Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Bản chúc thư - Ch 28

Bản chúc thư

Tác giả: John Grisham
Người dịch: Phan Quang Định
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2/2011

Chương 28

Sau chín giờ ngủ nghỉ, người Ipicas thức dậy trước rạng đông để bắt đầu một ngày mới. Đám phụ nữ nhóm lửa bếp bên ngoài lều, rồi kéo lũ nhóc ra sông để lấy nước và tắm rửa. Như một qui luật, họ phải đợi tia sáng đầu tiên mới đi vào mấy con đường mòn. Phải thận trọng xem phía trước có gì chắn ngang đường không.
Trong tiếng Bồ, con rắn được gọi là urutu. Người Da đỏ gọi rắn là bima. Trên các thủy lộ ở miền Nam Brazil, gặp rắn là chuyện thường mà phần lớn lại là rắn độc, cắn chết người. Bé gái có tên là Ayesh, bảy tuổi, được nhà nữ truyền giáo Da trắng giúp chào đời. Ayesh lon ton chạy trước mẹ mình thay vì theo thông lệ phải đi theo sau và con bé đã dẫm lên con rắn bằng chân trần.
Con rắn mổ vào dưới mắt cá chân của bé khi nó la lên. Lúc bố nó đến ẵm nó, nó ngất đi và chân phải sưng phù lên to gấp đôi bình thường. Một cậu bé mười lăm tuổi, chạy nhanh nhất trong bộ lạc được gửi đi tìm Rachel.
Có bốn khu dân cư nhỏ của người Ipicas dọc theo hai con sông gặp nhau ở một khúc quanh rất gần chỗ mà Jevy và Nate đã ngừng lại. Khoảng cách từ chỗ ngã ba sông đến căn lều cuối cùng của người Ipicas không quá năm dặm. Các khu dân cư biệt lập nhau và là những bộ lạc nhỏ tự túc, nhưng họ đều là người Ipicas, có chung ngôn ngữ, di sản văn hóa và tập tục. Họ giao thiệp và kết hôn với nhau.
Ayesh sống trong khu dân cư thứ ba, kể từ chỗ ngã ba sông. Rachel ở khu thứ nhì, khu rộng nhất. Cậu thiếu niên chạy đưa tin gặp cô lúc cô đang đọc Kinh Thánh trong túp lều nhỏ, nơi cô đã sống trong mười một năm trời. Cô vội vàng kiểm tra lại túi dụng cụ y tế và thuốc men rồi đi ngay theo cậu bé.
Trong phần đất này của vùng Pantanal có bốn loại rắn độc và thường Rachel vẫn có thuốc chống nọc cho mỗi loại. Nhưng lần này thì không. Cậu thiếu niên bảo với cô đó là một con bima. Thuốc chống nọc rắn đó được một công ty được Brazil sản xuất nhưng cô đã không tìm được loại đó trong chuyến đi Corumbá vừa qua. Các hiệu thuốc ở đó có không được một nửa những thứ thuốc cô cần.
Cô buộc dây đôi bốt bằng da và xách túi thuốc ra đi. Lako và hai thiếu niên khác đến đón cô khi cô chạy bộ qua những đám cỏ cao, vào trong rừng.
Theo những số liệu thống kê của Rachel, có tám mươi sáu phụ nữ trưởng thành, tám mươi mốt đàn ông trưởng thành và bảy mươi hai trẻ con trong bốn khu dân cư, tổng số là 239 người Ipicas. Mười một năm trước đây họ có 280 người. Cứ vài năm thì bệnh sốt rét mang đi những người yếu nhất. Một trận dịch tả giết chết hai mươi người vào năm 1991. Nếu Rachel không quyết tâm thực hiện việc tiêm ngừa cho họ thì phần lớn người Ipicas đã bị xóa sổ.
Với sự cần mẫn của một nhà nhân chủng học, cô lập sổ ghi chép việc sinh tử, đám cưới, cây gia tộc, bệnh tật và cách chữa trị. Trong đa số trường hợp cô biết được ai đang ngoại tình với ai. Cô biết tên mỗi người trong làng. Cô đã rửa tội cho bố mẹ của Ayesh nơi dòng sông mà họ thường ra tắm rửa.
Ayesh nhỏ nhắn, ốm yếu, và có lẽ sẽ chết bởi vì không có thuốc chống nọc. Ở Mỹ, thuốc men lúc nào cũng có sẵn, cũng như ở các thành phố lớn của Brazil và không quá mắc. Ngân sách nho nhỏ của cô do World Tribes rót cho, đủ để trang trải những chi phí đó. Chỉ cần ba mũi tiêm trong vòng sáu tiếng và thế là thoát chết. Nếu không, người bị rắn cắn sẽ bị nôn mửa dữ dội, rồi bị hành sốt, tiếp theo là hôn mê, rồi chết.
Đã ba năm rồi người Ipicas mới thấy một trường hợp chết vì rắn cắn. Và đây là lần đầu trong mấy năm nay, Rachel không có thuốc chống nọc.
Bố mẹ của Ayesh đã theo Cơ-đốc-giáo, những tín đồ tân tòng của một tôn giáo mới. Nhờ vào việc làm thiện nguyện của Rachel và những vị tiền nhiệm, mà một nửa số dân Ipicas đã biết đọc và viết.
Cô cầu nguyện trong khi chạy theo sau mấy thiếu niên. Cô mảnh mai nhưng rắn chắc và dẻo dai. Cô thường đi bộ hàng chục dặm mỗi ngày và ăn rất ít. Người Da đỏ cũng thán phục sức bền của cô.
Jevy đang tắm rửa trong sông khi Nate ở cái bao chống muỗi và chun ra khỏi lều. Anh vẫn còn mang nhiều vết bầm từ vụ rơi máy bay. Việc ngủ trong xuồng rồi trên đất không giúp gì mấy để giảm đau. Anh đứng lên duỗi thẳng lưng và chân tay và cảm thấy đau ê ẩm khắp người, thấm thía từng năm tháng của bốn mươi tám cái xuân xanh. Anh thấy Jevy đang ngâm mình trong nước có vẻ trong hơn nước của những nơi khác trong vùng Pantanal.
Ta tàn đời rồi, Nate nhủ thầm với mình. Lại phải đói khát nữa. Chẳng có thứ gì. Anh bóp mạnh các đầu ngón chân và tổng kết cái kho vật liệu ít ỏi đáng buồn của mình.
Đây là một cuộc phiêu lưu mà! Trong khi đó, đây lại là thời điểm cho mọi luật sư đi vào năm mới với quyết tâm giành được nhiều giờ biện hộ hơn, thắng nhiều vụ kiện lớn hơn, giành được phần lớn hơn, đem về nhà nhiều tiền hơn. Trong bao nhiêu năm anh đã ước nguyện những điều đó, thế mà bây giờ anh thấy chúng rõ là vớ vẩn, chẳng ý nghĩa gì.
Với một chút may mắn, anh sẽ ngủ trong võng tối nay, đong đưa trong làn gió mát, nhâm nhi ly cà phê thơm ngon. Nate nhớ mình chưa từng bao giờ lại thèm cơm đậu đen đến thế.
Jevy quay lại trong khi có một người tuần canh Da đỏ đến từ ngôi làng. Tù trưởng muốn gặp mặt họ.
- Ông ta muốn mời bọn mình ăn bánh mì, - Jevy nói lúc họ đi đường.
- Có bánh mì để ăn thì đã quá. Hỏi xem họ có thịt xông khói và trứng tráng không?
- Có, mà là thịt khỉ nướng mọi, ông xơi được không?
Hình như cậu ta không nói đùa. Ở bìa làng, một nhóm trẻ con đứng đợi để nhìn mấy vị khách lạ. Nate cười làm thân với mấy cô cậu nhỏ. Chưa bao giờ anh cảm thấy mình trắng đến thế. Vài phụ nữ trần truồng trố mắt nhìn anh, từ túp lều thứ nhất. Khi anh và Jevy đi vào khu công cộng lớn, mọi người dừng lại, nhìn chằm chằm.
Những đống lửa nhỏ được đốt lên, bữa ăn sáng đã xong. Khói lan ra như sương mù trên các mái nhà và làm cho không khí ẩm càng lầy nhầy hơn. Chỉ mới có mấy phút sau bảy giờ sáng nhưng trời đã rất nóng.
Tay “kiến trúc sư” của buôn làng đã “qui hoạch” khá tỉ mỉ. Mỗi căn nhà đều hoàn toàn vuông vức với một mái ra thật dốc, gần chạm mặt đất. Vài nhà lớn hơn những nhà khác nhưng thiết kế không hề thay đổi. Mọi căn nhà quay vòng khu dân cư thành một vòng bầu dục, tất cả hướng về một khu đất bằng phẳng - đó là quảng trường của buôn làng. Ở trung tâm là bốn kiến trúc lớn - hai cái hình tròn và hai cái hình chữ nhật - tất cả đều có mái bằng rạ thật dày.
Thủ lĩnh đang đợi họ. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu như chỗ ở của “lãnh đạo” là căn nhà lớn nhất của buôn làng. Và ông ta là người Da đỏ cao to nhất. Ông ta còn trẻ, chưa có những nếp nhăn hằn sâu trên trán và cái bụng bự mà những người già hơn lấy làm tự hào. Ông ta đứng đó và nhìn Nate bằng một tia nhìn có thể khiến John Wayne (một diễn viên điện ảnh danh tiếng chuyên đóng vai người hùng “cao-bồi” đánh nhau với các bộ lạc Da đỏ) phải ớn xương sống. Một chiến binh lão thành phụ trách phiên dịch, và trong vòng mấy phút, Nate và Jevy được yêu cầu ngồi xuống cạnh đống lửa, nơi “tù trưởng phu nhân”, trần truồng, đang sửa soạn làm bữa điểm tâm để vị nguyên thủ khoản đãi quốc khách.
Khi bà ta cúi xuống, cặp vú đong đưa và chàng Nate khốn khổ không thể không nhìn, dù chỉ vài giây. Không có gì đặc biệt gợi dục nơi đàn bà trần truồng hay nơi bộ ngực của “nàng”. Chỉ có sự kiện đáng nói là dù trần truồng như thế “nàng” vẫn tỏ ra rất ư là vô tư về tình trạng đó của mình.
Chiếc máy ảnh của anh để đâu rồi nhỉ? Mấy anh chàng ở văn phòng sẽ không bao giờ tin nếu không có bằng chứng.
Bà ta đưa cho Nate một cái đĩa bằng gỗ đựng thứ thức ăn giống như là khoai luộc. Anh liếc nhìn Jevy, cậu ta nhanh nhẹn gật đầu làm ra vẻ thành thạo về nghệ thuật ẩm thực Da đỏ lắm lắm. Phu nhân phục vụ cho chồng sau cùng và khi ông dùng mấy ngón tay để bốc thức ăn, Nate cũng bắt chước làm theo. Đó là một hỗn hợp gồm củ cải và khoai lang đỏ không có mùi vị rõ ràng, ăn chẳng ngon nhưng cũng không quá dở.
Jevy trổ tài lợi khẩu trong khi ăn và thủ lĩnh tỏ ra khoái chí với cuộc đối thoại. Sau vài câu, Jevy lại dịch nội dung sang tiếng Anh, bằng lối phiên dịch rất thoáng! (đại thể là… biến tấu theo ngẫu hứng, có ai biết đấy vào đâu!)
Buôn làng này, không bao giờ bị ngập nước. Họ đã ở đó hơn hai mươi năm. Đất đai rất tốt. Họ thích định cư, nhưng nếu gặp chỗ đất cằn cỗi, bạc màu thì họ bắt buộc phải du canh du cư. Bố của thủ lĩnh cũng là thủ lĩnh trước đây. Cha truyền con nối. Thủ lĩnh, theo lời của thủ lĩnh, là người khôn ngoan nhất, anh minh sáng suốt nhất, cái gì cũng nhất so với toàn thể bàn dân thiên hạ, nhưng có điều khổ là không được ngoại tình, lăng nhăng. Phần lớn những người đàn ông khác đều có thêm những cuộc tình lẻ, nhưng thủ lĩnh là phải nghiêm chỉnh về khoản đó. Kể làm vua mà như vậy cũng… buồn!
Nate nghĩ rằng chẳng có chuyện gì khác để bàn hơn là tán nhăng tán cuội. Rõ phí thì giờ.
Thủ lĩnh chưa từng thấy sông Paraguay. Ông ta thích đi săn hơn là đi câu, do vậy ông dành nhiều thời gian ở trong rừng hơn là trên các con sông. Ông đã học tiếng Bồ căn bản từ bố ông và từ các nhà truyền giáo da trắng.
Nate vừa ăn vừa nghe, vừa trông ngóng hình bóng của Rachel. Cô không có mặt ở buôn làng này, thủ lĩnh giải thích. Cô đang ở buôn làng kế bên để chăm sóc cho một bé gái bị rắn cắn. Ông không chắc khi nào cô sẽ quay về.
Lạ thật đấy, Nate chua chát nghĩ.
- Ông ấy muốn chúng ta ở lại đây tối nay, trong buôn làng này, - Jevy nói.
Phu nhân lại tiếp thêm thức ăn vào đĩa cho khách.
- Không biết chúng ta có ở lại không? - Nate nói.
- Ông ấy bảo chúng ta ở lại.
- Nói với ông ấy để tôi còn suy nghĩ về chuyện ấy.
- Ông nói với ông ta đi.
Nate tự rủa mình đã không chịu đem theo cái Satfone. Chắc chắn giờ này Josh đang đi tới đi lui trong văn phòng của ông ta, rầu rĩ muốn phát ốm. Hầu như cả tuần nay họ chưa nói chuyện với nhau.
Jevy nói một điều gì đó hơi hài hước khi dịch ra trở thành thật buồn cười. Thủ lĩnh khoái trá cười rú lên, và tiếng cười thật dễ lây, chẳng mấy chốc mọi người khác cùng cười theo. Kể cả chàng Nate, cũng tự cười mình vì đang cười hôi với đám người Da đỏ, dầu chẳng hiểu mô tê gì cũng cười hùa theo để làm thân!
Họ từ chối lời mời đi săn. Một đám tuần canh gồm mấy thanh niên dẫn họ quay trở lại buôn làng đầu tiên, về chiếc xuồng máy của họ, Jevy lại lau chùi mấy cái bugi và đánh vật với cái các-buya-ra-tơ. Nate chẳng có việc gì khác để làm.
* * *
Luật sư Valdir nghe cuộc gọi sớm của ông Stafford. Những câu nói đùa chỉ diễn ra có vài giây.
- Nhiều ngày qua tôi chưa nghe được gì về Nate O’Riley, - Stafford nói.
- Nhưng ông ấy có cái điện thoại cực kì hiện đại cơ mà, - Valdir nói, trong tư thế phòng vệ, làm như ông ta có bổn phận bảo vệ ông O’Riley.
- Đúng, anh ấy có. Nhưng chính điều đó càng làm tôi lo, bởi vì anh ta có thể gọi bất kì lúc nào, bất kì ở đâu, thế mà…
- Cái điện thoại đó sử dụng được trong thời tiết xấu không?
- Không. Tôi nghĩ là không.
- Tuần qua ở đây có nhiều cơn bão lắm. Vì là đang mùa mưa mà.
- Anh cũng không nghe gì từ cậu hướng dẫn viên à?
- Không. Hai người đó đi cặp với nhau. Tay hướng dẫn này rất tháo vát. Chiếc thuyền cũng rất tốt. Tôi chắc là họ bình yên, không sao đâu.
- Nếu vậy tại sao anh ta không gọi điện liên lạc?
- Tôi chịu, không biết trả lời ông sao. Nhưng cả tuần qua trời u ám. Có lẽ anh ấy không thể sử dụng điện thoại.
Họ nhất trí rằng Valdir sẽ gọi ngay nếu nghe được tin tức gì về Nate. Valdir đi đến cái cửa sổ mở và nhìn vào các đường phố nhộn nhịp của Corumbá. Sông Paraguay vừa đổ xuống khỏi ngọn đồi. Biết bao câu chuyện về hàng đoàn người đi vào vùng Pantanal và không bao giờ quay về. Đó là một phần của truyền thuyết và cũng là sức cám dỗ mê hoặc.
Bố của Jevy đã lái tàu sông trong ba mươi năm và thân xác ông ấy chẳng bao giờ tìm thấy.
* * *
Welly tìm ra văn phòng luật sư sau một giờ về đến Corumbá. Chú ta chưa từng gặp ông Valdir, nhưng biết, qua Jevy, rằng ông luật sư này trả tiền cho chuyến đi.
- Tôi có chuyện rất quan trọng muốn thưa với ông luật sư, - chú bảo cô thư kí. - Chuyện khẩn cấp.
Valdir nghe chuyện ầm ĩ liền xuất hiện.
- Chú là ai? - ông hỏi.
- Cháu tên là Welly. Anh Jevy thuê cháu làm thủy thủ trên chiếc Santa Loura.
- Chiếc tàu Santa Loura!
- Vâng.
- Thế Jevy đâu rồi?
- Anh ấy còn ở vùng Pantanal.
- Còn chiếc tàu đâu rồi?
- Tàu chìm mất rồi!
Vladir nhận thấy chú bé mệt nhọc và sợ hãi.
- Ngồi xuống, - ông bảo, và cô thư kí chạy đi lấy nước uống. - Cháu hãy kể cho ta nghe mọi chuyện.
Welly bấu chặt vào hai tay vịn ở ghế ngồi và nói nhanh.
- Anh Jevy và ông O’Riley đã dùng xuồng nhỏ để đi tìm những người Da đỏ.
- Khi nào?
- Cháu không biết. Mấy ngày trước đây. Cháu ở lại với chiếc Santa Loura. Một cơn bão lớn chưa từng thấy, ập tới. Nó giật đứt phăng dây neo và kéo chiếc thuyền đi giữa đêm, rồi lật nhào chiếc thuyền giữa sông. Cháu bị ném xuống nước và sau đó được một chiếc thuyền chở gia súc vớt lên.
- Cháu về đến đây lúc nào?
- Chỉ độ hơn nửa giờ trước đây.
Cô thư kí mang đến một ly nước. Welly cám ơn cô và xin một ly cà phê. Vladir nghiêng người trên bàn giấy và nhìn chú bé tội nghiệp. Chú dơ dáy và toát mùi… bò.
- Vậy là chiếc thuyền kể như tiêu? - Vadir nói.
- Dạ. Cháu rất tiếc nhưng cháu không thể làm gì được hết. Cháu chưa từng gặp trận bão nào lớn như thế.
- Trong cơn bão thì Jevy và ông Mỹ ở đâu?
- Một nơi nào đó trên sông Cabixa. Cháu lo cho hai người đó lắm!
Vadir đi về văn phòng của mình, đóng cửa lại và quay về với cửa sổ. Ông Josh Stafford đang cách xa đây ba ngàn dặm. Jevy và Nate có thể sống sót trong một chiếc xuồng nhỏ. Chưa nên kết luận vội.
Ông quyết định không gọi trong vài ngày. Cứ để cho Jevy có thời gian, chắc chắn với tài tháo vát và khéo thích ứng, cậu ta sẽ quay về Corumbá.
* * *
Anh chàng Da đỏ đứng trong xuồng và giữ thăng bằng bằng cách bấu chặt vào vai Nate. Không có cải thiện đáng kể nào trong việc sửa chữa động cơ. Nó vẫn cứ tiếp tục khọt khẹt rồi tắt hơi và khi mở van tiết lưu hết cỡ nó vẫn chỉ đạt được một nửa sức mạnh so với lúc họ rời chiếc Santa Loura.
Họ đi qua khu định cư đầu tiên, và con sông cong queo, ngoằn ngoèo gần như xoắn thành những vòng tròn. Rồi nó chẻ ra hai nhánh, và anh chàng Da đỏ chỉ chỏ. Hai mươi phút sau, căn lều nhỏ của họ hiện ra.
Họ neo lại chỗ trước đây trong ngày Jevy đã tắm. Họ nhổ trại và thu xếp hành trang để đi vào làng, nơi thủ lĩnh đang đợi họ.
Rachel vẫn chưa quay về.
Bởi vì không phải là thành viên của bộ lạc, túp lều của cô không ở trong khu bầu dục, mà cách xa đó một trăm bộ, sát bìa rừng, lẻ loi. Trông nó nhỏ hơn bất kì túp lều nào khác và khi Jevy hỏi về chuyện này thì anh chàng Da đỏ đi theo họ giải thích là bởi vì cô không có gia đinh. Cả ba người - Nate, Jevy và chàng Da đỏ - qua hai giờ dưới bóng cây ở ven buôn làng, nhìn ngắm những sinh hoạt thường ngày trong khi chờ Rachel.
Anh chàng Da đỏ này đã học tiếng Bồ với vợ chồng Coopers, hai nhà truyền giáo đã đến đây trước Rachel. Và anh ta cũng lõm bõm vài tiếng Anh mà thỉnh thoảng anh ta thử truyền thông với Nate. Vợ chồng Coopers là những người Da trắng đầu tiên mà những người Ipicas từng thấy. Bà Cooper chết vì sốt rét và ông Cooper quay về lại nơi mà ông đã ra đi.
Những người đàn ông lớn tuổi đang đi săn hay đi câu cá, anh chàng Da đỏ giải thích cho mấy người khách, còn đám trai trẻ chắc là đang lượn lờ tìm bạn gái. Đám phụ nữ phải làm việc nặng nhọc - nấu nướng, làm bánh, dọn dẹp nhà cửa, chăm nom con cái. Nhưng lao động diễn tiến theo nhịp rất khoan thai. Nếu thời gian chuyển dịch chậm hơn ở phía nam đường xích đạo, thì nơi người Ipicas lại chẳng có đồng hồ.
Những cánh cửa chính của các căn lều vẫn mở, và trẻ con chạy từ lều này đến lều khác. Các cô thiếu nữ chải tóc trong bóng râm, trong khi các bà mẹ của họ làm việc bên các đống lửa.
Sự sạch sẽ luôn là nỗi ám ảnh. Rác, bụi ở những khu chung được quét đi bằng chổi rơm. Bên ngoài của các túp lều trông ngăn nắp, gọn ghẽ. Phụ nữ và trẻ con tắm nơi dòng sông mỗi ngày ba lần, đàn ông hai lần mỗi ngày, và không bao giờ tắm chung với đàn bà. Mọi người đều trần truồng, nhưng có vài cái đặc biệt cũng phải giữ riêng tư.
Chiều gần tôi, đám đàn ông tụ tập nơi căn nhà của quí ông, căn lớn hơn trong số hai căn hình chữ nhật ở trung tâm. Họ sửa soạn cho đầu tóc một lúc - cắt gọn, làm sạch - rồi bắt đầu vật nhau. Các cuộc đấu diễn ra theo thể thức một chọi một và các ngón chân chạm nhau, với mục tiêu là ném địch thủ xuống đất. Đó là một môn chơi thô bạo, nhưng tuân theo những luật lệ nghiêm ngặt và sau đó ai thắng ai bại cũng đều tươi cười vui vẻ với nhau. Thủ lĩnh dàn xếp mọi tranh chấp. Cánh đàn bà chỉ đứng ở cửa nhà nhìn ra thôi, tuyệt đối không được xía vào. Mấy chú nhóc thì bắt chước những động tác của các ông bố.
Còn Nate ngồi trên một đống gỗ, dưới một bóng cây, nhìn tấn tuồng đang diễn ra như ở một thời đại khác, và tự hỏi, không phải là lần đầu, mình đang ở nơi đâu.
--------------
Còn tiếp…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét