Thứ Năm, 1 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 1 - Chương 5)

Giao lộ sinh tử  

Tác giả: Dean Koontz
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 1

Tên tôi là Odd Thomas, tôi không chắc tại sao bạn lại nên quan tâm đến chuyện tôi là ai hoặc tôi có tồn tại hay không, dù rằng thời nay, tiếng tăm là điều thiêng liêng mà hầu hết mọi người đều tôn thờ.
Tôi không phải người nổi tiếng, cũng không phải con cái của người nổi tiếng. Tôi không bao giờ kết hôn với người nổi tiếng, không bao giờ để những kẻ đó đối xử tệ bạc với mình, và cũng không bao giờ hiến thận để cấy ghép vào thân thể bất kỳ người nổi tiếng nào. Hơn nữa, tôi không có khát vọng trở thành người nổi tiếng.
Tóm lại, tôi chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, theo những tiêu chuẩn trong nền tảng văn hóa của chúng ta, nền tảng khiến tạp chí People không những sẽ không bao giờ đăng một lời nào về tôi mà còn có thể cự tuyệt cả nỗ lực đăng ký đặt báo của tôi, bởi lẽ lực hút lỗ đen vũ trụ từ việc tôi không nổi tiếng có tác động mạnh đến mức đủ lôi kéo toàn bộ sự nghiệp kinh doanh của họ chôn vào quên lãng.
Tôi hai mươi tuổi. Đối với những người lớn tuổi từng trải, tôi lớn hơn đứa con nít chút đỉnh. Thế nhưng đối với trẻ con, tôi đã già dặn đủ để chúng ngờ vực, tống khứ vĩnh viễn ra khỏi cộng đồng đầy sức lôi cuốn của những người thấp bé và không để râu.
Thế nên, chuyên gia nhân khẩu học có thể kết luận rằng những người duy nhất chịu nghe tôi nói chỉ là đám thanh niên nam nữ hiện đang lênh đênh giữa đợt sinh nhật thứ hai mươi và hai mươi mốt.
Thật tình, tôi chẳng có gì để nói với lượng khán giả hạn hẹp đó. Theo kinh nghiệm của mình, tôi không quan tâm đến hầu hết những thứ mà thanh niên Mỹ hai mươi tuổi quan tâm. Trừ việc tồn tại, đương nhiên rồi.  
Tôi sống một cuộc đời khác lạ.
Nói thế không có nghĩa cuộc sống của tôi tốt đẹp hơn của các bạn. Tôi chắc chắn rằng cuộc sống của các bạn đầy ắp hạnh phúc, niềm vui, điều kỳ diệu và những nỗi sợ hãi cố hữu, nhiều như bất kỳ ai có thể ước muốn. Xét cho cùng, giống như như tôi, bạn cũng là một con người bằng xương bằng thịt, và chúng ta biết điều đó sung sướng và đáng sợ đến thế nào.
Tôi chỉ có ý nói rằng cuộc sống của tôi không bình thường. Những sự việc kỳ dị cứ đều đặn xảy ra với tôi mà không xảy ra với người nào khác thật vậy.
Chẳng hạn như tôi sẽ không bao giờ viết cuốn tự truyện này nếu không bị anh chàng nặng bốn trăm pao [1 pao (pound) = 0,454 kg] với bàn tay trái có sáu ngón bắt buộc.
Tên anh ấy là P. Oswald Boone. Mọi người gọi anh ấy là Ozzie “bé” vì bố anh, Ozzie “lớn”, vẫn còn sống.
Ozzie “bé” có một con mèo tên Terrible Chester và anh ấy rất yêu nó. Quả thực, nếu có một ngày Terrible Chester mất đi mạng sống của mình dưới bánh xe Peterbilt thì tôi e rằng trái tim to lớn của Ozzie “bé” sẽ không vượt qua được nỗi đau mất mát đó.
Về phần mình, tôi không dành nhiều tình cảm sâu sắc cho Terrible Chester chỉ bởi một lẽ, nó đã vài lần tè bậy lên giày tôi.
Lý do con mèo đó làm vậy, theo lời Ozzie giải thích nghe có vẻ lọt tai, nhưng tôi không tin vào vẻ thật thà kia. Ý tôi muốn nói tôi nghi ngờ sự chân thực của con Terrible Chester, không phải của Ozzie.  
Hơn nữa, tôi tuyệt đối không đặt niềm tin khi một con mèo tuyên bố rằng nó đã năm mươi tám tuổi. Mặc dù có ảnh làm chứng để xác thực tuyên bố trên nhưng tôi vẫn khăng khăng cho rằng điều đó không đúng.  
Vì những lí do sẽ trở nên hiển nhiên, bản thảo này không thể được công bố trong suốt quãng đời của tôi và những nỗ lực của tôi sẽ không được đền đáp bằng nhuận bút khi tôi còn sống. Ozzie “bé” gợi ý tôi nên để lại khoản tiền bản quyền cho việc nuôi dưỡng chu đáo cho con Terrible Chester, theo anh ấy thì nó sẽ sống thọ hơn tất cả chúng tôi.  
Tôi sẽ chọn người khác cho hành động từ thiện này, một đối tượng không tè bậy lên giày của tôi.  
Dù sao đi nữa, tôi không viết quyển sách này vì tiền. Tôi viết nó để lưu giữ sự minh mẫn và để khám phá xem tôi có thể thuyết phục chính bản thân rằng cuộc đời mình có mục đích và ý nghĩa, đến mức đủ để tôi vin vào đó mà tiếp tục sống không.  
Bạn đừng bận tâm: những lời huyên thuyên này sẽ không u sầu đến mức khiến bạn không thể chịu nổi. P. Oswald Boone đã nghiêm khắc ra chỉ thị cho tôi phải giữ văn phong tươi sáng.  
“Nếu em không giữ văn phong tươi sáng”, Ozzie bảo, “anh sẽ đè cái mông bốm trăm pao của mình lên người em đấy nhé, và em không muốn chết theo cách đó đâu”.  
Ozzie đang huênh hoang đó thôi. Mông anh ấy to thật, nhưng có lẽ chỉ nặng một trăm năm mươi pao là cùng. Hai trăm năm mươi pao kia phân bố khắp phần còn lại trên bộ xương khốn khổ của Ozzie.  
Thoạt đầu khi tôi tỏ ra không thể giữ giọng văn tươi sáng, Ozzie gợi ý tôi hãy đóng vai người kể chuyện đáng ngờ. Anh ấy nói: “Cách ấy hiệu quả đối với Agatha Christie trong truyện Vụ ám sát Roger Ackroyd”.  
Trong quyển truyện trinh thám dạng tường thuật nói trên, gã kể chuyện đẹp trai hóa ra lại là kẻ giết Roger Ackroyd, sự thật này được hắn che giấu người đọc đến tận phút cuối.  
Hiển nhiên tôi không phải tên sát nhân. Tôi không làm điều xấu xa gian ác phải giấu giếm bạn. Sự lập lờ đáng ngờ của tôi thể hiện ở vai trò một người kể chuyện phải vất vả vật lộn với thì của một số động từ.  
Đừng bận tâm, không lâu nữa bạn sẽ biết sự thật.  
Dù sao thì tôi cũng đang tiếp tục câu chuyện của mình. Đến sau khi con bò nổ tung, Ozzie “bé” và Terrible Chester mới nhập cuộc.  
Câu chuyện bắt đầu vào một ngày thứ Ba.  
Đối với bạn, thứ Ba là ngày bình thường tiếp theo sau thứ Hai. Đối với tôi, ngày đó cũng như sáu ngày kia, đầy ắp tiềm năng xuất hiện những điều kì bí, mạo hiểm và hãi hùng.  
Bạn nên hiểu điều đó không có nghĩa cuộc đời của tôi thật lãng mạn và huyền ảo. Quá nhiều điều thần bí sẽ chỉ gây phiền hà. Quá nhiều mạo hiểm thành ra kiệt sức. Và những nỗi hãi hùng cỏn con cứ đeo bám dai dẳng.  
Không cần đồng hồ báo thức, tôi dậy lúc năm giờ sáng thứ Ba, sau khi mơ là những nhân viên sân chơi bowling đã chết.  
Tôi không bao giờ đặt báo thức vì đồng hồ sinh học trong người tôi cực kỳ chính xác. Nếu tôi muốn thức dậy ngay năm giờ thì trước khi ngủ, chỉ cần tự nhủ với mình ba lần rằng tôi buộc phải dậy đúng bốn giờ bốn mươi lăm.  
Dù đồng hồ sinh học của tôi đáng tin cậy nhưng vì một số lý do, nó chạy chậm đi mười lăm phút. Tôi biết ra điều này nhiều năm về trước và đã quen dần.  
Suốt ba năm trời, giấc mơ về những nhân viên sân chơi bowling đã chết cứ quấy nhiễu giấc ngủ của tôi mỗi tháng một hai lần. Các tình tiết chưa cụ thể đến mức đủ để hành động. Tôi sẽ phải chờ đợi và hy vọng sự việc sáng tỏ khi chưa quá muộn. Vậy là tôi thức dậy lúc năm giờ, ngồi thừ trên giường và nói: “Miễn thứ cho con con phải phụng sự”. Đó là lời cầu nguyện buổi sáng mà bà Sugars đã dạy cho tôi khi còn bé xíu.  
Pearl Sugars là bà ngoại của tôi. Nếu bà là bà nội thì tên tôi đã là Odd Sugars, như vậy càng khiến cuộc đời tôi rối rắm thêm.
Bà ngoại Sugars tin vào chuyện mặc cả với Thượng đế, bà gọi Người là “nhà buôn thảm già nua”.
Trước mỗi ván bài xì phé, bà hứa hẹn với Thượng đế sẽ truyền bá lời dạy cho Người hoặc chia sẻ khoản tiền rủng rỉnh có được cho những đứa trẻ mồ côi, nếu Người cho bà thắng cuộc. Suốt cuộc đời bà, tiền thắng bài luôn là một nguồn thu đáng kể.  
Là một phụ nữ nghiện rượu với vô vàn sở thích ngoài chuyện chơi bài, bà Sugars không phải lúc nào cũng dành nhiều thời gian truyền bá lời của Thượng đế như đã hứa. Bà tin Thượng đế thường đoán được thể nào cũng bị lừa và sẽ khoan dung độ lượng chuyện đó.  
Bà nói bạn có thể lừa bịp Thượng đế và thoát tội với điều kiện bạn làm như vậy với sức hấp dẫn và khiếu hài hước. Nếu bạn sống trên đời với trí tưởng tượng và lòng nhiệt huyết, Thượng đế sẽ nhập cuộc để xem điều cực kì thú vị tiếp theo bạn thể hiện là gì.  
Người cũng sẽ loại bạn ra khỏi cuộc chơi nếu bạn ngốc nghếch đến mức lố bịch. Bà ngoại tôi quả quyết, điều đó giải thích tại sao khối kẻ ngờ nghệch kinh khủng chỉ xoay xở được cuộc sống tạm ổn.  
Tất nhiên, bạn tuyệt đối không bao giờ được gây tổn hại đến người khác theo bất cứ phương thức đáng sợ nào, nếu không bạn sẽ chẳng khiến Thượng đế thấy thú vị nữa. Lúc đó cái giá phải trả sẽ xảy đến tương ứng với những điều bạn đã thất hứa.  
Bất chấp việc lén uống rượu dưới gầm bàn, bất chấp việc đều đặn thắng các ván bài xì phé với những kẻ có trái tim sắt đá, thần kinh yếu, không thích thua cuộc, bất chấp cả việc hằng ngày ăn rất nhiều mỡ lợn, bà Sugars đã thanh thản ra đi trong giấc ngủ ở tuổi bảy mươi hai. Người ta tìm thấy bà cùng một ly rượu mạnh gần như cạn sạch đặt trên chiếc bàn đầu giường, một quyển sách của tác giả bà yêu thích đã lật đến trang cuối cùng, và một nụ cười trên khuôn mặt.  
Căn cứ vào tất cả những bằng chứng sẵn có, bà ngoại tôi và Thượng đế hiểu nhau khá rõ.  
Vui mừng khi thấy mình vẫn còn sống vào sáng thứ Ba đó, trong khung cảnh lờ mờ của bình minh, tôi bật ngọn đèn đầu giường và quan sát căn phòng dùng làm phòng ngủ, phòng khách, nhà bếp kiêm phòng ăn của mình. Tôi không bao giờ bước xuống giường khi chưa biết người đang đợi mình, nếu có, là ai.  
Nếu khách viếng thăm, người tốt hay kẻ xấu, đã dành một khoảng thời gian trong đêm quan sát tôi ngủ thì họ sẽ chẳng nấn ná ở lại để tán gẫu trong bữa điểm tâm của tôi. Đôi khi việc từ giường ngủ đến phòng tắm cũng có thể lấy mất niềm vui sướng của một ngày mới.  
Chỉ có Elvis ở đó, đeo vòng hoa lan, mỉm cười và chĩa một ngón tay về phía tôi như thể đấy là khẩu súng đã lên cò.  
Tôi thích sống phía trên ga-ra riêng biệt, có kích thước vừa đủ cho hai chiếc xe và tôi thấy nơi đây thoải mái dễ chịu, nhưng tạp chí Kiến trúc Bày trí sẽ không săn tìm bức ảnh độc quyền về bố cục nơi đây đâu. Nếu phóng viên đưa tin của tòa soạn nhìn thấy chỗ tôi ở, có lẽ anh ta sẽ nhận xét, với thái độ khinh khỉnh rằng xét cho cùng cụm từ thứ hai trong tên gọi của tạp chí đâu phải là Bày bừa.  
Tấm bìa cứng chân dung Elvis có kích cỡ bằng người thật, một trong những hình ảnh trưng bày tại hành lang rạp hát để quảng bá phim Blue Hawaii, vẫn nằm nguyên vị trí tôi đặt. Thỉnh thoảng, nó di chuyển, hoặc bị di chuyển trong đêm.  
Tôi tắm bằng xà phòng và dầu gội dầu hương đào của Stormy Llewellyn tặng. Tên thật của nàng là Bronwen nhưng nàng nghĩ tên đó khiến nàng có vẻ giống yêu tinh.  
Tên thật của tôi là Odd.  
Theo lời mẹ tôi, đây là sai sót chưa được chỉnh sửa trong giấy khai sinh. Lúc mẹ nói định đặt tên tôi là Todd, lúc lại nói là Dobb, theo tên một ông dượng người Cộng hòa Séc.  
Còn bố tôi thì khăng khăng lúc nào họ cũng định đặt tên Odd cho tôi, nhưng bố không cho tôi biết lý do. Bố lưu ý rằng tôi không có ông dượng người Cộng hòa Séc nào cả.  
Mẹ tôi hùng hồn quả quyết là người dượng đó có thực, dù mẹ từ chối giải thích tại sao tôi chưa bao giờ được gặp dượng ấy hay dì Cymry, chị của mẹ, người được cho là đã kết hôn với dượng.  
Bố thừa nhận sự tồn tại của dì Cymry nhưng lại tuyên bố đanh thép rằng dì ấy không bao giờ lấy chồng. Bố nói dì ấy là một kẻ đồng bóng. Câu đó có ẩn ý gì thì tôi không biết, vì bố không nói thêm lời nào nữa.  
Mẹ tôi tức điên lên trước lời ám chỉ cho rằng chị của mẹ là loại người đồng bóng. Mẹ gọi dì Cymry là món quà Thượng đế ban tặng, thế nhưng, mẹ ít đề cập đến đề tài này.  
Tôi thấy sống cùng cái tên Odd dễ thở hơn là chối bỏ nó. Lúc tôi đủ lớn để nhận ra đó là một cái tên khác thường thì tôi đã thấy thoải mái về nó.  
Quan hệ của Stormy Llewellyn và tôi hơn cả mức bạn bè thông thường. Chúng tôi tin cả hai là tri kỷ của nhau.  
Bởi lẽ tấm thẻ từ chiếc máy bói toán trong lễ hội nói rằng chúng tôi đã được an bài sẽ bên nhau mãi mãi.  
Chúng tôi lại có cả vết bớt xứng với nhau nữa.  
Ngoài chuyện tấm thẻ và vết bớt, tôi còn yêu nàng rất mãnh liệt. Tôi ném mình xuống vách đá cheo leo vì Stormy nếu nàng yêu cầu. Tất nhiên là tôi cũng cần phải hiểu rõ mục đích phía sau lời đề nghị đó.  
May cho tôi, Stormy không phải kiểu người đòi hỏi những việc làm nông nổi như thế. Nàng không trông đợi những hành động mà ngay đến bản thân nàng cũng không muốn thực hiện. Trong thời buổi lừa lọc hiện nay, nàng được giữ vững nhờ một cái mỏ neo lẽ phải to bằng con tàu.  
Có lần Stormy mất cả ngày trời để suy nghĩ xem có nên giữ lại năm mươi xu nàng tìm thấy trong khe đựng tiền thừa ở trạm điện thoại công cộng không. Cuối cùng nàng gửi trả số tiền ấy cho công ty điện thoại.  
Trở lại chuyện vách đá, tôi không có ý nói tôi sợ Tử thần. Tôi chỉ chưa sẵn sàng hẹn hò đi chơi với ông ấy thôi.  
Toàn thân thơm phức hương đào như Stormy yêu thích, không sợ Tử thần, xơi một cái bánh xốp việt quất, giả giọng Elvis nhưng nghe chẳng giống chút nào để tạm biệt ông bằng câu “Bảo trọng nhé”, tôi lên đường đến làm việc tại Quán Vỉ nướng Pico Mundo.  
Bình minh vừa ló dạng, một lòng đỏ trứng vàng ươm đã lóe sáng tại đường chân trời phía đông.  
Thị trấn Pico Mundo nằm ở phía nam California, mặc dù tất cả nước sinh hoạt đều được hệ thống cấp nước của chính phủ cung cấp nhưng bạn không bao giờ được quên rằng tình trạng thực sự của khu vực này là sa mạc. Tháng Ba, chúng tôi bị nung nóng. Tháng Tám như hiện giờ, chúng tôi bị nướng chín.  
Biển nằm quá xa ở phía tây, xa đến nỗi nó lạ lẫm đối với chúng tôi không kém gì Biển Yên bình, vùng đất rộng lớn âm u trên bề mặt chị Hằng.  [Biển Yên bình (Sea of Tranquility): địa điểm trên mặt trăng mà phi thuyền Apollo 11 đã đáp xuống vào ngày 20 tháng 7 năm 1969]
Thỉnh thoảng, khi đào bới để xây khu cư xá mới ở vùng ngoại vi thị trấn, các nhà khai thác gặp vô vàn vỏ sò nằm thật sâu bên dưới. Thuở xa xưa, các con sóng đã liếm lên bờ biển này.  
Nếu áp tai vào những vỏ sò ấy, bạn không còn nghe được tiếng sóng réo gọi nữa mà chỉ có tiếng gió khô rang rên rỉ, như thể vỏ sò đã quên nguồn cội của nó.  
Ngay bên dưới những bậc tam cấp dẫn lên căn hộ nhỏ của tôi, trong ánh mặt trời đầu ngày, Penny Kallisto đứng chờ như một vỏ sò trên bờ biển. Cô bé đi giày đỏ, mặc quần lửng trắng và áo sơ mi trắng sát nách.
Nhìn chung, Penny không mang nỗi tuyệt vọng trước tuổi dậy thì như vài đứa trẻ thời nay rất dễ mắc phải. Em mười hai tuổi, sôi nổi, thân thiện và hay cười.  
Thế nhưng sáng nay Penny trông có vẻ nghiêm nghị. Đôi mắt xanh tối sầm như bãi biển một ngày đầy mây.  
Tôi liếc nhìn về phía ngôi nhà cách xa hơn mươi thước, nơi đó bà chủ nhà Rosalia Sanchez trông chờ tôi từng giây từng phút để xác nhận rằng bà ấy chưa biến mất trong đêm. Hình ảnh phản chiếu trong gương không bao giờ đủ sức khiến nỗi sợ hãi của bà ngủ yên. 
Không nói lời nào, Penny quay đi khỏi những bậc thềm. Cô bé hướng ra phía trước căn hộ.  
Như cặp đôi người khổng lồ, hai cây sồi đồ sộ xứ California dùng ánh nắng và chính bóng của chúng dệt nên tấm mạng tim vàng, giăng ngang lối vào nhà.  
Khi đi dưới bức màn tranh tối tranh sáng đó, Penny có lúc sáng lung linh, lúc lại chìm vào bóng tối. Tấm áo của bóng tối làm lu mờ vẻ rực rỡ trên mái tóc vàng óng, thoáng thay đổi theo từng bước cô bé di chuyển.  
Sợ mất dấu Penny, tôi lao vội xuống mấy bậc thang cuối rồi đuổi theo em. Bà Sanchez đành phải chờ đợi và lo lắng vậy.  
Penny đưa tôi băng qua ngôi nhà, ra khỏi lối dành cho xe chạy, đến bể nước ở bãi cỏ phía trước. Xung quanh chân đế của bể nước, bà Rosalia Sanchez xếp hàng đống vỏ sò với đủ hình thù và kích cỡ thu lượm được từ các ngọn đồi của thị trấn Pico Mundo.  
Penny cúi xuống lựa một vỏ sò to bằng quả cam rồi đứng lên đưa cho tôi.  
Kiểu dáng vỏ sò tương tự như ốc xà cừ. Mặt ngoài xù xì mang hai màu nâu và trắng, mặt trong bóng láng tỏa ánh hồng ngọc trai.  
Khum bàn tay phải như thể vẫn đang cầm vỏ sò, Penny áp lên tai. Cô bé nghênh đầu lắng nghe, ra hiệu muốn tôi làm theo.  
Khi áp vỏ sò lên tai, tôi không nghe tiếng biển cả, cũng không nghe thấy tiếng gió sa mạc não nề như đã được kể.  
Thay vào đó, từ trong vỏ sò phát ra giọng thở hung tợn của một con quái thú. Nhịp điệu gấp gáp của sự đòi hỏi ác nghiệt, tiếng gầm gừ của nỗi khao khát điên cuồng.  
Giữa sa mạc ngày hè mà người tôi lạnh toát.  
Khi Penny thấy gương mặt tôi lộ vẻ đã nghe thấy điều em muốn cho tôi biết, cô bé liền băng qua bãi cỏ đi đến vỉa hè. Penny đứng ở lề đường, nhìn chằm chằm về cuối phía tây phố Marigold Lane.  
Tôi bỏ vỏ sò xuống, đến bên cô bé và cùng chờ đợi.  
Quỷ dữ đang đến. Tôi tự hỏi, nó sẽ mang khuôn mặt kẻ nào.  
Hàng nguyệt quế Ấn Độ lâu năm chạy dọc con đường. Những rễ cây xương xẩu to lớn nứt nẻ và oằn cong vỉa hè bê tông.  
Không chút gió len qua hàng cây. Buổi sáng tĩnh mịch bất thường như bình minh ngày tận thế, chỉ phút chốc nữa thôi cả bầu trời sẽ nứt toạc ra.  
Cũng như nhà của bà Sanchez, hầu hết những ngôi nhà quanh đây xây theo phong cách thời Victoria với nhiều cấp độ hào nhoáng khác nhau. Khi thị trấn Pico Mundo được thành lập vào năm 1900, rất nhiều cư dân từ Bờ Đông đến đây nhập cư và họ chuộng kiểu kiến trúc thích hợp với vùng bờ biển lạnh lẽo, ẩm thấp xa xôi này.  
Chắc họ tưởng có thể mang đến thung lũng này những thứ họ yêu thích, bỏ mặc sau lưng tất cả những gì khó chịu.  
Song chúng ta không phải giống loài có thể chọn lựa hành lý buộc phải mang theo. Dù với những mục đích tốt đẹp nhất, lúc nào chúng ta cũng nhận thấy mình phải mang bên người một hai va li chứa sự ám muội và nỗi khổ sở.  
Nửa phút trôi qua, chuyển động duy nhất chỉ là cánh diều hâu bay lượn trên cao, thấp thoáng giữa những nhánh nguyệt quế.
Sáng nay con diều hâu và tôi đều là những tay săn mồi.  
Penny Kallisto chắc hẳn cảm nhận được nỗi sợ hãi của tôi. Em nắm tay phải của tôi trong bàn tay trái của mình.  
Hành động ân cần ấy khiến tôi thấy được an ủi. Cái nắm tay chặt của Penny xem ra thật vững vàng và bàn tay em không hề lạnh. Tôi có thêm dũng khí từ tinh thần mạnh mẽ của cô bé.  
Vì chiếc xe không rồ ga, lăn bánh với vận tốc chỉ vài dặm một giờ nên tôi không nghe thấy gì cho đến khi xe rẽ sang khúc quanh. Nhận ra chiếc xe, tôi thấy nỗi buồn dâng lên bằng với nỗi sợ hãi.  
Mẫu xe Pontiac Firebird 400 đời 1968 này được phục chế hết sức cẩn thận. Chiếc xe hai cửa màu xanh sẫm có thể đóng mở mui lướt về phía chúng tôi cách vỉa hè một khoảng ngắn, nó lung linh như ảo ảnh trong hơi mỗi buổi sớm mai.  
Harlo Landerson và tôi là bạn cùng lớp thời học phổ thông. Suốt những năm đó, Harlo sửa sang lại từ phần trục xe trở lên, cho đến khi trông chiếc xe bóng bẩy như vào thời điểm mùa thu năm 67, khi lần đầu tiên mẫu xe xuất hiện tại nơi trưng bày.  
Tự ti, có phần bẽn lẽn, Harlo không dốc sức chăm chút chiếc xe với hy vọng nó trở thành nam châm thu hút các cô nàng xinh đẹp hay những ai từng nghĩ cậu ta nhạt nhẽo nay bỗng nhiên thấy cậu ta tuyệt đến mức làm đóng băng thủy ngân trong nhiệt kế. Harlo không có tham vọng trong việc giao thiệp với mọi người, cậu ta không hề ảo tưởng đến cơ hội nâng cao thứ bậc thấp kém trong chế độ phân chia giai cấp ở trường phổ thông.  
Với động cơ V-8, 335 mã lực, chiếc Firebird có thể tăng tốc từ không lên sáu mươi dặm một giờ trong vòng chưa đầy tám giây. Thế nhưng Harlo không phải tay đua kiệt xuất nên cậu ta chẳng có chút hãnh diện đặc biệt nào khi sở hữu một chiến mã tốc độ cực đỉnh như vậy.  
Harlo dồn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc vào chiếc Firebird vì vẻ đẹp của kiểu dáng và chức năng xe hút hồn cậu ta. Đó là việc làm xuất phát từ trái tim, một niềm đam mê có tính trong sáng và độ mãnh liệt đến thiêng liêng.  
Đôi khi tôi nghĩ sự hiện diện của chiếc Pontiac rất quan trọng trong cuộc đời của Harlo vì cậu ta không còn ai khác để trao gửi những yêu thương, và cậu đã dành cho chiếc xe. Mẹ Harlo qua đời năm cậu lên sáu. Bố cậu là một kẻ nát rượu.  
Một chiếc xe không thể đáp lại tình cảm mà bạn dành cho nó. Nhưng nếu bạn đơn côi cùng cực thì cú tóe lửa của kim loại crom, vẻ sáng bóng của nước sơn và tiếng nổ của động cơ cũng có thể được xem là sự trìu mến thương yêu.  
Harlo và tôi không phải bạn chí cốt mà chỉ là bạn bè bình thường. Tôi mến anh chàng này. Cậu ta trầm tính nhưng trầm tính vẫn tốt hơn thói khoe khoang khoác lác mà rất nhiều đứa nhờ vào đó để thu hút sự chút ý trong trường phổ thông.  
Tôi giơ tay trái vẫy Harlo trong khi Penny Kallisto vẫn còn bên cạnh tôi.  
Từ thời học phổ thông, cậu ta đã làm việc chăm chỉ. Chín giờ sáng đến năm giờ chiều. Harlo dỡ hàng tại Super Food rồi mang thực phẩm từ kho dự trữ ra bày lên giá.  
Trước đó, từ bốn giờ sáng, cậu ta đi giao hàng trăm tờ báo đến các căn hộ nằm phía đông thị trấn Pico Mundo. Mỗi tuần một lần, cậu ta còn phát cho từng ngôi nhà một túi nhựa chứa đầy những tờ bướm quảng cáo và phiếu giảm giá.  
Sáng nay Harlo chỉ giao báo. Cậu ta ném báo bằng một cú hất cổ tay như thể đó là mấy cái boomerang. Từng tờ Thời báo hạt Maravilla số ra ngày thứ Ba được gập lại để trong bao, quay tít giữa không trung rồi với tiếng “thịch” khẽ khàng, nó đáp xuống lối đi trước nhà, đúng vị trí mà người đặt mua muốn thấy.  
Harlo đang giao báo bên kia đường. Khi đến ngôi nhà đối diện với nơi tôi đứng, cậu ta dừng chiếc Pontiac đang thả dốc lại.
Penny cùng tôi băng qua chỗ chiếc xe và Harlo lên tiếng.
- Chào Odd. Cậu thế nào vào một ngày đẹp trời hôm nay?  
- Chán, - tôi đáp. - Buồn. Rối bời.
Harlo cau mày lo âu:
- Chuyện gì không ổn à? Tớ giúp được gì không?
- Chuyện cậu đã làm, - tôi trả lời.  
Buông tay Penny, tôi nghiêng người vào trong chiếc Firebird từ bên phần ghế hành khách, tắt máy xe và giật mạnh chìa khóa ra.  
Hoảng hốt, Harlo vội chộp chùm chìa khóa lại nhưng không kịp;
- Này, Odd, đừng giỡn nữa được không? Lịch làm việc của tớ sít sao lắm đấy.  
Tôi chưa từng nghe giọng Penny, song bằng thứ ngôn ngữ của linh hồn - tuy lặng thinh nhưng lại chứa đựng nhiều điều, cô bé hẳn đã nói với tôi.  
Những gì tôi thốt ra với Harlo Landerson chính là phần cốt yếu nằm trong điều cô bé tiết lộ:
- Trong túi của cậu có máu cô bé.  
Anh chàng ngây ngô đã bị lời tuyên bố của tôi làm lộ tẩy. Harlo nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt bất chợt nghiêm lại nhưng không chứa đựng vẻ từng trải mà là nỗi sợ hãi.  
- Đêm đó, - tôi tiếp lời, - cậu mang theo ba mẩu vải nỉ vuông màu trắng.  
Một tay vẫn đặt trên vô lăng, Harlo rời mắt khỏi tôi, nhìn sau kính chắn gió như thể muốn lái chiếc Pontiac bỏ đi.  
- Sau khi lợi dụng cô bé, cậu dùng mấy mẩu vải lưu giữ lại chút máu trinh.  
Harlo rùng mình. Khuôn mặt cậu ta đỏ bừng lên, có lẽ do xấu hổ.  
Nỗi đau làm tôi nghẹn giọng:
- Mấy mẩu vải khô quánh và sẫm màu, giòn như bánh quy.
Cơn rùng mình của Harlo vỡ òa thành những run rẩy dữ dội.  
- Cậu luôn mang một trong những mẩu vải ấy bên mình. - Giọng tôi run lên vì tức giận, - Cậu thích ngửi nó. Chúa ơi, Harlo. Đôi khi cậu còn đưa nó vào giữa hai hàm răng và cắn.
Harlo mở tung cửa xe và bỏ chạy.  
Tôi không phải luật pháp. Tôi không nhân danh công lý. Tôi cũng không hiện thân cho sự báo thù. Tôi thật sự không biết là gì, và tại sao.  
Tuy nhiên vào những lúc này thế này, tôi không thể ngăn bản thân đừng hành động. Cơn giận dữ cuốn phăng tôi và tôi không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước điều buộc phải làm, cũng như không thể mong ước cho thế giới suy tàn này trở lại trạng thái tươi đẹp.  
Khi Harlo vắt chân lên cổ phóng vọt đi khỏi chiếc Pontiac, tôi nhìn xuống Penny Kallisto và thấy vết dây buộc hằn quanh cổ cô bé, dấu vết đó không rõ vào lần đầu tiên cô bé hiện ra trước mặt tôi. Độ sâu của mảnh vải cứa vào da thịt cô bé làm dấy lên cơn cuồng nộ trong tôi. Việc cậu ta làm đã dồn cô bé đến chỗ chết.  
Sự tiếc thương cào xé lòng tôi, và tôi đuổi theo Harlo Landerson, một kẻ tôi không hề mảy may thương xót.

Chương 2

Từ mặt đường nhựa sang mặt đường trải bê tông, từ mặt đường trải bê tông lên bãi cỏ, dọc theo ngôi nhà nằm bên kia đường, từ chỗ bà Sanchez xuyên qua sân sau, đến hàng rào sắt, rồi nhảy qua, sau đó băng qua một lối nhỏ, trèo lên bức tường gạch, Harlo Landerson hết chạy đến leo, rồi nhảy xuống.  
Tôi tự hỏi hắn ta đang đi đâu. Hắn ta không thể thoát khỏi tôi hay công lý và chắc chắn không thể thoát khỏi con người thật của hắn.  
Xa xa bức tường gạch có một mảnh sân, một hồ bơi. Lốm đốm ánh ban mai và bóng cây, mặt nước chập chờn sắc xanh lan tỏa từ màu ngọc bích sang ngọc lam, như thể một mẩu đá quý do bọn hải tặc khuất núi từ lâu để lại.  
Ở phía xa của hồ bơi, sau cánh cửa kéo bằng kính, một phụ nữ trẻ đứng đó trong bộ pyjama, tay cầm chiếc cốc to chứa thứ nước giúp cô có dũng khí đối mặt với ngày mới.  
Khi phát hiện ra đối tượng quan sát hốt hoảng kia, Harlo chuyển hướng về phía cô ta. Có lẽ hắn nghĩ mình cần một người che chắn, một con tin. Dù gì đi nữa hắn ta đâu có tìm kiếm cà phê.  
Tôi bám sát nút, túm lấy áo, kéo giật hắn ngã chổng kềnh. Hai chúng tôi rơi ngập vào phần hố sâu.  
Nhờ cái nóng của vùng sa mạc vào ngày hè nên nước hồ bơi không lạnh. Hàng ngàn bọt nước như những cơn mưa đồng xu bạc lung linh phóng tới tấp trước mắt tôi, kêu ùng ục bên tai tôi.  
Vùng vẫy, chúng tôi chạm tới đáy hồ, trong lúc trồi lên, hắn đá, hắn quất. Bằng khuỷu tay, đầu gối hoặc bàn chân, hắn tấn công vào cổ họng tôi.  
Dù lực cản của nước đã làm giảm đi phần lớn sức mạnh trong cú đánh đó nhưng tôi vẫn thở dốc, nuốt ực và nghẹt thở với vị clo thoảng mùi dầu thoa làm nâu da. Nới lỏng nắm tay khỏi Harlo, tôi trở mình chậm rãi xuyên qua bức màn dập dờn màu lục nhạt, lam thẫm rồi phá tan bề mặt thành hàng ngàn vạt nắng.  
Tôi ở giữa hồ còn Harlo ở ngay bờ.
Hắn chộp lấy gờ tường và đu người lên thành hố xi măng.  
Ho sặc sụa, xì nước cho thông mũi, tôi lội bì bõm đuổi theo hắn. Trong vai vận động viên bơi lội, tôi có khả năng đi thi đấu Olympic thì ít mà khả năng chết đuối thì nhiều.  
Vào một đêm tẻ ngắt năm tôi mười sáu tuổi, tôi thấy mình bị buộc vào hai xác chết và bị ném khỏi thuyền trên hồ Malo Suerte. Kể từ đó trở đi, tôi đâm ra ác cảm đối với các môn thể thao dưới nước.  
Chiếc hồ nhân tạo ấy nằm tận bên kia ranh giới của thị trấn Pico Mundo. Malo Suerte có nghĩa là “vận đen”.  
Được xây dựng trong thời kỳ Đại Khủng hoảng [Đại Khủng hoảng (Great Depression): năm 1929 đến 1930], giữ vai trò là dự án của Ban Xúc tiến Sự vụ, chiếc hồ lúc đầu được đặt theo tên một chính trị gia ít tiếng tăm. Cho dù người ta có cả ngàn câu chuyện xung quanh thứ nước cứ luôn thay đổi trong hồ, nhưng không một ai ở vùng đó có thể đoán chắc rằng khi nào và tại sao hồ này được chính thức đổi tên là Malo Suerte.  
Tất cả hồ sơ liên quan đến hồ này đã biến thành vụn tro trong vụ cháy trụ sở tòa án năm 1954, thời điểm một người đàn ông tên Mel Gibson phản đối lệnh tịch biên tài sản do không đóng thuế. Phản kháng của ông Gibson mang hình thức tự hy sinh tính mạng.  
Ông ta không bà con thân thích gì với nam tài tử người Úc trùng tên, người mấy thập kỷ sau nổi lên thành ngôi sao điện ảnh. Quả thực theo toàn bộ những lời đồn đại thì ông Gibson kia không có tài mà cũng chẳng có ngoại hình thu hút.  
Lúc này đây, vì không bị đè nặng bởi hai xác chết, nên tôi chạm được thành hồ sau vài sải tay mau lẹ. Tôi nhấc bổng thân người lên khỏi mặt nước.  
Đến bên cánh cửa trượt, Harlo Landerson mới phát hiện cửa khóa trái. Người phụ nữ mặc pyjama đã biến mất.  
Khi tôi lồm cồm đứng lên và định di chuyển, Harlo lùi ra xa cánh cửa để lấy đà. Sau đó hắn chạy tới đưa vai trái ra phía trước, rúc đầu xuống.  
Tôi cau mày chờ đợi cảnh tượng máu bắn tung tóe, chân tay đứt lìa, đầu bị mảnh kính chém phăng.  
Dĩ nhiên tấm kính có độ an toàn đó vỡ tan thành một rừng những mảnh vụn bám dính. Harlo xộc vào nhà với tứ chi nguyên vẹn và cái đầu vẫn dính trên cổ.  
Kính vỡ kêu lạo xạo, leng keng dưới đế giày khi tôi bám theo gót hắn. Tôi ngửi thấy mùi cháy khét.  
Chúng tôi đang có mặt tại phòng khách. Tất cả vật dụng đều hướng về phía chiếc tivi màn hình rộng to bằng hai cái tủ lạnh.  
Phần đầu khổng lồ của cô nàng phát thanh viên trên chương trình Today trông thật khiếp khi phóng to như thế. Ở kích thước này, nụ cười tươi tắn trên môi cô ta chứa đựng sự hăm hở như cá nhồng nhe răng. Đôi mắt lúng liếng có độ lớn bằng quả chanh dường như đang ánh lên vẻ điên cuồng.  
Theo sơ đồ tầng nhà thoáng đãng này, phòng khách dẫn thẳng vào bếp, xen giữa chỉ có một quầy bếp để dùng điểm tâm.  
Người phụ nữ chọn vị trí chống cự trong bếp. Một tay cô ôm chặt điện thoại tay kia cầm dao phay.  
Harlo đứng ngay khoảng giữa hai gian phòng, cố nghĩ xem cô vợ nội trợ hơn hai mươi tuổi đang mặc bộ pyjama kiểu thủy thủ cực xinh kia thật sự có gan moi ruột hắn không.  
Cô ta vừa huơ dao vừa hét vào điện thoại: “Hắn ở trong nhà, hắn ở ngay đây này!”  
Sau lưng cô, bên kia bếp, khói bốc lên từ lò nướng bánh. Bột nở đã hỏng. Mùi bốc lên như dâu tây trộn với cao su cháy. Người phụ nữ đang trải qua một buổi sáng tệ hại.  
Harlo ném một chiếc ghế đẩu vào tôi và chạy ra khỏi phòng khách, hướng về phía cửa trước của ngôi nhà.  
Cúi đầu né chiếc ghế, tôi lên tiếng, “Thưa cô, tôi xin lỗi về mớ hỗn độn này”, rồi tôi đi tìm kẻ đã giết Penny.  
Phía sau tôi người phụ nữ hét lớn, “Stevie, khóa cửa phòng con lại! Stevie khóa cửa phòng con lại”.
Lúc tôi đến chân cầu thang trong phòng ngủ, Harlo đã leo tới đầu cầu thang.  
Tôi hiểu ra lý do hắn lên đây thay vì chạy thoát khỏi ngôi nhà. Trên tầng hai có một cậu bé mắt tròn to, khoảng năm tuổi, mặc độc chiếc quần lót đang đứng đó. Nắm một chân con gấu bông xanh dương, cậu bé trông yếu ớt như chú cún con bị bỏ rơi giữa làn đường cao tốc tấp nập.  
Một con tin hoàn hảo.  
“Stevie, khóa cửa phòng con lại!”  
Thả rơi con gấu bông xanh dương, cậu bé ù té chạy trốn vào phòng. 
Harlo nhảy bổ lên cầu thang tầng hai.  
Hắt hơi bởi thứ nước dơ làm ngứa mũi và mùi mứt dâu cháy khét, người ướt sũng, tôi trèo lên cầu thang với tinh thần quả cảm kém hơn cả John Wayne trong phim Sand of Iwo Jima.  
Tôi sợ hãi hơn kẻ tôi đang truy đuổi vì tôi còn có nhiều thứ để mất, nhất là Stormy Llewellyn và chuyện tương lai hai đứa tôi bên nhau như chiếc máy bói toán đã hứa hẹn. Giả sử tôi đụng độ với anh chồng và trong tay anh ta có súng thì anh sẽ không hề do dự bắn xối xả vào tôi cũng như Harlo.  
Phía trên, cánh cửa đóng sầm lại. Stevie đã làm theo lời mẹ bảo.  
Theo truyền thống vào ngày Chủ nhật sau Lễ Phục sinh nếu có trong tay một bình kim loại chì đang sôi, Harlo Landerson sẽ đổ lên người tôi. Thay vì thế, hắn đẩy cho tôi một tủ chén đĩa nằm ở hành lang tầng hai, đối diện đầu cầu thang.  
Tôi nhảy khỏi mấy bậc thang, đu lên tay vịn, ngạc nhiên phát hiện ra mình có được sự nhanh nhảu và tài giữ thăng bằng như khỉ, dù là một con khỉ sũng nước. Cái bẫy ì ạch rơi xuống từng bậc thang, các ngăn kéo cứ bật mở toang hoác rồi đóng ập lại hết lần này đến lần khác, như thể trong tủ chén ấy chứa đựng linh hồn của một con cá sấu.  
Rời khỏi tay vịn, leo tiếp mấy bậc thang, tôi lên tới hành lang tầng hai khi Harlo bắt đầu đạp cửa phòng cậu bé.  
Thấy tôi tiến đến, hắn càng đạp nhanh hơn. Gỗ vỡ vụn với một tiếng rắc khô khốc và cánh cửa mở tung.  
Harlo xông vào như thể hắn bị một cơn lốc năng lượng hút khỏi hành lang.  
Lao qua ngưỡng cửa, đẩy cánh cửa đang đung đưa sang bên, tôi thấy cậu bé cố chui vào gầm giường, còn Harlo đang ghì chặt chân trái cậu bé.  
Tôi vồ lấy cây đèn ngủ hình chú gấu trúc tươi cười trên cái bàn đỏ ngay đầu giường và đập mạnh lên đầu Harlo. Trận tàn sát của những mảnh gốm sứ từ đôi tai vểnh màu đen, khuôn mặt trắng rạn nứt, bộ móng đen và vòng bụng trắng núc ních quét qua khắp căn phòng.  
Ở một thế giới có hệ sinh thái và các định luật vật lý tuân theo độ chính xác tuyệt đối mà các nhà khoa học đã gán cho chúng thì lẽ ra Harlo sẽ gục xuống bất tỉnh ngay đơ hệt như cây đèn tan tác kia. Nhưng thật không may đây không phải cái thế giới ấy.  
Hệt như kiểu tình thương khiến những người mẹ hóa điên có sức mạnh siêu phàm nâng bổng được cả chiếc xe hơi lộn ngược để giải thoát cho đứa con bị giam giữ, sự đồi bại đã cho Harlo ý chí hứng chịu cú đánh của gấu trúc mà không hề hấn gì. Hắn bỏ Stevie ra và vồ lấy tôi.  
Tuy cặp mắt của Harlo không có hai đồng tử thu nhỏ nhưng chúng vẫn nhắc tôi nhớ đến cặp mắt của một con rắn, lóe sáng mưu đồ thâm độc và cho dù mấy chiếc răng để lộ không hé ra cái răng nanh dài sọc hay cong vút nào, nhưng tình trạng lên cơn của một con chó dại vẫn ẩn hiện trong tiếng gầm gừ khe khẽ của hắn.  
Đây không phải người bạn tôi quen thời phổ thông cách đây chỉ mới vài năm, cũng không phải anh chàng bẽn lẽn tìm thấy phép lạ và ý nghĩa trong việc kiên nhẫn phục chế chiếc xe Pontiac Firebird. 
Đây là một linh hồn bệnh hoạn và méo mó; gai góc và thối rữa, một linh hồn có lẽ vừa mới thoát khỏi chốn giam cầm khuất sâu trong mê cung tâm trí của Harlo. Nó đập tan những chấn song của tế bào và vượt qua thành lũy canh giữ, hạ bệ người mang tên Harlo và hiện nắm quyền thống trị.  
Được giải thoát, Stevie cuống cuồng bò ngay vào gầm giường. Thế nhưng không có chiếc giường nào che chở tôi và không có tấm chăn nào để tôi trùm kín đầu.  
Tôi không nhớ thật rõ những phút tiếp sau đó. Tôi và hắn lao vào tấn công khi có cơ hội. Chúng tôi vớ lấy bất cứ thứ gì có thể làm vũ khí, huơ lên rồi nắm. Một loạt cú đánh tới tấp khiến cả hai lảo đảo ôm ghì đối phương, tôi cảm nhận hơi thở nóng hổi của hắn phả vào mặt, nước bọt văng ra và nghe thấy tiếng hàm răng nghiến ngấu. Hắn cắn vào vai phải của tôi, cơn hoảng loạn đã dồn ép phải dùng đến thủ đoạn của một con quái thú.  
Tôi vùng thoát, xô mạnh hắn ra bằng cách hất khuỷu tay vào dưới cằm và định lên gối vào hạ bộ hắn nhưng không trúng.  
Tiếng còi hụ vang đến và mẹ Stevie xuất hiện ở chỗ cánh cửa mở toang con dao phay lóe sáng. Hai chiến sĩ: một người trong trang phục pyjama, người kia mặc đồng phục hai màu xanh và đen của Sở Cảnh sát thị trấn Pico Mundo đang trong tình trạng sẵn sàng.  
Harlo không thể thoát khỏi tôi và người phụ nữ cầm vũ khí kia. Hắn không thể bắt Stevie, tấm chắn bảo vệ hắn mong có được vì cậu bé đã nằm dưới gầm giường. Còn nếu lao qua cửa sổ và trèo lên mái ngói ngoài hiên trước thì hắn sẽ rơi thẳng vào vòng vây của cảnh sát đang đến.  
Tiếng còi hụ vọng lại lớn hơn, gần hơn, Harlo trở vào một góc phòng, đứng rùng mình thở hổn hển. Hai tay siết chặt vào nhau, gương mặt hắn tái nhợt với vẻ thống khổ. Hắn nhìn mặt sàn, bốn bức tường, trần nhà, không phải với bộ dạng một kẻ sập bẫy đang ước tính cỡ của cái lồng giam giữ mà với nét hoang mang như thể hắn không nhớ ra tại sao hắn lại có mặt tại đây và rơi vào thế bí này.  
Khác với bọn quái thú chốn rừng rú, những giống yêu tinh tàn bạo đội lốt người, khi bị dồn vào chân tường, hiếm khi chúng tấn công dữ tợn hơn. Thay vào đó chúng bộc lộ tính hèn nhát nằm sâu thẳm bên trong hành động hung ác của chúng.  
Đôi tay siết chặt của Harlo vặn vẹo tách rời ra và ôm lấy mặt. Qua kẽ hở giữa mười ngón tay, tôi có thể thấy cặp mắt của hắn giật giật vì khiếp sợ.  
Lưng ép sát vào góc phòng, hắn trượt người dọc theo chân tường, ngồi xuống sàn và xoạc chân ra trước mặt. Hắn cố giấu khuôn mặt sau đôi tay, như thể đôi bàn tay hắn là mặt nạ hóa phép tàng hình giúp hắn thoát khỏi sự trừng phạt của công lý.  
Còi hụ rền vang hết cỡ cách đó chỉ một nửa khu nhà và rồi âm lượng của nó giảm từ tiếng gào thét đến tiếng gầm gừ và xuống còn tiếng rên yếu ớt ngay trước ngôi nhà.  
Ngày mới vừa bắt đầu chưa đầy một giờ đồng hồ và từng giây từng phút của buổi sáng nay, tôi đã cư xử đúng theo tên gọi của mình.

Chương 3

Hồn người chết không nói chuyện. Tôi không biết tại sao.  
Harlo Landerson bị các nhân viên chức trách giải đi. Trong ví của hắn, người ta tìm thấy hai bức ảnh chụp Penny Kallisto. Tấm hình đầu tiên, cô bé trần trụi và còn sống. Tấm hình thứ hai, cô bé đã chết.  
Stevie ở dưới nhà, trong vòng tay của mẹ cậu bé.  
Wyatt Porter, cảnh sát trưởng ở Sở Cảnh sát thị trấn Pico Mundo, yêu cầu tôi chờ trong phòng Stevie. Tôi ngồi xuống mép chiếc giường chưa sắp xếp ngăn nắp của cậu bé.  
Tôi ngồi một mình không lâu thì Penny Kallisto đi xuyên qua tường và ngồi xuống cạnh tôi. Vết dây buộc đã biến mất khỏi cổ cô bé. Trông em như chưa bao giờ bị siết cổ, chưa bao giờ phải chết.  
Như trước giờ, cô bé vẫn câm lặng.  
Tôi thường tin vào kiến trúc truyền thống của dương thế và cõi âm. Thế giới này là một cuộc hành trình để khám phá và rửa tội. Thế giới bên kia gồm có hai đích đến: một nơi là cung điện dành cho linh hồn và vương quốc vô tận những điều kì diệu lạnh lẽo, tối tăm và không thể hình dung nổi.  
Bạn cứ việc nghĩ tôi là kẻ ngớ ngẩn. Những người khác đều nghĩ thế cả.  
Stormy Llewellyn, một thiếu nữ có quan điểm độc đáo, lại tin rằng chuyến đi xuyên suốt thế giới này của chúng ta nhằm mục đích tôi luyện cho chúng ta vững vàng hơn vào kiếp sau. Nàng bảo tính trung thực, chính trực, dũng cảm và cương quyết chống lại cái ác của chúng ta sẽ được đánh giá vào phút cuối chúng ta có mặt trên thế giới này, và nếu được duyệt, chúng ta sẽ gia nhập vào đội quân những linh hồn, tham gia một nhiệm vụ cao cả nào đó ở thế giới bên kia. Những ai không vượt qua cuộc sát hạch xem như không sống tiếp nữa.  
Tóm lại, Stormy xem cuộc đời này như trại huấn luyện binh lính. Nàng gọi kiếp sau là “giai đoạn tại ngũ”.  
Tôi hy vọng nàng đã nhầm, bởi lẽ một trong những hàm ý của thuyết vũ trụ nàng đưa ra đó là rất nhiều nỗi kinh hoàng chúng ta biết đến ở đây chính là sự tiêm chủng phòng ngừa tình trạng tồi tệ ở thế giới bên kia.  
Stormy nói những điều chúng ta trông đợi ở kiếp sau sẽ bõ công chúng ta nhẫn nại ở kiếp này, một phần vì chuyến phiêu lưu nhưng chủ yếu do phần thưởng dành cho giai đoạn tại ngũ sẽ đến vào kiếp sống thứ ba.  
Về phần mình, tôi thích nhận phần thưởng vào thời điểm sớm hơn nàng dự đoán.  
Nhưng Stormy thích trì hoãn việc hưởng thụ. Nếu ngày thứ Hai nàng thèm soda kem, nàng sẽ chờ đến thứ Ba hoặc thứ Tư mới uống một ly. Nàng khăng khăng bảo rằng chờ đợi khiến ly nước ngon hơn hẳn.  
Quan điểm của tôi lại khác: nếu bạn thích mê món soda kem, thứ Hai uống một ly, thứ Ba uống thêm ly nữa, thứ Tư uống tiếp ly khác.  
Theo Stormy, nếu tôi sống theo triết lý đó quá lâu, tôi sẽ trở thành một gã nặng tám trăm pao, đến lúc ngã bệnh phải nhờ cần trục và đội thợ xây đến lôi ra khỏi nhà.  
Nàng từng nói, “Nếu anh muốn bị bẽ mặt với việc được chở đến bệnh viện trên xe tải sàn phẳng thì đừng hòng có chuyện em ngồi lên cái bụng béo phị của anh như chú dế Jiminy ngồi trên lưng cá voi, nghêu ngao ca bài “Khi bạn cầu nguyện một vì sao” nhé”.  
Tôi khá chắc chắn rằng trong bộ phim hoạt hình Pinocchio của hãng Disney, chú dế Jiminy chưa bao giờ ngồi trên lưng cá voi. Thực ra tôi còn ngờ vực cả chuyện chú dế đó chạm trán cá voi.  
Tuy nhiên, nếu tôi đưa ra lời nhận xét ấy với Stormy, nàng sẽ tặng tôi ánh mắt hình viên đạn ngụ ý rằng Anh ngớ ngẩn đến mức hết thuốc chữa hay chỉ là đang giỡn? Nên tránh đến vẻ mặt đó nếu không muốn sợ chết khiếp.  
Vừa ngồi đợi trên mép giường của Stevie, tôi vừa nghĩ rằng ngay đến Stormy cũng không thể làm tinh thần tôi phấn chấn hơn. Quả thực, nếu bức hình Scooby-Doo cười toe toét in trên khăn trải giường không làm tôi vui trở lại thì có lẽ chẳng điều gì giúp được.  
Tôi vẫn cứ nghĩ mãi về chuyện Harlo mất mẹ năm lên sáu tuổi, lẽ ra cậu ta phải là hình tượng gợi nhớ đến người mẹ, thế nhưng cậu ta đã làm ô uế ký ức về mẹ mình.  
Và rồi tôi nghĩ đến Penny: cuộc đời cô bé kết thúc quá sớm, sự mất mát khủng khiếp đối với gia đình em, một nỗi đau không nguôi làm thay đổi mãi mãi cuộc sống những người thân của em.  
Penny đặt tay trái lên tay phải của tôi và siết chặt an ủi.  
Bàn tay em mang đến cảm giác thật như tay của một cô bé còn sống, rắn rỏi, ấm áp. Tôi không hiểu tại sao cô bé lại trở nên có thực đến thế đối với mình và tuy em đi xuyên tường nhưng em hiện hữu trước mắt tôi và vô hình với mọi người.  
Tôi ứa nước mắt. Đôi khi tôi vẫn khóc. Tôi không xấu hổ với việc rơi lệ. Vào những lúc thế này, nước mắt giúp xua tan các cảm xúc, nếu không chúng sẽ ám ảnh tôi, sự ám ảnh làm tôi đau lòng.  
Ngay sau khi những giọt lệ long lanh đầu tiên chỉ mới khiến mắt tôi nhòa đi chứ vẫn chưa kịp rơi xuống, Penny đã siết chặt tay tôi trong đôi tay cô bé. Cô bé mỉm cười và nháy mắt như muốn nói: Chuyện ổn rồi, anh Odd Thomas. Quên nó đi, tống khứ nó đi.  
Người chết rất thông cảm cho những người sống. Họ đi trước và biết hết những nỗi sợ hãi, nhược điểm, những hy vọng bế tắc của chúng ta và việc chúng ta trân trọng thế nào thứ không thể kéo dài mãi mãi. Họ thương xót chúng ta, tôi nghĩ thế, và quả thực họ nên thương xót chúng ta.  
Khi nước mắt tôi đã khô, Penny đứng nhổm dậy, mỉm cười lần nữa và dùng tay vuốt lên tóc tôi ngược ra sau trán. Tạm biệt, cử chỉ ấy dường như để nói lên điều đó. Cảm ơn và tạm biệt.
Cô bé băng qua căn phòng, xuyên tường, đi vào không gian buổi sáng tháng Tám ở tầng nhà nằm phía dưới trên mảnh sân trước, hay đi vào một lãnh địa khác tươi sáng rực rỡ hơn cả mùa hè tại thị trấn Pico Mundo này.  
Lát sau, cảnh sát trưởng Wyatt Porter xuất hiện ngay cửa phòng.  
Cảnh sát trưởng là một người đàn ông to lớn nhưng diện mạo của ông không đáng sợ lắm. Với cặp mắt lồi và hai bên má chảy xệ, khuôn mặt ông chịu ảnh hưởng của trọng lực trái đất nhiều hơn hẳn phần cơ thể còn lại. Tôi thấy ông di chuyển nhẹ nhàng và quyết đoán nhưng qua hành động và phong thái có vẻ ông gánh vác rất nhiều thứ nặng nề trên đôi vai rắn chắc, vạm vỡ.  
Nhiều năm qua, khi những ngọn đồi thấp bao bọc thị trấn của chúng tôi được đục đẽo thành khu lân cận đầy các cư xá, dân số bùng phát, và khi sự hèn hạ của một thế giới hiểm ác len lỏi vào nơi trú ngụ cuối cùng của phép lịch sự, như thị trấn Pico Mundo, thì có lẽ cảnh sát trưởng Porter đã chứng kiến quá nhiều hành động dối trá của con người. Có lẽ gánh nặng ông chất trên vai là hàng đống ký ức ông muốn trút bỏ nhưng không thể.  
- Vậy là hai bác cháu mình lại gặp nhau, - ông cất tiếng và bước vào phòng.  
- Dạ phải, - tôi đồng tình.  
- Cửa ngoài sân vỡ toang, đồ đạc tan tành.
- Đa phần không phải do con làm vỡ, trừ cây đèn ngủ.
- Nhưng con tạo ra tình huống dẫn đến điều đó?
- Dạ phải, thưa bác.
- Tại sao con không đến chỗ bác, để bác tìm cách khiến Harlo tự rơi vào bẫy?
Trước đây chúng tôi đã hợp tác theo kiểu đó.  
- Cảm giác của con, - tôi đáp, - cho thấy cần phải đối đầu với hắn ngay tức thì, có lẽ chẳng mấy chốc hắn sẽ lặp lại tội ác.
- Cảm giác của con?
- Dạ phải, thưa bác. Đó chính là điều con nghĩ Penny muốn truyền đạt. Sự khẩn nài lặng lẽ liên quan đến cô bé.
- Penny Kallisto.
- Dạ phải, thưa bác.
Cảnh sát trưởng thở dài. Ông ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng: một chiếc ghế dành cho trẻ con, màu tím phủ lên phần lưng ghế có thân mình và đầu của khủng long Barney. Trông như ông đang ngồi trong lòng Barney.
- Này con trai, con làm phức tạp cuộc đời của bác quá.
- Họ làm phức tạp cuộc đời của bác và cuộc đời của con còn phức tạp hơn của bác nhiều lắm, - tôi nói, có ý chỉ những người đã khuất.
- Chắc rồi. Nếu là con, bác đã phát điên lâu rồi.
- Con cũng cho là thế, - tôi thừa nhận.  
- Nghe này, Odd, bác muốn tìm cách giữ con đứng ngoài tòa án, nếu sự việc diễn biến đến đó.
- Con cũng muốn tìm cách.
Ít người biết một vài bí mật kỳ lạ của tôi. Chỉ duy có Stormy Llewellyn biết tất cả.  
Tôi muốn giấu tên, muốn có một cuộc sống giản dị và êm ả, hay chí ít cũng giản dị ở chừng mực các linh hồn cho phép.  
Cảnh sát trưởng cất giọng.
- Bác nghĩ hắn sẽ thú tội trước mặt luật sư của hắn. Có thể không cần xét xử. Nhưng nếu có mở phiên tòa, phía cảnh sát của bác sẽ nói hắn mở ví lấy tiền chung cá độ cho con, có thể là cá độ một trận bóng chày, và bức ảnh của Penny rơi ra.
- Con có thể khiến mọi người tin chuyện đó, - tôi quả quyết.  
- Bác sẽ nói chuyện với Horton Barks. Anh ta sẽ giảm thiểu tối đa sự liên quan của con khi đưa tin.
Horton Barks là chủ biên của tờ Thời báo hạt Maravilla. Hai mươi năm trước tại rừng Oregon, trong lúc bách bộ, ông ấy đã dùng bữa tối với quái vật Big Foot, nếu bạn gọi đồ khô ăn liền và xúc xích đóng hộp là bữa tối.  
Tôi không biết chuyện Horton đã dùng bữa tối với quái vật Big Foot có thật không hay đó chỉ là những gì ông ấy tuyên bố. Theo trải nghiệm hàng ngày của tôi, tôi không thể ngờ vực chuyện Horton hay bất kỳ ai kể rằng đã chạm trán với sinh vật lạ, từ người ngoài hành tinh cho đến ma quỷ.  
- Con ổn chứ? - cảnh sát trưởng Porter cất giọng hỏi.  
- Dạ tạm ổn. Nhưng con không muốn muộn giờ làm. Giờ này là lúc quán ăn đông khách nhất.
- Con còn làm ở đó à?
- Dạ.
Tôi lấy ra cái điện thoại di động nho nhỏ kẹp ở thắt lưng khi nhảy xuống hồ bơi.
- Con vẫn làm bình thường.
- Chắc chút nữa bác sẽ ghé qua ăn một đĩa đầy ắp khoai tây và trứng.
“Điểm tâm phục vụ cả ngày”, đó là lời hứa trịnh trọng từ năm 1946 của Quán Vỉ nướng Pico Mundo.  
Cảnh sát trưởng Porter đổi tư thế ngồi khiến khủng long Barney rên rỉ.
- Này con định suốt đời làm đầu bếp chế biến thức ăn nhanh à?
- Dạ không. Con đang nghĩ đến việc chuyển đổi sự nghiệp sang lĩnh vực lốp xe.
- Lốp xe ư?
- Có lẽ ban đầu sẽ kinh doanh, sau đó đến tháo lắp. Ở Tire World, người ta luôn tạo cơ hội việc làm.
- Sao lại là lốp xe?
Tôi nhún vai.
- Ai cũng cần nó cả. Và đây là lĩnh vực con chưa biết, một thứ mới mẻ để học hỏi. Con muốn xem sinh hoạt ở đó thế nào, sinh hoạt ở công ty kinh doanh lốp xe.
Chúng tôi ngồi đó khoảng gần một phút không ai nói gì. Sau đó ông lên tiếng:
- Và đó là điều duy nhất con nghĩ đến cho tương lai sao? Ý bác là vụ lốp xe.
- Công việc bảo trì hồ bơi cũng có vẻ hấp dẫn. Với những cộng đồng mới kéo đến khắp quanh đây thì ngày nào cũng sẽ xuất hiện hồ bơi mới xây.
Cảnh sát Porter trầm ngâm gật gù.  
- Và hẳn sẽ rất tuyệt khi làm việc tại sân chơi bowling, - tôi nói. - Nhiều khách mới cứ đến rồi đi, không khí sôi động của các trận đấu.
- Con sẽ làm gì tại sân chơi bowling?
- Trước hết là trông coi mấy đôi giày cho thuê. Phải lau sạch chúng hay làm gì đó trước khi cho người khác thuê tiếp. Rồi đánh bóng nữa. Bác phải kiểm tra dây buộc đều đặn.
Cảnh sát trưởng gật đầu và chiếc ghế hình Barney màu tím kêu rít lên nghe giống tiếng chuột hơn là tiếng khủng long.  
Quần áo của tôi gần khô hẳn nhưng chúng nhăn nhúm thảm thương. Tôi xem đồng hồ.
- Con nên đi thôi. Con phải thay đồ trước khi đến quán ăn.
Cả hai chúng tôi nhổm dậy.  
Chiếc ghế Barney đổ sụp.  
Nhìn đống đổ nát màu tím, cảnh sát trưởng cất giọng:
- Chuyện này có thể xảy ra khi con đánh nhau với Harlo.
- Dạ phải, - tôi đáp.  
- Bảo hiểm sẽ tính luôn vào phần kia.
- Bao giờ mà chả có bảo hiểm, - tôi đồng tình.  
Chúng tôi đi xuống lầu, Stevie đang ngồi trên ghế đẩu trong bếp, vui thích thưởng thức bánh nướng hương chanh.  
- Bác xin lỗi bác đã làm gãy cái ghế trong phòng ngủ của cháu, - cảnh sát trưởng Porter nói với cậu bé vì ông luôn là người trung thực.  
- Dù sao đó cũng chỉ là cái ghế cũ hình Barney chán ngắt, - cậu bé lên tiếng. - Cháu bỏ xó món đồ hình Barney chán ngắt ấy mấy tuần rồi.
Cầm chổi và hốt rác, mẹ cậu bé Stevie đi quét dọn những mảnh kính vỡ.  
Cảnh sát trưởng Porter trình bày chuyện cái ghế với mẹ Stevie, cô có ý bỏ qua xem như chuyện nhỏ, nhưng ông vẫn một mực yêu cầu cô phải tìm ra giá tiền và cho ông biết.
Ông đề nghị chở tôi về nhà nhưng tôi nói.
- Với con cách nhanh nhất chỉ cần quay lại lối đi đã dẫn đến đây.
Tôi rời khỏi nhà qua khoảng trống từng là vị trí lắp cánh cửa bằng kính, đi vòng quanh hồ bơi thay vì lội bì bõm trong đó, trèo lên bức tường gạch, băng qua một lối nhỏ, leo qua hàng rào sắt, đi qua bãi cỏ quanh một ngôi nhà khác, băng qua phố Marigold Lane và trở về căn hộ nằm phía trên ga-ra của mình.

Chương 4

Tôi thấy được hồn người đã chết. Và rồi, có Chúa chứng giám, tôi phải thực hiện việc gì đó liên quan đến chuyện ấy.  
Chiến lược tiên phong này đáng thực hiện nhưng lại nguy hiểm. Có hôm nó dẫn đến kết quả số lượng quần áo cần giặt khác với ngày thường.  
Sau khi thay quần jeans sạch và áo phông trắng tinh, tôi đi vòng đến cổng sau nhà bà Sanchez để xác nhận với bà rằng bà vẫn hiện hữu, một việc sáng nào tôi cũng làm. Qua cánh cửa lưới, tôi thấy bà đang ngồi tại bàn nhà bếp.  
Tôi gõ cửa và bà lên tiếng:
- Con có nghe giọng bà không?
- Dạ có thưa bà, - tôi trả lời. - Con nghe giọng bà rõ lắm.
- Con nghe giọng ai?
- Bà Rosalia Sanchez.
- Vậy vào đi, Odd Thomas, - bà nói.  
Gian bếp của bà tỏa mùi thơm của ớt và hoa ngô đồng, trứng rán và phô mai Jack [Phô mai Jack: một loại phô mai hơi mềm, màu trắng ngà như bơ, hương thơm nhẹ]. Tôi là đầu bếp chế biến thức ăn nhanh xuất sắc nhưng bà Rosalia Sanchez lại là một đầu bếp thiên bẩm.  
Mọi thứ trong gian bếp của bà đều lâu đời và cũ kỹ nhưng cực kỳ sạch sẽ. Đồ cổ giá trị hơn khi thời gian và độ bền phủ lên chúng lớp bề mặt bóng loáng. Gian bếp của bà Sanchez đẹp như món đồ cổ tinh xảo nhất, lớp bề mặt bóng loáng vô giá có từ sự nghiệp cả đời người và từ công việc nấu ăn được thực hiện bằng niềm vui thích và lòng yêu thương.  
Tôi ngồi xuống đối diện bà.  
Bà bao tay quanh cốc cà phê thật chặt để khỏi run.
- Sáng nay con đến muộn đấy Odd Thomas.
Lúc nào bà cũng gọi cả tên họ của tôi. Thỉnh thoảng tôi ngờ rằng bà nghĩ Odd không phải một cái tên mà là tước hiệu hoàng tộc, như Hoàng tử hay Công tước chẳng hạn, và thường dân nhất định phải thực hiện nghi thức giao tiếp đó khi gọi tôi.  
Chắc bà tưởng tôi là con trai của một vị vua hết thời, sa sút đến độ rơi vào tình trạng khố rách áo ôm nhưng dù sao vẫn đáng được tôn kính.  
Tôi lên tiếng:
- Dạ con đến muộn, xin lỗi bà. Thật là một buổi sáng kỳ lạ.
Bà Sanchez không biết gì về mối quan hệ đặc biệt của tôi với người đã khuất. Không bận tâm tới những người chết du hành đến ga-ra thì bà cũng đã có đủ rắc rối rồi.  
- Con có thấy được bà đang mặc gì không? - giọng bà đầy lo âu.  
- Quần vàng nhạt, áo màu vàng đậm pha nâu.
Bà đổi sang vẻ mặt tinh quái:
- Con có thích chiếc nơ bướm trên tóc bà không, Odd Thomas?
- Không có chiếc nơ nào hết. Bà đang buộc tóc bằng dây ruy băng màu vàng. Trông đẹp lắm.
Lúc còn trẻ, ắt hẳn bà Rosalia Sanchez phải cực kỳ xinh đẹp. Ở độ tuổi sáu mươi ba, tăng thêm vài pao, có thêm vài vết sẹo và nếp nhăn từng trải, bà sở hữu vẻ đẹp sâu lắng của một người phúc hậu: tính khiêm tốn đáng mến và sự dịu dàng do thời gian truyền thụ, hào quang lung linh của lòng yêu thương và nghị lực, xuất hiện vào những năm cuối đời, chắc chắn đánh dấu gương mặt của những ai về sau sẽ được phong thánh.  
- Khi con không đến vào giờ như thường lệ... - bà nói, -... bà tưởng con đã đến đây nhưng không thể nhìn thấy bà. Và bà tưởng bà cũng không thể nhìn thấy con được nữa, khi bà trở nên vô hình đối với con thì con cũng trở nên vô hình với bà.
- Con chỉ đến muộn thôi, - tôi quả quyết để bà yên tâm.  
- Trở nên vô hình thật là điều khủng khiếp.
- Dạ phải, nhưng con sẽ không cần cạo râu thường xuyên.
Lúc bàn luận về chuyện vô hình, bà Sanchez không cho phép đùa cợt. Khuôn mặt thánh thiện của bà cau lại, lộ vẻ không bằng lòng.  
- Khi lo âu về chuyện trở nên vô hình, bà luôn nghĩ mình có thể thấy mọi người, chỉ có điều mọi người không thể nhìn hay nghe thấy bà.
- Trong mấy bộ phim cũ về Người vô hình, - tôi nói, - bà có thể nhìn thấy hơi thở của anh ta khi anh ta đi ra ngoài trong thời tiết lạnh như băng.
- Nhưng nếu mọi người trở nên vô hình với bà khi bà đã vô hình với họ, - bà tiếp lời, - thì có khác gì bà là người cuối cùng trên thế giới đâu, cả thế giới trống không chỉ mỗi mình bà cô độc lang thang quanh quẩn.
Bà Sanchez rùng mình. Bà siết chặt cốc cà phê làm nó va vào chiếc bàn.  
Khi nói về chuyện vô hình, bà Sanchez như đang nói đến cái chết, song tôi không chắc bà có nhận ra điều đó không.  
Nếu ngay năm đầu tiên của thiên nhiên kỷ mới, năm 2001, diễn ra không tốt đẹp đối với thế giới nói chung thì nó đã diễn ra thật ảm đạm đối với bà Rosalia Sanchez nói riêng, khởi đầu bằng việc mất đi người chồng, ông Herman, vào một đêm tháng Tư. Bà đi ngủ cạnh người đàn ông bà yêu thương hơn bốn mươi năm qua và thức dậy bên cạnh một cái xác. Đối với ông Herman, cái chết đến thật nhẹ nhàng như trước nay nó vẫn thế, đến trong giấc ngủ, nhưng đối với bà Rosalia, cú sốc khi tỉnh giấc bên xác chết đã trở thành cơn chấn động.  
Sau năm đó, trong lúc vẫn đang chịu tang chồng, bà không tham gia chuyến đi nghỉ đến New England đã được hoạch định từ lâu cùng gia đình ba người em gái. Sáng ngày mười một tháng Chín, bà thức giấc nhận được hung tin chuyến bay khứ hồi rời Boston của họ đã bị không tặc cướp quyền kiểm soát, biến nó thành tên lửa điều khiển, dùng vào một trong những hành động đáng lên án nhất trong lịch sử.  
Bà Rosalia mong mỏi có con cháu, nhưng Chúa không ban cho bà. Herman, các cô em gái, cháu trai, cháu gái của bà là trọng tâm đời bà. Bà mất tất cả những người ấy khi đang ngủ.
Khoảng thời gian giữa tháng Chín và Giáng sinh năm ấy, bà Rosalia phát điên lên vì đau đớn. Phát điên một cách lặng lẽ, bởi bà sống cả đời một cách lặng lẽ và không còn biết sống theo cách nào khác.  
Trong cơn điên nhẹ ấy, bà không chịu công nhận người thân của bà đã chết. Họ chỉ trở nên vô hình đối với bà mà thôi. Bản chất của lối ngụy biện đã cầu viện đến một hiện tượng hiếm thấy như từ trường, nó có thể đảo lộn bất cứ lúc nào khiến tất cả những người thân yêu đã mất của bà hiện hình trở lại.  
Các chi tiết về tất cả những vụ mất tích tàu thuyền, máy bay tại khu vực Tam giác quỷ Bermuda bà Rosalia Sanchez đều biết nằm lòng. Bà đọc không sót một quyển sách nào có thể tìm thấy về chủ đề này.  
Bà nắm rõ câu chuyện kỳ lạ không thể giải thích về việc vào năm 610 sau Công nguyên, dường như qua một đêm, cả trăm ngàn người Maya ở các thành phố Copan, Piedrars Negras và Palenque đều tan biến.  
Nếu bạn đồng ý để bà Rosalia huyên thuyên, bà sẽ nhồi nhét đầy tai bạn cuộc thảo luận nghiêm túc về các vụ biến mất trong lịch sử. Chẳng hạn như tôi biết, nhiều hơn mức muốn biết và rất nhiều hơn mức cần biết đối với một người về việc một sư đoàn gồm ba ngàn binh lính Trung Quốc đã “bốc hơi” gần Nam Kinh vào năm 1939.  
- À, - tôi lên tiếng, - chí ít sáng nay bà vẫn hiện hữu. Cứ hân hoan mong đợi, trước mắt bà còn cả khối ngày để hiện hữu mà, đó quả là điều tốt đẹp.
Nỗi sợ hãi lớn nhất của bà Rosalia là vào đúng ngày người thân của bà hiện hình trở lại, chính bà lại tan biến đi.  
Mong mỏi họ quay về nhưng bà khiếp sợ kết cục.  
Bà làm dấu thánh, nhìn quanh gian bếp thân quen và cuối cùng nở nụ cười:
- Bà có thể nướng một món gì đó.
- Bà có thể nướng bất cứ món gì, - tôi nói.  
- Con muốn bà nướng cho con gì nào, Odd Thomas?
- Bà tạo bất ngờ cho con đi, - tôi xem đồng hồ, - Tốt hơn con nên đi làm.
Bà tiễn tôi đến tận cửa và ôm siết tạm biệt tôi.
- Con là cậu bé ngoan, Odd Thomas.
- Bà làm con nhớ đến bà ngoại Sugars, - tôi nói, - trừ việc bà không chơi bài, không uống rượu và không lái xe vù vù.
- Con nói nghe thật lọt tai. Con biết không, bà đã ngẫm nghĩ về cuộc đời và tất cả những chuyện của Pearl Sugars. Bà của con rất yểu điệu nhưng cũng…
- Võ công đầy mình, - tôi gợi ý.  
- Chính xác. Một năm nọ, tại lễ hội dâu của nhà thờ có một gã du côn gây rối, hắn nghiện ma túy hoặc rượu bia. Pearl hạ gục hắn chỉ bằng hai cú đấm.
- Bà ngoại có cú đấm móc sang trái tuyệt cú mèo.
- Đúng thế, đầu tiên bà con đá hắn ngay vào chỗ hiểm. Nhưng bà nghĩ chỉ cần mấy cú đấm, bà con cũng có thể hạ gục hắn rồi. Đôi khi bà ao ước có thể giống với bà con hơn.
Từ nhà bà Sanchez, tôi đi qua sáu khu nhà mới đến Quán Vỉ nướng Pico Mundo, nó nằm ngay trung tâm khu thương mại Pico Mundo.  
Cứ mỗi phút trôi qua kể từ lúc mặt trời mọc, không khí buổi sáng lại trở nên oi bức hơn. Những vị thần trong sa mạc Mojave không hề biết đến ý nghĩa của cụm từ “vừa phải”.  
Bóng râm trải dài vào sáng sớm thu ngắn lại trước mắt tôi, rút lui khỏi những bãi cỏ đang ấm dần lên, những mặt đường nhựa nóng như thiêu đốt, những vỉa hè trải bê tông có thể dùng làm chảo chiên trứng hệt như cái lò nướng tôi sắp bước vào.  
Không khí thiếu hẳn sinh khí để chuyển động. Cây cối gục đầu ủ rũ. Chim chóc trốn vào nhánh lá hoặc bay cao hơn so với lúc bình minh, để đến nơi không khí loãng hơn, sức nóng đỡ gay gắt hơn.
Trong không gian tĩnh mịch lừ đừ đó, trên đường từ nhà bà Sanchez đến Quán Vỉ nướng, tôi thấy ba cái bóng di chuyển. Cả ba đều không có khởi điểm vì chúng không phải những cái bóng bình thường.
Lúc còn bé tí, tôi gọi các thực thể này là “vong linh”. Song đó chỉ là một cụm từ khác để chỉ hồn ma, nhưng chúng không phải những hồn ma giống Penny Kallisto.  
Tôi không tin có lúc chúng lại ghé qua thế giới này trong hình thù con người hoặc am hiểu cuộc sống này như chúng ta. Tôi ngờ rằng chúng không thuộc về nơi đây, lãnh địa hắc ám muôn thuở mới thật là ngôi nhà mơ ước của chúng.  
Hình thù của chúng tựa hồ sương khói. Thân thể không khá hơn gì những cái bóng. Chuyển động êm ru không phát ra tiếng. Mục đích, tuy bí ẩn nhưng không hề tốt đẹp.  
Thông thường chúng lượn lờ như mèo, dù bọn mèo này to hơn người. Đôi khi chúng gần như thẳng đứng thân mình, giống hệt loài sinh vật kỳ ảo nửa người nửa chó.  
Tôi không hay gặp chúng. Mỗi khi xuất hiện, sự có mặt của chúng bao giờ cũng báo hiệu sắp có chuyện chẳng lành dữ tợn hơn cường độ thường thấy và ghê gớm hơn mức độ hay gặp.  
Giờ đây đối với tôi chúng không còn là vong linh. Tôi gọi chúng bằng cái tên “ông kẹ”.  
Ông kẹ là cụm từ tôi nghe cậu bé du khách người Anh sáu tuổi đã sử dụng để mô tả các sinh vật này khi thoáng thấy một đám bọn chúng đang rong ruổi trong ánh chạng vạng của thị trấn Pico Mundo, lúc ấy tôi cũng có mặt. Ông kẹ là một quái thú nhỏ bé, kinh tởm và được cho là thần bí, sống ở Quần đảo Anh, nó sẽ trèo xuống ống khói để bắt những đứa trẻ hư mang đi.  
Tôi không tin những linh hồn tôi nhìn thấy thật sự là ông kẹ. Tôi cũng không nghĩ cậu bé người Anh tin như thế. Cụm từ đó chợt nảy ra trong tâm trí cậu bé chỉ vì cậu không còn tên gọi nào phù hợp hơn cho chúng. Tôi cũng vậy.  
Cậu bé là người duy nhất tôi từng quen biết có cùng khả năng quan sát đặc biệt như tôi. Giây lát sau khi thốt ra cụm từ ông kẹ trước mặt tôi, cậu bé bị đè chết, nằm giữa một chiếc xe tải lạc tay lái và một bức tường bê tông.  
Ngay lúc tôi đến Quán Vỉ nướng, ba ông kẹ nhập bọn với nhau. Chúng chạy tít phía trước tôi, lờ mờ phát sáng quanh góc phố rồi biến mất như thể chỉ là làn hơi nóng tinh quái, một trò bịp bợm do không khí sa mạc và ánh mặt trời chói chang bày ra.  
Điềm chẳng lành.  
Có những ngày, tôi thấy thật khó tập trung vào nhiệm vụ đầu bếp chế biến thức ăn nhanh cừ khôi theo đúng khả năng. Sáng nay, tôi sẽ cần nhiều thứ hơn tinh thần kỷ luật thông thường để dồn tâm trí vào công việc và để bảo đảm món trứng tráng, khoai tây, món bánh mì kẹp thịt băm và thịt xông khói ra lò từ vỉ nướng của tôi tương xứng với danh tiếng.

Chương 5

- Trứng, đánh, thêm, - giọng bà Helen Arches vang vang.  
- Một lợn ngồi, thịt băm chín vàng, đá cuội nhét tim.
Bà kẹp tờ giấy vào thanh ngang treo phiếu gọi món ăn, chộp lấy ống cà phê mới pha và đến châm đầy ly cho thực khách.  
Bà Helen giữ vai trò nhân viên phục vụ xuất sắc đã bốn mươi hai năm qua, kể từ khi mới mười tám tuổi. Sau rất nhiều năm làm tốt công việc, mắt cá chân của bà đã cứng và hai chân bẹt ra, thế nên mỗi khi bà đi lại, đôi giày nhịp lên sàn theo từng bước.  
Âm thanh “phạch phạch” khe khẽ là một trong những nhịp điệu không thể thiếu của khúc nhạc cực hay ở Quán Vỉ nướng Pico Mundo này, đồng hành cùng tiếng xèo xèo phù phù của những món ăn đang chế biến, tiếng leng keng của muỗng nĩa, tiếng lách cách của chén đĩa. Những cuộc chuyện trò của thực khách và nhân viên mang đến giai điệu cho khúc nhạc.  
Sáng thứ Ba ấy, chúng tôi bận túi bụi. Tất cả các bàn đều đầy ắp người, hai phần ba số ghế đặt tại quầy cũng chật kín.  
Tôi thích được bận rộn. Vị trí đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh là chức vụ trọng tâm của quán ăn, rõ ràng là thế, và tôi thu hút lượng người hâm mộ chẳng khác gì diễn viên trên sân khấu Broadway.  
Là đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh làm việc theo ca cũng na ná như trở thành người chỉ huy dàn nhạc giao hưởng nhưng không có cả nhà soạn nhạc lẫn khán giả. Bạn đứng ở tư thế sẵn sàng “chiến đấu” với cái tạp dề thay cho bộ com lê, cầm xẻng thay vì cầm que điều khiển dàn nhạc, khao khát thể hiện tài năng nghệ thuật không phải của nhạc sĩ mà là của loài gà.  
Trứng là nghệ thuật, chắc chắn rồi. Nếu một ai đó buộc phải chọn lựa giữa Beethoven và đĩa trứng chiên bơ lúc đói meo thì lúc nào họ cũng sẽ chọn đĩa trứng, hay thực ra là con gà, và người đó sẽ thấy tâm hồn mình bay bổng, chí ít cũng lâng lâng như khi nghe nhạc lễ, ngâm thơ hay một bản xô-nát.  
Bất cứ ai cũng có thể đập trứng và đổ ra chảo, nồi to hoặc nồi nhỏ, nhưng mấy ai làm được món trứng tráng thơm ngon láng mịn và món trứng ốp la ngon lành như của tôi.  
Không phải hãnh diện khoe khoang đâu nhé. À thì cũng có hãnh diện, nhưng là hãnh diện về thành quả, vẫn hơn kiêu căng hay khoác lác.  
Tôi không chào đời với tài năng của một chuyên gia nấu ăn thiên bẩm. Tôi thông thạo nhờ vào quá trình học hành dưới sự dìu dắt của Terri Stambaugh, chủ nhân Quán Vỉ nướng Pico Mundo.  
Trong khi những người khác không thấy triển vọng gì nơi tôi, cô Terri tin vào tiềm năng của tôi và cho tôi cơ hội. Tôi phấn đấu đáp lại niềm tin của cô bằng món bánh mì kẹp thịt băm phô mai có chất lượng không chê vào đâu được và món bánh kếp gần như mỏng nhẹ đến mức có thể trôi nổi ra khỏi đĩa.
Cô Terri không chỉ là chủ mà còn kiêm cả vai trò giáo viên dạy nấu nướng, người mẹ nuôi và người bạn của tôi.  
Hơn thế nữa, cô còn là chuyên gia hàng đầu về Elvis Presley. Bạn cứ đưa ra bất kỳ ngày tháng nào trong cuộc đời ông vua nhạc Rock ‘n’ Roll đó, cô Terri sẽ không chút do dự nói ngay cho bạn biết hôm ấy, ông ở đâu và làm gì.  
Trái lại, tôi nắm rõ những hoạt động sau khi đã chết của ông.  
Không cần xem qua tờ giấy bà Helen kẹp trên thanh ngang, tôi thêm cho một phiếu gọi món, có nghĩa tôi cho cái trứng thứ ba vào phần ăn hai trứng bình thường. Sau đó tôi đánh, tức khuấy trứng lên.  
Một “Lợn ngồi” tức là món thịt đùi rán vàng. Con lợn ngồi lên đùi của nó, nằm trên bụng của nó. Bụng là phần bắt đầu chỗ thịt ở hông, thế nên một “lợn nằm” là từ dùng để chỉ món thịt cắt lát ăn kèm trứng.  
“Đá cuội nhét tim” là cách gọi món bánh mì nướng phết thêm nhiều bơ.  
Thịt băm chín vàng đơn thuần là thịt băm chín vàng. Không phải từ ngữ nào chúng tôi sử dụng trong ngày cũng là tiếng lóng ở quán ăn, hệt như không phải đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh nào cũng nhìn thấy được hồn người chết.  
Suốt ca làm việc ngày thứ Ba đó, tôi chỉ thấy những người còn sống có mặt trong Quán Vỉ nướng Pico Mundo. Bạn luôn luôn phát hiện được người đã khuất trong quán vì họ không ăn uống gì cả.
Đến tận cuối giờ điểm tâm đông khách, cảnh sát trưởng Wyatt Porter mới xuất hiện. Ông ngồi một mình một bàn.  
Như thường lệ, ông nuốt ực viên thuốc Pepcid AC [Thuốc trị chứng ợ nóng mãn tính] bằng ly sữa ít béo trước khi gọi một đĩa đầy ắp khoai tây và trứng như đã nói khi nãy. Nước da của ông xám trắng như dung dịch phenol.  
Cảnh sát trưởng khẽ cười và gật đầu với tôi. Tôi giơ xẻng lên đáp lại.
Cho dù có thể cuối cùng tôi đổi nghề nấu ăn sang kinh doanh lốp xe nhưng không bao giờ tôi dự tính đến chuyện chuyển qua lĩnh vực thi hành luật. Đó là một công việc bạc bẽo và gặm mòn dạ dày.  
Vả lại, tôi sợ súng ống.  
Khi khách khứa chỉ còn chiếm một nửa số bàn và hai cái ghế đặt tại quầy thì một ông kẹ vào quán.  
Bọn chúng không có khả năng đi xuyên tường như những người chết giống Penny Kallisto. Thay vào đó, chúng luồn lách qua bất cứ kẽ hở hay đường nứt nào, hoặc qua lỗ khóa.  
Ông kẹ này len lỏi qua khoảng hở mảnh như sợi chỉ giữa tấm kính cửa sổ với khung cửa kim loại. Hệt như dải khói dập dờn, mong manh tựa làn hơi nhưng không trong mờ mà đen ngòm, ông kẹ xâm nhập vào quán.  
Đứng yên nhiều hơn lượn lờ bằng tứ chi, hình thù biến đổi và không có đặc điểm rõ ràng, gợi nhớ đến một sinh vật nửa người nửa chó, vị khách không mời này lặng lẽ đi lừ đừ từ đầu quán đến cuối quán, không ai nhìn thấy nó trừ tôi.
Dường như nó quay đầu nhìn từng thực khách của quán trong lúc lướt dọc lối đi giữa bàn ăn và mấy cái ghế đặt tại quầy, ngập ngừng đôi lần như thể có một số người khiến nó hứng thú hơn hẳn những người khác. Tuy không sở hữu đặc điểm khuôn mặt rõ ràng nhưng một phần cái bóng của nó trông như phần đầu làm người ta liên tưởng đến cái mõm chó.  
Cuối cùng sinh vật này từ cuối quán quay trở lên và đứng bên ngoài quầy, nó không có mắt nhưng chắc chắn nó đang nhìn tôi trong lúc tôi phục vụ thức ăn nhanh.  
Vờ như không nhận thấy đối tượng đang quan sát mình, tôi tập trung chú ý vào thức ăn và vỉ nướng hơn hẳn mức cần thiết vì hiện thời giờ cao điểm đã trôi qua. Thỉnh thoảng, lúc ngước lên, tôi không hề liếc nhìn ông kẹ mà chỉ nhìn thực khách, nhìn bà Helen đang bưng bê với âm thanh phạch phạch quen thuộc, nhìn Bertie Orbic, một nhân viên phục vụ khác của quán, dễ thương, đẫy đà như đúng tên gọi, nhìn những khung cửa sổ to lớn và nhìn con đường nóng đổ lửa xa xa ngoài kia. Ngoài đó, những cây lan dạ hương gục xuống ủ rũ đến mức không tạo được bóng râm và mấy con rắn bị dụ khị ló mặt ra đường nhựa không phải do tiếng sáo du dương mà bởi tiếng xèo xèo khe khẽ của mặt trời.  
Đôi lúc bọn ông kẹ quan tâm đặc biệt đến tôi, cũng như lần này. Tôi không hiểu vì sao.  
Tôi không nghĩ chúng nhận ra tôi biết sự có mặt của chúng. Nếu chúng biết tôi có thể nhìn thấy chúng, chắc tôi nguy to.  
Bọn ông kẹ không rắn chắc gì hơn những cái bóng nên tôi không rõ chúng có thể hại tôi bằng cách nào. Nhưng tôi không hăm hở khám phá điều đó đâu nhé.  
Sinh vật có mặt hiện giờ hình như mê mẩn với trình tự chế biến thức ăn nhanh, nó chỉ thôi chăm chăm vào tôi khi có một thực khách kỳ quặc bước vào quán.  
Trong cái không khí sa mạc ngày hè như muốn nướng chín mọi cư dân của thị trấn Pico Mundo, người khách mới đến lại trông tái nhợt như bột nhão. Mái tóc ngắn xỉn vàng trên đầu gã bù xù hơn cả ụ đất bị xới tung.  
Gã ngồi tại quầy, không xa khu vực phục vụ thức ăn nhanh. Xoay ghế vòng quanh như một đứa trẻ hiếu động, gã dán mắt vào vỉ nướng, máy xay sinh tố và người pha chế thức uống không cồn, ra chiều hơi ngạc nhiên và thích thú.  
Không màng đến tôi nữa, ông kẹ đổ dồn ánh mắt về phía người khách mới tới và chăm chú nhìn xoáy vào gã. Nếu phần trên cùng của sinh vật đen như mực đó đúng thực là cái đầu thì cái đầu của nó hết quay sang trái lại hất sang phải, như thể nó đang bối rối trước cái gã hớn hở kia. Nếu phần hình thù như cái mũi kia đúng thực là cái mũi thì nó đang đánh hơi một cách tinh ranh thèm khát.  
Đứng phía trong quầy phục vụ, Bertie Orbic chào đón vị thực khách mới, “Chào anh, anh muốn dùng gì?”  
Vừa mỉm cười vừa lên tiếng, gã nói khẽ đến mức tôi không thể nghe được gì. Bertie trông có vẻ ngạc nhiên nhưng sau đó chị ta bắt đầu hí hoáy viết lên tờ phiếu gọi món.  
Đôi mắt được phóng đại to tướng sau cặp kính tròn có gọng kim loại của gã khách đó khiến tôi bối rối. Ánh mắt mang màu xám khói của gã lướt qua tôi như bóng tối lướt qua hồ nước trong rừng, biểu lộ sự nhận biết về tôi không hơn gì bóng tối nhận biết làn nước.  
Những đường nét mong manh trên khuôn mặt nhợt nhạt của gã khiến tôi nhớ lại mấy cây nấm tái mét đã từng thoáng thấy trong góc tầng hầm tối tăm ẩm ướt và những cây nấm trứng trắng bệch mọc um tùm tại các ụ đất ẩm trong rừng cây sồi.  
Bận bịu với đĩa trứng đầy ắp, xem ra cảnh sát trưởng Porter để mắt đến Gã Nấm cũng không hơn gì tên ông kẹ hay nhìn ngó kia. Rõ ràng, trực giác không nói với ông rằng vị khách mới này cần được chú ý hay quan tâm đặc biệt.  
Thế nhưng tôi thấy Gã Nấm có thể vướng vào rắc rối, một phần chứ không hoàn toàn, bởi lẽ ông kẹ vẫn bị mê hoặc trước gã.
Tuy xét theo một mặt nào đó, tôi gần gũi với những người chết nhưng tôi không có được linh cảm đoán biết trước, trừ một đôi lần trong giấc ngủ chập chờn thoáng qua và trong cơn mơ. Thức dậy, tôi vẫn dễ bị tấn công bởi những điều bất ngờ gây nguy hại cho tính mạng như bất kỳ người nào. Cái chết có thể giáng xuống tôi qua nòng súng của một tên khủng bố hay bởi một gờ đá rơi xuống trong trận động đất, và đến khi nào nghe thấy tiếng nổ của phát súng chí mạng hay cảm nhận mặt đất rung chuyển dữ dội dưới chân, tôi mới ngờ vực về hiểm nguy.  
Chuyện tôi đề phòng gã này xuất phát từ mối nghi ngờ không phải dựa vào lý trí mà theo bản năng thuần túy. Bất cứ ai không ngớt cười nhạo điều này đều là tên ngốc, hoặc kẻ dối trá có điều phải giấu giếm.  
Đôi mắt xám khói ấy tỏ vẻ ngạc nhiên và lờ đờ, song tôi nhìn thấy trong đó không hề có chút ngờ nghệch nào. Thực ra, tôi nghĩ mình đã phát hiện một ánh nhìn theo dõi được che đậy thật gian xảo, như kiểu con rắn sắp tấn công, lặng như tờ giả vờ dửng dưng trước con chuột béo bở.  
Kẹp tờ giấy vào thanh ngang, Bertie Orbic nhắc lại yêu cầu của gã ấy: “Hai con bò, làm chúng khóc, đắp chăn lên, cho heo vào làm bạn”.
Hai bánh mì kẹp thịt băm có hành tây, pho mát và thịt lợn muối xông khói.  
Bằng giọng ngọt ngào trong trẻo nghe như của một bé gái mười tuổi được dành sẵn học bổng vào nhạc viện Juilliard, Bertie tiếp tục, “Hai cái khoai gấp đôi dưới địa ngục”.  
Hai phần thịt rán kiểu Pháp thêm nhiều khoai tây.  
Chị nói: “Nướng hai thằng Anh, gửi đến Philly cho cá”. [Philly là tên thông tục của thành phố Philadelphia]
Hai phần bánh nướng xốp kiểu Anh với phô mai làm bằng sữa và phi lê cá hồi.  
Chị chưa dứt lời: “Dọn sạch bếp, thêm thứ gây đánh rắm loại nửa đêm với khinh khí cầu”.  
Một phần thịt băm và một phần đậu đen với xúc xích.
Tôi hỏi:
- Giờ nấu luôn hay chờ bạn của anh ta đến?
- Nấu luôn, - Bertie đáp. - Chỉ một người ăn thôi. Gầy trơ xương như em không hiểu đâu.
- Anh ta muốn ăn món gì đầu tiên?
- Em muốn làm món gì trước cũng được.
Gã Nấm mỉm cười vu vơ với lọ muối gã đang xoay trở loanh quanh trên quầy phục vụ trước mặt, như thể thứ hạt trắng kết tinh nằm bên trong thôi miên và phỉnh phờ gã.  
Tuy gã không có vóc dáng săn chắc để đủ tiêu chuẩn làm người đại diện cho câu lạc bộ rèn luyện sức khỏe nhưng gã không béo ú, chỉ hơi tròn trịa kiểu cây nấm. Nếu bữa ăn nào của gã cũng phong phú dồi dào như thế này thì chắc hẳn gã phải có sự chuyển hóa methamphetamine [một loại ma túy] của một ác quỷ đảo Tasmania. [Ác quỷ đảo Tasmania (Tasmanian devil) là loài động vật ăn thịt có túi lớn nhất thế giới có mặt trên đảo Tasmania, Australia].  
Tôi nướng bánh và làm món bánh xốp trước, trong khi đó Bertie chuẩn bị socola sữa trứng và coca hương vani. Vị khách “quý hóa” của chúng tôi cũng là người khéo chọn thứ uống.  
Đúng lúc tôi làm thịt băm và xúc xích sau món bánh xốp, ông kẹ thứ hai xuất hiện. Tên này và tên thứ nhất khi nãy di chuyển khắp quán ăn với dáng vẻ bối rối, đi tới đi lui, rảo qua rảo lại, luôn trở về chỗ gã khách phàm ăn hớn hở kia, người vẫn không biết gì về chúng.  
Khi món bánh mì kẹp thịt băm phô mai kèm thịt lợn xông khói và món thịt rán chín kỹ đã sẵn sàng, tôi đập một tay lên cái chuông nằm cạnh vỉ nướng để báo cho Bertie biết thức ăn đã xong. Như thường lệ, Bertie dọn thức ăn còn nóng sốt, nhẹ nhàng bày đĩa lên quầy không một tiếng lách cách.  
Ba tên ông kẹ tụ tập tại cửa sổ phía trước, những cái bóng dai dẳng vẫn trơ trơ trước sức mạnh gây tàn úa của mặt trời vùng sa mạc, chúng săm soi như thể chúng tôi là vật trưng bày.  
Đã nhiều tháng qua tôi không chạm trán tên nào thuộc hạng này. Bọn ông kẹ chạy trên đường tôi thấy khi nãy và đám tập hợp lúc này báo hiệu thị trấn Pico Mundo đang lâm vào thời điểm gay go.  
Ông kẹ kết giao với tử thần còn hơn cả cách loài ong tìm kiếm mật hoa. Dường như chúng nhấm nháp cái chết.  
Thế nhưng cái chết thông thường không thu hút nổi một ông kẹ, huống chi cả bầy lũ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một tên trong đám quái vật này lởn vởn cạnh giường một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối hay lượn lờ quanh người sắp lên cơn đau tim dẫn đến tử vong.
Bạo lực lôi cuốn chúng. Và nỗi khiếp đảm. Dường như chúng biết khi nào sự việc xảy đến. Chúng tụ họp như đám người lang thang chờ đợi chuyện đã được báo trước rằng trong công viên Yellowstone sẽ có mạch nước phun trào.  
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một tên trong bọn chúng bám theo Harlo Landerson vào những ngày trước khi Harlo giết Penny Kallisto. Tôi không biết có ông kẹ nào hiện diện khi Harlo cưỡng hiếp và bóp cổ cô bé không.  
Đối với Penny, tử thần ập tới cùng cơn đau khủng khiếp và nỗi sợ vô bờ; chắc chắn từng người trong chúng ta đều cầu nguyện, hay chỉ hy vọng, tùy thuộc vào niềm tin đối với Chúa trời, mong sao cái chết của mình sẽ không kinh hoàng như cái chết của cô bé. Tuy vậy, đối với ông kẹ, vụ bóp cổ lén lút đó dường như không đủ hứng thú để kích động chúng ló dạng ra khỏi những hang ổ chúng ẩn náu, trong một lãnh địa lạ lẫm nào đó là mái nhà thực sự của chúng. 
Bọn ông kẹ thèm thuồng nỗi kinh hãi cùng cực. Chúng khát khao màn bạo lực xung đột đỉnh cao: vô số xác chết yểu nêm thêm gia vị hoảng loạn kéo dài, dọn kèm món nước sốt hôi thối sền sệt mang tên tàn ác.  
Năm tôi chín tuổi, một gã thanh niên suy nhược do ma túy tên là Gary Tolliver đã cho cả nhà hắn, gồm em trai, em gái, bố mẹ, uống thuốc an thần bằng cách pha vào nồi súp gà nấu tại nhà. Họ bị hắn trói trong lúc ngất, hắn chờ họ tỉnh lại rồi dành trọn kì nghỉ cuối tuần để tra tấn họ trước khi giết chết bằng máy khoan.  
Suốt tuần lễ trước ngày diễn ra hành động mất nhân tính ấy, tôi đi qua lối nhà Tolliver hai lần. Lần đầu tiên, có ba tên ông kẹ hí hửng bám sát theo hắn. Lần thứ hai: không phải ba mà là mười bốn tên.  
Tôi tin chắc những hình thù đen ngòm kia lởn vởn quanh nhà Tolliver suốt kỳ cuối tuần đẫm máu, vô hình trước mắt nạn nhân cũng như kẻ thủ ác, lượn lờ từ phòng này sang phòng khác khi hiện trường thay đổi. Quan sát. Đánh chén.  
Hai năm sau, một chiếc xe tải do gã tài xế say rượu điều khiển đâm sầm vào máy bơm xăng tại trạm xăng đông khách trên đường Green Moon, châm ngòi cho vụ nổ và cuộc hỏa hoạn cướp đi bảy sinh mạng. Sáng hôm ấy, tôi nhìn thấy cả tá ông kẹ lây lất tại đó như những cái bóng ở sai vị trí trong ánh nắng sớm.  
Sự phẫn nộ của thiên nhiên cũng lôi cuốn đám ông kẹ. Chúng náo động cả lên trước tàn tích của Viện Dưỡng lão tại Buena Vista sau trận động đất mười tám tháng trước, và không chịu rời đi đến khi người sống sót bị thương cuối cùng được đưa ra khỏi đống đổ nát.  
Nếu đi ngang qua Buena Vista trước khi xảy ra trận động đất, chắc chắn tôi sẽ chứng kiến cảnh đám ông kẹ tụ tập. Biết đâu tôi còn có thể cứu được vài người.  
Khi còn nhỏ, thoạt đầu tôi tưởng những cái bóng này là linh hồn xấu xa nuôi dưỡng cái ác trong con người những kẻ chúng bu quanh. Từ đó đến nay, tôi khám phá ra rằng rất nhiều người không cần đến thế lực siêu nhiên chỉ dẫn để phạm phải tội ác; một số kẻ bản thân chúng đã là ác quỷ, những cái sừng làm lộ chân tướng đã mọc ngược vào trong để chúng dễ bề cải trang.  
Tôi dần tin rằng xét cho cùng, bọn ông kẹ không nuôi dưỡng nỗi kinh hoàng mà chúng hút chất bổ từ nỗi kinh hoàng theo cách nào đó. Tôi coi chúng như loài ma cà rồng siêu linh, tương tự nhưng đáng sợ hơn những người dẫn các chương trình trò chuyện trên truyền hình buổi sáng. Các chương trình đó cứ đề cao mấy vị khách tự hủy hoại bản thân, biểu lộ cảm xúc ngượng ngập, những người được khuyến khích bộc lộ phần linh hồn bị tổn hại của mình.  
Hiện Gã Nấm được bốn tên ông kẹ trong Quán Vỉ nướng Pico Mundo “trông nom” và những tên khác theo dõi ngoài cửa sổ. Gã nuốt trôi miếng thịt cuối cùng, ực hết sữa trứng và coca hương vani, để lại khoản tiền bo hào phóng cho Bertie, chìa séc thanh toán ở quầy thu ngân rồi rời quán ăn cùng đoàn tùy tùng lượn lờ đầy những cái bóng trơn tuột.  
Xuyên qua ánh dương chói lòa, xuyên qua làn hơi mờ ảo bốc lên từ mặt đường nhựa bị nung nóng, tôi quan sát gã băng qua đường. Khó đếm hết được những tên ông kẹ đi hai bên và phía sau gã vì chúng chen chúc lấn át nhau, nhưng tôi dám cá một tuần tiền lương rằng có không dưới hai mươi tên.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét