Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 19, 20)

Giao lộ sinh tử

Tác giả: Dean Koontz  
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 19

Đi xuống, đi xuống, vòng qua rồi đi xuống, tôi dẫn đường và nàng theo sau. Chúng tôi gây ra quá nhiều tiếng ồn trên những bậc thang lát gạch Mehico, như vậy chắc chắn không thể nghe thấy Robertson nếu gã đang leo lên đây gặp chúng tôi.
Giữa chừng tôi băn khoăn liệu sự gấp rút này có phải phản ứng thái quá không. Rồi tôi nhớ đến nắm đấm đưa cao, ngón tay giơ lên, những bức ảnh trừng mắt nhìn trong phòng làm việc của gã.
Tôi phóng xuống nhanh hơn, vòng qua rồi vòng qua, không thể loại bỏ khỏi đầu óc hình ảnh gã đứng đợi bên dưới với con dao phay mà tôi có thể lao mình xuyên vào nó trước khi kịp đứng lại.
Xuống đến chân cầu thang mà không đụng độ gã, hai đứa tôi thấy cửa dưới này không khóa.
Tôi thận trọng mở cửa ra.
Trái với ý nghĩ của tôi, gã không đợi chúng tôi trong tiền sảnh tỏa sáng nhẹ dịu.
Khi đi xuống cầu thang, tôi đã buông tay Stormy ra. Giờ tôi nắm lại để giữ nàng gần bên.
Mở phần giữa của cánh cửa ba gian, tôi thấy Robertson đang từ vỉa hè leo lên những bậc tam cấp của nhà thờ. Tuy không đua nhanh về phía tôi nhưng gã phóng đến với trạng thái hùng hổ không gì ngăn được như chiếc xe tăng băng qua chiến trường.
Trong ánh sáng đỏ thẫm như trong sách Khải huyền, tôi thấy nụ cười lúc trước làm sởn gai ốc nhưng còn đáng tin của gã đã lụi tắt. Đôi mắt xám nhợt nhạt vay mượn sắc đỏ như máu của hoàng hôn và khuôn mặt gã méo mó thành nút thắt của cơn phẫn nộ đằng đằng sát khí.
Chiếc Mustang của cô Terri đậu ngoài lề đường. Tôi không thể ra tới ngoài xe mà không chạm mặt Robertson.
Tôi sẽ chiến đấu khi cần chiến đấu, chống lại những địch thủ có thể khiến tôi hao mòn sức lực, nếu tôi buộc phải làm vậy. Nhưng cơ thể tôi xung đột với kế sách đầu tiên và cả vấn đề về nguyên tắc sai lầm.
Tôi không dương dương tự đắc mà tôi thích khuôn mặt mình như nó vốn thế. Tôi càng không thích nó bị đập.
Robertson cao lớn hơn tôi nhưng ẻo lả. Giả sử cơn giận của gã là của một người đàn ông bình thường, được bơm căng lên nhiều nhờ rượu bia, tôi đã đối đầu và tự tin hạ gục gã. Thế nhưng đây lại là kẻ mất trí, một đối tượng mê hoặc bọn ông kẹ, một kẻ tôn thờ đám sát thủ liên hoàn và thảm sát hàng loạt. Tôi buộc phải nghĩ gã có mang theo súng, dao và đến giữa cuộc ẩu đả, biết đâu gã lại cắn xé như chó.
Chắc Stormy sẽ cố đá đít gã, một phản ứng không mấy xa lạ với nàng, nhưng tôi không cho nàng lựa chọn đó. Từ lối vào quay vô, tôi vội nắm tay nàng và cố kéo nàng qua một trong những cánh cửa nằm giữa đại sảnh với gian giữa của giáo đường.
Trong nhà thờ vắng vẻ, những dãy đèn thấp soi rọi lối đi chính giữa. Cây thánh giá khổng lồ phía sau bệ thờ rực sáng trong ánh đèn dịu nhẹ từ trên tỏa xuống. Lửa lung linh trong những chiếc ly thủy tinh đỏ thẫm đặt trên giá nến tế lễ.
Những đốm lửa cùng màu hoàng hôn đỏ đang nhạt dần phía sau dãy cửa sổ kính màu trên bờ tường phía tây không thể đẩy lùi sự tụ tập của bóng tối đã lấp đầy hàng ghế và lối đi hai bên.
Chúng tôi vội vã chạy xuống lối đi chính giữa, chờ tên Robertson lên cơn như trâu điên từ ngoài tiền sảnh xông qua một trong những cánh cửa. Đến chỗ xưng tội mà không nghe thấy gì, hai đứa tôi dừng chân quay lại.
Theo những gì tôi thấy, Robertson chưa đến. Nếu đã vào gian giữa, chắc chắn gã đi ngay sau chúng tôi, dọc theo lối đi chính giữa.
Tuy lập luận trái với linh cảm, và không có bằng chứng xác nhận nhưng tôi vẫn ngỡ rằng gã đang ở cùng chúng tôi. Cánh tay sởn gai ốc khiến tôi nghĩ mình trở thành loài kêu quàng quạc, chân có màng và người bao phủ toàn lông.
Bản năng của Stormy cũng giống hệt tôi. Quan sát bóng tối nhân rộng ra trên hàng ghế, lối đi và dãy cột, nàng thì thào:
- Hắn ở gần hơn anh nghĩ. Hắn rất gần.
Tôi đẩy mở cánh cửa nhỏ tại chỗ xưng tội. Chúng tôi bước vào, di chuyển hầu như hoàn toàn lặng thinh, không muốn át đi bất cứ âm thanh nào của việc Robertson tiến đến gần.
Khi chúng tôi qua khỏi vị trí của đội hợp ca và đi lên hành lang nhà thờ, hướng đến bệ thờ cao, tôi bớt liếc nhìn ra sau mà tiến tới thận trọng hơn. Không hiểu sao, trái ngược với cái đầu, trái tim tôi mách bảo nguy hiểm đang nằm phía trước.
Kẻ theo đuổi kia không thể lén lút xung quanh mà chúng tôi không nhìn thấy. Vả lại, không lý do gì gã làm thế thay vì tấn công trực tiếp.
Tuy thế, với mỗi bước đi, sự căng thẳng gia tăng trong những sợi cơ sau gáy đến khi chúng cứng đờ như dây cót đồng hồ.
Thoáng thấy một chuyển động lướt qua bệ thờ, tôi giật bắn người nhìn về phía đó, kéo Stormy gần kề hơn. Tay nàng bấu tay tôi chặt hơn lúc nãy.
Tượng Chúa bằng đồng đóng đinh trên cây thánh giá xê dịch, như thể kim loại đã biến đổi một cách thần kỳ thành da thịt, như thể Ngài sẽ rời khỏi cây thánh giá và bước xuống tiếp tục kiếp cứu thế trần tục.
Một con bướm đêm lớn mang đôi cánh trang trí kiểu vỏ sò bay ra khỏi mặt kính nóng rực của ngọn đèn gắn phía trên. Ảo giác về sự chuyển động do cái bóng dập dờn được phóng đại của con côn trùng kia tạo nên bức tượng bằng đồng lập tức được xua tan.
Chìa khóa mở cánh cửa dẫn lên tháp của Stormy cũng mở được cánh cửa phía sau thánh đường. Trong đó là phòng để đồ thờ, nơi linh mục vào để chuẩn bị sẵn sàng trước mỗi buổi lễ Mass.
Tôi ngoái nhìn thánh đường, gian giữa. Lặng như tờ. Không khí yên tĩnh trừ cái bóng chấp chới của con bướm đêm.
Sau khi dùng và trả lại chìa khóa cho Stormy, tôi run run đẩy cánh cửa lợp ván theo hướng ngược vào trong.
Nỗi sợ hãi khác thường này không hề có nền tảng nào dự trên lí trí hết. Robertson đâu phải ảo thuật gia có khả năng làm trò xuất hiện bên trong một căn phòng đã bị khóa.
Vậy mà tim tôi chơi trò đập-bình-bịch-và-run-lẩy-bẩy với xương sườn.
Khi sờ soạng tìm công tắc bật đèn, tay tôi không bị ghim dính vào tường bởi dao găm hay cái rìu. Ngọn đèn trên đầu để lộ ra căn phòng nhỏ đơn sơ chứ không phải một tên tâm thần to xác có bộ tóc vàng như ụ đất bị xới tung.
Bên trái đặt ghế cầu kinh, nơi linh mục quỳ cầu nguyện riêng trước khi đọc kinh trong lễ Mass. Bên phải là dãy tủ đựng chén thánh, lễ phục và một ghế dài.
Stormy đóng cửa thánh đường sau lưng hai đứa và gài chốt cửa.
Chúng tôi nhanh chóng băng qua căn phòng đến cánh cửa dẫn ra khỏi phòng để đồ thờ. Tôi biết ngoài đó là khu đất phía đông không có bia mộ và một con đường lát đá dẫn đến nhà của linh mục, nơi bác Stormy sống.
Cánh cửa này cũng được khóa.
Từ bên trong phòng để đồ thờ có thể mở khóa mà không cần đến chìa. Tôi nắm chặt chốt cửa... và do dự.
Biết đâu chúng tôi không nghe thấy Robertson từ tiền sảnh tiến vào gian giữa chỉ vì một lý do đơn giản, gã không hề đi vào cổng chính nhà thờ sau khi tôi thoáng thấy gã leo lên mấy bậc tam cấp.
Và biết đâu, đoán được chúng tôi sẽ cố chuồn ra từ phía sau nhà thờ nên gã đã đánh một vòng quanh nhà thờ, chờ chúng tôi bên ngoài phòng để đồ thờ. Điều này lý giải tại sao tôi có cảm giác chúng tôi đang hướng đến nguy hiểm hơn là lùi xa nó.
- Sao vậy? - Stormy hỏi.
Tôi suỵt nàng im lặng, một sai lầm trầm trọng trong mọi tình huống, trừ lúc này, và nghe ngóng ở khe hở giữa cánh cửa với thanh dọc. Âm thanh cực khẽ của một làn gió ấm khiến tai tôi nhột nhột những không còn tiếng gì khác ngoài kia.
Tôi chờ đợi. Tôi lắng nghe. Tôi càng lúc càng thêm băn khoăn.
Bước lùi xa cánh cửa dẫn ra ngoài, tôi thì thầm với Stormy:
- Trở lại theo đường dẫn mình đến đây.
Hai đứa tôi quay lại cánh cửa giữa phòng để đồ thờ với thánh đường mà nàng đã khóa khi chúng tôi rời đi. Nhưng tôi lại do dự khi đặt tay lên chốt.
Áp tai lên khe hở giữa cánh cửa với thanh dọc, tôi lắng nghe tình hình trong nhà thờ. Không cơn gió trêu đùa nào xoáy vào lỗ tai, cũng không âm thanh rón rén mách nước nào tới tai tôi.
Cả hai cánh cửa của phòng để đồ thờ đều được khóa từ bên trong. Để tóm được chúng tôi, Robertson cần chìa khóa, thứ gã không có.
- Chúng mình sẽ không đợi ở đây đến buổi lễ Mass sáng mai đâu, - Stormy lên tiếng như thể nàng có khả năng nắm hết những suy nghĩ của tôi dễ dàng như đọc tài liệu trên máy tính.
Điện thoại di động của tôi kẹp ở thắt lưng. Tôi có thể dùng nó gọi cho cảnh sát trưởng Porter và trình bày tình hình với ông ấy.
Song có khả năng Bob Robertson đã mất tinh thần khi suy nghĩ lại về mức độ sáng suốt của việc tấn công tôi ở một nơi công cộng như nhà thờ đây, cho dù lúc này không con chiên hay nhân chứng nào có mặt. Nguôi bớt cơn giận lồng lộn, có thể gã đã bỏ đi.
Nếu cảnh sát trưởng phái xe tuần tra tới nhà thờ St. Bart hay đích thân ông đến mà không tìm thấy tên điên hớn hở nào, uy tín của tôi sẽ lung lay. Qua nhiều năm, tôi đã gửi gắm thiện ý của mình vào chỗ ông Wyatt Porter đủ để có thể rút lại một hai lần nhưng tôi không thích làm vậy chút nào.
Bản chất con người muốn tin vào tài năng phi thường của ảo thuật gia, nhưng họ cũng trở mặt và khinh thường khi anh ta phạm một lỗi thật nhỏ nhặt làm lộ màn gian lận. Những ai ngồi dưới hàng ghế khán giả sẽ cảm thấy ngượng ngùng khi để bị qua mặt quá dễ dàng, và họ sẽ đổ thừa sự cả tin của mình là do lỗi của người trình diễn.
Tuy tôi không có đôi tay khéo léo để làm trò ảo thuật, tuy những gì tôi nói ra đều là sự thật mà năng lực siêu phàm muốn nói lờ mờ, nhưng tôi không chỉ hiểu tình trạng dễ bị công kích của ảo thuật gia mà còn nắm rõ mối nguy hiểm khi trở thành anh chàng hét toáng báo động về chó sói, hay trong trường hợp này là anh chàng hét toáng báo động về Gã Nấm.
Hầu hết mọi người cực kỳ khao khát muốn tin rằng họ là một phần trong bí ẩn to lớn, rằng được tạo ra là việc vinh dự và vẻ vang, không đơn thuần là kết quả của việc va đụng ngẫu nhiên giữa hai phía. Thế mà mỗi lần chỉ mới có một lý do để nghi ngờ, con sâu trong trái táo nơi quả tim đã khiến họ làm ngơ cả ngàn bằng chứng về phép lạ, rồi sau đó họ như bợm rượu lên cơn khát hoài nghi, và họ gặm nhấm nỗi tuyệt vọng như kẻ đói rã rời ngấu nghiến ổ bánh mì.
Là một người kỳ lạ, tôi đang đi trên sợi dây cao vợi, cao đến mức không thể bước hụt chân mà có thể sống sót.
Cảnh sát trưởng Porter tốt bụng nhưng ông là một người bình thường. Ông sẽ trì hoãn việc trở mặt với tôi nhưng nếu hơn một lần, tôi khiến ông cảm thấy ông thật ngốc nghếch và khờ dại thì chuyện trở mặt chắc chắn xảy ra.
Tôi có thể dùng điện thoại di động gọi cho cha Sean, bác của Stormy, trong nhà của linh mục. Ông ấy sẽ đến cứu giúp chúng tôi không chút chậm trễ và không đặt quá nhiều câu hỏi khó xử.
Song Robertson là quái thú đội lốt người chứ không thuộc dòng dõi siêu phàm. Nếu đang ẩn nấp trong khu đất nhà thờ, gã sẽ không giảm bớt tính hung tàn bởi nhìn thấy bóng dáng người theo đạo hay cây thánh giá giơ lên.
Đã đưa Stormy vào tình cảnh ngặt nghèo, tôi lập tức chùn bước trước ý nghĩ gây nguy hiểm cho cả bác của nàng.
Hai cánh cửa của phòng để đồ thờ. Một cửa dẫn ra ngoài khu đất nhà thờ. Một cửa dẫn vào trong thánh đường.
Không nghe thấy gì ở cả hai cửa, tôi phải nhờ đến trực giác. Tôi chọn cánh cửa trở vào thánh đường.
Hình như trực giác nhanh nhạy của Stormy chưa ngưng nghỉ khi nào. Nàng đặt tay lên tay tôi khi tôi nắm chặt khóa cửa.
Mắt chúng tôi gặp nhau trong chốc lát. Sau đó hai đứa quay đầu nhìn chằm chằm vào cánh cửa.
Đó là lúc tấm thẻ chúng tôi rút ra từ chiếc máy bói toán trong lễ hội và vết bớt xứng nhau của hai đứa có ý nghĩa không thể chối cãi.
Không trao đổi lời nào, chúng tôi đi đến kế hoạch mà cả hai đều đã hiểu. Tôi vẫn đứng ở cửa dẫn vào thánh đường. Stormy quay lại cánh cửa dẫn ra khu đất.
Nếu tôi mở cửa này, Robertson nhào vào tấn công, Stormy sẽ tung cửa kia lao ra ngoài kêu la cầu cứu. Tôi sẽ cố gắng chạy theo nàng, và sống sót.

Chương 20

Khoảnh khắc trong phòng để đồ thờ tiết ra bản chất toàn bộ cuộc sống của tôi: luôn luôn đứng giữa hai cánh cửa, đứng giữa một cuộc đời với người sống và một cuộc đời với người chết, giữa sự siêu việt và nỗi khiếp đảm.
Bên kia căn phòng, Stormy gật đầu.
Trên ghế cầu kinh, một quyển kinh nhỏ chờ đợi vị linh mục quỳ xuống cầu nguyện.
Chắc chắn những chai rượu ban thánh thể được cất ở một trong các dãy tủ. Tôi có thể uống thứ nước giúp củng cố tinh thần đôi chút đó.
Tôi dựa sát cửa dẫn vào thánh đường để chống đỡ cánh cửa. Khi mở khóa, chốt cửa gây ra tiếng động khẽ làm liên tưởng đến dao cạo mài trên dây da.
Nếu Robertson đã sẵn sàng xộc vào tôi, chắc chắn gã phản công với việc chốt cài rời khỏi ổ khóa gắn trên khung cửa. Tất nhiên gã ít nóng vội và nhiều xảo quyệt hơn mức đã biểu lộ khi đứng trong nghĩa trang, vung ngón tay về phía chúng tôi.
Chắc gã nghi ngờ tôi đang dùng thân người chèn cửa đóng và tôi sẽ bật chốt cửa về vị trí đúng lúc gã cố xông vào phòng để đồ thờ. Điên khùng nhưng dù sao gã cũng có trực giác của riêng mình.
Gã Bob Robertson để gian bếp luộm thuộm với chén đĩa bẩn, vỏ chuối và vụn bánh vương vãi, không thể là nhà chiến lược khôn ngoan. Song gã Robertson giữ phòng làm việc ngăn nắp và lưu trữ những tài liệu chi tiết trong các ngăn tủ đầy khiếp đảm lại khác hẳn kẻ sở hữu căn phòng khách chứa toàn đống tạp chí bậy bạ và mấy quyển tiểu thuyết đáng đọc.
Tôi không thể biết gã Bob Robertson nào đang đứng bên kia cánh cửa vào lúc này.
Khi tôi liếc nhìn Stormy, nàng làm cử chỉ vừa tỏ ý “làm tiếp đi” vừa có nghĩa “đồ dở hơi”.
Dựa người vào cửa với sự quả quyết không đổi, tôi xoay hẳn quả đấm qua trái. Nó kêu cót két. Tôi sẽ kinh ngạc nếu nó không phát ra tiếng.
Tôi bỏ người ra và hé cửa nửa phân... một phân... rồi mở hẳn.
Nếu Robertson đứng chờ tại một trong hai lối dẫn vào phòng để đồ thờ thì gã đang ở ngoài khu đất nhà thờ. Đứng trong sắc đỏ cuối ngày ngả màu hung hung, chắc hẳn trông gã như thứ thuộc về bên dưới tấm bia bằng đá granit.
Stormy bước đi khỏi chỗ đang đứng. Chúng tôi nhanh chóng cùng nhau trở lại thánh đường từ nơi chỉ mới hai phút trước, hai đứa còn rất hăm hở muốn lẩn trốn.
Con bướm đêm nhảy múa giữa ngọn đèn và một lần nữa, Chúa như trở mình trên cây thánh giá.
Hương trầm còn sót lại không thơm dịu như lúc nãy mà bốc mùi nồng chưa từng có, những ngọn nến tế lễ rộn lên vẻ vội vã của nhiều đốm lửa đang tụ lại sắp bùng lên.
Đi xuống hành lang nhà thờ, qua khỏi vị trí của đội hợp ca, băng qua cánh cửa ở chỗ xưng tội, tôi nửa muốn nửa không muốn Robertson nhảy xổ vào chúng tôi từ chỗ nấp không ngờ tới. Gã đã trở thành đối tượng mang đầy vẻ đe dọa trong tâm trí tôi và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu gã buông mình xuống từ mái vòm, thình lình có thêm đôi cánh, một ác quỷ dữ dằn mang cái chết trong từng hơi thở.
Đang ở trong lối đi chính thì tiếng kính rơi vỡ loảng xoảng cực lớn đã tống khứ sự tĩnh lặng của nhà thờ sau lưng chúng tôi. Hai đứa xoay người, quan sát nhưng không thấy mảnh vụn nào.
Phòng để đồ thờ không có cửa sổ, và không có kính gắn trên cánh cửa dẫn ra khu đất. Tuy nhiên căn phòng đó, nơi chúng tôi vừa rời khỏi, dường như là điểm xuất phát của những âm thanh phá hoại kia. Chúng lại vang lên, to hơn lúc trước.
Tôi nghe tiếng ghế dài đâm sầm vào tủ đựng lễ phục, tiếng những chai rượu bị đập bể, tiếng cốc rượu lễ bằng bạc và những chén thánh khác dội ra khỏi tường và các dãy tủ, vọng lại tiếng kim loại khua lách cách.
rong lúc gấp rút tẩu thoát, chúng tôi còn để đèn bật sáng trong căn phòng đó. Giờ đây, qua cánh cửa để mở, có thể gián tiếp nhìn thấy chuyển động: một mớ hỗn độn những cái bóng nhấp nhô và những tia sáng lờ mờ.
Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra và tôi không có ý định quay lại phòng để đồ thờ để nhìn ngó. Nắm lại bàn tay của Stormy, tôi cùng nàng chạy dọc theo lối đi chính giữa, suốt chiều dài gian giữa, qua cánh cửa ra tiền sảnh.
Ra khỏi nhà thờ, xuống bậc tam cấp, chúng tôi chạy trốn trong ánh chiều tà gần như đã đổ máu đến chết, chỉ còn chút ít sắc đỏ, và đã bắt đầu kéo tấm vải tím rịm lên bao phủ đường phố thị trấn Pico Mundo.
Trong giây lát tôi không thể đút chiếc chìa khóa run rẩy vào công tắc khởi động xe Mustang.
Stormy giục tôi nhanh lên, cứ như việc “nhanh lên” không phải là ý định của tôi, cuối cùng chìa khóa cũng lọt vào khe và động cơ lại rền vang hoạt động.
Để lại vết cao su khá rõ trước nhà thờ St. Bart, chúng tôi phóng trên lốp bánh xe bốc khói qua một khu nhà rưỡi, nhanh đến mức gần như dịch chuyển tức thời, sau đó tôi mới lấy hơi để nói, “Gọi cảnh sát trưởng”.
Nàng có điện thoại di động riêng và nàng nhấn số điện thoại nhà của ông Wyatt Porter mà tôi cho. Nàng chờ đợi điện thoại reo và cất giọng, “Chào bác, con Stormy đây,” lắng nghe rồi nói, “Dạ, nó nghe như dự báo thời tiết phải không ạ. Odd cần nói chuyện với bác”.
Tôi cầm lấy điện thoại và tuôn một tràng, “Bác ơi, nếu bác cho xe đến nhà thờ St. Bart thật nhanh, bác có thể tóm cả gã Robertson đang đập phá phòng để đồ thờ, mà không chỉ phòng để đồ thờ, có lẽ toàn bộ nhà thờ”.
Ông ấy bảo tôi giữ máy và gọi cú điện thoại bên đường dây khác.
Cách xa nhà thờ St. Bartholomew ba khu nhà, tôi tấp vào xe Mustang vào một quán thức ăn nhanh hương vị Mêxicô.
- Ăn tối nhé? - tôi hỏi Stormy.
- Sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ ư?
Tôi nhún vai:
- Toàn bộ phần còn lại của cuộc sống chúng ta sẽ diễn ra sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ. Về phía anh, anh định ăn trở lại, và sớm chừng nào tốt chừng ấy.
- Nó sẽ không ngang bằng bữa tiệc trên tháp của em đâu.
- Chứ sao?
- Em đói chết đi được.
Cầm điện thoại áp vào tai và lái xe một tay như thể chuyện đó vẫn hợp pháp, tôi ngoặt chiếc Mustang vào hàng xe cộ chờ chạy lên ô cửa bán hàng.
Khi cảnh sát trưởng Porter trở lại, ông hỏi:
- Tại sao gã cố ý phá hoại nhà thờ St. Bart?
- Không có manh mối, bác à. Gã cố bẫy con và Stormy trong tháp chuông nhà thờ...
- Các con làm gì trong tháp chuông?
- Dạ ăn ngoài trời.
- Bác cho rằng điều đó có ý nghĩa với con.
- Dạ phải. Thú vị lắm. Chúng con dùng bữa tối trên đó mỗi tháng vài lần.
- Con trai à, bác không muốn lúc nào đó phải bắt hai đứa vì tội ăn tối trên cột cờ trụ sở tòa án đâu đấy.
- Có lẽ chỉ món khai vị thôi bác, không bao giờ ăn tối cả.
- Nếu muốn ghé qua đây, hai bác vẫn có thể mời các con món thịt nướng. Dẫn theo Elvis luôn.
- Con cho ông ấy xuống xe ở nhà thờ Baptist rồi bác. Con đang đi với Stormy, xếp hàng mua bánh nhân thịt chiên giòn, nhưng dù sao con cũng cảm ơn bác.
- Kể cho bác nghe về tên Robertson đi. Bác cử người đến canh chừng ngôi nhà của gã ở Camp’s End, nhưng gã chưa về nhà.
Tôi nói:
- Gã ở nghĩa trang bên dưới, ngước nhìn chúng con trên tháp chuông. Gã giơ tay khiếm nhã với chúng con rồi còn nhấn nhá nhiều lần và sau đó đuổi theo chúng con.
- Con có nghĩ gã biết con đã vào nhà gã không? - cảnh sát trưởng hỏi.
- Nếu gã chưa hề về nhà từ lúc con vào đó thì con không hiểu làm cách nào gã biết được, nhưng chắc hẳn gã biết. Chờ con chút nhé bác.
Chúng tôi đến tấm bảng thực đơn.
- Bánh nhân thịt cá kiếm chiên giòn lấy nhiều salsa, [một loại nước sốt đặc thù của người Mêhicô], bắp nướng và một ly coca lớn, - tôi nói với con lừa đội mũ rộng vành đeo trên miệng micro để gọi thức ăn. Tôi nhìn sang Stormy. Nàng gật đầu, - Lấy mỗi thứ hai phần.
- Con đang ở quán Mexicali Rose hả? - cảnh sát trưởng hỏi.
- Dạ phải.
- Họ có món churro ngon tuyệt. Con nên thử xem. [một loại bánh rán dài của người Tây Ban Nha]
Tôi nghe lời khuyên của ông và đặt hai phần với con lừa, như khi nãy, nó lên tiếng cảm ơn bằng giọng một thiếu nữ.
Khi dòng xe nhích lên, tôi nói:
- Lúc tụi con thoát khỏi tên Robertson trong nhà thờ, chắc hẳn gã giận điên lên. Nhưng tại sao gã quyết định trút giận lên tòa nhà thì con không biết.
- Hai chiếc xe đang trên đường đến St. Bart, không còi hụ. Thậm chí giờ có lẽ xe đã đến nơi. Nhưng hành động phá hoại, nó không đạt tới nỗi kinh hoàng mà con nói gã phạm phải.
- Dạ đúng. Chưa xong đâu. Và không đầy ba tiếng nữa sẽ sang ngày mười lăm tháng Tám.
- Nếu người của bác có thể tống gã vào tù qua đêm vì tội phá hoại thì chúng ta sẽ có cớ xen vào cuộc sống của gã. Có thể điều đó cho ta cơ hội tìm ra việc to tát hơn mà gã định làm.
Sau khi chúc cảnh sát trưởng may mắn, tôi nhấn nút tắt và đưa lại điện thoại cho Stormy.
Tôi nhìn đồng hồ. Nửa đêm, và ngày mười lăm tháng Tám, hệt một cơn sóng thần, cao lớn như tòa nhà, đang đuổi theo chúng tôi với sức mạnh thầm lặng nhưng chết người.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét