Giao lộ sinh tử
Tác giả: Dean Koontz
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011
Chương 35
Tôi bắt đầu băng qua lối xe chạy, hướng đến hiên sau nhà bà
Rosalia trước khi kịp nhận ra mình đang di chuyển. Sau vài bước, tôi dừng lại.
Nếu bà đã chết, tôi không thể làm gì cho bà. Và nếu kẻ giết
Robertson có ghé nhà bà, chắc chắn hắn không để bà còn sống.
Trước đó tôi cứ tưởng Robertson là tay súng đơn lẻ, một tên
quái đản rối loạn đầu óc và đạo đức đang lập mưu cho một vụ giết chóc vấy máu
trong lịch sử, hệt như rất nhiều tên thuộc đám cặn bã khét tiếng trong xấp tài
liệu được gã nâng niu cất giữ.
Và giờ đây gã đã trở thành kẻ như thế và thậm chí còn hơn thế.
Gã gặp một kẻ cũng đam mê những trò tàn sát không suy nghĩ và cả hai cùng hợp sức
biến thành con quái vật hai mặt, hai trái tim thù hận và bốn bàn tay bận bịu
làm việc xấu xa.
Manh mối đã được treo trên tường phòng làm việc tại nhà
Robertson nhưng khi ấy tôi nào hiểu. Manson, McVeigh và Atta. Không tên nào
trong số đó hành động một mình. Bọn chúng hiệp lực với những kẻ khác.
Trong xấp tài liệu có trường hợp những tay sát thủ liên hoàn
và kẻ thảm sát hàng loạt hành động đơn độc nhưng ba gương mặt tại vị trí
Robertson tôn thờ đều là đối tượng tìm thấy ý nghĩa trong hội của bọn người xấu
xa.
Chuyến viếng thăm bất hợp pháp của tôi đến nhà Robertson ở
Camp’s End không hiểu sao bị gã biết được. Có thể máy quay được giấu trong nhà.
Những kẻ đi theo đường lối cũng thường mắc chứng hoang tưởng.
Nếu quyết định làm vậy thì Robertson có nguồn tài chính dồi dào đủ để trang bị cho
ngôi nhà những máy quay tối tân được ngụy trang khéo léo.
Gã ắt hẳn đã nói với đồng bọn giết người chuyện tôi rình mò
những căn phòng của gã. Tên bạn thân ấy có thể quyết định rằng bản thân hắn gặp
nguy nếu việc liên đới với Robertson bại lộ.
Hay do tôi sục sạo mà Robertson đâm ra lo sợ về kế hoạch
ngày mười lăm tháng Tám của bọn chúng. Chắc gã muốn trì hoãn cuộc tàn sát mà cả
hai chuẩn bị thực hiện.
Có lẽ tên bạn thân loạn thần kinh của gã quá háo hức đến mức
không chấp nhận sự chậm trễ. Đã dự tính từ rất lâu màn bạo lực thú vị này, giờ
đây hắn khát khao nó, một nhu cầu cấp thiết.
Tôi ngoảnh mặt đi khỏi ngôi nhà bà Rosalia.
Nếu đến đó và phát hiện ra bà đã bị giết do hậu quả hành động
của tôi, tôi e mình không còn ý chí để xử lý cái xác Robertson. Ngay lúc nghĩ đến
việc tìm thấy thi thể của bà - Odd Thomas, con có thấy bà không? Odd Thomas, bà
vẫn hiện hữu chứ? - tôi cảm giác các mối nối lý trí bị bung lỏng ra, và tôi biết
mình rơi vào nguy cơ phân tâm về mặt cảm xúc nếu không nói là về mặt tâm lý.
Chị Viola Peabody và các con chị đang trông cậy vào tôi.
Số lượng chưa xác định những người hiện bị định đoạt phải chết
tại thị trấn Pico Mundo trước hoàng hôn ngày mai có thể được cứu nếu tôi ở bên
ngoài nhà giam, nếu tôi biết địa điểm và thời gian của hành động hung bạo có
tính toán kia.
Như thể phép thuật đột ngột thắng thế vật lý học, ánh trăng
dường như mang trọng lượng. Tôi cảm giác sức nặng của ánh trăng rọi theo từng
bước đi hướng đến phía sau ga-ra, nơi cái xác nằm đợi trong lớp vỏ bọc màu trắng.
Cửa sau của ga-ra không khóa. Bóng tối bên trong đầy mùi lốp
cao su, dầu máy, dầu nhờn lâu ngày và hương thơm của gỗ tươi nguyên từ những xà
nhà để trần bị nung dưới sức nóng ngày hè. Tôi để cái túi vào trong.
Nhận biết dứt khoát rằng ngày hôm nay đã lấy đi của tôi cả
tinh thần lẫn sức lực, tôi kéo lê cái xác qua ngưỡng cửa và đóng nhanh cánh cửa.
Tới lúc ấy tôi mới lần mò tìm công tắc đèn.
Ga-ra nằm riêng biệt này có hai chỗ, cộng thêm chỗ sửa chữa
nơi có thể đậu chiếc xe thứ ba. Hiện thời một chỗ còn trống, và chiếc Chevy của
bà Rosalia nằm trong khoảng gần nhà nhất.
Thử mở thùng xe, tôi phát hiện nó bị khóa.
Ý nghĩ nhét cái xác vào băng sau rồi lái xe với cái xác sau
lưng khiến tôi bối rối.
Trong suốt hai mươi năm qua, tôi đã chứng kiến biết bao thứ
kỳ lạ. Một trong những điều quái dị hơn hẳn là hồn ma của tổng thống Lyndon
Johnson bước xuống chiếc xe buýt đường dài tại trạm xe buýt của thị trấn Pico
Mundo. Ông từ Portland, Oregon, đi qua San Francisco và Sacramento, đến đây để
rồi lên ngay chuyến xe ra nước ngoài đi đến Phoenix, Tucson, và những nơi trong
Texas.
Do từ trần trong bệnh viện nên ông mặc quần áo ngủ, không
mang dép và trông trơ trọi. Khi nhận ra tôi thấy được ông, ông trừng mắt giận dữ,
rồi tuột quần áo và chổng mông về phía tôi.
Thế nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một thi thể sống lại,
cũng không đụng độ xác chết nào được ma thuật xấu xa phù phép cho cử động. Vậy
mà ý nghĩ quay lưng lại với tử thi của Robertson và lái xe chở xác đến một xó xỉnh
hiu quạnh của thị trấn Pico Mundo làm tôi căng phồng nỗi khiếp đảm.
Mặt khác, tôi không thể đỡ gã - bị bao bọc kín mít, lên ghế
hành khách phía trước rồi chạy xe loanh quanh với một thứ trông như điếu thuốc
nặng hai trăm năm mươi pao.
Cho cái xác vào phía sau xe Chevy đòi hỏi phải cố gắng cả sức
lực lẫn cái dạ dày. Trong cái kén, Robertson, như xốp, mềm... chín muồi.
Hết lần này đến lần khác, ký ức sống động về lỗ đạn tả tơi,
ươn ướt trên ngực gã dấy lên trong tâm trí tôi: thịt nhão và bầm tím quanh cái
vết rỉ ra thứ nước sền sệt sẫm màu. Tôi không ngó sát vết thương, tôi đã nhanh
chóng quay đi, mà sao hình ảnh ấy cứ trỗi dậy như mặt trời đen tối trong trí nhớ
của tôi.
Đến lúc chất cái xác vào xe và đóng cửa sau lại, mồ hôi chảy
ròng ròng trên người tôi như thể tên khổng lồ nào đó vắt tôi như vắt cái khăn mặt.
Đó cũng chính là cảm giác của tôi.
Bên ngoài, hai giờ sáng, nhiệt độ giảm còn tám mươi lăm độ
mát mẻ [85 độ F = khoảng 33 độ C]. Trong ga-ra không cửa sổ này, không khí hơn
mười độ là tối đa.
Mặc kệ chuyện đổ mồ hôi, tôi lóng ngóng bên dưới cái chắn
bùn trước xe và tìm những sợi dây tôi cần. Chỉ hỏng một lần, tôi đã khởi động
được xe.
Từ đầu đến cuối, gã đàn ông đã chết trên ghế sau không hề cựa
quậy.
Tôi tắt đèn ga-ra, để cái túi mua sắm bằng nhựa lên ghế hành
khách, ngồi vào sau vô lăng rồi dùng điều khiển từ xa kéo cánh cửa ga-ra.
Thấm mồ hôi trên mặt bằng nắm khăn giấy rút ra từ cái hộp để
trên bảng điều khiển của xe, tôi nhận thấy mình chưa nghĩ tới nơi dỡ kiện hàng
kia xuống. Bãi rác thị trấn hay đống thu gom phế thải của công ty Goodwill
Industries đều không phải ý kiến hay.
Nếu Robertson bị phát hiện quá sớm, cảnh sát trưởng Porter sẽ
đặt những câu hỏi hóc búa cho tôi. Lý tưởng nhất là cái xác sẽ nằm mục rữa một
cách lặng lẽ trong ít nhất hai mươi bốn tiếng trước khi có người tìm thấy và để
Chúa cứu rỗi gã.
Rồi tôi nghĩ ra một chỗ giấu hoàn hảo: Nhà thờ Sao chổi Thì
thầm, Quầy rượu Ngực trần, Hiệu sách Người lớn và Thiên đường Bánh kẹp.
Chương 36
Nhà
thờ Sao chổi Thì thầm được dựng lên cách đây hơn hai mươi năm, cách xa quốc lộ
và ra khỏi ranh giới thị trấn Pico Mundo vài trăm dặm, trên một vùng sa mạc đầy
bụi rậm.
Ngay cả khi còn là nơi thờ phụng khác thường thì nó cũng đã
không giống nhà thờ. Tại đây trong màn đêm trong trẻo đầy sao, tòa nhà chính, một
ngôi nhà bằng tôn gấp nếp dài hơn sáu mươi mét, rộng hơn mười tám mét, hình nửa
trụ với các ô cửa sổ hai bên trông như con tàu vũ trụ, thiếu đi chóp mũ trên đỉnh,
bị chôn vùi một nửa vào lòng đất.
Nép giữa hàng cây đã héo và đang lụi tàn, bị che đậy gần hết
bởi lớp ngụy trang vằn vện của những cái bóng và ánh trăng nhợt nhạt, các ngôi
nhà tôn nhỏ hơn vây quanh vành đai khu đất. Trước đây chúng là khu tập họp những
tín đồ trung thành.
Người sáng lập nhà thờ, Caesar Zedd Jr., biện bạch rằng ông
nhận được những thông điệp thì thầm, chủ yếu trong mơ nhưng cũng đôi khi vào
lúc thức từ những nhân viên tình báo ngoài hành tinh trên chiếc tàu vũ trụ du
hành đến Trái đất bên trong sao chổi. Những người ngoài hành tinh ấy tuyên bố họ
là các vị thần đã tạo ra loài người và toàn bộ những giống loài trên hành tinh.
Hầu hết cư dân thị trấn Pico Mundo cho rằng các buổi lễ ở
Nhà thờ Sao chổi Thì thầm sẽ có ngày lên đến tột bậc thành lễ ban thánh thể bằng
rượu nho Kool-Aid tẩm độc và hàng trăm người chết. Thay vì thế, sự chấn chỉnh
trong niềm tin tôn giáo của ông Zedd trở nên khả nghi khi ông và toàn thể tín đồ
bị truy tố và kết án tội tổ chức băng nhóm sản xuất và phân phối chất kích
thích lớn nhất thế giới.
Sau khi nhà thờ ngừng hoạt động, một tổ chức tự xưng là Hiệp
hội Đầu tiên Bảo vệ Sự đổi mới, đơn vị quy mô nhất tại Mỹ kinh doanh hiệu sách
người lớn, quầy rượu ngực trần, các trang web khiêu dâm và những tụ điểm
karaoke, đã đe dọa hạt Maravilla phải cấp cho họ giấy phép kinh doanh. Bọn họ
biến khu đất thành công viên giải trí về tình dục hạng bét, đổi biển tên gốc của
nhà thờ sang bảng đèn nê-ông và mở rộng thành dòng chữ NHÀ THỜ SAO CHỔI THÌ THẦM,
QUÁN RƯỢU NGỰC TRẦN, HIỆU SÁCH NGƯỜI LỚN VÀ THIÊN ĐƯỜNG BÁNH KẸP.
Tin đồn nơi đây có món bánh kẹp và thịt nướng ngon tuyệt
cùng lời hứa hẹn miễn phí nước ngọt uống thêm được tuân thủ theo một cách hào
phóng. Vậy mà chốn làm ăn chẳng bao giờ thành công việc lôi kéo các nhóm dùng bữa
tối gia đình hay các cặp đôi thành đạt địa vị cao, những đối tượng thường hay
lui tới nhà hàng.
Doanh nghiệp được gọi tên là Bánh kẹp Thì thầm này được khoản
lời đáng kể thậm chí sau khi đã bù lỗ cho dịch vụ ăn uống. Quầy rượu ngực trần,
hiệu sách (không cất giữ mà cung cấp hàng ngàn băng đĩa) và nhà chứa (không đề
cập trong tờ đơn gốc xin cấp giấy phép kinh doanh) mang những đại dương tiền
cho ốc đảo sa mạc này.
Tuy các luật sư của tập đoàn, những người bảo vệ Hiến pháp đầy
lòng can đảm, đã cố gắng giữ cho nơi này vẫn mở cửa qua mười lần bị kết tội tổ
chức hoạt động mại dâm, Bánh kẹp Thì thầm đã tan hoang sau vụ ba gái mại dâm bị
bắn gục bởi một gã khách trần truồng lên cơn do dùng thuốc gây nghiện PCP và
Viagra quá liều.
Thay cho phần thuế và tiền phạt chưa trả, cơ ngơi rơi vào
tay chính quyền hạt. Suốt năm năm qua, sự đình trệ của hoạt động bảo quản và những
nỗ lực chiếm hữu không mệt mỏi của sa mạc đã đè bẹp tòa nhà một thời nguy nga của
các vị thần ngoài hành tinh thành đống gỉ sét đổ nát.
Khu vườn ở nhà thờ từng mang phong cảnh như thiên đường nhiệt
đới, với cỏ sum suê, nhiều giống cây cọ dương xỉ, và dây leo nở hoa. Không được
tưới nước hàng ngày nên mùa mưa ngắn ngủi ở sa mạc không đủ nước giữ gìn vườn địa
đàng này.
Tắt đèn pha từ quốc lộ rẽ vào, tôi lái xe dưới bóng trăng tua
tủa do ánh sáng hắt qua những hàng cọ héo queo. Lối xe chạy rải nhựa nứt nẻ đầy
ổ gà dẫn đến phía sau tòa nhà chính xa xa là vòng cung của những nhà tôn nhỏ
hơn.
Tôi chẳng muốn để xe còn nổ máy nhưng tôi muốn có thể trốn
chạy thật nhanh. Không có chìa khóa, tôi không tài nào khởi động xe nhanh chóng
trong cơn hoảng loạn.
Bỏ cây đèn pin vào cái túi, tôi tìm nơi thích hợp để giấu
cái xác phiền phức này.
Sa mạc Mojave lấy lại được hơi thở. Luồng gió lười nhác thổi
đến từ hướng đông mang theo mùi cây bụi khô héo, cát nóng và đời sống kỳ lạ của
sa mạc.
Mỗi căn phòng trong số mười mái nhà tôn từng là khu tụ họp của
nhà thờ đủ chỗ cho sáu mươi thành viên sùng bái tại những cái giường nhỏ chật hẹp
kiểu tiệm thuốc phiện. Khi nhà thờ được thay thế bằng nhà chứa có món bánh kẹp,
một vài chỗ trong kết cấu trên được hủy bỏ, phân chia và trang trí lại nhằm biến
thành những chiếc giường thoải mái để vũ nữ ngực trần giao thứ mà các ả hứa hẹn
ngoài quầy rượu.
Những năm về sau, từ lúc khu đất bị bỏ hoang, đám người tọc
mạch lần tìm ra và phá hoại tòa nhà chính cùng tất cả các khu tập họp. Cửa gãy
toang hoác. Vài cánh cửa còn tụt khỏi bản lề mục ruỗng.
Tại khu tập họp thứ ba mà tôi xem xét, chốt đàn hồi trên cửa
vẫn còn tốt để giữ cửa đóng.
Tôi không muốn để cái xác ở nơi bầy sói đồng cỏ có thể dễ
dàng mò tới. Robertson đã là một quái thú; tôi vẫn tin như thế; song, bất kể
chuyện gã đã làm hay có khả năng thực hiện, tôi vẫn không thể giao nộp thi hài
của gã cho điều sỉ nhục mà bà ngoại Sugars sợ sẽ xảy đến với bà nếu bà gục chết
trong ván bài với những tay chơi nhẫn tâm.
Biết đâu sói đồng cỏ không ăn xác đã thối rữa. Có lẽ chúng
chỉ dùng món do chúng làm thịt.
Thế nhưng sa mạc đầy rẫy sự sống, nhiều hơn hẳn những gì
nhìn thấy được khi chỉ xem xét sơ sài. Rất nhiều sinh vật sẽ mừng rỡ đánh chén
một cái xác béo núc như của Robertson.
Sau khi lái chiếc Chevy nhanh hết mức đến ngôi nhà đã chọn,
cách cổng khoảng ba mét, tôi cần một phút để dồn nghị lực giải quyết cái xác.
Tôi nhai hai viên thuốc giảm độ axit trong dạ dày.
Suốt chuyến đi từ thị trấn, Bob Robertson chưa một lần hỏi,
Chúng ta đến chưa? Tuy vậy, và ngược hẳn với lý trí, tôi vẫn không tin hắn đã
chết.
Lôi mạnh gã ra khỏi xe xem ra dễ hơn việc tống gã vào, trừ một
điểm khi cái thân thể núc ních to lớn của gã động đậy bên trong lớp vỏ bọc bằng
khăn trải giường, tôi cảm giác như mình đang xử lý một cái bao đầy rắn sống.
Sau khi kéo lê gã đến cửa nhà tôn, chèn cửa mở bằng cây đèn
pin, tôi tạm nghỉ quẹt mồ hôi nhỏ giọt trên trán, và trông thấy cặp mắt vàng
khè. Thấp dưới mặt đất cách xa khoảng bảy tám mét, cặp mắt đỏ nhìn tôi vẻ thèm
khát không lẫn đi đâu được.
Tôi chộp cây đèn pin lên và rọi thẳng vào đúng ngay thứ tôi
đã sợ: một con sói từ vùng đồng không mông quạnh vào đây, thám thính giữa những
tòa nhà hoang phế. To lớn, vạm vỡ, thô kệch, trán và quai hàm sắc cạnh, con thú
mang bản chất xấu xa thua kém rất nhiều người, nhưng ngay giây phút đó trông nó
như yêu ma lẻn qua cánh cổng địa ngục.
Đèn pin không dọa được nó bỏ đi, điều đó cho thấy nó trở nên
tự tin một cách nguy hiểm trước mặt con người, và có thể nó không đơn độc. Tôi
quét đèn pin qua bóng đêm trước mắt và phát hiện thêm một con khác vai thõng xuống
bên phải phía sau con thứ nhất.
Cho đến những năm gần đây, sói đồng cỏ hiếm khi cắn trẻ con
và không bao giờ lao vào người lớn. Khi những người định cư xâm lấn địa phận
săn bắt của bọn sói, chúng trở nên táo bạo hơn, hung hăng hơn. Trong vòng năm
năm trở lại đây, vài người lớn ở California bị chúng đuổi theo thậm chí bị tấn
công.
Hai con này xem ra không phải thấy tôi ít đáng sợ mà coi tôi
như món mặn cuối bữa.
Tôi nhìn xuống đất xung quanh tìm hòn đá và vớ được một miếng
bê tông vỡ ra khỏi lề đường. Tôi ném mạnh vào con thú gần nhất. Miếng bê tông
rơi xuống mặt đường nhựa chệch mục tiêu hơn cả tấc và văng vào vùng tối.
Con sói né tránh điểm va chạm nhưng không bỏ chạy. Con thứ
hai theo sự ra hiệu của con đầu tiên và đứng yên lại chỗ.
Âm thanh vo vo và lách cách của chiếc xe còn để nổ máy không
khiến bọn sói nao núng mà làm tôi lo lắng. Bánh kẹp Thì thầm là khu biệt lập;
không ai đến gần tới mức dấy lên sự tò mò bởi tiếng động cơ rền rĩ. Thế nhưng nếu
những người lai vãng khác đã có mặt tại khu này thì tiếng ồn sẽ lấp kín tiếng
chân họ.
Tôi không thể xử lý cùng lúc hai thứ. Việc giấu cái xác chiếm
ưu tiên hơn chuyện đối phó bọn sói.
Lúc tôi quay lại, có thể bầy thú đã bỏ đi theo hương thơm thịt
thỏ hay con thú nào khác dễ săn.
Tôi lôi cái xác được bao bọc qua ngưỡng cửa, vào nhà tôn rồi
đóng chặt cửa lại.
Hành lang dọc một bên tòa nhà chia thành một phòng tắm và bốn
căn phòng. Mỗi căn phòng từng là nơi hành nghề của một ả mại dâm.
Đèn pin soi rọi bụi bặm, mạng nhện, hai chai bia rỗng không,
đống xác ong…
Sau ngần ấy năm, không khí vẫn vương vấn mùi hương phảng phất
mờ nhạt của nến thơm, trầm hương, nước hoa, dầu thơm. Chìm khuất bên dưới sự
hòa quyện thơm tho nhưng ngột ngạt này là mùi hăng khó chịu hơn, có thể đó là
nước tiểu lâu ngày của các con thú đến rồi đi.
Đồ đạc đã được chở đi từ lâu. Trong hai căn phòng, gương
trên trần cho biết vị trí đặt giường. Tường sơn màu hồng đậm.
Mỗi căn phòng có hai cửa sổ bé tẹo. Hầu hết kính đều bị trẻ
con dùng súng hơi bắn vỡ.
Trong căn phòng thứ tư, cả hai cửa sổ nhỏ đều còn nguyên vẹn.
Tại đây, không loài ăn xác chết to lớn nào có thể chạm tới thi thể.
Một sợi dây giày dùng để cột bị bung. Đầu bao đựng xác giãn
ra và chân trái của Robertson lộ ra.
Tôi đã cân nhắc chuyện lấy cả dây giày lẫn tấm khăn trải giường.
Chúng có thể là mối liên hệ liên quan đến tôi, nhưng chúng thuộc lại hàng thường,
được bày bán ở rất nhiều cửa tiệm, chỉ mình những thứ đó không thể kết tội tôi.
Khi tập trung vào nhiệm vụ, trong tâm trí tôi lại xuất hiện
hình ảnh vết thương trên ngực Robertson. Và trong ký ức tôi nghe giọng mẹ: Con
muốn bóp cò giùm mẹ không? Con muốn bóp cò không?
Tôi đã tập luyện nhiều lần việc kéo tâm trí rời xa một số ký
ức tuổi thơ. Tôi có thể nhanh chóng chuyển giọng nói đáng nhớ của mẹ từ thì thầm
sang nín thinh.
Ném khỏi tâm trí hình ảnh vết thương của Robertson lại không
hề dễ dàng. Lỗ thủng ươn ướt đó nện thình thịch trong ký ức như thể trái tim đã
ngừng đập của gã đang vỗ bên dưới.
Trong phòng tắm nhà tôi, khi cởi áo gã để kiểm tra tình trạng
tím bầm và thấy vết thương hở trên phần thịt nhuốm đỏ, cái gì đó đã thôi thúc
tôi nhìn gần hơn. Phẫn nộ bởi sự thúc đẩy không tốt từ chính bản thân, và thực
ra, khiếp đảm trước điều đó, e rằng đam mê của tôi chứng tỏ tôi bị mẹ tác động
theo cách tôi không nhận ra nên tôi đã kìm chế không nhìn gần hơn và lập tức
quay đi cài nút áo gã lại.
Giờ đây, quỳ cạnh Robertson, lóng ngóng với mấy cái nút thắt
ở sợi dây giày còn buộc chặt cái bao đựng xác, tôi cố đóng ký ức về cái áo sơ
mi lên ký ức về vết thương rỉ nước nhưng nó vẫn cứ đập vào tâm trí tôi.
Trong thi thể sưng phồng, khí làm giả một loạt âm thanh ùng ục
lên đỉnh điểm nghe như tiếng thở dài vuột ra khỏi đôi môi người chết, ở phía
sau lớp mạng che bằng cotton.
Không thể nấn ná thêm giây phút nào bên cạnh cái xác, tôi vụt
đứng dậy, cầm đèn pin bỏ chạy khỏi căn phòng màu hồng đậm, nửa đường dọc hành
lang mới nhận ra còn để cửa mở. Tôi quay lại đóng cửa, bảo vệ thi thể kỹ hơn khỏi
loài chim ăn xác to lớn của sa mạc.
Tôi lấy vạt áo của mình lau tay nắm cửa ở mọi căn phòng tôi
đã xem qua. Sau đó, lê chân qua những bước đi in dấu trước đó, tôi làm bẩn lớp
bụi dày trên sàn với hy vọng có thể tránh để lại dấu giày rõ ràng.
Khi mở cửa trước, ánh đèn pin của tôi gặp phải tia mắt sáng
từ ba con sói đồng cỏ đợi sẵn, chắn giữa tôi và chiếc Chevy còn nổ máy.
------------
Còn tiếp.
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét