Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 35, 36)

Giao lộ sinh tử

Tác giả: Dean Koontz  
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 35

Tôi bắt đầu băng qua lối xe chạy, hướng đến hiên sau nhà bà Rosalia trước khi kịp nhận ra mình đang di chuyển. Sau vài bước, tôi dừng lại.
Nếu bà đã chết, tôi không thể làm gì cho bà. Và nếu kẻ giết Robertson có ghé nhà bà, chắc chắn hắn không để bà còn sống.
Trước đó tôi cứ tưởng Robertson là tay súng đơn lẻ, một tên quái đản rối loạn đầu óc và đạo đức đang lập mưu cho một vụ giết chóc vấy máu trong lịch sử, hệt như rất nhiều tên thuộc đám cặn bã khét tiếng trong xấp tài liệu được gã nâng niu cất giữ.
Và giờ đây gã đã trở thành kẻ như thế và thậm chí còn hơn thế. Gã gặp một kẻ cũng đam mê những trò tàn sát không suy nghĩ và cả hai cùng hợp sức biến thành con quái vật hai mặt, hai trái tim thù hận và bốn bàn tay bận bịu làm việc xấu xa.
Manh mối đã được treo trên tường phòng làm việc tại nhà Robertson nhưng khi ấy tôi nào hiểu. Manson, McVeigh và Atta. Không tên nào trong số đó hành động một mình. Bọn chúng hiệp lực với những kẻ khác.
Trong xấp tài liệu có trường hợp những tay sát thủ liên hoàn và kẻ thảm sát hàng loạt hành động đơn độc nhưng ba gương mặt tại vị trí Robertson tôn thờ đều là đối tượng tìm thấy ý nghĩa trong hội của bọn người xấu xa.
Chuyến viếng thăm bất hợp pháp của tôi đến nhà Robertson ở Camp’s End không hiểu sao bị gã biết được. Có thể máy quay được giấu trong nhà.
Những kẻ đi theo đường lối cũng thường mắc chứng hoang tưởng. Nếu quyết định làm vậy thì Robertson có nguồn tài chính dồi dào đủ để trang bị cho ngôi nhà những máy quay tối tân được ngụy trang khéo léo.
Gã ắt hẳn đã nói với đồng bọn giết người chuyện tôi rình mò những căn phòng của gã. Tên bạn thân ấy có thể quyết định rằng bản thân hắn gặp nguy nếu việc liên đới với Robertson bại lộ.
Hay do tôi sục sạo mà Robertson đâm ra lo sợ về kế hoạch ngày mười lăm tháng Tám của bọn chúng. Chắc gã muốn trì hoãn cuộc tàn sát mà cả hai chuẩn bị thực hiện.
Có lẽ tên bạn thân loạn thần kinh của gã quá háo hức đến mức không chấp nhận sự chậm trễ. Đã dự tính từ rất lâu màn bạo lực thú vị này, giờ đây hắn khát khao nó, một nhu cầu cấp thiết.
Tôi ngoảnh mặt đi khỏi ngôi nhà bà Rosalia.
Nếu đến đó và phát hiện ra bà đã bị giết do hậu quả hành động của tôi, tôi e mình không còn ý chí để xử lý cái xác Robertson. Ngay lúc nghĩ đến việc tìm thấy thi thể của bà - Odd Thomas, con có thấy bà không? Odd Thomas, bà vẫn hiện hữu chứ? - tôi cảm giác các mối nối lý trí bị bung lỏng ra, và tôi biết mình rơi vào nguy cơ phân tâm về mặt cảm xúc nếu không nói là về mặt tâm lý.
Chị Viola Peabody và các con chị đang trông cậy vào tôi.
Số lượng chưa xác định những người hiện bị định đoạt phải chết tại thị trấn Pico Mundo trước hoàng hôn ngày mai có thể được cứu nếu tôi ở bên ngoài nhà giam, nếu tôi biết địa điểm và thời gian của hành động hung bạo có tính toán kia.
Như thể phép thuật đột ngột thắng thế vật lý học, ánh trăng dường như mang trọng lượng. Tôi cảm giác sức nặng của ánh trăng rọi theo từng bước đi hướng đến phía sau ga-ra, nơi cái xác nằm đợi trong lớp vỏ bọc màu trắng.
Cửa sau của ga-ra không khóa. Bóng tối bên trong đầy mùi lốp cao su, dầu máy, dầu nhờn lâu ngày và hương thơm của gỗ tươi nguyên từ những xà nhà để trần bị nung dưới sức nóng ngày hè. Tôi để cái túi vào trong.
Nhận biết dứt khoát rằng ngày hôm nay đã lấy đi của tôi cả tinh thần lẫn sức lực, tôi kéo lê cái xác qua ngưỡng cửa và đóng nhanh cánh cửa. Tới lúc ấy tôi mới lần mò tìm công tắc đèn.
Ga-ra nằm riêng biệt này có hai chỗ, cộng thêm chỗ sửa chữa nơi có thể đậu chiếc xe thứ ba. Hiện thời một chỗ còn trống, và chiếc Chevy của bà Rosalia nằm trong khoảng gần nhà nhất.
Thử mở thùng xe, tôi phát hiện nó bị khóa.
Ý nghĩ nhét cái xác vào băng sau rồi lái xe với cái xác sau lưng khiến tôi bối rối.
Trong suốt hai mươi năm qua, tôi đã chứng kiến biết bao thứ kỳ lạ. Một trong những điều quái dị hơn hẳn là hồn ma của tổng thống Lyndon Johnson bước xuống chiếc xe buýt đường dài tại trạm xe buýt của thị trấn Pico Mundo. Ông từ Portland, Oregon, đi qua San Francisco và Sacramento, đến đây để rồi lên ngay chuyến xe ra nước ngoài đi đến Phoenix, Tucson, và những nơi trong Texas.
Do từ trần trong bệnh viện nên ông mặc quần áo ngủ, không mang dép và trông trơ trọi. Khi nhận ra tôi thấy được ông, ông trừng mắt giận dữ, rồi tuột quần áo và chổng mông về phía tôi.
Thế nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một thi thể sống lại, cũng không đụng độ xác chết nào được ma thuật xấu xa phù phép cho cử động. Vậy mà ý nghĩ quay lưng lại với tử thi của Robertson và lái xe chở xác đến một xó xỉnh hiu quạnh của thị trấn Pico Mundo làm tôi căng phồng nỗi khiếp đảm.
Mặt khác, tôi không thể đỡ gã - bị bao bọc kín mít, lên ghế hành khách phía trước rồi chạy xe loanh quanh với một thứ trông như điếu thuốc nặng hai trăm năm mươi pao.
Cho cái xác vào phía sau xe Chevy đòi hỏi phải cố gắng cả sức lực lẫn cái dạ dày. Trong cái kén, Robertson, như xốp, mềm... chín muồi.
Hết lần này đến lần khác, ký ức sống động về lỗ đạn tả tơi, ươn ướt trên ngực gã dấy lên trong tâm trí tôi: thịt nhão và bầm tím quanh cái vết rỉ ra thứ nước sền sệt sẫm màu. Tôi không ngó sát vết thương, tôi đã nhanh chóng quay đi, mà sao hình ảnh ấy cứ trỗi dậy như mặt trời đen tối trong trí nhớ của tôi.
Đến lúc chất cái xác vào xe và đóng cửa sau lại, mồ hôi chảy ròng ròng trên người tôi như thể tên khổng lồ nào đó vắt tôi như vắt cái khăn mặt. Đó cũng chính là cảm giác của tôi.
Bên ngoài, hai giờ sáng, nhiệt độ giảm còn tám mươi lăm độ mát mẻ [85 độ F = khoảng 33 độ C]. Trong ga-ra không cửa sổ này, không khí hơn mười độ là tối đa.
Mặc kệ chuyện đổ mồ hôi, tôi lóng ngóng bên dưới cái chắn bùn trước xe và tìm những sợi dây tôi cần. Chỉ hỏng một lần, tôi đã khởi động được xe.
Từ đầu đến cuối, gã đàn ông đã chết trên ghế sau không hề cựa quậy.
Tôi tắt đèn ga-ra, để cái túi mua sắm bằng nhựa lên ghế hành khách, ngồi vào sau vô lăng rồi dùng điều khiển từ xa kéo cánh cửa ga-ra.
Thấm mồ hôi trên mặt bằng nắm khăn giấy rút ra từ cái hộp để trên bảng điều khiển của xe, tôi nhận thấy mình chưa nghĩ tới nơi dỡ kiện hàng kia xuống. Bãi rác thị trấn hay đống thu gom phế thải của công ty Goodwill Industries đều không phải ý kiến hay.
Nếu Robertson bị phát hiện quá sớm, cảnh sát trưởng Porter sẽ đặt những câu hỏi hóc búa cho tôi. Lý tưởng nhất là cái xác sẽ nằm mục rữa một cách lặng lẽ trong ít nhất hai mươi bốn tiếng trước khi có người tìm thấy và để Chúa cứu rỗi gã.
Rồi tôi nghĩ ra một chỗ giấu hoàn hảo: Nhà thờ Sao chổi Thì thầm, Quầy rượu Ngực trần, Hiệu sách Người lớn và Thiên đường Bánh kẹp.

Chương 36

Nhà thờ Sao chổi Thì thầm được dựng lên cách đây hơn hai mươi năm, cách xa quốc lộ và ra khỏi ranh giới thị trấn Pico Mundo vài trăm dặm, trên một vùng sa mạc đầy bụi rậm.
Ngay cả khi còn là nơi thờ phụng khác thường thì nó cũng đã không giống nhà thờ. Tại đây trong màn đêm trong trẻo đầy sao, tòa nhà chính, một ngôi nhà bằng tôn gấp nếp dài hơn sáu mươi mét, rộng hơn mười tám mét, hình nửa trụ với các ô cửa sổ hai bên trông như con tàu vũ trụ, thiếu đi chóp mũ trên đỉnh, bị chôn vùi một nửa vào lòng đất.
Nép giữa hàng cây đã héo và đang lụi tàn, bị che đậy gần hết bởi lớp ngụy trang vằn vện của những cái bóng và ánh trăng nhợt nhạt, các ngôi nhà tôn nhỏ hơn vây quanh vành đai khu đất. Trước đây chúng là khu tập họp những tín đồ trung thành.
Người sáng lập nhà thờ, Caesar Zedd Jr., biện bạch rằng ông nhận được những thông điệp thì thầm, chủ yếu trong mơ nhưng cũng đôi khi vào lúc thức từ những nhân viên tình báo ngoài hành tinh trên chiếc tàu vũ trụ du hành đến Trái đất bên trong sao chổi. Những người ngoài hành tinh ấy tuyên bố họ là các vị thần đã tạo ra loài người và toàn bộ những giống loài trên hành tinh.
Hầu hết cư dân thị trấn Pico Mundo cho rằng các buổi lễ ở Nhà thờ Sao chổi Thì thầm sẽ có ngày lên đến tột bậc thành lễ ban thánh thể bằng rượu nho Kool-Aid tẩm độc và hàng trăm người chết. Thay vì thế, sự chấn chỉnh trong niềm tin tôn giáo của ông Zedd trở nên khả nghi khi ông và toàn thể tín đồ bị truy tố và kết án tội tổ chức băng nhóm sản xuất và phân phối chất kích thích lớn nhất thế giới.
Sau khi nhà thờ ngừng hoạt động, một tổ chức tự xưng là Hiệp hội Đầu tiên Bảo vệ Sự đổi mới, đơn vị quy mô nhất tại Mỹ kinh doanh hiệu sách người lớn, quầy rượu ngực trần, các trang web khiêu dâm và những tụ điểm karaoke, đã đe dọa hạt Maravilla phải cấp cho họ giấy phép kinh doanh. Bọn họ biến khu đất thành công viên giải trí về tình dục hạng bét, đổi biển tên gốc của nhà thờ sang bảng đèn nê-ông và mở rộng thành dòng chữ NHÀ THỜ SAO CHỔI THÌ THẦM, QUÁN RƯỢU NGỰC TRẦN, HIỆU SÁCH NGƯỜI LỚN VÀ THIÊN ĐƯỜNG BÁNH KẸP.
Tin đồn nơi đây có món bánh kẹp và thịt nướng ngon tuyệt cùng lời hứa hẹn miễn phí nước ngọt uống thêm được tuân thủ theo một cách hào phóng. Vậy mà chốn làm ăn chẳng bao giờ thành công việc lôi kéo các nhóm dùng bữa tối gia đình hay các cặp đôi thành đạt địa vị cao, những đối tượng thường hay lui tới nhà hàng.
Doanh nghiệp được gọi tên là Bánh kẹp Thì thầm này được khoản lời đáng kể thậm chí sau khi đã bù lỗ cho dịch vụ ăn uống. Quầy rượu ngực trần, hiệu sách (không cất giữ mà cung cấp hàng ngàn băng đĩa) và nhà chứa (không đề cập trong tờ đơn gốc xin cấp giấy phép kinh doanh) mang những đại dương tiền cho ốc đảo sa mạc này.
Tuy các luật sư của tập đoàn, những người bảo vệ Hiến pháp đầy lòng can đảm, đã cố gắng giữ cho nơi này vẫn mở cửa qua mười lần bị kết tội tổ chức hoạt động mại dâm, Bánh kẹp Thì thầm đã tan hoang sau vụ ba gái mại dâm bị bắn gục bởi một gã khách trần truồng lên cơn do dùng thuốc gây nghiện PCP và Viagra quá liều.
Thay cho phần thuế và tiền phạt chưa trả, cơ ngơi rơi vào tay chính quyền hạt. Suốt năm năm qua, sự đình trệ của hoạt động bảo quản và những nỗ lực chiếm hữu không mệt mỏi của sa mạc đã đè bẹp tòa nhà một thời nguy nga của các vị thần ngoài hành tinh thành đống gỉ sét đổ nát.
Khu vườn ở nhà thờ từng mang phong cảnh như thiên đường nhiệt đới, với cỏ sum suê, nhiều giống cây cọ dương xỉ, và dây leo nở hoa. Không được tưới nước hàng ngày nên mùa mưa ngắn ngủi ở sa mạc không đủ nước giữ gìn vườn địa đàng này.
Tắt đèn pha từ quốc lộ rẽ vào, tôi lái xe dưới bóng trăng tua tủa do ánh sáng hắt qua những hàng cọ héo queo. Lối xe chạy rải nhựa nứt nẻ đầy ổ gà dẫn đến phía sau tòa nhà chính xa xa là vòng cung của những nhà tôn nhỏ hơn.
Tôi chẳng muốn để xe còn nổ máy nhưng tôi muốn có thể trốn chạy thật nhanh. Không có chìa khóa, tôi không tài nào khởi động xe nhanh chóng trong cơn hoảng loạn.
Bỏ cây đèn pin vào cái túi, tôi tìm nơi thích hợp để giấu cái xác phiền phức này.
Sa mạc Mojave lấy lại được hơi thở. Luồng gió lười nhác thổi đến từ hướng đông mang theo mùi cây bụi khô héo, cát nóng và đời sống kỳ lạ của sa mạc.
Mỗi căn phòng trong số mười mái nhà tôn từng là khu tụ họp của nhà thờ đủ chỗ cho sáu mươi thành viên sùng bái tại những cái giường nhỏ chật hẹp kiểu tiệm thuốc phiện. Khi nhà thờ được thay thế bằng nhà chứa có món bánh kẹp, một vài chỗ trong kết cấu trên được hủy bỏ, phân chia và trang trí lại nhằm biến thành những chiếc giường thoải mái để vũ nữ ngực trần giao thứ mà các ả hứa hẹn ngoài quầy rượu.
Những năm về sau, từ lúc khu đất bị bỏ hoang, đám người tọc mạch lần tìm ra và phá hoại tòa nhà chính cùng tất cả các khu tập họp. Cửa gãy toang hoác. Vài cánh cửa còn tụt khỏi bản lề mục ruỗng.
Tại khu tập họp thứ ba mà tôi xem xét, chốt đàn hồi trên cửa vẫn còn tốt để giữ cửa đóng.
Tôi không muốn để cái xác ở nơi bầy sói đồng cỏ có thể dễ dàng mò tới. Robertson đã là một quái thú; tôi vẫn tin như thế; song, bất kể chuyện gã đã làm hay có khả năng thực hiện, tôi vẫn không thể giao nộp thi hài của gã cho điều sỉ nhục mà bà ngoại Sugars sợ sẽ xảy đến với bà nếu bà gục chết trong ván bài với những tay chơi nhẫn tâm.
Biết đâu sói đồng cỏ không ăn xác đã thối rữa. Có lẽ chúng chỉ dùng món do chúng làm thịt.
Thế nhưng sa mạc đầy rẫy sự sống, nhiều hơn hẳn những gì nhìn thấy được khi chỉ xem xét sơ sài. Rất nhiều sinh vật sẽ mừng rỡ đánh chén một cái xác béo núc như của Robertson.
Sau khi lái chiếc Chevy nhanh hết mức đến ngôi nhà đã chọn, cách cổng khoảng ba mét, tôi cần một phút để dồn nghị lực giải quyết cái xác. Tôi nhai hai viên thuốc giảm độ axit trong dạ dày.
Suốt chuyến đi từ thị trấn, Bob Robertson chưa một lần hỏi, Chúng ta đến chưa? Tuy vậy, và ngược hẳn với lý trí, tôi vẫn không tin hắn đã chết.
Lôi mạnh gã ra khỏi xe xem ra dễ hơn việc tống gã vào, trừ một điểm khi cái thân thể núc ních to lớn của gã động đậy bên trong lớp vỏ bọc bằng khăn trải giường, tôi cảm giác như mình đang xử lý một cái bao đầy rắn sống.
Sau khi kéo lê gã đến cửa nhà tôn, chèn cửa mở bằng cây đèn pin, tôi tạm nghỉ quẹt mồ hôi nhỏ giọt trên trán, và trông thấy cặp mắt vàng khè. Thấp dưới mặt đất cách xa khoảng bảy tám mét, cặp mắt đỏ nhìn tôi vẻ thèm khát không lẫn đi đâu được.
Tôi chộp cây đèn pin lên và rọi thẳng vào đúng ngay thứ tôi đã sợ: một con sói từ vùng đồng không mông quạnh vào đây, thám thính giữa những tòa nhà hoang phế. To lớn, vạm vỡ, thô kệch, trán và quai hàm sắc cạnh, con thú mang bản chất xấu xa thua kém rất nhiều người, nhưng ngay giây phút đó trông nó như yêu ma lẻn qua cánh cổng địa ngục.
Đèn pin không dọa được nó bỏ đi, điều đó cho thấy nó trở nên tự tin một cách nguy hiểm trước mặt con người, và có thể nó không đơn độc. Tôi quét đèn pin qua bóng đêm trước mắt và phát hiện thêm một con khác vai thõng xuống bên phải phía sau con thứ nhất.
Cho đến những năm gần đây, sói đồng cỏ hiếm khi cắn trẻ con và không bao giờ lao vào người lớn. Khi những người định cư xâm lấn địa phận săn bắt của bọn sói, chúng trở nên táo bạo hơn, hung hăng hơn. Trong vòng năm năm trở lại đây, vài người lớn ở California bị chúng đuổi theo thậm chí bị tấn công.
Hai con này xem ra không phải thấy tôi ít đáng sợ mà coi tôi như món mặn cuối bữa.
Tôi nhìn xuống đất xung quanh tìm hòn đá và vớ được một miếng bê tông vỡ ra khỏi lề đường. Tôi ném mạnh vào con thú gần nhất. Miếng bê tông rơi xuống mặt đường nhựa chệch mục tiêu hơn cả tấc và văng vào vùng tối.
Con sói né tránh điểm va chạm nhưng không bỏ chạy. Con thứ hai theo sự ra hiệu của con đầu tiên và đứng yên lại chỗ.
Âm thanh vo vo và lách cách của chiếc xe còn để nổ máy không khiến bọn sói nao núng mà làm tôi lo lắng. Bánh kẹp Thì thầm là khu biệt lập; không ai đến gần tới mức dấy lên sự tò mò bởi tiếng động cơ rền rĩ. Thế nhưng nếu những người lai vãng khác đã có mặt tại khu này thì tiếng ồn sẽ lấp kín tiếng chân họ.
Tôi không thể xử lý cùng lúc hai thứ. Việc giấu cái xác chiếm ưu tiên hơn chuyện đối phó bọn sói.
Lúc tôi quay lại, có thể bầy thú đã bỏ đi theo hương thơm thịt thỏ hay con thú nào khác dễ săn.
Tôi lôi cái xác được bao bọc qua ngưỡng cửa, vào nhà tôn rồi đóng chặt cửa lại.
Hành lang dọc một bên tòa nhà chia thành một phòng tắm và bốn căn phòng. Mỗi căn phòng từng là nơi hành nghề của một ả mại dâm.
Đèn pin soi rọi bụi bặm, mạng nhện, hai chai bia rỗng không, đống xác ong…
Sau ngần ấy năm, không khí vẫn vương vấn mùi hương phảng phất mờ nhạt của nến thơm, trầm hương, nước hoa, dầu thơm. Chìm khuất bên dưới sự hòa quyện thơm tho nhưng ngột ngạt này là mùi hăng khó chịu hơn, có thể đó là nước tiểu lâu ngày của các con thú đến rồi đi.
Đồ đạc đã được chở đi từ lâu. Trong hai căn phòng, gương trên trần cho biết vị trí đặt giường. Tường sơn màu hồng đậm.
Mỗi căn phòng có hai cửa sổ bé tẹo. Hầu hết kính đều bị trẻ con dùng súng hơi bắn vỡ.
Trong căn phòng thứ tư, cả hai cửa sổ nhỏ đều còn nguyên vẹn. Tại đây, không loài ăn xác chết to lớn nào có thể chạm tới thi thể.
Một sợi dây giày dùng để cột bị bung. Đầu bao đựng xác giãn ra và chân trái của Robertson lộ ra.
Tôi đã cân nhắc chuyện lấy cả dây giày lẫn tấm khăn trải giường. Chúng có thể là mối liên hệ liên quan đến tôi, nhưng chúng thuộc lại hàng thường, được bày bán ở rất nhiều cửa tiệm, chỉ mình những thứ đó không thể kết tội tôi.
Khi tập trung vào nhiệm vụ, trong tâm trí tôi lại xuất hiện hình ảnh vết thương trên ngực Robertson. Và trong ký ức tôi nghe giọng mẹ: Con muốn bóp cò giùm mẹ không? Con muốn bóp cò không?
Tôi đã tập luyện nhiều lần việc kéo tâm trí rời xa một số ký ức tuổi thơ. Tôi có thể nhanh chóng chuyển giọng nói đáng nhớ của mẹ từ thì thầm sang nín thinh.
Ném khỏi tâm trí hình ảnh vết thương của Robertson lại không hề dễ dàng. Lỗ thủng ươn ướt đó nện thình thịch trong ký ức như thể trái tim đã ngừng đập của gã đang vỗ bên dưới.
Trong phòng tắm nhà tôi, khi cởi áo gã để kiểm tra tình trạng tím bầm và thấy vết thương hở trên phần thịt nhuốm đỏ, cái gì đó đã thôi thúc tôi nhìn gần hơn. Phẫn nộ bởi sự thúc đẩy không tốt từ chính bản thân, và thực ra, khiếp đảm trước điều đó, e rằng đam mê của tôi chứng tỏ tôi bị mẹ tác động theo cách tôi không nhận ra nên tôi đã kìm chế không nhìn gần hơn và lập tức quay đi cài nút áo gã lại.
Giờ đây, quỳ cạnh Robertson, lóng ngóng với mấy cái nút thắt ở sợi dây giày còn buộc chặt cái bao đựng xác, tôi cố đóng ký ức về cái áo sơ mi lên ký ức về vết thương rỉ nước nhưng nó vẫn cứ đập vào tâm trí tôi.
Trong thi thể sưng phồng, khí làm giả một loạt âm thanh ùng ục lên đỉnh điểm nghe như tiếng thở dài vuột ra khỏi đôi môi người chết, ở phía sau lớp mạng che bằng cotton.
Không thể nấn ná thêm giây phút nào bên cạnh cái xác, tôi vụt đứng dậy, cầm đèn pin bỏ chạy khỏi căn phòng màu hồng đậm, nửa đường dọc hành lang mới nhận ra còn để cửa mở. Tôi quay lại đóng cửa, bảo vệ thi thể kỹ hơn khỏi loài chim ăn xác to lớn của sa mạc.
Tôi lấy vạt áo của mình lau tay nắm cửa ở mọi căn phòng tôi đã xem qua. Sau đó, lê chân qua những bước đi in dấu trước đó, tôi làm bẩn lớp bụi dày trên sàn với hy vọng có thể tránh để lại dấu giày rõ ràng.
Khi mở cửa trước, ánh đèn pin của tôi gặp phải tia mắt sáng từ ba con sói đồng cỏ đợi sẵn, chắn giữa tôi và chiếc Chevy còn nổ máy.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét