm được tay em, lôi giật lại phía mình. Tay kia tôi túm tóc, kéo về phía sau làm mặt em ngẩng lên nhìn tôi.
- Không ư?
- Tôi sẽ kêu, - em thở hổn hển, khàn khàn nói, - gia nhân sẽ chạy đến!
Tôi ngoác miệng cười:
- Không. Họ sẽ không tới. Họ sẽ nghĩ đấy chỉ là tiếng kêu đau khổ. Rôbe đang tập trung họ trong bếp và không một ai sẽ lên đây nếu anh không gọi.
- Hãy gượm đã! - em van vỉ, - xin anh hãy gượm đã. Nghĩ đến cha anh một chút.
- Tại sao anh lại phải làm thế? - tôi thốt lên, - ông ấy có chờ anh tí nào đâu, - Tôi bế thốc em lên, mang vào phòng ngủ. Tay em cào cấu mặt tôi, đấm thình thịch vào ngực tôi.
Tôi quẳng em xuống giường, tấm xatanh trắng vẫn còn phủ nguyên trên đó. Raina cố lăn sang mép giường bên kia. Tôi tóm lấy vai em, lật trở lại. Em cắn vào tay tôi, tôi rụt lại, em cố lồm cồm bò đi. Tôi dằn đầu gối mình lên hai đùi Raina, thẳng tay vả vào mặt em. Em ngã vật xuống gối, má hằn rõ năm vệt ngón tay.
Em nhắm mắt lại một thoáng và khi em mở mắt ra, chúng đã mờ đi và có một vẻ điên dại tôi chưa hề nhìn thấy. Em mỉm cười, giơ hai tay ôm choàng lấy cổ tôi, vít tôi xuống em. Môi em siết chặt lên môi tôi, và tôi có thể cảm thấy người em bắt đầu quằn quại dưới tôi.
- Yêu em đi, Giônơx! - em thở vào miệng tôi, - ngay bây giờ! Em không đừng được nữa rồi. Em chờ lâu lắm rồi. - Những ngón tay em lật bật đụng vào đùi tôi, cầm lấy của tôi. Em úp mặt xuống gối, cuống lên hơn bao giờ hết. Tôi gần như không nghe thấy tiếng thì thào khẩn thiết, giục giã của em: - Mau lên, anh Giônơx! Mau lên.
Tôi chực nhổm dậy, nhưng em không thể chờ tôi kịp cởi bỏ quần áo. Em kéo tôi xuống một lần nữa và nhập tôi cùng em. Em như một lò than cháy bỏng. Em kéo đầu tôi xuống cổ mình.
- Làm em có mang đi, Giônơx, - em thì thào bên tai tôi, - làm em có mang như ba cô gái anh đã làm ở Lôx Angiơlex đi. Đem sức sống của anh vào cho em.
Tôi nhìn mặt Raina. Mắt em trở lại trong veo, một vẻ đắc thắng giễu cợt ở trong đó. Đôi mắt ấy không phản ánh được tí gì những cảm giác của cái thân thể ở dưới tôi. Tay chân em quắp chặt lấy người tôi.
Em mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt tôi.
- Làm cho em có mang đi, Giô nơx,- em thì thào,- như cha anh không bao giờ làm cả. Ông ấy sợ rằng sẽ có người cướp hết tiền bạc của anh đi.
- Sao... sao? - tôi cố ngổm dậy nhưng không được. Em như một cái giếng không đáy thăm thẳm, tôi không dứt ra nổi nữa.
- Phải, Giônơx ạ, - em mỉm cười, thân thể em vẫn ngốn ngấu lấy tôi.- Cha anh không bao giờ tìm dịp cả. Chính vì thế mà ông đã bắt em ký cái bản thỏa thuận trước khi cưới ấy. Ông muốn dành tất cả mọi thứ cho cậu con trai quý tử của mình!
Tôi chực gượng dậy nhưng Raina đã chuyển dịch chân một cách rất bí ẩn thế nào đó. Cười đắc thắng, em nói:
- Nhưng anh sẽ làm em có mang, phải không, Giônơx? Ai ngoài chúng ta biết điều đó? Và anh sẽ chung hưởng gia tài với đứa con của anh ngay cả khi cả thế giới tin rằng nó là con ba anh!
Em cong người lên dưới tôi, tìm kiếm và đòi hỏi sinh lực của tôi. Và bất chợt, nổi xung lên, tôi dằn ra được khỏi em, đúng vào lúc sức lực tôi dốc tuột khỏi người. Tôi ngã ngang xuống giường, cạnh chân em.
Cơn đau đã qua, tôi mở mắt. Em úp mặt vào gối, khóc. Lặng lẽ, tôi đứng dậy, rời khỏi căn phòng.
Suốt dọc đường về buồng mình qua phòng lớn, tôi không ngừng nhủ thầm trong óc. Ba tôi có để ý chăm sóc tôi, ông thực sự có để ý đến. Thậm chí nếu như tôi không tìm ra được, thì ông cũng đã yêu tôi.
Ông đã yêu tôi nhưng không đủ để lộ ra tình yêu ấy.

7

Khi về tới phòng mình, hai má tôi đã ròng ròng nước mắt.
Ngồi trên mình con ngựa vá nhỏ, nòi Inđiơn mà tôi được cho từ hồi lên mười, tôi đang phi như điên qua các cồn cát. Tôi sợ đến lịm người vì ngựa phi nhanh, nhưng không hiểu vì sao mình lại phải chạy trốn. Tôi ngoái đầu nhìn phía sau.
Cha tôi cưỡi một con ngựa lang nâu to đuổi theo tôi. Áo vettông của ông mở phanh, bay phồng lên trong gió. Tôi có thể nhìn thấy sợi dây đồng hồ to sụ của ông vắt chéo trên ngực. Giọng ông vọng tới, méo mó quái dị trong gió:
- Quay lại đây, Giônơx. Thằng khốn kiếp, quay lại đây ngay!
Quay đầu lại, tôi thúc ngựa phi nhanh hơn, ra roi không thương tiếc. Trên sườn con ngựa hằn lên những vết đỏ. Dần dần, tôi bứt ra được khỏi cha tôi.
Và đột nhiên, như chẳng biết từ đâu tới, Nêvađa đã ở bên tôi, nhẹ nhàng trên mình con ngựa ô to của anh. Anh bình thản nhìn chéo sang tôi. Giọng anh nhỏ nhẹ:
- Quay lại đi Giônơx, cha chú gọi kìa. Mà chú là cái loại con trai gì cơ chứ hả?
Tôi không đáp mà vẫn tiếp tục thúc ngựa. Tôi ngoái lại phía sau một lần nữa.
Cha tôi đang ghìm cương đứng lại. Mặt ông buồn rười rượi.
- Hãy trông nom nó, Nêvađa.- Tôi chỉ còn nghe được thoang thoảng tiếng ông, hai chúng tôi đã cách nhau rất xa.- Trông nom nó, tôi không đủ thì giờ nữa.
Ông giật cương vòng lại và bắt đầu phóng đi. 
Tôi đứng lại, nhìn theo. Bóng ông đã nhỏ hẳn. Thậm chí những được viền quanh người ông cũng nhòe đi trong màn nước mắt bất chợt úa ra trên mắt tôi. Tôi muốn thét với theo ông:
- Ba ơi, đừng đi.- nhưng không được. Cổ họng tôi nghẹn lại.
Tôi ngồi dậy trên giường, người ướt đẫm mồ hôi. Tôi lắc đầu, xua tan những mảnh giấc mơ còn sót lại. Qua cửa sổ, tôi nghe thấy tiếng huyên náo của bầy ngựa đang ùa ra khỏi dãy chuồng phía sau nhà.
Tôi đi đến cửa sổ, nhìn ra ngoài. Mặt trời ở khoảng năm giờ sáng, hắt lên mọi vật một cái bóng dài. Ở sân luyện ngựa, dăm sáu người làm công đang đứng dựa vào hàng rào, xem một người kìm một con ngựa nâu chắc lẳn. Tôi nheo mắt trong nắng.
Tôi quay ngoắt khỏi cửa sổ, định xuống ràn ngựa. Đấy chính là thứ thuốc tôi đang cần. Một thứ có thể làm tan nỗi trống rỗng trong lòng tôi, xóa sạch cảm giác đắng nghét ở miệng tôi. Tôi xỏ chân vào cái quần bò Lêvi, mặc một chiếc áo sơ mi xanh bạc, đi ra cửa.
Tôi đi dọc hành lang, xuống cầu thang sau và bắt gặp Rôbe. Bác bưng một cái khay để một cốc nước cam và một ấm cà phê đang bốc khói. Bác nhìn tôi, không hề ngạc nhiên:
- Chào ông ạ, ông Giônơx.
- Chào bác, bác Rôbe.
- Ông Mac Alixtơ đang ở đây, muốn gặp ông. Tôi đã đưa ông ấy vào phòng làm việc rồi ạ.
Tôi lưỡng lự một thoáng. Ràn ngựa có thể đợi được. Có những việc quan trọng hơn tôi phải làm.
- Cám ơn bác, bác Rôbe.- Tôi quay lại phía cầu thang trước.
- Ông Giônơx,- Rôbe gọi phía sau.
Tôi dừng lại, nhìn bác.
- Nếu ông định bàn công chuyện, thì thưa ông, tôi muốn chắc rằng ông sẽ bàn bạc tốt hơn một khi ông đã có cái gì ở trong dạ.
Tôi nhìn bác, rồi nhìn cái khay, gật đầu và ngồi bệt xuống bậc thang đầu tiên. Rôbe đặt khay xuống cạnh tôi. Tôi vớ lấy cái cốc nước cam, uống cạn. Rôbe rót cà phê và nhấc tấm vải phủ bánh mỳ nướng. Tôi nhấp một ngụm cà phê. Rôbe nói đúng. Cảm giác trống rỗng nằm ở dạ dày tôi đang biến dần đi. Tôi cầm lấy một lát bánh mỳ nướng.
Nếu Mac Alixtơ có để ý tới cái lối tôi ăn mặc thì anh cũng không thốt ra một lời nhận xét nào. Anh đi thẳng vào chuyện.
- Mười phần trăm cổ phần thiểu số sẽ được chia như sau,- anh vừa nói vừa trải rộng mấy tờ giấy ra bàn,- hai phẩy năm phần trăm mỗi người - Raina Cođơ và Nêvađa Smith; hai phần trăm mỗi người - thẩm phán Xamuen Hanxken và Pitơ Kơmac, chủ tịch Ngân hàng công nghiệp Renô; và một phần trăm là của Ơgin Đenbai.
Tôi nhìn anh:
- Giá trị của cổ phiếu là bao nhiêu?
- Trên cơ sở nào cơ? - anh hỏi, - Lãi giá hay thực giá?
- Cả hai.
Mac Alixtơ lại nhìn vào tài liệu của mình:
- Trên cơ sở của lãi suất trung bình trong năm năm qua, cổ phần thiểu số ấy trị giá bốn lăm ngàn đô la, còn trên cơ sở thực thì khoảng sáu mười nghìn gì đó.- Anh châm một điếu thuốc.- Khả năng thu lãi của công ty đã bị giảm từ sau chiến tranh.
- Thế nghĩa là sao?
- Trong thời bình, nhu cầu về sản phẩm của ta không lớn như thời chiến. - Anh đáp.
Tôi rút một điếu thuốc, châm lửa. Tôi bắt đầu nghi ngờ về một trăm nghìn đôla tôi có thể trả cho Mac Alixtơ.
- Nói cho tôi biết về cái tôi còn chưa biết đi,- tôi giục.
Anh nhìn tài liệu rồi nhìn tôi:
- Ngân hàng của Kơmac đã hủy giao kèo cho vay hai trăm nghìn đôla mà ông cụ anh muốn có để tài trợ cho cái hợp đồng Đức mà anh ký hôm qua.
Tôi từ từ dập điếu thuốc vào gạt tàn.
- Như thế tức là tôi bị đẩy vào cảnh thiếu vốn chứ gì?
Mac Alixtơ gật đầu:
- Đúng vậy.
Câu hỏi tiếp sau của tôi hoàn toàn bất ngờ với anh:
- Thế anh đã định làm gì đối với việc này?
Anh trố mắt nhìn tôi như nhìn một nhà tâm lý:
- Cái gì đã khiến anh nghĩ được là tôi đã có cách thế?
- Anh ở trong phòng làm việc của ba tôi khi tôi đến đấy và tôi biết là ông bố tôi không gọi anh đến để giải quyết với cha mẹ cô gái. Ông có thể tự mình làm được. Và rồi anh nhận làm với tôi. Như thế có nghĩa là anh chắc có thể kiếm được tiền.
Mac Alixtơ bắt đầu mỉm cười:
- Tôi đã thu xếp được một giao kèo khác ở Tơrot Paiơnia Nasơnơl ở Lôx Angiơlex. Tôi hỏi ba trăm nghìn, để cho chắc ăn.
- Tốt, - Tôi nói, - như thế là tôi sẽ có tiền mua lại số cổ phần thiểu số của công ty.
Mac Alixtơ vẫn chằm chằm nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên khi tôi gieo mình xuống cái ghế cạnh anh.
- Nào, - tôi nói, - bây giờ hãy nói cho tôi biết mọi điều anh đã tìm ra được về cái sản phẩm mà cha tôi đã sôi sục lên ấy. Anh gọi nó là gì nhỉ? Chất dẻo à?

8

Rôbe dọn một bữa điểm tâm theo kiểu trại chăn nuôi: thịt nướng, trứng và bích quy nóng. Tôi nhìn quanh bàn. Cái đĩa cuối cùng đã được đem đi và Rôbe ý tứ rút lui, khép cánh cửa lại phía sau bác. Tôi uống cạn cốc cà phê, đứng dậy.
- Thưa các vị, - tôi nói, - Tôi biết rằng mình không cần phải diễn tả bản thân đã bàng hoàng như thế nào khi đột nhiên hôm qua thấy phải chịu trách nhiệm về một công ty lớn như THUỐC NỔ COĐƠ. Vì thế cho nên hôm nay tôi mời các vị đến đây để giúp đỡ tôi quyết định xem nên làm cái gì là tốt nhất cho công ty.
Giọng Kơmac the thé vọng từ đầu bàn kia lại:
- Con có thể trông cậy vào các bác xem cái gì là đúng, con ạ.
- Xin cảm ơn ông, ông Kơmac, - tôi đáp. - tôi thấy hình như việc đầu tiên ta phải làm là bầu ra một chủ tịch mới cho công ty. Một người sẽ tận tụy với công việc như cha tôi.
Tôi nhìn quanh bàn. Đenbai ngồi ở đầu kia, nguệch ngoạc ghi chép lăng nhăng trên một cuốn sổ. Nêvađa đang cuốn một điếu thuốc. Anh nhìn tôi, mắt cười cười. Mac Alixtơ ngồi lặng lẽ cạnh anh. Haxken và Kơmac đều lặng thinh. Tôi chờ cho im lặng trở nên nặng nề. Và nó trở nên nặng nề thật. Tôi không cần phải được bảo xem ai là bạn tôi.
- Các vị có ý kiến gì đề xuất không? - Tôi hỏi.
Kơmac nhìn tôi:
- Anh làm chăng?
- Ngày hôm qua tôi đã nghĩ thế, - tôi đáp. - Nhưng rồi gác nó đến hôm nay và sáng nay đã đi đến kết luận rằng việc đó quá khó khá đối với một người có cái vốn kinh nghiệm cỡ như tôi.
Từ sáng đến giờ, lúc này mới thấy mặt Haxken, Kơmac và Đenbai tươi tỉnh hẳn lên. Họ liếc nhau rất nhanh. Kơmac nói:
- Con nghĩ thế thật thỏa đáng. Thế nào, thẩm phán Haxken, có được không? Ông đã về hưu nhưng bác thiết tưởng ông có thể đảm nhận chức vụ đó để giúp đỡ con không?
Tôi quay sang viên thẩm phán:
- Ông làm nhé, ông thẩm phán?
Ông ta mỉm cười chậm rãi:
- Chỉ là để giúp cháu, giúp cháu thôi.
Tôi nhìn Nêvađa. Anh tủm tỉm cười. Tôi mỉm cười đáp lại, rồi quay sang những người khác:
- Ta biểu quyết về việc ấy chứ các vị?
Bây giờ Đenbai mới nói:
- Theo điều lệ của công ty, một chủ tịch chỉ có thể được bầu ra ở một cuộc họp các cổ đông. Và chỉ do đa số ủng hộ của cổ phần lớn.
- Thế thì hãy họp các cổ đông vậy, - Kơmac nói, - cổ phần đã được đại diện ở đây rồi.
- Ý hay đấy, - tôi nói và quay sang phía thẩm phán Haxken, mỉm cười nói thêm, - Liệu như tôi có thể bầu với cơ sở cổ phần của mình?
- Hẳn chứ, cháu ạ, - Ông ta tươi mặt lên, móc túi một tờ giấy, đưa cho tôi, - Đây, có ở trong di chúc của ba cháu đây. Sáng nay bác đã đưa nó đi nhận thực rồi. Tất cả bây giờ là chính thức của cháu.
Tôi cầm lấy di chúc và tiếp tục.
- Vậy được rồi, cuộc họp ban giám đốc kết thúc và cuộc họp các cổ đông bắt đầu. Mục đầu tiên trong chương trình nghị sự là bầu một chủ tịch kiêm thủ quỹ của công ty thay cho ông Giônơx Cođơ quá cố.
Kơmac mỉm cười:
- Tôi đề cử ông thẩm phán Xamuen Hanxken.
Đenbai nói nhanh. Quá nhanh:
- Tôi ủng hộ.
Tôi gật đầu:
- Việc đề cử ông thẩm phán Haxken được chấp thuận. Còn đề nghị gì khác nữa không trước khi khóa sổ danh sách đề cử?
Nêvađa đứng dậy:
- Tôi đề cử Giônơx Cođơ, con. - Anh nói lè nhè.
Tôi mỉm cười với anh:
- Cảm ơn ông.
Tôi quay sang viên thẩm phán, giọng sắt lại, lạnh ngắt:
- Đúng là tôi nghe thấy lời ủng hộ không nhỉ?
Mặt viên thẩm phán đỏ bừng. Ông ta liếc Kơmac, rồi Đenbai. Đenbai tái nhợt người.
- Có phải tôi nghe thấy lời ủng hộ không nhỉ? - Tôi lạnh lùng nhắc lại.
Ông ta biết là tôi đã thắng bọn kia rồi.
- Tôi ủng hộ, - ông ta yếu ớt nói.
Và sau đó thì dễ dàng. Tôi mua lại cổ phần của họ với hai mươi lăm nghìn đôla và việc đầu tiên tôi làm là sa thải Đenbai.
Nếu như cần thư ký, tôi không cần một con lươn bóng mượt, xảo trá như anh ta. Tôi thích một thư ký có ngực cơ.
Rôbe bước vào phòng làm việc nơi tôi và Mac Alixtơ đang bận bịu với giấy tờ. Tôi ngẩng lên:
- Gì thế, bác Rôbe?
Bác cúi đầu trịnh trọng:
- Thưa ông, cô Raina muốn gặp ông trên phòng của cô ấy ạ.
Tôi đứng dậy, vươn vai. Ngồi bàn giấy nửa ngày trời thế này thật đúng mệt hơn bất kỳ việc gì khác.
- Được, tôi lên ngay đây.
Mac Alixtơ nhìn tôi dò hỏi:
- Chờ tôi một tý, - tôi nói, - tôi không đi lâu đâu.
Rôbe mở cửa cho tôi và tôi lên cầu thang đến phòng Raina. Tôi gõ cửa.
- Mời vào, - em nói.
Em đang ngồi cạnh bàn, trước gương. Luidơ đang chải tóc cho em bằng một cái lược trắng to đùng. Mắt em nhìn tôi trong gương:
- Em muốn gặp anh phải không? - tôi hỏi.
- Phải, - em đáp và quay sang Luidơ, - Giờ thế là đủ, cô đi đi.
Cô ta gật đầu lặng lẽ và đi ra cửa. Raina nói với theo:
- Chờ ở dưới nhà ấy. Khi nào cần, tôi sẽ gọi.
Em nhìn tôi, mỉm cười:
- Con bé ấy có cái tính hay nghe trộm ở lỗ khóa.
- Anh biết, - Tôi đáp và đóng cửa lại. - Em muốn gặp anh để làm gì?
Raina đứng dậy. Cái áo thụng đen xòe ra quanh em. Tôi có thể nhìn thấy, qua nó, rằng bên trong em cũng mặc đồ lót đen. Mắt Raina bắt gặp mắt tôi. Em lại mỉm cười:
- Anh thấy bộ đồ góa phụ của em thế nào?
- Rất là góa phụ vui vẻ, - tôi đáp - nhưng điều ấy hẳn không phải lý do em gọi anh lên đây.
Em châm một điếu thuốc lá:
- Em muốn đi khỏi đây ngay sau lễ tang.
- Để làm gì? - tôi hỏi, - cái nhà này là của em. Ông ấy cho em.
Qua làn khói thuốc lá thở ra, em nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Em muốn anh mua lại cái nhà này.
- Anh làm gì có tiền?
- Anh sẽ có tiền. - Raina nói thẳng. - Ba anh luôn lấy tiền mua những cái mà ông cần.
Tôi nhìn em kỹ từ đầu đến chân. Em có vẻ như biết chính xác mình đang làm cái gì.
- Em lấy bao nhiêu?- tôi thận trọng hỏi.
- Một trăm nghìn đôla. - em bình thản đáp.
- Sao? - tôi thốt lên, - Nó không đáng đến năm lăm nghìn.
- Em biết. Nhưng em gộp thêm cả cái khác nữa vào đấy. - Cổ phần của em trong công ty thuốc nổ Cođơ.
- Cổ phần cũng không đáng đến thế được! - Tôi phát khùng, - Vừa mới sáng nay anh mua gấp đôi chỗ cổ phần ấy với hăm lăm ngàn!
Raina đứng dậy, tiến đến chỗ tôi. Mắt em lạnh lùng ngẩng lên nhìn tôi:
- Này, anh Giônơx, em đang rất tử tế biết điều đấy. Theo luật của bang Nêvađa, em được một phần ba bất động sản của ba anh, dù có di chúc hay không. Nếu thích, em có thể phá được việc thực hiện di chúc. Và ngay cả khi không thể phá được, em cũng có thể làm anh lằng nhằng chết dí ở tòa án năm năm. Và như vậy thì tất cả kế hoạch của anh sẽ ra sao?
Tôi lặng lẽ chằm chằm nhìn Raina.
- Nếu anh không tin, tại sao không đi hỏi cái anh bạn luật sư dưới nhà xem? - Em nói thêm.
- Em hẳn đã hỏi rồi à? - Tôi đoán.
- Hẳn đi chứ lỵ. - Em đáp gọn. - Ông thẩm phán Haxken đã gọi điện cho em ngay sau khi về đến bàn giấy của mình.
Tôi hít một hơi dài. Đáng lẽ nên biết trước rằng cái lão khốn kiếp ấy sẽ không chịu buông dễ thế đâu.
- Nhưng anh không hề có nhiều tiền đến như vậy. Cả công ty nữa, - tôi nói.
- Em biết. Nhưng em sẵn sàng tỏ ra biết điều. Em sẽ lấy năm mươi nghìn trong cái ngày sau lễ tang và giấy cam đoan của anh có chứng nhận của công ty rằng sẽ trả mười nghìn từng năm cho em trong vòng năm năm tới.
Không cần một luật sư nói cho rõ. Tôi cũng biết rằng Raina đã được xui bày đâu ra đấy.
- Ôkê, - tôi đáp,- Em xuống nhà đi. Anh sẽ bảo Mac Alixtơ thảo giấy tờ.
Em lại mỉm cười:
- Em không thể làm thế được.
- Sao lại không? - Tôi hỏi sẵng.
- Em đang để tang. Bà quả phụ Giônơx mò xuống lầu dưới tính toán chuyện làm ăn thì nom sao được. - Em quay lại bàn phấn, ngồi xuống. - Khi nào giấy tờ xong, anh gửi nó lên đây cho em.

9

Khi hai chúng tôi ra khỏi xe tắc xi, bước tới trước cửa tòa nhà băng ở khu làm ăn của Lôx Angiơlex thì đã năm giờ chiều. Chúng tôi đi qua cửa, vòng ra sau, tới văn phòng ban giám đốc. Mac Alixtơ dẫn tôi đi qua một cái cửa nữa ngoài đề PHÒNG RIÊNG. Đây là một phòng tiếp khách.
Một cô thư ký ngẩng lên:
- A, ông Mac Alixtơ,- cô mỉm cười.- Chúng tôi ngỡ là ông đang ở Nêvađa cơ đấy.
- Tôi đã ở đó. - Mac đáp. - Ông Mêrôni có ở đây không cô?
- Dạ để tôi xem lại đã ạ. - cô gái nói. - Đôi khi ông ấy có thói quen đi khỏi văn phòng mà chẳng nói cho tôi đâu. - Cô ta biến mất sau một cánh cửa khác.
Tôi nhìn Mac Alixtơ:
- Đây chính là loại thư ký tôi muốn. Vừa thông minh, vừa có một cặp nhũ hoa tuyệt đẹp.
Mac mỉm cười:
- Một cô thư ký như vậy kiếm ra bảy lăm, tám mươi đôla một tuần đấy. Không phải rẻ đâu.
- Muốn có đồ tốt thì phải tốn chứ. - Tôi đáp.
Cô thư ký hiện ra trên ngưỡng cửa, nhoẻn cười:
- Ông Mêrôni sẽ tiếp ông bây giờ đấy, ông Mac Alixtơ ạ.
Tôi theo Mac vào phòng trong. Căn phòng rộng, tường ốp gỗ sẫm màu. Một cái bàn to kê ở giữa phòng. Sau bàn là một người đàn ông nhỏ nhắn, tóc màu xám thép đã hoa râm, có cặp mắt đen tinh nhanh. Thấy chúng tôi bước vào, ông ta đứng dậy.
- Ông Mêrôni. - Mac Alixtơ giới thiệu. - Đây là Giônơx Cođơ.
Mêrôni chìa tay ra. Tôi bắt tay ông ta. Bàn tay không mềm mại như thường thấy ở chủ nhà băng. Nó rắn đanh, sần sùi chai, bắt rất chặt. Bao nhiêu năm vất vả đã tích tụ trong nó, và phần lớn những năm ấy không phải là đã trôi qua đằng sau một cái bàn.
- Hân hạnh được gặp ông, ông Cođơ ạ.- Giọng ông ta lơ lớ theo kiểu người Italia.
- Rất hân hạnh ạ. - Tôi kính trọng đáp.
Ông ta chỉ mấy cái ghế trước bàn, mời chúng tôi. Chúng tôi ngồi. Mac Alixtơ vào chuyện luôn. Khi anh ngừng, Mêrôni cúi người về phía trước bàn, nhìn thẳng vào tôi:
- Tôi rất buồn, được biết về tổn thất của ông.- Ông ta thốt lên,- Tôi có được nghe nhiều chuyện về ông nhà. Ông nhà thật là một con người khác thường.
Tôi gật đầu:
- Đúng thế đấy ạ.
- Như vậy tất nhiên điều ấy sẽ tạo nên sự khác biệt, ông biết ấy.
Tôi nhìn ông ta:
- Thưa ông Mêrôni, không tính tới chi tiết kỹ thuật, tôi thiết tưởng khoản vay được thỏa thuận với Công ty thuốc nổ Cođơ, chứ không phải với ba tôi hay tôi.
Mêrôni mỉm cười:
- Một chủ nhà băng giỏi cho các công ty vay vốn thật đấy, nhưng luôn luôn nhìn ra những người nào ở đằng sau chúng.
- Thưa ngài, kinh nghiệm của tôi có hạn, nhưng tôi thiết tưởng mục tiêu đầu tiên của một chủ nhà băng giỏi là đạt được bảo đảm ký quỹ thỏa đáng với vốn vay của mình. Tôi tin rằng điều đó đã được thể hiện rõ ràng trong giao kèo vay vốn mà ông Mac Alixtơ đây đã thỏa thuận được với ông.
Mêrôni mỉm cười. Ông ngả người ra sau ghế, rút một điếu xì gà khỏi hộp. Ông châm lửa, nhìn tôi qua màn khói.
- Ông Cođơ, xin ông hãy nói xem: ông tin rằng cái gì là trách nhiệm chính của một người vay tiền nào?
Tôi nhìn ông ta:
- Làm cho số vốn vay được sinh lãi.
- Tôi nói là người vay chứ không phải là người cho vay đâu.
- Tôi biết ý ông nói thế, ông Mêrôni ạ. Nhưng nếu tôi không cảm thấy rằng tôi sẽ kiếm lời với sô tiền ông cho vay, thì việc vay mượn của tôi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nữa cả.
- Vậy ông hy vọng kiếm lãi bằng cách nào thế? - Ông ta hỏi - Thưa ông Cođơ, ông thông thạo công việc của mình đến mức nào nào?
- Không thông thạo đến mức đáng ra tôi phải cos, theo ông, ông Mêrôni ạ. Và chắc chắn là không bằng cái mức tôi sẽ đạt được vào tuần sau, tháng sau, năm sau. Nhưng có điều này thì tôi thành thạo đến mức hiểu nổi ông ạ. Rằng ngày mai đang tới, cùng với nó là cả một thế giới mới. Sẽ có những dịp làm ra tiền chưa từng tồn tại ở thời của ba tôi đâu. Và tôi sẽ tận dụng chúng, Mêrôni ạ.
- Có lẽ ông muốn nói tới cái sản phẩm mới mà ông vừa mới ký hợp đồng với Đức chăng?
- Đó là một phần. - Tôi đáp, mặc dù thực ra nghe ông ta nhắc, tôi mới sực nghĩ đến nó.
- Thế ông biết về chất dẻo đến mức nào?
- Rất ít. - Tôi thú nhận.
- Vậy cái gì làm ông chắc nó đáng giá đến thế?
- Mối quan tâm của các hãng Đuy Pôn và Ixtman về quyền sản xuất chúng ở Mỹ. Bất cứ cái gì họ quan tâm tới đều đáng tiền cả. Và, việc ông thuận lòng cho chúng tôi mượn tiền để mua được quyền sản xuất. Ngay sau khi thu xếp xong một vài thứ ở đây, tôi định sẽ bỏ ra hai tháng sang Đức học tất cả những gì cần biết về chất dẻo.
- Ai sẽ điều hành công ty khi ông đi vắng. - Mêrôni hỏi. - Trong vòng ba tháng, có rất nhiều cái có thể xảy ra.
- Ông Mac Alixtơ, thưa ông. - Tôi đáp. - Ông ấy đã đồng ý tham gia công ty rồi.
Mặt Mêrôni lộ ra một vẻ kính nể:
- Tôi biết các ông giám đốc khác có thể không đồng ý với tôi, ông Cođơ ạ. Nhưng tôi đã quyết định cho ông vay tiền. Nó có thể có một số điểm nào đó không phù hợp với cái mà thiên hạ cho rằng đó mới đúng là việc giao dịch ngân hàng. Nhưng công ty Paiônia Nasơnơl chúng tôi được hình thành trên những khoản vay như vậy. Chúng tôi đã là những ngân hàng đầu tiên cho vay tiền để sản xuất phim. Và không có gì địch nổi với tầm tính toán nhìn xa trông rộng của việc ấy.
- Xin cám ơn ông, ông Mêrôni ạ. - Tôi nói.
Ông ta nhấc ống nghe lên:
- Đem vào cho tôi cái bản thỏa thuận cho Công ty Cođơ vay, và séc nhé. Ông sẽ để ý thấy rằng, - ông ta nói, - mặc dù vốn mượn có ba trăm nghìn đôla, nhưng chúng tôi đã mở rộng tài khoản của ông theo hợp đồng này lên tối đa là năm trăm ngàn. - Ông ta mỉm cười với tôi. - Đó là một trong những nguyên tắc làm ngân hàng của tôi, ông Cođơ ạ. Tôi không tán thành việc quá ngặt nghèo về tiền nong với các khách hàng của tôi. Đôi khi, một vài đôla thêm ra lại đánh dấu sự khác nhau giữa thất bại và thành công đấy!
Đột nhiên, tôi cảm thấy mến con người này. Phải là người có con mắt tinh đời mới nhìn ra được người khác cũng tinh đời chẳng kém. Ông Mêrôni này có đôi mắt ấy. Tôi mỉm cười với ông:
- Xin cảm ơn ông, ông Mêrônia ạ. Hy vọng là tôi sẽ kiếm được thêm rất nhiều tiền cho cả hai chúng ta. - Tôi cúi xuống bàn, ký vào bản thỏa thuận.
- Tôi tin ông nhất định sẽ làm được. - Mêrôni vừa nói vừa đẩy tấm séc về phía chúng tôi.
Tôi nhặt nó lên, không nhìn, đưa ngay cho Mac Alixtơ:
- Xin cám ơn ông một lần nữa, ông Mêrôni ạ. Xin lỗi là chúng tôi phải hớt hải như thế này; nhưng đúng là chúng tôi phải về Nêvađa ngay tối nay.
- Đêm nay ư? Nhưng từ giờ đến sáng mai, làm gì có tàu!
- Tôi có máy bay riêng, ông Mêrôni ạ. Chúng tôi đã bay đến đây đấy. Và 9 giờ tối nay, chúng tôi lại ở nhà rồi.
Mêrôni đi vòng ra khỏi bàn. Mặt ông ta tỏ vẻ lo âu:
- Nên bay thâm thấp thôi ông Cođơ ạ. Dù sao chúng tôi cũng vừa đưa cho ông một khoản tiền lớn!
Tôi bật cười thành tiếng:
- Ồ không lo, ông Mêrôni ạ. Nó an toàn như một cái ô tô thôi. Hơn nữa nhỡ xảy ra chuyện gì với chúng tôi trên được về, ông chỉ cần từ chối trả tiền khi séc đưa đến.
Mac và Mêrôni cười theo. Tôi nhận thấy mặt Mac lộ vẻ căng thẳng. Nhưng xứng với tính cách tuyệt vời của anh, anh không nói một lời.
Chúng tôi bắt tay nhau. Mêrôni tiễn chúng tôi ra cửa.
- Chúc may mắn, ông ta nói. Chúng tôi bước ra phòng ngoài.
Một người đàn ông đang ngồi trên đi văng. Anh ta chậm rãi đứng dậy. Tôi nhận ra đó là Bâdơ Daltơn, viên phi công có cái máy bay bị mất cho tôi vì thua bạc.
- Ê, Bâdơ, - tôi gọi to, - không chào chiến hữu một câu hả?
Một nụ cười toác ra khắp mặt anh chàng:
- Ô, Giônơx! - anh ta rú lên, - Cậu làm cái quái gì ở đây thế hả?
- Bòn lấy ít hào, thế còn cậu?
- Cũng vậy, - anh ta đáp, mặt lại xìu xuống ngán ngẩm. - Nhưng chưa được cái đếch gì.
- Sao thế?
Bâdơ nhún vai:
- Tớ kiếm được một cái hợp đồng chở thư. Từ L.A đến Frixcô. Mười hai tháng, mỗi tháng đảm bảo kiếm được một thiên. Nhưng có lẽ phải bỏ của thôi. Tớ không xoay đâu cho đủ ra được hào để mua ba cái máy bay cần. Ngân hàng nào cũng nghĩ trò này quá liều.
- Cậu phải mượn bao nhiêu?
- Khoảng hăm lăm ngàn. Hai mươi cho máy bay và năm cho chi phí đến khi có món thu đầu tiên.
- Cậu cầm hợp đồng chưa?
- Trong túi đây. - Anh ta nói, lôi nó ra.
Tôi cầm lấy nhìn.
- Có vẻ kiếm được đấy.
- Đúng vậy, - anh ta đáp. - Tớ đã tính toán rồi. Mỗi tháng có thể được năm ngàn, đã trừ chi phí và trừ nợ. Đây, tờ giấy tớ đã tính toán đây.
Số liệu xem ra có vẻ đúng. Tôi hiểu rất rõ chi phí cho một cái máy bay hoạt động. Tôi quay sang nhìn Mêrôni:
- Lúc nãy trong kia ông nói thật đấy chứ? Về cái khoản vốn dôi của tôi ấy mà? Không có ràng buộc gì đấy chứ?
Ông mỉm cười:
- Không hề có ràng buộc gì.
Tôi lại chỗ Bâdơ.
- Cậu sẽ nhận được tiền với hai điều kiện. - Tôi nói: - Tớ sẽ chiếm năm mươi phần trăm cổ phần trong công ty cậu và được giữ vốn bằng máy bay của cậu, trừ dần trong vòng mười hai tháng. Cả hai đều được trả cho Công ty thuốc nổ Cođơ.
Mặt Bâdơ lại ngoác ra một nụ cười:
- Ok, anh bạn. Tớ nhất trí.
- Ok. - Tôi đáp. Tôi quay sang ông Mêrôni, - phiền ông giải quyết dùm những chi tiết hộ. Tôi phải về đêm nay.
- Rất vui lòng, thưa ông Cođơ. - ông mỉm cười.
- Ghi hợp đồng cho vay là ba mươi ngàn, - Tôi nói.
- Này, hượm đã. - Bâdơ ngắt lời, - tớ chỉ cần có hai mươi lăm thôi mà.
- Tớ biết. - Tôi đáp mỉm cười nhìn anh bạn, - nhưng hôm nay tớ mới học thêm được một điều.
- Gì thế? - Bâdơ hỏi.
- Thật là vụng làm ăn nếu chỉ cho một người mượn vừa đủ tiền, làm anh ta khó xoay xở. Như thế là đánh liều và cả hai dễ hỏng việc. Nếu như ta thật sự muốn anh ta làm nên chuyện, hãy cho anh ta mượn dư tiền để chắc chắn anh ta sẽ thành công.
*
*    *
Đám ma của cha tôi là đám ma to nhất ở cái phần này của nước Mỹ. Thậm chí ông Thống đốc bang cũng tới. Tôi đóng cửa nhà máy và cái nhà thờ nhỏ chật cứng những người. Người đứng tràn ra cả đường.
Raina và tôi đứng một mình ở dãy ghế nhỏ ngay phía trước. Em đứng thẳng, người dong dỏng cao trong bộ đồ đen, mái tóc vàng của em lấp sau cái mạng che màu đen. Tôi cúi xuống nhìn đôi giày đen mới ở chân tôi. Đó là giày của cha tôi. Chúng cứa đau tức. Đến phút cuối cùng tôi mới phát hiện ra rằng tôi chả có giày dép gì ở ngôi nhà này cả, trừ đôi huaracho. Robert phải đem đôi giày này lấy từ tủ đồ của cha tôi. Ông chưa hề đụng đến nó. Tôi tự nhủ rằng sẽ không bao giờ đụng đến nó nữa.
Tôi thấy một tiếng thở dài của những người dự lễ, và ngẩng lên. Người ta đang đóng nắp quan tài cha tôi. Tôi thoáng nhìn thấy lần cuối cùng khuôn mặt của ông và rồi thế là hết. Đầu tôi chợt trống rỗng rất kỳ lạ và trong một thoáng, tôi không thể hình dung ra được mặt ông.
Rồi tiếng khóc đến tai tôi. Tôi khẽ đưa mắt liếc sang bên. Những người phụ nữ Mexico làm ở nhà máy khóc nức nở. Tôi nghe thấy tiếng hỉ mũi. Tôi hơi quay người lại. Đó là Jack Plat, nước mắt lưng tròng cặp mắt mày vàng whisky.
Tôi nhìn Raina đứng cạnh tôi. Tôi có thể thấy được cặp mắt em qua tấm mạng đen. Chúng ráo hoảnh và bình thản. Từ đám đông phía sau chúng tôi vọng lại tiếng sụt sùi của nhiều người khóc cha tôi.
Nhưng Raina, vợ ông không hề khóc. Cả tôi cũng thế - con trai của ông.

10

Đêm ấm nóng, mặc dù hơi có gió hiu hiu thổi qua sa mạc, qua cánh cửa sổ mở vào buồng. Tôi lăn đi lật lại mãi trên giường, gạt tấm mền đắp xuống. Ngày hôm nay dài quá, bắt đầu với tang lễ rồi sau bàn bạc kế hoạch với Mac Alixtơ cho đến giờ về của anh. Tôi mệt nhoài, nhưng không ngủ được. Rất nhiều ý nghĩ cứ loang loáng lướt qua đầu. Có lẽ chính là vì tôi đã quen nghe những bước chân đi lại của cha tôi trong phòng ông rất lâu sau khi cả tòa nhà đã đi ngủ.
Có tiếng động ở cửa. Tôi ngồi nhỏm dậy. Giọng tôi rít lên trong bóng tối: “Ai vậy?”
Cánh cửa mở rộng hơn và tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt em. Người em tan vào bóng đêm cùng với tấm áo thụng đen. Em vừa nhỏ giọng nói vừa đóng cửa lại ở phía sau:
- Em nghĩ là anh còn thức, Giônơx ạ. Em cũng không ngủ được.
- Lo lắng về chuyện tiền nong của cô ư? - Tôi mỉa mai. - Cái séc đang ở trên bàn quần áo kia cùng với giấy cam đoan đấy. Cô ký đi và thế là nó thành của cô.
- Không phải chuyện tiền. - Em nói, tiến sâu hơn vào buồng.
- Thế thì chuyện gì vậy? - Tôi hỏi lạnh lùng. - Cô đến để nói rằng cô buồn thay cho tôi? Rằng cô ái ngại? Đây có phải là một chuyến đến chia buồn không nhỉ?
Em giờ đã đứng cạnh giường, nhìn xuống tôi:
- Anh không cần phải chì chiết như vậy. - Em nói một cách giản dị. - Thậm chí nếu ông ấy là cha anh và em là vợ ông ấy. Phải, em vẫn đến để nói em rất ân hận, rất buồn.
Nhưng tôi chưa thấy hài lòng:
- Ân hận về cái gì? - tôi đay lại, - Buồn vì ông ấy đã không đưa thêm cho cô ư? - Tôi cười chua chát. - Cô có yêu ông ấy đâu.
- Không, em không hề yêu ông ấy. - Em nói rành mạch, - Nhưng kính trọng ông. Ông ấy đàn ông hơn bất kỳ ai em đã gặp.
Tôi lặng thinh.
Và đột nhiên em òa khóc. Em ngồi uống mép giường, hai tay bưng mặt.
- Thôi đi. - Tôi thốt lên thô lỗ. - Nước mắt giờ muộn quá rồi.
Em bỏ tay xuống, nhìn tôi trừng trừng. Trong bóng tối, tôi vẫn có thể nhìn thấy những giọt nước lóng lánh như bạc lăn trên má em.
- Anh biết cái gì là muộn ư? - Em nức lên, - Yêu ông ấy giờ là muộn ư? Em không cố làm như vậy. Mà chỉ là em không thể yêu nổi được một ai. Em không biết tại sao. Nhưng em là thế đấy, thế thôi. Ba anh biết như thế và hiểu được điều đó. Chính vì thế em lấy ông. Không phải vì tiền của ông. Và ông cũng biết vậy. Ông bằng lòng với những cái em đem lại cho ông.
- Nếu đấy là sự thực, - tôi nói, - vậy thì sao cô khóc?
- Bởi vì em sợ. - Em đáp.
- Sợ ư? - Tôi cười. Điều đó không hợp với Raina tý nào cả. - Em sợ cái gì?
Em lấy ra một điếu thuốc từ đâu đó trong áo choàng của mình và ngậm ngay vào miệng, không châm lửa. Cặp mắt em sáng quắc nhìn tôi như cặp mắt một con cáo bắt ánh lửa trại đêm trên sa mạc.
- Đàn ông, - em đáp gọn lỏn.
- Đàn ông ư? - Tôi lặp lại. - Cô... sợ đàn ông? Tại sao cô - kẻ khiêu khích đàn ông lừng tiếng...
- Phải, đồ ngu ạ! - Em cáu kỉnh đáp. - Em sợ lũ đàn ông, sợ nghe những đòi hỏi của họ, ngán sợ những bàn tay dâm đãng của họ, những bộ óc suy nghĩ một chiều của họ. Nghe họ giấu nỗi thèm khát của họ bằng lời yêu đương trong khi tất cả những gì họ mong là một thứ duy nhất - được nhét vào bên trong em!
- Cô điên rồi! - tôi bực tức nói, - Đó không phải là thứ duy nhất chúng tôi nghĩ tới.
- Không ư? - Tôi nghe thấy tiếng diêm đánh xòe và ngọn lửa xua tan bóng tối. Em nhìn xuống tôi. - Vậy nhìn lại anh xem, Giônơx. Nhìn lại anh xem đang thèm khát bà vợ của cha anh kìa!
Tôi không cần nhìn cũng biết là em đúng. Tôi cáu kỉnh vứt que diêm khỏi tay em.
Và, đột nhiên em ôm chầm lấy tôi, hôn lên mặt, lên cằm tôi, người run bắn lên vì sợ hãi.
- Giônơx, Giônơx, cho em ở lại với anh. Chỉ đêm nay thôi. - Em kêu lên, - em sợ phải ở một mình lắm.
Tôi giơ tay lên đẩy em ra. Dưới tấm áo choàng, em không mặc thêm cái gì cả. Da em mát lạnh và mịn màng như cơn gió sa mạc đêm mùa hạ, hai đầu vú em cộm lên dưới bàn tay tôi đẩy ra.
Tôi sững người, chằm chằm nhìn em trong bóng tối. Chỉ có mặt em hiện lên trước tôi, rồi nước mắt mằn mặn trên môi em và môi tôi. Nỗi giận dữ trong lòng tôi tan vèo trong niềm kích động đang dào lên. Và để mặc cho con quỷ của lòng mình lôi kéo, chúng tôi cùng lăn nhào vào vực thẳm khoái lạc hừng hực của cái địa ngục riêng của chúng tôi.
Tôi tỉnh giấc, liếc nhìn ra cửa sổ. Tia nắng mai đầu tiên đã lấp loáng rọi vào trong phòng.
Tôi quay sang Raina. Em nằm trên gối tôi, hai tay che mắt ngủ. Tôi khẽ đụng vào vai em.
Em bỏ tay ra, mở mắt. Đôi mắt trong và bình thản. Em bước ra khỏi giường rất nhanh nhẹn và uyển chuyển. Người em trông hồng lên một vẻ trẻ trung. Em với lấy cái áo thụng đen vứt dưới chân giường, chui đầu vào. Tôi ngồi ngắm em bước tới cái bàn quần áo.
- Có bút ở ngăn kéo trên cùng bên phải đấy, - tôi nói.
Em lấy bút, ký vào tờ giấy.
- Em không đọc à? - Tôi hỏi.
- Để làm gì? - Em lắc đầu, - anh không thể lấy được hơn chỗ em đã đồng ý cho đâu.
Em nói đúng. Em đã từ bỏ tất cả quyền sở hữu bất động sản của em. Nhặt tờ séc và bản cam đoan lên, em đi ra cửa. Em quay lại nhìn tôi:
- Em sẽ không còn ở đây khi anh ở nhà máy ra về đâu.
Tôi nhìn em một hồi.
- Em không phải đi đâu cả, - tôi nói.
Mắt em nhìn mắt tôi. Hình như tôi thoáng thấy một cái gì buồn bã.
- Không, Giônơx, - em nói dịu dàng, - điều ấy sẽ không đem lại kết quả gì đâu.
- Nó có thể, - Tôi nói.
- Không, Giônơx ạ. - Em đáp, - đã đến lúc anh bước ra khỏi cái bóng của cha anh rồi. Ông là một con người có tầm cỡ lớn và anh rồi cũng sẽ thế. Theo lối của riêng anh.
Tôi với lấy một điếu thuốc trên cái bàn bên cạnh giường, lặng lẽ châm lửa. Khói thuốc nóng bỏng ngực tôi.
- Thôi chào anh, Giônơx, - em nói, - Chúc anh may mắn.
Tôi lặng lẽ nhìn em một thoáng rồi đáp. Giọng tôi khàn khàn vì thuốc lá.
- Cám ơn em, Raina.
Cửa mở ra rồi đóng lại nhanh chóng. Em đã đi. Tôi đứng lên khỏi giường, đến bên cửa sổ. Mặt trời buổi sớm mọc đỏ rực ở chân trời. Ngày hôm nay rồi sẽ nóng lắm đây.
Có tiếng cửa mở phía sau, tim tôi nẩy lên khỏi lồng ngực. Em đã ở lại, tôi quay lại.
Rôbe bước vào, bưng vào một cái khay. Hàm răng trắng bóng của bác sáng lên trong một nụ cười hiền hậu:
- Tôi nghĩ rằng ông thích dùng một cốc cà phê nên tôi đem lại cho ông đây.
Khi tôi tới nhà máy, Giăc Plat đã cho một tốp thợ trèo lên mái nhà, sơn trắng lại mái nhà. Tôi mỉm cười một mình và bước vào trong xưởng.
Cái ngày đầu tiên thật lộn tùng phèo. Hình như chẳng có chuyện gì ổn thỏa cả. Những kíp nổ chúng tôi gửi tới khu mỏ Eđicot đều hỏng cả và phải cấp tốc gửi tới loạt thay thế. Rồi đây là lần thứ ba trong năm nay, hãng Đuy Pông bỏ thầu rẻ hơn, ký được hợp đồng với chính phủ về thuốc Cođit.
Tôi bỏ ra nửa ngày xem xét số liệu và cuối cùng nguyên nhân bật lên là ở chính sách về số phần trăm lãi suất của chúng tôi. Khi tôi gợi ý nên xem lại chính sách ấy nếu như có ảnh hưởng tới việc ký kết làm ăn, Giăc Plat phản đối. Cha tôi, ông ta nói, đã tuyên bố rằng, dưới mười hai phần trăm là ông không có làm ăn gì cả. Tôi phát khùng nói với Giăc Plat rằng giờ tôi điều khiển nhà máy, những gì cha tôi làm là của cha tôi. Trong lần đấu thầu tới này, mẹ kiếp, nhất định chúng ta sẽ tính hạ hơn Đuy Pông ba xu một pound là ít.
Đến lúc ấy thì đã năm giờ chiều và viên đốc công vận hành đem trình các số liệu sản xuất. Tôi đang chực xem chúng thì Nêvađa xen vào.
- Giônơx này, - anh nói.
Tôi ngẩng lên. Suốt cả ngày nay, anh ở lì trong văn phòng, nhưng lặng thinh ngồi một chỗ. Thậm chí tôi cũng quên khuấy là có anh.
- Gì cơ ạ?
- Tôi về sớm tí được không? Tôi có chút việc.
- Được thôi, - tôi đáp, lại bắt đầu xem xét số liệu sản xuất. - Anh lái cái Đuyxenbeg về trước. Còn em sẽ bảo ông Giăc đưa em về.
- Khỏi cần. Tôi đã có xe ô tô của mình ở đây rồi.
- Anh Nêvađa! - Tôi gọi với theo. - Bảo bác Rôbe rằng tám giờ em sẽ về ăn tối nhé.
Anh ngần ngừ một thoáng, rồi đáp:
- Được, Giônơx ạ. Tôi sẽ bảo bác ta.
Tôi xong việc sớm hơn dự định và đỗ xịch chiếc Đuyxenberg trước nhà vào lúc bảy rưỡi, đúng lúc Nêvađa bước xuống thềm, hai tay xách hai va li.
Anh ngạc nhiên nhìn tôi:
- Chú về sớm vậy.
- Ờ. - Tôi đáp. - Em xong sớm hơn là đã tưởng.
- Ồ... - Anh thốt lên, bước tiếp tới xe của mình, đặt va li xuống ghế sau.
Tôi theo chân anh tới ô tô, và thấy ghế phía sau xe anh toàn là đồ đạc.
- Anh định đi đâu với tất cả chỗ đồ đạc này hả Nêvađa?
- Đó là đồ của tôi. - Anh đáp cộc lốc.
- Thì em có bảo là không phải đâu. - Tôi nói. - Em chỉ hỏi là anh định đi đâu đấy.
- Tôi đi đây.
- Săn hả? - Tôi hỏi. Dịp này là dịp lúc còn nhỏ, tôi thường theo anh lên núi đi săn.
- Không phải. Đi luôn.
- Hượm đã. - Tôi bật kêu lên. - Anh không thể đi thẳng luôn thế được!
Cặp mắt đen của anh nhìn xoáy vào tôi:
- Ai bảo tôi không thể đi được, hả?
- Em bảo. Không có anh, em biết xoay sở ra sao?
Anh chậm rãi mỉm cười:
- Sẽ tốt, tôi chắc vậy. Chú không cần tôi thay tã cho nữa đâu. Mấy bữa cuối cùng hôm rồi, tôi đã xem xét kỹ chú làm ăn đó.
- Nhưng... nhưng mà... - tôi phản đối.
Anh vẫn mỉm cười chậm rãi:
- Việc nào thì cũng phải có lúc kết thúc chú ạ. Tôi đã bỏ ra mười sáu năm về việc này, và giờ không có chuyện gì để tôi phải làm thêm nữa. Tôi đâu có ưa cảnh cứ lãnh lương mà thực ra là ngồi rồi không xứng hưởng nó.
Tôi chăm chăm nhìn anh một hồi. Anh nói đúng, cái tính khẳng khái đàn ông của anh quá lớn. Anh không bao giờ chịu nổi thân phận láng cháng làm thằng ăn bám hầu hạ người.
- Anh có đủ tiền chưa?
Anh gật đầu:
- Mười sáu năm nay, tôi chưa xài được xu nào trong số tiền riêng của mình cả. Ba chú không cho đụng đến nó.
- Rồi anh định sẽ làm gì?
- Đến ở với một cặp bạn già. Chúng tôi sẽ đem một cái “Triển lãm Miền Tây” đi dọc theo vùng California. Hẳn là sẽ vui vẻ chộn rộn lắm.
Chúng tôi đứng vụng về một hồi lâu. Rồi Nevada chìa tay:
- Thôi chào chú, Giônơx.
Tôi nắm lấy tay anh, không muốn rời. Nước mắt bắt đầu rân rân dưới mi tôi.
- Em chào anh, anh Nêvađa.
Anh đi vòng sang bên kia xe, ngồi vào tay lái. Anh nổ máy, cài số luôn, ô tô rồ lên, lao đi, anh giơ tay chào.
- Viết thư cho em nhé, anh Nêvađa! - Tôi thét lên, nhìn theo đăm đăm cho tới khi anh khuất hẳn.
Rồi tôi quay người bước lại nhà, đi vào phòng ăn, ngồi xuống cái bàn trống rỗng.
Bác Rôbe bước vào, cầm một cái phong bì trên tay.
- Ông Nêvađa để lại cái này cho ông ạ, - bác nói.
Nghẹn ngào, tôi cầm lấy, xé phong bì, rút ra một bức thư viết bằng bút chì, lời lẽ thô mộc vụng về:

“NHỎ YÊU,

Tôi không phải là thằng ưa nói năng từ giã, nên mới có cái này. Ở đây không có việc gì cho tôi làm nữa, nên tôi thấy rằng mình đã đến lúc đi thôi. Suốt đời, tôi mong tặng nhỏ một cái gì nhân ngày sinh nhật của nhỏ, nhưng ba nhỏ luôn chơi trội hơn tôi. Ông cho nhỏ tuốt tuột mọi cái. Và vậy là đến giờ, nhỏ chẳng cần cái gì để tôi có thể cho nhỏ được cả. Nhưng trong phong bì này, nhỏ sẽ thấy một cái nhỏ thực cần. Nhỏ khỏi lo lắng gì hết trọi. Tôi đã tới một ông luật sư ở Renô, và ký sổ đóng kèm đầy đủ hợp lệ mọi thứ cả rồi.
Chúc mừng sinh nhật

Bạn của nhỏ
Nêvađa”

Tôi nhìn mấy tờ giấy còn lại trong phong bì. Những chứng nhận cổ phần của Công ty thuốc nổ Cođơ, chuyển sang tên tôi.
Tôi đặt chúng xuống bàn. Cổ họng tôi từ từ nghẹn lại. Đột nhiên, tòa nhà trống rỗng. Tất cả đã bỏ đi hết. Ba tôi, Raina, Nêvađa. Tất cả. Ngôi nhà bắt đầu vọng âm u những kỷ niệm.
Tôi nhớ đến lời Raina nói - về việc cần thoát ra khỏi cái bóng của ba tôi. Em nói đúng. Tôi không thể sống ở trong tòa nhà này. Nó không phải của tôi. Nó là của ba tôi. Đối với tôi, lúc nào nó cũng thuộc về ông.
Tôi đã quyết định. Sẽ tìm một căn hộ ở Renô. Trong một căn hộ, không thể có kỷ niệm được. Ngôi nhà này tôi sẽ nhường lại cho Mac Alixtơ. Anh có gia đình, nó sẽ đỡ cho anh việc tìm một chỗ ở.
Tôi nhìn lại bức thư của Nêvađa một lần nữa. Dòng cuối cùng đập vào mắt tôi. Chúc mừng sinh nhật. Lòng tôi bỗng đau quặn. Tôi đã quên, Nêvađa là người duy nhất còn lại là đã nhớ.
Hôm nay là sinh nhật của tôi.
Tôi tròn hăm mốt tuổi.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét