Thứ Ba, 6 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 55, 56, 57, 58)

Giao lộ sinh tử

Tác giả: Dean Koontz  
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 55

Không kẻ tọc mạch hay thú ăn xác nào đến đây trong lúc tôi vắng mặt. Thi thể nằm đúng nơi tôi bỏ nó lại, một đầu tấm vải mở bung, một chân đi giày ló ra, còn lại vẫn bị bọc trong tấm khăn trải giường trắng.
Không khí buổi tối oi ả và buổi sáng nắng cháy đã tạo điều kiện và đẩy nhanh tiến trình phân hủy. Mùi hôi thối ở đây còn kinh tởm hơn nhiều so với những nơi khác trong căn nhà tôn.
Cái nóng đến nghẹt thở cộng với mùi thối rữa có sức mạnh như hai cú đấm thụi nhanh vào bụng. Tôi vội ra khỏi phòng, trở lại hành lang, vừa hớp lấy hớp để luồng khí sạch hơn vừa vật lộn đàn áp cảm giác buồn nôn.
Tuy không mang hộp khăn giấy vì mục đích này nhưng tôi rút một miếng ra, xé làm hai mảnh. Miếng khăn giấy ướt mang hương chanh. Tôi cuốn hai mảnh thành nùi, nhét vào mũi.
Thở bằng miệng, tôi không phải ngửi cái xác mục rữa kia.
Vậy mà khi trở vào phòng, tôi vẫn nôn khan lần nữa.
Tôi có thể cắt đầu dây đã bị bung tối qua ở phần chân thi thể, rồi lăn cái xác ra. Ý nghĩ người chết lăn trên sàn, như thể sống lại, thuyết phục tôi tiếp cận vấn đề theo cách khác.
Miễn cưỡng, tôi quỳ xuống phía đầu xác chết. Tôi chống đèn pin dựa vào nó theo hướng soi sáng rõ nhất cho công việc của tôi.
Tôi lấy kéo cắt dây giày và ném sợi dây sang bên. Cây kéo sắc đến mức đủ sức cùng lúc cắt xuyên qua cả ba lớp khăn trải giường cuộn lại với nhau. Tôi kiên nhẫn và cẩn thận di chuyển lưỡi kéo, nản lòng bởi viễn cảnh moi ra một kẻ đã chết.
Khi lớp vải tách ra hai bên, khuôn mặt lộ ra đầu tiên. Tôi nhận ra một cách muộn màng rằng nếu cắt từ dưới lên, tôi chỉ cần đi kéo làm rách bung tấm vải đến phần cổ để nhìn thấy vết thương của gã và có thể tránh được cảnh tượng khủng khiếp này.
Thời gian và sức nóng tồi tệ đã làm công việc bẩn thỉu của chúng. Khuôn mặt, nằm ngược bên dưới, sưng húp, sậm màu hơn cả lần cuối cùng tôi nhìn thấy, và vằn vện màu xanh rêu. Cái miệng hé mở xéo xệch. Những đường trắng đục mỏng manh bao trùm cặp mắt, tuy tôi vẫn phân biệt rõ hình dạng tròng trắng tròng đen.
Khi tôi với qua khỏi khuôn mặt xác chết để cắt phần vải bao trùm bộ ngực, hắn liếm cổ tay tôi.
Tôi hét toáng lên trong cơn hoảng loạn và ghê tởm, giật lùi và đánh rơi kéo.
Từ cái miệng méo xệch của tử thi bùng ra một đống đen đúa loằng ngoằng, một thực thể quá lạ lùng trong bối cảnh này đến mức tôi không nhận biết được nó là gì đến khi nó chui ra nguyên hình. Trên khuôn mặt không còn sự sống của Robertson, thứ đó ngoi lên trên bốn cái chân đen đúa và khua khoắng không khí bằng bốn chân trước. Nhện vùng Nam Âu.
Tôi vung tay hất con nhện thật nhanh để nó không có cơ hội cắn được tôi. Nó rơi xuống sàn nhà, nhổm dậy và co giò bò vào góc đằng xa.
Khi nhặt cây kéo đã đánh rơi, tay tôi run rẩy đến nỗi làm lưỡi kéo nhấp dữ dội, cắt phăng vào không khí trước khi tôi bình tĩnh trở lại.
Lo sợ còn nhiều con vật kinh khiếp đang lê la phía đầu kia tấm vải để khám phá món béo bở chứa bên trong, tôi trở lại công việc cắt lớp khăn trải giường trong sự bồn chồn cẩn trọng. Cho đến khi phần hông cái xác lộ ra, tôi vẫn chưa phải đụng độ thêm kẻ cướp phá tám chân nào.
Lúc giật mình phản ứng lại con nhện, tôi đã làm bay miếng khăn giấy nhét trong lỗ mũi bên phải. Khi hương chanh còn sót lại tan biến, tôi lại ngửi thấy mùi tử thi, tuy không nồng nặc vì tôi vẫn thở bằng miệng.
Liếc về phía xó xỉnh nơi con nhện lẩn trốn, tôi phát hiện nó không còn ở đó nữa.
Tôi băn khoăn tìm kiếm giây lát. Sau đó, dù ánh sáng yếu ớt, tôi thấy con quái lông lá ngay bên trái góc phòng, cách mặt đất gần một mét, đang chầm chậm bò lên bức tường màu hồng.
Quá run rẩy và bị thời gian đuổi sát nút đến mức không thể cởi áo xác chết như lúc ở nhà, tôi xé toạc cái áo, giật đứt hàng nút. Một nút áo bật trúng mặt tôi, mấy cái khác văng khắp sàn.
Khi trong tâm trí tôi hiện lên hình ảnh mẹ cầm súng chĩa vào ngực, tôi rọi đèn pin xem vết thương. Đủ cứng rắn để khám nghiệm gần hơn, tôi nhận thấy lý do nó có vẻ kỳ lạ.
Tôi lại tựa đèn pin vào cái xác và xé ba bao khăn giấy. Tôi kẹp chúng thành một miếng dày và từ tốn lau lớp nước đục ngầu rỉ ra trên mặt vết thương.
Viên đạn chọc thủng hình xăm trên ngực Robertson, ngay phía trên tim gã.
Hình chữ nhật đen này có cùng kích cỡ và hình dáng với tấm thẻ suy tưởng tôi tìm thấy trong ví gã. Ở giữa hình chữ nhật là ba ký hiệu màu đỏ.
Mắt lờ mờ, tâm trạng sợ sệt, người căng cứng chất caffeine, tôi không thể nhanh chóng hiểu hình vẽ khi nó nằm lộn ngược.
Lúc tôi chuyển vị trí từ phía trên đầu sang bên hông Robertson, cặp mắt vô hồn kia như động đậy, dõi theo tôi dưới một lớp trắng sữa gần như mờ đục.
Tôi kiểm tra con nhện, nó đã biến mất khỏi bức tường xa kia. Dùng đèn pin, tôi định vị nó nằm trên trần nhà, đang tiến về phía tôi. Nó trông ghê rợn dưới ánh sáng thẳng chiếu.
Tôi quay đèn hướng vào hình xăm và vỡ lẽ rằng ba ký hiệu màu đỏ thật ra là ba chữ cái viết kiểu bay bướm. C... C...
Chữ thứ ba bị mất một phần do viên đạn xé toạc da, nhưng tôi chắc chắn đó là chữ D.
CCD. Không phải một từ. Những chữ cái đầu của một từ. Nhờ bác Shamus Cocobolo mà tôi biết chúng mang nghĩa gì; Cha đẻ Của Dối trá.
Robertson đã xăm tên của chúa tể hắc ám lên tim.
Ba chữ cái: CCD. Ba chữ khác, bắt gặp ở đâu đó, mới đây thôi...
Thình lình tôi nhìn thấy sĩ quan Simon Varner hiện rõ mồn một trong trí nhớ: ngồi sau tay lái chiếc xe tuần tra trong bãi đậu xe ở sân bowling, chồm ra cửa sổ để mở, khuôn mặt dễ thương đến mức đủ sức trở thành người dẫn chương trình thiếu nhi trên tivi, mi mắt dày như con gấu ngái ngủ, cẳng tay lực lưỡng tì lên cửa xe, “hình xăm giang hồ” mà theo anh ta quả quyết, nó khiến anh xấu hổ. Không tinh vi như hình xăm của Robertson, kiểu dáng không gì tương tự. Không có hình chữ nhật màu đen khảm dòng chữ đỏ cầu kỳ. Chỉ là một từ viết tắt khác với những chữ cái rời nhau màu đen: T... gì đó. Hình như là TSQ.
Chẳng lẽ sĩ quan Simon Varner, trực thuộc Sở cảnh sát thị trấn Pico Mundo, lại mang cái tên của cùng vị chủ nhân ấy trên cánh tay trái?
Nếu hình xăm của Robertson biểu lộ một trong nhiều cái tên của quỷ dữ thì Simon Varner cũng cùng hội cùng thuyền.
Những cái tên của quỷ dữ ùa qua tâm trí tôi: Sa Tăng, Ác ma, Quỷ sứ, Quỷ Sa Tăng, Cha đẻ của Quỷ, Đấng Ma vương...
Tôi không thể nhớ cụm từ nào giải thích chữ viết tắt trên cánh tay Varner, nhưng tôi không nghi ngờ chuyện đã tìm ra đồng bọn của Robertson.
Tại sân bowling, không hề có bóng dáng ông kẹ vây quanh Varner như kiểu chúng đã đeo bám Robertson. Nếu thấy hắn có ông kẹ “trông nom”, chắc tôi đã nhận ra bản chất quái thú trong hắn.
Vì có thể để lại dấu vân tay nên tôi vội vã gom mấy vỏ bao khăn giấy và nhét vào túi quần jeans. Tôi chộp lấy cây kéo, đứng dậy, quét đèn pin qua trần nhà và thấy con nhện ngay trên đầu mình.
Nhện vùng Nam Âu nhút nhát. Chúng không săn đuổi người sống.
Tôi chạy nước rút ra khỏi phòng, nghe tiếng con nhện đáp xuống sàn một cách khẽ khàng. Sau đó tôi đóng sầm cửa phòng lại, lau dấu vết trên tay nắm cửa bằng vạt áo sơ mi, và lau luôn tay nắm cửa chính khi đi khỏi.
Vì nhện vùng Nam Âu nhút nhát và vì tôi tin không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nên tôi phóng ra chiếc Chevy, quẳng kéo và đèn pin vào túi mua sắm, nổ máy rồi nhấn mạnh chân ga. Tôi rời khỏi khu đất của Nhà thờ Sao chổi Thì thầm với tiếng rít của cao su biến dạng, cát văng tung tóe và nhựa đường vỡ vụn, khát khao tới được đường cao tốc trước khi bị bao vây bởi binh đoàn nhện Nam Âu, đội quân sói đồng cỏ và bè lũ rắn chuông cùng tụ họp lại.

Chương 56

Không phải TSQ. QST. Quỷ Sa Tăng. Xuất xứ những chữ viết tắt được xăm trên tay Simon Varner, QST, lóe lên trong tôi băng qua ranh giới, vào lại thị trấn Pico Mundo.
Những kẻ thờ cúng quỷ Sa Tăng mặc y phục, cử hành những nghi lễ quái đản với cốc rượu chạm khắc toàn thứ tục tĩu sẽ được hầu hết mọi người xem là ít có ý tốt nhưng cũng ngờ nghệch rõ rệt hơn những thành viên đội mũ lông màu mè của một hội nam giới mang tên Hội kín của Người cô lập. Những gã ăn mặc trông tệ như dở hơi cũng như những gã đầu tóc bù xù, đeo kính đồi mồi, quần kéo cao hơn rốn đến cả tấc và dài phủ gót giầy tận năm phân, cũng hình dán đề chữ JAR JAR BINKS THỐNG TRỊ.
Nếu tôi có khuynh hướng gạt bỏ suy nghĩ bọn họ là những kẻ biến thái đang đóng vai trò quỷ dữ thì khuynh hướng ấy đã không kéo dài qua thời điểm tôi tìm thấy đồ lưu niệm cất trong hộp nhựa lớn hiệu Rubbermaid ở ngăn ướp lạnh.
Giờ tôi nghi ngờ nhân thân tên đồng bọn của Robertson, tôi tin tưởng năng lực siêu nhiên dẫn tôi đến chỗ hắn. Trong vòng lôi kéo của sức hút siêu linh - đôi lúc Stormy gọi tắt là hội chứng SS hay SSL - tôi hay rẽ hướng đột ngột và lái với tốc độ cao hơn nhiều so với mức được cho là thận trọng.
Dưới ảnh hưởng của SSL, tôi khoanh vùng trong một mức độ nhất định và cố gắng chỉ nghĩ về đối tượng mình đang quan tâm, trong trường hợp này là Varner, hơn là về nơi tôi đang có mặt hay nơi tôi có thể sắp tới. Tôi sẽ biết đâu là nơi cần đến khi đến được đó.
Trong trạng thái này, đầu óc tôi giãn ra, gần như mỗi lần tôi chuyển hướng một cách có vẻ ngẫu nhiên trong cuộc truy tìm con mồi thì những ý nghĩ ngẫu nhiên lại vụt lóe.
Lần này, một trong những ý nghĩ ấy liên quan đến chị của mẹ, dì Cymry, người tôi chưa bao giờ gặp mặt.
Theo lời mẹ, dì Cymry lấy một người Cộng hòa Séc tên Dobb. Bố tôi lại nói dì Cymry không bao giờ kết hôn.
Cả bố lần mẹ đều từng nói những chuyện không đáng tin. Song lần này, tôi cho rằng bố nói sự thật và tôi chẳng có ông dượng người Cộng hòa Séc hay họ hàng nào khác.
Bố tôi nói dì Cymry là kẻ đồng bóng nhưng không nói gì thêm. Lời quả quyết của bố khơi mào cho cơn thịnh nộ của mẹ, người phủ nhận tính đồng bóng của dì Cymry và gọi dì là món quà Thượng đế ban tặng.
Đây là phát biểu kỳ lạ về phía mẹ, người sống một cuộc đời như thể ủng hộ cho kết luận rằng Thượng đế không hề tồn tại.
Lần đầu tiên tôi hỏi bà ngoại Sugars về người con gái đầu lòng bí ẩn của bà thì bà giàn giụa nước mắt. Trước đó tôi không khi nào thấy bà khóc lóc. Ngày hôm sau, vẫn say xỉn, bà lại lao đi theo đuổi những ván bài nơi xa xôi.
Lần thứ hai tôi hỏi về dì Cymry, bà tức giận vì tôi cứ bám riết chuyện ấy. Trước đó tôi không khi nào thấy bà tức giận. Sau đó bà trở nên lạnh lùng xa cách. Bà chưa hề đối xử với tôi như vậy và thái độ đó nhắc tôi nhớ nhiều đến mẹ.
Từ đó về sau, tôi không bao giờ hỏi tới dì Cymry nữa.
Tôi nghi ngờ trong một tổ chức từ thiện đâu đó, kiểm soát việc nghiện thuốc và những ràng buộc nhân tính, tôi có một người dì ít ra cũng giống tôi một chút. Tôi nghi ngờ khi còn nhỏ, dì ấy không che giấu năng lực đặc biệt như tôi đã giấu.
Điều đó có thể là lý do bà Sugars, với toàn bộ số tiền thắng bài, không để lại tài sản gì theo tôi biết. Tôi nghĩ bà chi một khoản cho việc chăm sóc dì Cymry.
Suốt những năm qua, bố tôi đã buột miệng thốt ra nhiều điều dẫn đến việc tôi cho rằng giác quan thứ sáu của dì Cymry, với bất cứ năng lực kỳ lạ nào nằm trong đó, đều đi kèm đột biến về mặt cơ thể. Tôi nghĩ dì sợ mọi người không chỉ vì những điều dì đã nói mà còn vì ngoại hình của dì.
Bao giờ cũng vậy, một đứa trẻ chào đời mang kiểu đột biến này, trên thực tế sẽ kèm theo hai hoặc nhiều đột biến khác nữa. Ozzie nói, và hình như không phải trong tư cách tác giả truyện hư cấu, rằng cứ tám mươi tám ngàn trẻ em được sinh ra thì một đứa sẽ có một bàn tay sáu ngón như anh. Cả trăm, nếu không nói cả ngàn người đi trên đường phố nước Mỹ? Bạn đã thấy được bao nhiêu bàn tay sáu ngón ở người lớn? Bạn không chạm mặt họ vì hầu hết trong số những đứa trẻ được sinh ra ấy với những dị tật khác và kinh khủng hơn đã khiến chúng ra đi khi còn ẵm ngửa.
Những đứa trẻ sáu ngón tốt số khỏe mạnh thường sẽ phải phẫu thuật nếu ngón tay thừa kia có thể cắt bỏ không ảnh hưởng đến chức năng của bàn tay. Ozzie “bé” nói họ đi giữa chúng ta, được coi là “những người trần tục” tay năm ngón.
Tôi nghĩ toàn bộ điều này là sự thật, vì Ozzie tự hào về ngón tay thứ sáu của anh và thích thú thu thập kiến thức về điều anh gọi là “những kẻ móc túi bẩm sinh là thành viên dòng dõi cao sang của anh”. Anh nói biến dị thứ hai của anh là khả năng sáng tác hay và nhanh, tạo ra những tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt với tiến độ phi thường.
Đôi khi tôi mơ thấy dì Cymry. Đó không phải những giấc mơ báo điềm. Chúng đầy sự khao khát. Và phiền muộn.
Lúc này đây, đồng hồ chỉ 12:21, đang mơ giữa ban ngày về dì Cyrmy nhưng vẫn nhận thức được một cách sâu sắc và đầy lo âu về những giây phút quý giá trôi nhanh, hoàn toàn trong vùng SSL, tôi mong tìm thấy sĩ quan Simon Varner ở quanh quẩn khu vực sân bowling hoặc cụm rạp xem phim sắp khởi chiếu bộ phim chú chó sau một giờ trưa. Thay vì vậy, tôi lại bất ngờ được đưa đến khu mua sắm Green Moon.
Cảnh tượng nhìn thấy thật khác thường so với một ngày thứ Tư trong hè: bãi đậu xe chật kín.
Biểu ngữ khổng lồ nhắc tôi nhớ đợt giảm giá thường niên vào mùa hè của các cửa hàng trong khu mua sắm đã bắt đầu lúc mười giờ sáng nay và sẽ kéo dài đến cuối tuần.
Đông đúc làm sao!

Chương 57

Nắng gay gắt, chói lóa trên kính chắn gió của dãy xe đậu san sát, cặp mắt đỏ ngầu của tôi nhức nhối, tôi phải nhìn nghiêng.
Khu mua sắm ba tầng trải dài suốt từ hướng nam sang hướng bắc.
Vô số cửa hàng chuyên biệt ở cả hai tầng giữa những cửa hiệu lớn khác.
SSL kéo tôi đến một cửa hàng ở đầu phía bắc. Tôi lái xe vòng ra sau và đậu gần con dốc rộng dẫn xuống hầm dỡ hàng, nơi xe tải giao hàng hóa.
Cách ba bước có một chiếc xe cảnh sát đen trắng. Không thấy bóng dáng cảnh sát nào.
Nếu đây là xe của Varner thì hắn đã vào trong khu mua sắm.
Tay tôi run bần bật. Phím điện thoại bé xíu. Tôi đã phải nhấn hai lần mới đúng số của tiệm kem Burke & Bailey.
Tôi muốn gọi Stormy rời chỗ làm ngay lập tức, ra khỏi khu mua sắm bằng cửa gần nhất, nhanh chóng ra xe và lái đi thật nhanh, bất kỳ đâu, chỉ cần lái xe bỏ đi.
Khi điện thoại đang reo, tôi cúp máy. Lúc này có thể nàng được định đoạt sẽ không đi ngang qua Varner, nhưng nếu tôi thuyết phục nàng rời khỏi chỗ đó, biết đâu nàng xuất hiện trong tầm ngắm của hắn đúng lúc hắn lấy súng và bóp cò.
Định mệnh của nàng là ở bên tôi mãi mãi. Chúng tôi có tấm thẻ từ máy bói toán làm bằng chứng. Nó nằm trên đầu giường của nàng. Chỉ tốn một đồng hai mươi lăm xu, xác ướp Gypsy đã cho chúng tôi điều mà cặp tình nhân khác không thể mua được bằng mọi giá.
Lý trí lập luận rằng nếu tôi không làm gì, nàng sẽ an toàn. Nếu nàng thay đổi kế hoạch do tôi nài nỉ, biết đâu tôi lại gây trở ngại cho định mệnh của nàng và của tôi. Hãy tin vào số phận.
Trách nhiệm của tôi không phải cảnh báo Stormy mà là ngăn chặn Simon Varner trước khi hắn sẵn sàng thực hiện kế hoạch, trước khi hắn giết ai đó.
Thế mới có câu nói dễ hơn làm. Hắn là cảnh sát còn tôi không phải. Hắn có ít nhất một khẩu súng còn tôi thì không. Cao hơn tôi, khỏe hơn tôi, được huấn luyện mọi biện pháp khả thi để khuất phục một công dân gây hấn, hắn có đủ mọi lợi thế, trừ giác quan thứ sáu.
Khẩu súng lấy mạng Robertson được giấu dưới ghế lái. Tôi để nó ở đó đêm qua, định vứt bỏ sau.
Chồm ra trước, tôi mò mẫm dưới ghế, tìm vũ khí và lấy nó ra. Tôi cảm giác như đang cầm tay Tử thần.
Lóng ngóng thêm một hồi, tôi tìm được cách mở ổ đạn. Tôi đếm được chín lỗ đạn. Ống lót súng sáng bóng. Gần như đầy đạn. Chỉ thiếu viên đã tạo ra một lỗ xuyên tim Robertson.
Tôi đóng ổ đạn. Nó trở vào vị trí, phát ra tiếng “cách”.
Súng của mẹ tôi có chốt an toàn. Chấm đỏ hiện ra khi chốt an toàn bị tháo.
Khẩu súng này xem ra không có đặc điểm tiện lợi ấy. Có lẽ chốt an toàn được gắn vào cò súng, buộc phải bóp cò hai lần.
Tim tôi không có chốt an toàn nào. Nó đang bùng nổ.
Tôi cảm giác như đang nắm tay cái chết, đúng, cái chết của tôi.
Để khẩu súng trong lòng, tôi cầm điện thoại lên và mạnh tay nhấn số di động riêng của cảnh sát trưởng Porter, không phải số ở Sở cảnh sát. Phím bấm có vẻ còn nhỏ hơn khi nãy, như thể đây là điện thoại Alice lấy từ con sâu bướm ngậm ống điếu, nhưng tôi bấm đúng bảy con số ngay và nhấn nút “Gọi”.
Bà Karla Porter nhấc máy khi chuông đổ đến hồi thứ ba. Bà nói bà vẫn ở trong phòng đợi của Khoa hồi sức tích cực. Bà đã được phép vào thăm cảnh sát trưởng ba lần, mỗi lần năm phút.
- Lần thứ ba bác vào, ông ấy đã tỉnh nhưng yếu lắm. Ông ấy nhận ra bác là ai. Ông ấy cười với bác nhưng không nói được nhiều, và nói không liền mạch. Bác sĩ vẫn cho ông ấy dùng một chút thuốc an thần để tiện cho việc chữa lành vết thương. Bác không nghĩ ông ấy có thể nói được nhiều trước ngày mai.
- Nhưng bác ấy sẽ khỏe chứ? - tôi hỏi.
- Bác sĩ nói thế. Và bác bắt đầu tin như vậy.
- Con thương bác ấy, - tôi nói và nghe giọng mình nghèn nghẹn.
- Ông ấy biết mà, Odd. Ông ấy cũng thương con lắm. Đối với ông ấy, con là đứa con trai thân yêu.
- Bác chuyển lời con đến bác ấy nhé.
- Ừ.
- Con sẽ gọi sau, - tôi hứa.
Tôi nhấn nút “kết thúc” và để điện thoại sang ghế bên cạnh.
Cảnh sát trưởng không thể giúp tôi. Chẳng ai có thể giúp tôi. Không cô gái điếm chết oan buồn rầu nào trấn áp được cơn điên giết chóc của tên sói này. Chỉ có tôi.
Trực giác mách bảo tôi không cần mang theo khẩu súng. Tôi nhét nó trở vào dưới ghế.
Khi tôi tắt động cơ và ra khỏi xe, mặt trời nảy lửa vừa là cây búa vừa là cái đe, rèn giũa thế giới và bóng phản chiếu của thế giới.
Sức hút siêu linh vẫn hoạt động dù tôi đi xe hay đi bộ. Tôi được kéo tới con dốc giao hàng. Tôi đi xuống, bước vào không gian lạnh lẽo của hầm dỡ hàng.

Chương 58

Với mái trần thấp và sàn bê tông xám xịt trải ra vô tận, tầng hầm dùng làm khu dỡ hàng kiêm bãi xe cho nhân viên mang vẻ ảm đạm và không khí đáng sợ như ngôi mộ cổ nằm sâu dưới lớp cát xứ Ai Cập, ngôi mộ của vị pharaon đáng ghét, bị thần dân chôn cất với những thứ rẻ tiền, không có chai lọ bằng vàng ròng lấp lánh hay món đồ trang trí nào.
Khu dỡ hàng nền cao chạy dọc theo chiều dài của công trình bao la này, những xe tải cỡ lớn tập trung về đây từ nhiều địa điểm. Tại cửa hàng, hai chỗ chung tường kế sát nhau có thể đi vòng khu bốc dỡ và tiến thẳng đến phòng chứa hàng khổng lồ.
Nơi này ồn ào tiếng nói chuyện và huyên náo các hoạt động khi nhóm xe tải dỡ những kiện hàng giao muộn, làm phiền nhân viên kho hàng phải chuẩn bị kiểm tra chất lượng để giao lên khu bày bán.
Tôi đi qua các dãy kệ, xe đẩy, băng chuyền, những thùng, hộp hàng hóa, đủ mọi thứ từ váy dạ hội đến dụng cụ nấu nướng, dụng cụ thể thao. Nước hoa, đồ bơi, sôcôla hảo hạng.
Không ai căn vặn sự có mặt của tôi và khi tôi rút một cây gậy bóng chày bằng gỗ cứng ra khỏi cái sọt chất đầy gậy, chẳng ai yêu cầu tôi bỏ xuống trở lại.
Một cái sọt khác đựng gậy nhôm rỗng ruột. Đó không phải thứ tôi muốn.
Tôi thích cây gậy nặng hơn. Tôi đòi hỏi sự cân bằng chắc chắn ở món đồ.
Với cây gậy gỗ, bạn có thể đánh đối phương gãy cánh tay và vỡ đầu gối dễ hơn.
Có thể tôi sẽ cần đến cây gậy bóng chày, cũng có thể không. Vấn đề là nó ở đó, và SLL đưa tôi đến đó, dường như ám chỉ rằng nếu tôi không tận dụng nó, tôi sẽ hối tiếc về quyết định của mình.
Hoạt động ngoại khóa duy nhất tôi tham gia khi còn đi học là chơi bóng chày.
Như đã viết ở phần trên, tôi ghi điểm cao nhất đội, cho dù tôi chỉ có thể chơi trên sân nhà.
Tôi vẫn còn chơi. Quán Vỉ nướng Pico Mundo có một đội. Chúng tôi thi đấu với các quán khác và những nhóm quần chúng; chúng tôi làm họ thua liểng xiểng, năm này sang năm khác.
Tiếng bíp khẽ và đoạn nhạc ngắn báo hiện xe nâng và băng chuyền đến gần cứ vang lên lặp đi lặp lại. Tôi tránh đường nhưng vẫn tiếp tục di chuyển, dù không biết đang đi đâu.
Trong tâm trí tôi hiện hình ảnh: Simon Varner. Khuôn mặt dễ nhìn. Cặp mắt ngái ngủ. Hình xăm QST trên cẳng tay trái. Hãy tìm tên khốn đó.
Hai cánh cửa đôi rộng hơn bình thường đẩy vào hành lang sàn bê tông trơ trọi và bốn bức tường bê tông phủ sơn. Tôi lưỡng lự, ngó phải, quay trái.
Bụng tôi sôi lên. Tôi cần thuốc giảm độ axit trong dạ dày.
Tôi cần cây gậy to hơn, áo chống đạn và cả sự hỗ trợ, thế nhưng tôi chẳng có gì. Cứ đi tiếp vậy thôi.
Cánh cửa dẫn tới các phòng riêng biệt bên phải hành lang. Hầu hết đều có gắn biển.
Nhà vệ sinh. Văn phòng vận chuyển. Văn phòng bảo hành.
Tìm kiếm Simon Varner. Khuôn mặt dễ nhìn. Quỷ Sa Tăng. Cảm nhận sức hút của hắn, tôi bị lôi kéo về phía trước.
Tôi lướt qua hai người đàn ông, một phụ nữ và thêm một người đàn ông nữa. Chúng tôi mỉm cười gật đầu.
Không ai trong số họ có vẻ băn khoăn xem trận đấu diễn ra ở đâu, tỷ số ra sao, tôi thuộc đội nào.
Chẳng mấy chốc tôi đến cánh cửa có ghi chữ Phòng bảo vệ. Tôi dừng lại. Chuyện này có cảm giác không đúng... nhưng lại đúng.
Khi SSL hoạt động, tôi thường biết chắc mình đã đến nơi. Lần này tôi cảm giác mình đã đến nơi. Tôi không thể lý giải sự khác biệt, song nó có thật.
Tôi đặt tay lên quả đấm cửa nhưng do dự.
Trong tâm trí, tôi nghe tiếng Lysette Rains nói tại bữa tiệc thịt nướng mới đây ở nhà cảnh sát trưởng: “Hồi đó mình chỉ là nhân viên làm móng còn bây giờ mình là nghệ nhân làm móng đã được chứng nhận”.
Về phía cuộc đời của tôi, xét chuyện sắp nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, tôi không hiểu tại sao mình lại liên tưởng đến Lysette trong hoàn cảnh này.
Giọng cô ấy lại ám ảnh tôi: “Mất một thời gian, mình nhận ra thế giới này mới hiu quạnh làm sao, và khi thấy thế... thì tương lai thật đáng sợ”.
Tôi bỏ tay khỏi quả đấm cửa.
Tôi bước sang một bên cửa.
Tiếng móng guốc bọc sắt giậm xuống nền đất nung cứng chắc có thể không âm vang bằng tiếng tim tôi đang đập bình bịch liên hồi.
Bản năng của tôi là người hướng dẫn đầy sức thuyết phục, và khi nó bảo Ra sân, tôi không thể cãi lại rằng tôi chưa sẵn sàng cho trận đấu. Tôi nắm chặt cây gậy bằng hai tay, đổi thế đứng và cầu nguyện Mickey Mantle.
Cánh cửa mở ra, một tên bước hiên ngang vào hành lang. Hắn mang giày đen, mặc bộ áo liền quần màu đen của võ sĩ hạng nhẹ có mũ trùm đầu, đeo mặt nạ trượt tuyết màu đen và găng tay cũng màu đen.
Hắn ôm khẩu súng trường quá lớn và xấu xí đến mức trông nó giả tạo như mớ vũ khí trong phim của Schwarzenegger trước đây.
Từ thắt lưng lủng lẳng tám hay mười ổ đạn dự trữ.
Hắn nhìn sang trái khi bước ra khỏi phòng bảo vệ. Tôi đứng bên phải hắn, nhưng hắn lập tức cảm nhận được tôi và giữa chừng quay phắt đầu lại phía tôi.
Chưa bao giờ là người thích chặn bóng, tôi vung mạnh tay và đánh thẳng vào mặt hắn.
Tôi sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu hắn không ngã phịch xuống bất tỉnh.
Tôi đã không ngạc nhiên.
Hành lang vắng tanh. Không một bóng người. Tạm thời là vậy.
Tôi cần xử lý chuyện này hết sức kín đáo để tránh những chất vấn về sau nếu cảnh sát trưởng vẫn không thể bao che cho tôi.
Sau khi lăn cây gậy bóng chày vào phòng bảo vệ, trượt khẩu súng vào theo, tôi túm lấy bộ quần áo của hắn rồi lôi hắn vô, thoát khỏi hành lang, và đóng cửa lại.
Giữa đống ghế lật nhào và những ly cà phê đổ tràn, ba nhân viên bảo vệ không khí giới nằm chết ngay đơ. Hình như họ bị lấy mạng bằng súng ngắn gắn bộ giảm thanh vì phát súng không hề gây chú ý. Trông họ có vẻ sửng sốt.
Cảnh tượng về họ hành hạ tôi. Họ đã chết vì tôi quá chậm hiểu.
Tôi biết mình không cần phải chịu trách nhiệm về mỗi cái chết mình không thể ngăn chặn. Tôi hiểu mình không thể đeo cả thế giới sau lưng như tấm bản đồ. Nhưng tôi cảm thấy mình nên như thế.
Mười hai màn hình tivi ngoại cỡ, mỗi cái chia thành bốn khung hình, hiển thị bốn mươi tám quang cảnh thu từ các camera đặt khắp khu mua sắm. Khắp các lối đi mà tôi để mắt tới, lối đi đều đầy nghẹt người; đợt giảm giá lôi cuốn dân chúng trên khắp hạt Maravilla đổ về.
Tôi quỳ cạnh tên cướp ôm súng ấy và tháo mặt nạ hắn ra. Mũi gãy, đang chảy máu; hơi thở phập phều trong dòng máu. Mắt phải của hắn sưng vù híp lại. Lằn gậy đã bắt đầu hằn lên trán hắn.
Đó không phải Simon Varner. Nằm trước mặt tôi là Bern Eckles, viên sĩ quan có mặt tại bữa tiệc nướng, người được mời vì cảnh sát trưởng và bà Karla Porter đang cố mai mối hắn với Lysette Rains.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét