Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 31, 32)

Giao lộ sinh tử

Tác giả: Dean Koontz  
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 31

Vật dụng trong nhà tôi tận dụng lại từ trong kho (lồi lõm và xơ xác đến mức không thể đáp ứng tiêu chuẩn của các cửa hàng giá rẻ đã bán đồ cho Stormy), mấy quyển sách bìa mềm nằm ngay ngắn trên những cái kệ làm bằng gạch và ván chồng lại, ảnh đóng khung của nhân vật Quasimodo do Charles Laughton thủ vai, Hamlet do Mel Gibson đóng và ET trong bộ phim cùng tên (ba nhân vật hư cấu tôi đồng cảm vì nhiều lý do), tấm bìa cứng hình Elvis không ngớt mỉm cười...
Từ ô cửa để mở nơi tôi đang đứng, mọi thứ xem ra vẫn như lúc tôi rời nhà đi làm sáng thứ Ba.
Cánh cửa được khóa và không có dấu hiệu bị bẻ khóa đột nhập. Đảo quanh căn hộ, tôi để ý thấy không cửa sổ nào vỡ toang.
Hiện giờ tôi giằng co giữa việc để cửa mở nhằm dễ dàng chạy thoát nhanh chóng hay khóa cửa lại ngăn kẻ nào đó lẻn vào sau tôi. Sau một hồi do dự, tôi lặng lẽ đóng cửa và cài then.
Ngoại trừ tiếng rúc và gù của một con cú thỉnh thoảng lọt qua hai khung cửa sổ có lưới ngăn tôi để mở cho thông thoáng thì sự im ắng bao trùm sâu rộng đến mức trong bếp, một giọt nước rơi từ vòi xuống bồn rửa kêu tỏng cũng làm rúng động màng nhĩ của tôi.
Có kẻ muốn tôi nhặt súng lên nhưng tôi dễ dàng cưỡng lại sức cám dỗ đó và bước qua thứ vũ khí ấy.
Một trong những lợi ích của việc sống trong căn phòng đơn lẻ, ghế bành cách giường vài bước, giường cách tủ lạnh vài bước, đó là cuộc khám xét tìm kẻ đột nhập diễn ra chưa đến một phút. Huyết áp không có thời gian vọt lên tới mức gây đột quỵ khi chỉ cần liếc ra sau tràng kỷ và nhìn vào tủ đồ một ngăn là quét qua hết mọi chỗ có thể ẩn nấp.
Chỉ duy nhất phòng tắm vẫn chưa lục soát.
Cửa đóng. Tôi đã để mở nó.
Sau khi tắm, tôi luôn để cửa mở, vì phòng tắm chỉ có một cửa sổ nhỏ, không lớn hơn họng đại bác là mấy, và một cây quạt hút gió khuấy động không khí gây ra tiếng ồn tương đương cái trống trong tay nhạc công thể loại rock hạng nặng. Nếu không để cửa mở, phòng tắm sẽ nồng nặc mùi ẩm mốc và hơi người, và từ đó về sau chắc tôi phải tắm trong bồn rửa nhà bếp.
Rút điện thoại từ thắt lưng ra, tôi cân nhắc chuyện gọi cảnh sát trình báo vụ đột nhập.
Nếu cảnh sát đến mà không tìm thấy ai trong phòng tắm, tôi sẽ thành thằng khờ. Và viễn cảnh nảy ra trong đầu khiến tôi thấy mình có thể còn tệ hơn cả thằng khờ.
Tôi liếc nhìn khẩu súng trên sàn nhà. Nếu nó được đặt với sự tính toán cẩn thận, với mục đích mong tôi nhặt lên thì tại sao có kẻ muốn tôi giữ nó?
Sau khi để điện thoại lên bàn điểm tâm, tôi bước đến nép vào một bên cửa phòng tắm và dỏng tai nghe ngóng. Những âm thanh duy nhất là bài ca định kỳ của con cú và tiếng tỏng của một giọt nước khác rơi xuống bồn rửa trong bếp sau hồi lâu ngưng bặt.
Quả đấm ở cửa xoay tròn không chút khựng lại. Cánh cửa mở vào trong.
Có kẻ đã bật đèn.
Tôi chăm chỉ tiết kiệm điện. Chi phí có thể chỉ vài đồng lẻ nhưng một đầu bếp chế biến thức ăn nhanh đang chờ kết hôn không thể để đèn sáng hay bật sẵn nhạc nhằm mua vui cho lũ nhện hay những linh hồn có thể ghé thăm nhà anh trong lúc anh đi vắng.
Cánh cửa rộng mở, phòng tắm nhỏ tí không có chỗ cho kẻ đột nhập ẩn nấp ngoại trừ cái bồn tắm, phía sau tấm màn giăng ra.
Bao giờ tôi cũng giăng màn ra sau khi tắm vì nếu lùa hết sang một bên, màn sẽ không khô hẳn trong cái không gian kém thông thoáng này. Nấm mốc sẽ lập tức tiến hành công việc cai quản trong các nếp gấp ẩm ướt.
Từ lúc tôi rời nhà vào sáng thứ Ba có kẻ đã kéo màn qua một bên. Kẻ đó hay một kẻ khác lúc này đây đang ụp mặt trong bồn tắm.
Hắn ta xem ra đã ngã hoặc bị đẩy vào bồn như một xác chết. Chẳng người sống nào lại nằm trong tư thế khó chịu như vậy, mặt đè lên lỗ thoát nước, cánh tay phải bị vặn ra sau người theo góc độ uốn khúc cho thấy phần vai trật khớp hay thậm chí cơ xoay cổ tay đã đứt lìa.
Mấy ngón tay trên bàn tay phơi trần nhợt nhạt đã quặp lại cứng đờ. Chúng không co giật, cũng không run rẩy.
Dọc theo thành bồn đằng kia, một đốm máu nhỏ đã khô trên bề mặt sứ.
Khi máu đổ tràn trề, bạn có thể ngửi thấy, không chỉ mùi tanh của máu tươi mà nó phảng phất dai dẳng và đáng sợ. Tôi không thể dò ra chút xíu mùi đó ở đây.
Một vệt xà phòng nước long lánh trên bệ đá lát quanh bồn và lớp bọt xà phòng dày sâu trong chậu cho thấy tên sát nhân rửa tay kỹ sau khi thực hiện hành vi, chắc để cọ sạch máu hay dấu vết thuốc súng.
Lau khô xong, hắn ném khăn vào bồn. Khăn phủ lên gáy nạn nhân.
Không mục đích rõ ràng, tôi lùi ra khỏi phòng tắm, đứng ngay ngoài cánh cửa để mở.
Tim tôi đập theo nhịp không tương xứng với giai điệu của con cú.
Tôi liếc về phía khẩu súng trên thảm, ngay bên trong cửa chính. Sự miễn cưỡng theo bản năng khiến tôi không chạm vào thứ vũ khí ấy đã chứng tỏ sự sáng suốt, dù tôi vẫn chưa nắm rõ toàn bộ ý nghĩa của sự việc đã diễn ra ở đây.
Điện thoại di động của tôi để trên bàn điểm tâm, còn điện thoại nhà nằm ở bàn cạnh giường. Tôi cân nhắc xem nên gọi ai và ai tôi có thể gọi. Chẳng chọn lựa nào có vẻ hấp dẫn.
Để hiểu rõ tình hình hơn, tôi cần nhìn mặt tử thi.
Tôi trở vào phòng tắm, cúi xuống bồn. Né tránh những ngón tay co quắp và vặn vẹo, tôi túm lấy quần áo của hắn và vất vả đôi chút mới đẩy được người đàn ông đã chết ấy nghiêng sang một bên rồi sau đó lật ngửa ra.
Cái khăn trượt xuống khỏi mặt hắn.
Vẫn màu xám bạc thếch nhưng giờ đây không còn vẻ thích thú kỳ quái đặc trưng, cặp mắt Bob Robertson dồn sang phần chết hơn hẳn phần sống. Ánh mắt trợn trừng dán chặt vào tầm nhìn xa xôi như thể trong khoảnh khắc tồn tại sau cuối, hắn đã thấy thứ gì đó gây sửng sốt và khiếp đảm hơn hẳn diện mạo tên sát nhân.

Chương 32

Trong chốc lát tôi chờ đợi Gã Nấm nháy mắt, nhe răng cười nham nhở, chộp lấy và lôi tôi vào bồn tắm với gã, cắn tôi bằng hàm răng đã phụng sự rất tốt cho gã trong cơn háu ăn tại quầy phục vụ ở Quán Vỉ nướng Pico Mundo.
Cái chết bất ngờ của gã khiến không còn kẻ tàn bạo nào trước mắt tôi, kế hoạch của tôi trật chìa và chủ đích của tôi lung lay. Tôi cứ ngỡ là gã tay súng điên khùng bắn những người bị hại trong giấc mơ tái diễn của tôi chứ không đơn thuần là một nạn nhân khác. Robertson chết, mê cung không còn Nhân ngư để tôi theo dấu và tiêu diệt.
Gã bị bắn một phát vào ngực ở vị trí gần đến mức tôi có cảm tưởng là họng súng đã ấn vào người. Trên áo gã có vệt loe cháy sém màu nâu xám.
Vì tim ngừng đập tức thì nên chỉ có chút máu từ cơ thể rỉ ra.
Một lần nữa tôi rút lui khỏi phòng tắm.
Tôi gần như đã đóng sát cửa lại. Và rồi tôi có ý nghĩ kỳ lạ biết đâu đằng sau cánh cửa khép kín, mặc cho trái tim vỡ toạc, Robertson sẽ lẳng lặng nhổm dậy từ bồn tắm và đứng đợi, thình lình đánh úp khi tôi trở vào.
Gã đã chết ngắc, và tôi biết gã chết rồi, thế mà những lo lắng vô lý kiểu ấy làm dây thần kinh của tôi thắt lại.
Để cửa phòng tắm vẫn mở, tôi bước đến bồn rửa trong bếp và rửa tay. Sau khi lau khô bằng khăn giấy, suýt chút tôi đã rửa lại lần nữa.
Dù chỉ đụng vào quần áo của Robertson nhưng tôi cứ cảm giác tay mình đầy mùi chết chóc.
Nhấc ống nghe ra khỏi điện thoại treo tường, tôi vô tình làm nó đập lách cách vào giá đặt, suýt đánh rơi. Đôi tay tôi đang run bần bật.
Tôi lắng nghe tín hiệu chờ quay số.
Tôi đã biết số cảnh sát trưởng Porter, không cần tìm kiếm.
Cuối cùng tôi gác điện thoại trở lại mà chưa hề bấm đến một số trên bàn phím.
Tình hình đã làm thay đổi mối quan hệ thân thiết thoải mái của tôi với cảnh sát trưởng. Một người chết chờ được phát hiện trong căn hộ của tôi. Khẩu súng giết gã cũng ở đây.
Trước đó tôi lại trình báo một cuộc đụng độ đáng lo ngại với nạn nhân tại nhà thờ St. Bartholomew. Và cảnh sát trưởng biết tôi đã vào nhà Robertson một cách bất hợp pháp lúc chiều thứ Ba, và điều đó cho gã Robertson lý do đối đầu với tôi.
Nếu khẩu súng này là của Robertson, giả thiết rõ ràng nhất bên phía cảnh sát sẽ là gã đến đây nằng nặc muốn biết tôi làm gì trong nhà gã và có thể đe dọa tôi. Họ sẽ nghĩ tôi và gã cãi cọ, dẫn đến ẩu đả và tôi bắn gã bằng súng của chính gã nhằm tự vệ.
Cảnh sát sẽ không cáo buộc tôi tội giết người hay ngộ sát. Có thể họ còn không bắt giữ để tra hỏi.
Song nếu khẩu súng này không phải của Robertson, tôi sẽ kẹt cứng như chuột trên bẫy keo dính.
Ông Wyatt Porter hiểu tôi quá rõ nên sẽ không tin tôi có thể giết người kiểu máu lạnh, khi mạng sống tôi không lâm nguy. Là cảnh sát trưởng, ông bố trí người hoạt động và đưa ra các quyết định quan trọng về thủ tục, nhưng ông đâu phải cảnh sát duy nhất trong lực lượng. Những người khác sẽ không nhanh chóng tuyên bố tôi vô tội trong tình huống đáng ngờ này, và nếu không vì lý do gì ngoài việc giữ thể diện, cảnh sát trưởng có thể phải giam tôi lại một ngày, đến khi ông tìm ra cách giải quyết vấn đề theo hướng có lợi cho tôi.
Trong tù, tôi sẽ an toàn tránh khỏi tai ương đẫm máu đang giáng xuống thị trấn Pico Mundo, nhưng tôi sẽ không ở vào đúng vị trí dùng năng lực ngăn chặn thảm kịch. Tôi không thể hộ tống chị Viola cùng hai con chị từ nhà đến nơi nương náu an toàn hơn ở chỗ em gái chị. Tôi không thể tìm cách thuyết phục gia đình Takuda thay đổi kế hoạch ngày thứ Tư của họ.
Tôi đã hy vọng bám theo bọn ông kẹ đến địa điểm tội ác sắp xảy ra khi sáng thứ Tư chuyển dần sang trưa, khi sự việc dường như được định đoạt sẽ xảy ra. Các linh hồn tà tâm kia sẽ tụ tập trước lúc đổ máu. Có thể cho tôi đủ thời gian để thay đổi số phận tất cả những ai không hề hay biết mình đang đi đến cái chết tại một nơi đến giờ vẫn còn là ẩn số.
Thế nhưng Odysseus bị xiềng xích không thể dẫn đường trở về Ithaca.
Tôi nhắc đến câu ám chỉ văn vẻ này chỉ vì tôi biết Ozzie “bé” sẽ buồn cười chuyện tôi cả gan dám ví mình như một vị anh hùng vĩ đại trong cuộc chiến Trojan.
“Cho câu chuyện một văn phong tươi sáng hơn mức em nghĩ nó xứng đáng, cậu em thân mến ạ. Bởi lẽ em sẽ không tìm thấy chân lý của cuộc sống trong tình trạng u tối, chỉ tìm thấy trong hi vọng thôi”, anh đã chỉ dẫn như thế trước khi tôi bắt tay vào viết.
Lời hứa tuân theo hướng dẫn ấy trở nên khó thực hiện hơn khi câu chuyện của tôi diễn tiến đến lúc xuất hiện súng ống. Tươi sáng lùi ra xa và u tối kéo đến. Để làm vừa lòng chàng thi sĩ to lớn có sáu ngón tay, tôi phải dùng mánh lới như chêm vào một câu trong truyện Odysseus nói trên.
Quyết định rằng không thể tìm cảnh sát trưởng Porter nhờ giúp đỡ vào những hoàn cảnh thế này, tôi tắt hết đèn trừ một ngọn trong phòng tắm. Tôi không thể ở trong bóng tối hoàn toàn với cái xác, vì tôi cảm thấy, cho dù đã chết, gã vẫn có thể gây bất ngờ cho tôi.
Trong không gian lờ mờ, tôi nhanh chóng tìm ra đường đi xuyên suốt căn phòng bừa bộn một cách đầy tự tin như thể tôi bị khiếm thị bẩm sinh và lớn lên ở đây từ khi lọt lòng.
Tại một khung cửa sổ trước nhà, tôi quay cần điều khiển để mở rèm cửa Levolor.
Bên phải, tôi nhìn thấy những bậc cầu thang trong ánh trăng được các khe của rèm cửa chia thành nhiều lát. Không có ai tiến lên nhà tôi.
Ngay phía trước là con đường, nhưng do mấy cây sồi chen ngang nên tầm nhìn không thông suốt. Tuy nhiên giữa các nhánh cây, tôi có thể thấy phố Marigold Lane và chắc rằng không chiếc xe nào khả nghi đậu ở lề đường từ lúc tôi về tới.
Xét bằng chứng thì tôi không bị theo dõi sít sao, vậy mà tôi cứ cảm thấy nhất định kẻ thủ tiêu Bob Robertson sẽ trở lại. Khi chúng biết tôi đã về nhà và phát hiện ra cái xác, chúng sẽ khử luôn cả tôi và làm cho vụ ám sát đôi trông giống như giết-người-rồi-tự-tử, hoặc có thể chúng sẽ gọi điện thoại nặc danh cho cảnh sát và đẩy tôi vào cái xà lim mà tôi kiên quyết tránh xa.
Nghĩ tới đó, tôi hiểu ra vụ dàn cảnh.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét