Jonas Jonasson
Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất
Người dịch: Phạm Hải Anh
Chương 27
Thứ Sáu 27 Tháng Năm - Thứ Năm ngày 16 tháng Sáu 2005
Amanda Einstein vẫn còn sống. Bây giờ bà đã tám mươi tư tuổi và sống trong một căn phòng hạng nhất tại khách sạn sang trọng ở Bali do con trai cả của bà, Allan sở hữu và điều hành.
Allan Einstein năm mươi tuổi, khá thông minh, giống như Mao, cậu em trẻ hơn mình một tuổi. Nhưng trong khi Allan đã trở thành một chuyên gia kinh doanh (thật) và cuối cùng là giám đốc khách sạn (ông đã được mẹ trao cho khách sạn vào ngày sinh nhật thứ bốn mươi của mình), thì Mao, em trai ông lại theo ngành kỹ thuật. Ban đầu, sự nghiệp của ông không được tốt lắm, vì Mao quá cầu kỳ về chi tiết. Ông đã làm việc trong một công ty dầu hàng đầu của Indonesia với nhiệm vụ bảo đảm chất lượng của hệ thống sản xuất. Sai lầm của Mao là ở chỗ ông đã làm đúng như thế. Đột nhiên, tất cả các quản lý bậc trung trong công ty thấy rằng họ không còn kiếm chác thêm được khi đặt hàng sửa chữa, vì chẳng cần phải sửa chữa gì nữa. Hiệu quả của công ty dầu tăng 35% và Mao trở thành người bị ghét nhất trong công ty. Khi sự tẩy chay của các đồng nghiệp trở thành mối đe dọa trực tiếp, Mao Einstein thấy khôn ra thì mình nên rút lui và kiếm việc khác ở Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Ông làm việc rất hiệu quả ở đó, trong khi ở công ty Indonesia mọi người thở phào trở về tình trạng cũ.
Amanda vô cùng tự hào về hai con trai của mình. Nhưng bà không hiểu làm sao cả hai đứa lại có thể thông minh như thế. Herbert đã từng nói với bà rằng gia đình của mình có một số gen tốt, nhưng có lẽ bà không nhớ lắm điều ông nói.
Amanda hết sức mừng rỡ khi nhận được cú điện thoại của Allan, bà nồng nhiệt chào đón ông và cả nhóm bạn đến Bali. Bà sẽ nói chuyện ngay với cậu Allan, nếu chẳng may khách sạn kín chỗ, nó sẽ phải đuổi bớt khách ra. Bà cũng sẽ gọi điện cho Mao ở Abu Dhabi và ra lệnh cho nó xin nghỉ phép về nhà ngay. Và, tất nhiên, khách sạn sẽ phục vụ đồ uống, có cắm ô hay không tùy thích. Và được rồi, Amanda hứa sẽ không tham gia vào phục vụ đồ uống.
Allan nói họ sẽ đến sớm đấy. Rồi ông kết thúc bằng lời khen rằng theo ông, chưa từng có ai trên thế giới này, với trí thông minh hạn chế mà lại thành công được như Amanda. Amanda thấy lời khen đó tuyệt vời đến nỗi bà ứa nước mắt.
- Đến đây nhanh lên, Allan thân yêu. Nhanh lên đấy!
* * *
Công tố viên Ranelid bắt đầu cuộc họp báo buổi chiều với tin buồn về con chó nghiệp vụ Kicki. Nó đã đánh hơi thấy một xác chết trên chiếc xe goòng tại làng đúc Akers, từ đó dẫn đến một số giả định của công tố viên - tất nhiên là đúng khi dựa trên đánh hơi của con chó, tuy nhiên nó lại sai, vô cùng sai. Hóa ra con chó này trước khi thi hành nhiệm vụ đã bị mất trí và vì thế không đáng tin cậy. Nghĩa là, nói một cách đơn giản, chưa từng có xác chết nào tại chỗ đó cả.
Dù sao, công tố viên được biết rằng con chó nghiệp vụ đó đã bị sa thải, và theo ông đó là một quyết định khôn ngoan của người trông giữ nó (công tố viên không biết rằng Kicki đã được đặt một cái tên giả và gửi đến chỗ anh của người giữ chó, ở tít phía bắc Thụy Điển).
Hơn nữa, công tố viên Ranelid lấy làm tiếc rằng cảnh sát Eskilstuna đã quên thông báo cho ông về khuynh hướng mới, rất mực cao quý, của tổ chức Never Again là theo đạo Tin Lành. Nếu như trước đây mà biết được điều đó thì công tố viên hẳn đã có hướng điều tra khác. Như vậy, các kết luận mà công tố viên đã đưa ra một phần là do dựa vào con chó điên, một phần từ thông tin sai mà bên cảnh sát cung cấp. Vì thế, thay mặt cho cơ quan cảnh sát, công tố viên Ranelid muốn gửi lời xin lỗi.
Liên quan đến việc phát hiện ra xác chết của Henrik Thùng Gỗ Hulten ở Riga, có lẽ một cuộc điều tra án mạng mới sẽ được tiến hành. Tuy nhiên, vụ án về cái chết của Bengt Ốc Vít Bylund thì không được xét. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy Bylund đã gia nhập lính Lê Dương Pháp. Vì tất cả lính Lê Dương đều đăng ký dưới một biệt hiệu nên không thể hoàn toàn xác định sự thật. Tuy nhiên, khả năng rất lớn là Bylund là nạn nhân của vụ đánh bom tự sát đã xảy ra ở trung tâm của Djibouti vài ngày trước đó.
Công tố viên trình bày một báo cáo chi tiết về mối quan hệ nội bộ giữa các nhân vật chính, và nhân đó cho đại diện báo chí xem cuốn Kinh thánh bìa da xịn mà sáng nay Bosse Ljungberg đưa cho ông. Khi mọi thứ đã xong xuôi, các nhà báo muốn biết nơi ở của Allan Karlsson và nhóm bạn để nghe họ lên tiếng về các sự kiện, nhưng về khoản này, công tố viên Ranelid không cung cấp thông tin cho họ nữa (Ông chẳng moi được gì từ cụ già cứ lảm nhảm về Churchill và trời mà biết với đại diện của báo chí thì sao). Thế là, các nhà báo chuyển sự chú ý sang Thùng Gỗ Hulten. Anh ta được cho là đã bị giết chết, và những kẻ trước đây bị nghi là sát nhân bây giờ vô tội. Thế thì ai đã giết chết Hulten?
Ranelid đã hy vọng rằng vấn đề này được bỏ quên, nhưng bây giờ ông phải nhấn mạnh rằng cuộc điều tra sẽ được khởi động ngay sau khi kết thúc cuộc họp báo và ông sẽ quay trở lại chủ đề đó vào một dịp sau.
Trước sự ngạc nhiên của công tố viên Ranelid, các nhà báo lại chấp nhận điều đó, và tất cả những gì ông đã nói. Công tố viên Ranelid và sự nghiệp của ông, đã sống sót qua ngày hôm đó.
* * *
Amanda Einstein đã giục Allan và bạn bè ông nhanh nhanh đến Bali, và nó hoàn toàn phù hợp với mong mỏi của nhóm bạn. Bất kỳ lúc nào, một tay nhà báo ranh ma có thể tìm đường đến trang trại Bellringer, và an toàn nhất cho tất cả là lúc đó ở đây mọi người đã đi hết. Bây giờ Allan đã làm xong phần mình bằng cách liên hệ với Amanda. Phần còn lại là tùy Người Đẹp.
Không xa trang trại Bellringer là sân bay quân sự Såtenäs và có một máy bay Hercules có thể dễ dàng chở một hoặc thậm chí cả hai con voi. Chiếc máy bay đã từng một lần gầm rú trên trang trại Bellringer khiến con voi sợ gần chết, và nó gợi ý cho Người Đẹp.
Người Đẹp nói chuyện với một đại tá ở Såtenäs, nhưng ông này quá cứng nhắc. Ông ta đòi xem các kiểu giấy chứng nhận và giấy phép trước khi nghĩ đến việc hỗ trợ vận chuyển xuyên lục địa một đám người và động vật. Ví dụ, quân đội hoàn toàn bị cấm cạnh tranh với các hãng hàng không thương mại, do đó họ cần một giấy chứng nhận của Bộ Nông nghiệp rằng trường hợp này không liên quan. Cuộc vận chuyển sẽ có bốn điểm dừng, và tại mỗi sân bay một bác sĩ thú y phải có mặt để kiểm tra tình trạng của con vật. Và con voi phải được đảm bảo nghỉ ngơi ít nhất mười hai tiếng giữa các chuyến bay.
- Tiên sư cha bọn quan liêu Thụy Điển, - Người Đẹp thốt lên rồi gọi điện cho Lufthansa ở Munich.
Ở đó, họ cũng chỉ hợp tác hơn tí ti. Tất nhiên, họ có thể nhận một con voi và một số du khách đi kèm, từ sân bay Landvetter đến Indonesia. Họ chỉ yêu cầu một giấy chứng nhận quyền sở hữu con voi và một bác sĩ thú y có đăng ký đi theo trong chuyến bay. Và tất nhiên là những tài liệu cần thiết để được nhập cảnh vào Cộng hòa Indonesia, cho cả người và động vật. Khi mọi điều kiện được đáp ứng, quản lý của hãng hàng không có thể lập kế hoạch vận tải trong ba tháng tới.
- Tiên sư cha bọn quan liêu Đức, - Người Đẹp thốt lên rồi gọi điện trực tiếp đến Indonesia.
Phải mất một lúc, vì ở Indonesia có năm mươi mốt hãng hàng không khác nhau và không phải tất cả đều có nhân viên nói tiếng Anh trực điện thoại. Nhưng Người Đẹp không bỏ cuộc, và cuối cùng cô đã thành công. Ở Palembang, trên đảo Sumatra, có một công ty vận tải vui vẻ đề nghị một khoản phí hợp lý cho chuyến bay khứ hồi đến Thụy Điển. Họ có một chiếc Boeing 747 phù hợp cho mục đích đó, máy bay này mới được mua từ quân đội Azerbajdjan (may mắn là chuyện này diễn ra trước khi tất cả các hãng hàng không Indonesia bị liệt vào danh sách đen của EU và bị cấm hạ cánh ở châu Âu). Công ty hứa sẽ lo tất cả các giấy tờ để hạ cánh tại Thụy Điển, trong khi trách nhiệm của khách hàng là lo giấy phép hạ cánh ở Bali. Bác sĩ thú y ư? Tại sao?
Tất cả những gì còn lại chỉ là vấn đề thanh toán. Giá tăng lên 20% trước khi Người Đẹp dùng hết kho từ vựng phong phú của mình để thuyết phục công ty đồng ý cho thanh toán bằng tiền mặt, đồng crown Thụy Điển, khi đến Thụy Điển.
Trong khi chiếc máy bay Boeing Indonesia cất cánh bay đến Thụy Điển, nhóm bạn đã có một phân công mới. Benny và Julius được giao nhiệm vụ giả mạo một số giấy tờ mà họ có thể trình với các nhà chức trách, chắc rất khó tính, ở sân bay Landvetter, còn Allan hứa sẽ lo giấy phép hạ cánh ở Bali.
* * *
Tất nhiên, họ gặp vài rắc rối ở sân bay ngoài Gothenburg, nhưng Benny không chỉ có giấy chứng nhận bác sĩ thú y rởm mà còn có khả năng phun ra vài thuật ngữ thú y chuyên nghiệp. Điều này, cùng với giấy chứng nhận quyền sở hữu và giấy chứng nhận sức khỏe cho voi, và nguyên một bó tài liệu đáng tin cậy do Allan viết ở Indonesia, khiến cả nhóm đều được lên máy bay theo kế hoạch. Vì nhóm bạn cùng nói dối rằng điểm dừng chân tiếp theo là Copenhagen nên không ai yêu cầu hộ chiếu của họ.
Những người đi du lịch gồm có: cụ Allan Karlsson trăm tuổi, tên trộm nhỏ thó Julius Jonsson (nay đã được tuyên bố vô tội), anh sinh viên cả đời Benny Ljungberg, vị hôn thê của anh ta, người đẹp Gunilla Björklund với hai thú cưng là voi Sonya và chó nòi bécgiê Buster, Bosse - nhà buôn thực phẩm mới theo đạo, anh trai của Benny Ljungberg, Chánh Thanh tra Aronson từ Eskilstuna - trước đây vốn rất cô đơn, cựu trùm xã hội đen Per-Gunnar Gerdin và bà mẹ tám mươi tuổi Rose-Marie, bà đã từng viết một lá thư xui xẻo cho con trai hồi gã bị tống giam tại nhà tù Hall để phục hồi nhân phẩm.
Chuyến bay mất mười một tiếng, bỏ nhiều điểm dừng không cần thiết trên đường, và cả nhóm đều ổn khi cơ trưởng người Indonesia thông báo với các hành khách rằng họ đang tiến gần sân bay quốc tế Bali và đã đến lúc Allan Karlsson lấy ra giấy phép hạ cánh. Allan trả lời cơ trưởng rằng hãy thông báo cho ông khi nào liên lạc được với tháp điều khiển bay tại Bali, rồi Allan sẽ lo phần còn lại.
- Vâng, bây giờ họ đang liên lạc đây, - cơ trưởng lo lắng nói. - Tôi phải nói gì với họ? Họ có thể bắn hạ chúng ta bất cứ lúc nào!
- Không đâu, - Allan nói, - giật lấy tai nghe và microphone của cơ trưởng. Xin chào? Sân bay Bali phải không? - Ông nói vào micro bằng tiếng Anh và ngay lập tức nhận được câu trả lời rằng chiếc máy bay phải xác định danh tính ngay, trừ phi họ muốn đối mặt với lực lượng không quân Indonesia.
- Tên tôi là Đôla, - Allan nói. - Một Trăm Nghìn Đôla.
Tháp điều khiển bay im phăng phắc. Cơ trưởng Indonesia và phụ lái nhìn Allan đầy ngưỡng mộ.
- Lúc này, người điều hành bay và các đồng nghiệp thân cận nhất của ông ta đang tính toán để chia tiền đấy, - Allan giải thích.
- Tôi biết, - cơ trưởng đáp.
Một vài giây trôi qua, rồi người điều hành bay liên lạc với họ một lần nữa.
- Xin chào? Ông có đó không, Mr. Đôla?
- Vâng, tôi đây, - Allan nói.
- Xin lỗi, tên riêng của Mr. Đôla là gì?
- Một Trăm Ngàn, - Allan nói. - Tôi là Mr. Một Trăm Ngàn Đôla, và tôi xin phép hạ cánh tại sân bay của bạn.
- Xin lỗi, Mr. Đôla. Âm thanh khó nghe quá. Xin ông vui lòng nhắc lại tên riêng của mình một lần nữa?
Allan giải thích với cơ trưởng rằng người điều hành bay đang bắt đầu đàm phán.
- Tôi biết, - cơ trưởng đáp.
- Tên riêng của tôi là Hai Trăm Ngàn, - Allan nói. - Chúng tôi có được phép hạ cánh không?
- Xin chờ một chút, ông Đôla, - người điều hành bay nói, thỏa thuận với các đồng nghiệp rồi trả lời:
- Chào mừng ông đến Bali, Mr. Đôla. Rất vui được đón ông ở đây.
Allan cảm ơn người điều hành bay, trả lại tai nghe và micro cho cơ trưởng.
- Ông có vẻ rất thạo những việc này, - cơ trưởng nói, và mỉm cười.
- Indonesia là quốc gia nơi mọi thứ đều có thể, - Allan đáp.
Khi các sếp lớn ở sân bay quốc tế Bali nhận ra rằng vài du khách đi cùng Mr. Đôla không có hộ chiếu, một trong số họ nặng gần năm tấn và có bốn chân thay vì hai, phải chi thêm năm mươi ngàn đôla để thu xếp giấy tờ hải quan và phương tiện di chuyển phù hợp với Sonya. Nhưng chỉ một tiếng sau khi hạ cánh, cả nhóm đã về tới khách sạn của gia đình Einstein, kể cả Sonya cùng với Benny và Người Đẹp đi trong chiếc xe chở thức ăn của sân bay (chuyến bay buổi chiều hôm đó đi Singapore tình cờ chẳng may thiếu các khay ăn trưa).
Amanda, Allan và Mao Einstein ra đón khách, và sau một hồi ôm hôn, họ được đưa về phòng. Sonya và Buster có thể thư giãn chân cẳng trong khu vườn cực rộng có hàng rào của khách sạn. Amanda tỏ ý tiếc rằng thiếu bạn bè voi cho Sonya ở Bali, nhưng bà sẽ thu xếp ngay cho nó một bạn trai voi tương lai từ Sumatra. Còn về phần bạn gái cho Buster, thì nó có thể tự tìm lấy, có rất nhiều cô chó xinh đẹp trên đảo.
Và Amanda hứa rằng đến tối sẽ có một bữa tiệc Bali hoành tráng cho mọi người, và bà khuyên từng người nên chợp mắt một tí trước đi.
Tất cả đều nghe theo lời khuyên, chỉ trừ ba người. Pike và bà mẹ không thể chờ lâu hơn để được uống một ly có cắm ô trang trí, Allan cũng thế nhưng không cần ô.
Cả ba mò đến chỗ ghế xếp bên bờ biển, nằm ườn ra chờ đợi được phục vụ đồ uống họ vừa đặt từ quầy bar.
Nữ hầu bàn tám mươi tư tuổi đã điềm nhiên thế chỗ người phục vụ quầy bar.
- Ly che ô màu đỏ này là cho ông, Gerdin. Và ly che ô màu xanh lá cây cho bà, mẹ Gerdin. Và... khoan đã... ông đã gọi sữa, đúng không Allan?
- Tôi tưởng bà đã hứa là sẽ không xen vào phục vụ đồ uống cơ mà, Amanda thân mến, - Allan nói.
- Tôi đã nói dối, Allan yêu quý. Tôi nói dối đấy.
* * *
Bóng tối phủ xuống thiên đường, nhóm bạn cùng nhau đánh chén một bữa ăn ba món do chủ nhà Amanda, Allan và Mao Einstein mời. Khai vị là món sate Lilit, món chính là Bebek betutu và tráng miệng là jaja batun bedil. Kèm mỗi món, bia cọ, tual wayah được phục vụ cho tất cả, trừ Benny uống nước.
Buổi tối đầu tiên trên đất Indonesia kéo dài vô cùng dễ chịu. Sau các món ăn, mọi người uống pisang Ambon, trừ Allan vẫn cứ vodka và Benny uống một tách trà.
Bosse cảm thấy cả ngày đến tối ăn chơi thừa thãi cần được cân bằng lại nên ông đứng lên, bắt đầu trích dẫn Chúa Giêsu trong kinh Phúc Âm theo thánh Matthêu (“Hạnh phúc thay cho họ... nhu cầu tâm linh của họ”). Bosse nghĩ họ sẽ tốt hơn nhờ lắng nghe và học hỏi từ đức Chúa. Sau đó ông chắp tay lại, cảm tạ Chúa về một ngày quá đỗi phi thường và vui vẻ khác thường.
- Thế là đủ rồi, Allan nói trong im lặng bao trùm sau những lời của Bosse.
* * *
Bosse đã cảm ơn Chúa và có lẽ Chúa cám ơn lại họ, bởi vì vận may vẫn ở lại với họ và thậm chí còn tốt hơn cho nhóm bạn Thụy Điển ở khách sạn Bali. Benny cầu hôn Người Đẹp và cô trả lời: Vâng, đồ phải gió! Ngay bây giờ đi! Đám cưới diễn ra tối hôm sau và kéo dài ba ngày. Rose-Marie Gerdin, tám mươi tuổi, dạy các thành viên câu lạc bộ hưu trí địa phương cách chơi trò Đảo Giấu Vàng (nhưng đừng có giỏi quá để bà có thể luôn luôn thắng); Pike nằm dài trên bãi biển dưới bóng dù ngày này qua ngày khác, uống nước có cắm ô trang trí đủ sắc cầu vồng; Bosse và Julius đã mua một chiếc thuyền đánh cá mà họ hiếm khi rời nó ra, còn Chánh Thanh tra Aaronson trở thành một thành viên nổi tiếng của tầng lớp thượng lưu Bali: ông là một ông Tây da trắng, chánh thanh tra và đến từ một quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới. Không thể nào đặc biệt hơn thế.
Hàng ngày, Allan và Amanda thong dong đi dạo dọc theo bãi biển cát trắng rực rỡ ngoài khách sạn. Họ luôn có rất nhiều chuyện để nói, và rất hợp nhau. Họ không đi nhanh lắm vì bà đã tám mươi tư còn ông thì một trăm lẻ một tuổi rồi.
Sau một thời gian họ bắt đầu nắm tay nhau, để giữ thăng bằng. Rồi họ quyết định ăn cơm trưa tay đôi với nhau trên sân thượng của Amanda vào buổi tối, với tất cả những người khác thì nhiều quá. Và cuối cùng, Allan chuyển đến sống cùng Amanda cho tiện. Nhờ thế phòng của Allan có thể dư ra cho một du khách thuê, thế cũng tốt cho thu nhập của khách sạn.
Trong một buổi đi dạo ngày hôm sau, Amanda hỏi liệu họ có nên làm giống như Benny và Người Đẹp, cưới nhau quách vì đằng nào họ cũng chung sống với nhau rồi. Allan đáp so với ông, Amanda là một cô bé con, nhưng ông có thể bỏ qua sự chênh lệch đó. Gần đây, ông đã tự pha đồ uống lấy, vì vậy chuyện đó không phải là vấn đề. Nói tóm lại, Allan không thấy có lí do gì để phản đối quyết định mà Amanda vừa đề xuất.
- OK, thế thì chúng mình cưới nhé? - Amanda nói.
- Ừ, mình làm tới đi, - Allan đáp.
Và họ nắm tay nhau chặt hơn. Để giữ thăng bằng.
* * *
Cuộc điều tra về cái chết của Henrik Thùng Gỗ Hulten ngắn ngủi và không có kết quả gì. Cảnh sát xem xét quá khứ và thẩm vấn bạn bè cũ của Thùng Gỗ ở Småland (thực ra khá gần Trang trại Bên Hồ của Gunilla Björklund), nhưng họ không nghe hay thấy điều gì hết.
Cảnh sát ở Riga đã tìm ra gã say rượu, kẻ đưa chiếc Mustang vào bãi phế liệu, nhưng họ không moi được một từ có nghĩa nào khỏi miệng gã cho đến khi một cảnh sát có sáng kiến đổ cho gã một chai rượu vang. Thế là gã say đột nhiên bắt đầu khai khẩu - rằng gã mù tịt chẳng biết ai đã nhờ mình đưa chiếc xe đến bãi phế liệu. Đó là một kẻ tự dưng xuất hiện ở ghế đá công viên với một túi đầy chai vang.
- Tôi đã không tỉnh táo lắm, phải thừa nhận thế, - gã say nói. - Nhưng tôi chưa bao giờ say đến mức lại đi từ chối bốn chai vang.
Chỉ có một nhà báo liên lạc lại vài ngày sau đó để tìm hiểu việc điều tra về cái chết của Thùng Gỗ Hulten, nhưng công tố viên Ranelid không có đó. Ông đã đi nghỉ phép và vội vàng lấy vé giá rẻ phút cuối đi Las Palmas. Ông thực sự muốn tránh xa mọi thứ, và ông cũng nghe nói rằng Bali rất đẹp, nhưng nó đã hết chỗ.
Thế thì đến quần đảo Canary vậy. Và bây giờ, ông ngồi trên ghế sưởi nắng, dưới bóng dù, với ly đồ uống cắm cái ô nhỏ trong tay và tự hỏi Aronsson đi đâu nhỉ. Nghe đâu ông đã thông báo nghỉ, lấy hết cả ngày phép và biến mất.
Chương 28
1982-2005
Khoản lương của sứ quán Mỹ đến đúng lúc. Allan kiếm được một ngôi nhà nhỏ màu đỏ cách nơi ông lớn lên chỉ vài dặm. Ông mua nó, trả bằng tiền mặt. Để mua được nhà, ông đã phải tranh luận với các nhà chức trách Thụy Điển rằng thực tế là ông vẫn tồn tại. Cuối cùng, họ chịu thua và bắt đầu trả lương hưu cho ông - làm Allan ngạc nhiên quá.
- Tại sao? - Allan thắc mắc.
- Cụ là một người hưu trí, - các nhà chức trách trả lời.
- Tôi ư? - Allan hỏi.
Đương nhiên là cụ rồi, còn thừa tiêu chuẩn nữa. Mùa xuân này cụ sẽ bảy mươi tám tuổi, điều đó làm Allan nhận ra rằng mình đã già rồi, bất chấp mọi chuyện kỳ quái và chẳng hề nghĩ ngợi về tuổi tác. Rồi xem, cụ sẽ còn già hơn nhiều nữa...
Nhiều năm trôi qua nhàn nhã và Allan chẳng còn ảnh hưởng nào đến sự phát triển của thế giới. Thậm chí cụ cũng không ảnh hưởng gì đến mọi thứ ở thị trấn Flen, nơi cụ thỉnh thoảng mạo hiểm đến mua vài thứ linh tinh (chỗ cháu trai của thương gia Gustavsso, chủ siêu thị địa phương và rất may là không hề biết Allan là ai). Allan không đến thư viện công cộng ở Flen nữa vì cụ thấy có thể đặt các báo mà mình thích và họ chuyển đến tận hòm thư ở cửa nhà của mình. Thật là tiện lợi!
Khi ẩn sĩ trong ngôi nhà ngoại ô Yxhult bước sang tuổi tám ba, cụ thấy đạp xe đạp đi về Flen bắt đầu hơi oải, thế là cụ mua một chiếc xe động cơ. Trong một khoảnh khắc, cụ định mua luôn cả bằng lái xe, nhưng ngay sau khi người hướng dẫn lái xe nhắc đến “thử thị lực” và “giấy phép tạm thời”, Allan quyết định cứ lái luôn. Khi người hướng dẫn tiếp tục nêu danh sách các “giáo trình”, “bài học lý thuyết”, “bài học lái xe”, và “thi hai vòng cuối cùng”, Allan đã ngừng lắng nghe từ lâu.
Năm 1989, Liên Xô bắt đầu tan rã thực sự, và nó không có gì là bất ngờ với cụ già ở Yxhult với máy chưng cất rượu vodka trong tầng hầm. Nhà cầm quyền mới, Gorbachev, đã bắt đầu kỷ nguyên của mình bằng một chiến dịch chống uống vodka trên cả nước. Đó là không phải là cách để lôi kéo quần chúng về phía mình, ai cũng có thể thấy thế, đúng không?
Cùng năm đó, đúng vào sinh nhật của Allan, một con mèo đói đột nhiên xuất hiện ở hiên nhà. Allan dụ nó vào bếp, cho nó sữa và xúc xích. Con mèo thấy cụ tử tế nên đến ở cùng.
Đó là một con mèo đực lông vằn vẫn sống ở sân trại, sau đó được đặt tên là Molotov, không phải để tưởng nhớ ông Bộ trưởng mà là quả bom. Molotov không nói nhiều, nhưng lại rất thông minh và biết lắng nghe. Nếu Allan cần nói gì, cụ chỉ phải gọi con mèo và nó đến ngay (trừ khi đang bận rộn bắt chuột, Molotov biết cái gì quan trọng). Con mèo nhảy vào lòng Allan, thư giãn và vểnh tai lên ra dấu rằng bây giờ Allan có thể tâm sự những gì muốn nói. Nếu Allan còn gãi gáy và cổ Molotov thì cuộc trò chuyện có thể kéo dài bất tận.
Sau đó, khi Allan nuôi thêm vài con gà mái, chỉ cần nói với Molotov một lần duy nhất là đừng có đuổi gà, con mèo gật đầu và hiểu ngay. Thực ra nó đã tảng lờ những gì Allan nói và vẫn đuổi bọn gà mái đến chán thì thôi, nhưng đó là chuyện khác. Còn đòi hỏi gì hơn nữa? Cuối cùng thì nó vẫn là một con mèo thôi.
Allan nghĩ không có ai láu cá hơn Molotov, kể cả con cáo luôn lén lút rình quanh chuồng gà kiếm khe lưới hở. Con cáo cũng rình bắt cả mèo, nhưng Molotov quá nhanh.
Năm lại năm thêm vào tuổi đời của Allan. Cứ mỗi tháng, chính quyền lại gửi lương hưu đến mà Allan chẳng phải làm gì. Allan dùng tiền đó mua pho mát, xúc xích, khoai tây và thỉnh thoảng một bao đường. Ngoài ra, ông đặt mua Eskilstuna Kuriren, tờ báo địa phương, và thanh toán hóa đơn tiền điện khi nào nhận được.
Nhưng tiêu đủ thứ xong, hàng tháng tiền vẫn còn dư, chẳng biết để làm gì? Một lần, Allan thử cho chỗ tiền thừa vào phong bì gửi lại các nhà chức trách, nhưng một thời gian sau, một viên chức đến tận nhà Allan thông báo rằng cụ không thể làm thế. Allan nhận lại số tiền của mình, và phải hứa không tranh cãi với chính quyền theo cách đó.
Allan và Molotov đã sống rất hòa thuận với nhau. Hàng ngày, nếu thời tiết cho phép, họ cùng đạp xe tí chút dọc những con đường trải sỏi trong vùng. Allan đạp xe, còn Molotov ngồi trong giỏ, hưởng gió và tốc độ.
Gia đình nhỏ này đã sống một cuộc sống dễ chịu bình thường. Cứ thế cho đến một ngày hóa ra không chỉ Allan mà cả Molotov cũng già đi. Đột nhiên, con cáo bắt được con mèo, cáo và mèo chỉ ngạc nhiên nhưng Allan thì buồn.
Có lẽ trong đời mình, Allan chưa bao giờ buồn đến thế, và nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành tức giận. Chuyên gia chất nổ già nua đứng đó trên hiên nhà mình, nước mắt đầm đìa và gào trong đêm đông:
- Mày sinh sự thì sự sinh, con cáo đáng nguyền rủa!
Lần đầu tiên và duy nhất trong đời, Allan đã nổi giận. Và nó không nguôi ngoai ngay cả bằng rượu vodka, lái xe ô tô (không phép) hay đạp xe một chuyến dài. Không nên sống để trả thù, Allan biết điều đó. Nhưng bây giờ đó chính là điều ông đang lên kế hoạch.
Allan đặt thuốc nổ bên cạnh chuồng gà, định là nó sẽ nổ khi lần sau con cáo đói và thò mũi sâu vào chuồng gà. Nhưng trong cơn tức giận, Allan quên rằng sát cạnh chuồng gà là nơi ông lưu trữ tất cả chỗ thuốc nổ của mình.
Thế là vào lúc hoàng hôn ngày thứ ba sau khi Molotov chầu trời, người ta nghe tiếng nổ lớn ở địa phận Södermanland, kể từ cuối những năm 1920 mới có lại một vụ nổ như vậy.
Con cáo đã tan xác, giống như con gà mái của Allan, chuồng gà và kho chứa gỗ. Nhưng vụ nổ còn hiệu quả hơn thế, cả ngôi nhà và kho của Allan cũng bay theo. Lúc đó, Allan đang ngồi trong chiếc ghế bành của mình, cụ bay lên không trung với ghế bành và mọi thứ rồi hạ cánh trong đống tuyết ngoài hầm khoai tây của mình. Cụ ngồi đó nhìn quanh với vẻ mặt ngạc nhiên, trước khi cuối cùng thốt lên:
- Con cáo chết rồi.
Lúc đó, Allan đã chín mươi chín tuổi và bàng hoàng vì cảm thấy mình không đứng lên nổi. Nhưng xe cứu thương, cảnh sát và cứu hỏa không khó khăn gì tìm đường tới đó, vì ngọn lửa bốc cao lên tận trời. Và khi họ xác định rằng cụ già ngồi trong chiếc ghế bành trên đống tuyết cạnh hầm khoai tây không bị thương, thì dịch vụ xã hội được gọi đến.
Trong vòng chưa đầy một tiếng, nhân viên xã hội Henrik Soder đã tới nơi. Allan vẫn đang ngồi trong chiếc ghế bành của mình, nhân viên cứu thương đã quấn vài cái chăn bệnh viện quanh người cụ nhưng thực ra nó không cần thiết vì ngọn lửa từ ngôi nhà cháy rụi vẫn còn nóng lắm.
- Cụ Karlsson, theo tôi hiểu thì cụ đã làm nổ tung ngôi nhà của cụ? - Soder, nhân viên xã hội hỏi.
- Vâng, - Allan đáp. - Đó là một thói quen xấu của tôi.
- Thế thì chắc cụ, cụ Karlsson ạ, không còn sở hữu chỗ nào để ở? - Nhân viên xã hội tiếp tục.
- Nói thế cũng đúng, - Allan nói. - Anh có gợi ý nào không, anh nhân viên xã hội?
Nhân viên xã hội chẳng nghĩ được gì, nên Allan - với chi phí của dịch vụ xã hội - đã được chở bằng xe bò đến khách sạn ở trung tâm Flen, nơi tối hôm sau, trong không khí lễ hội, Allan đến để ăn mừng Năm Mới với vợ chồng Soder nhân viên xã hội và những người khác. Lâu lắm rồi Allan không được ở trong môi trường ưa thích như vậy kể từ sau chiến tranh, khi ông ở khách sạn sang trọng Grand Hotel tại Stockholm. Thực ra, lần ấy ông trả tiền hóa đơn, vì trong lúc vội vã đi, chẳng ai thanh toán.
Vào đầu tháng Giêng năm 2005, nhân viên xã hội Soder đã tìm thấy một chỗ ở khả dĩ cho cụ già đáng mến đột nhiên bị vô gia cư một tuần trước đó.
Thế là Allan đến ở Nhà Già Malmköping, nơi phòng số 1 vừa trống. Cụ được chính bà quản lý, Xơ Alice ra đón. Quả thật Xơ có mỉm cười thân thiện, nhưng lại làm đời Allan mất hết cả vui khi kể ra tất cả các quy tắc của Nhà Già. Xơ Alice nói rằng cấm hút thuốc, cấm rượu, và truyền hình cũng bị cấm sau mười một giờ tối. Xơ cho biết bữa sáng được phục vụ lúc 06.45 ngày thường và muộn hơn một tiếng vào cuối tuần. Ăn trưa lúc 11.15, cà phê lúc 15.15 và ăn tối lúc 18.15. Nếu ra ngoài mà không để ý thời gian nên trở về nhà quá muộn, cụ có thể bị cấm vào nhà.
Rồi Xơ Alice nói tới các quy tắc liên quan đến tắm rửa và đánh răng, người đến thăm và đi thăm các cụ khác ở đây, khi nào phát các loại thuốc và giờ nào cụ được phép làm phiền Xơ Alice hoặc một đồng nghiệp của Xơ trong trường hợp khẩn cấp, mà theo Xơ Alice thì rất hiếm hoi, vì nói chung các cụ ở đây rất hay phàn nàn.
- Thế lúc buồn ỉa có được phép đi ỉa không? - Allan thắc mắc.
Thế là mới chưa đầy 15 phút gặp gỡ, Allan và Xơ Alice đã cọ xát với nhau rồi.
Allan không hài lòng với bản thân vì đã gây chiến với con cáo hồi còn ở nhà (mặc dù ông đã thắng). Nóng giận vốn không phải là bản tính của cụ. Lúc này cụ ăn nói theo kiểu mà bà quản lý nhà này có thể đáng bị, nhưng đó vẫn không phải là phong cách của Allan. Thêm vào đó là danh sách dài cả mét các quy tắc và quy định mà Allan phải nhớ...
Allan nhớ con mèo của mình. Cụ đã chín mươi chín tuổi tám tháng. Cụ e mình không còn kiểm soát được tâm trạng bản thân, và bị Xơ Alice dùng quyền lực đàn áp.
Quá đủ rồi.
Allan đã xong một đời, vì cuộc đời dường như chấm hết với cụ, và cụ thì luôn luôn là người không muốn ép bản thân phải gắng sức.
Thế là Allan nghiêm chỉnh nhận phòng 1, ăn tối lúc 18.15 rồi tắm rửa, mặc đồ ngủ mới, ga trải giường sạch sẽ - cụ sẽ vào giường và chết trong giấc ngủ của mình, được đưa đi, chôn xuống đất và bị lãng quên.
Allan thấy một niềm vui râm ran như điện truyền khắp cơ thể mình vào lúc tám giờ tối, khi lần đầu tiên và cũng là lần cuối chui vào tấm khăn trải giường của mình tại Nhà Già. Còn gần bốn tháng nữa, tuổi của cụ sẽ đạt tới ba con số. Allan Emmanuel Karlsson nhắm mắt lại và cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng mình sẽ ra đi mãi mãi. Cả cuộc hành trình này đã thật thú vị, nhưng không có gì tồn tại mãi, có lẽ chỉ trừ sự ngu ngốc nói chung.
Sau đó Allan không nghĩ gì được nữa. Mệt mỏi đã thắng cụ. Mọi thứ chìm vào bóng tối.
Cho đến khi trời lại sáng. Một màu trắng lóa. Chỉ cần tưởng tượng rằng cái chết giống như đang ngủ. Liệu cụ có thời gian để suy nghĩ trước khi tất cả kết thúc? Và cụ có đủ thời gian để nghĩ rằng mình đã nghĩ thế không? Nhưng gượm đã, người ta phải suy nghĩ bao lâu trước khi nghĩ xong?
- 6 giờ 45 rồi, Allan, đã đến lúc ăn sáng. Nếu cụ không ăn, chúng tôi sẽ mang cháo của cụ đi và cụ chẳng có gì ăn cho đến tận bữa trưa, - Xơ Alice nói.
Ngoài những thứ khác, bây giờ Allan có thể thấy càng già mình càng ngây thơ. Người ta không thể đơn giản là chết theo yêu cầu được. Có một nguy cơ đáng kể là hôm sau cũng thế, cụ sẽ bị bà quản lý kinh khủng kia đánh thức và cho món cháo cũng khủng khiếp như bà.
Ồ, thôi được. Vẫn còn vài tháng để tới trăm tuổi, chắc chắn cụ sẽ tìm được cách chết trước lúc đó. “Rượu giết người!”, là câu Xơ Alice luôn viện ra cho chủ trương “nói không với rượu” ở các phòng. Nghe có vẻ đầy hứa hẹn, Allan nghĩ. Cụ phải chuồn ra ngoài và lẻn thật nhanh đến cửa hàng rượu quốc doanh.
* * *
Ngày biến thành tuần. Đông đã sang xuân và Allan ao ước được chết cũng nhiều như bạn của cụ, Herbert, từng mong năm mươi năm trước. Ước nguyện của Herbert đã không thành cho đến khi ông đổi ý. Đó không phải là điềm tốt.
Và thậm chí còn tồi tệ hơn: các nhân viên tại Nhà Già đã bắt đầu chuẩn bị cho ngày sinh nhật sắp tới của Allan. Như một con thú bị nhốt, cụ sẽ phải ăn mặc chỉnh tề, nghe hát và bị nhét cho một chiếc bánh sinh nhật. Đó chắc chắn không phải điều cụ muốn.
Và bây giờ cụ chỉ còn một đêm duy nhất để ra đi và chết.
Chương 29
Thứ Hai 2 tháng Năm 2005
Có lẽ thiên hạ cứ tưởng cụ đã rắp tâm từ trước và còn tỉnh táo thông báo cho những người xung quanh quyết định của mình. Nhưng cụ Allan Karlsson chẳng bao giờ nghĩ ngợi gì quá lâu.
Ý tưởng ấy chỉ mung lung trong cái đầu già nua khi cụ mở cửa sổ phòng mình ở tầng trệt của Nhà Già thị trấn Malmköping, và bước ra khỏi đường ranh giới.
Vận động thế đã là gắng sức lắm rồi vì hôm ấy chính là sinh nhật thứ 100 của cụ. Chỉ còn gần một tiếng nữa là bữa tiệc sinh nhật sẽ diễn ra ở phòng khách của Nhà Già. Cả thị trưởng cũng đến. Rồi báo địa phương. Và tất cả các cụ, các nhân viên, đứng đầu là Xơ Alice độc ác.
Chỉ có mỗi nhân vật chính là không có ý định ló mặt.
Hồi kết
Allan và Amanda đã rất hạnh phúc bên nhau. Và họ dường như sinh ra để cho nhau. Một người bị dị ứng với tất cả các chuyện về tư tưởng và tôn giáo, trong khi người kia chả biết tư tưởng là gì và cả đời không nhớ nổi tên của đức Chúa mà mình định cầu nguyện. Thêm nữa, nó xảy ra vào một buổi tối cực kỳ thân mật, giáo sư Lundborg chắc hẳn đã sơ suất với con dao phẫu thuật vào một ngày tháng Tám năm 1925, bởi vì Allan - trước sự ngạc nhiên của chính mình - vẫn có khả năng làm điều mà cho đến nay ông vẫn chỉ thấy ở rạp chiếu phim.
Vào ngày sinh nhật 85 của mình, Amanda đã được chồng tặng cho một máy tính xách tay có kết nối Internet. Allan đã nghe nói rằng giới trẻ rất thích thú với Internet.
Amanda mất một chút thời gian để học cách đăng nhập, nhưng bà rất cứng đầu và sau vài tuần đã tạo ra blog của mình. Bà đã viết vào đó suốt ngày, đủ chuyện cao thấp, cũ mới. Ví dụ, bà viết về hành trình phiêu lưu trên khắp thế giới của ông chồng thân yêu. Độc giả mà bà nhắm tới là những bà bạn trong xã hội Bali, còn ai ngoài họ vào xem nữa?
Một hôm, khi Allan ngồi như thường lệ ngoài hiên và đang thưởng thức bữa sáng của mình thì một người đàn ông mặc comple xuất hiện. Ông ta tự giới thiệu là một đại diện của chính phủ Indonesia và nói rằng đã đọc thấy vài điều tuyệt vời trong một blog trên Internet. Bây giờ, thay mặt Tổng thống, ông muốn sử dụng kiến thức đặc biệt của cụ Karlsson, nếu những gì ông đọc đúng là sự thật.
- Thế ông muốn tôi giúp gì nào, nếu tôi được phép hỏi? - Allan nói. - Chỉ có hai điều tôi có thể làm tốt hơn hầu hết mọi người. Một là làm vodka từ sữa dê, và hai là lắp một quả bom nguyên tử.
- Đấy chính là điều chúng tôi quan tâm, - người đàn ông nói.
- Sữa dê ư?
- Không, - người đàn ông nói. - Không phải sữa dê.
Allan mời đại diện của chính phủ Indonesia ngồi xuống. Rồi ông giải thích rằng ông giúp Stalin làm bom và đó là một sai lầm bởi vì Stalin chắc chắn thật điên rồ. Vì vậy bây giờ trước hết Allan muốn biết tổng thống Indonesia là người thế nào. Đại diện Chính phủ trả lời rằng Tổng thống Yudhoyono là một người rất khôn ngoan và có trách nhiệm.
- Tôi rất mừng khi nghe thế, - Allan nói. - Trong trường hợp đó thì tôi vui lòng giúp.
Và cụ đã làm thế.
HẾT
Allan nói họ sẽ đến sớm đấy. Rồi ông kết thúc bằng lời khen rằng theo ông, chưa từng có ai trên thế giới này, với trí thông minh hạn chế mà lại thành công được như Amanda. Amanda thấy lời khen đó tuyệt vời đến nỗi bà ứa nước mắt.
- Đến đây nhanh lên, Allan thân yêu. Nhanh lên đấy!
* * *
Công tố viên Ranelid bắt đầu cuộc họp báo buổi chiều với tin buồn về con chó nghiệp vụ Kicki. Nó đã đánh hơi thấy một xác chết trên chiếc xe goòng tại làng đúc Akers, từ đó dẫn đến một số giả định của công tố viên - tất nhiên là đúng khi dựa trên đánh hơi của con chó, tuy nhiên nó lại sai, vô cùng sai. Hóa ra con chó này trước khi thi hành nhiệm vụ đã bị mất trí và vì thế không đáng tin cậy. Nghĩa là, nói một cách đơn giản, chưa từng có xác chết nào tại chỗ đó cả.
Dù sao, công tố viên được biết rằng con chó nghiệp vụ đó đã bị sa thải, và theo ông đó là một quyết định khôn ngoan của người trông giữ nó (công tố viên không biết rằng Kicki đã được đặt một cái tên giả và gửi đến chỗ anh của người giữ chó, ở tít phía bắc Thụy Điển).
Hơn nữa, công tố viên Ranelid lấy làm tiếc rằng cảnh sát Eskilstuna đã quên thông báo cho ông về khuynh hướng mới, rất mực cao quý, của tổ chức Never Again là theo đạo Tin Lành. Nếu như trước đây mà biết được điều đó thì công tố viên hẳn đã có hướng điều tra khác. Như vậy, các kết luận mà công tố viên đã đưa ra một phần là do dựa vào con chó điên, một phần từ thông tin sai mà bên cảnh sát cung cấp. Vì thế, thay mặt cho cơ quan cảnh sát, công tố viên Ranelid muốn gửi lời xin lỗi.
Liên quan đến việc phát hiện ra xác chết của Henrik Thùng Gỗ Hulten ở Riga, có lẽ một cuộc điều tra án mạng mới sẽ được tiến hành. Tuy nhiên, vụ án về cái chết của Bengt Ốc Vít Bylund thì không được xét. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy Bylund đã gia nhập lính Lê Dương Pháp. Vì tất cả lính Lê Dương đều đăng ký dưới một biệt hiệu nên không thể hoàn toàn xác định sự thật. Tuy nhiên, khả năng rất lớn là Bylund là nạn nhân của vụ đánh bom tự sát đã xảy ra ở trung tâm của Djibouti vài ngày trước đó.
Công tố viên trình bày một báo cáo chi tiết về mối quan hệ nội bộ giữa các nhân vật chính, và nhân đó cho đại diện báo chí xem cuốn Kinh thánh bìa da xịn mà sáng nay Bosse Ljungberg đưa cho ông. Khi mọi thứ đã xong xuôi, các nhà báo muốn biết nơi ở của Allan Karlsson và nhóm bạn để nghe họ lên tiếng về các sự kiện, nhưng về khoản này, công tố viên Ranelid không cung cấp thông tin cho họ nữa (Ông chẳng moi được gì từ cụ già cứ lảm nhảm về Churchill và trời mà biết với đại diện của báo chí thì sao). Thế là, các nhà báo chuyển sự chú ý sang Thùng Gỗ Hulten. Anh ta được cho là đã bị giết chết, và những kẻ trước đây bị nghi là sát nhân bây giờ vô tội. Thế thì ai đã giết chết Hulten?
Ranelid đã hy vọng rằng vấn đề này được bỏ quên, nhưng bây giờ ông phải nhấn mạnh rằng cuộc điều tra sẽ được khởi động ngay sau khi kết thúc cuộc họp báo và ông sẽ quay trở lại chủ đề đó vào một dịp sau.
Trước sự ngạc nhiên của công tố viên Ranelid, các nhà báo lại chấp nhận điều đó, và tất cả những gì ông đã nói. Công tố viên Ranelid và sự nghiệp của ông, đã sống sót qua ngày hôm đó.
* * *
Amanda Einstein đã giục Allan và bạn bè ông nhanh nhanh đến Bali, và nó hoàn toàn phù hợp với mong mỏi của nhóm bạn. Bất kỳ lúc nào, một tay nhà báo ranh ma có thể tìm đường đến trang trại Bellringer, và an toàn nhất cho tất cả là lúc đó ở đây mọi người đã đi hết. Bây giờ Allan đã làm xong phần mình bằng cách liên hệ với Amanda. Phần còn lại là tùy Người Đẹp.
Không xa trang trại Bellringer là sân bay quân sự Såtenäs và có một máy bay Hercules có thể dễ dàng chở một hoặc thậm chí cả hai con voi. Chiếc máy bay đã từng một lần gầm rú trên trang trại Bellringer khiến con voi sợ gần chết, và nó gợi ý cho Người Đẹp.
Người Đẹp nói chuyện với một đại tá ở Såtenäs, nhưng ông này quá cứng nhắc. Ông ta đòi xem các kiểu giấy chứng nhận và giấy phép trước khi nghĩ đến việc hỗ trợ vận chuyển xuyên lục địa một đám người và động vật. Ví dụ, quân đội hoàn toàn bị cấm cạnh tranh với các hãng hàng không thương mại, do đó họ cần một giấy chứng nhận của Bộ Nông nghiệp rằng trường hợp này không liên quan. Cuộc vận chuyển sẽ có bốn điểm dừng, và tại mỗi sân bay một bác sĩ thú y phải có mặt để kiểm tra tình trạng của con vật. Và con voi phải được đảm bảo nghỉ ngơi ít nhất mười hai tiếng giữa các chuyến bay.
- Tiên sư cha bọn quan liêu Thụy Điển, - Người Đẹp thốt lên rồi gọi điện cho Lufthansa ở Munich.
Ở đó, họ cũng chỉ hợp tác hơn tí ti. Tất nhiên, họ có thể nhận một con voi và một số du khách đi kèm, từ sân bay Landvetter đến Indonesia. Họ chỉ yêu cầu một giấy chứng nhận quyền sở hữu con voi và một bác sĩ thú y có đăng ký đi theo trong chuyến bay. Và tất nhiên là những tài liệu cần thiết để được nhập cảnh vào Cộng hòa Indonesia, cho cả người và động vật. Khi mọi điều kiện được đáp ứng, quản lý của hãng hàng không có thể lập kế hoạch vận tải trong ba tháng tới.
- Tiên sư cha bọn quan liêu Đức, - Người Đẹp thốt lên rồi gọi điện trực tiếp đến Indonesia.
Phải mất một lúc, vì ở Indonesia có năm mươi mốt hãng hàng không khác nhau và không phải tất cả đều có nhân viên nói tiếng Anh trực điện thoại. Nhưng Người Đẹp không bỏ cuộc, và cuối cùng cô đã thành công. Ở Palembang, trên đảo Sumatra, có một công ty vận tải vui vẻ đề nghị một khoản phí hợp lý cho chuyến bay khứ hồi đến Thụy Điển. Họ có một chiếc Boeing 747 phù hợp cho mục đích đó, máy bay này mới được mua từ quân đội Azerbajdjan (may mắn là chuyện này diễn ra trước khi tất cả các hãng hàng không Indonesia bị liệt vào danh sách đen của EU và bị cấm hạ cánh ở châu Âu). Công ty hứa sẽ lo tất cả các giấy tờ để hạ cánh tại Thụy Điển, trong khi trách nhiệm của khách hàng là lo giấy phép hạ cánh ở Bali. Bác sĩ thú y ư? Tại sao?
Tất cả những gì còn lại chỉ là vấn đề thanh toán. Giá tăng lên 20% trước khi Người Đẹp dùng hết kho từ vựng phong phú của mình để thuyết phục công ty đồng ý cho thanh toán bằng tiền mặt, đồng crown Thụy Điển, khi đến Thụy Điển.
Trong khi chiếc máy bay Boeing Indonesia cất cánh bay đến Thụy Điển, nhóm bạn đã có một phân công mới. Benny và Julius được giao nhiệm vụ giả mạo một số giấy tờ mà họ có thể trình với các nhà chức trách, chắc rất khó tính, ở sân bay Landvetter, còn Allan hứa sẽ lo giấy phép hạ cánh ở Bali.
* * *
Tất nhiên, họ gặp vài rắc rối ở sân bay ngoài Gothenburg, nhưng Benny không chỉ có giấy chứng nhận bác sĩ thú y rởm mà còn có khả năng phun ra vài thuật ngữ thú y chuyên nghiệp. Điều này, cùng với giấy chứng nhận quyền sở hữu và giấy chứng nhận sức khỏe cho voi, và nguyên một bó tài liệu đáng tin cậy do Allan viết ở Indonesia, khiến cả nhóm đều được lên máy bay theo kế hoạch. Vì nhóm bạn cùng nói dối rằng điểm dừng chân tiếp theo là Copenhagen nên không ai yêu cầu hộ chiếu của họ.
Những người đi du lịch gồm có: cụ Allan Karlsson trăm tuổi, tên trộm nhỏ thó Julius Jonsson (nay đã được tuyên bố vô tội), anh sinh viên cả đời Benny Ljungberg, vị hôn thê của anh ta, người đẹp Gunilla Björklund với hai thú cưng là voi Sonya và chó nòi bécgiê Buster, Bosse - nhà buôn thực phẩm mới theo đạo, anh trai của Benny Ljungberg, Chánh Thanh tra Aronson từ Eskilstuna - trước đây vốn rất cô đơn, cựu trùm xã hội đen Per-Gunnar Gerdin và bà mẹ tám mươi tuổi Rose-Marie, bà đã từng viết một lá thư xui xẻo cho con trai hồi gã bị tống giam tại nhà tù Hall để phục hồi nhân phẩm.
Chuyến bay mất mười một tiếng, bỏ nhiều điểm dừng không cần thiết trên đường, và cả nhóm đều ổn khi cơ trưởng người Indonesia thông báo với các hành khách rằng họ đang tiến gần sân bay quốc tế Bali và đã đến lúc Allan Karlsson lấy ra giấy phép hạ cánh. Allan trả lời cơ trưởng rằng hãy thông báo cho ông khi nào liên lạc được với tháp điều khiển bay tại Bali, rồi Allan sẽ lo phần còn lại.
- Vâng, bây giờ họ đang liên lạc đây, - cơ trưởng lo lắng nói. - Tôi phải nói gì với họ? Họ có thể bắn hạ chúng ta bất cứ lúc nào!
- Không đâu, - Allan nói, - giật lấy tai nghe và microphone của cơ trưởng. Xin chào? Sân bay Bali phải không? - Ông nói vào micro bằng tiếng Anh và ngay lập tức nhận được câu trả lời rằng chiếc máy bay phải xác định danh tính ngay, trừ phi họ muốn đối mặt với lực lượng không quân Indonesia.
- Tên tôi là Đôla, - Allan nói. - Một Trăm Nghìn Đôla.
Tháp điều khiển bay im phăng phắc. Cơ trưởng Indonesia và phụ lái nhìn Allan đầy ngưỡng mộ.
- Lúc này, người điều hành bay và các đồng nghiệp thân cận nhất của ông ta đang tính toán để chia tiền đấy, - Allan giải thích.
- Tôi biết, - cơ trưởng đáp.
Một vài giây trôi qua, rồi người điều hành bay liên lạc với họ một lần nữa.
- Xin chào? Ông có đó không, Mr. Đôla?
- Vâng, tôi đây, - Allan nói.
- Xin lỗi, tên riêng của Mr. Đôla là gì?
- Một Trăm Ngàn, - Allan nói. - Tôi là Mr. Một Trăm Ngàn Đôla, và tôi xin phép hạ cánh tại sân bay của bạn.
- Xin lỗi, Mr. Đôla. Âm thanh khó nghe quá. Xin ông vui lòng nhắc lại tên riêng của mình một lần nữa?
Allan giải thích với cơ trưởng rằng người điều hành bay đang bắt đầu đàm phán.
- Tôi biết, - cơ trưởng đáp.
- Tên riêng của tôi là Hai Trăm Ngàn, - Allan nói. - Chúng tôi có được phép hạ cánh không?
- Xin chờ một chút, ông Đôla, - người điều hành bay nói, thỏa thuận với các đồng nghiệp rồi trả lời:
- Chào mừng ông đến Bali, Mr. Đôla. Rất vui được đón ông ở đây.
Allan cảm ơn người điều hành bay, trả lại tai nghe và micro cho cơ trưởng.
- Ông có vẻ rất thạo những việc này, - cơ trưởng nói, và mỉm cười.
- Indonesia là quốc gia nơi mọi thứ đều có thể, - Allan đáp.
Khi các sếp lớn ở sân bay quốc tế Bali nhận ra rằng vài du khách đi cùng Mr. Đôla không có hộ chiếu, một trong số họ nặng gần năm tấn và có bốn chân thay vì hai, phải chi thêm năm mươi ngàn đôla để thu xếp giấy tờ hải quan và phương tiện di chuyển phù hợp với Sonya. Nhưng chỉ một tiếng sau khi hạ cánh, cả nhóm đã về tới khách sạn của gia đình Einstein, kể cả Sonya cùng với Benny và Người Đẹp đi trong chiếc xe chở thức ăn của sân bay (chuyến bay buổi chiều hôm đó đi Singapore tình cờ chẳng may thiếu các khay ăn trưa).
Amanda, Allan và Mao Einstein ra đón khách, và sau một hồi ôm hôn, họ được đưa về phòng. Sonya và Buster có thể thư giãn chân cẳng trong khu vườn cực rộng có hàng rào của khách sạn. Amanda tỏ ý tiếc rằng thiếu bạn bè voi cho Sonya ở Bali, nhưng bà sẽ thu xếp ngay cho nó một bạn trai voi tương lai từ Sumatra. Còn về phần bạn gái cho Buster, thì nó có thể tự tìm lấy, có rất nhiều cô chó xinh đẹp trên đảo.
Và Amanda hứa rằng đến tối sẽ có một bữa tiệc Bali hoành tráng cho mọi người, và bà khuyên từng người nên chợp mắt một tí trước đi.
Tất cả đều nghe theo lời khuyên, chỉ trừ ba người. Pike và bà mẹ không thể chờ lâu hơn để được uống một ly có cắm ô trang trí, Allan cũng thế nhưng không cần ô.
Cả ba mò đến chỗ ghế xếp bên bờ biển, nằm ườn ra chờ đợi được phục vụ đồ uống họ vừa đặt từ quầy bar.
Nữ hầu bàn tám mươi tư tuổi đã điềm nhiên thế chỗ người phục vụ quầy bar.
- Ly che ô màu đỏ này là cho ông, Gerdin. Và ly che ô màu xanh lá cây cho bà, mẹ Gerdin. Và... khoan đã... ông đã gọi sữa, đúng không Allan?
- Tôi tưởng bà đã hứa là sẽ không xen vào phục vụ đồ uống cơ mà, Amanda thân mến, - Allan nói.
- Tôi đã nói dối, Allan yêu quý. Tôi nói dối đấy.
* * *
Bóng tối phủ xuống thiên đường, nhóm bạn cùng nhau đánh chén một bữa ăn ba món do chủ nhà Amanda, Allan và Mao Einstein mời. Khai vị là món sate Lilit, món chính là Bebek betutu và tráng miệng là jaja batun bedil. Kèm mỗi món, bia cọ, tual wayah được phục vụ cho tất cả, trừ Benny uống nước.
Buổi tối đầu tiên trên đất Indonesia kéo dài vô cùng dễ chịu. Sau các món ăn, mọi người uống pisang Ambon, trừ Allan vẫn cứ vodka và Benny uống một tách trà.
Bosse cảm thấy cả ngày đến tối ăn chơi thừa thãi cần được cân bằng lại nên ông đứng lên, bắt đầu trích dẫn Chúa Giêsu trong kinh Phúc Âm theo thánh Matthêu (“Hạnh phúc thay cho họ... nhu cầu tâm linh của họ”). Bosse nghĩ họ sẽ tốt hơn nhờ lắng nghe và học hỏi từ đức Chúa. Sau đó ông chắp tay lại, cảm tạ Chúa về một ngày quá đỗi phi thường và vui vẻ khác thường.
- Thế là đủ rồi, Allan nói trong im lặng bao trùm sau những lời của Bosse.
* * *
Bosse đã cảm ơn Chúa và có lẽ Chúa cám ơn lại họ, bởi vì vận may vẫn ở lại với họ và thậm chí còn tốt hơn cho nhóm bạn Thụy Điển ở khách sạn Bali. Benny cầu hôn Người Đẹp và cô trả lời: Vâng, đồ phải gió! Ngay bây giờ đi! Đám cưới diễn ra tối hôm sau và kéo dài ba ngày. Rose-Marie Gerdin, tám mươi tuổi, dạy các thành viên câu lạc bộ hưu trí địa phương cách chơi trò Đảo Giấu Vàng (nhưng đừng có giỏi quá để bà có thể luôn luôn thắng); Pike nằm dài trên bãi biển dưới bóng dù ngày này qua ngày khác, uống nước có cắm ô trang trí đủ sắc cầu vồng; Bosse và Julius đã mua một chiếc thuyền đánh cá mà họ hiếm khi rời nó ra, còn Chánh Thanh tra Aaronson trở thành một thành viên nổi tiếng của tầng lớp thượng lưu Bali: ông là một ông Tây da trắng, chánh thanh tra và đến từ một quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới. Không thể nào đặc biệt hơn thế.
Hàng ngày, Allan và Amanda thong dong đi dạo dọc theo bãi biển cát trắng rực rỡ ngoài khách sạn. Họ luôn có rất nhiều chuyện để nói, và rất hợp nhau. Họ không đi nhanh lắm vì bà đã tám mươi tư còn ông thì một trăm lẻ một tuổi rồi.
Sau một thời gian họ bắt đầu nắm tay nhau, để giữ thăng bằng. Rồi họ quyết định ăn cơm trưa tay đôi với nhau trên sân thượng của Amanda vào buổi tối, với tất cả những người khác thì nhiều quá. Và cuối cùng, Allan chuyển đến sống cùng Amanda cho tiện. Nhờ thế phòng của Allan có thể dư ra cho một du khách thuê, thế cũng tốt cho thu nhập của khách sạn.
Trong một buổi đi dạo ngày hôm sau, Amanda hỏi liệu họ có nên làm giống như Benny và Người Đẹp, cưới nhau quách vì đằng nào họ cũng chung sống với nhau rồi. Allan đáp so với ông, Amanda là một cô bé con, nhưng ông có thể bỏ qua sự chênh lệch đó. Gần đây, ông đã tự pha đồ uống lấy, vì vậy chuyện đó không phải là vấn đề. Nói tóm lại, Allan không thấy có lí do gì để phản đối quyết định mà Amanda vừa đề xuất.
- OK, thế thì chúng mình cưới nhé? - Amanda nói.
- Ừ, mình làm tới đi, - Allan đáp.
Và họ nắm tay nhau chặt hơn. Để giữ thăng bằng.
* * *
Cuộc điều tra về cái chết của Henrik Thùng Gỗ Hulten ngắn ngủi và không có kết quả gì. Cảnh sát xem xét quá khứ và thẩm vấn bạn bè cũ của Thùng Gỗ ở Småland (thực ra khá gần Trang trại Bên Hồ của Gunilla Björklund), nhưng họ không nghe hay thấy điều gì hết.
Cảnh sát ở Riga đã tìm ra gã say rượu, kẻ đưa chiếc Mustang vào bãi phế liệu, nhưng họ không moi được một từ có nghĩa nào khỏi miệng gã cho đến khi một cảnh sát có sáng kiến đổ cho gã một chai rượu vang. Thế là gã say đột nhiên bắt đầu khai khẩu - rằng gã mù tịt chẳng biết ai đã nhờ mình đưa chiếc xe đến bãi phế liệu. Đó là một kẻ tự dưng xuất hiện ở ghế đá công viên với một túi đầy chai vang.
- Tôi đã không tỉnh táo lắm, phải thừa nhận thế, - gã say nói. - Nhưng tôi chưa bao giờ say đến mức lại đi từ chối bốn chai vang.
Chỉ có một nhà báo liên lạc lại vài ngày sau đó để tìm hiểu việc điều tra về cái chết của Thùng Gỗ Hulten, nhưng công tố viên Ranelid không có đó. Ông đã đi nghỉ phép và vội vàng lấy vé giá rẻ phút cuối đi Las Palmas. Ông thực sự muốn tránh xa mọi thứ, và ông cũng nghe nói rằng Bali rất đẹp, nhưng nó đã hết chỗ.
Thế thì đến quần đảo Canary vậy. Và bây giờ, ông ngồi trên ghế sưởi nắng, dưới bóng dù, với ly đồ uống cắm cái ô nhỏ trong tay và tự hỏi Aronsson đi đâu nhỉ. Nghe đâu ông đã thông báo nghỉ, lấy hết cả ngày phép và biến mất.
Chương 28
1982-2005
Khoản lương của sứ quán Mỹ đến đúng lúc. Allan kiếm được một ngôi nhà nhỏ màu đỏ cách nơi ông lớn lên chỉ vài dặm. Ông mua nó, trả bằng tiền mặt. Để mua được nhà, ông đã phải tranh luận với các nhà chức trách Thụy Điển rằng thực tế là ông vẫn tồn tại. Cuối cùng, họ chịu thua và bắt đầu trả lương hưu cho ông - làm Allan ngạc nhiên quá.
- Tại sao? - Allan thắc mắc.
- Cụ là một người hưu trí, - các nhà chức trách trả lời.
- Tôi ư? - Allan hỏi.
Đương nhiên là cụ rồi, còn thừa tiêu chuẩn nữa. Mùa xuân này cụ sẽ bảy mươi tám tuổi, điều đó làm Allan nhận ra rằng mình đã già rồi, bất chấp mọi chuyện kỳ quái và chẳng hề nghĩ ngợi về tuổi tác. Rồi xem, cụ sẽ còn già hơn nhiều nữa...
Nhiều năm trôi qua nhàn nhã và Allan chẳng còn ảnh hưởng nào đến sự phát triển của thế giới. Thậm chí cụ cũng không ảnh hưởng gì đến mọi thứ ở thị trấn Flen, nơi cụ thỉnh thoảng mạo hiểm đến mua vài thứ linh tinh (chỗ cháu trai của thương gia Gustavsso, chủ siêu thị địa phương và rất may là không hề biết Allan là ai). Allan không đến thư viện công cộng ở Flen nữa vì cụ thấy có thể đặt các báo mà mình thích và họ chuyển đến tận hòm thư ở cửa nhà của mình. Thật là tiện lợi!
Khi ẩn sĩ trong ngôi nhà ngoại ô Yxhult bước sang tuổi tám ba, cụ thấy đạp xe đạp đi về Flen bắt đầu hơi oải, thế là cụ mua một chiếc xe động cơ. Trong một khoảnh khắc, cụ định mua luôn cả bằng lái xe, nhưng ngay sau khi người hướng dẫn lái xe nhắc đến “thử thị lực” và “giấy phép tạm thời”, Allan quyết định cứ lái luôn. Khi người hướng dẫn tiếp tục nêu danh sách các “giáo trình”, “bài học lý thuyết”, “bài học lái xe”, và “thi hai vòng cuối cùng”, Allan đã ngừng lắng nghe từ lâu.
Năm 1989, Liên Xô bắt đầu tan rã thực sự, và nó không có gì là bất ngờ với cụ già ở Yxhult với máy chưng cất rượu vodka trong tầng hầm. Nhà cầm quyền mới, Gorbachev, đã bắt đầu kỷ nguyên của mình bằng một chiến dịch chống uống vodka trên cả nước. Đó là không phải là cách để lôi kéo quần chúng về phía mình, ai cũng có thể thấy thế, đúng không?
Cùng năm đó, đúng vào sinh nhật của Allan, một con mèo đói đột nhiên xuất hiện ở hiên nhà. Allan dụ nó vào bếp, cho nó sữa và xúc xích. Con mèo thấy cụ tử tế nên đến ở cùng.
Đó là một con mèo đực lông vằn vẫn sống ở sân trại, sau đó được đặt tên là Molotov, không phải để tưởng nhớ ông Bộ trưởng mà là quả bom. Molotov không nói nhiều, nhưng lại rất thông minh và biết lắng nghe. Nếu Allan cần nói gì, cụ chỉ phải gọi con mèo và nó đến ngay (trừ khi đang bận rộn bắt chuột, Molotov biết cái gì quan trọng). Con mèo nhảy vào lòng Allan, thư giãn và vểnh tai lên ra dấu rằng bây giờ Allan có thể tâm sự những gì muốn nói. Nếu Allan còn gãi gáy và cổ Molotov thì cuộc trò chuyện có thể kéo dài bất tận.
Sau đó, khi Allan nuôi thêm vài con gà mái, chỉ cần nói với Molotov một lần duy nhất là đừng có đuổi gà, con mèo gật đầu và hiểu ngay. Thực ra nó đã tảng lờ những gì Allan nói và vẫn đuổi bọn gà mái đến chán thì thôi, nhưng đó là chuyện khác. Còn đòi hỏi gì hơn nữa? Cuối cùng thì nó vẫn là một con mèo thôi.
Allan nghĩ không có ai láu cá hơn Molotov, kể cả con cáo luôn lén lút rình quanh chuồng gà kiếm khe lưới hở. Con cáo cũng rình bắt cả mèo, nhưng Molotov quá nhanh.
Năm lại năm thêm vào tuổi đời của Allan. Cứ mỗi tháng, chính quyền lại gửi lương hưu đến mà Allan chẳng phải làm gì. Allan dùng tiền đó mua pho mát, xúc xích, khoai tây và thỉnh thoảng một bao đường. Ngoài ra, ông đặt mua Eskilstuna Kuriren, tờ báo địa phương, và thanh toán hóa đơn tiền điện khi nào nhận được.
Nhưng tiêu đủ thứ xong, hàng tháng tiền vẫn còn dư, chẳng biết để làm gì? Một lần, Allan thử cho chỗ tiền thừa vào phong bì gửi lại các nhà chức trách, nhưng một thời gian sau, một viên chức đến tận nhà Allan thông báo rằng cụ không thể làm thế. Allan nhận lại số tiền của mình, và phải hứa không tranh cãi với chính quyền theo cách đó.
Allan và Molotov đã sống rất hòa thuận với nhau. Hàng ngày, nếu thời tiết cho phép, họ cùng đạp xe tí chút dọc những con đường trải sỏi trong vùng. Allan đạp xe, còn Molotov ngồi trong giỏ, hưởng gió và tốc độ.
Gia đình nhỏ này đã sống một cuộc sống dễ chịu bình thường. Cứ thế cho đến một ngày hóa ra không chỉ Allan mà cả Molotov cũng già đi. Đột nhiên, con cáo bắt được con mèo, cáo và mèo chỉ ngạc nhiên nhưng Allan thì buồn.
Có lẽ trong đời mình, Allan chưa bao giờ buồn đến thế, và nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành tức giận. Chuyên gia chất nổ già nua đứng đó trên hiên nhà mình, nước mắt đầm đìa và gào trong đêm đông:
- Mày sinh sự thì sự sinh, con cáo đáng nguyền rủa!
Lần đầu tiên và duy nhất trong đời, Allan đã nổi giận. Và nó không nguôi ngoai ngay cả bằng rượu vodka, lái xe ô tô (không phép) hay đạp xe một chuyến dài. Không nên sống để trả thù, Allan biết điều đó. Nhưng bây giờ đó chính là điều ông đang lên kế hoạch.
Allan đặt thuốc nổ bên cạnh chuồng gà, định là nó sẽ nổ khi lần sau con cáo đói và thò mũi sâu vào chuồng gà. Nhưng trong cơn tức giận, Allan quên rằng sát cạnh chuồng gà là nơi ông lưu trữ tất cả chỗ thuốc nổ của mình.
Thế là vào lúc hoàng hôn ngày thứ ba sau khi Molotov chầu trời, người ta nghe tiếng nổ lớn ở địa phận Södermanland, kể từ cuối những năm 1920 mới có lại một vụ nổ như vậy.
Con cáo đã tan xác, giống như con gà mái của Allan, chuồng gà và kho chứa gỗ. Nhưng vụ nổ còn hiệu quả hơn thế, cả ngôi nhà và kho của Allan cũng bay theo. Lúc đó, Allan đang ngồi trong chiếc ghế bành của mình, cụ bay lên không trung với ghế bành và mọi thứ rồi hạ cánh trong đống tuyết ngoài hầm khoai tây của mình. Cụ ngồi đó nhìn quanh với vẻ mặt ngạc nhiên, trước khi cuối cùng thốt lên:
- Con cáo chết rồi.
Lúc đó, Allan đã chín mươi chín tuổi và bàng hoàng vì cảm thấy mình không đứng lên nổi. Nhưng xe cứu thương, cảnh sát và cứu hỏa không khó khăn gì tìm đường tới đó, vì ngọn lửa bốc cao lên tận trời. Và khi họ xác định rằng cụ già ngồi trong chiếc ghế bành trên đống tuyết cạnh hầm khoai tây không bị thương, thì dịch vụ xã hội được gọi đến.
Trong vòng chưa đầy một tiếng, nhân viên xã hội Henrik Soder đã tới nơi. Allan vẫn đang ngồi trong chiếc ghế bành của mình, nhân viên cứu thương đã quấn vài cái chăn bệnh viện quanh người cụ nhưng thực ra nó không cần thiết vì ngọn lửa từ ngôi nhà cháy rụi vẫn còn nóng lắm.
- Cụ Karlsson, theo tôi hiểu thì cụ đã làm nổ tung ngôi nhà của cụ? - Soder, nhân viên xã hội hỏi.
- Vâng, - Allan đáp. - Đó là một thói quen xấu của tôi.
- Thế thì chắc cụ, cụ Karlsson ạ, không còn sở hữu chỗ nào để ở? - Nhân viên xã hội tiếp tục.
- Nói thế cũng đúng, - Allan nói. - Anh có gợi ý nào không, anh nhân viên xã hội?
Nhân viên xã hội chẳng nghĩ được gì, nên Allan - với chi phí của dịch vụ xã hội - đã được chở bằng xe bò đến khách sạn ở trung tâm Flen, nơi tối hôm sau, trong không khí lễ hội, Allan đến để ăn mừng Năm Mới với vợ chồng Soder nhân viên xã hội và những người khác. Lâu lắm rồi Allan không được ở trong môi trường ưa thích như vậy kể từ sau chiến tranh, khi ông ở khách sạn sang trọng Grand Hotel tại Stockholm. Thực ra, lần ấy ông trả tiền hóa đơn, vì trong lúc vội vã đi, chẳng ai thanh toán.
Vào đầu tháng Giêng năm 2005, nhân viên xã hội Soder đã tìm thấy một chỗ ở khả dĩ cho cụ già đáng mến đột nhiên bị vô gia cư một tuần trước đó.
Thế là Allan đến ở Nhà Già Malmköping, nơi phòng số 1 vừa trống. Cụ được chính bà quản lý, Xơ Alice ra đón. Quả thật Xơ có mỉm cười thân thiện, nhưng lại làm đời Allan mất hết cả vui khi kể ra tất cả các quy tắc của Nhà Già. Xơ Alice nói rằng cấm hút thuốc, cấm rượu, và truyền hình cũng bị cấm sau mười một giờ tối. Xơ cho biết bữa sáng được phục vụ lúc 06.45 ngày thường và muộn hơn một tiếng vào cuối tuần. Ăn trưa lúc 11.15, cà phê lúc 15.15 và ăn tối lúc 18.15. Nếu ra ngoài mà không để ý thời gian nên trở về nhà quá muộn, cụ có thể bị cấm vào nhà.
Rồi Xơ Alice nói tới các quy tắc liên quan đến tắm rửa và đánh răng, người đến thăm và đi thăm các cụ khác ở đây, khi nào phát các loại thuốc và giờ nào cụ được phép làm phiền Xơ Alice hoặc một đồng nghiệp của Xơ trong trường hợp khẩn cấp, mà theo Xơ Alice thì rất hiếm hoi, vì nói chung các cụ ở đây rất hay phàn nàn.
- Thế lúc buồn ỉa có được phép đi ỉa không? - Allan thắc mắc.
Thế là mới chưa đầy 15 phút gặp gỡ, Allan và Xơ Alice đã cọ xát với nhau rồi.
Allan không hài lòng với bản thân vì đã gây chiến với con cáo hồi còn ở nhà (mặc dù ông đã thắng). Nóng giận vốn không phải là bản tính của cụ. Lúc này cụ ăn nói theo kiểu mà bà quản lý nhà này có thể đáng bị, nhưng đó vẫn không phải là phong cách của Allan. Thêm vào đó là danh sách dài cả mét các quy tắc và quy định mà Allan phải nhớ...
Allan nhớ con mèo của mình. Cụ đã chín mươi chín tuổi tám tháng. Cụ e mình không còn kiểm soát được tâm trạng bản thân, và bị Xơ Alice dùng quyền lực đàn áp.
Quá đủ rồi.
Allan đã xong một đời, vì cuộc đời dường như chấm hết với cụ, và cụ thì luôn luôn là người không muốn ép bản thân phải gắng sức.
Thế là Allan nghiêm chỉnh nhận phòng 1, ăn tối lúc 18.15 rồi tắm rửa, mặc đồ ngủ mới, ga trải giường sạch sẽ - cụ sẽ vào giường và chết trong giấc ngủ của mình, được đưa đi, chôn xuống đất và bị lãng quên.
Allan thấy một niềm vui râm ran như điện truyền khắp cơ thể mình vào lúc tám giờ tối, khi lần đầu tiên và cũng là lần cuối chui vào tấm khăn trải giường của mình tại Nhà Già. Còn gần bốn tháng nữa, tuổi của cụ sẽ đạt tới ba con số. Allan Emmanuel Karlsson nhắm mắt lại và cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng mình sẽ ra đi mãi mãi. Cả cuộc hành trình này đã thật thú vị, nhưng không có gì tồn tại mãi, có lẽ chỉ trừ sự ngu ngốc nói chung.
Sau đó Allan không nghĩ gì được nữa. Mệt mỏi đã thắng cụ. Mọi thứ chìm vào bóng tối.
Cho đến khi trời lại sáng. Một màu trắng lóa. Chỉ cần tưởng tượng rằng cái chết giống như đang ngủ. Liệu cụ có thời gian để suy nghĩ trước khi tất cả kết thúc? Và cụ có đủ thời gian để nghĩ rằng mình đã nghĩ thế không? Nhưng gượm đã, người ta phải suy nghĩ bao lâu trước khi nghĩ xong?
- 6 giờ 45 rồi, Allan, đã đến lúc ăn sáng. Nếu cụ không ăn, chúng tôi sẽ mang cháo của cụ đi và cụ chẳng có gì ăn cho đến tận bữa trưa, - Xơ Alice nói.
Ngoài những thứ khác, bây giờ Allan có thể thấy càng già mình càng ngây thơ. Người ta không thể đơn giản là chết theo yêu cầu được. Có một nguy cơ đáng kể là hôm sau cũng thế, cụ sẽ bị bà quản lý kinh khủng kia đánh thức và cho món cháo cũng khủng khiếp như bà.
Ồ, thôi được. Vẫn còn vài tháng để tới trăm tuổi, chắc chắn cụ sẽ tìm được cách chết trước lúc đó. “Rượu giết người!”, là câu Xơ Alice luôn viện ra cho chủ trương “nói không với rượu” ở các phòng. Nghe có vẻ đầy hứa hẹn, Allan nghĩ. Cụ phải chuồn ra ngoài và lẻn thật nhanh đến cửa hàng rượu quốc doanh.
* * *
Ngày biến thành tuần. Đông đã sang xuân và Allan ao ước được chết cũng nhiều như bạn của cụ, Herbert, từng mong năm mươi năm trước. Ước nguyện của Herbert đã không thành cho đến khi ông đổi ý. Đó không phải là điềm tốt.
Và thậm chí còn tồi tệ hơn: các nhân viên tại Nhà Già đã bắt đầu chuẩn bị cho ngày sinh nhật sắp tới của Allan. Như một con thú bị nhốt, cụ sẽ phải ăn mặc chỉnh tề, nghe hát và bị nhét cho một chiếc bánh sinh nhật. Đó chắc chắn không phải điều cụ muốn.
Và bây giờ cụ chỉ còn một đêm duy nhất để ra đi và chết.
Chương 29
Thứ Hai 2 tháng Năm 2005
Có lẽ thiên hạ cứ tưởng cụ đã rắp tâm từ trước và còn tỉnh táo thông báo cho những người xung quanh quyết định của mình. Nhưng cụ Allan Karlsson chẳng bao giờ nghĩ ngợi gì quá lâu.
Ý tưởng ấy chỉ mung lung trong cái đầu già nua khi cụ mở cửa sổ phòng mình ở tầng trệt của Nhà Già thị trấn Malmköping, và bước ra khỏi đường ranh giới.
Vận động thế đã là gắng sức lắm rồi vì hôm ấy chính là sinh nhật thứ 100 của cụ. Chỉ còn gần một tiếng nữa là bữa tiệc sinh nhật sẽ diễn ra ở phòng khách của Nhà Già. Cả thị trưởng cũng đến. Rồi báo địa phương. Và tất cả các cụ, các nhân viên, đứng đầu là Xơ Alice độc ác.
Chỉ có mỗi nhân vật chính là không có ý định ló mặt.
Hồi kết
Allan và Amanda đã rất hạnh phúc bên nhau. Và họ dường như sinh ra để cho nhau. Một người bị dị ứng với tất cả các chuyện về tư tưởng và tôn giáo, trong khi người kia chả biết tư tưởng là gì và cả đời không nhớ nổi tên của đức Chúa mà mình định cầu nguyện. Thêm nữa, nó xảy ra vào một buổi tối cực kỳ thân mật, giáo sư Lundborg chắc hẳn đã sơ suất với con dao phẫu thuật vào một ngày tháng Tám năm 1925, bởi vì Allan - trước sự ngạc nhiên của chính mình - vẫn có khả năng làm điều mà cho đến nay ông vẫn chỉ thấy ở rạp chiếu phim.
Vào ngày sinh nhật 85 của mình, Amanda đã được chồng tặng cho một máy tính xách tay có kết nối Internet. Allan đã nghe nói rằng giới trẻ rất thích thú với Internet.
Amanda mất một chút thời gian để học cách đăng nhập, nhưng bà rất cứng đầu và sau vài tuần đã tạo ra blog của mình. Bà đã viết vào đó suốt ngày, đủ chuyện cao thấp, cũ mới. Ví dụ, bà viết về hành trình phiêu lưu trên khắp thế giới của ông chồng thân yêu. Độc giả mà bà nhắm tới là những bà bạn trong xã hội Bali, còn ai ngoài họ vào xem nữa?
Một hôm, khi Allan ngồi như thường lệ ngoài hiên và đang thưởng thức bữa sáng của mình thì một người đàn ông mặc comple xuất hiện. Ông ta tự giới thiệu là một đại diện của chính phủ Indonesia và nói rằng đã đọc thấy vài điều tuyệt vời trong một blog trên Internet. Bây giờ, thay mặt Tổng thống, ông muốn sử dụng kiến thức đặc biệt của cụ Karlsson, nếu những gì ông đọc đúng là sự thật.
- Thế ông muốn tôi giúp gì nào, nếu tôi được phép hỏi? - Allan nói. - Chỉ có hai điều tôi có thể làm tốt hơn hầu hết mọi người. Một là làm vodka từ sữa dê, và hai là lắp một quả bom nguyên tử.
- Đấy chính là điều chúng tôi quan tâm, - người đàn ông nói.
- Sữa dê ư?
- Không, - người đàn ông nói. - Không phải sữa dê.
Allan mời đại diện của chính phủ Indonesia ngồi xuống. Rồi ông giải thích rằng ông giúp Stalin làm bom và đó là một sai lầm bởi vì Stalin chắc chắn thật điên rồ. Vì vậy bây giờ trước hết Allan muốn biết tổng thống Indonesia là người thế nào. Đại diện Chính phủ trả lời rằng Tổng thống Yudhoyono là một người rất khôn ngoan và có trách nhiệm.
- Tôi rất mừng khi nghe thế, - Allan nói. - Trong trường hợp đó thì tôi vui lòng giúp.
Và cụ đã làm thế.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét