Giao lộ sinh tử
Tác giả: Dean Koontz
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011
Chương 47
Nicolina Peabody, năm tuổi, mang giày hồng, mặc quần lửng hồng
và áo thun hồng. Đồng hồ đeo tay của cô bé có dây nhựa màu hồng và trên mặt số
có hình một gương mặt chú heo màu hồng.
- Khi nào con đủ lớn để tự mua quần áo cho mình, - con bé
nói với tôi, - con sẽ không mặc gì khác ngoài màu hồng, hồng và hồng, mọi ngày,
quanh năm suốt tháng, mãi mãi.
Levanna Peabody, cô bé chẳng mấy chốc sẽ tròn bảy tuổi, đảo
mắt và nói.
- Ai cũng nghĩ em là một ả đứng đường cho coi.
Bước vào phòng khách với ổ bánh kem mừng sinh nhật đặt trên
đĩa, bên dưới một nắp vung thủy tinh trong suốt, chị Viola kêu lên:
- Levanna! Nói vậy thật xấu miệng. Chỉ chút xíu nữa thôi là
con mắc tội ăn nói láo lếu và hai tuần cúp tiền quà vặt đấy.
- Ả đứng đường là gì? - Nicolina hỏi.
- Một đứa mặc toàn đồ màu hồng và hôn đàn ông vì tiền, -
Levanna đáp bằng giọng từng trải sành đời.
Khi tôi đỡ ổ bánh từ tay chị Viola, chị nói:
- Chị lấy thùng sách là đi được rồi.
Tôi rảo nhanh khắp ngôi nhà. Không ông kẹ nào ẩn núp trong
xó xỉnh.
Nicolina nói:
- Nếu em hôn đàn ông miễn phí thì em có thể mặc đồ toàn màu
hồng và không phải là một ả đứng đường.
- Nếu em hôn miễn phí cả khối đàn ông, em sẽ là một con nhỏ
hư đốn, - Levanna nói.
- Levanna đủ rồi! - Chị Viola la rầy.
- Nhưng mẹ ơi, - Levanna kêu lên, - sớm muộn gì em nó cũng
phải biết thế giới này thế nào chứ.
Để ý thấy sự thích thú của tôi và lý giải nó bằng khả năng
vượt trội. Nicolina đáp trả lại cô chị:
- Chị thậm chí còn không biết ả đứng đường là gì, chị chỉ tưởng
mình biết thôi.
- Chị biết chứ, không tin thì thôi, - Levanna quả quyết một
cách chảnh chọe.
Bọn trẻ đi trước tôi xuống lối nhỏ dẫn đến chỗ chiếc xe của
bà Sanchez đậu ở lề đường.
Khóa cửa xong, chị Viola bước theo sau. Chị đặt thùng sách
vào ghế sau chỗ bọn trẻ ngồi rồi lên ngồi phía trước. Tôi đưa ổ bánh cho chị và
đóng cửa xe.
Buổi sáng sa mạc trong trẻo, rực sáng và đứng gió. Bầu trời
như một cái vạc gốm sứ xanh biếc úp ngược đổ xuống những luồng hơi khô nóng.
Mặt trời vẫn nằm đằng đông, mọi cái bóng đổ dài về hướng
tây, như thể khao khát muốn có đường chân trời mà màn đêm còn che kín. Và dọc
theo con phố lặng gió, chỉ mình bóng tôi di chuyển.
Nếu có các thực thể siêu nhiên thì lúc này chúng không hiện
lên.
Khi tôi vào xe và nổ máy, Nicolina nói:
- Con không bao giờ hôn bất kỳ người đàn ông nào, dù thế nào
đi nữa, con hôn mẹ, chị Levanna và dì Sharlene thôi.
- Lớn lên em sẽ muốn hôn đàn ông, - Levanna dự đoán.
- Không đâu.
- Có đấy.
- Không mà, - Nicolina tuyên bố chắc nịch. - Chỉ có chị, mẹ,
dì Sharlene và Cheevers nữa.
- Cheevers là con trai, - Levanna nói trong lúc tôi cho xe
ra khỏi lề và bắt đầu tiến đến nhà Sharlene.
Nicolina cười khúc khích:
- Cheevers là con gấu.
- Thằng đó là con gấu đực.
- Bạn ấy là gấu bông.
- Nhưng nó vẫn là con trai, - Levanna quả quyết. - Thấy
chưa, chuyện này đã bắt đầu rồi đấy, em muốn hôn bọn đàn ông con trai.
- Em không phải đứa hư đốn, - Nicolina khăng khăng. - Em sẽ thành
bác sĩ chăm sóc chó.
- Đó gọi là bác sĩ thú y, và người ta không mặc toàn màu hồng,
hồng và hồng, mọi ngày, quanh năm suốt tháng mãi mãi.
- Em sẽ là người đầu tiên làm vậy.
- Vậy thì, - Levanna nói, - nếu chị có chú chó bị ốm và em
là bác sĩ thú y mặc đồ toàn màu hồng thì chị nghĩ mình vẫn sẽ đưa chó đến chỗ
em vì chị biết em sẽ giúp nó khỏe lên.
Theo lộ trình vòng vèo, kiểm tra kính chiếu hậu, tôi lái qua
sáu khu nhà để đến hai khu cách xa trên đường Maricopa Lane.
Dọc đường đi, chị Viola dùng điện thoại của tôi gọi cho cô
em để bảo rằng chị đang đưa bọn trẻ qua chơi.
Ngôi nhà ván ghép màu trắng sạch sẽ nằm trên Maricopa có cửa
chớp màu xanh dừa cạn và những cây cột xanh dương ở mái hiên. Ngoài hiên nơi tụ
họp hàng xóm là bốn xích đu và một ghế đánh đu.
Sharlene đang ngồi xích đu khi chúng tôi ngừng xe ở lối vào.
Chị là một phụ nữ to lớn với nụ cười tươi rói và giọng nói
du dương lý tưởng cho một ca sĩ dàn đồng ca, đó vốn là công việc của chị.
Posey, chú chó lông vàng, nhổm dậy khỏi sàn nhà dưới mái hiên,
đứng cạnh chị, vẫy lia lịa cái đuôi đẹp đẽ của nó, háo hức khi trông thấy bọn
trẻ, ở yên tại chỗ không phải nhờ dây buộc mà do mệnh lệnh nhẹ nhàng của chủ
nhân.
Tôi mang bánh kem vào bếp, tại đó tôi lịch sự từ chối khi chị
Sharlene mời dùng đá chanh, bánh táo, ba loại bánh quy khác nhau và đậu phộng
giòn.
Nằm trên sàn chống bốn chân lên trời, móng vuốt cụp xuống,
Posey nằn nì muốn được xoa bụng và bọn trẻ nhanh chóng làm điều đó.
Tôi quỳ một chân và gây gián đoạn lúc đầu để nói lời chúc mừng
sinh nhật Levanna. Tôi trao cho mỗi đứa trẻ một cái ôm siết.
Bọn trẻ có vẻ nhỏ nhắn và mong manh quá đỗi. Thế nên chỉ cần
chút sức lực cũng đủ bóp nát chúng, bóc toạc chúng ra khỏi thế giới này. Tình
trạng dễ bị xâm hại của chúng khiến tôi lo sợ.
Chị Viola theo tôi ra đến tận hiên trước, tới đó chị lên tiếng.
- Em đưa cho chị tấm hình cái gã mà chị phải coi chừng nhé.
- Chị không cần nữa đâu. Gã... hết hình rồi.
Đôi mắt to tròn của chị chứa đầy sự tin cậy mà tôi không
đáng nhận.
- Odd, nói thật cho chị biết đi, em có còn thấy sự chết chóc
nơi chị không?
Tôi không biết chuyện gì sẽ đến nhưng dù buổi ban ngày ở sa
mạc tạo cảm giác sáng chói mắt tôi những giác quan thứ sáu của tôi lại thấy nó
có vẻ đen tối dữ dội, với tiếng sấm vang rền sắp xảy tới. Thay đổi kế hoạch của
họ, hoãn buổi xem phim và ăn tối tại Quán Vỉ nướng, như vậy chắc chắn đã đủ để
thay đổi số phận của họ. Chắc chắn.
- Chị ổn rồi. Bọn trẻ cũng vậy.
Ánh mắt chị nhìn vào mắt tôi dò xét và tôi không dám quay
đi.
- Thế còn em thì sao, Odd? Bất kể chuyện gì xảy đến... có lối
nào cho em đi qua để đến nơi an toàn không?
Tôi gượng cười:
- Em biết tất cả mọi thứ về Thế giới bên kia và Kiếp sau mà
chị nhớ không?
Chị dán chặt mắt vào tôi thật lâu, sau đó vòng tay qua người
tôi. Chúng tôi ôm nhau thật chặt.
Tôi không hỏi chị Viola rằng chị có thấy sự chết chóc nơi
tôi không. Chị chưa bao giờ tuyên bố có khả năng đoán trước... vậy mà tôi sợ chị
sẽ trả lời là thấy.
Chương 48
Một lúc lâu sau khi chương trình “Cả đêm với Shamus
Cocobolo” kết thúc trên đài và giai điệu nhạc Glenn Miller vượt lên tầng bình
lưu hướng đến những vì sao xa, không còn đĩa nhạc Elvis vỗ về, tôi mới thơ thẩn
ra đường phố thị trấn Pico Mundo trong cái thinh lặng của mặt trời, tự hỏi
nguyên bọn ông kẹ đã đi đâu.
Tại trạm xăng, tôi ngừng lại đổ đầy bình xăng chiếc Chevy và
vào nhà vệ sinh.
Trong tấm gương vằn vện phía trên bồn rửa mặt, khuôn mặt tôi
trưng ra hình ảnh một người bị săn lùng, phờ phạc và mắt trũng sâu.
Qua siêu thị nhỏ ngay sát bên, tôi mua chai Pepsi nắp vặn và
một lọ nhỏ viên nén chứa caffeine.
Với sự hỗ trợ hóa học của No-Doz, nước ngọt và đường
trong đĩa bánh bà Sanchez đã đưa, tôi còn giữ được tỉnh táo. Có suy nghĩ thông
suốt đầy đủ hay không với chế độ ăn uống như vậy thì cũng phải chờ đến khi đạn
bắt đầu bay loạn xạ, mọi chuyện mới hoàn toàn rõ ràng.
Thiếu tên tuổi hay mặt mũi để gán cho đồng bọn của
Robertson, sức hút siêu linh sẽ không dẫn tôi đến đối tượng. Loanh quanh bừa,
tôi sẽ chẳng đến được nơi nào cho ra hồn.
Với ý định rõ ràng, tôi lái xe đến Camp’s End.
Đêm hôm trước, cảnh sát trưởng cử người giám sát ngôi nhà của
Robertson, thế nhưng toán canh gác hình như đã rút khỏi đó. Vì cảnh sát trưởng
bị bắn và toàn bộ Sở Cảnh sát chấn động nên có người quyết định chuyển nhân lực
đến nơi khác.
Bất chợt tôi nhận ra có thể vụ cảnh sát trưởng bị bắn không
phải chỉ nhằm giăng bẫy cho tôi vướng vào tội mưu sát thứ hai. Biết đâu đồng bọn
của Robertson muốn thủ tiêu ông Wyatt Porter nhằm bảo đảm Sở Cảnh sát thị trấn
Pico Mundo sẽ bấn loạn, rối beng và chậm ứng phó trước mọi khủng hoảng đang đến
gần.
Thay vì đậu xe đối diện, cách xa ngôi nhà gỗ nhỏ trát vữa
vàng nhạt có cánh cửa chính màu xanh dương phai mờ, tôi để chiếc Chevy ngay lề
đường phía trước nơi đó. Tôi đi băng băng đến nhà để xe.
Bằng lái xe của tôi tiếp tục phát huy tác dụng. Then cửa bật
mở và tôi bước vào gian bếp.
Tôi đứng ngay ngưỡng cửa nghe ngóng tới cả phút. Tiếng o o của
tủ lạnh. Tiếng tích tắc và cọt kẹt khe khẽ cho thấy sự giãn nở đều đặn của các
khớp bản lề trong ngôi nhà cũ kỹ dưới sức nóng gia tăng của buổi sáng sớm.
Bản năng mách bảo tôi chỉ có một mình.
Tôi đi thẳng tới căn phòng làm việc ngăn nắp. Hiện thời, nó
không còn là ga tàu đón các ông kẹ.
Từ bức tường trên ngăn tủ đựng hồ sơ, McVeigh, Manson và
Atta nhìn tôi như biết rõ mọi chuyện.
Tôi xem xét các ngăn tủ tại bàn làm việc một lần nữa, tìm kiếm
những cái tên. Lần trước đến đây, tôi đã ngắm nghía một cuốn sổ địa chỉ nhỏ có
vẻ không mấy quan trọng, nhưng lần này tôi lật xem từng trang một cách chăm
chú.
Quyển sổ chứa đựng chưa đầy bốn mươi danh tính và địa chỉ.
Không cái nào gây cho tôi sự chú ý.
Tôi không xem xét lại bản kê khai của ngân hàng mà chỉ nhìn
chằm chằm dãy số, nghĩ ngợi về năm mươi tám ngàn đôla tiền mặt gã đã rút trong
hai tháng qua. Hơn bốn ngàn đôla nằm trong túi quần gã khi tôi phát hiện cái xác.
Nếu bạn là một tên biến thái giàu có khoái tài trợ cho các
“tiết mục” giết người hàng loạt được lên kế hoạch tỉ mỉ thì bạn có thể thưởng
ngoạn hiện trường đổ máu rộng lớn đến mức nào với khoản tiền xấp xỉ năm mươi bốn
ngàn đôla?
Thậm chí thiếu ngủ, nhức đầu bưng bưng vì viên thuốc
caffeine và chất đường, tôi cũng có thể trả lời câu hỏi trên không chút đắn đo:
rất rộng lớn. Bạn có thể “tậu” được ba đấu trường chết chóc - đạn, chất nổ, khí
độc, bất cứ thứ gì chỉ trừ quả bom hạt nhân.
Đâu đó trong ngôi nhà, một cánh cửa được đóng lại. Không có
tiếng sập mạnh. Rất nhẹ nhàng, với một tiếng thịch và lách cách khe khẽ.
Rón rén nhưng lẹ làng, tôi đi đến cánh cửa để mở cửa phòng
làm việc. Tôi bước ra hành lang.
Không thấy kẻ đột nhập nào. Ngoại trừ tôi.
Cửa phòng tắm và phòng ngủ để mở như trước đây.
Trong phòng ngủ, cửa tủ là cửa trượt. Vậy nó không thể gây
ra âm thanh tôi vừa nghe.
Biết rằng cái chết thường là cú đáp trả cho sự khinh suất và
nhát gan, tôi thận trọng và hấp tấp ào ra phòng khách. Vắng tanh.
Cánh cửa lò xo ở bếp không thể phát ra âm thanh lúc nãy. Cửa
dẫn vào nhà vẫn đóng như cũ.
Bên góc trái phía trước phòng khách có một cái tủ. Trong tủ:
hai áo vét, vài hộp bìa cứng đóng kín, một cái ô.
Trong bếp. Không một bóng người.
Biết đâu kẻ đột nhập đã bỏ đi. Điều đó có nghĩa ai đó đã ở
trong ngôi nhà khi tôi đến và chuồn đi khi tôi không để ý.
Mồ hôi rịn trên trán. Một giọt lăn dài xuống gáy và theo
xương sống chảy đến xương cụt.
Cái nóng buổi sáng không phải nguyên nhân duy nhất khiến tôi
toát mồ hôi.
Tôi trở vào phòng làm việc và bật máy vi tính. Tôi mở thử
các chương trình của Robertson, lướt qua các thư mục và tìm thấy một kho những
thứ bậy bạ mà gã đã tải về từ Internet. Các tập tin tranh ảnh ác dâm. Hình
khiêu dâm của trẻ em. Vẫn có cả những tập tin khác về các tay sát thủ liên
hoàn, nghi thức hành hình và lễ tế ma quỷ.
Không thứ gì dẫn dắt tôi tìm thấy đồng bọn của gã, ít ra là
nhanh chóng để giải quyết tốt đẹp cuộc khủng hoảng hiện thời. Tôi tắt máy vi
tính.
Nếu có Purell, gel rửa tay mà cô y tá đã dùng trong bệnh viện,
chắc tôi phải trút cả nửa chai vào hai tay.
Lần trước đến thăm dò ngôi nhà này, tôi đã tiến hành cuộc
khám xét chóng vánh, để kết luận tôi có đủ những phát hiện đáng ngại lưu ý cảnh
sát trưởng đề phòng Robertson. Dù đồng hồ đếm ngược cứ tích tắc trong đầu nhưng
lần này tôi lục soát ngôi nhà kỹ lưỡng hơn, mừng thầm vì cũng may nơi này bé
tí.
Tại phòng ngủ, trong một ngăn kéo tủ, tôi tìm thấy vài con
dao đủ cỡ với kiểu dáng kỳ dị. Những con dao đầu tiên tôi xem xét đều có dòng
chữ La-tinh khắc trên lưỡi dao.
Tuy không biết đọc tiếng La-tinh nhưng tôi cảm giác những cụm
từ đó khi dịch ra sẽ biểu lộ sự nguy hại hệt như độ bén của từng lưỡi dao sắc cạnh.
Một con dao khác có chữ viết tượng hình từ cán đến mũi. Tôi
không hiểu chữ tượng hình nhiều hơn tiếng La-tinh là bao, cho dù tôi nhận ra một
số hình ảnh cách điệu mô tả: ngọn lửa, chim ưng, chó sói, rắn rít, bò cạp...
Lục ngăn tủ thứ hai, tôi phát hiện một cốc rượu bằng bạc loại
lớn. Chạm khắc đầy thứ tục tĩu. Bóng loáng. Lạnh ngắt trong tay tôi.
Cái cốc tội lỗi này là vật nhạo báng khó ưa của cốc đựng rượu
lễ ban thánh thể trong đạo Thiên chúa. Tay cầm cầu kỳ của nó là những mô hình
thập tự giá đảo chiều. Chúa lộn ngược đầu. Chữ La-tinh viền miệng cốc và quanh
thân cốc khắc hình nam nữ khỏa thân dính lấy nhau trong vô số tư thế làm tình.
Cũng trong ngăn tủ đó, tôi tìm thấy hộp đựng bánh thánh quét
sơn đen được trang trí tương tự bằng những hình ảnh khiêu dâm. Trên cạnh và nắp
của cái hộp nhỏ ấy, các hình vẽ tay nhiều màu sắc nhợt nhạt gớm ghiếc mô tả cảnh
nam nữ giao hợp, nhưng không phải giao hợp với nhau mà là với chó rừng, linh cẩu,
dê và rắn.
Trong buổi lễ nhà thờ thông thường, chiếc hộp đó đựng thánh
thể, những miếng bánh thánh làm từ bánh mì không men. Còn cái hộp ngập tràn
bánh quy đen như than lốm đốm chấm đỏ.
Bánh mì không men tỏa ra mùi thơm phảng phất, hấp dẫn. Thứ đựng
trong hộp này cũng có mùi thoang thoảng nhưng tởm lợm. Ngửi lần đầu - thảo mộc.
Ngửi lần hai - diêm cháy. Ngửi lần ba - bãi nôn mửa.
Cái tủ còn chứa những vật dụng tệ hại khác nhưng tôi xem thế
là quá đủ rồi.
Tôi không hiểu sao người lớn có thể coi trọng những món đồ
chơi và nghi thức xấu xa tôn sùng ma quỷ. Một thằng nhóc mười bốn tuổi, được
thôi, vì vài đứa ở tuổi đó bị sự thay đổi dòng chảy kích thích tố cuốn đi hơi xa
khỏi lý trí. Nhưng không phải người lớn. Ngay cả những kẻ biến thái như Bob
Robertson và tên đồng bọn vô danh của gã, mê bạo lực và bản tính gàn dở, cũng
phải có chút nhận thức rõ ràng chứ, chắc chắn đủ để thấy sự xuẩn ngốc của các
trò chơi ngày Halloween.
Sau khi trả những vật dụng nói trên trở về chỗ cũ, tôi đóng
ngăn kéo.
Một tiếng gõ làm tôi giật bắn người. Tiếng gõ khẽ của các khớp
ngón tay.
Tôi nhìn cửa sổ phòng ngủ, hy vọng thấy một khuôn mặt ở chỗ
tấm kính, có thể là người hàng xóm gõ lên kính cửa sổ. Nhưng chỉ có ánh nắng sa
mạc gay gắt, bóng cây và mảnh sân sau nâu sẫm.
Tiếng gõ lại vang lên, khẽ như lần trước. Không phải chỉ ba
hay bốn tiếng gõ nhanh mà là một tràng gõ nhẹ kéo dài đến mười lăm, hai mươi
giây.
Trong phòng khách, tôi đi tới cửa sổ cạnh cửa chính và cẩn
thận hé mở bức màn nhơn nhớt. Không ai đứng đợi bên ngoài.
Chiếc Chevy của bà Sanchez là chiếc xe duy nhất ở lề đường.
Con chó mệt lử lê lết dọc đường hôm trước giờ lại đang lếch thếch đi qua, đầu
rũ xuống, đuôi còn cụp thấp hơn cả đầu.
Nhớ lại sự huyên náo của bầy quạ hay sinh sự trên mái nhà
vào lần ghé trước, tôi đưa mắt khỏi cửa sổ và nhìn trần nhà, nghe ngóng.
Sau một phút, khi tiếng gõ không xuất hiện lại, tôi bước vào
bếp. Nhiều chỗ, vải lót sàn lâu đời bị rạn dưới chân.
Đang cần một cái tên để gán cho đồng bọn của Robertson nên
tôi nghĩ không nơi nào trong bếp có khả năng chứa đựng thông tin đó. Ấy vậy tôi
vẫn xem qua hết các ngăn kéo và tủ chén đĩa. Đa số trống rỗng: chỉ vỏn vẹn vài
cái đĩa, nửa tá ly, một nhúm dao, nĩa.
Tôi đến tủ lạnh vì rốt cuộc Stormy sẽ hỏi xem lần này tôi có
tìm mấy cái đầu kinh dị không. Mở tủ, tôi thấy bia, nước ngọt, một phần thịt hộp
trên đĩa, nửa cái bánh dâu cùng các gia vị và thức ăn thông thường.
Cạnh miếng bánh dâu, một hộp nhựa trong đựng bốn cây nến
đen, dây nến dài hơn hai tấc. Có lẽ gã bỏ chúng trong tủ lạnh vì chúng sẽ mềm
nhũn và méo mó nếu để ngoài cái nóng mùa hè, trong ngôi nhà không có máy điều
hòa.
Cạnh mấy cây nến là một cái lọ không dán nhãn, đựng đầy những
thứ như răng bị rụng ra. Nhìn gần hơn có thể thấy bên trong cả đống răng hàm,
răng trước hàm, răng cửa, răng nanh. Răng người. Đủ để lấp đầy ít năm hay sáu
cái miệng.
Tôi trố mắt nhìn cái lọ thật lâu, cố hình dung xem làm thế
nào gã có được bộ sưu tập quái đản này. Tới lúc quyết định rằng không nghĩ thì
hơn, tôi đóng tủ lại.
Giá như không tìm thấy gì bất thường trong tủ lạnh, tôi đã
không mở ngăn ướp lạnh. Giờ tôi thấy bị thúc ép phải khảo sát thêm nữa.
Ngăn ướp lạnh là một ngăn kéo sâu nằm phía dưới. Khi tôi kéo
nó ra gian bếp nóng bức hút sạch làn hơi lạnh bay lên từ ngăn tủ.
Hai cái hộp màu hồng pha vàng rực rỡ quá quen thuộc: hộp kem
của tiệm Burke & Bailey mà Robertson mới mua chiều qua. Kem hạt óc chó trộn
đường làm từ cây gỗ thích và kem quýt sôcôla.
Ngoài ra, ngăn tủ còn đựng khoảng mười hộp nhựa lớn hiệu
Rubbermaid mờ đục có nắp đỏ, hình dáng và kích cỡ dùng để trữ mì ống còn thừa.
Tôi sẽ không mở mấy hộp đó nếu phía trên cùng của chúng không dán những cái
nhãn chống thấm nước tự làm đề chữ: HEATHER JOHNSON, JAMES DEERFIELD.
Xét cho cùng, tôi đang cố tình tìm kiếm những cái tên.
Khi nhấc những cái hộp trên cùng để sang bên, tôi thấy thêm
nhiều cái tên ở nắp các bên dưới: LISA BELMONT, ALYSSA RODRIQUEZ, BENJAMIN
NADER...
Tôi bắt đầu với Heather Johnson. Cậy cái nắp đỏ lên, tôi thấy
một bộ ngực phụ nữ.
Chương 49
Đồ
lưu niệm. Chiến lợi phẩm. Những món đồ thôi thúc trí tưởng tượng và lay động
con tim trong những đêm cô đơn.
Dường như cái hộp thiêu đốt tay tôi, tôi bỏ nó trở vào ngăn
ướp lạnh. Tôi vung chân đá ngăn tủ đóng lại.
Tôi nhất quyết tránh xa tủ lạnh, nhất quyết băng qua gian bếp,
nhưng tôi không nhận thức được mình đang đi đến bồn rửa cho đến khi thấy mình đứng
tại đó.
Dựa vào thành bếp, gập người ra trước, tôi cố trấn áp ham muốn
trút bỏ đĩa bánh của bà Sanchez.
Suốt thời gian từ đó đến giờ, tôi đã nhìn thấy những thứ khủng
khiếp. Có cái còn ghê rợn hơn cả thứ nằm trong hộp nhựa Rubbermaid. Thế nhưng
trải nghiệm không miễn nhiễm tôi khỏi cảm giác kinh hoàng, và hành động tàn ác
của con người vẫn có sức mạnh tàn phá tôi, nới lỏng các mối nối trên đầu gối
tôi.
Muốn rửa tay rồi tóe nước lạnh lên mặt nhưng tôi không muốn
đụng tới vòi nước nhà Robertson. Tôi lưỡng lự trước ý nghĩ sử dụng xà phòng của
gã.
Chín hộp nữa nằm đợi trong ngăn ướp lạnh. Người khác sẽ muốn
mở chúng. Nhưng tôi không tò mò về phần còn lại trong bộ sưu tập quái gở kia.
Trong tập hồ sơ mang tên mình, Robertson không kẹp gì khác
ngoài tờ lịch ngày mười lăm tháng Tám, ám chỉ rằng sự nghiệp sát thủ của gã sẽ
bắt đầu vào ngày đó. Vậy mà bằng chứng trong ngăn ướp lạnh lại cho thấy hồ sơ của
gã đã dày cộm.
Mồ hôi túa khắp người, mặt mày nóng bừng, sống lưng lạnh
toát. Lẽ ra tôi cũng chẳng cần tắm tại bệnh viện.
Tôi xem đồng hồ đeo tay, 10:02.
Sân bowling đến một giờ mới mở cửa hoạt động. Buổi trình chiếu
đầu tiên của bộ phim sốt vé về chú chó cũng lên lịch lúc một giờ.
Nếu giấc mơ báo điềm của tôi sắp thành hiện thực thì bằng chứng
cho thấy tôi còn không quá ba tiếng đồng hồ để tìm ra tên đồng bọn của
Robertson và ngăn chặn hắn.
Tôi rút điện thoại di động khỏi thắt lưng. Bật mở. Kéo
ăng-ten lên. Nhấn nút mở nguồn. Xem biểu tượng hãng sản xuất hiện ra và lắng
nghe nhạc hiệu.
Cảnh sát trưởng Porter chắc chưa tỉnh lại. Ngay cả khi đã mở
mắt ra rồi thì đầu óc của ông cũng sẽ lơ mơ bởi tác dụng kéo dài của thuốc gây
mê, thuốc giảm đau hay những thứ tương tự và bởi cơn đau. Ông không có sức lực
cũng như sự tỉnh táo để hướng dẫn thuộc cấp.
Ở mức này hay mức khác, tôi quen biết tất cả nhân viên trong
Sở Cảnh sát thị trấn Pico Mundo. Song không ai biết năng lực dị thường của tôi
và không ai đối xử tốt với tôi như cảnh sát trưởng Porter.
Nếu tôi đưa cảnh sát đến ngôi nhà này, cho họ thấy những thứ
nằm trong ngăn ướp lạnh và nài nỉ họ huy động mọi nguồn lực để tìm hiểu danh
tính của tên đồng bọn với Robertson thì họ sẽ cần hàng giờ để nắm bắt được tình
hình. Bởi lẽ họ không có giác quan thứ sáu như tôi và sẽ không dễ dàng bị thuyết
phục rằng chuyện này có thật nên họ sẽ không khẩn trương như tôi.
Cảnh sát sẽ giữ chân tôi lại đây trong khi họ điều tra tình
hình. Dưới mắt họ, tôi cũng đáng ngờ như Robertson, vì tôi đã vào nhà gã một
cách bất hợp pháp. Ai dám chắc họ không nghi ngờ chính tôi thu thập những bộ phận
thân thể này và đem bỏ mười hộp nhựa Rubbermaid vào ngăn ướp lạnh để đổ tội cho
gã?
Nếu phát hiện xác Bob Robertson và nếu cảnh sát trưởng không
qua khỏi biến chứng sau phẫu thuật, lạy trời đừng như vậy, thì chắc chắn tôi sẽ
bị bắt và mang tội mưu sát.
Tôi tắt điện thoại.
Không có cái tên nào để tập trung sức hút siêu linh, không
có ai để nhờ hỗ trợ, tôi va vào tường và cú đập khiến răng tôi kêu lách cách.
Có gì đó rơi xuống sàn bên một căn phòng khác: lần này không
phải chỉ là tiếng cửa đóng thịch, không phải chỉ là tiếng gõ khẽ mà là tiếng uỵch
nặng nề và âm thanh đổ vỡ.
Thất vọng tràn trề đến mức không thèm thận trọng, tôi tiến đến
cánh cửa lò xo, cố nhét điện thoại vào thắt lưng. Tôi làm rơi điện thoại, bèn bỏ
đó lát nữa lấy sau, rồi xô cánh cửa lò xo đi vào phòng khách.
Một cây đèn đã đáp xuống sàn. Chân đèn bằng gốm sứ vỡ tan
tành.
Khi kéo giật cửa chính ra và không thấy ai đứng ngoài hiên
hay bãi cỏ, tôi sập cửa lại. Mạnh tay. Tiếng động âm vang làm rung chuyển ngôi
nhà và việc gây ồn ào khiến tôi dễ chịu hết sức sau quá nhiều hành động lén
lút. Cơn giận của tôi dịu đi.
Tôi lao qua cửa tò vò, vào hành lang hẹp, truy tìm thủ phạm.
Phòng ngủ, tủ quần áo, phòng làm việc, phòng tắm. Không có
ai.
Bầy quạ trên mái nhà không thể hất đổ cây đèn. Cũng không thể
là gió. Không thể là động đất.
Khi tôi trở vào bếp để lấy điện thoại và rời khỏi ngôi nhà,
Robertson đang ở đó đợi tôi.
Chương 50
Dù là
một gã đã chết, không còn góp phần vào các mưu đồ và trò săn đuổi của thế giới
này, Robertson vẫn lây lất với vẻ dữ tợn kỳ quặc, điên tiết hệt như lúc tôi
quan sát gã từ tháp chuông của nhà thờ St. Bart. Thân hình cây nấm béo ú giờ có
vẻ sung sức, ngay cả với những chỗ sưng phù. Khuôn mặt ngờ nghệch và những đường
nét mờ mờ đã đanh lại và sắc nét bởi cơn thịnh nộ.
Không lỗ đạn, vết cháy sém hay vết ố nào làm bẩn áo gã. Khác
với Tom Jedd, người lảng vảng ngoài chỗ Tire World mang cánh tay đứt lìa và giả
vờ dùng nó làm cây gãi lưng, Robertson phủ nhận cái chết của gã và chọn cách
không trưng ra vết thương chí mạng, hệt như Penny Kallisto lúc đầu không để lộ
dấu vết bị bóp cổ, những đường hằn của sợi dây hiện ra chỉ khi có mặt Harlo
Landerson, kẻ hãm hại em.
Trong tâm trạng kích động cao độ, Robertson đảo quanh bếp.
Gã nhìn tôi trừng trừng, cặp mắt dại đi và bồn chồn hơn cả mắt bầy sói ở Nhà thờ
Sao chổi Thì thầm.
Khi tôi bắt đầu điều tra gã, tôi không cố ý biến gã thành của
nợ của đồng bọn, đẩy gã vào đường chết và tôi không bóp cò súng. Tuy nhiên, rõ
ràng lòng căm thù gã dành cho tôi còn vượt hơn cả mức dành cho kẻ giết chết gã;
nếu không gã đã đi ám chỗ khác.
Từ lò hấp bánh đến tủ lạnh, đến bồn rửa, quay lại lò hấp
bánh, gã đảo quanh trong lúc tôi khom xuống nhặt điện thoại làm rơi khi nãy. Đã
chết queo, gã không còn khiến tôi bận tâm nhiều như lúc ở khu đất nhà thờ, tôi
tưởng gã còn sống.
Khi tôi kẹp điện thoại vào thắt lưng, Robertson đến chỗ tôi.
Lù lù trước mặt tôi. Mắt gã mang màu xám như lớp băng dính bẩn, nhưng chúng
chuyển tải sức nóng của cơn giận cực độ.
Tôi đón lấy ánh nhìn chòng chọc của gã và không thoái lui.
Tôi học được rằng tỏ ra sợ hãi trong những trường hợp thế này chẳng khôn ngoan
chút nào.
Khuôn mặt nặng ì của gã quả thực mang đặc tính của nấm, loại
nấm giống như thịt. Y chang nấm Portobello [48]. Cái môi tái nhợt không còn giọt
máu của gã nằm thụt lùi ra sau bộ răng rất ít khi được chăm sóc.
Gã với tay qua mặt tôi và khum tay phải chộp lên gáy tôi.
Bàn tay Penny Kallisto khô và ấm. Tay Robertson ướt và lạnh.
Đó không phải bàn tay thật của gã, dĩ nhiên, đó chỉ là bộ phận
của một bóng ma, một oan hồn hiện hình mà chỉ mình tôi mới cảm nhận được; trạng
thái của sự đụng chạm ấy bộc lộ tính cách của linh hồn.
Tuy không e dè kiểu tiếp xúc bí hiểm nhưng tôi rúm người lại
trước ý nghĩ bàn tay đó đã mân mê mười món đồ lưu niệm trong ngăn ướp lạnh.
Kính thích thị giác bằng những chiến lợi phẩm đông lạnh kia chắc không phải lúc
nào cũng tạo cảm giác thỏa mãn. Có thể thỉnh thoảng gã ủ ấm chúng để gia tăng
khoái cảm sờ mó và để gợi lại ký ức sống động hơn của từng vụ sát hại - ngắt,
véo, vuốt ve, mơn trớn, đặt những nụ hôn âu yếm lên các vật kỷ niệm ấy.
Không linh hồn nào, kể cả ma quỷ xấu xa, có thể hãm hại một người
sống chỉ bằng cách đụng chạm. Đây là thế giới của chúng ta, không phải của
chúng. Cú đấm của chúng trượt xuyên qua ta, cú ngoạm của chúng không gây chảy
máu.
Khi Robertson nhận ra không thể khiến tôi khiếp hãi, gã bỏ
tay ra khỏi cổ tôi. Cơn giận của gã tăng gấp đôi, gấp ba, làm mặt gã méo như
cái mặt nạ đầu người.
Có một cách để linh hồn hãm hại người sống. Nếu bản chất của
chúng đủ hiểm độc, nếu chúng dồn hết tâm can vào cái ác cho đến khi ác tâm chín
muồi thành khối u nan y trong linh hồn, chúng có thể dồn năng lượng của cơn thịnh
nộ quỷ quyệt và trút nó lên những vật vô tri vô giác.
Ta gọi chúng là yêu tinh. Tôi từng mất một dàn nhạc mới
toanh cho thực thể loại đó, cũng như tấm bằng đẹp đẽ khen thưởng khả năng sáng
tác mà tôi giành được trong cuộc thi viết văn thời phổ thông do anh Ozzie “bé”
làm giám khảo.
Như đã làm trong phòng để đồ thờ tại nhà thờ St. Bart, linh
hồn phẫn nộ của Robertson càn quét khắp gian bếp, và từ hai tay của gã tuôn ra
những luồng năng lượng mà tôi có thể nhìn thấy. Không khí rung chuyển cùng các
xung lực ấy, một cảnh tượng tương tự những gợn sóng đồng tâm loang khắp mặt nước
từ điểm va chạm với hòn đá.
Cửa tủ bay ra, ập vào, mở tung, đóng sầm, kêu la lớn tiếng
hơn và vô nghĩa hơn cả quai hàm của những tay chính khách huênh hoang. Đĩa ào
ra khỏi kệ, từng cái chém phăng không khí với tiếng vút của cú ném đĩa do vận động
viên Olympic thực hiện.
Tôi thụp đầu tránh một ly rượu, nó đập vào cửa lò hấp vỡ
bùm, phun ra khối mảnh vỡ lấp lánh. Mấy cái ly khác quay tròn cách xa tôi, tông
vào tường, tủ, mặt kệ bếp.
Yêu tinh đều là bọn tức giận mù quáng và thích đập phá,
không nhằm mục tiêu cũng chẳng kiểm soát. Chúng chỉ có thể hại bạn bằng một cú
đấm may mắn lạc hướng. Thế nhưng cho dù do lạc hướng và may mắn thì trò chém đầu
cũng đủ sức hủy luôn đời bạn.
Phụ họa bằng tiếng vỗ tay tán dương của hai cánh cửa tủ bằng
gỗ, Robertson tung nguồn năng lượng ra khỏi đôi tay. Hai cái ghế nhảy tưng tưng
tại bàn ăn, nện xuống vải sơn lót sàn, va lách cách vào chân bàn.
Trên bếp, không ai đụng đến, bốn núm vặn điều khiển xoay
tròn. Bốn vòng lửa bếp gas tỏa thứ ánh sáng xanh rực ma quái trong gian bếp tăm
tối.
Cảnh giác với những thứ phụt ra có thể gây chết người, tôi
né xa Robertson và hướng đến cánh cửa đã đưa tôi vào nhà.
Một ngăn kéo bật mở, tiếng khua khoắng chói tai của dao nĩa
bùng ra, chúng lấp lóa và kêu leng keng trong tình trạng sôi sục bay lên, như
thể những hồn ma đói ngấu đang cắt - xiên - múc bữa tối theo kiểu cũng vô hình
như chính bọn chúng.
Tôi thấy những đồ vật ấy tiến đến, chúng xuyên qua Robertson
mà không ảnh hưởng gì đến hình thể của gã, và tôi nghiêng sang bên, giơ hai
cánh tay làm khiên che chắn khuôn mặt. Bọn dao nĩa xem tôi như mẩu sắt, hút
vào, quất tới tấp.
Một cây nĩa phóng bay qua hàng phòng vệ, phập lên trán tôi
và xước ngược một đường lên đầu tôi.
Khi cơn mưa thép không gỉ rào rào rơi dồn đống xuống sàn nhà
phía sau lưng, tôi mới dám hạ thấp cánh tay.
Hệt một tên khổng lồ độc ác nhảy nhót theo điệu nhạc ám muội
mà chỉ mình hắn nghe thấy, Robertson đấm - cào - xoắn không khí, xem như muốn
hú hét la ó, nhưng chỉ là vẫy vùng trong sự thinh lặng tuyệt đối của một kẻ quá
cố không còn nói nên lời.
Ngăn trên của cái tủ lạnh lỗi thời bật mở, trào ra bia, nước
ngọt, đĩa thịt hộp, miếng bánh dâu, thức ăn bị tống tháo tung tóe và loảng xoảng
khắp sàn. Khoen nổ bốp; bia và nước ngọt tràn lan từ những cái lon xoay tròn.
Tủ lạnh cũng bắt đầu rung bần bật, va đập dữ dội hết bên này
đến bên kia, những ngăn rau quả phía bên hông khua lách cách; khung kim loại
trong tủ lạnh kêu ầm ĩ.
Đá mấy lon bia lăn lông lốc và đống dao nĩa rơi vãi sang một
bên, tôi tiếp tục hướng đến cánh cửa dẫn ra nhà để xe.
Tôi lách sang trái, trượt phải vũng nước bia sủi bọt và cái
muỗng cong queo.
Với những bộ phận thân thể đông lạnh rùng rợn vẫn còn nương
náu trong ngăn ướp lạnh, cái tủ lạnh trượt qua tôi và tông vào tường một cú mạnh
đến mức khiến cột kèo sau lớp vữa nứt răng rắc.
Tôi đâm đầu ra ngoài, lao vào bóng mát trong nhà để xe và
đóng sầm cánh cửa sau lưng.
Bên trong, cuộc huyên náo còn tiếp tục, thình thịch và loảng
xoảng, lách cách và rầm rầm.
Tôi không mong linh hồn biến chất của Robertson bám theo, ít
ra cũng đừng bám theo trong một khoảng thời gian. Một khi dính vào cơn điên phá
hoại, yêu tinh thường mất kiểm soát đến khi chúng vắt kiệt sức mình và bỏ đi
trong tình trạng rối bời để lại trôi dạt đến một vùng ăn năn nằm giữa thế giới
này và thế giới tiếp theo.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét