Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Giao lộ sinh tử - (Chương 29, 30)

Giao lộ sinh tử

Tác giả: Dean Koontz  
Người dịch: Xuân Các
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tháng 4, năm 2011

Chương 29

Theo tấm bảng điện tử to đùng ở ngân hàng Hoa Kỳ thì nhiệt độ đã giảm xuống mức chín mươi độ, [90 độ F = khoảng 35 độ C], tương đối lạnh vào lúc nửa đêm, khi những cán chổi được phép lia qua lia lại.
Một cơn gió nhẹ lười nhác lay động khắp thị trấn, ngừng thổi rồi lại nổi lên hết lần này đến lần khác, như thể trí nhớ kém đã hạn chế khả năng hoạt động của các vị thần gió. Nóng và khô, ngọn gió bay xào xạc từng đợt nhanh gọn qua những nhánh cây sung, cây cọ và dạ hương lan.
Đường phố thị trấn Pico Mundo thật yên tĩnh. Khi lặng gió, tôi có thể nghe thấy tiếng lách cách của những công tắc trong hộp điều khiển tín hiệu giao thông lúc đèn chuyển từ xanh sang vàng rồi sang đỏ ở các giao lộ.
Trong lúc đi bộ về căn hộ của Stormy hai đứa vẫn cảnh giác, sợ Bob Robertson bất chợt nhảy bổ từ phía sau một chiếc xe đang đậu ra giữa đường như hình nộm trong hộp đồ chơi gắn lò xo.
Ngoài những chiếc lá được gió lướt qua, chuyển động duy nhất là sự lao ra của bầy dơi đuổi theo cơn mưa bướm đêm qua ánh sáng đèn đường, lên mặt trăng và rồi vượt qua ngôi sao Cassiopeia.
Stormy sống cách Quán Vỉ nướng Pico Mundo ba khu nhà. Chúng tôi nắm tay đi trong im lặng.
Hướng giải quyết mà tôi đã lập ra không thể thay đổi. Dù phản đối nhưng nàng cũng như tôi đều biết rằng tôi không có chọn lựa nào khác ngoài việc làm bất cứ điều gì có thể giúp cảnh sát trưởng Porter chặn đứng gã Robertson trước khi gã tiến hành cái cuộc tàn sát thấm đẫm vào những giấc mơ của tôi suốt ba năm qua.
Bất cứ điều gì có thể nói về chủ đề này giờ đã trở thành vô ích. Và tại đây vào lúc một bình minh đầy đe dọa chưa ló dạng, chuyện phiếm chẳng có gì hay ho.
Ngôi nhà cũ hai tầng kiểu thời Victoria được chia thành bốn căn hộ. Stormy sống trong căn hộ tầng trệt bên phải.
Hai đứa tôi không mong Robertson đang đợi ở đó. Tuy bằng cách nào đó gã đã biết tôi là ai nhưng điều đó không giúp gã dễ dàng khám phá ra địa chỉ nhà Stormy.
Nếu gã đang ẩn nấp chờ tôi thì căn hộ tôi ở trên ga-ra của bà Rosalia Sanchez chứa nhiều khả năng hơn chỗ của Stormy.
Tuy nhiên với tính thận trọng, hai đứa tôi cẩn thận bước vào hành lang và căn hộ của nàng. Bên trong, không khí mát mẻ thoang thoảng hương đào. Chúng tôi bỏ lại sa mạc Mojave xa đằng sau khi đóng cửa lại.
Nhà nàng có ba phòng, một phòng tắm và một gian bếp. Bật đèn sáng, chúng tôi đi thẳng đến phòng ngủ, nơi nàng cất khẩu súng 9 ly.
Nàng mở ổ đạn, kiểm tra để chắc rằng đạn đã nạp đủ rồi đóng ổ đạn vào súng một cái “tách”.
Tôi cảnh giác với mọi cây súng, vào mọi lúc, ở mọi nơi, trừ khi nó nằm trong tay Stormy. Nàng có thể ngồi đặt ngón tay lên nút khai hỏa của vũ khí hạt nhân mà tôi vẫn thấy an toàn đủ để đánh một giấc.
Lướt qua cửa sổ chúng tôi thấy cửa vẫn khóa như nàng rời nhà.
Không có ông ba bị nào trốn trong tủ quần áo.
Trong lúc Stormy đánh răng và thay quần áo, tôi gọi điện đến Green Moon Lanes nghe đoạn ghi âm thông báo về giờ giấc, dịch vụ và giá cả. Ở đó mở cửa kinh doanh vào mười một giờ sáng từ thứ Năm đến Chủ nhật và một giờ chiều từ thứ Hai đến thứ Tư.
Thời điểm sớm nhất Robertson có thể bước vào trung tâm bowling với ý nghĩ tàn sát là khi họ mở cửa vào lúc một giờ.
Hai cụm rạp chiếu phim với tổng cộng hai mươi rạp phục vụ cho vùng thị trấn Pico Mundo rộng lớn hơn. Qua điện thoại, tôi được biết bộ phim chị Viola định dẫn hai con đi xem chiếu ở hai rạp trong duy nhất một cụm rạp. Tôi ghi nhớ giờ chiếu phim trong đầu, suất sớm nhất vào một giờ mười phút chiều.
Tại phòng ngủ, tôi giũ giường, cởi giày và nằm dài trên tấm chăn mỏng chờ Stormy.
Nàng sắm sửa cho ngôi nhà nhỏ bé những vật dụng mua từ các cửa hàng giá rẻ của Hội từ thiện và Đội quân cứu tế; nhưng vẻ ngoài của chúng không hề sờn rách hay thiếu nét đặc sắc. Nàng có tài trang trí đa dạng và thấy được sức hấp dẫn trong những món đồ mà người khác có thể cho là cũ rích hay kỳ cục, hoặc thậm chí lố bịch.
Những cây đèn đứng có chụp đèn bằng vải lụa kết chuỗi tua rua, ghế theo phong cách Stickley ghép đôi với ghế gác chân to tròn kiểu thời Victoria bọc trong thảm thêu, tranh Maxfield Parrish [Họa sĩ Mỹ,1870-1966], những lọ hoa bằng thủy tinh carnival và đồ mỹ nghệ đủ màu: sự pha trộn lẽ ra không hề ăn nhập với nhau, vậy mà lại hài hòa. Các căn phòng của nàng là nơi thú vị nhất mà tôi từng thấy.
Thời gian như ngừng lại ở nơi đây.
Trong căn phòng này tôi thấy thật thanh thản. Tôi quên bẵng những âu lo. Vấn đề về bánh kếp và yêu tinh trôi tuột khỏi người tôi.
Ở đây tôi không thể bị hại.
Ở đây tôi biết định mệnh của mình và toại nguyện với điều đó.
Ở đây - nơi Stormy sống, và nàng sống ở đâu, nơi đó khiến tôi cảm thấy tràn đầy sinh lực.
Trên đầu giường, phía sau miếng kính trong cái khung là tấm thẻ từ chiếc máy bói toán: CÁC CON ĐƯỢC AN BÀI BÊN NHAU MÃI MÃI.
Bốn năm về trước tại hội chợ của hạt có một cái máy lòe loẹt mang tên Xác ướp Gypsy đứng chờ ở góc khuất trong cùng của căn lều mái vòm đầy ắp những cuộc chơi đặc sắc và những trò rùng rợn.
Cái máy giống buồng điện thoại kiểu cũ và cao hơn hai mét. Một mét dưới thấp hoàn toàn kín mít. Hơn một mét nằm phía trên gắn kính cả ba bề.
Trong phần gắn kính là một hình thù phụ nữ nhỏ xíu đang ngồi, mặc trang phục dân Gypsy với đủ bộ nữ trang chói lóa và khăn trùm đầu sặc sỡ. Đôi tay xương xẩu, quắt queo của bà ta đặt lên đùi và màu xanh lá cây trên móng tay trông giống nấm mốc hơn nước sơn.
Tấm biển dưới chân bà ta khẳng định đây là xác người lùn Gypsy đã được ướp. Tại châu Âu thế kỷ mười tám, bà lừng danh vì độ chính xác của những điềm báo và lời tiên đoán.
Lớp da lốm đốm trên khuôn mặt bà ta duỗi căng bao trùm hộp sọ. Mi mắt được khâu khép kín lại bằng chỉ đen, môi cũng vậy.
Rất nhiều khả năng đây không phải tài nghệ của Tử thần thể hiện trên da thịt như đã khẳng định, mà là sản phẩm của một nghệ sĩ khéo léo với thạch cao, giấy và nhựa.
Khi Stormy và tôi đến chỗ Xác ướp Gypsy, một cặp đôi khác đã nhét đồng hai mươi lăm xu vào máy. Cô gái chồm lên lỗ tròn trên tấm kính và hỏi lớn: “Xác ướp Gypsy xin nói cho chúng con biết, liệu cuộc hôn nhân của Johnny và con có hạnh phúc lâu dài không?”
Anh chàng hiển nhiên là Johnny nhấn nút TRẢ LỜI và một tấm thẻ rơi xuống cái máng bằng đồng. Anh đọc lớn:
“Một cơn gió lạnh thổi và mỗi đêm dường như dài cả ngàn năm”.  
Cả Johnny lẫn cô vợ sắp cưới của anh ta đều không coi đó là đáp án cho câu hỏi của họ, thế nên họ làm lại. Anh chàng đọc lớn tấm thẻ thứ hai:
“Kẻ ngốc nhảy khỏi vách đá nhưng mặt hồ mùa đông bên dưới đã đóng băng”.
Cô gái tin rằng Xác ướp Gypsy nghe nhầm câu hỏi nên lặp lại: “Liệu cuộc hôn nhân của Johnny và con có hạnh phúc lâu dài không?”
Johnny đọc tấm thẻ thứ ba:
“Vườn cây tàn rụi cho ra trái độc”.
Rồi tấm thẻ thứ tư:
“Một viên đá không thể mang lại thức ăn cũng như cát không thể làm dịu cơn khát”.
Với sự kiên trì đến vô lý, cặp đôi tốn thêm bốn đồng xu để tìm cho ra câu trả lời. Hai người bắt đầu cãi nhau khi nhận được tấm thẻ thứ năm. Khi Johnny đọc tấm thẻ thứ tám, một cơn gió lạnh như dự đoán trong tờ vận mệnh đầu tiên thổi bay ở giữa họ.
Sau khi Johnny và cô nàng người yêu rời đi, đến lượt Stormy và tôi với Xác ướp Gypsy. Chỉ vỏn vẹn một đồng xu chúng tôi được bảo đảm rằng đã được an bài sẽ bên nhau mãi mãi.
Khi Stormy kể câu chuyện đó, nàng quả quyết rằng sau khi ban cho hai đứa tôi điều mà cặp đôi kia muốn có, xác người lùn được ướp đó đã nháy mắt.
Tôi không thấy cái nháy mắt ấy. Tôi không hiểu làm thế nào con mắt đã bị khâu dính kia lại thực hiện được trò như vậy mà không làm bung một mũi khâu nào. Nhưng dù sao thì hình ảnh xác ướp nháy mắt cũng gây ảnh hưởng đến tôi.
Hiện giờ khi tôi đang đợi dưới tấm thẻ của Xác ướp Gypsy được lồng khung, Stormy đến bên giường.
Nàng mặc quần lót cotton trắng trơn và áo in hình SpongeBob SquarePants. [chú bọt biển màu vàng trong phim hoạt hình cùng tên].
Những người mẫu trong cuốn quảng cáo của Victoria’s Secret với bộ đồ lót cực kỳ thiếu vải giờ đây chỉ còn chút ít độ quyến rũ khêu gợi so với Stormy mặc dù cô ấy chỉ trong trang phục quần lót đơn giản và áo hình SpongeBob.
Nằm nghiêng, thu mình vào lòng tôi, nàng áp đầu vào ngực tôi để lắng nghe nhịp tim. Nàng có đôi tai rất thính.
Nàng thường thích được ôm kiểu này đến khi ngủ thiếp đi. Tôi là người chèo thuyền tin cậy đưa nàng vào trong giấc mơ êm ả.
Sau một hồi im lặng, nàng lên tiếng:
- Nếu anh muốn em... giờ em sẵn sàng rồi.
Tôi không phải thánh. Tôi đã dùng bằng lái để đột nhập ngôi nhà tôi không được mời đến. Tôi dùng bạo lực đáp trả và không bao giờ nín chịu đòn đau. Tôi có đủ những suy nghĩ đen tối để hủy hoại tầng ozone. Tôi thường nói xấu mẹ mình.
Nhưng khi Stormy dâng hiến cho tôi, tôi lại nghĩ đến cô bé mồ côi bảy tuổi khi đó cả thế giới biết đến dưới cái tên Bronwen, đơn độc và sợ hãi, được nhận nuôi và được cho nơi trú ngụ an toàn, cuối cùng lại khám phá ra rằng ông bố nuôi không muốn một cô con gái mà muốn một món đồ chơi làm tình. Quá dễ để tôi hình dung sự hoang mang, nỗi sợ hãi, nhục nhã, ê chề của nàng.
Tôi cũng nghĩ đến Penny Kallisto và cái vỏ sò em đã đưa cho tôi.
Từ mặt trong màu hồng bóng láng của vỏ sò đó phát ra giọng một con quái thú đang nói thứ ngôn ngữ của lòng ham muốn điên cuồng.
Tuy tôi không đánh đồng niềm say mê trong sáng của mình với dục vọng bệnh hoạn và tính ích kỷ độc ác của Harlo Landerson nhưng tôi không thể gột sạch khỏi trí nhớ hơi thở nặng nề và tiếng gầm gừ thú tính của hắn ta.
- Thứ Bảy gần kề rồi, - tôi nói với Stormy. - Em đã dạy anh biết cái hay của sự mong đợi.
- Lỡ ngày thứ Bảy không bao giờ đến thì sao?
- Chúng mình có thứ Bảy tuần này và còn cả ngàn ngày nữa mà, - tôi cam đoan với nàng.
- Em cần anh, - nàng nói.
- Điều đó có mới không?
- Chúa ơi, không.
- Điều đó cũng không mới đối với anh.
Tôi ôm nàng. Nàng lắng nghe nhịp đập tim tôi. Tóc lòa xòa trên mặt nàng như đôi cánh đen tuyền và hồn tôi bay vút.
Chẳng mấy chốc nàng thì thầm với ai đó mà nàng có vẻ vui sướng được gặp trong giấc ngủ.
Người chèo thuyền đã hoàn thành công việc và Stormy đang trôi bềnh bồng trong những giấc mơ.
Kéo lớp khăn trải giường trên cùng và tấm chăn mỏng phủ lên vai nàng, chỉnh ngọn đèn cạnh giường xuống độ sáng nhỏ nhất, tôi nhẹ nhàng ra khỏi giường mà không đánh thức nàng. Nàng không thích thức giấc trong bóng tối.
Sau khi mang giày vào, tôi hôn lên trán nàng và đi ra với khẩu súng 9 ly trên bàn cạnh giường.
Tôi bật đèn chỗ khác trong căn hộ, bước ra hành lang và khóa cửa nhà nàng bằng chìa khóa nàng đưa cho tôi.
Cửa chính của cả ngôi nhà gắn tấm kính pha chì lớn hình bầu dục. Những gờ xiên của vật khảm này để lộ cảnh quan ngoài hiên một cách rời rạc và méo mó.
Tôi nhìn một mắt vào phần kính phẳng để thấy rõ hơn. Một chiếc xe cảnh sát cải trang đậu trên lề bên kia đường.
Lực lượng thi hành luật tại thị trấn Pico Mundo ít khi tiến hành hoạt động ngầm. Sở Cảnh sát chỉ có hai chiếc xe.
Dân thường sẽ không nhận ra cả hai chiếc xe đó. Vì sự trợ giúp của tôi dành cho cảnh sát trưởng trong nhiều vụ nên tôi được đi trong cả hai xe ấy và quen thuộc với chúng.
Trong số những đặc điểm nhận dạng của chiếc xe trắng, cột ăng ten múp míp dùng để thu sóng ngắn cắm trên mui xe chính là yếu tố xác nhận rõ nhất.
Tôi không nhờ cảnh sát trưởng lập ra sự bảo vệ Stormy; nàng sẽ nổi giận trước ẩn ý rằng nàng không tự lo được cho bản thân. Nàng có súng, bằng tốt nghiệp khóa học tự vệ và lòng tự trọng.
Mối nguy hiểm đối với nàng, nếu có, dường như tồn tại chỉ khi tôi ở bên nàng.
Bob Robertson không thù hằn với bất kỳ ai ngoài tôi.
Chuỗi lập luận này khiến tôi nhận ra cảnh sát trưởng đang bảo vệ tôi chứ không phải Stormy.
Nhiều khi đó không phải là bảo vệ mà là giám sát. Robertson đã bám theo tôi đến chỗ Ozzie “bé” và sau đó tìm thấy tôi ở nhà thờ St. Bart. Chắc cảnh sát trưởng đang canh chừng tôi với hy vọng, Robertson sẽ lần ra dấu vết tôi lần nữa và rồi gã có thể bị bắt giam để tra hỏi về hành động cố ý phá hoại tại nhà thờ.
Tôi hiểu suy nghĩ của ông ấy, nhưng tôi bực bội chuyện bị biến thành mồi nhử mà không ai lịch sự hỏi trước xem tôi có phiền không khi có cái moóc gắn vào sau mông tôi.
Hơn nữa trong quá trình đáp ứng trách nhiệm của năng lực siêu nhiên, đôi khi tôi phải dùng đến những mưu mẹo mà giới cảnh sát không tán thành. Cảnh sát trưởng biết chuyện đó. Trở thành đối tượng dưới sự giám sát và bảo vệ của cảnh sát sẽ gây hạn chế cho tôi, và nếu tôi hành xử theo kiểu bốc đồng thường lệ sẽ khiến vị thế của cảnh sát trưởng Porter càng thêm gay go.
Thay vì rời đi bằng lối cửa chính, tôi đến cuối hành lang và ra bằng cửa sau. Một mảnh sân nhỏ sáng trăng đưa đến ga-ra đủ chỗ cho bốn xe và cánh cửa cạnh ga-ra dẫn ra ngõ hẻm.
Sĩ quan trong xe tưởng anh ta đang giám sát tôi nhưng giờ đây anh ta thành người canh gác của Stormy và nàng không thể giận tôi vì tôi chưa bao giờ yêu cầu lập ra sự bảo vệ cho nàng.
Tôi mệt nhưng chưa muốn ngủ. Dù sao thì tôi cũng về nhà.
Có thể Robertson đang đợi tôi và cố giết tôi. Có thể tôi sẽ sống sót, đánh bại gã, gọi điện cho cảnh sát trưởng và như vậy đặt dấu chấm hết cho chuyện này.
Tôi có những hy vọng mãnh liệt về cuộc đụng độ nảy lửa với một kết thúc thỏa đáng.

Chương 30

Sa mạc Mojave ngừng thở. Buồng phổi hết hoạt động của sa mạc không còn phả ra cơn gió nhẹ lười nhác đã theo cùng Stormy và tôi trên đường về căn hộ của nàng.
Đi ngang những đường phố và ngõ hẻm, dọc con đường nhỏ chia đôi một khu đất bỏ hoang, băng qua cống thoát nước khô cạn nhiều tháng trời rồi ra lại đường phố, tôi bước nhanh về nhà.
Bọn ông kẹ đang đi lại ngoài trời.
Đầu tiên tôi thấy bọn chúng ở xa, không dưới một tá, đang chạy đua trên tứ chi. Khi đi qua những chỗ tối, có thể thấy chúng chỉ là trạng thái xáo động của bóng tối, nhưng đèn đường và đèn trước cổng nhà làm lộ rõ chúng là thứ gì. Chuyển động uốn éo và dáng điệu đầy đe dọa của bọn chúng khiến ta liên tưởng đến loài báo đuổi bắt con mồi.
Một ngôi nhà hai tầng kiểu thời vua George trên đường Hampton Way biến thành nam châm thu hút ông kẹ. Khi tôi đi qua, ở phía bên này đường, tôi thấy hai mươi hay ba mươi hình thù đen như mực, vài tên đi vào và một số khác đi ra qua các khe cửa sổ và kẽ hở ở thanh dọc khung cửa.
Dưới ngọn đèn mái hiên, một tên vùng vẫy và lăn lộn như đang lên cơn điên. Sau đó nó tự chui tọt qua lỗ khóa ở cửa chính.
Hai tên khác, đang ra khỏi nhà, trồi qua khung lưới bao phủ lỗ thông hơi trên gác mái. Di chuyển dễ dàng trên bề mặt thẳng đứng như loài nhện, chúng trườn xuống tường nhà đến mái hiên, vượt qua mái hiên rồi nhảy vào bãi cỏ trước nhà.
Đây là nhà của gia đình Takuda, ông Ken và bà Micali cùng ba con. Không cửa sổ nào sáng đèn. Nhà Takuda đã ngủ, không hề biết một bầy linh hồn tà tâm, lặng lẽ hơn cả lũ gián, bò lê qua những căn phòng và quan sát khi họ đang mơ.
Tôi chỉ có thể cho rằng một người, hay mọi người trong gia đình Takuda tới số chết đúng ngay hôm ấy, trong bất kể vụ bạo lực nào đã lôi cuốn bọn ông kẹ đến thị trấn Pico Mundo với số lượng quá đông đảo.
Kinh nghiệm dạy tôi rằng những linh hồn này thường tụ tập tại địa điểm sắp xảy ra nỗi kinh hoàng, như viện dưỡng lão ở Buena Visa trước trận động đất. Tuy nhiên trong vụ này, tôi không tin gia đình Takuda sẽ bỏ mạng ngay tại nhà họ, cũng như không mong chị Viola và các con chị chết trong ngôi nhà gỗ đẹp như tranh của chị.
Lần này bọn ông kẹ không tập trung ở một nơi. Chúng có mặt khắp thị trấn, và từ kiểu dốc sức rộng rãi khác thường cùng cách hành xử của chúng, tôi suy ra chúng đang thăm viếng những nạn nhân tương lai trước lúc tụ lại nơi diễn ra cuộc đổ máu. Cứ gọi đây là phần mở màn.
Tôi hối hả rời xa nhà Takuda và không ngoái lại, chỉ chú ý một tẹo đến bọn sinh vật đó cũng báo động cho chúng biết sự thật tôi thấy được chúng.
Trên đường Bạch Đàn, những tên ông kẹ khác xâm nhập vào nhà Morris và Rachel Melman.
Từ lúc Morris nghỉ hưu, thôi làm giám thị Trường học thị trấn Pico Mundo, ông ngừng khống chế nhịp độ giờ giấc và đi theo thực tế bản chất ông là người yêu ban đêm. Ông dành những giờ phút tĩnh lặng này để theo đuổi vô số sở thích và đam mê khác nhau. Trong lúc bà Rachel ngủ trên gác tối, đèn vẫn sáng ở tầng dưới.
Những hình dạng mờ ảo đặc thù của bọn ông kẹ trong tư thế thẳng đứng nhưng khom vai hiện rõ ở mỗi cửa sổ tầng trệt. Xem ra chúng đang di chuyển không ngừng, đầy kích động qua các căn phòng, như thể mùi hương của sự chết chóc lơ lửng làm dấy lên trong chúng niềm háo hức mãnh liệt và cuồng dại.
Vẻ điên cuồng âm thầm đã biểu lộ trong hoạt động của chúng tại bất kỳ nơi đâu tôi thấy chúng từ lúc bước chân đi làm cách đây chưa đầy hai mươi bốn tiếng. Độ dữ dội của trạng thái đê mê hiểm ác nơi chúng gây khiếp đảm cho tôi.
Trong đêm tối tràn ngập ông kẹ này, tôi thấy mình thận trọng ngước mắt lên trời, nửa muốn nửa không sẽ nhìn thấy bọn chúng kéo đàn kéo lũ qua những vì sao. Thế nhưng mặt trăng không bị che khuất bởi những phi đội linh hồn kia và các ngôi sao từ Andromeda đến Vulpecula đều sáng rực không bị ngăn trở.
Vì không có khối lượng rõ ràng nên lẽ ra ông kẹ không chịu tác động của trọng lực. Vậy mà tôi chưa từng thấy chúng bay. Dù siêu nhiên nhưng chúng dường như bị ràng buộc bởi nhiều các định luật vật lý, tuy không phải tất cả.
Khi đến đường Marigold Lane, tôi nhẹ nhõm vì con phố tôi sống xem ra thoát được đám quái vật ấy.
Tôi băng qua chỗ đã chặn Harlo Landerson trên chiếc Pontiac Firebird 400 của hắn ta. Dễ chịu hơn hẳn so với sáng nay.
Bằng việc vạch mặt kẻ sát nhân và ngăn hắn hành hung các cô gái khác, Penny Kallisto đã yên lòng nơi thế giới này và đi tiếp. Thắng lợi đó cho tôi hy vọng mình có thể ngăn chặn hoặc giảm đến mức tối thiểu cuộc tàn sát sắp xảy ra làm cả bầy lũ ông kẹ kéo đến thị trấn của chúng tôi.
Không còn ngọn đèn nào sáng trong nhà bà Rosalia Sanchez. Bà luôn đi ngủ sớm vì bà dậy trước cả bình minh. Tôi nôn nóng muốn nghe xem bà còn hiện hữu hay không.
Tôi không vào ga-ra bằng lối xe chạy mà băng qua bãi cỏ bên hông nhà, nấp sau cây sồi này đến cây sồi khác, rón rén do thám khu đất.
Khi xác định không có Robertson hay kẻ thù nào khác đứng trong sân, tôi mới vòng sang ga-ra. Tuy không thấy ai nằm đợi nhưng tôi đã xua một con thỏ sợ sệt ra khỏi luống mạch môn tươi tốt và khi nó phóng vụt qua, tôi đích thân thực hiện động tác hoàn hảo nhất trong môn nhảy dựng và thở hổn hển.
Vừa trèo lên mấy bậc thang lộ thiên để đến căn hộ, tôi vừa quan sát những khung cửa sổ phía trên, cảnh giác với động thái chỉ điểm của bức màn.
Răng cưa chìa khóa khẽ kêu lách cách từ bên này sang bên kia trong lỗ khóa. Tôi đẩy chốt và mở cửa.
Bật đèn lên, tôi thấy ngay khẩu súng. Một khẩu súng lục.
Có cảnh sát trưởng Porter là bạn, có Stormy là vị hôn thê, tôi biết điểm khác nhau giữa súng lục với súng lục ổ quay cho dù mẹ tôi không truyền dạy những ưu điểm của vũ khí cầm tay trong những trường hợp gay go.
Khẩu súng lục không chỉ được bỏ trên sàn mà xem ra được đặt ngay ngắn như chuỗi hạt kim cương trong hộp nhung đen trưng bày ở tiệm đá quý. Nó nằm tại vị trí đón ánh đèn sao cho các đường nét đạt mức gần như khiêu khích. Bất cứ ai để súng lại đây cũng hy vọng dụ dỗ tôi nhặt nó lên.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét