Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Bản chúc thư - Ch 29

Bản chúc thư

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011

Chương 29

Ít có người Da đỏ nào chung quanh Nate biết rằng tên của bé gái là Ayesh, bởi con bé sống ở làng khác. Tuy nhiên họ đều biết là có một bé gái bị rắn cắn. Họ tán gẫu về chuyện đó suốt cả ngày trong khi giữ chặt hơn con cái ở gần mình.
Trong bữa ăn trưa có lời đồn là bé gái đã chết. Một người đưa tin chạy ào đến và báo cho thủ lĩnh và chẳng mấy chốc tin ấy loan truyền khắp các túp lều. Mấy bà mẹ càng giữ chặt những đứa con nhỏ hơn.
Bữa ăn trưa lại tiếp tục cho đến khi họ thấy có bóng người di động trên đường mòn. Rachel đang trở về với Lako và mấy người khác đã cùng theo cô ấy suốt ngày. Lúc cô đi vào làng, việc ăn uống và bàn tán liền ngưng lại mọi người đứng lên nhìn trừng trừng. Họ cúi đầu lúc cô đi ngang qua các túp lều của họ. Cô cười với người này thì thầm đôi lời với người kia, ngừng lại khá lâu để nói điều gì đó với thủ lĩnh, rồi tiếp tục bước về căn lều của cô, với Lako, chân tay què quặt, theo sau.
Cô đi ngang qua gần cái cây nơi Nate, Jevy và anh chàng Da đỏ đã tiêu gần hết cả buổi chiều, nhưng cô không thấy họ. Cô chẳng nhìn cái gì. Cô mệt mỏi, đau khổ và có vẻ nôn nao muốn về nhà.
- Chúng ta làm gì bây giờ đây? - Nate hỏi Jevy, cậu này nói lại bằng tiếng Bồ cho anh chàng Da đỏ.
- Chúng ta phải chờ thôi.
- Lạ thật, lạ thật.
Lako đi tìm gặp họ lúc mặt trời đang khuất dần sau mấy rặng núi. Jevy và anh chàng Da đỏ đi ăn những thức còn lại. Nate đi theo chú bé dọc đường mòn đến chỗ ở của Rachel. Cô đang đứng ở cửa, dùng khăn tay lau mặt. Tóc cô ướt và cô đã thay quần áo.
- Xin chào ông O’Riley, - cô nói, cũng với cái giọng trầm, khoan thai, không biểu lộ điều gì.
- Hello, Rachel. Xin hãy gọi tôi là Nate.
- Ngồi xuống đó đi, Nate, - cô nói chỉ vào một cái ghế vuông thấp ở phía trước túp lều, gần mấy cục đá mà cô đặt làm ống lò. Anh ngồi xuống, mông còn tê cứng.
- Tôi xin chia buồn về trường hợp cháu gái, - Nate nói.
- Cháu đang ở cùng Chúa.
- Nhưng bố mẹ của cháu thì không.
- Vâng. Họ đang đau lòng lắm. Buồn thật!
Cô ngồi ở ngạch cửa, vòng đôi tay ôm hai đầu gối, mắt chìm vào xa xăm. Cậu thiếu niên đứng gác dưới một cái cây gần đó, gần như nhòa lần vào bóng tối.
- Lẽ ra tôi phải mời ông vào nhà, - cô nói. - Nhưng điều đó không hợp với lễ giáo của xứ sở này.
- Có vấn đề gì đâu.
- Chỉ những người thành hôn với nhau mới được ở riêng với nhau trong nhà vào thời điểm này. Đó là tục lệ.
- Đến La mã thì phải sống như người La mã thôi.
- La mã xa xôi quá.
- Mọi thứ đều xa xôi.
- Vâng đúng vậy. Anh có đói bụng không?
- Thế còn cô?
- Không. Nhưng tôi cũng không ăn nhiều.
- Tôi cũng không cần ăn lắm. Chúng ta cần bàn bạc…
- Tôi rất tiếc về ngày hôm nay. Tôi chắc rằng anh hiểu.
- Tất nhiên rồi.
- Tôi có ít khoai mì và nước trái cây cho anh.
- Thôi khỏi. Thật sự là tôi không cần ăn lắm.
- Hôm nay anh làm gì?
- Ồ, chúng tôi gặp thủ lĩnh, ăn sáng ở nhà ông ta, đi bộ trở về, đến chiếc xuồng, sửa lại máy móc, dựng lại căn lều chúng tôi sau nhà của thủ lĩnh, rồi đợi cô.
- Thủ lĩnh có thích các anh?
- Hiển nhiên là có. Ông ta muốn chúng tôi ở lại.
- Anh nghĩ gì về bộ tộc chúng tôi?
- Họ đều trần truồng.
- Thì họ luôn luôn vẫn thế.
- Phải bao lâu để quen với chuyện đó?
- Tôi không biết. Vài ba năm. Lâu dần quen đi, cũng như bao chuyện khác. Trong ba năm đầu, tôi thường nhớ nhà, và ngay cả bây giờ, đôi khi tôi cũng chợt thèm lái chiếc xe hơi, ăn cái bánh pizza, đi xem một phim hay. Nhưng rồi người ta tự điều chỉnh và thích ứng.
- Tôi không thể tưởng tượng!
- Đó là do ơn thiên triệu. Tôi đã trở nên một người Cơ đốc giáo khi tôi mới mười bốn tuổi và ngay từ lúc đó tôi đã biết là Chúa muốn tôi trở thành một kẻ rao giảng tín lí của Người. Tôi chưa biết chính xác ở đâu, nhưng tôi đặt trọn niềm tin vào Người.
- He picked a helluva sport.
- Tôi thích tiếng Anh của anh, nhưng xin đừng... chửi thề.
- Xin lỗi. Chúng ta có thể nói về cụ Troy không?
Bóng tối buông xuống nhanh. Họ ngồi cách nhau mười bộ và vẫn còn có thể thấy nhau, nhưng bóng đêm chẳng mấy chốc ngăn cách họ.
- Tùy anh, - cô nói với vẻ quen chịu đựng.
- Cụ Troy có ba bà vợ và sáu người con, sáu người mà chúng tôi biết khá rõ. Còn cô, quả là một điều ngạc nhiên. Cụ không thích sáu người con kia, nhưng rõ ràng cụ rất thương yêu cô. Cụ chỉ cho mấy người kia gần như không có gì, chỉ vừa đủ để họ trang trải nợ nần. Toàn bộ phần tài sản còn lại được dành cho Rachel Lane, sinh ngày 2 tháng 11 năm 1954 tại Bệnh viện Cơ đốc ở New Orleans, từ một người đàn bà có tên là Evelyn Cunningham, đã mất. Rachel, chính là cô.
Những lời đó vang lên trầm trọng trong bầu không khí dày đặc, không có âm thanh nào khác. Cô suy nghĩ trước khi nói:
- Cụ Troy đâu yêu thương gì tôi. Đã hai mươi năm rồi chúng tôi đâu thấy mặt nhau.
- Điều đó không quan trọng. Cụ để lại hầu như toàn bộ gia tài cho cô. Không ai có cơ hội để hỏi tại sao vì cụ nhảy từ sân thượng xuống sau khi kí di chúc cuối cùng. Tôi có bản sao cho cô đây.
- Tôi không muốn xem nó.
- Và tôi còn có một số giấy tờ khác mà tôi muốn cô kí vào, có thể sáng sớm ngày mai, khi chúng ta có thể thấy rõ. Sau đó tôi có thể ra đi.
- Những thứ giấy tờ gì vậy?
- Những văn bản pháp lí, tất cả vì quyền lợi của cô.
- Anh đâu cần quan tâm đến quyền lợi của tôi.
Những lời của cô nhanh hơn và sắc bén hơn, và Nate choáng váng vì đòn đánh trả.
- Điều đó không đúng, - anh trả lời yếu ớt.
- Chắc chắn là thế. Anh đâu biết tôi muốn gì, cần gì hoặc thích gì hay ghét cái gì. Nate à, anh không biết tôi. Vậy làm thế nào anh biết được cái gì sẽ có lợi hay sẽ bất lợi cho tôi?
- OK, cô nói đúng. Tôi không biết cô, cô không biết tôi. Tôi đến đây nhân danh tài sản của bố cô. Vẫn còn thật khó tin đối với tôi là tôi hiện đang ngồi trong bóng tối, bên ngoài một căn lều, nơi một buôn làng Da đỏ hoang sơ, giữa một vùng đầm lầy mênh mông rộng bằng cả bang Colorado, tại một quốc gia của thế giới thứ ba mà trước nay tôi chưa từng đặt chân tới, nói chuyện với một nhà nữ truyền giáo duyên dáng vừa mới bất ngờ trở thành người phụ nữ giàu nhất thế giới. Vâng, cô nói đúng, tôi không biết cái gì làm lợi cho cô. Nhưng điều quan trọng là cô cần xem những giấy tờ này và kí vào đó.
- Tôi chẳng muốn kí cái gì cả.
- Thôi mà, cố lên nào.
- Tôi chẳng có hứng thú gì với giấy tờ của anh.
- Cô chưa thấy chúng mà.
- Vậy anh nói cho tôi nghe về chúng đi.
- Chỉ là những giấy tờ thủ tục thôi. Hãng chúng tôi phải chứng thực di chúc cho tài sản của bố cô. Tất cả mọi người thừa kế được nêu tên ra trong di chúc, có bổn phận thông báo cho tòa, đích thân đến hay bằng văn bản, rằng họ đã được cáo tri về thủ tục tài phán và đã được ban cho cơ hội để dự phần. Pháp luật đòi hỏi điều đó.
- Và nếu tôi từ chối?
- Thành thật mà nói, tôi chưa hề nghĩ đến trường hợp đó. Đó là chuyện rất bình thường, đơn giản mà ai cũng sẵn lòng hợp tác.
- Vậy là tôi phải ra hầu tòa ở...?
- Virginia. Phiên tòa chứng thực di chúc ở đó sẽ có hiệu lực pháp quyền dầu cô có mặt hay không có mặt.
- Tôi không chắc là tôi thích ý tưởng đó hay không.
- Tốt, vậy mời cô xuống thuyền và chúng ta sẽ đi về Washington.
- Tôi sẽ không rời nơi đây.
Và với những lời đó, một khoảng lặng dài tiếp theo, mà bóng tối đang vây phủ quanh họ càng làm cho lặng lẽ hơn. Chú bé đứng gác dưới cái cây hoàn toàn không gây nên tiếng động nào. Những người Da đỏ rút hết vào trong nhà, không một tiếng ồn trừ tiếng khóc của một đứa bé.
- Tôi sẽ làm ít nước trái cây, - cô nói gần như thì thầm rồi đi vào trong nhà.
Nate đứng lên, vươn vai, duỗi tay chân cho đỡ tê, và đập muỗi bôm bốp. Thuốc trừ muỗi anh đã để ở lều.
Có ánh sáng le lói chập chờn rọi qua căn nhà. Rachel cầm một cái lọ bằng đất sét có ngọn lửa ở giữa.
- Đây là lá từ cái cây ở đằng kia, - cô giải thích khi để cái lọ xuống đất, gần cửa ra vào. - Chúng tôi đốt loại lá này để xua muỗi. Hãy ngồi lại gần đây.
Nate làm theo lời cô bảo. Cô quay lại với hai cái ly đựng một thứ chất lỏng mà anh không thấy rõ.
- Đó là macajuno, tương tự như nước cam vắt.
Họ ngồi sát gần nhau trên đất, tựa lưng vào tường túp lều, cái lọ với lá đang cháy không xa chân họ mấy.
- Hãy nói khẽ thôi, - cô bảo. - Tiếng nói vang lớn trong đêm và người Da đỏ đang cố dỗ giấc ngủ. Họ cũng tò mò về chúng ta.
- Họ đâu có thể hiểu tí gì.
- Đúng, thế nhưng dù sao họ cũng lắng nghe.
Đã từ nhiều ngày qua chưa có một tí bọt xà phòng nào chạm được vào người anh và anh bỗng chợt “ưu tư” về vệ sinh thân thể. Ta có toát ra “mùi hương” nào gây dị ứng cho mũi nàng? Anh ngại ngùng nhâm nhi một ngụm nhỏ, rồi tiếp một ngụm nữa.
- Anh đã có gia đình? - cô hỏi.
- Tôi đã hai lần lập gia đình. Hai cuộc hôn nhân, hai lần li dị, bốn đứa con. Bây giờ tôi sống một mình.
- Li dị coi bộ dễ quá, phải không?
Nate chiêu một ngụm thật nhỏ thứ nước âm ấm đó. Anh kiêng dè như vậy vì muốn tránh chứng tiêu chảy thường rượt đuổi những người lạ thổ ngơi mà cứ ăn uống vô tư như ở nhà. Nhưng chắc là thứ nước này vô hại.
Chỉ có hai người Mỹ nơi miền hoang địa. Với bao nhiêu chuyện để bàn, tại sao họ không thể tránh đề tài li dị?
- Thực ra là, mọi phân li đều đau đớn, - anh lửng lơ.
- Thế nhưng chúng ta vẫn cứ tiến lên. Chúng ta kết hôn, rồi li dị. Tìm một người khác, tái hôn rồi tái li dị. Rồi lại tìm người khác.
- Chúng ta?
- Ồ, tôi chỉ dùng một nhân xưng đại danh từ. Những con người gọi là văn mình. Những con người học thức, hay nhiễu sự. Người Da đỏ chẳng bao giờ li dị.
- Họ cũng chưa bao giờ thấy được bà vợ tôi.
- Bà ấy khó ưa lắm sao?
Nate thở ra và nhấm một ngụm nhỏ. Hãy rộng lượng với nàng, anh tự nhủ.
- Xin lỗi, - cô nói. - Tôi không nài ép đâu. Chuyện đó chẳng có chi quan trọng.
- Cô ấy không phải là người xấu, nhất là trong những năm đầu chung sống. Tôi làm việc nặng nhọc và nghiện rượu thì càng nặng hơn. Khi tôi không ở văn phòng thì tôi ở bar rượu. Cô ấy trở nên oán giận, rồi bần tiện, rồi cay độc. Mọi chuyện xoắn trôn ốc lên cao dần đến chỗ vụt khỏi tầm kiểm soát và chúng tôi càng ngày càng căm ghét nhau.
Lời xưng tội ngắn đó nhanh chóng đi qua, và thế cũng là quá đủ với cả hai người.
- Cô chưa từng kết hôn? - anh hỏi.
- Không hề.
Cô uống một ngụm. Cô thuận tay trái, và khi cô nâng ly lên, khuỷu tay cô đụng vào khuỷu tay Nate.
- Paul có lập gia đình đâu, anh cũng biết mà.
- Paul nào?
- Thánh tông đồ Phao-lồ đó.
- À, ra ông thánh Phao-lồ.
- Anh có đọc Kinh Thánh không?
- Rất tiếc là không.
- Lúc đang học Đại học, tôi đã có lần nghĩ rằng mình yêu. Tôi muốn lấy người ấy, nhưng rồi Chúa đã hướng tôi về con đường khác.
- Tại sao?
- Vì Chúa muốn tôi ở đây. Người tôi yêu là một tín hữu Cơ đốc ngoan đạo, nhưng về thể chết anh ấy yếu đuối. Anh khó sinh tồn được nơi những môi trường khắc nghiệt mà những người truyền giáo chúng tôi phải đến sống, như ông thấy đấy.
- Cô sẽ ở đây bao lâu?
- Tôi không có ý định rời nơi đây.
- Vậy những người Da đỏ sẽ chôn cất cô?
- Chắc là vậy. Tôi chẳng bận tâm chi chuyện đó.
- Có phải phần lớn các vị truyền giáo của hội World Tribes chết trong lúc hành công đức hoằng pháp?
- Không. Phần lớn được về hưu khi đến tuổi và trở về nhà. Như vậy, họ được gia đình chôn cất khi họ chết.
- Cô cũng có gia đình và bạn bè nếu bây giờ cô về nhà. Cô sẽ rất nổi tiếng.
- Lại thêm một lí do để tôi ở lại đây. Đây là nhà tôi. Tôi chẳng cần tiền bạc.
- Đừng điên như thế!
- Tôi không điên. Tiền bạc chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Điều ấy hiển nhiên quá, chắc ông cũng thấy.
 Cô chưa biết số tiền bao nhiêu mà.
- Tôi không hỏi đến. Tôi làm công việc của mình hôm nay mà chẳng có tư tưởng gì về tiền bạc. Tôi sẽ làm y như vậy, ngày mai, và ngày tiếp theo.
- Mười một tỉ đôla, cho hoặc lấy.
- Ông nghĩ rằng con số đó gây ấn tượng đối với tôi?
- Đáng quan tâm đấy chứ!
- Các anh tôn thờ tiền bạc, Nate à. Anh là một thành phần của nền văn hóa trong đó mọi sự đều được đo lường bằng tiền bạc. Đó là một thứ tôn giáo.
- Đúng. Nhưng tính dục cũng khá quan trọng.
- Danh vọng. Ai cũng muốn mình nổi tiếng. Một nền văn hóa buồn thảm. Người ta sống trong sự quay cuồng. Họ làm việc liên miên để kiếm tiền nhằm mua những đồ vật làm lóa mắt người khác. Họ được đo lường bằng những gì họ sở hữu.
- Kể cả tôi?
- Anh có vậy không?
- Tôi giả thiết là vậy.
- Vậy là anh sống không có Thượng Đế. Anh là một con người rất cô đơn. Nate, tôi có thể cảm thấy điều ấy. Anh không biết đến Chúa.
Anh quằn quại, lúng túng và dự kiến một cuộc phòng vệ nhanh, thế những sự thật đã giải giáp anh. Anh không có vũ khí nào, không có nền tảng nào để đứng vững.
- Tôi tin vào Chúa, - anh nói, thành thật nhưng yếu ớt.
- Nói điều đó dễ thôi, - cô bảo, lời lẽ của cô vẫn trầm, dịu dàng. -  Và tôi không nghi ngờ anh. Nhưng nói là một chuyện, sống lại là chuyện khác. Chú bé què quặt đứng dưới tàn cây kia là Lako. Chú mười bảy tuổi, nhỏ con so với số tuổi của mình và luôn đau ốm. Mẹ nó bảo tôi là nó được đẻ non. Lako là người đầu tiên bị bệnh nếu có căn bệnh nào xảy đến. Tôi không chắc nó sống được đến ba mươi không. Lako chẳng quan tâm. Nó theo đạo nhiều năm trước đây và có tấm lòng nhân hậu nhất nơi đây. Suốt ngày nó hướng lòng về Chúa, ngay giờ đây có lẽ nó đang cầu nguyện. Nó không lo lắng, không sợ hãi. Nếu nó có vấn đề gì, nó đến thẳng với Chúa và giải bày cùng Người.
Nate nhìn vào bóng tối dưới cái cây nơi Lako đang cầu nguyện, nhưng anh không nói gì.
Cô nói tiếp:
- Chú bé Da đỏ đó chẳng có gì nơi trần gian này nhưng chú đang tồn một kho vô tận nơi cõi trời. Chú biết rằng khi mình chết đi, mình sẽ sống mãi mãi nơi nước Thiên đàng cùng Chúa. Chú giàu hơn những kẻ ngồi trên núi của nhưng không có chút niềm tin.
- Còn cụ Troy thì sao?
- Tôi ngờ rằng bố tôi không còn tin vào Chúa khi cụ mất và tôi e rằng cụ đang đau khổ nơi hỏa ngục.
- Cô nói vậy mà cô không tin như vậy.
 Địa ngục là một chốn rất thực, Nate à. Hãy đọc Thánh kinh. Ngay giờ đây có lẽ cụ Troy sẵn lòng đổi mười một tỉ đôla để có được một ly nước lã.
Vốn liếng kiến thức thần học của Nate không đủ để biện bác với một nhà truyền giáo, và anh biết điều đó. Một hồi lâu anh ngồi yên không nói gì, và cô vẫn nắm sợi dây. Nhiều phút trôi qua khi mọi đứa trẻ trong làng đã ngủ yên. Đêm đen kịt và tĩnh lặng, bầu trời không trăng sao, chỉ có tia sáng duy nhất đến tự ngọn lửa vàng leo lắt gần chân họ.
Thật dịu dàng, cô chạm vào anh. Cô đập bàn tay ba lần lên cánh tay anh và nói:
- Tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi không nên nói rằng anh cô đơn. Làm sao tôi biết được?
- Không sao!
Cô vẫn để mấy ngón tay trên cánh tay anh, như thấy cần chạm vào một vật gì đó.
- Anh là một người tốt, phải không Nate?
- Không, thực sự tôi chẳng tốt lành gì. Tôi từng làm nhiều chuyện bê bối. Tôi yếu đuối, dễ sa ngã và không muốn nói về chuyện đó. Tôi không đến đây để tìm Thượng Đế. Tìm được cô đã đủ vất vả lắm rồi. Pháp luật đòi hỏi tôi phải trình cho cô những giấy tờ này.
- Tôi sẽ không kí giấy tờ gì cả và tôi chẳng cần tiền bạc.
- Cố lên nào.
- Đừng nài nỉ. Tôi đã ra quyết định tối hậu. Chúng ta đừng bàn về chuyện tiền bạc nữa.
Cô bỏ tay ra, nhưng xích người lại gần hơn một chút cho đôi đầu gối họ chạm nhau.
- Tôi tiếc cho anh đã đến mà lại phải phí phạm cả một chuyến đi.
Một khoảng cách khác trong cuộc đối thoại. Anh cần thoát ra để thư giãn nhưng ý tưởng bước đi ba bước về bất cứ hướng nào cũng làm anh e sợ.
Lako nói điều gì đó và làm Nate giật mình. Chú ta chỉ cách mười bộ nhưng vẫn... vô hình.
- Chú ta cần về túp lều của chú, - cô nói, cùng lúc đứng lên. - Anh đi theo chú ta đi.
Nate duỗi người ra và chậm rãi đứng lên, các khớp kêu răng rắc và các cơ uể oải vươn ra.
- Ngày mai tôi muốn ra đi.
- Được thôi. Tôi sẽ nói với thủ lĩnh.
- Có lẽ chẳng thành vấn đề lắm, phải vậy không?
- Có lẽ không.
- Tôi xin cô dành cho thời gian khoảng ba mươi phút để chí ít cũng lướt xem qua một số giấy tờ và trình cô bản sao chúc thư.
- Chúng ta sẽ bàn lại sau. Chúc ngủ ngon.
Anh gần như thở vào ngay sau gáy của Lako khi họ bước thấp bước cao theo con đường mòn ngắn về lại buôn làng.
- Đây này, - Jevy thì thầm trong bóng tối. Anh ta đã thu xếp vén khéo để giăng hai cái võng trong khu nhà đàn ông. Nate hỏi bằng cách nào hay vậy nhưng Jevy hứa sáng mai sẽ giải thích.
Lako biến trong bóng đêm.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét