Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 33, 34)

Giao lộ sinh tử

Tác giả: Dean Koontz  
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 33

Sau khi đóng rèm Levolor ở cửa sổ lại, tắt đèn, tôi đi đến tủ ngăn kéo đặt gần giường. Trong căn phòng đơn này có thể tìm thấy mọi thứ ở gần giường, kể cả tràng kỷ và lò vi ba.
Ở ngăn kéo cuối của cái tủ, tôi cất bộ mền gối dự trữ duy nhất của mình.
Dưới bao gối, tôi tìm thấy khăn trải giường đã ủi thẳng thớm và xếp gọn gàng.
Tuy chắc rằng tình hình đáng để hy sinh bộ mềm gối xịn nhưng tôi vẫn tiếc phải bỏ cái khăn trải giường đó. Mền gối bằng vải bông gia công khéo đâu có rẻ, và tôi còn hơi dị ứng với rất nhiều loại sợi vải tổng hợp thường dùng may những mặt hàng này.
Vào phòng tắm, tôi trải tấm khăn ra sàn.
Đã chết queo nên cần gì quan tâm đến rắc rối của tôi, chẳng thể trông mong Robertson có thể khiến việc tôi làm dễ dàng hơn; thế nhưng, tôi ngạc nhiên khi gã không chịu để bị lôi ra khỏi bồn tắm. Đây không phải lực phản kháng chủ động của địch thủ có ý thức mà là sự chống cự thụ động của xác chết thẳng đơ.
Gã cứng ngắc và khó xoay chuyển như một chồng tấm ván đóng chung vào góc nghiêng kỳ quái.
Bất đắc dĩ, tôi đặt tay lên mặt gã. Gã lạnh hơn tôi tưởng.
Có lẽ cần điều chỉnh hiểu biết của tôi về những sự kiện trong đêm. Theo một cách không cân nhắc, tôi đã đặt ra những giả định mà tình trạng của Robertson không xác thực điều đó.
Để biết sự thật, tôi phải khám nghiệm gã kỹ hơn. Vì gã nằm úp mặt trong bồn khi tôi phát hiện ra, trước lúc tôi lật gã lên nên giờ tôi cởi nút áo gã ra.
Trong tôi trào lên nỗi ghê tởm và ác cảm, tôi đã lường trước điều đó nhưng chưa chuẩn bị tinh thần cho cảm giác ghét cay ghét đắng cái hành động gần gũi gây ra cơn buồn nôn.
Mấy ngón tay tôi đầm đìa mồ hôi. Những nút áo bề mặt như ngọc trai cứ trơn tuột đi.
Tôi liếc nhìn gương mặt Robertson, cảm giác ánh mắt trợn trừng của gã chuyển hướng tập trung từ cảnh tượng nào đó tận thế giới bên kia sang đôi tay lóng ngóng của tôi. Dĩ nhiên vẻ mặt bàng hoàng và hãi hùng của gã không thay đổi, và gã tiếp tục nhìn chăm chăm vào thứ gì đó nơi âm phủ chia cách thế giới này với thế giới kia.
Môi gã hơi hé mở, như thể bằng hơi thở cuối cùng, gã chào đón Tử thần hay thốt ra lời cầu xin không được đáp lại.
Nhìn mặt gã chỉ khiến nỗi bất an của tôi càng tệ hơn. Khi hạ thấp đầu, tôi hình dung cặp mắt gã lần theo hướng di chuyển sự chú ý của tôi sang mấy cái nút áo ngoan cố. Nếu cảm giác một luồng hơi thở hôi thối phả lên trán, chắc tôi sẽ hét lên, nhưng không lấy đó làm ngạc nhiên.
Chưa tử thi nào khiến tôi rùng mình dữ dội như thi thể này. Đa phần, những người chết mà tôi có mối liên hệ đều là hồn hiện lên, và tôi thừa biết vẻ nhếch nhác về mặt sinh học của cái chết.
Lần này, tôi khổ sở với mùi hôi và cảnh tượng bắt đầu thối rữa thì ít mà khó chịu do những điểm quái dị trên thân thể người chết thì nhiều, chủ yếu là nét đặc trưng giống loài nấm tơi xốp bộc lộ rõ khi gã còn sống, và còn bởi đam mê bất bình thường của gã, thể hiện ở những xấp tài liệu, với việc tra tấn, giết người tàn bạo, chặt chân tay, chém đầu và ăn thịt người.
Cởi xong cái nút cuối cùng, tôi banh áo gã ra.
Vì gã không mặc áo may ô bên trong nên lập tức tôi thấy ngay tình trạng tím bầm hiện rõ. Sau khi chết, máu lắng qua các mô xuống những điểm dưới cùng trong cơ thể, khiến những vùng đó có biểu hiện tím bầm trầm trọng. Bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson vằn vện, xỉn màu và ghê rợn.
Da lạnh ngắt, người cứng đờ, sự bầm tím rõ rệt cho thấy gã đã chết không phải cách đây một hai tiếng mà lâu hơn nhiều.
Sức nóng trong căn hộ của tôi đã đẩy nhanh tiến trình phân hủy cái xác nhưng không đến mức này.
Rất có khả năng, tại nghĩa trang nhà thờ St. Bart, khi Robertson làm động tác khiếm nhã lúc tôi từ trên tháp chuông nhìn xuống, gã đã hết là người sống mà thành ma hiện hồn.
Tôi cố nhớ xem Stormy có thấy gã không. Khi ấy nàng đang khom người lấy phô mai và bánh quy trong giỏ mây ra. Tôi vô tình hất chúng văng khỏi tay nàng, rơi vung vãi ra lối đi hẹp…
Không. Nàng không thấy Robertson. Lúc nàng ngẩng lên và tựa lan can ngó xuống nghĩa trang, gã đã đi mất.
Giây lát sau, khi tôi mở cửa chính của nhà thờ và bắt gặp Robertson đang đi lên mấy bậc thang thì Stormy đứng phía sau tôi. Tôi đóng sập cửa và hối hả kéo nàng ra khỏi tiền sảnh, đi vào gian giữa, hướng đến trước bệ thờ.
Trước khi đến nhà thờ St. Bart, tôi đã thấy Robertson hai lần ở chỗ Ozzie “bé” tại Jack Flats. Lần đầu, gã đứng trên vỉa hè trước ngôi nhà, lần thứ hai ở sân sau.
Không lần nào Ozzie ở vào thế có thể chứng thực kẻ viếng thăm ấy là một người có thật, còn sống.
Từ chỗ nằm trên bậu cửa sổ, Terrible Chester đã thấy gã này ở hàng rào trước nhà và phản ứng gay gắt. Nhưng điều ấy đâu có nghĩa Robertson xuất hiện tại đó bằng xương bằng thịt.
Rất nhiều dịp, tôi chứng kiến chó mèo có phản ứng đối với sự hiện diện của linh hồn, dù chúng không thấy ông kẹ. Thông thường động vật không phản ứng bằng kiểu dữ dội mà chỉ theo một cách tinh vi khó thấy; chúng dường như không mặn mà với các hồn ma.
Hành vi thù địch của Terrible Chester có lẽ là phản ứng không phải đối với việc Robertson là ma hiện hồn mà nhằm vào sự xấu xa toát ra không dứt nơi gã, đặc trưng của gã lúc còn sống lẫn khi đã chết.
Bằng chứng cho thấy lần cuối cùng tôi thấy Robertson còn sống là khi gã rời ngôi nhà ở Camp’s End, ngay trước lúc tôi cạy khóa, vào trong và phát hiện căn phòng tối đen.
Gã ám tôi từ lúc ấy, đầy tức tối. Như thể đổ lỗi cho tôi về cái chết của gã.
Tuy bị giết trong căn hộ của tôi nhưng chắc hẳn gã biết tôi không phải kẻ bóp cò súng. Đối mặt với tên sát nhân, gã bị bắn từ khoảng cách không quá vài phân.
Gã và tên sát nhân làm gì trong nhà tôi, tôi không thể hình dung. Tôi cần thêm thời gian và tình hình yên ổn hơn để suy nghĩ.
Chắc bạn nghĩ linh hồn giận dữ của gã trốn trong phòng tắm hay gian bếp nhà tôi, đợi tôi về, hăm hở hù dọa và quấy rối tôi như lúc ở nhà thờ. Bạn nhầm rồi vì bạn đã quên những linh hồn chưa yên nghỉ còn vất vưởng tại thế giới này vì họ không chấp nhận sự thật rằng họ đã chết.
Theo kinh nghiệm đáng kể của tôi, điều họ ít muốn làm nhất là quanh quẩn bên thi thể chính mình. Không gì gợi nhớ bi đát hơn về sự qua đời của một người bằng cái xác mục nát của người đó.
Trước thân xác không còn sự sống của chính mình, các linh hồn cảm nhận thêm mãnh liệt sự thôi thúc cần hoàn tất mọi việc nơi thế giới này và đi tiếp sang thế giới bên kia, một điều ép buộc mà họ kiên quyết cưỡng lại. Có thể cuối cùng Robertson sẽ ghé thăm nơi lìa đời của gã nhưng phải đến khi xác gã đã được đem đi và mọi vết máu đã được tẩy sạch.
Điều đó tiện cho tôi. Tôi không cần trò la ó rùm beng kết hợp với chuyến thăm viếng của một linh hồn giận dữ.
Vụ cố ý hủy hoại phòng để đồ thờ tại nhờ thờ St. Bart không phải việc làm của người sống. Hành động tàn phá đó được thực hiện bởi một hồn ma tà tâm và điên cuồng theo đúng kiểu yêu tinh.
Trước đây, tôi đã mất một dàn nhạc mới, một cây đèn, một máy radio có đồng hồ, một cái ghế đẩu cao đẹp đẽ và vài cái đĩa khi một con yêu như thế nổi trận lôi đình. Đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh không đủ sức nghênh tiếp những vị khách đó.
Đây là một nguyên do vì sao đồ đạc trong nhà tôi là phế phẩm của cửa hàng giá rẻ. Càng có ít chừng nào thì càng mất ít chừng đó.
Tôi xem xét tình trạng tím bầm trên bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson, nhanh chóng đưa ra suy luận đã đề cập ở trên và cố cài nút áo gã lại mà không nhìn thẳng vào vết đạn. Sự hiếu kỳ không tốt đã thắng thế.
Trên bộ ngực thâm tím mềm nhũn, lỗ thủng nhỏ nhưng tả tơi, ươn ướt, và kỳ lạ là tôi không lập tức che nó lại nhưng cũng không muốn nhìn kỹ hơn.
Cơn buồn nôn bò lê trên thành dạ dày của tôi và trườn mỗi lúc một nhanh hơn. Tôi cảm giác như thể mình trở về năm bốn tuổi, mắc phải trận cúm nguy hại, phát sốt và là người đang nhìn chòng chọc xuống ruột gan của thi thể chính mình.
Vì bấy nhiêu thứ bừa bộn cần dọn sạch đã đủ quá rồi, chẳng cần tái hiện vụ nôn mửa cuối cùng đi vào lịch sử của Elvis nên tôi nghiến răng, trấn áp thức ăn trong bụng và cài hết nút áo Robertson cho xong.
Chắc chắn tôi biết cách xem xét tình trạng tử thi hơn người bình thường, nhưng tôi không phải chuyên gia pháp y. Tôi không thể xác định đúng đến từng giờ thời điểm mất mạng chính xác của Robertson.
Lập luận cho thấy giờ tử vong vào khoảng năm giờ rưỡi đến bảy giờ bốn mươi lăm. Suốt khoảng thời gian đó, tôi lục lọi ngôi nhà ở Camp’s End của gã và khám phá căn phòng tối đen, chở Elvis tới bữa tiệc nướng tại nhà cảnh sát trưởng rồi chở Elvis đến nhà thờ, và thơ thẩn một mình đến nhà Ozzie “bé”.
Cảnh sát trưởng Porter và khách khứa của ông có thể xác minh nơi tôi có mặt trong một phần khoảng thời gian đó, nhưng không tòa án nào chấp thuận tuyên bố rằng hồn ma của Elvis có thể cho tôi chứng cớ ngoại phạm trong khoảng thời gian kia.
Khả năng lâm nguy của tôi trở nên rõ ràng hơn vào lúc đó, và tôi biết thời gian đang cạn dần. Khi tiếng gõ cửa rốt cuộc sẽ vang lên, đó rất có thể là cảnh sát đến theo lời mách nước của một kẻ nặc danh.

Chương 34

Cảm giác cấp bách gần với hoảng loạn ban cho tôi sức mạnh mới. Cằn nhằn và phát minh ra vài tiếng chửi tượng hình, tôi lôi Robertson ra khỏi bồn tắm rồi quẳng gã nằm phịch lên tấm khăn trải giường tôi đã trải lên sàn phòng tắm.
Đập ngay vào mắt tôi là chút máu rơi trong bồn. Tôi vặn vòi hoa sen và tẩy rửa mấy vết bẩn đó ra khỏi bề mặt sứ bằng nước nóng hổi.
Tôi không bao giờ còn có thể tắm ở đây được nữa. Tôi phải thôi tắm giặt trong suốt phần đời còn lại hoặc tìm chỗ sống mới.
Khi dốc túi quần Robertson ra, tôi tìm thấy mỗi bên túi một nắm tiền: hai mươi tờ một trăm đôla nhàu nát trong túi trái, túi phải hai mươi ba tờ.
Rõ ràng gã không bị giết vì tiền.
Tôi bỏ đống tiền trở vào túi gã.
Cái ví của gã cũng có tiền mặt. Tôi nhét luôn mớ tiền đó vào một bên túi quần của gã nhưng giữ lại ví với hy vọng nó chứa đầu mối dẫn đến ý định giết người của gã khi tôi có thời gian kiểm tra những thứ còn lại trong ví.
Thi thể phát ra tiếng ồng ộc đáng sợ khi tôi bọc nó lại trong khăn. Bọt đờm hoặc máu trào lên cổ họng xác chết, kêu như núi lửa phun trào.
Tôi túm hai đầu khăn ở phần đầu và chân xoắn lại, thắt nút kỹ càng hết mức bằng mấy sợi dây trắng rút ra từ đôi giày dự phòng.
Cái bọc này trông như điếu thuốc khổng lồ. Tôi không quấn thuốc, một điếu cũng không, vậy mà đấy chính là hình dạng của nó.
Hay có lẽ là cái kén. Một ấu trùng hay con nhộng to lớn bên trong, đang biến đổi thành cái khác. Tôi không muốn nghĩ ngợi thêm đó có thể là cái gì.
Lấy cái túi mua sắm bằng nhựa của hiệu sách làm giỏ đựng, tôi nhét vào nào là quần áo, dầu gội, bàn chải, kem đánh răng, dao cạo chạy điện, điện thoại di động, đèn pin, kéo, một hộp khăn giấy ướt, và đống thuốc giảm độ axit trong dạ dày, những thứ tôi sẽ cần để qua hết đêm nay.
Tôi kéo lê cái xác ra khỏi phòng tắm, băng qua căn phòng tối tăm, đến khung cửa lớn hơn trong số hai cái cửa sổ hướng ra phía nam. Nếu tôi sống trong căn hộ bình thường, có hàng xóm bên dưới thì việc đầu tiên sáng mai tổ dân phố phải làm là phác thảo luật mới nghiêm cấm lôi kéo thi thể sau mười giờ tối.
Cái xác nặng hơn rất nhiều so với sức lực của tôi. Lăn nó xuống những bậc thang bên ngoài sẽ gây ồn ào, và đó sẽ là cảnh tượng khó quên nếu có người nào tình cờ đi ngang qua không đúng lúc.
Một bàn ăn bằng nửa kích cỡ bình thường và hai cái ghế đặt trước cửa sổ, tôi để chúng sang bên, nâng khung kính trượt dưới thấp lên, gỡ tấm lưới chắn muỗi rồi chồm ra ngó để chắc chắn rằng từ những nhà xung quanh không thể nhìn thấy sân sau.
Hàng rào gỗ và những cây dương lớn tạo nên sự kín đáo. Nếu khoảng hở nhỏ nhoi giữa các nhánh cây cho mấy người hàng xóm một ít tầm nhìn thì chỉ mình ánh trăng cũng không soi tỏ quanh cảnh đủ để tạo độ tin cậy trong lời khai của họ trước tòa.
Tôi cố hết sức nhấc cái xác bọc trong tấm khăn khỏi sàn, để lên cửa sổ đã mở. Tôi nhét phần chân ra trước vì tuy gã đã chết rành rành nhưng tôi vẫn thấy không ổn với chuyện ném gã chúc đầu xuống. Giữa chừng, tấm khăn khựng lại ở chỗ cái đầu đinh lấp ló, nhưng với sự kiên quyết, tôi xoay xở đẩy gã ra bằng được.
Khoảng cách từ bậu cửa sổ đến mặt đất chừng ba bốn mét. Không cao. Vậy mà cú va chạm gây nên âm thanh ghê rợn, khủng khiếp dường như có thể nhận ra ngay tức thì đó là tiếng xác chết rơi thẳng từ trên cao xuống nền đất cứng.
Không có tiếng chó sủa. Không ai hỏi, Ê, nghe thấy gì không? Chẳng ai trả lời, Có, nghe thấy Odd Thomas ném cái xác ra ngoài cửa sổ. Thị trấn Pico Mundo đã chìm vào giấc ngủ.
Dùng khăn giấy nhằm tránh để lại dấu tay, tôi nhặt khẩu súng lên khỏi tấm thảm. Tôi thêm nó vào danh sách những thứ trong túi mua sắm bằng nhựa.
Trở vào phòng tắm lần nữa, tôi kiểm tra để chắc chắn trong quá trình dọn sạch không bỏ sót bất cứ điều gì hiển nhiên. Sau đó tôi cần nhanh chóng thực hiện một việc tỉ mỉ chu đáo đó là hút sạch những lông tóc mang tính cáo buộc, lau xóa mọi bề mặt để loại bỏ dấu tay của Bob Robertson...
Không phải tôi đang giúp tên sát nhân thoát tội. Toàn bộ các dấu hiệu cho thấy, kẻ đó là một tay chuyên nghiệp quá thông minh và quá am hiểu, không để lại dấu tay hay bất kỳ bằng chứng nào khác cho thấy sự có mặt của hắn.
Khi xem đồng hồ đeo tay, tôi vô cùng kinh ngạc. Một giờ ba mươi tám phút sáng. Đêm phải như đang chạy đua đến sáng chứ. Tôi tưởng đã hai giờ rưỡi hoặc muộn hơn rồi.
Tuy nhiên, thời gian dành cho tôi đang cạn dần. Đeo đồng hồ điện tử mà tôi như nghe được cơ hội hành động đang tích tắc trôi qua.
Sau khi tắt đèn trong phòng tắm, tôi đến cửa sổ trước nhà lần nữa, hé tấm rèm và quan sát con đường. Có thể có ai đó còn thức nhưng tôi vẫn chưa phát hiện thấy.
Cầm cái túi, tôi ra khỏi nhà và khóa cửa chính lại. Xuống bậc thang, tôi cảm giác bị dòm ngó soi mói như thí sinh dự thi Hoa hậu Mỹ trong phần thi áo tắm.
Dù khá chắc chắn không cặp mắt nào dõi theo nhưng tôi rơi vào cảm giác tội lỗi khiến bản thân bồn chồn. Lo lắng dò xét khung cảnh ban đêm, nhìn quanh quất khắp nơi mà không nhìn những bậc thang trước mặt; đó là bằng chứng về phép lạ vì tôi đã không té gãy cổ rồi bỏ lại cái xác thứ hai làm cảnh sát điên đầu.
Chắc bạn băn khoăn liệu tôi cảm thấy tội lỗi về điều gì, vì tôi đâu giết chết Bob Robertson.
À, tôi không bao giờ cần lý do chính đáng mới thấy có lỗi. Thỉnh thoảng tôi cảm giác phải chịu trách nhiệm về những xác tàu hỏa ở Georgia, các vụ đánh bom khủng bố tại những thành phố xa xôi, bão ở Kansas...
Một phần trong tôi tin rằng nếu tôi hăng hái khai thác tài năng và phát triển nó hơn, thay vì chỉ đương đầu với nó trên cơ sở ngày qua ngày thì chắc tôi có thể giúp cảnh sát tóm được nhiều tội phạm hơn và cứu được nhiều mạng sống hơn từ tay kẻ xấu lẫn thiên nhiên khắc nghiệt, ngay cả ở những nơi rất xa thị trấn Pico Mundo. Tôi biết lần này không phải vậy. Tôi biết để theo đuổi sự can hệ sâu hơn vào khả năng siêu nhiên sẽ phải đánh mất mối liên hệ với thực tế, xoáy sâu vào chứng điên rồ trưởng giả, để rồi tôi chẳng giúp được ai. Tuy vậy phần trừng phạt trong con người tôi đôi lúc lại cứ cân nhắc tính cách của tôi và phán xét tôi thiếu năng lực.
Tôi hiểu tại sao mình lại dễ thành biểu hiện của tội lỗi đến vậy. Căn nguyên ở chỗ mẹ tôi và súng ống của mẹ.
Nhận biết cấu trúc tâm lý không có nghĩa bạn dễ dàng tái tạo nó. Phòng chứa những tội lỗi vô lý là một phần của công trình kiến trúc trong đầu tôi, và tôi nghi ngờ không biết liệu có lúc nào đó tôi có thể đổi mới căn phòng trong cái lâu đài kỳ lạ là tôi đây không.
Đến chân cầu thang mà không thấy ai lao tới hét toáng Tôi đi tố cáo đây!, tôi bắt đầu đi vòng sang bên hông ga-ra, sau đó dừng lại, đập vào mắt là hình ảnh ngôi nhà gần đó và ý nghĩ về bà Rosalia Sanchez.
Tôi định dùng xe Chevy của bà, chiếc xe bản thân bà hiếm khi lái, để chuyển xác Robertson, sau đó trả xe về ga-ra mà không để bà biết. Tôi không cần chìa khóa. Khi học phổ thông, tôi không tập trung chú ý vào giờ toán như điều lẽ ra nên làm, mà từ lâu đã học cách khởi động xe không cần chìa khóa.
Mối lo bất chợt của tôi về bà Rosalia không liên quan gì đến khả năng bà nhìn thấy tôi thực hiện hành vi bất chính này mà dành hết cho sự an nguy của bà.
Nếu còn một tên khác mang theo ý định giết người đi cùng Robertson vào căn hộ của tôi trong khoảng từ năm giờ rưỡi đến bảy giờ bốn mươi lăm thì bọn chúng đã làm thế trong ánh sáng ban ngày. Ánh nắng ban ngày ở sa mạc Mojave rất sáng sủa.
Tôi nghi hai gã đàn ông thông đồng đến nhà tôi và Robertson tưởng bọn chúng nhúng tay vào vụ bẩn thỉu này nhắm vào tôi. Có lẽ gã tin cả hai sẽ nằm đợi tôi về. Chắc hẳn gã kinh ngạc khi tên đồng bọn chĩa súng vào gã.
Một khi Robertson đã chết và tôi bị dựng chuyện giết người thì kẻ sát nhân sẽ không la cà ở lại mặc thứ đồ lót của tôi và nếm thử thức ăn thừa trong tủ lạnh nhà tôi. Hắn sẽ nhanh chóng bỏ đi, khi nắng vẫn chưa tắt.
Nhất định hắn sợ có người trong ngôi nhà gần bên nhìn thấy hắn vào cùng nạn nhân hay rời khỏi đó một mình.
Không muốn gánh chịu nguy cơ có nhân chứng, có thể hắn gõ cửa sau nhà bà Rosalia sau khi xử xong Robertson. Một bà góa hiền lành, sống một mình, sẽ là đối tượng dễ dàng ra tay.
Thực ra, nếu kỹ lưỡng và thận trọng, chắc chắn hắn sẽ ghé nhà bà trước khi đưa Bob Robertson đến đây. Hắn sẽ dùng cùng một khẩu súng trong cả hai vụ, gán tôi vào hai tội giết người.
Xét theo sự mau lẹ và táo bạo trong hành động hắn đã làm để trừ khử tên đồng mưu thì kẻ xa lạ kia là một người kỹ lưỡng, thận trọng và còn hơn thế nữa.
Ngôi nhà của bà Rosalia nằm lặng thinh. Không ngọn đèn nào sáng lên ở cửa sổ, chỉ có một khuôn mặt như bóng ma mà thực ra đó là hình phản chiếu của mặt trăng phía tây.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét