Bản
chúc thư
Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011
Chương
29
Ít
có người Da đỏ nào chung quanh Nate biết rằng tên của bé gái là Ayesh, bởi con
bé sống ở làng khác. Tuy nhiên họ đều biết là có một bé gái bị rắn cắn. Họ tán
gẫu về chuyện đó suốt cả ngày trong khi giữ chặt hơn con cái ở gần mình.
Trong
bữa ăn trưa có lời đồn là bé gái đã chết. Một người đưa tin chạy ào đến và báo
cho thủ lĩnh và chẳng mấy chốc tin ấy loan truyền khắp các túp lều. Mấy bà mẹ
càng giữ chặt những đứa con nhỏ hơn.
Bữa
ăn trưa lại tiếp tục cho đến khi họ thấy có bóng người di động trên đường mòn.
Rachel đang trở về với Lako và mấy người khác đã cùng theo cô ấy suốt ngày. Lúc
cô đi vào làng, việc ăn uống và bàn tán liền ngưng lại mọi người đứng lên nhìn
trừng trừng. Họ cúi đầu lúc cô đi ngang qua các túp lều của họ. Cô cười với người
này thì thầm đôi lời với người kia, ngừng lại khá lâu để nói điều gì đó với thủ
lĩnh, rồi tiếp tục bước về căn lều của cô, với Lako, chân tay què quặt, theo
sau.
Cô
đi ngang qua gần cái cây nơi Nate, Jevy và anh chàng Da đỏ đã tiêu gần hết cả
buổi chiều, nhưng cô không thấy họ. Cô chẳng nhìn cái gì. Cô mệt mỏi, đau khổ
và có vẻ nôn nao muốn về nhà.
- Chúng
ta làm gì bây giờ đây? - Nate hỏi Jevy, cậu này nói lại bằng tiếng Bồ cho anh
chàng Da đỏ.
- Chúng
ta phải chờ thôi.
- Lạ
thật, lạ thật.
Lako
đi tìm gặp họ lúc mặt trời đang khuất dần sau mấy rặng núi. Jevy và anh chàng
Da đỏ đi ăn những thức còn lại. Nate đi theo chú bé dọc đường mòn đến chỗ ở của
Rachel. Cô đang đứng ở cửa, dùng khăn tay lau mặt. Tóc cô ướt và cô đã thay quần
áo.
- Xin
chào ông O’Riley, - cô nói, cũng với cái giọng trầm, khoan thai, không biểu lộ
điều gì.
- Hello,
Rachel. Xin hãy gọi tôi là Nate.
- Ngồi
xuống đó đi, Nate, - cô nói chỉ vào một cái ghế vuông thấp ở phía trước túp lều,
gần mấy cục đá mà cô đặt làm ống lò. Anh ngồi xuống, mông còn tê cứng.
- Tôi
xin chia buồn về trường hợp cháu gái, - Nate nói.
- Cháu
đang ở cùng Chúa.
- Nhưng
bố mẹ của cháu thì không.
- Vâng.
Họ đang đau lòng lắm. Buồn thật!
Cô
ngồi ở ngạch cửa, vòng đôi tay ôm hai đầu gối, mắt chìm vào xa xăm. Cậu thiếu
niên đứng gác dưới một cái cây gần đó, gần như nhòa lần vào bóng tối.
- Lẽ
ra tôi phải mời ông vào nhà, - cô nói. - Nhưng điều đó không hợp với lễ giáo của
xứ sở này.
- Có
vấn đề gì đâu.
- Chỉ
những người thành hôn với nhau mới được ở riêng với nhau trong nhà vào thời điểm
này. Đó là tục lệ.
- Đến
La mã thì phải sống như người La mã thôi.
- La
mã xa xôi quá.
- Mọi
thứ đều xa xôi.
- Vâng
đúng vậy. Anh có đói bụng không?
- Thế
còn cô?
- Không.
Nhưng tôi cũng không ăn nhiều.
- Tôi
cũng không cần ăn lắm. Chúng ta cần bàn bạc…
- Tôi
rất tiếc về ngày hôm nay. Tôi chắc rằng anh hiểu.
- Tất
nhiên rồi.
- Tôi
có ít khoai mì và nước trái cây cho anh.
- Thôi
khỏi. Thật sự là tôi không cần ăn lắm.
- Hôm
nay anh làm gì?
- Ồ,
chúng tôi gặp thủ lĩnh, ăn sáng ở nhà ông ta, đi bộ trở về, đến chiếc xuồng, sửa
lại máy móc, dựng lại căn lều chúng tôi sau nhà của thủ lĩnh, rồi đợi cô.
- Thủ
lĩnh có thích các anh?
- Hiển
nhiên là có. Ông ta muốn chúng tôi ở lại.
- Anh
nghĩ gì về bộ tộc chúng tôi?
- Họ
đều trần truồng.
- Thì
họ luôn luôn vẫn thế.
- Phải
bao lâu để quen với chuyện đó?
- Tôi
không biết. Vài ba năm. Lâu dần quen đi, cũng như bao chuyện khác. Trong ba năm
đầu, tôi thường nhớ nhà, và ngay cả bây giờ, đôi khi tôi cũng chợt thèm lái chiếc
xe hơi, ăn cái bánh pizza, đi xem một phim hay. Nhưng rồi người ta tự điều chỉnh
và thích ứng.
- Tôi
không thể tưởng tượng!
- Đó
là do ơn thiên triệu. Tôi đã trở nên một người Cơ đốc giáo khi tôi mới mười bốn
tuổi và ngay từ lúc đó tôi đã biết là Chúa muốn tôi trở thành một kẻ rao giảng tín
lí của Người. Tôi chưa biết chính xác ở đâu, nhưng tôi đặt trọn niềm tin vào
Người.
- He
picked a helluva sport.
- Tôi
thích tiếng Anh của anh, nhưng xin đừng... chửi thề.
- Xin
lỗi. Chúng ta có thể nói về cụ Troy không?
Bóng
tối buông xuống nhanh. Họ ngồi cách nhau mười bộ và vẫn còn có thể thấy nhau,
nhưng bóng đêm chẳng mấy chốc ngăn cách họ.
- Tùy
anh, - cô nói với vẻ quen chịu đựng.
- Cụ
Troy có ba bà vợ và sáu người con, sáu người mà chúng tôi biết khá rõ. Còn cô,
quả là một điều ngạc nhiên. Cụ không thích sáu người con kia, nhưng rõ ràng cụ
rất thương yêu cô. Cụ chỉ cho mấy người kia gần như không có gì, chỉ vừa đủ để
họ trang trải nợ nần. Toàn bộ phần tài sản còn lại được dành cho Rachel Lane,
sinh ngày 2 tháng 11 năm 1954 tại Bệnh viện Cơ đốc ở New Orleans, từ một người
đàn bà có tên là Evelyn Cunningham, đã mất. Rachel, chính là cô.
Những
lời đó vang lên trầm trọng trong bầu không khí dày đặc, không có âm thanh nào
khác. Cô suy nghĩ trước khi nói:
- Cụ
Troy đâu yêu thương gì tôi. Đã hai mươi năm rồi chúng tôi đâu thấy mặt nhau.
- Điều
đó không quan trọng. Cụ để lại hầu như toàn bộ gia tài cho cô. Không ai có cơ hội
để hỏi tại sao vì cụ nhảy từ sân thượng xuống sau khi kí di chúc cuối cùng. Tôi
có bản sao cho cô đây.
- Tôi
không muốn xem nó.
- Và
tôi còn có một số giấy tờ khác mà tôi muốn cô kí vào, có thể sáng sớm ngày mai,
khi chúng ta có thể thấy rõ. Sau đó tôi có thể ra đi.
- Những
thứ giấy tờ gì vậy?
- Những
văn bản pháp lí, tất cả vì quyền lợi của cô.
- Anh
đâu cần quan tâm đến quyền lợi của tôi.
Những
lời của cô nhanh hơn và sắc bén hơn, và Nate choáng váng vì đòn đánh trả.
- Điều
đó không đúng, - anh trả lời yếu ớt.
- Chắc
chắn là thế. Anh đâu biết tôi muốn gì, cần gì hoặc thích gì hay ghét cái gì.
Nate à, anh không biết tôi. Vậy làm thế nào anh biết được cái gì sẽ có lợi hay
sẽ bất lợi cho tôi?
- OK,
cô nói đúng. Tôi không biết cô, cô không biết tôi. Tôi đến đây nhân danh tài sản
của bố cô. Vẫn còn thật khó tin đối với tôi là tôi hiện đang ngồi trong bóng tối,
bên ngoài một căn lều, nơi một buôn làng Da đỏ hoang sơ, giữa một vùng đầm lầy
mênh mông rộng bằng cả bang Colorado, tại một quốc gia của thế giới thứ ba mà
trước nay tôi chưa từng đặt chân tới, nói chuyện với một nhà nữ truyền giáo
duyên dáng vừa mới bất ngờ trở thành người phụ nữ giàu nhất thế giới. Vâng, cô
nói đúng, tôi không biết cái gì làm lợi cho cô. Nhưng điều quan trọng là cô cần
xem những giấy tờ này và kí vào đó.
- Tôi
chẳng muốn kí cái gì cả.
- Thôi
mà, cố lên nào.
- Tôi
chẳng có hứng thú gì với giấy tờ của anh.
- Cô
chưa thấy chúng mà.
- Vậy
anh nói cho tôi nghe về chúng đi.
- Chỉ
là những giấy tờ thủ tục thôi. Hãng chúng tôi phải chứng thực di chúc cho tài sản
của bố cô. Tất cả mọi người thừa kế được nêu tên ra trong di chúc, có bổn phận
thông báo cho tòa, đích thân đến hay bằng văn bản, rằng họ đã được cáo tri về
thủ tục tài phán và đã được ban cho cơ hội để dự phần. Pháp luật đòi hỏi điều
đó.
- Và
nếu tôi từ chối?
- Thành
thật mà nói, tôi chưa hề nghĩ đến trường hợp đó. Đó là chuyện rất bình thường,
đơn giản mà ai cũng sẵn lòng hợp tác.
- Vậy
là tôi phải ra hầu tòa ở...?
- Virginia.
Phiên tòa chứng thực di chúc ở đó sẽ có hiệu lực pháp quyền dầu cô có mặt hay
không có mặt.
- Tôi
không chắc là tôi thích ý tưởng đó hay không.
- Tốt,
vậy mời cô xuống thuyền và chúng ta sẽ đi về Washington.
- Tôi
sẽ không rời nơi đây.
Và với
những lời đó, một khoảng lặng dài tiếp theo, mà bóng tối đang vây phủ quanh họ
càng làm cho lặng lẽ hơn. Chú bé đứng gác dưới cái cây hoàn toàn không gây nên
tiếng động nào. Những người Da đỏ rút hết vào trong nhà, không một tiếng ồn trừ
tiếng khóc của một đứa bé.
- Tôi
sẽ làm ít nước trái cây, - cô nói gần như thì thầm rồi đi vào trong nhà.
Nate
đứng lên, vươn vai, duỗi tay chân cho đỡ tê, và đập muỗi bôm bốp. Thuốc trừ muỗi
anh đã để ở lều.
Có
ánh sáng le lói chập chờn rọi qua căn nhà. Rachel cầm một cái lọ bằng đất sét
có ngọn lửa ở giữa.
- Đây
là lá từ cái cây ở đằng kia, - cô giải thích khi để cái lọ xuống đất, gần cửa
ra vào. - Chúng tôi đốt loại lá này để xua muỗi. Hãy ngồi lại gần đây.
Nate
làm theo lời cô bảo. Cô quay lại với hai cái ly đựng một thứ chất lỏng mà anh
không thấy rõ.
- Đó
là macajuno, tương tự như nước cam vắt.
Họ
ngồi sát gần nhau trên đất, tựa lưng vào tường túp lều, cái lọ với lá đang cháy
không xa chân họ mấy.
- Hãy
nói khẽ thôi, - cô bảo. - Tiếng nói vang lớn trong đêm và người Da đỏ đang cố dỗ
giấc ngủ. Họ cũng tò mò về chúng ta.
- Họ
đâu có thể hiểu tí gì.
- Đúng,
thế nhưng dù sao họ cũng lắng nghe.
Đã từ
nhiều ngày qua chưa có một tí bọt xà phòng nào chạm được vào người anh và anh bỗng
chợt “ưu tư” về vệ sinh thân thể. Ta có toát ra “mùi hương” nào gây dị ứng cho
mũi nàng? Anh ngại ngùng nhâm nhi một ngụm nhỏ, rồi tiếp một ngụm nữa.
- Anh
đã có gia đình? - cô hỏi.
- Tôi
đã hai lần lập gia đình. Hai cuộc hôn nhân, hai lần li dị, bốn đứa con. Bây giờ
tôi sống một mình.
- Li
dị coi bộ dễ quá, phải không?
Nate
chiêu một ngụm thật nhỏ thứ nước âm ấm đó. Anh kiêng dè như vậy vì muốn tránh
chứng tiêu chảy thường rượt đuổi những người lạ thổ ngơi mà cứ ăn uống vô tư
như ở nhà. Nhưng chắc là thứ nước này vô hại.
Chỉ
có hai người Mỹ nơi miền hoang địa. Với bao nhiêu chuyện để bàn, tại sao họ
không thể tránh đề tài li dị?
- Thực
ra là, mọi phân li đều đau đớn, - anh lửng lơ.
- Thế
nhưng chúng ta vẫn cứ tiến lên. Chúng ta kết hôn, rồi li dị. Tìm một người
khác, tái hôn rồi tái li dị. Rồi lại tìm người khác.
- Chúng
ta?
- Ồ,
tôi chỉ dùng một nhân xưng đại danh từ. Những con người gọi là văn mình. Những
con người học thức, hay nhiễu sự. Người Da đỏ chẳng bao giờ li dị.
- Họ
cũng chưa bao giờ thấy được bà vợ tôi.
- Bà
ấy khó ưa lắm sao?
Nate
thở ra và nhấm một ngụm nhỏ. Hãy rộng lượng với nàng, anh tự nhủ.
- Xin
lỗi, - cô nói. - Tôi không nài ép đâu. Chuyện đó chẳng có chi quan trọng.
- Cô
ấy không phải là người xấu, nhất là trong những năm đầu chung sống. Tôi làm việc
nặng nhọc và nghiện rượu thì càng nặng hơn. Khi tôi không ở văn phòng thì tôi ở
bar rượu. Cô ấy trở nên oán giận, rồi bần tiện, rồi cay độc. Mọi chuyện xoắn
trôn ốc lên cao dần đến chỗ vụt khỏi tầm kiểm soát và chúng tôi càng ngày càng
căm ghét nhau.
Lời
xưng tội ngắn đó nhanh chóng đi qua, và thế cũng là quá đủ với cả hai người.
- Cô
chưa từng kết hôn? - anh hỏi.
- Không
hề.
Cô uống
một ngụm. Cô thuận tay trái, và khi cô nâng ly lên, khuỷu tay cô đụng vào khuỷu
tay Nate.
- Paul
có lập gia đình đâu, anh cũng biết mà.
- Paul
nào?
- Thánh
tông đồ Phao-lồ đó.
- À,
ra ông thánh Phao-lồ.
- Anh
có đọc Kinh Thánh không?
- Rất
tiếc là không.
- Lúc
đang học Đại học, tôi đã có lần nghĩ rằng mình yêu. Tôi muốn lấy người ấy,
nhưng rồi Chúa đã hướng tôi về con đường khác.
- Tại
sao?
- Vì
Chúa muốn tôi ở đây. Người tôi yêu là một tín hữu Cơ đốc ngoan đạo, nhưng về thể
chết anh ấy yếu đuối. Anh khó sinh tồn được nơi những môi trường khắc nghiệt mà
những người truyền giáo chúng tôi phải đến sống, như ông thấy đấy.
- Cô
sẽ ở đây bao lâu?
- Tôi
không có ý định rời nơi đây.
- Vậy
những người Da đỏ sẽ chôn cất cô?
- Chắc
là vậy. Tôi chẳng bận tâm chi chuyện đó.
- Có
phải phần lớn các vị truyền giáo của hội World Tribes chết trong lúc hành công
đức hoằng pháp?
- Không.
Phần lớn được về hưu khi đến tuổi và trở về nhà. Như vậy, họ được gia đình chôn
cất khi họ chết.
- Cô
cũng có gia đình và bạn bè nếu bây giờ cô về nhà. Cô sẽ rất nổi tiếng.
- Lại
thêm một lí do để tôi ở lại đây. Đây là nhà tôi. Tôi chẳng cần tiền bạc.
- Đừng
điên như thế!
- Tôi
không điên. Tiền bạc chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Điều ấy hiển nhiên quá,
chắc ông cũng thấy.
Cô
chưa biết số tiền bao nhiêu mà.
- Tôi
không hỏi đến. Tôi làm công việc của mình hôm nay mà chẳng có tư tưởng gì về tiền
bạc. Tôi sẽ làm y như vậy, ngày mai, và ngày tiếp theo.
- Mười
một tỉ đôla, cho hoặc lấy.
- Ông
nghĩ rằng con số đó gây ấn tượng đối với tôi?
- Đáng
quan tâm đấy chứ!
- Các
anh tôn thờ tiền bạc, Nate à. Anh là một thành phần của nền văn hóa trong đó mọi
sự đều được đo lường bằng tiền bạc. Đó là một thứ tôn giáo.
- Đúng.
Nhưng tính dục cũng khá quan trọng.
- Danh
vọng. Ai cũng muốn mình nổi tiếng. Một nền văn hóa buồn thảm. Người ta sống
trong sự quay cuồng. Họ làm việc liên miên để kiếm tiền nhằm mua những đồ vật
làm lóa mắt người khác. Họ được đo lường bằng những gì họ sở hữu.
- Kể
cả tôi?
- Anh
có vậy không?
- Tôi
giả thiết là vậy.
- Vậy
là anh sống không có Thượng Đế. Anh là một con người rất cô đơn. Nate, tôi có
thể cảm thấy điều ấy. Anh không biết đến Chúa.
Anh
quằn quại, lúng túng và dự kiến một cuộc phòng vệ nhanh, thế những sự thật đã
giải giáp anh. Anh không có vũ khí nào, không có nền tảng nào để đứng vững.
- Tôi
tin vào Chúa, - anh nói, thành thật nhưng yếu ớt.
- Nói
điều đó dễ thôi, - cô bảo, lời lẽ của cô vẫn trầm, dịu dàng. - Và tôi không nghi ngờ anh. Nhưng nói là một
chuyện, sống lại là chuyện khác. Chú bé què quặt đứng dưới tàn cây kia là Lako.
Chú mười bảy tuổi, nhỏ con so với số tuổi của mình và luôn đau ốm. Mẹ nó bảo
tôi là nó được đẻ non. Lako là người đầu tiên bị bệnh nếu có căn bệnh nào xảy đến.
Tôi không chắc nó sống được đến ba mươi không. Lako chẳng quan tâm. Nó theo đạo
nhiều năm trước đây và có tấm lòng nhân hậu nhất nơi đây. Suốt ngày nó hướng
lòng về Chúa, ngay giờ đây có lẽ nó đang cầu nguyện. Nó không lo lắng, không sợ
hãi. Nếu nó có vấn đề gì, nó đến thẳng với Chúa và giải bày cùng Người.
Nate
nhìn vào bóng tối dưới cái cây nơi Lako đang cầu nguyện, nhưng anh không nói
gì.
Cô
nói tiếp:
- Chú
bé Da đỏ đó chẳng có gì nơi trần gian này nhưng chú đang tồn một kho vô tận nơi
cõi trời. Chú biết rằng khi mình chết đi, mình sẽ sống mãi mãi nơi nước Thiên
đàng cùng Chúa. Chú giàu hơn những kẻ ngồi trên núi của nhưng không có chút niềm
tin.
- Còn
cụ Troy thì sao?
- Tôi
ngờ rằng bố tôi không còn tin vào Chúa khi cụ mất và tôi e rằng cụ đang đau khổ
nơi hỏa ngục.
- Cô
nói vậy mà cô không tin như vậy.
Địa
ngục là một chốn rất thực, Nate à. Hãy đọc Thánh kinh. Ngay giờ đây có lẽ cụ
Troy sẵn lòng đổi mười một tỉ đôla để có được một ly nước lã.
Vốn
liếng kiến thức thần học của Nate không đủ để biện bác với một nhà truyền giáo,
và anh biết điều đó. Một hồi lâu anh ngồi yên không nói gì, và cô vẫn nắm sợi
dây. Nhiều phút trôi qua khi mọi đứa trẻ trong làng đã ngủ yên. Đêm đen kịt và
tĩnh lặng, bầu trời không trăng sao, chỉ có tia sáng duy nhất đến tự ngọn lửa
vàng leo lắt gần chân họ.
Thật
dịu dàng, cô chạm vào anh. Cô đập bàn tay ba lần lên cánh tay anh và nói:
- Tôi
xin lỗi. Lẽ ra tôi không nên nói rằng anh cô đơn. Làm sao tôi biết được?
- Không
sao!
Cô vẫn
để mấy ngón tay trên cánh tay anh, như thấy cần chạm vào một vật gì đó.
- Anh
là một người tốt, phải không Nate?
- Không,
thực sự tôi chẳng tốt lành gì. Tôi từng làm nhiều chuyện bê bối. Tôi yếu đuối,
dễ sa ngã và không muốn nói về chuyện đó. Tôi không đến đây để tìm Thượng Đế.
Tìm được cô đã đủ vất vả lắm rồi. Pháp luật đòi hỏi tôi phải trình cho cô những
giấy tờ này.
- Tôi
sẽ không kí giấy tờ gì cả và tôi chẳng cần tiền bạc.
- Cố
lên nào.
- Đừng
nài nỉ. Tôi đã ra quyết định tối hậu. Chúng ta đừng bàn về chuyện tiền bạc nữa.
Cô bỏ
tay ra, nhưng xích người lại gần hơn một chút cho đôi đầu gối họ chạm nhau.
- Tôi
tiếc cho anh đã đến mà lại phải phí phạm cả một chuyến đi.
Một
khoảng cách khác trong cuộc đối thoại. Anh cần thoát ra để thư giãn nhưng ý tưởng
bước đi ba bước về bất cứ hướng nào cũng làm anh e sợ.
Lako
nói điều gì đó và làm Nate giật mình. Chú ta chỉ cách mười bộ nhưng vẫn... vô
hình.
- Chú
ta cần về túp lều của chú, - cô nói, cùng lúc đứng lên. - Anh đi theo chú ta
đi.
Nate
duỗi người ra và chậm rãi đứng lên, các khớp kêu răng rắc và các cơ uể oải vươn
ra.
- Ngày
mai tôi muốn ra đi.
- Được
thôi. Tôi sẽ nói với thủ lĩnh.
- Có
lẽ chẳng thành vấn đề lắm, phải vậy không?
- Có
lẽ không.
- Tôi
xin cô dành cho thời gian khoảng ba mươi phút để chí ít cũng lướt xem qua một số
giấy tờ và trình cô bản sao chúc thư.
- Chúng
ta sẽ bàn lại sau. Chúc ngủ ngon.
Anh
gần như thở vào ngay sau gáy của Lako khi họ bước thấp bước cao theo con đường
mòn ngắn về lại buôn làng.
- Đây
này, - Jevy thì thầm trong bóng tối. Anh ta đã thu xếp vén khéo để giăng hai
cái võng trong khu nhà đàn ông. Nate hỏi bằng cách nào hay vậy nhưng Jevy hứa
sáng mai sẽ giải thích.
Lako biến trong bóng đêm.
Lako biến trong bóng đêm.
-------------
Còn tiếp...
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét