Giao lộ sinh tử
Tác giả: Dean Koontz
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011
Chương 9
Camp’s End thực chất không phải là một thị trấn mà là vùng
lân cận của thị trấn Pico Mundo, nơi đó là ký ức sống động về một thời gian khổ
ngay cả khi những người còn lại trong cộng đồng chúng tôi đang trải qua giai đoạn
kinh tế phát đạt. Bãi cỏ xơ xác nhiều hơn xanh tốt, có nơi chỉ là sỏi đá. Hầu hết
những ngôi nhà nhỏ hẹp cần lớp vữa mới, nước sơn mới và đợt ngưng chiến với mối
mọt.
Các ngôi nhà tạm bợ được dựng lên tại đây vào cuối những năm
1800, thời điểm nhóm tìm kiếm có nhiều mộng tưởng hơn trí thông minh đã bị lôi
kéo đến nơi này bởi mỏ bạc và những lời đồn thổi về mỏ bạc. Họ khám phá được cơ
man toàn tin vịt.
Thời gian trôi qua, khi nhóm tìm kiếm trở thành huyền thoại
và không còn tìm được ai bằng xương bằng thịt nữa, các ngôi nhà tạm bợ dãi dầu
mưa nắng bị thay thế bằng nhà tranh, nhà gỗ lợp ván và nhà gỗ mái ngói.
Tuy nhiên tại Camp’s End, công cuộc nâng cấp chuyển hướng
sang phá hủy nhanh hơn nơi khác. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, vùng lân cận
vẫn giữ nguyên nét đặc trưng cơ bản, một diện mạo chưa làm tiêu tan cũng như cạn
kiệt sức chịu đựng: cả khu vực lún xuống, bong tróc, gỉ sét, hoang vu, bạc thếch
nhưng không bao giờ hoàn toàn tuyệt vọng trong hoàn cảnh khốn khổ.
Bất hạnh dường như rỉ ra từ chính mặt đất, như thể nơi trú
ngụ của diêm vương ở địa ngục nằm ngay bên dưới những con đường này, gác xép
nghỉ ngơi của Ngài đặt quá gần lớp bề mặt bên ngoài đến mức hơi thở hôi thối bật
ra theo từng tiếng ngáy đã ngấm lên đất đai.
Điểm dừng chân của Gã Nấm là một ngôi nhà gỗ nhỏ trát vữa
vàng nhạt, cánh cửa chính màu xanh dương phai mờ. Nhà để xe nghiêng ngả như thể
sức nặng của riêng ánh nắng đã đủ đánh sập nó.
Tôi dừng xe bên này đường, đối diện ngôi nhà, trước khoảnh đất
trống đầy những cây cà độc dược và những cây mâm xôi khô héo, đan kết chồng
chéo như cái bẫy bắt những kẻ mơ mộng. Nhưng chúng chỉ bắt được mớ giấy báo
nhàu nát, vỏ lon bia và một thứ trông như một cái quần lót ống rộng của đàn ông
bị xé tả tơi.
Trong lúc tôi hạ cửa sổ xe xuống và tắt động cơ, tôi thấy Gã
Nấm mang kem và mấy gói đồ khác vào nhà. Gã vào bằng lối cửa phụ nằm dưới bóng
mát nhà để xe.
Chiều mùa hè ở thị trấn Pico Mundo kéo dài và nóng nực với
chút hy vọng có gió nhưng đừng trông ngóng trời mưa. Tuy đồng hồ trên tay tôi
và đồng hồ trong xe hơi đều thống nhất chỉ số 4:48 nhưng ánh nắng thiêu đốt kia
vẫn trải dài phía trước.
Dự báo thời tiết buổi sáng thông báo nhiệt độ cao nhất lên đến
một trăm mười độ, [110 độ Fahrenheit = 43,3 độ Celcius], con số chưa từng có ở
sa mạc Mojave. Tôi nghi ngờ dự báo đó đã nói quá.
Trong khi những bà con bạn bè thích khí hậu mát mẻ kinh ngạc
trước mức nhiệt độ đó thì cư dân thị trấn Pico Mundo xem đấy là trạng thái khí
tượng học tốt đẹp, lưu ý rằng độ ẩm chỉ có mười lăm hay hai mươi phần trăm. Họ
khăng khăng bảo rằng một ngày hè ở mức trung bình không giống phòng xông ướt ngột
ngạt mà chỉ như phòng xông khô khiến cơ thể khoan khoái.
Ngay cả trong bóng râm của cây nguyệt quế Ấn Độ khổng lồ già
nua có phần rễ chắc chắn đủ sâu để hút nước sông Styx, [Con sông dưới địa ngục,
ranh giới giữa thế giới của người sống và người chết], tôi cũng không thể vờ
như mình đang lười nhác nằm trong phòng xông khô. Tôi có cảm giác hệt đứa trẻ
thơ thẩn đi vào ngôi nhà hào nhoáng của mụ phù thủy trong Khu rừng hắc ám và bị
tống vào lò nướng đang chỉnh ở chế độ lửa nhỏ.
Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi chạy qua nhưng không người
khách bộ hành nào xuất hiện.
Không trẻ con nô đùa. Không vị chủ nhà nào đánh bạo ra ngoài
lăng xăng bên khu vườn quắt queo.
Một chú chó lê lết bò qua, đầu cúi thấp, lưỡi lè ra như đang
ngoan cố lần theo ảo tưởng về một con mèo.
Chẳng mấy chốc khi tôi ngồi trong vũng mồ hôi, cơ thể tôi sẽ
cung cấp phần độ ẩm mà không khí còn thiếu.
Lẽ ra tôi có thể khởi động chiếc Mustang và bật máy điều hòa
nhưng tôi không muốn phí phạm xăng của cô Terri hay làm động cơ quá nóng. Hơn nữa,
bất kỳ cư dân sa mạc nào cũng biết quá trình lặp đi lặp lại hết nung nóng rồi lại
làm mát có thể tôi luyện một số kim loại, nhưng điều đó sẽ làm nhụt chí con người.
Bốn mươi phút sau, Gã Nấm tái xuất hiện. Gã khóa cánh cửa phụ
của ngôi nhà, việc đó cho thấy trong nhà không còn ai, rồi gã vào ngồi sau vô
lăng chiếc Explorer đầy bụi.
Tôi trượt người xuống ghế, thấp hơn thành cửa sổ, lắng tai
nghe trong lúc chiếc SUV chạy qua và để lại vệt âm thanh nhỏ dần rồi im bặt.
Băng qua phía ngôi nhà vàng nhạt, tôi không quá lo chuyện bị
theo dõi từ những khung cửa sổ nhuộm nắng dọc theo con đường. Sinh sống ở
Camp’s End tạo nên sự xa lánh hơn là tinh thần cộng đồng cần có để hình thành lực
lượng dân phòng.
Thay vì đi tới cửa chính màu xanh dương và gây ra sự chú ý đặc
biệt cho mọi người, tôi nhắm đến bóng mát nhà để xe và gõ lên cánh cửa phụ Gã Nấm
đã sử dụng. Không ai trả lời.
Nếu cánh cửa khóa chặt như nêm, tôi đã phải phá tung cửa sổ.
Đối mặt với then cài sơ sài, như bao thanh niên Mỹ khác, tôi tự tin mình đã được
những bộ phim về cảnh sát trên ti-vi dạy rất kỹ rằng tôi có thể dễ dàng chui tọt
vào nhà.
Để đơn giản hóa cuộc sống, tôi không mở tài khoản ngân hàng
và chỉ thanh toán bằng tiền mặt; thế nên tôi không có thẻ tín dụng. Bang
California đã chu đáo cấp cho tôi một tấm bằng lái cán mỏng đủ cứng để cạy
khóa.
Đúng như tiên đoán, gian bếp không phải nơi tôn thờ kiểu
trang trí của Martha Stewart, [Chuyên gia về mảng khéo tay hay làm] hay chủ
nghĩa sạch sẽ. Nơi này rõ ràng cũng không thể gọi là chuồng heo; nó chỉ tệ hại
bởi tình trạng bừa bộn tổng thể, đây đó là những mẩu bánh vụn, tặng phẩm dành
cho bầy kiến nếu chúng muốn ghé thăm.
Một mùi thoang thoảng nhưng khó chịu phảng phất trong không
khí mát mẻ. Tôi không thể nhận biết nó bắt nguồn từ đâu, thoạt đầu tôi tưởng đó
hẳn là hương thơm độc nhất vô nhị của Gã Nấm, vì xem ra gã là người bốc ra thứ
mùi lạ lùng và độc hại nếu không phải thứ mùi chết người.
Tôi không biết mình tìm kiếm gì nơi đây, nhưng tôi mong sẽ
nhận ra thứ đó nếu nhìn thấy. Một thứ lôi cuốn bọn ông kẹ đi theo người đàn ông
này và tôi theo chân chúng với hy vọng khám phá manh mối dẫn tới lý do tạo nên
sự quan tâm nơi bọn chúng.
Sau khi đảo quanh gian bếp, cố gắng nhưng không thể tìm thấy
ẩn ý trong một cốc cà phê nguội lạnh đã vơi nửa, một vỏ chuối sạm đen vứt trên
thớt, đống chén đĩa bẩn trong chậu rửa, những thứ thông thường nằm trong ngăn
kéo và tủ đựng thức ăn, tôi nhận ra không khí không chỉ mát mẻ mà còn ớn lạnh một
cách khó lý giải. Phần lớn mồ hôi trên lớp da phơi trần của tôi đã khô. Sau gáy
có cảm giác như đóng băng.
Khó lý giải sự giá lạnh bao trùm vì thậm chí tại sa mạc
Mojave, nơi máy điều hòa là thứ thiết yếu thì một ngôi nhà cũ kỹ và xoàng xĩnh
tại đây hiếm khi có được hệ thống làm mát tập trung. Những dàn máy điều hòa dạng
khung cửa sổ, mỗi cái nằm một hốc, là chọn lựa có thể chấp nhận cho phần trang
bị thêm tốn kém tại một nơi trú ngụ không đáng tiêu pha.
Gian bếp không có những dàn máy dạng cửa sổ đó.
Thường tại một ngôi nhà như thế này, người ta chỉ làm mát
không gian khi đêm xuống và chỉ trong phòng ngủ. Nếu không sẽ khó lòng chợp mắt.
Song máy điều hòa gắn trong phòng ngủ không thể làm mát toàn bộ ngôi nhà, ngay
cả một ngôi nhà bé tẹo như nơi đây. Dứt khoát máy điều hòa không thể ướp lạnh
gian bếp.
Vả lại, dàn máy điều hòa sẽ làm ồn: tiếng bình bịch và vo vo
của máy nén không khí, tiếng lách cách của quạt gió. Ở đây tôi không nghe âm
thanh nào như thế cả.
Trong lúc tôi đang ngẩng đầu nghe ngóng, ngôi nhà chìm trong
thinh lặng. Bỗng nhiên tôi nhận ra sự tĩnh mịch này không bình thường.
Lẽ ra đôi giày của tôi phải gây tiếng động trên tấm vải lót
sàn đã rạn, lớp ván sàn long ra do thời gian, sức nóng và sự khô hanh gây co
rút. Vậy mà tôi di chuyển êm ru như con mèo đi trên tấm đệm.
Xét lại, tôi nhận thấy cửa ngăn kéo và tủ đựng thức ăn đóng
mở với âm thanh vô cùng khẽ khàng, như thể chúng được lắp đặt loại khe trượt và
bản lề không ma sát.
Khi tôi tiến đến cánh cửa để mở nằm giữa gian bếp và phòng
bên, không khí lạnh dường như dày đặc hơn, khiến sự truyền dẫn âm thanh bị bóp
nghẹt hơn nữa.
Phòng khách thưa thớt đồ đạc xem ra cũng tồi tàn và bừa bộn
hệt gian bếp. Những quyển sách cũ mòn vẹt, chắc chắn mua từ hiệu sách cũ, và mớ
tạp chí vương vãi khắp sàn nhà, ghế dài, bàn cà phê.
Mấy quyển tạp chí là thứ bạn có thể dự đoán. Ảnh phụ nữ khỏa
thân nổi bật giữa loạt bài báo về các môn thể thao mạo hiểm, xe đua tốc độ và
những chiêu dụ dỗ đáng khinh, vây quanh tất cả là mớ quảng cáo về thảo mộc cường
dương, về những dụng cụ bảo đảm làm gia tăng kích cỡ cho một bộ phận cơ thể được
cánh mày râu vô cùng yêu quý, nói thế tôi không ám chỉ đến bộ não đàn ông.
Bộ phận cơ thể tôi yêu quý chính là trái tim vì đó là thứ
duy nhất tôi phải trao cho Stormy Llewellyn. Hơn nữa, khi tôi thức dậy mỗi
sáng, nhịp đập của nó là bằng chứng đầu tiên rõ ràng nhất cho thấy suốt đêm
qua, tôi chưa gia nhập cộng đồng những người chết còn ngoan cố nán lại trần
gian.
Đống sách khiến tôi ngạc nhiên. Chúng là tiểu thuyết lãng mạn.
Xét theo hình minh họa ngoài bìa, những quyển sách này nghiêng về thể loại đàng
hoàng, kiểu mà trong đó bộ ngực phụ nữ hiếm khi nhô ra và áo lót không thường
xuyên bị xé toạc. Những câu chuyện liên quan đến tình yêu nhiều hơn tình dục,
và chúng đối kháng đặc biệt với mớ tạp chí đầy rẫy hình phụ nữ khoe ngực, duỗi
chân, liếm môi khêu gợi.
Khi tôi nhặt một quyển sách lên và lật xem qua, những trang
sách lướt nhanh không hề phát ra tiếng động.
Dường như tôi không thể nghe thấy gì khác ngoài âm thanh
trong cơ thể mình: tiếng tim đập thình thịch, tiếng máu chảy ào ào vang lên bên
tai tôi.
Đúng ra tôi phải bỏ đi ngay lúc ấy. Hiệu ứng bóp nghẹt âm
thanh kỳ quái của không khí thâm hiểm trong ngôi nhà này lẽ ra phải khiến tôi
hoảng sợ.
Vì đặc trưng cuộc đời tôi là những trải nghiệm lạ lùng, đầy ắp
như mùi thịt hun khói và tiếng xèo xèo của mỡ trên vỉ nướng nên tôi không dễ bị
hù dọa. Chưa kể tôi thừa nhận mình có khuynh hướng luôn đầu hàng trước tính tò
mò, dù đôi lúc cũng thấy ân hận.
Lật giở những trang tiểu thuyết lãng mạn im lìm, tôi nghĩ có
thể Gã Nấm không sống một mình ở đây. Mấy quyển này biết đâu là tủ sách yêu
thích của bạn gái gã.
Triển vọng đó không được củng cố qua những chứng cớ trong
phòng ngủ. Tủ quần áo chứa mỗi đồ của gã. Giường chưa dọn dẹp, đồ lót và tất của
ngày hôm qua vứt lung tung, nho khô Đan Mạch ăn dở nằm trong cái đĩa giấy đặt
trên bàn cạnh giường, những điều ấy bác bỏ sự hiện diện truyền bá văn minh của
một phụ nữ.
Máy điều hòa gắn trong hốc tường không hoạt động. Không làn
gió nhẹ nào bay ra từ miệng thổi của máy.
Tại đây, mùi hôi thối thoang thoảng lúc đầu tôi ngửi thấy
trong bếp trở nên nồng nặc hơn, gợi nhớ đến mùi dây điện chập mạch, nhưng không
hẳn chỉ có vậy, còn thoáng mùi amoniac và chút ít vụn than cùng luồng hơi mùi hạt
nhục đậu khấu, nhưng không rõ ràng là một mùi nào trong số kể trên.
Hành lang ngắn dùng làm phòng ngủ cũng dẫn đến phòng tắm. Tấm
gương cần được lau chùi. Trên kệ, ống kem đánh răng không được đậy kín. Một sọt
rác nhỏ đầy khăn giấy đã sử dụng và mấy thứ rác khác.
Từ phòng ngủ nhìn sang bên kia hành lang còn thêm một cánh cửa
nữa. Tôi cho rằng nó dẫn tới tủ quần áo hoặc căn phòng ngủ thứ hai.
Ở ngưỡng cửa, không khí rét buốt đến mức tôi có thể nhìn thấy
hơi thở của mình, một luồng hơi nhợt nhạt.
Tôi áp lòng bàn tay vào núm cửa lạnh băng và xoay tròn. Đằng
kia, cơn lốc của sự tĩnh lặng hút âm thanh cuối cùng ra khỏi tai tôi, trong
phút chốc tai tôi điếc đặc, bất chấp nỗ lực làm việc của trái tim.
Căn phòng tối đen chờ tôi.
Chương 10
Suốt hai mươi năm qua, tôi đã có mặt ở rất nhiều nơi u tối,
có chỗ thiếu nguồn vui, có chỗ không có niềm hy vọng. Theo kinh nghiệm bản thân
thì không nơi nào u tối hơn căn phòng xa lạ trong ngôi nhà của Gã Nấm này.
Căn phòng không có cửa sổ hoặc tất cả cửa sổ đều bị bít chặt
và che kín trước mọi ánh nắng tọc mạch. Không một ngọn đèn tỏa sáng. Trong cái
âm u thăm thẳm ấy, nếu có một cái đồng hồ điện tử với mặt số phát sáng thì ánh
sáng yếu ớt của những con số sẽ trông như đèn hiệu chói lóa.
Đứng tại ngưỡng cửa, tôi nheo mắt nhìn vào chỗ toàn một màu
đen tối, đến mức tôi có cảm tưởng không phải tôi đang săm soi một căn phòng mà
là một không gian chết chóc tại miền vũ trụ xa xôi, nơi các tinh tú cổ xưa đã
cháy thành tro bụi. Cái lạnh thấu xương thấm sâu vào nơi này hơn những chỗ khác
trong nhà và sự lặng thinh ngột ngạt cũng biện minh rằng đây chính là ga tàu
hoang vắng nằm lạc lõng giữa các vì sao.
Quái lạ hơn hết thảy, ánh sáng ngoài hành lang không thể lọt
vào địa hạt sau cánh cửa dù một tia nhỏ nhoi. Ranh giới giữa nơi có ánh sáng và
chỗ tuyệt đối tối đen sắc nét như đường thẳng được kẻ trên gờ tường của ngưỡng cửa,
lên thanh dọc và sang bên kia viên gạch. Bóng tối hoàn hảo không chỉ kháng cự
mà còn đẩy lùi hoàn toàn sự xâm nhập của ánh sáng.
Đây dường như là bức tường làm bằng thứ đá núi lửa đen tuyền
nhất, dù đá này thiếu độ bóng và ánh kim.
Tôi không bạo gan. Nếu tôi bị ném vào chuồng một con hổ đói,
mà tôi thoát được, chắc chắn tôi cũng sẽ cần bồn nước tắm và quần mới sạch sẽ
như bao người.
Thế nhưng đường đời khác thường khiến tôi e sợ những mối đe
dọa đã biết và hiếm khi e sợ những mối đe dọa chưa biết, trong khi hầu hết mọi
người e sợ cả hai.
Lửa khiến tôi sợ, đúng thế, động đất, và những con rắn độc.
Con người khiến tôi sợ hơn bất cứ gì khác vì tôi biết quá rõ những hành động
tàn ác mà con người có thể gây ra.
Tuy nhiên đối với tôi, các bí ẩn mang tính đe dọa nhất về sự
tồn tại đó là cái chết và điều xảy ra sau đó lại không chứa nhân tố gây sợ hãi
vì tôi đối phó với cái chết mỗi ngày. Hơn nữa tôi có niềm tin rằng nơi cuối
cùng tôi đi đến không chỉ đơn thuần là chốn quên lãng.
Trong những bộ phim kinh dị, bạn có xỉ vả các nhân vật bị
bao vây hãy lập tức ra khỏi ngôi nhà ma, hãy khôn lanh và bỏ đi không? Họ chúi
mũi vào những căn phòng có lịch sử án mạng đẫm máu dính líu đến những căn gác
xép lơ lửng mạng nhện và hồn ma, đặt chân xuống những tầng hầm lúc nhúc gián và
ác quỷ. Và đến khi họ bị chặt-đâm-moi-chém-thiêu với kiểu cường điệu thực tế nhằm
hài lòng những đạo diễn “khùng” nhất Hollywood, chúng ta sẽ há hốc mồm, run bắn
người rồi kêu lên “Đồ ngốc” bởi họ đã ngu dại tự chuốc lấy cái chết thê thảm.
Tôi không ngu dại mà là một người không bao giờ chạy trốn khỏi
những nơi bị ma ám. Món quà đặc biệt về khả năng nhìn thấy những điều huyền bí
được trao từ khi tôi vừa chào đời đã thúc ép tôi khám phá và tôi không thể cưỡng
sự đòi hỏi của năng lực đó như một thần đồng âm nhạc không thể cưỡng lại sức
hút ghê gớm của cây đàn; tôi không lùi bước trước những nguy hiểm chết người
như viên phi công trên máy bay chiến đấu hăm hở lao vào bầu trời chinh chiến khốc
liệt.
Đây là một phần của lý do vì sao đôi khi Stormy băn khoăn
không biết cái mà tôi gọi là món quà thật ra có phải là một lời nguyền hay
không.
Cận kề ranh giới đêm đen đặc quánh, tôi giơ tay phải như thể
đang tuyên thệ và đưa lòng bàn tay đến rào cản hiển hiện trước mặt. Dù bóng tối
gạt đi ánh sáng nhưng nó không hề đưa sức chống đỡ đối với lực ép tôi gây nên.
Bàn tay tôi biến mất trong vùng tối đen như hắc ín.
“Biến mất” ở đây có nghĩa tôi không nhận thấy một cảm giác
nào, ngay cả mơ hồ nhất, của những ngón tay đang động đậy bên kia kề mặt bức tường
tối tăm. Cổ tay tôi đột ngột nằm trơ ra phía tận cùng như bị cụt.
Thú thật lúc ấy tim tôi đập loạn xạ, cho dù tôi không thấy
đau đớn và tôi đã thở phào nhẹ nhõm, mà không phát ra tiếng, khi rút tay về và
nhìn toàn bộ mấy ngón tay còn nguyên vẹn. Tôi cảm tưởng như vừa thoát khỏi màn ảo
giác do Penn và Teller, cặp bài trùng tự xưng là nhà ảo thuật, biểu diễn.
Thế nhưng khi bước qua ngưỡng cửa, một tay nắm chặt cánh cửa,
tôi không đi vào vùng ảo giác mà là một nơi có thật nhưng trông huyền ảo hơn hẳn
mọi giấc mơ. Bóng tối phía trước vẫn thuần khiết một cách kỳ lạ; cái lạnh không
giảm đi và sự thinh lặng thực sự đầy nghẹt như máu đông lại trong tai một người
chết do bị bắn vào đầu.
Từ ngoài cửa không mảy may nhận biết được chút gì trong căn
phòng, nhưng tôi có thể từ trong này nhìn trở ra và thấy hành lang dưới ánh
sáng bình thường, thông suốt. Hình ảnh ấy soi rọi vào căn phòng chẳng hơn gì một
bức tranh vẽ quang cảnh đầy nắng.
Tôi vừa muốn vừa không muốn Gã Nấm quay về và trố mắt nhìn
vào phần thân thể duy nhất của tôi giờ đây còn thấy được nếu đứng từ ngoài kia:
những ngón tay quặp lại bấu chặt cứng cánh cửa. May thay tôi vẫn một mình.
Vỡ lẽ rằng mình có thể nhìn thấy lối ra hành lang và như vậy
có thể tìm được đường thoát nên tôi buông tay khỏi cửa. Bước hẳn vào trong căn
phòng không ánh sáng và quay lưng lại với hành lang, lập tức tôi trở thành người
vừa mù vừa điếc.
Không âm thanh cũng không tầm nhìn, tôi nhanh chóng mất
phương hướng. Tôi sờ soạng tìm công tắc đèn, khi tìm thấy, tôi bật lên, tắt xuống
rồi lại bật lên nhưng vô ích.
Tôi dần để ý đến một tia sáng nhỏ màu đỏ mà tôi chắc chắn
khi nãy nó không có ở đó: màu đỏ đầy sát khí của một ánh mắt u ám và khát máu,
dù đấy không phải là ánh mắt.
Khả năng cảm nhận thực tế không gian và khả năng đo khoảng
cách chính xác đã rời bỏ tôi, vì đèn hiệu bé tí kia dường như cách tôi đến cả mấy
dặm, nó hệt ánh sáng trên cột buồm của một con tàu xa tít tắp giữa biển đêm. Tất
nhiên ngôi nhà nhỏ nhắn này không thể chứa đựng khoảng không bao la đến mức như
tôi tưởng tượng trước mắt.
Khi thả tay khỏi công tắc đèn vô dụng, tôi thấy lâng lâng uể
oải như kẻ nghiện rượu không may bị hơi men bơm phồng lên. Đôi chân dường như
không còn chạm hẳn xuống sàn nhà khi tôi kiên quyết đến gần tia sáng màu đỏ.
Ước ao có cơ hội ăn lại món kem dừa anh đào sôcôla, tôi tiến
lên sáu bước, mười bước, hai mươi bước. Ngọn đèn hiện không gia tăng kích cỡ mà
thực tế có vẻ còn lùi xa khỏi tôi với tốc độ đúng y vận tốc của tôi.
Tôi dừng chân, quay lại nhìn cánh cửa. Tuy không đến gần được
tia sáng, nhưng xem ra tôi đã đi khoảng hơn mười hai mét.
Thú vị hơn cả chuyện khoảng cách là việc giờ đây có một bóng
người đứng ở cánh cửa mở toang. Không phải Gã Nấm. Người được ánh sáng ngoài
hành lang chiếu vào lưng chính là... tôi.
Cho dù những bí ẩn của vũ trụ không khiến tôi thất kinh hồn
vía nhưng tôi không mất khả năng ngạc nhiên, sửng sốt và sợ hãi. Giờ đây,
nguyên toàn bộ bàn phím tâm trí tôi đang tấu bản hợp xướng gồm ba cảm giác đó.
Tin chắc rằng đây không phải cảnh tượng trong gương và rằng
tôi thực sự đang nhìn chằm chằm một “tôi” khác, tuy nhiên tôi vẫn kiểm tra độ
chắc chắn bằng cách vẫy tay. Tên Odd Thomas kia không vẫy lại giống kiểu một
hình ảnh phản chiếu lẽ ra phải làm.
Vì tôi đứng chìm trong bóng tối tràn ngập nên nó không thấy
tôi, thế là tôi cố hét thật to về phía nó. Trong cổ họng tôi cảm nhận độ rung của
dây thanh âm nhưng nếu có âm thanh nào phát ra thì chắc tôi cũng không thể nghe
thấy. Ngoài ra rất có khả năng nó làm ngơ trước tiếng hét ấy.
Ngập ngừng hệt tôi khi nãy, tên Odd Thomas thứ hai này chìa
bàn tay thăm dò vào thứ bóng tối sờ sờ, kinh ngạc giống tôi khi nãy trước ảo
giác cụt tay.
Hành động xâm nhập rụt rè ấy có vẻ làm xáo trộn trạng thái
cân bằng tinh vi, và căn phòng tối đen biến đổi đột ngột như trục của con quay,
trong khi đó tia sáng đó ở vị trí trung tâm vẫn cố định. Chao đảo bởi những sức
mạnh nằm ngoài tầm kiểm soát, nhiều như vận động viên lướt sóng có thể văng khỏi
ván khi con sóng lớn đánh ập xuống, tôi bị hất ra ngoài căn phòng khác thường ấy
một cách thật thần kỳ và... rơi vào phòng khách tẻ ngắt.
Tôi ngỡ mình ngã phịch xuống nhưng không phải, tôi thấy mình
đứng gần ngay vị trí đã đứng khi nãy. Tôi cầm một quyển tiểu thuyết lãng mạn
lên. Như ban nãy, những trang sách không phát tiếng động và tôi chỉ nghe thấy
âm thanh bên trong cơ thể, chẳng hạn tiếng tim đập thình thịch.
Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, tôi thuyết phục bản thân tin rằng
đây quả thực là khi nãy. Tôi không những được chuyển đi từ căn phòng tối đen
sang phòng khách một cách thần bí mà còn bị ném ngược trở về vài phút.
Vì thoáng chốc vừa rồi tôi đã nhìn thấy chính mình đứng
ngoài cánh cửa ở hành lang, ngó vào bóng đêm đen kịt nên tôi cho rằng nhờ sự
chiếu cố của điều dị thường nào đó trong các định luật vật lý, hai “tôi” hiện
có mặt cùng lúc trong ngôi nhà này. Một tôi đứng đây với quyển tiểu thuyết của
Nora Roberts [một trong những tác giả sáng tác nhiều nhất và nổi tiếng nhất]
trong tay, còn “tôi” kia ở tại căn phòng đó.
Ngay từ đầu, tôi đã cảnh báo bạn là tôi sống một cuộc đời
khác lạ rồi mà.
Vô số trải nghiệm kỳ quặc vào đầu óc và trí tưởng tượng của
tôi một sự linh hoạt mà một số người gọi là bệnh điên. Sự linh hoạt ấy cho phép
tôi thích nghi với các sự kiện nói trên và chấp nhận thực tế du hành vượt thời
gian nhanh hơn bạn. Nói thế không phải tôi chê bai bạn, xét đến chuyện bạn đủ
sáng suốt ra khỏi ngôi nhà ngay tức khắc.
Tôi không bỏ chạy. Tôi cũng không lập tức trở lại lộ trình
ban đầu đi đến phòng ngủ của Gã Nấm, với đồ lót và tất vứt lung tung, nho khô
Đan Mạch ăn dở nằm trên bàn cạnh giường, rồi bước sang phòng tắm.
Thay vì thế, tôi đặt quyển tiểu thuyết lãng mạn xuống và đứng
im phăng phắc, thận trọng nghĩ ngợi hết những khả năng có thể xảy ra cuộc đối đầu
với Odd Thomas kia, suy tính hợp lý hướng hành động an toàn nhất và phải lẽ nhất.
Thôi đi, chuyện này thật nhảm nhí. Tôi lo lắng về những khả
năng có thể xảy ra thì được chứ tôi đâu đủ trải nghiệm kỳ quặc hay năng lực trí
tuệ để hình dung hết thảy, nói chi đến chuyện tìm ra cách vẹn toàn nhất để né
tránh tình huống quái gở.
Tôi né tránh rắc rối dở hơn đâm đầu vào nó.
Tại lối ra vào phòng khách, tôi dè dặt liếc nhìn về phía
hành lang và phát hiện “tôi” kia đang đứng ở cánh cửa mở toang của căn phòng tối
đen. Đây chắc hẳn là “tôi” khi nãy, lúc chưa bước qua ngưỡng cửa ấy.
Nếu lúc này tất cả âm thanh trong ngôi nhà bị thâu tóm hoàn
toàn, có thể tôi đã lớn tiếng gọi tên Odd Thomas kia. Tôi không dám chắc làm vậy
có khôn ngoan không và tôi thật biết ơn tình cảnh ngăn tôi kêu réo.
Giả sử nói chuyện được với nó, tôi cũng chẳng biết nói gì.
Chả lẽ hỏi, “Ê, khỏe không?”
Nếu tôi bước lại gần và trao cho nó một cái ôm thắm thiết,
biết đâu nghịch lý về hai Odd Thomas lập tức được giải quyết. Một trong hai
chúng tôi sẽ biến mất. Hoặc cũng có thể cả hai nổ tung.
Những nhà vật lý lỗi lạc cho chúng ta biết hai vật thể,
trong mọi hoàn cảnh, không thể nào ở cùng một nơi vào cùng một thời điểm. Họ cảnh
báo rằng tất cả nỗ lực đặt hai vật thể ở cùng một nơi vào cùng một thời điểm đều
dẫn đến hậu quả thảm khốc.
Nghĩ chuyện đó mà xem, rất nhiều quy tắc vật lý cơ bản sẽ trở
thành phát biểu chính thức quá ư vô lý. Bất kỳ kẻ say rượu nào cố đặt chiếc xe
vào vị trí dựng cột đèn đều thành nhà vật lý có khả năng tự học.
Cứ cho là cả hai “tôi” không thể cùng tồn tại mà không xảy
ra tai họa gì, chẳng lẽ cái viễn cảnh nổ tung nên tôi đứng nguyên ở lối ra vào,
quan sát đến khi tên Odd Thomas kia bước qua ngưỡng cửa đi vào căn phòng đen tối.
Chắc chắn bạn nghĩ vào lúc Odd Thomas kia xuất phát, nghịch
lý thời gian được giải quyết xong và cuộc khủng hoảng do những nhà khoa học dự
báo thảm họa mô tả đã đến hồi kết. Thế nhưng tính lạc quan nơi con người bạn là
kết quả từ thực tế bạn sống hạnh phúc trong thế giới năm giác quan. Khác với
tôi, bạn không bị thúc ép hành động bởi thứ năng lực siêu linh mà bạn không hiểu
và không thể kiểm soát được triệt để.
Bạn thật may mắn.
Ngay khi tên Odd Thomas kia đặt bước chân đầu tiên qua ngưỡng
cửa, đi vào căn phòng không ánh sáng, tôi đến ngay cánh cửa để mở sau lưng nó.
Tất nhiên tôi không thể nhìn thấy nó trong những bí ẩn của căn phòng tối đen,
nhưng tôi cho rằng chẳng mấy chốc nó sẽ xoay người nhìn lại và thấy tôi, một sự
kiện mà theo kinh nghiệm của tôi đã xảy ra y như thế.
Khi tôi đoán nó phát hiện ra tia sáng đỏ u ám và tiến khoảng
hai mươi bước về phía đó, khi nó nhìn lại và thấy tôi đứng đây, tôi xem đồng hồ
đeo tay để xác định khởi đầu cho tình huống này, chìa tay vào bóng đen tăm tối
chỉ để chắc chắn rằng không cảm thấy gì khác biệt về địa hạt lạ lùng này, và rồi
tôi bước qua cửa một lần nữa.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét