Giao lộ sinh tử
Tác giả: Dean Koontz
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011
Chương 19
Đi xuống, đi xuống, vòng qua rồi đi xuống, tôi dẫn đường và
nàng theo sau. Chúng tôi gây ra quá nhiều tiếng ồn trên những bậc thang lát gạch
Mehico, như vậy chắc chắn không thể nghe thấy Robertson nếu gã đang leo lên đây
gặp chúng tôi.
Giữa chừng tôi băn khoăn liệu sự gấp rút này có phải phản ứng
thái quá không. Rồi tôi nhớ đến nắm đấm đưa cao, ngón tay giơ lên, những bức ảnh
trừng mắt nhìn trong phòng làm việc của gã.
Tôi phóng xuống nhanh hơn, vòng qua rồi vòng qua, không thể
loại bỏ khỏi đầu óc hình ảnh gã đứng đợi bên dưới với con dao phay mà tôi có thể
lao mình xuyên vào nó trước khi kịp đứng lại.
Xuống đến chân cầu thang mà không đụng độ gã, hai đứa tôi thấy
cửa dưới này không khóa.
Tôi thận trọng mở cửa ra.
Trái với ý nghĩ của tôi, gã không đợi chúng tôi trong tiền sảnh
tỏa sáng nhẹ dịu.
Khi đi xuống cầu thang, tôi đã buông tay Stormy ra. Giờ tôi
nắm lại để giữ nàng gần bên.
Mở phần giữa của cánh cửa ba gian, tôi thấy Robertson đang từ
vỉa hè leo lên những bậc tam cấp của nhà thờ. Tuy không đua nhanh về phía tôi
nhưng gã phóng đến với trạng thái hùng hổ không gì ngăn được như chiếc xe tăng
băng qua chiến trường.
Trong ánh sáng đỏ thẫm như trong sách Khải huyền, tôi thấy nụ
cười lúc trước làm sởn gai ốc nhưng còn đáng tin của gã đã lụi tắt. Đôi mắt xám
nhợt nhạt vay mượn sắc đỏ như máu của hoàng hôn và khuôn mặt gã méo mó thành
nút thắt của cơn phẫn nộ đằng đằng sát khí.
Chiếc Mustang của cô Terri đậu ngoài lề đường. Tôi không thể
ra tới ngoài xe mà không chạm mặt Robertson.
Tôi sẽ chiến đấu khi cần chiến đấu, chống lại những địch thủ
có thể khiến tôi hao mòn sức lực, nếu tôi buộc phải làm vậy. Nhưng cơ thể tôi
xung đột với kế sách đầu tiên và cả vấn đề về nguyên tắc sai lầm.
Tôi không dương dương tự đắc mà tôi thích khuôn mặt mình như
nó vốn thế. Tôi càng không thích nó bị đập.
Robertson cao lớn hơn tôi nhưng ẻo lả. Giả sử cơn giận của
gã là của một người đàn ông bình thường, được bơm căng lên nhiều nhờ rượu bia,
tôi đã đối đầu và tự tin hạ gục gã. Thế nhưng đây lại là kẻ mất trí, một đối tượng
mê hoặc bọn ông kẹ, một kẻ tôn thờ đám sát thủ liên hoàn và thảm sát hàng loạt.
Tôi buộc phải nghĩ gã có mang theo súng, dao và đến giữa cuộc ẩu đả, biết đâu
gã lại cắn xé như chó.
Chắc Stormy sẽ cố đá đít gã, một phản ứng không mấy xa lạ với
nàng, nhưng tôi không cho nàng lựa chọn đó. Từ lối vào quay vô, tôi vội nắm tay
nàng và cố kéo nàng qua một trong những cánh cửa nằm giữa đại sảnh với gian giữa
của giáo đường.
Trong nhà thờ vắng vẻ, những dãy đèn thấp soi rọi lối đi
chính giữa. Cây thánh giá khổng lồ phía sau bệ thờ rực sáng trong ánh đèn dịu
nhẹ từ trên tỏa xuống. Lửa lung linh trong những chiếc ly thủy tinh đỏ thẫm đặt
trên giá nến tế lễ.
Những đốm lửa cùng màu hoàng hôn đỏ đang nhạt dần phía sau
dãy cửa sổ kính màu trên bờ tường phía tây không thể đẩy lùi sự tụ tập của bóng
tối đã lấp đầy hàng ghế và lối đi hai bên.
Chúng tôi vội vã chạy xuống lối đi chính giữa, chờ tên
Robertson lên cơn như trâu điên từ ngoài tiền sảnh xông qua một trong những
cánh cửa. Đến chỗ xưng tội mà không nghe thấy gì, hai đứa tôi dừng chân quay lại.
Theo những gì tôi thấy, Robertson chưa đến. Nếu đã vào gian
giữa, chắc chắn gã đi ngay sau chúng tôi, dọc theo lối đi chính giữa.
Tuy lập luận trái với linh cảm, và không có bằng chứng xác
nhận nhưng tôi vẫn ngỡ rằng gã đang ở cùng chúng tôi. Cánh tay sởn gai ốc khiến
tôi nghĩ mình trở thành loài kêu quàng quạc, chân có màng và người bao phủ toàn
lông.
Bản năng của Stormy cũng giống hệt tôi. Quan sát bóng tối
nhân rộng ra trên hàng ghế, lối đi và dãy cột, nàng thì thào:
- Hắn ở gần hơn anh nghĩ. Hắn rất gần.
Tôi đẩy mở cánh cửa nhỏ tại chỗ xưng tội. Chúng tôi bước
vào, di chuyển hầu như hoàn toàn lặng thinh, không muốn át đi bất cứ âm thanh
nào của việc Robertson tiến đến gần.
Khi chúng tôi qua khỏi vị trí của đội hợp ca và đi lên hành
lang nhà thờ, hướng đến bệ thờ cao, tôi bớt liếc nhìn ra sau mà tiến tới thận
trọng hơn. Không hiểu sao, trái ngược với cái đầu, trái tim tôi mách bảo nguy
hiểm đang nằm phía trước.
Kẻ theo đuổi kia không thể lén lút xung quanh mà chúng tôi
không nhìn thấy. Vả lại, không lý do gì gã làm thế thay vì tấn công trực tiếp.
Tuy thế, với mỗi bước đi, sự căng thẳng gia tăng trong những
sợi cơ sau gáy đến khi chúng cứng đờ như dây cót đồng hồ.
Thoáng thấy một chuyển động lướt qua bệ thờ, tôi giật bắn
người nhìn về phía đó, kéo Stormy gần kề hơn. Tay nàng bấu tay tôi chặt hơn lúc
nãy.
Tượng Chúa bằng đồng đóng đinh trên cây thánh giá xê dịch,
như thể kim loại đã biến đổi một cách thần kỳ thành da thịt, như thể Ngài sẽ rời
khỏi cây thánh giá và bước xuống tiếp tục kiếp cứu thế trần tục.
Một con bướm đêm lớn mang đôi cánh trang trí kiểu vỏ sò bay
ra khỏi mặt kính nóng rực của ngọn đèn gắn phía trên. Ảo giác về sự chuyển động
do cái bóng dập dờn được phóng đại của con côn trùng kia tạo nên bức tượng bằng
đồng lập tức được xua tan.
Chìa khóa mở cánh cửa dẫn lên tháp của Stormy cũng mở được
cánh cửa phía sau thánh đường. Trong đó là phòng để đồ thờ, nơi linh mục vào để
chuẩn bị sẵn sàng trước mỗi buổi lễ Mass.
Tôi ngoái nhìn thánh đường, gian giữa. Lặng như tờ. Không
khí yên tĩnh trừ cái bóng chấp chới của con bướm đêm.
Sau khi dùng và trả lại chìa khóa cho Stormy, tôi run run đẩy
cánh cửa lợp ván theo hướng ngược vào trong.
Nỗi sợ hãi khác thường này không hề có nền tảng nào dự trên
lí trí hết. Robertson đâu phải ảo thuật gia có khả năng làm trò xuất hiện bên
trong một căn phòng đã bị khóa.
Vậy mà tim tôi chơi trò đập-bình-bịch-và-run-lẩy-bẩy với
xương sườn.
Khi sờ soạng tìm công tắc bật đèn, tay tôi không bị ghim
dính vào tường bởi dao găm hay cái rìu. Ngọn đèn trên đầu để lộ ra căn phòng nhỏ
đơn sơ chứ không phải một tên tâm thần to xác có bộ tóc vàng như ụ đất bị xới
tung.
Bên trái đặt ghế cầu kinh, nơi linh mục quỳ cầu nguyện riêng
trước khi đọc kinh trong lễ Mass. Bên phải là dãy tủ đựng chén thánh, lễ phục
và một ghế dài.
Stormy đóng cửa thánh đường sau lưng hai đứa và gài chốt cửa.
Chúng tôi nhanh chóng băng qua căn phòng đến cánh cửa dẫn ra
khỏi phòng để đồ thờ. Tôi biết ngoài đó là khu đất phía đông không có bia mộ và
một con đường lát đá dẫn đến nhà của linh mục, nơi bác Stormy sống.
Cánh cửa này cũng được khóa.
Từ bên trong phòng để đồ thờ có thể mở khóa mà không cần đến
chìa. Tôi nắm chặt chốt cửa... và do dự.
Biết đâu chúng tôi không nghe thấy Robertson từ tiền sảnh tiến
vào gian giữa chỉ vì một lý do đơn giản, gã không hề đi vào cổng chính nhà thờ
sau khi tôi thoáng thấy gã leo lên mấy bậc tam cấp.
Và biết đâu, đoán được chúng tôi sẽ cố chuồn ra từ phía sau
nhà thờ nên gã đã đánh một vòng quanh nhà thờ, chờ chúng tôi bên ngoài phòng để
đồ thờ. Điều này lý giải tại sao tôi có cảm giác chúng tôi đang hướng đến nguy
hiểm hơn là lùi xa nó.
- Sao vậy? - Stormy hỏi.
Tôi suỵt nàng im lặng, một sai lầm trầm trọng trong mọi tình
huống, trừ lúc này, và nghe ngóng ở khe hở giữa cánh cửa với thanh dọc. Âm
thanh cực khẽ của một làn gió ấm khiến tai tôi nhột nhột những không còn tiếng
gì khác ngoài kia.
Tôi chờ đợi. Tôi lắng nghe. Tôi càng lúc càng thêm băn
khoăn.
Bước lùi xa cánh cửa dẫn ra ngoài, tôi thì thầm với Stormy:
- Trở lại theo đường dẫn mình đến đây.
Hai đứa tôi quay lại cánh cửa giữa phòng để đồ thờ với thánh
đường mà nàng đã khóa khi chúng tôi rời đi. Nhưng tôi lại do dự khi đặt tay lên
chốt.
Áp tai lên khe hở giữa cánh cửa với thanh dọc, tôi lắng nghe
tình hình trong nhà thờ. Không cơn gió trêu đùa nào xoáy vào lỗ tai, cũng không
âm thanh rón rén mách nước nào tới tai tôi.
Cả hai cánh cửa của phòng để đồ thờ đều được khóa từ bên
trong. Để tóm được chúng tôi, Robertson cần chìa khóa, thứ gã không có.
- Chúng mình sẽ không đợi ở đây đến buổi lễ Mass sáng mai
đâu, - Stormy lên tiếng như thể nàng có khả năng nắm hết những suy nghĩ của tôi
dễ dàng như đọc tài liệu trên máy tính.
Điện thoại di động của tôi kẹp ở thắt lưng. Tôi có thể dùng
nó gọi cho cảnh sát trưởng Porter và trình bày tình hình với ông ấy.
Song có khả năng Bob Robertson đã mất tinh thần khi suy nghĩ
lại về mức độ sáng suốt của việc tấn công tôi ở một nơi công cộng như nhà thờ
đây, cho dù lúc này không con chiên hay nhân chứng nào có mặt. Nguôi bớt cơn giận
lồng lộn, có thể gã đã bỏ đi.
Nếu cảnh sát trưởng phái xe tuần tra tới nhà thờ St. Bart
hay đích thân ông đến mà không tìm thấy tên điên hớn hở nào, uy tín của tôi sẽ
lung lay. Qua nhiều năm, tôi đã gửi gắm thiện ý của mình vào chỗ ông Wyatt
Porter đủ để có thể rút lại một hai lần nhưng tôi không thích làm vậy chút nào.
Bản chất con người muốn tin vào tài năng phi thường của ảo
thuật gia, nhưng họ cũng trở mặt và khinh thường khi anh ta phạm một lỗi thật
nhỏ nhặt làm lộ màn gian lận. Những ai ngồi dưới hàng ghế khán giả sẽ cảm thấy
ngượng ngùng khi để bị qua mặt quá dễ dàng, và họ sẽ đổ thừa sự cả tin của mình
là do lỗi của người trình diễn.
Tuy tôi không có đôi tay khéo léo để làm trò ảo thuật, tuy
những gì tôi nói ra đều là sự thật mà năng lực siêu phàm muốn nói lờ mờ, nhưng
tôi không chỉ hiểu tình trạng dễ bị công kích của ảo thuật gia mà còn nắm rõ mối
nguy hiểm khi trở thành anh chàng hét toáng báo động về chó sói, hay trong trường
hợp này là anh chàng hét toáng báo động về Gã Nấm.
Hầu hết mọi người cực kỳ khao khát muốn tin rằng họ là một
phần trong bí ẩn to lớn, rằng được tạo ra là việc vinh dự và vẻ vang, không đơn
thuần là kết quả của việc va đụng ngẫu nhiên giữa hai phía. Thế mà mỗi lần chỉ
mới có một lý do để nghi ngờ, con sâu trong trái táo nơi quả tim đã khiến họ
làm ngơ cả ngàn bằng chứng về phép lạ, rồi sau đó họ như bợm rượu lên cơn khát
hoài nghi, và họ gặm nhấm nỗi tuyệt vọng như kẻ đói rã rời ngấu nghiến ổ bánh
mì.
Là một người kỳ lạ, tôi đang đi trên sợi dây cao vợi, cao đến
mức không thể bước hụt chân mà có thể sống sót.
Cảnh sát trưởng Porter tốt bụng nhưng ông là một người bình
thường. Ông sẽ trì hoãn việc trở mặt với tôi nhưng nếu hơn một lần, tôi khiến
ông cảm thấy ông thật ngốc nghếch và khờ dại thì chuyện trở mặt chắc chắn xảy
ra.
Tôi có thể dùng điện thoại di động gọi cho cha Sean, bác của
Stormy, trong nhà của linh mục. Ông ấy sẽ đến cứu giúp chúng tôi không chút chậm
trễ và không đặt quá nhiều câu hỏi khó xử.
Song Robertson là quái thú đội lốt người chứ không thuộc
dòng dõi siêu phàm. Nếu đang ẩn nấp trong khu đất nhà thờ, gã sẽ không giảm bớt
tính hung tàn bởi nhìn thấy bóng dáng người theo đạo hay cây thánh giá giơ lên.
Đã đưa Stormy vào tình cảnh ngặt nghèo, tôi lập tức chùn bước
trước ý nghĩ gây nguy hiểm cho cả bác của nàng.
Hai cánh cửa của phòng để đồ thờ. Một cửa dẫn ra ngoài khu đất
nhà thờ. Một cửa dẫn vào trong thánh đường.
Không nghe thấy gì ở cả hai cửa, tôi phải nhờ đến trực giác.
Tôi chọn cánh cửa trở vào thánh đường.
Hình như trực giác nhanh nhạy của Stormy chưa ngưng nghỉ khi
nào. Nàng đặt tay lên tay tôi khi tôi nắm chặt khóa cửa.
Mắt chúng tôi gặp nhau trong chốc lát. Sau đó hai đứa quay đầu
nhìn chằm chằm vào cánh cửa.
Đó là lúc tấm thẻ chúng tôi rút ra từ chiếc máy bói toán
trong lễ hội và vết bớt xứng nhau của hai đứa có ý nghĩa không thể chối cãi.
Không trao đổi lời nào, chúng tôi đi đến kế hoạch mà cả hai
đều đã hiểu. Tôi vẫn đứng ở cửa dẫn vào thánh đường. Stormy quay lại cánh cửa dẫn
ra khu đất.
Nếu tôi mở cửa này, Robertson nhào vào tấn công, Stormy sẽ
tung cửa kia lao ra ngoài kêu la cầu cứu. Tôi sẽ cố gắng chạy theo nàng, và sống
sót.
Chương 20
Khoảnh khắc trong phòng để đồ thờ tiết ra bản chất toàn bộ
cuộc sống của tôi: luôn luôn đứng giữa hai cánh cửa, đứng giữa một cuộc đời với
người sống và một cuộc đời với người chết, giữa sự siêu việt và nỗi khiếp đảm.
Bên kia căn phòng, Stormy gật đầu.
Trên ghế cầu kinh, một quyển kinh nhỏ chờ đợi vị linh mục quỳ
xuống cầu nguyện.
Chắc chắn những chai rượu ban thánh thể được cất ở một trong
các dãy tủ. Tôi có thể uống thứ nước giúp củng cố tinh thần đôi chút đó.
Tôi dựa sát cửa dẫn vào thánh đường để chống đỡ cánh cửa.
Khi mở khóa, chốt cửa gây ra tiếng động khẽ làm liên tưởng đến dao cạo mài trên
dây da.
Nếu Robertson đã sẵn sàng xộc vào tôi, chắc chắn gã phản
công với việc chốt cài rời khỏi ổ khóa gắn trên khung cửa. Tất nhiên gã ít nóng
vội và nhiều xảo quyệt hơn mức đã biểu lộ khi đứng trong nghĩa trang, vung ngón
tay về phía chúng tôi.
Chắc gã nghi ngờ tôi đang dùng thân người chèn cửa đóng và
tôi sẽ bật chốt cửa về vị trí đúng lúc gã cố xông vào phòng để đồ thờ. Điên
khùng nhưng dù sao gã cũng có trực giác của riêng mình.
Gã Bob Robertson để gian bếp luộm thuộm với chén đĩa bẩn, vỏ
chuối và vụn bánh vương vãi, không thể là nhà chiến lược khôn ngoan. Song gã
Robertson giữ phòng làm việc ngăn nắp và lưu trữ những tài liệu chi tiết trong
các ngăn tủ đầy khiếp đảm lại khác hẳn kẻ sở hữu căn phòng khách chứa toàn đống
tạp chí bậy bạ và mấy quyển tiểu thuyết đáng đọc.
Tôi không thể biết gã Bob Robertson nào đang đứng bên kia
cánh cửa vào lúc này.
Khi tôi liếc nhìn Stormy, nàng làm cử chỉ vừa tỏ ý “làm tiếp
đi” vừa có nghĩa “đồ dở hơi”.
Dựa người vào cửa với sự quả quyết không đổi, tôi xoay hẳn
quả đấm qua trái. Nó kêu cót két. Tôi sẽ kinh ngạc nếu nó không phát ra tiếng.
Tôi bỏ người ra và hé cửa nửa phân... một phân... rồi mở hẳn.
Nếu Robertson đứng chờ tại một trong hai lối dẫn vào phòng để
đồ thờ thì gã đang ở ngoài khu đất nhà thờ. Đứng trong sắc đỏ cuối ngày ngả màu
hung hung, chắc hẳn trông gã như thứ thuộc về bên dưới tấm bia bằng đá granit.
Stormy bước đi khỏi chỗ đang đứng. Chúng tôi nhanh chóng
cùng nhau trở lại thánh đường từ nơi chỉ mới hai phút trước, hai đứa còn rất
hăm hở muốn lẩn trốn.
Con bướm đêm nhảy múa giữa ngọn đèn và một lần nữa, Chúa như
trở mình trên cây thánh giá.
Hương trầm còn sót lại không thơm dịu như lúc nãy mà bốc mùi
nồng chưa từng có, những ngọn nến tế lễ rộn lên vẻ vội vã của nhiều đốm lửa
đang tụ lại sắp bùng lên.
Đi xuống hành lang nhà thờ, qua khỏi vị trí của đội hợp ca,
băng qua cánh cửa ở chỗ xưng tội, tôi nửa muốn nửa không muốn Robertson nhảy xổ
vào chúng tôi từ chỗ nấp không ngờ tới. Gã đã trở thành đối tượng mang đầy vẻ
đe dọa trong tâm trí tôi và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu gã buông mình xuống từ
mái vòm, thình lình có thêm đôi cánh, một ác quỷ dữ dằn mang cái chết trong từng
hơi thở.
Đang ở trong lối đi chính thì tiếng kính rơi vỡ loảng xoảng
cực lớn đã tống khứ sự tĩnh lặng của nhà thờ sau lưng chúng tôi. Hai đứa xoay
người, quan sát nhưng không thấy mảnh vụn nào.
Phòng để đồ thờ không có cửa sổ, và không có kính gắn trên
cánh cửa dẫn ra khu đất. Tuy nhiên căn phòng đó, nơi chúng tôi vừa rời khỏi, dường
như là điểm xuất phát của những âm thanh phá hoại kia. Chúng lại vang lên, to
hơn lúc trước.
Tôi nghe tiếng ghế dài đâm sầm vào tủ đựng lễ phục, tiếng những
chai rượu bị đập bể, tiếng cốc rượu lễ bằng bạc và những chén thánh khác dội ra
khỏi tường và các dãy tủ, vọng lại tiếng kim loại khua lách cách.
rong lúc gấp rút tẩu thoát, chúng tôi còn để đèn bật sáng
trong căn phòng đó. Giờ đây, qua cánh cửa để mở, có thể gián tiếp nhìn thấy
chuyển động: một mớ hỗn độn những cái bóng nhấp nhô và những tia sáng lờ mờ.
Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra và tôi không có ý định
quay lại phòng để đồ thờ để nhìn ngó. Nắm lại bàn tay của Stormy, tôi cùng nàng
chạy dọc theo lối đi chính giữa, suốt chiều dài gian giữa, qua cánh cửa ra tiền
sảnh.
Ra khỏi nhà thờ, xuống bậc tam cấp, chúng tôi chạy trốn
trong ánh chiều tà gần như đã đổ máu đến chết, chỉ còn chút ít sắc đỏ, và đã bắt
đầu kéo tấm vải tím rịm lên bao phủ đường phố thị trấn Pico Mundo.
Trong giây lát tôi không thể đút chiếc chìa khóa run rẩy vào
công tắc khởi động xe Mustang.
Stormy giục tôi nhanh lên, cứ như việc “nhanh lên” không phải
là ý định của tôi, cuối cùng chìa khóa cũng lọt vào khe và động cơ lại rền vang
hoạt động.
Để lại vết cao su khá rõ trước nhà thờ St. Bart, chúng tôi
phóng trên lốp bánh xe bốc khói qua một khu nhà rưỡi, nhanh đến mức gần như dịch
chuyển tức thời, sau đó tôi mới lấy hơi để nói, “Gọi cảnh sát trưởng”.
Nàng có điện thoại di động riêng và nàng nhấn số điện thoại
nhà của ông Wyatt Porter mà tôi cho. Nàng chờ đợi điện thoại reo và cất giọng,
“Chào bác, con Stormy đây,” lắng nghe rồi nói, “Dạ, nó nghe như dự báo thời tiết
phải không ạ. Odd cần nói chuyện với bác”.
Tôi cầm lấy điện thoại và tuôn một tràng, “Bác ơi, nếu bác
cho xe đến nhà thờ St. Bart thật nhanh, bác có thể tóm cả gã Robertson đang đập
phá phòng để đồ thờ, mà không chỉ phòng để đồ thờ, có lẽ toàn bộ nhà thờ”.
Ông ấy bảo tôi giữ máy và gọi cú điện thoại bên đường dây
khác.
Cách xa nhà thờ St. Bartholomew ba khu nhà, tôi tấp vào xe
Mustang vào một quán thức ăn nhanh hương vị Mêxicô.
- Ăn tối nhé? - tôi hỏi Stormy.
- Sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ ư?
Tôi nhún vai:
- Toàn bộ phần còn lại của cuộc sống chúng ta sẽ diễn ra sau
tất cả mọi chuyện trong nhà thờ. Về phía anh, anh định ăn trở lại, và sớm chừng
nào tốt chừng ấy.
- Nó sẽ không ngang bằng bữa tiệc trên tháp của em đâu.
- Chứ sao?
- Em đói chết đi được.
Cầm điện thoại áp vào tai và lái xe một tay như thể chuyện
đó vẫn hợp pháp, tôi ngoặt chiếc Mustang vào hàng xe cộ chờ chạy lên ô cửa bán
hàng.
Khi cảnh sát trưởng Porter trở lại, ông hỏi:
- Tại sao gã cố ý phá hoại nhà thờ St. Bart?
- Không có manh mối, bác à. Gã cố bẫy con và Stormy trong
tháp chuông nhà thờ...
- Các con làm gì trong tháp chuông?
- Dạ ăn ngoài trời.
- Bác cho rằng điều đó có ý nghĩa với con.
- Dạ phải. Thú vị lắm. Chúng con dùng bữa tối trên đó mỗi
tháng vài lần.
- Con trai à, bác không muốn lúc nào đó phải bắt hai đứa vì
tội ăn tối trên cột cờ trụ sở tòa án đâu đấy.
- Có lẽ chỉ món khai vị thôi bác, không bao giờ ăn tối cả.
- Nếu muốn ghé qua đây, hai bác vẫn có thể mời các con món
thịt nướng. Dẫn theo Elvis luôn.
- Con cho ông ấy xuống xe ở nhà thờ Baptist rồi bác. Con
đang đi với Stormy, xếp hàng mua bánh nhân thịt chiên giòn, nhưng dù sao con
cũng cảm ơn bác.
- Kể cho bác nghe về tên Robertson đi. Bác cử người đến canh
chừng ngôi nhà của gã ở Camp’s End, nhưng gã chưa về nhà.
Tôi nói:
- Gã ở nghĩa trang bên dưới, ngước nhìn chúng con trên tháp
chuông. Gã giơ tay khiếm nhã với chúng con rồi còn nhấn nhá nhiều lần và sau đó
đuổi theo chúng con.
- Con có nghĩ gã biết con đã vào nhà gã không? - cảnh sát
trưởng hỏi.
- Nếu gã chưa hề về nhà từ lúc con vào đó thì con không hiểu
làm cách nào gã biết được, nhưng chắc hẳn gã biết. Chờ con chút nhé bác.
Chúng tôi đến tấm bảng thực đơn.
- Bánh nhân thịt cá kiếm chiên giòn lấy nhiều salsa, [một loại
nước sốt đặc thù của người Mêhicô], bắp nướng và một ly coca lớn, - tôi nói với
con lừa đội mũ rộng vành đeo trên miệng micro để gọi thức ăn. Tôi nhìn sang
Stormy. Nàng gật đầu, - Lấy mỗi thứ hai phần.
- Con đang ở quán Mexicali Rose hả? - cảnh sát trưởng hỏi.
- Dạ phải.
- Họ có món churro ngon tuyệt. Con nên thử xem. [một loại
bánh rán dài của người Tây Ban Nha]
Tôi nghe lời khuyên của ông và đặt hai phần với con lừa, như
khi nãy, nó lên tiếng cảm ơn bằng giọng một thiếu nữ.
Khi dòng xe nhích lên, tôi nói:
- Lúc tụi con thoát khỏi tên Robertson trong nhà thờ, chắc hẳn
gã giận điên lên. Nhưng tại sao gã quyết định trút giận lên tòa nhà thì con
không biết.
- Hai chiếc xe đang trên đường đến St. Bart, không còi hụ.
Thậm chí giờ có lẽ xe đã đến nơi. Nhưng hành động phá hoại, nó không đạt tới nỗi
kinh hoàng mà con nói gã phạm phải.
- Dạ đúng. Chưa xong đâu. Và không đầy ba tiếng nữa sẽ sang
ngày mười lăm tháng Tám.
- Nếu người của bác có thể tống gã vào tù qua đêm vì tội phá
hoại thì chúng ta sẽ có cớ xen vào cuộc sống của gã. Có thể điều đó cho ta cơ hội
tìm ra việc to tát hơn mà gã định làm.
Sau khi chúc cảnh sát trưởng may mắn, tôi nhấn nút tắt và
đưa lại điện thoại cho Stormy.
Tôi nhìn đồng hồ. Nửa đêm, và ngày mười lăm tháng Tám, hệt một
cơn sóng thần, cao lớn như tòa nhà, đang đuổi theo chúng tôi với sức mạnh thầm
lặng nhưng chết người.
-----------
Còn tiếp.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét