Bản
chúc thư
Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011
Chương
22
Nước
sông dâng lên, rút xuống theo chế độ bán nhật triều, dần dà rời bờ ở một vài
nơi, nuốt những cồn cát, dâng cao lên những tán cây rậm, ngập lụt một vài khoảng
sân vuông nhỏ đầy bùn của những căn nhà mà cỡ vài ba giờ họ mới thấy bóng dáng
một căn. Dòng sông càng lúc càng mang thêm nhiều vật trôi nổi - cỏ dại, lá
vàng, cành khô, củi mục v.v… Sông càng mở rộng ra lại càng mạnh hơn và những
dòng nước chạy đập vào thuyền làm cho nó càng tiến chậm hơn.
Nhưng
chẳng ai nhìn đồng hồ. Nate đã được lịch sự yêu cầu rời khỏi nhiệm vụ thuyền
trưởng sau khi chiếc Santa Loura bị nghẽn vào một thân cây ngầm nằm trên đường
đi mà anh ta không thấy kịp. Không thiệt hại gì, nhưng cú xóc khiến Jevy và
Welly đập đầu vào buồng lái. Anh quay về phòng nhỏ riêng cho mình với chiếc
võng giăng ngang ở giữa và tại đó, suốt buổi sáng, anh hết đọc lại ngắm cảnh đời
sống hoang dã.
Jevy
đến để cùng uống cà phê với anh.
- Giờ
ông nghĩ sao về vùng Pantanal? - cậu ta hỏi. Họ ngồi gần bên nhau trên một chiếc
ghế dài, tì tay lên thanh ngang vịn và thõng chân trần đong đưa bên mạn thuyền.
- Một
cảnh mênh mông hùng vĩ đấy.
- Ông
biết bang Colorado?
- Vâng,
tôi đã từng ở đó.
- Trong
mùa mưa, các con sông ở Pantanal dâng tràn. Vùng bị ngập sẽ có diện tích bằng
bang Colorado.
- Còn
cậu đã từng đến Colorado chưa?
- Vâng,
tôi có người anh em họ ở đó.
- Ngoài
ra cậu còn đến những nơi nào khác ở Mỹ?
- Ba
năm trước đây, ông anh họ và tôi cùng lái một chiếc xe buýt lớn - chiếc
Greyhound - đi qua khắp nước Mỹ. Chúng tôi đã qua gần hết mọi bang, trừ có sáu
bang.
Jevy
là một thanh niên nghèo của xứ Brazil, mới hai mươi bốn tuổi. Nate gấp đôi tuổi
cậu ta, và thường có đầy tiền. Thế mà Jevy đã tham quan nước Mỹ còn nhiều hơn
Nate.
Tuy
nhiên, những lúc có tiền nhiều Nate luôn luôn đi du lịch châu Âu. Những nhà
hàng anh thích nhất là ở Rome và Paris.
- Khi
hết các cơn lũ, - Jevy nói tiếp, - chúng ta lại vào mùa khô. Bãi cỏ, đầm lầy, hồ
nước, vùng đất sình đếm không hết. Cái chu kì thời tiết hết mùa lũ lại đến mùa
khô đó đã sản sinh và nuôi dưỡng một đời sống hoang dã phong phú hơn bất cứ nơi
nào trên địa cầu. Nơi đây có sáu trăm năm mươi chủng loại chim, hơn cả ở Canada
và Mỹ gộp lại. Và ít ra là khoảng hai trăm sáu mươi chủng loại cá. Trăn, rắn,
cá sấu, và cả loại rái cá khổng lồ sống trong nước.
Vừa
lúc ấy cậu ta chỉ tay vào một bụi cây ở bìa rừng.
- Nhìn
kìa, một con nai, - cậu ta nói. - Ở đây, nai vô số. Và vô số báo, heo vòi, vẹt
đuôi dài, khỉ, vượn v.v… Pantanal tràn đầy động vật hoang dã.
- Cậu
sinh ra ở đây?
- Tôi
ra đời tại một bệnh viện ở Corumbá nhưng sống với những con sông này từ thuở ấu
thơ. Đây là nhà tôi.
- Cậu
đã nói với tôi rằng bố cậu là một hoa tiêu đường sông?
- Vâng,
khi tôi hãy còn là một đứa bé, tôi đã bắt đầu đi tàu với ông. Sáng sớm, khi mọi
người còn ngủ ông cho phép tôi lái tàu. Tôi đã biết tất cả con sông chính ở
vùng này khi tôi mới lên mười.
- Và
bố cậu đã chết trên sông.
- Không
phải sông này, mà trên sông Taquiri, ở phía đông. Lúc đó ông đang lái một chiếc
thuyền chở du khách Đức thì bị một cơn bão lớn quật đắm thuyền. Chỉ còn mỗi một
thủy thủ sống sót.
- Chuyện
ấy xảy ra bao lâu rồi?
- Năm
năm trước đây.
Luôn
luôn là một luật sư của các vụ kiện tụng, Nate có cả hàng tá câu hỏi nữa về sự
cố. Anh muốn nắm rõ các chi tiết - những chi tiết giúp người ta thắng kiện.
Nhưng anh nói: “Tôi xin lỗi” và để câu chuyện diễn tiến tự nhiên.
- Họ
muốn phá hủy vùng Pantanal, - Jevy nói.
- Họ
là ai?
- Nhiều
loại người lắm. Những công ty lớn sở hữu những trang trại lớn. Họ đang khai
quang nhiều vùng đất rộng, về hướng bắc và hướng đông của Pantanal, để lập các
trang trại. Thu hoạch chính là đậu nành. Họ muốn xuất khẩu mặt hàng nông sản
này. Họ càng khai quang rừng thì càng phá vỡ thế cân bằng sinh thái của vùng
Pantanal. Các lớp trầm tích mỗi năm càng dày lên trên các đáy sông. Thổ nhưỡng
của các trang trại không được phì nhiêu lắm, thế là các công ty dùng rất nhiều
thuốc xịt và phân bón để tăng sản lượng các vụ mùa. Thế là chúng tôi phải hứng
chịu các hóa chất. Nhiều trang trại lớn xẻ các dòng sông để tạo nên những bãi
chăn thả gia súc mới. Điều này làm đảo lộn chu kì lũ. Còn thủy ngân đang giết dần
các loài cá của chúng tôi.
- Làm
thế nào mà thủy ngân lại đến nơi đây?
- Khai
thác khoáng sản. Về hướng bắc, họ đang khai thác vàng bằng cách dùng thủy ngân.
Thủy ngân thải ra chảy xuống sông, các con sông cuối cùng đều chảy về vùng
Pantanal. Cá bị nhiễm độc thủy ngân và chết. Mọi thứ phế thải đổ dồn về
Pantanal. Corumbá là một thành phố có cả triệu dân ở phía đông, nhưng không có
hệ thống xử lí chất thải. Ông cũng đoán được là hệ thống thoát nước bẩn và chất
thải của nó đưa về đâu.
- Chính
quyền không làm gì để cải thiện sao?
Jevy
cười cay đắng:
- Ông
có nghe nói về dự án Hidrovia?
- Không.
- Đó
là một con kênh lớn, cắt ngang vùng Pantanal. Theo dự tính, nó sẽ nối liền
Brazil, Bolivia, Paraguay, Argentina và Uruguay. Nó được coi là sẽ cứu cho Nam
Mỹ. Nhưng nó sẽ rút hết nước vùng Pantanal. Và chính quyền của chúng tôi đang hỗ
trợ dự án đó.
Nate
sắp sửa muốn nói điều gì đó về trách nhiệm đối với môi trường, rồi sực nhớ rằng
đồng bào của mình chính là những kẻ tham lam năng lượng nhất thế giới.
- Dầu
sao, Pantanal vẫn còn đẹp, - anh nói lảng ra.
- Vâng,
- Jevy uống cạn ly cà phê. - Đôi khi tôi nghĩ vì nó quá rộng lớn nên họ chưa hủy
hoại nổi.
Họ
đi qua một tiểu đảo hẹp nơi đó có nhiều nước đổ vào sông Paraguay. Một đàn mấy
con nai lội ngang dòng nước lũ, thong thả nhá mấy dây leo xanh, không để ý gì đến
tiếng động từ dòng sông. Bảy con nai, hai con điểm lốm đốm màu nâu vàng nhạt.
- Vài
giờ nữa chúng ta sẽ gặp một điểm buôn bán nhỏ, - Jevy nói. - Có lẽ chúng ta sẽ
đến đó trước khi trời tối.
- Chúng
ta sẽ mua sắm những gì?
- Chắc
là không có gì, tôi đoán vậy. Chủ tiệm là Fernando, ông ta nghe mọi tin tức
trên sông. Có thể ông ta biết đôi điều gì đó về các đoàn truyền giáo.
Jevy
hắt cặn cà phê trong cốc xuống sông và duỗi hai tay ra.
- Đôi
khi ông ta có bán bia Carveja.
Nate
vẫn nhìn vào dòng nước.
- Tôi
nghĩ chúng ta không nên mua gì. - Jevy nói và đi xa.
Vậy
cũng tốt cho mình, Nate nghĩ. Anh uống cạn ly cà phê của mình, nhấm nháp cả những
hạt đường ở đáy cốc.
Một
chai bia màu nâu ướp lạnh, có lẽ là Antartica hay Brahma, hai hiệu bia mà anh
đã chấm là tiêu biểu cho bia Brazil. Ngon tuyệt. Một nơi xưa kia anh thường lui
tới là một quán dành cho sinh viên gần Georgetown với 120 hiệu bia ngoại trên bảng
đồ uống. Anh đã thử đủ mọi loại. Uống bia với đậu phộng rang và bạn cứ việc xả
vỏ đậu xuống sàn. Khi đám bạn bè trường Luật của anh gặp lại nhau ở thành phố
đó, họ luôn luôn họp mặt ở chính quán đó để bù khú với nhau chuyện thời sinh
viên. Bia mát lạnh thơm ngon, đậu phộng nóng giòn, bùi, thêm chút vị mặn của muối,
sàn nhà lốp bốp có tiếng vỏ đậu khi bạn dẫm chân lên, còn các cô gái thì trẻ
trung, tươi tắn và sẵn sàng cho bạn nếu bạn vừa mắt, hợp gu nàng. Nơi chốn ấy
giờ này vẫn vậy và mỗi lần vào trung tâm cai nghiện, Nate lại nhớ đến cái lữ
quán sinh viên đó nhất.
Anh
bắt đầu đổ mồ hôi, dù lúc đó mặt trời đã lặn và một làn gió mát thổi hây hây.
Anh vùi mình trong chiếc võng và kêu cầu giấc ngủ, một giấc ngủ hôn mê, nặng nề,
giấc ngủ thật sâu để anh vượt qua được buổi hoàng hôn với những hoài niệm càng
gợi ra bao tiếc nuối u buồn để đi vào đêm tối. Mồ hôi càng tuôn làm ướt đẫm cả
áo. Anh bắt đầu đọc một quyển sách về sự lụi tàn của những thổ dân Da đỏ ở
Brazil và cố gắng chìm dần vào giấc ngủ.
Anh
bị đánh thức dậy khi máy tàu được hãm xuống và chiếc thuyền cặp sát vào bờ. Có
tiếng nói lao xao rồi một và chạm nhẹ khi họ bỏ neo ở điểm mua bán. Nate chậm
chạp rời khỏi võng và quay lại ngồi vào băng ghế.
Đó
là một hàng quán ở chốn hẻo lánh, được dựng trên những cây cột đóng xuống nước,
vách gỗ không sơn, mái tôn, và một khung cửa hẹp nơi đó mấy người dân địa
phương đang ngồi hút thuốc, uống trà. Một con sông nhỏ hơn vòng phía sau nhà rồi
khuất dần nơi xa xa. Một bồn chứa nhiên liệu lớn choán ngang một mé nhà.
Một
cầu tàu mỏng mảnh xuống sông để neo thuyền. Jevy và Welly cẩn thận đi dọc theo
cầu tàu vì nước bên dưới đang chảy xiết. Họ chào hỏi và tán gẫu năm ba câu với
mấy pantaneiros rồi đi qua cửa.
Nate
đã tỏ ý muốn ở lại trên tàu. Anh đi đến đầu boong phía kia, ngồi trên băng ghế
đối diện, thòng tay và chân qua thanh chắn và nhìn toàn bộ độ rộng lớn của dòng
sông trôi qua. Anh muốn ngồi trên boong, trên ghế, tay chân khóa vào thanh chắn.
Dầu có chai bia mát lạnh hấp dẫn đến đâu cũng không thể lôi kéo anh ra khỏi nơi
đây.
Một
chuyến du lịch Brazil, nhất là trên các con sông, thật là đặc biệt đáng nhớ.
Jevy
mua ba mươi gallon dầu diesel để thay thế cho lượng dầu bị mất trong cơn bão.
Máy tàu lại khởi động.
- Fernando
nói có một nhà truyền giáo nữ đang sống với người Da đỏ. - Jevy đưa cho anh một
chai nước lạnh. Họ lại lên đường tiếp tục hành trình.
- Ở
đâu vậy?
- Ông
ta không chắc lắm. Về phía bắc, có vài khu định cư, gần biên giới Bolivia.
Nhưng người Da đỏ không di chuyển trên sông, nên ông ấy cũng không biết gì nhiều
về họ. Sáng mai chúng ta sẽ đến gần nơi đó. Nhưng chúng ta không thể đi bằng
tàu này được mà phải dùng xuồng nhỏ.
- Coi
bộ vui đấy.
- Ông
còn nhớ Marco, người chủ trang trại có con bò bị máy bay chúng ta cán chết?
- Chắc
chắn là nhớ. Ông ta có ba thằng nhóc.
- Đúng
rồi. Hôm qua ông ấy đến đây, - Jevy nói vừa chỉ vào quán hàng đang khuất dần sau
khúc sông cong. - Ông ấy đến đây mỗi tháng một lần.
- Mấy
thằng nhóc có đi theo ông ta không?
- Không,
cho con nít đi theo là nguy hiểm lắm.
Đúng
là một thế giới khép kín. Nate hi vọng mấy chú nhóc tiêu được số tiền mà anh đã
cho chúng vào dịp Giáng Sinh. Anh còn nhìn vào cái quán cho đến khi khỏi tầm
nhìn.
Có lẽ
khi quay về anh sẽ thấy khỏe và vui hơn để ghé quán đó và làm vài chai bia lạnh.
Chỉ vài chai thôi để ăn mừng cuộc viễn chinh thành công. Anh lui về với sự an
toàn của chiếc võng và tự rủa mình về sự yếu đuối vừa rồi. Trong chốn hoang vu
của vùng đầm lầy mênh mông, anh đã tiếp cận với rượu và trong nhiều giờ liền tư
tưởng của anh không còn nghĩ đến gì khác. Dự tưởng, sợ hãi, đổ mồ hôi và rồi kế
hoạch để uống một chầu. Rồi đến gần, thoát ra, và bây giờ dư vị của hoang tưởng
tái tạo khúc tình ca với rượu. Uống chút chút cũng tốt thôi bởi nó sẽ giúp anh ngưng
lại quá trình ám ảnh. Đấy vẫn thường là lời nói dối hào nhoáng của anh.
Anh
đúng là một tên nghiện rượu và nghiện ma túy khó mà chữa dứt. Bao nhiêu lần cai
nghiện với phí tổn cả ngàn đô mỗi ngày, vậy mà kết quả vẫn cứ rất là tạm bợ,
cơn tái nghiện vẫn cứ treo lơ lửng và sẽ chụp bắt anh lại bất cứ lúc nào.
Những
cơn nghiện tóm bắt lấy anh và sự tuyệt vọng vây quanh Nate. Anh trả tiền cho
chiếc thuyền này, Jevy làm việc cho anh. Nếu anh bảo họ quay lại cái quán đó, họ
sẽ làm theo. Anh có thể mua tất cả số bia Fernando có, đem chất phía dưới
boong, ướp đá, và nhâm nhi bia Brahma suốt trên đường đến Bolivia. Và chẳng có
ai làm gì anh về chuyện này cả.
Như
một ảo ảnh, Welly xuất hiện với một nụ cười và một ly cà phê đá.
- Mời
ông, - cậu ta nói. - Tôi sắp dọn bữa ăn tối cho ông đây.
Thức
ăn sẽ giúp ích nhiều, Nate nghĩ. Dù chỉ là một khẩu phần cơm đậu đen với gà luộc.
Thức ăn sẽ thỏa mãn vị giác của anh, hoặc ít nhất cũng xua sự chú ý của anh khỏi
những thèm thuồng khác.
Anh
ăn chậm rãi, ở boong trên, một mình trong bóng đêm, vừa luôn tay xua muỗi khỏi
mặt mình. Khi ăn xong, anh xịt thuốc chống muỗi từ cổ đến chân. Cú chộp bắt của
cơn ghiền đã trượt qua, chỉ còn những dư chấn nhẹ còn vờn lấy anh. Anh không
còn có thể thưởng thức bia hay ngửi mùi lạc rang từ quán sinh viên mình yêu
thích nữa.
Anh
lui về thánh đường của mình. Trời mưa trở lại, một cơn mưa lặng lẽ, không gió,
không sấm. Josh đã gởi theo bốn quyển sách để anh đọc cho vui. Tất cả các bản
tóm tắt và ghi chú đều đã được đọc đi đọc lại rồi. Không còn gì ngoài mấy quyển
sách. Anh đã đọc được một nửa quyển sách dày nhất.
Anh
cuộn mình trong chiếc võng và đọc tiếp quyển sử đau thương của người bản địa ở
Brazil.
Khi
nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Pedro Alvares Cabral lần đầu tiên đặt chân lên đất
Brazil, trên bờ biển Bahia, vào tháng Tư năm 1500, cả xứ Brazil có khoảng năm
triệu người Da đỏ, rải rác trong khoảng chín trăm bộ lạc. Họ nói 1.175 ngôn ngữ
khác nhau, và trừ những vụ đụng độ nhỏ vẫn thường xảy ra giữa các bộ lạc, nói
chung họ là những con người hiếu hòa.
Sau
năm thế kỉ được “Khai hóa” bởi người Âu, số người bản địa đã giảm sút trầm trọng.
Chỉ còn khoảng 270.000 người sống sót, trong 206 bộ lạc, sử dụng 170 ngôn ngữ.
Chiến tranh, tàn sát, nô lệ hóa, chiếm đoạt đất đai, dịch bệnh - không có
phương pháp diệt chủng nào mà những con người tự xưng là văn minh bỏ qua.
Thật
là những trang sử đau thương, thảm khốc. Nếu người Da đỏ hiếu hòa và cố gắng hợp
tác với bọn thực dân, thì họ sẽ nhiễm những chứng bệnh kì lạ: bệnh đậu mùa, ban
đỏ, sốt vàng da, lao… mà họ không có cách nào để phòng vệ. Nếu họ không hợp
tác, họ bị tàn sát bởi bọn người sử dụng những vũ khí tinh vi và hữu hiệu hơn
cung tên và lao tẩm thuộc độc của họ nhiều. Khi họ chống trả và giết những kẻ tấn
công họ, họ bị gán cho cái tên gọi là bọn man rợ.
Họ bị
biến thành nô lệ bởi những công ty khai khoáng, đám chủ trang trại, chủ đồn điền
cao su. Họ bị xua đuổi khỏi nơi ở của tổ tiên họ truyền lại từ bao đời bởi bất
cứ nhóm nào có đủ súng đạn. Họ bị thiêu sống trên giàn hỏa bởi đám thầy tu, bị
săn đuổi bởi quân đội và những băng cướp, bị hãm hiếp tùy ý bởi bất kì một tên
đàn ông động dục nào và bị tàn sát vô tội vạ. Vào bất kì thời điểm nào trong lịch
sử, dầu nghiêm trọng hay vô nghĩa, khi quyền lợi của người bản xứ Brazil xung đột
với quyền lợi của dân Da trắng thì người Da đỏ cũng đều bị thua thiệt.
Họ
thua thiệt trong suốt năm trăm năm và họ chẳng còn trông mong gì nhiều ở đời sống.
Vấn
đề lớn nhất gây nhức nhối trong các bộ lạc Da đỏ hiện nay là nạn tự tử trong lớp
trẻ của họ.
Sau
hàng bao thế kỉ thi hành chính sách diệt chủng, chính quyền Brazil cuối cùng
quyết định đã đến lúc cần bảo vệ “những người hoang dã tốt lành” của mình. Những
cuộc tàn sát diệt chủng ngày nay bị quốc tế lên án, thế là có những cơ quan đặc
trách “phát triển sắc tộc” được lập ra, những luật lệ “bảo vệ quyền lợi người bản
địa” được thông qua. Với sự khoa trương tự-cho-là-chính-đáng, một số đất đai của
các bộ lạc được long trọng tuyên bố trả về cho người bản địa và những đường
ranh được vẽ ra trên các bản đồ của chính phủ, công bố những khu an toàn dành
cho người Da đỏ.
Nhưng
chính phủ cũng chính là kẻ thù. Năm 1967, một cuộc điều tra đối với Cục Đặc
Trách Bản Địa Sự Vụ đã gây nhức nhối lương tâm cho phần lớn người dân Brazil. Bản
tường trình tiết lộ rằng những nhân viên của chính Cục này, những chủ đầu tư đất
đai và trang trại - những kẻ ác ôn hoặc làm việc cho Cục hoặc đủ thế lực và tiền
bạc khiến Cục làm việc cho họ - đã sử dụng có hệ thống những vũ khí hóa học và
vũ khí vi trùng để càn quét người Da đỏ. Họ phát quần áo có chứa mầm bệnh đậu
mùa và bệnh lao cho người Da đỏ. Dùng máy bay, nhất là loại trực thăng, họ rải
lên các làng mạc, đất đai của người Da đỏ những loại vi khuẩn gây bệnh chết người.
Còn
trong vùng lòng chảo Amazon và các vùng biên giới khác, đám trại chủ và đám
khai thác mỏ chẳng coi các đường ranh biên giới có nghĩa lí gì.
Năm
1986, một trại chủ ở Rondônia dùng các loại nông cơ để rải những chất hóa học độc
hại lên những vùng đất của người Da đỏ ở gần trang trại của y. Y muốn lấy đất để
mở rộng trang trại, nhưng trước hết phải loại trừ cư dân trên đó. Ba mươi người
Da đỏ chết, thế mà tên trại chủ chẳng hề bị truy tố. Năm 1989, một trại chủ ở
Mato Grosso treo giải thưởng cho những kẻ săn tiền thưởng nếu đem về những lỗ
tai của người Da đỏ bị giết. Năm 1993, những người đào vàng ở Manaus tấn công một
bộ lạc hiền lành chỉ bởi vì họ không chịu bỏ đất đai của mình để đi nơi khác.
Mười ba người Da đỏ bị giết, nhưng chẳng có ai bị bắt hay truy tố.
Trong
những năm 1990 chính quyền đã tìm cách mở cửa vùng lòng chảo Amazon, một vùng đất
rất giàu tài nguyên thiên nhiên, về phía bắc vùng Pantanal. Nhưng người Da đỏ vẫn
còn trên vùng đất đó. Đa số những kẻ sống sót hiện ngụ ở vùng lòng chảo, trong
thực tế, người ta ước lượng rằng có khoảng năm mươi bộ lạc sống trong rừng rậm
đã đủ may mắn để thoát khỏi sự tiếp xúc với văn minh.
Giờ
đây “văn minh” lại tiếp tục tấn công. Sự lạm dụng người Da đỏ càng lớn khi đám
khai thác mỏ, khai thác gỗ và đám trại chủ len lỏi sâu hơn vào vùng Amazon, với
sự tiếp tay của chính quyền.
Những
trang sử mê hoặc và cũng làm bủn rủn tinh thần. Nate đọc một mạch trong bốn giờ
liền không nghỉ cho đến trang cuối cùng.
Sau
đó anh đến buồng lái và uống càphê với Jevy. Mưa đã dứt hạt.
- Sáng
mai chúng ta đến được đó chưa? - anh hỏi.
- Tôi
nghĩ vậy, - Jevy đáp.
Các
luồng ánh sáng từ trên tàu lắc lư nhẹ với dòng nước. Giống như chúng đang di
chuyển một cách khó khăn.
- Cậu
có mang chút dòng máu Da đỏ không? - Nate hỏi, sau một hồi do dự. Đó là một
chuyện riêng tư, một vấn đề mà ở Mỹ không ai dám hỏi người khác.
Jevy
cười, mắt không rời khỏi dòng sông.
- Tất
cả chúng tôi đều có mang dòng máu Da đỏ trong người. Sao ông hỏi vậy?
- Tôi
vừa đọc xong cuốn sử về người Da đỏ ở Brazil.
- Vậy
ông nghĩ gì?
- Những
trang sử bi thảm.
- Đúng
vậy. Ông có nghĩ là ở đây người Da đỏ bị đối xử tồi tệ?
- Tất
nhiên là vậy.
- Thế
ở xứ ông thì sao?
Nate
nghĩ ngay đến thỏa ước mà Đại tướng Custer đã kí với các thủ lĩnh Da đỏ. Ít ra
người Da đỏ cũng có được một số quyền lợi. Người Mỹ không đốt người Da đỏ trên
giàn hỏa thiêu, không xịt các hóa chất vào họ, không biến họ thành nô lệ. Phải
vậy không? Chúng tôi cũng dành cho họ nhiều vùng đất rộng lớn, ở nhiều nơi.
Thế
nhưng anh không muốn tạo ra cuộc tranh luận chẳng hay ho gì. Anh nói xuôi:
- Tôi
e rằng cũng chẳng tốt lành hơn mấy tí.
Sau
một khoảng lặng khá lâu, Nate xuống phòng toilet. Xong việc, anh kéo sợi dây
bên trên và đi ra. Nước sông màu nâu nhạt chảy vào bồn cầu tiêu, lùa các chất
phế thải vào một cái ống rồi đẩy thẳng xuống sông.
-------------
Còn tiếp...
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét