Pie Đệ Nhất
Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000
Chương 151
Ông vua Auguste hào hoa - hình như được tạo hóa sinh ra để hưởng
những cuộc hội hè tráng lệ, để bảo vệ các môn nghệ thuật, hưởng những khoái lạc
ái tình của những người đàn bà đẹp nhất châu Âu và phỉnh cái lòng kiêu căng của
nước Ba Lan đang muốn có một ông vua không thua kém gì các vua ở Viên, Madrit
hay ở Vecxay (1) lúc này đang ủ rũ đến cực độ.
Triều đình của vua Auguste phải lánh vào
cái lâu đài gần đổ nát của thị trấn Xokan tiêu điều, trong tỉnh Lvov , thiếu thốn trăm
đường. Ở đó, ngày chủ nhật cũng không có chợ, vì tất cả dân chúng người Ukrain
ở các làng lân cận đều trốn vào rừng sạch để chờ cho hết chiến tranh hoặc bỏ đi,
chẳng ai biết đi đâu, có lẽ là đi về vùng sông Dniep, từ đó đang dội lại những
tin đồn mơ hồ về những cuộc cướp phá của bọn haidamac (2).
Để khỏi phải đi ngủ bụng rỗng tuếch, vua
Auguste đành phải nhận lời mời ăn bữa tối của đám quý tộc nông thôn ở vùng đó;
tại nhà họ, nhà vua buộc phải chúc tụng các bà địa phương bằng tiếng Pháp và
uống một thứ rượu tồi tệ. Bất cứ một chúa đất Ba Lan nào, - với bộ ria rậm vểnh
lên như hai cái móc, kiêu kỳ nhìn phía cuối bàn, nơi đám quý tộc nghèo đang
đánh chén trong tiếng cốc và tiếng gươm loảng xoảng, - cũng tự cảm thấy mình
còn vương giả hơn cả vua Auguste.
Nghị hội ở Warsawa đã phế truất nhà vua.
Thực thì ra một nửa số tỉnh không tán thành nghị quyết ấy, nhưng tại lâu đài
của nhà vua ở Warsawa, ông vua thứ hai của Ba Lan là Xtanixlav Lekzinski đang
sống ở đó và thảo ra những bức thông tri lăng nhục vua Auguste và đem áo gấm,
bí tất Paris của vua Auguste phân phát cho lũ đày tớ của ông ta.
Tất cả miền Đông, bờ bên phải sông Dniep,
từ Vinnitxa đến vùng Podoli, đang bị nạn nông dân nổi loạn, đẫm máu không kém
gì thời kỳ Bordan Khmenitski.
Và vua Charles khép kín vòng vây lại, đóng
quân kề ngay bên cạnh, ở một nơi nào đó giữa Lvov và Yaroslav, với một đạo quân
tinh nhuệ gồm ba mươi lăm ngàn người, cắt đứt con đường rút lui của vua Auguste
về quê hương bản quán là xứ Xăc.
Auguste sợ vua Charles một cách nhục nhã,
gã ranh con hung tợn ấy, quân phục bám đầy bụi, đi ủng to xém lửa đỏ bẻm, bộ
mặt như người bị hoạn và mắt dữ như hổ khiến vua Auguste mất hết cả tự tin,
không thể nào mua chuộc, dụ dỗ được vua Charles, hắn chẳng đòi hỏi gì ở cuộc
đời hết, ngoài tiếng gầm và khói súng đại bác, tiếng gươm giáo đọ nhau loảng
xoảng, tiếng kêu la của quân lính bị thương và quang cảnh một cánh đồng bị giầy
xéo, khét lẹt và sực mùi máu, và con ngựa chân khuỳnh ra ngoài của hắn tiến lên
giữa cánh đồng ấy, cẩn thận đặt chân giữa những xác chết, quyển sách độc nhất
vua Charles cất dưới cái gối mỏng của mình là cuốn Bình luận của Cséza (3). Nhà vua say mê chiến tranh như một người
Normandie (4) thời Trung cổ. Thà bị một quả trái phá nặng mười cân bắn bay đầu
đi, nhà vua còn thích hơn là ký hòa ước, dù cho hòa ước đó hết sức có lợi cho
vương quốc Thụy Điển.
Hôm đó, từ sáng, vua Auguste chờ nữ bá tước
trở về. Nhà vua không hy vọng bà ta sẽ thành công mặc dù bà ta rất khôn khéo,
trong việc thuyết phục vua Charles ký hòa ước. Nhưng những tin tức do một con
chim câu đưa thư đem từ Lidva tới, nói về việc Sa hoàng Piotr xuất quân, có
tính chất nghiêm trọng và đe dọa nặng nề đến nỗi khả dĩ gây được mối hoài nghi
trong lòng vua Charles: liệu có nên trông cậy vào đạo quân duy nhất của
Slipenbac và cứ điên cuồng đuổi theo vua Auguste, hay là chuyển quân của mình
về các tỉnh vùng Baltic, đương đầu với Sa hoàng Piotr, là điều mà mọi người đều
thúc giục nhà vua nên làm; nào là hoàng đế Áo đang sợ đến chết khiếp vua
Charles liên minh với vua Pháp và tung quân đánh thủ đô Viên; nào là vua Pháp
đang e ngại các nhà ngoại giao ở Viên lôi kéo được vua Charles đứng về phe
hoàng đế của họ và đề nghị với vua Charles đem quân đạo chơi về phía biên thùy
Pháp; nào là vua Phổ đang sợ tất cả mọi người và sợ nhất cái gã Charles ngông
cuồng, rất có thể tràn vào đất Phổ ở Brandeburg, chiếm lấy Koenigsberg và sửa
cho vua Phổ một trận đến nỗi không còn ngọ nguậy chân tay được nữa.
Rồi Johan Patkun tới, ác độc như một con
quỷ; trông hắn hình như càng thêm to béo trong bộ binh phục tướng Nga, cắt
vụng, màu xanh lá cây, lai tay áo màu đỏ. Hơi thở khò khè, hắn nhăn cái trán
cao, quá hẹp so với bộ mặt béo núng nính và kiêu kỳ, và bằng một thứ tiếng Pháp
tồi, hắn than phiền về tính nhát sợ của Sa hoàng Piotr, chỉ lo tránh một cuộc
giao phong quyết định với vua Charles.
- Sa hoàng có hai đạo quân lớn. Đáng lẽ ra
ông ta phải tiến vào Ba Lan và hội quân với bệ hạ để đánh bại Charles, dù có
phải hy sinh đến bao nhiêu đi nữa, - Patkun nói, lúc lắc đôi má đỏ gay - Làm
như vậy sẽ là một cuộc hành binh vừa táo bạo lại vừa khôn khoan. Sa hoàng vốn
tham lam, như mọi người Nga. Người ta đã để cho Sa hoàng tới tận vịnh Phần Lan,
ở đó ông ta đã xây dựng cái thị trấn của ông ta, vội vã như một đứa trẻ con.
Ông ta đã lấy được xứ Ingri và hai thành rất tốt: Yam và Koporie; hãy lấy thế
làm mãn nguyện và hãy làm trọn bổn phận đối với châu Âu đi chứ! Nhưng không!
Lòng tham của ông ta càng tăng thêm và đẩy ông ta tiến về Narva và Yuriev, ông
ta muốn nuốt chửng cả Revan. Sau đó thì rồi ông ta sẽ đòi được cả Livoni và
Riga nữa kia! Cần phải hạn chế Sa hoàng lại! Nhưng có nói với đám thượng thư
của ông ta cũng vô ích. Chúng là những tên nông dân thô lỗ, đội tóc giả bằng sơ
gai nhuộm, châu Âu đối với chúng cũng chẳng khác gì một cái giường sạch đối với
một con lợn bẩn thỉu... Tâu bệ hạ, thần nói năng quá sống sượng, nhưng tất cả
những điều đó làm thần rất đau lòng... Thần chỉ mong ước có một điều: làm sao
cho xứ Livoni của thần được trở về dưới vương trượng của bệ hạ. Nhưng khắp nơi,
ở Viên, ở Berlin, và ở đây, tại triều đình của bệ hạ, thần chỉ gặp một sự lãnh
đám hoàn toàn... Thần không còn biết ra thế nào nữa, - nói tóm lại, ai là kẻ
thù lớn nhất của xứ Livoni: là vua Charles, đang đe phanh thây thần, hay là Sa
hoàng Piotr, đã quý trọng thần, tin tưởng ở thần, đến nỗi phong thần cấp trung
tướng? Vâng, thần đã khoác bộ quân phục Nga và thần sẽ theo con đường này một
cách trung thực đến cùng... Nhưng tình cảm cá nhân của thần vẫn tồn tại... Nỗi
đau lòng của thần càng tăng thêm trước sự bất động và uể oải của bệ hạ. Bệ hạ
hãy lên tiếng đi, hãy đòi Sa hoàng cho quân, hãy nài một cuộc giao phong quyết
định với vua Charles.
Giá phải một lúc nào khác thì có lẽ vua
Auguste đã tống cổ cái tên hỗn xược đó ra ngoài. Nhưng, giờ đây nhà vua phải
nín lặng, tay mân mê hộp thuốc lá.
Cuối cùng Patkun rút lui. Nhà vua gọi viên
sĩ quan thường trực, đại úy kỵ binh Tarnovski, bảo hắn rằng kẻ nào báo tin
trước tiên cho nhà vua biết là nữ bá tước Koxenka đã về, nhà vua sẽ thưởng một
trăm duca (mà nhà vua không có).
Người hầu đem đến một cái giá nến ba chạc,
sắc xanh đồng, chắc hẳn là mượn của một giáo đường Do Thái giáo nào đó. Nhà vua
đứng trước gương và tư lự ngắm nhìn nét mặt mình có phần hơi mệt mỏi.
Nhà vua tự ngắm mình không bao giờ biết
chán vì nhà vua tự cho rằng chắc chắn phụ nữ phải yêu cái miệng hơi đa tình, rõ
nét kia, như miệng những pho tượng cổ, những hàm răng đẹp kia, cái mũi to và
thanh tú, ánh vui vẻ trong đôi mắt đẹp, tấm gương của tâm hồn.
Nhà vua nhấc bộ tóc giả lên: không còn có
thể nhầm lẫn được nữa, tóc đã bạc trắng và những nếp nhăn ở đuôi mắt... Tên
Charles đáng nguyền rủa!
- Tâu bệ hạ, cho phép thần nhắc nhở rằng
ngài Xobesanski lần thứ ba đã cho một gia thần đến trình với bệ hạ rằng ngài và
phu nhân đang chờ bệ hạ để vào tiệc. Thức ăn để lâu trên bếp sợ hỏng hết.
Nhà vua rút trong túi áo lụa sực nức mùi xạ
ra một hộp phấn và lấy búp bông thoa lên mặt, phủi phấn và thuốc lá rơi trên lá
sen cổ áo bằng đăng-ten và hững hờ hỏi:
- Thế họ có món ăn gì đặc biệt vậy?
- Thần đã hỏi vị gia thần của ngài
Xobesanski; ông ta nói rằng, từ hôm qua, đã mổ lợn và giết gà vịt trong sân sau
của nhà chúa, làm xúc xích và thịt băm. Phu nhân Xobesanxka được biết khẩu vị
tinh vi của bệ hạ, đã tự tay làm món đỉa quay tiết ngỗng.
- Tốt lắm... Đưa ta thanh gươm, ta đi...
Cơ ngơi của lãnh chúa Xobesanski cách thành
phố không xa mấy. Một đám mây dông che mờ dải ánh sáng đang tàn ở phía mặt trời
lặn, trong không khí sặc mùi bụi đường và mùi mưa sắp đổ xuống, khi vua Auguste
ngồi trên chiếc xe da đã khá hư hỏng vì những cơn đen vận bí, tới gần khu vực
của lãnh chúa.
Vị gia thần, phóng ngựa đi trước, đã báo
tin nhà vua sắp tới. Dưới những cành lá tối om của một lối đi cổ kính, đám gia
nhân cầm đuốc chạy tới...
Chiếc xe lượn quanh bức tường thành và
trong tiếng chó sủa, dừng lại trước một tòa nhà dài một tầng, mái lợp sậy. Ở đó
cũng có đám gia nhân, đầu tóc bù xù một cách man rợ, áo sơ mi rách rưới cầm
đuốc chạy đi chạy lại rối rít. Trước thềm nhà, tụ tập chừng năm chục gã quý tộc
nghèo ăn bám tại lâu đài Xobesanski: những tay chiến sĩ lão thành tóc đã bạc
trắng trong những cuộc xung đột giữa các lãnh chúa, mặt sứt sẹo vì những nhát
kiếm khủng khiếp, những gã phàm ăn tục uống, bụng phệ, hãnh diện về bộ ria vuốt
sáp của mình, dài quá khổ và cứng như một mũi dao găm; những chàng trai trẻ mặc
những bộ áo đã sờn, do một vị chúa nào thải ra, nhưng cũng không vì thế mà kém
phần kiêu căng ngạo nghễ. Tất cả đều đứng, một bàn tay nắm lại chống nạnh, một
bàn tay để trên đốc gươm là bằng chứng tư cách quý tộc của họ.
Khi vua Auguste, cúi cái thân hình cao lớn
từ trên xe bước xuống, tất cả đều đồng thanh hô to lời chào mừng bằng tiếng la
tinh.
Lãnh chúa Xobesanski; đã đứng tuổi, từ trên
bậc thềm bước xuống, hai cánh tay mở rộng. Vào lúc đó, ông ta sẵn sàng tặng
khách tất cả những gì khách muốn, theo cái lối đãi khách hào phóng của người Ba
Lan: đàn chó săn của ông ta, bầy ngựa trong chuồng của ông ta, toàn bộ đám gia
nhân, cho đến cả cái áo chẽn của ông ta viền lông thú. Phải, ông ta sẽ cho tất,
có lẽ chỉ trừ phu nhân Xobesanxka trẻ măng mà thôi...
Anna phu nhân đứng sau chồng, trắng đẹp
biết bao, với cái mũi nhỏ hơi hếch, cặp mắt ngạc nhiên, cái mũ kiểu Tây Ban Nha
có chỏm cao và cắm lông chim, khiến vua Auguste bỗng thấy nỗi buồn của lòng
mình tiêu tan hết. Nhà vua cúi rạp chào và cầm lấy đầu những ngón tay thanh
thanh của Anna phu nhân, khẽ nâng bàn tay của người phụ nữ trẻ tuổi như để nhảy
một điệu vũ Ba Lan và đưa bà ta vào phòng ăn.
Theo sau hai người là lãnh chúa Xobesanski,
mắt mờ lệ vì cảm động, rồi đến ông tu sĩ rửa tội, thuộc dòng chỉ đi dép, không
đi tất, lưng thắt một sợi dây có nhiều nút, người hôi như mùi dê đực, cằm xanh
rì; rồi đến các gia thần của ngài Xobesanski, đi theo tôn ti quý tộc.
Bàn ăn trải một lượt cỏ khô dưới khăn bàn
rắc đầy hoa, mọi người phải thán phục kêu lên; thậm chí một gã quý tộc to lớn,
dáng người thô kệch, chỉ có độc chiếc áo chẽn trên thân hình để trần, ôm lấy
đầu, vừa lắc lư vừa rống lên, làm mọi người cười rộ. Trên những chiếc đĩa, bằng
bạc, bằng thiếc hay bằng sứ có tô màu, chồng chất nào là xúc xích, gà vịt quay,
đùi bê, đùi lợn quay, gà vịt để nửa con một và lưỡi bò sấy, nào là dưa muối,
thịt ướp, táo ngâm rượu, mứt, bánh nhỏ, kẹo giòn, bánh nướng và bánh trứng.
Những thùng nhỏ đựng rượu vang Hungary, những vò rượu bia, những chai của vùng
Ukrain bằng thủy tinh sắc lục pha lam hình con gấu, đựng đầy vodka, để la liệt
trên bàn...
Nến đã thắp lên; ngoài ra, cửa sổ còn được
chiếu sáng từ bên ngoài bởi những bó đuốc khói mù của đám đầy tớ đang ghé nhìn
lãnh chúa yến tiệc qua những ô kính mờ.
Vua Auguste hy vọng rằng có mặt mình, chủ
nhân sẽ bãi bỏ cái lệ bắt khách phải uống cho đến kỳ không ai còn đứng vững
được nữa. Nhưng ngài Xobesanski cương quyết theo đúng phong tục tập quán Ba
Lan. Ông ta nâng cốc chúc mừng sức khỏe của tất cả khách khứa, dù họ đông bao
nhiêu cũng mặc. - bắt đầu từ vua cho đến gã quý tộc cuối cùng, ngồi ở cuối bàn
bên dưới, chính là gã có dáng người thô kệch chỉ mặc có chiếc áo chẽn và chân
cũng không có ủng nữa - và uống mừng sức khỏe của họ một cốc rượu vang Hungary.
Toàn thể mọi người đứng cả dậy, hét lên: “Hoan hô!”. Chủ nhân đưa một cốc rượu
đầy cho khách và khách uống để chúc mừng lại sức khỏe của lãnh chúa và phu
nhân. Sau khi đã nâng cốc chúc mừng sức khỏe của tất cả khách khứa, ngài
Xobesanski lại bắt đầu lại từ đầu bàn, trước hết uống mừng nước Ba Lan, rồi đến
vua Auguste chí kính,
- Người duy nhất mà chúng ta sẽ hiến dâng
lưỡi gươm và máu của chúng ta.
- Hoan hô! Đả đảo Xtanixlav Lekzinski, -
đám quý tộc hò reo điên cuồng...
Rồi người ta nâng cốc chúc mừng những đặc
quyền bất khả hủy diệt của quý tộc Ba Lan, với những lời lẽ đại ngôn. Lần này
thì các vị khách đầu đã bốc nóng, mất hết cả bình tĩnh, họ rút gươm ra cái bàn
nghiêng ngửa, nến đổ lăn xuống đất. Một gã quý tộc to béo và chột mắt, hùng
dũng chém vỡ đôi một đĩa xúc xích to tướng, hét lên:
- Kẻ thù của chúng ta, bọn ly phái và bọn
Moskva sẽ chết như thế này!
Ngồi bên trái vua Auguste, bên phía trái
tim là Xobesanxka phu nhân, tươi như một đóa hoa hồng. Cứ như một phù thủy thực
sự, bà lãnh chúa vừa hỏi nhà vua về những mỹ tục ở Vecxay, về những hạnh vận
của nhà vua ở đó, cười khanh khách và sẽ chạm vào khuỷu tay, vào vai nhà vua,
lại vừa theo dõi các khách khứa, nhất là đám ngồi ở cuối bàn, nơi có gã quý
tộc, say mụ cả người, đút một cái lưỡi bò sấy hay cả một nửa con ngỗng vào cái
túi quần rộng thùng thình bằng vải thô; bà ta khẽ đưa con mắt sắc sảo gọi đầy
tớ đến ra lệnh. Nhiều lần nhà vua đã định ôm ngang lưng tấm thân mềm mại của bà
chủ nhà; nhưng mỗi lần, ngài Xobesanski lại đưa cho nhà vua một cốc rượu đầy để
chúc mừng sức khỏe một lần nữa.
- Chúc sức khỏe của hoàng thượng chí kính
của chúng thần.
Vua Auguste tìm cách không uống hết hoặc
lén đổ cốc rượu xuống gầm bàn, nhưng vô ích: lập tức một tên gia nhân đứng sau
ghế hoặc một tên khác, ngồi dưới gầm bàn với một chai rượu, lại rót rượu đầy ắp
cốc của nhà vua. Cuối cùng, người ta mời vị khách quý món ăn trứ danh: đỉa
quay; bà chủ nhà tự tay mời vua một đĩa đầy.
- Thực ra, bệ hạ đã làm cho tiện thiếp xấu
hổ khi bệ hạ ca ngợi các món ăn nhà quê này, - bà ta nói với một giọng nhỏ nhẻ,
ngây thơ, nhưng trong con mắt bà ta, nhà vua lại nhìn thấy điều khác hẳn. - Có
khó gì đâu, chỉ cần là con ngỗng phải non và không béo quá... Khi đỉa đã no thì
đem chúng cùng với con ngỗng bỏ vào lò, đỉa ở ức con ngỗng rơi ra, thế là đem
bỏ vào chảo rán.
- Tội nghiệp con ngỗng! - vua Auguste vừa
nói, vừa lấy hai ngón tay nhón một con đỉa, bỏ vào mồm nhai rau ráu. - Còn có
gì mà những bà phụ nữ xinh đẹp không bày đặt ra để thỏa mãn cái tính thích ăn
ngon của mình!
Anna phu nhân cười, chiếc lông chim cắm hơi
xiên trên, cái mũ chỏm cao rung rinh một cách ngang tàng. Nhà vua thấy mọi việc
có vẻ thuận chiều và chỉ chờ khai mạc cuộc khiêu vũ là sẽ được thoải mái tỏ
tình.
Vừa lúc đó một người sợ hãi, mồ hôi nhễ
nhại, bụi bặm đen sì mặc chiếc áo chẽn rách, chạy bổ vào trong phòng, xô đẩy
đám quý tộc say rượu đứng ở gần cửa.
- Thưa chúa công, thưa chúa công, tai họa
đến nơi rồi! - Hắn kêu lên và quỳ xuống trước ghế vị chủ nhà. - Chúa công sai
con đến tu viện lấy một thùng rượu mật ong cũ... Con đã làm tất cả những điều
chúa công dặn. Nhưng ma quỷ đã xui khiến con trở về bằng đường cái. Con đã mất
hết, cả thùng rượu, cả ngựa, cả gươm, cả mũ... Phúc bảy mươi đời con mới thoát
được chết. Người ta đã đánh xé con tơi bời. Một đạo quân đông vô kể đang tiến
gần tới Xokan.
Vua Auguste sa sầm mặt. Anna phu nhân bấu
chặt móng tay vào cánh tay nhà vua. Còn đạo quân nào có thể tiến về Xokan nữa,
ngoài đạo quân của Charles, trong cuộc truy lùng ráo riết của hắn? Đám quý tộc
hét lên những tiếng hét man rợ:
- Quân Thụy Điển! Chạy đi thôi!
Ngài Xobesanski đấm nắm tay xuống bàn, mạnh
đến nỗi làm nẩy tung các cốc:
- Im ngay, các ngài! Tất cả các ngài, những
ai không tỉnh rượu ngay lập tức sẽ bị bắt nằm ra thảm, đánh năm mươi roi...
Nghe ta đây, đồ chó đẻ... Vua là khách của ta và ta sẽ không để cho mái đầu bạc
của ta mang nỗi nhục muôn đời... Bọn Thụy Điển có thể đem tất cả quân đội của
chúng tới đây chúng ta cũng sẽ không đem nộp vị khách của chúng ta.
- Chúng ta sẽ không đem nộp vị khách của
chúng ta! - đám quý tộc thét lên trong tiếng gươm rút ra loảng xoảng.
- Hãy đóng ngựa... Nạp đạn vào súng...
Chúng ta sẽ chết nhưng chúng ta sẽ không làm ô danh đất nước Ba Lan!
- Chúng ta sẽ không làm ô danh đất nước Ba
Lan!
- Hoan hô!
Vua Auguste hiểu rất rõ rằng giải pháp khôn
ngoan duy nhất là nhảy ngay lên yên và lợi dụng đêm tối mà chạy trốn. Nhưng như
ta đây, Auguste, Người hào hoa, mà lại bỏ chạy như một kẻ hèn nhát đê tiện, rời
bỏ một bữa tiệc vui vẻ và một người đàn bà xinh đẹp vẫn còn đang nắm lấy cánh
tay ta không rời ra! Không, Charles không thể làm cho nhà vua phải chịu cái
nhục ấy được! Mặc kệ mọi sự khôn ngoan!
- Thưa các ngài, - nhà vua nói, - trẫm ra
lệnh cho các ngài ngồi vào bàn. Chúng ta hãy tiếp tục bữa tiệc.
Nhà vua ngồi xuống, hất những búp tóc quăn
của bộ tóc giả ra khỏi đôi má nóng bừng bừng như bốc lửa. - Nói cho cùng, nếu
quân Thụy Điển có tới đây thì người ta sẽ đem nhà vua giấu vào một nơi nào đó,
sẽ đưa nhà vua đi, bậc vua chúa không bao giờ làm sao hết...
Nhà vua tự rót một cốc rượu, nâng cốc lên,
bàn tay to đẹp, vững vàng không run... Anna phu nhân liếc mắt nhìn thán phục,
quả thật, để có được một cái liếc như thế, có thể đem dâng cả giang sơn của
mình được.
- Thế mới thật là hay! Hoàng thượng ra lệnh
cho chúng ta cứ tiệc tùng! - Ngài Xobesanski vỗ tay, ra lệnh cho gã quý tộc đã
chém vỡ đĩa xúc xích đi cùng với một số bạn bè ra đứng canh ngoài đường cái;
ông ta lại ra lệnh rót thứ rượu vang Hungary ngon nhất cho tất cả khách, kể cả
những người ngồi ở cuối bàn, chừng nào mà thùng rượu cuối cùng chưa cạn khô, và
trong các hầm rượu, trong các tủ đựng thức ăn còn có thức gì ngon lành đều đem
ra hết và cho gọi nhạc công đến.
Bữa tiệc lại tiếp tục, càng thêm ồn ào, vui
vẻ. Anna phu nhân khiêu vũ với nhà vua. Bà ta nhảy như thể có ý định cám dỗ
đích thân Thánh Piotr để được mở cửa Thiên đàng. Mũ của bà đã trật sang một
bên, tiếng nhạc của điệu murka (5)
lượn lờ như sóng trong búp tóc Anna phu nhân, chiếc xiêm ngắn của bà quay
cuồng, quấn quýt, vuốt ve quanh cặp chân thon, đôi giầy nhỏ, gót đỏ khi thì nện
mạnh xuống đất, khi thì bay bổng lên, tưởng chừng như không chạm tới mặt sàn
nữa. Nhà vua nhảy với bà ta nom cũng rất đẹp; cao lớn, sang trọng, tái mặt đi
vì rượu và thèm muốn:
- Anna phu nhân, ta mất trí mất rồi, mất
trí mất rồi, hãy vì tất cả đấng thánh thần, phu nhân hãy gia ân cho ta, - nhà
vua khẽ nói qua kẽ răng.
Và Xobesanxka phu nhân đưa mắt trả lời rằng
ân huệ không còn phải chờ đợi nữa, cửa thiên đàng đã rộng mở.
Bên ngoài có tiếng nói sợ hãi của đám đầy
tớ, tiếng ngựa phì hơi. âm nhạc im bặt... chẳng ai kịp lấy một thanh gươm hay
nạp đạn vào súng ngắn... Chỉ có nhà vua, mắt nhìn mọi vật đã thấy nghiêng ngả
chập chờn, ôm chặt ngang lưng Anna phu nhân và rút gươm ra.
Hai người bước vào phòng tiệc: một người to
lớn, chột mắt, bộ ria hoe hoe vàng rủ xuống dưới một cái mũi to, đầu đội mũ
lông cừu cao có đính ngù vàng; người kia, thấp hơn, có dáng điệu một nhà quý
tộc cao sang, mặt mũi thanh tú, dễ coi, mặc bộ binh phục đầy bụi, đai đại tướng
khoác chéo qua vai.
- Có phải hoàng thượng Auguste ở đây không?
- Ông ta hỏi và trông thấy vua Auguste đứng với một vẻ hăm dọa, gươm lăm lăm
trong tay, ông ta bèn bỏ mũ và cúi rạp người chào:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy nghe thần báo
cáo, theo lệnh của Sa hoàng Piotr Alekseevich thần tới đây với mười một trung
đoàn bộ binh và năm trung đoàn kỵ binh Cô-dắc đặt dưới quyền bệ hạ điều khiển.
Đó là Dimitri Mikhailovich Golixyn, tổng
trấn Kiev và tư lệnh đạo quân phụ trợ, anh gã Mikhail Mikhailovich, người anh
hùng ở Sluxenburg. Người kia, mặc áo nẹp đỏ như máu và khoác chiến bào dài chấm
gót là ataman quân Cô-dắc, Danila
Apoxton.
Đám quý tộc Ba Lan ngó ngoáy bộ ria với một
vẻ hăm dọa nhìn gã Cô-dắc. Hắn đứng ở ngưỡng cửa, nắm tay chống nạnh, vẻ uể oải
nghịch cây trượng chỉ huy của mình; đôi môi đẹp của hắn thoáng một nụ cười chế
giễu, cặp lông mày trông như hai mũi tên và con mắt độc nhất của hắn chẳng khác
gì một đêm rực sáng ánh lửa các đám cháy do các cuộc đốt phá của bọn haidamac gây ra.
Vua Auguste cười vang, đút gươm vào vỏ, ôm
hôn Golixyn và đưa tay cho gã ataman
hôn.
Người ta lại dọn tiệc lần thứ ba. Một chiếc
cốc lớn đựng rượu vang Hungary được chuyển qua tay các vị khách. Mọi người uống
mừng sức khỏe Sa hoàng Piotr đã giữ đúng lời hứa, gửi viện binh từ Ukrain tới,
người ta uống mừng tất cả các trung đoàn đã tới ngày hôm đó và chúc cho quân Thụy
Điển sẽ bị đánh bại.
Đám quý tộc tinh nghịch cố ý đổ rượu cho ataman Danila Apoxton say nhưng hắn chỉ
nhếch cặp lông mày lên mà bình tĩnh nốc hết cốc này đến cốc khác; không sao làm
cho hắn say ngã lăn xuống gầm bàn được.
Tang tảng sáng, khi người ta đã khiêng khá
nhiều gã quý tộc đem ra đặt nằm ở ngoài trời, gần giếng, vua Auguste bảo Anna
phu nhân:
- Ta không có ngọc ngà châu báu để ném
xuống dưới chân phu nhân. Ta là một kẻ lưu vong sống bằng của bố thí. Nhưng hôm
nay, ta đã lại giàu và mạnh. Anna phu nhân, ta muốn rằng phu nhân sẽ lên xe đi
theo đạo quân của ta... Phải xuất chinh ngay tức khắc, không để lỡ một giờ nào!
Ta sẽ đánh lừa vua Charles như một thằng trẻ ranh... Anna phu nhân kiều diễm,
ta muốn hiến dâng phu nhân cái thành phố Warsawa tốt lành của ta trên một đĩa
vàng.
Nhà vua đứng dậy và cánh tay giơ thẳng ra
trong một cử chỉ vô cùng đẹp mắt, nói với những vị khách hãy còn giương to mắt
và vểnh bộ ria vuốt sáp:
- Thưa các ngài, trẫm yêu cầu và ra lệnh
cho các ngài hãy thắng ngựa, trẫm tuyển tất cả các ngài vào đoàn tùy tòng riêng
của trẫm.
Mặc cho vương hầu Dimitri Mikhailovich
Golixyn trình bày một cách hết sức lễ phép và nhân đạo rằng quân lính cần phải
nghỉ hai hay ba ngày, cần phải cho ngựa ăn và chờ hành trang tới, vua Auguste
khăng khăng không nghe.
Mặt trời chưa làm ráo hết sương sớm, nhà
vua đã trở về tới Xokan cùng với Golixyn và gã ataman. Phố xá trong thành ngổn ngang những xe, ngựa và súng đại
bác; quân lính Nga rậm ria, mệt lử ngủ lăn trên đám cỏ rậm. Lửa trại bốc khói.
Qua cửa xe, vua Auguste nhìn đám bộ binh đang ngủ và bọn lính Cô-dắc sóng xoài
trên các xe trong những kiểu nằm ngộ nghĩnh.
- Những người lính mới oai hùng làm sao! -
nhà vua nhắc đi nhắc lại luôn mồm. - Oai hùng làm sao! Thật là những dũng sĩ!
Đại úy kỵ binh Tarnovski đón vua ở cửa lâu
đài và thì thầm, giọng sợ hãi:
- Nữ bá tước đã về, lệnh bà không chịu đi
ngủ, rất tức giận.
- A, chuyện vặt! - và nhà vua vui vẻ bước
vào phòng ngủ, trần cuốn thành vòm, ẩm ướt, có những cây nến chảy thành những
thạch nhũ dài bằng sáp, đang lụi trên cái giá sắc xanh đồng của giáo đường Do
Thái. Nữ bá tước đứng đón nhà vua, im lặng ngó nhìn và chờ đợi nhà vua nói lên
một lời là sẽ đáp lại cho đáng kiếp.
- Sofia, ái khanh đã về! - nhà vua nói, vồn
vã quá mức cần thiết. - Thế nào? Ái khanh đã gặp vua Charles rồi chứ?
- Vâng, thiếp đã gặp vua Charles, cám ơn bệ
hạ, - Bộ mặt nữ bá tước, như rắc bột mì, có vẻ nhẽo và xấu. - Vua Charles chẳng
mong gì hơn là treo cổ bệ hạ lên một cây phong. Nếu bệ hạ muốn biết chi tiết
cuộc nói chuyện của thiếp với vua Charles, thiếp sẽ xin nói. Nhưng bây giờ
thiếp muốn biết chính bệ hạ đánh giá hành động của bệ hạ như thế nào? Bệ hạ
phái thiếp đi, như một con sen con đỏ mạt hạng, để bệ hạ ngấm ngầm mưu toan
những chuyện riêng tư bẩn thỉu... Thiếp phải chịu đựng những sự nhục mạ trong
cuộc hành trình, trải qua muôn ngàn nguy hiểm, có thể bị hiếp dâm, cắt cổ, ăn
cướp... Còn bệ hạ thì đi vui thú trong tay mụ Xobesanxka... mụ chủ lâu đài hèn
mọn ấy mà thiếp có dùng làm hầu phòng thiếp cũng thấy xấu hổ.
- Ồ, Sofia, chuyện vặt ấy mà! - Vua Auguste
thốt lên lời nói đó thật là khinh xuất.
Nữ bá tước tiến lại gần và bàn tay bà ta,
lanh lẹn như chân một con mèo, tát bốp vào mặt nhà vua.
-------------
Chú thích:
(1)
Thủ đô Áo, Tây Ban Nha và thành phố ở Pháp.
(2)
Nông dân Cô-dắc vùng Ukraina nổi dậy chống bọn phong kiến quý tộc Ba Lan ở thế
kỷ 17 và 18.
(3)
Hoàng đế La Mã cổ, nổi tiếng về tài quân sự.
(4)
Người vùng Bắc Âu xưa kia nổi tiếng hung dữ và hiểu chiến.
(5)
Một điệu nhảy Ba Lan.
Chương 152
Trên các gò có dựng một tháp canh, Piotr Alekseevich từ trên lưng
ngựa nhảy xuống và leo những bậc thang dốc đứng lên đỉnh tháp. Samber,
Melsikov, Anikita Ivanovich Repnin lên theo và cuối cùng là Piotr Matveevich
Apraxin rất khó chịu vì thân hình to béo và chóng mặt; leo lên cao cách mặt đất
mười toadơ(1) không phải là một trò
đùa! Piotr Alekseevich vốn đã quen leo cột buồm, không hề thở mạnh: nhà vua rút
ống nhòm trong túi ra và đứng vững trên đôi chân xoạc rộng, quan sát chân trời.
Narva trông như nằm trên một cái đĩa xanh,
với những ngọn tháp lùn, cổng và cầu treo; ở các góc tường, những pháo đài bằng
đá tảng nhô ra, cái khối đồ sộ của tòa lâu đài cũ với tháp để thuốc súng, những
ngõ ngoằn ngoèo của thành phố, mái các nhà thờ nhọn hoắt như những cái đinh
vươn lên trời. Phía bên kia sông, sừng sững tám ngọn tháp âm thầm, mái lợp chì
và những bức tường của thành Ivan-gorod bị đại bác bắn thủng, xây từ thời Ivan
Hung đế.
- Thành này sẽ về ta! - Melsikov thốt lên,
hắn cũng đang chiếu ống nhòm nhìn.
Piotr Alekseevich nói qua kẽ răng:
- Này, đừng có phồng mồm trợn mắt khoác lác
trước như thế!
Phía dưới thành phố về mé hạ lưu, nơi có
pháo đài bằng đất của Piotr Matveevich Apraxin dựng trên con suối Roxogne, quân
lính và xe cộ đang từ từ tiến lên, lờ mờ trong đám bụi bay mù mịt. Các trung
đoàn bộ binh và kỵ binh vượt qua cầu nổi và đóng vị trí trên tả ngạn, cách
thành phố chừng năm dặm. Tại đó người ta đã trông thấy trắng xóa những lều,
khói lửa trại bay lên trong không khí yên tĩnh, những con ngựa đã tháo yên
cương đi tha thẩn trong cánh đồng cỏ... Có tiếng rìu bổ và những cây thông cổ
thụ, rung rinh ngọn đổ vật xuống.
- Quân ta mới chỉ xếp xe cộ và những chướng
ngại vật cự mã vây quanh; để cho thêm cẩn thận, bệ hạ sẽ ra lệnh cho đào hào và
dựng rào chăng? - vương hầu Anikita Ivanovich Repnin hỏi. Ông là một người cẩn
thận, biết điều và thông thạo việc quân, can đảm và không huênh hoang, nếu cần,
sẵn sàng chết vì một sự nghiệp lớn, không lùi. Trông bộ dạng ông không có vẻ gì
đặc sắc mặc dầu ông tự cho mình dòng dõi quý tộc còn lâu đời hơn cả Sa hoàng
Piotr, ông ta gầy gò ốm yếu, cận thị, nhưng cặp mắt nhỏ, với mí mắt nhăn nheo,
long lanh một ánh thông minh.
- Hào và rào cũng sẽ chẳng cứu được ta.
Chúng ta tới đây không phải là để ẩn nấp sau hàng rào, - Piotr Alekseevich càu
nhàu và quay ống nhòm mỗi lúc một xa về phía Tây.
Samber vốn có thói quen uống một cốc vodka
lớn từ sáng sớm để lấy tinh thần hăng hái, nói với một giọng khàn khàn vì rượu:
- Có thể ra lệnh cho quân lính không bỏ
giầy, vũ khí sẵn sàng mà ngủ. Nhưng ích gì? Nếu quả thực tướng Slipenbac hiện ở
Vedenberg thì phải hơn một tuần lễ nữa hắn mới tới đây được.
- Không phải lần đầu tiên ta đợi quân Thụy
Điển tại đây. Xin đủ! Ta sẽ không để bị lừa một lần nữa, - Piotr Alekseevich
nói với một giọng lạnh lùng.
Melsikov bật một tiếng cười to.
Về phía Tây, về phía mặt biển mà Piotr
Alekseevich đang chăm chú nhìn, không một làn gió nào gợn mặt nước màu xám nhờ
nhờ đang ngủ lặng dưới ánh sáng chan hòa. Cố gắng một chút, có thể nhận ra trên
chân trời rõ nét, những cột buồm của vô số chiến thuyền đã hạ buồm. Đó là hạm
đội của thủy sư đô đốc De Pru có cánh tay bằng bạc, buộc phải đứng im tại chỗ
vì gió lặng. Apraxin, hai tay nắm lấy lan can của bệ đứng đang lung lay nói:
- Tâu Ngài pháo thủ, làm sao mà thần không
sợ một lực lượng như vậy, năm chục chiến thuyền và một thủy sư đô đốc dũng cảm
như thế... Thực ra, chính Chúa đã phù hộ thần, làm cho tên khốn kiếp kia không
có gió.
- Biết bao nhiêu thứ ngon lành sẽ bị mất đi
ở ngoài đó hả? - Melsikov lấy ngón tay đếm các cột buồm ở chân trời. - Hẳn là
khoang thuyền của hắn đầy ắp những lươn sấy, cá dìa, cá mòi, giăm bông Revan...
Mà thứ giăm bông mới ngon làm sao! Ở Revan họ ăn sành lắm! Nóng nực thế này,
mọi thứ sẽ thiu thối hết, cái thằng quỷ cụt tay ấy sẽ phải vứt tất cả xuống
biển. Apraxin, Apraxin, ông ở ngay bên bờ biển này mà để thế ư? Ê đồ chỉ quen
sống trên đất liền! Sao không có thuyền? Trời lặng gió như thế này, chỉ cần chở
một đại đội lính pháo thủ ra là De Pru sẽ không còn biết chui vào đâu nữa.
- Một con hải âu đỗ trên cát! - Piotr
Alekseevich bỗng kêu lên. - Ta quả quyết với các ngươi rằng nó sẽ đỗ xuống! -
Mặt nhà vua rất vui vẻ, hai con mắt tròn xoe. - Ta đánh cuộc mười eccus rằng thời tiết sẽ thay đổi... Ai
muốn cuộc nào? Thế mà cũng tự cho mình là thủy thủ đấy! Đừng rên rẩm nữa,
Danilys, rất có thể chúng ta sẽ được nếm giăm bông của thủy sư đô đốc!
Nhà vua đút ống nhòm vào trong áo và đâm bổ
xuống thang. Đại tá Ron vội chạy tới đỡ nhà vua nhảy xuống đất.
- Phái ngay một đội kỵ binh đi trước, - Sa
hoàng bảo đại tá, - và mang một đội kỵ binh khác theo ta!
Nhà vua lên ngựa và quay về phía Narva, cho
ngựa phi nước kiệu; con ngựa thiến sắc hồng, lực lưỡng, tai to, là quà tặng của
nguyên soái Seremetiev, đã bắt được của chính Slipenbac tại trận Erexfe, người
ta nói thế. Piotr Alekseevich không ưa cưỡi ngựa lắm và khi ngựa chạy nước
kiệu, nhà vua nhổm rất cao trên yên.
Trái lại Alekxandr Danilovich thúc con ngựa
nòi của mình, trắng như bông, cũng bắt được của địch; con ngựa có con mắt tươi
tỉnh, có vẻ như đùa nghịch với người cưỡi nó; khi thì con ngựa phi tạt sang một
bên trên cánh đồng cỏ xanh, khi thì nó chồm lên, vó đen đá vào không khí, đuôi
quất mạnh, rồi lại phóng đi như điên; chiếc áo choàng ngắn bằng dạ đỏ rực mà
Alekxandr Danilovich khoác trên vai, tung bay sau lưng hắn, những chiếc lông
chim cắm trên mũ và đẩu chiếc khăn quàng lụa bay lượn.
Tuy trời nóng nhưng ngày hôm đó rất đẹp,
chim chóc hót vang và ríu rít trong các lùm cây, trong các khu vườn bỏ hoang.
Anikita Ivanovich Repnin, quen đi ngựa từ
thuở bé như người Tarta, bình tĩnh nhấp nhổm trên cái yên cao, trên lưng con
ngựa nhỏ thuần thục, chạy ở một bên. Apraxin nhễ nhại mồ hôi dưới bộ tóc giả to
sù; đối với người Nga, bộ tóc giả thật chẳng tiện mà cũng chẳng đẹp.
Xa xa phía trước, đội long kỵ binh tản ra
len lỏi qua các bụi rậm. Đội thứ hai theo sau, hàng ngũ chặt chẽ, đi đầu là đại
tá Ron, một gã đẹp trai, giỏi rượu, cũng phiêu bạt giang hồ như tướng Samber,
đã đem lưỡi gươm và danh dự của mình phục vụ Sa hoàng Piotr.
Piotr Alekseevich trỏ cho Samber, đang cưỡi
ngựa đi bên cạnh những hào hố, những lũy cao mọc đầy bụi rậm và cỏ dại, những
cọc đã gần mục nát nhô lên khắp mặt đất.
- Nơi đây quân của ta đã bị tiêu diệt, -
nhà vua bình thản nói. - Nơi đây, vua Charles đã dành được vinh quang và chúng
ta đã dành được sức mạnh. Nơi đây, chúng ta đã học được cách phải bắt đầu từ
đâu nếu ta muốn thắng, nơi đây chúng ta đã mãi mãi chôn chặt cuộc đời xưa kia
chúng ta đã sống, mòn mỏi mục nát, và xuýt nữa đã đưa chúng ta đến cho tiêu ma
hoàn toàn.
Nhà vua quay đi. Nhìn quanh, Piotr
Alekseevich trông thấy gần đó có một túp nhà bỏ hoang, mái đã sụp đổ. Nhà vua
cho ngựa đi chậm lại, khuôn mặt tròn của nhà vua bỗng trở nên lầm lì. Melsikov
lại gần vui vẻ nói:
- Myn
Herz, đúng là cái túp nhà này... Bệ hạ nhớ chứ?
- Có.
Piotr Alekseevich cau mày quất ngựa và lại
bắt đầu nhấp nhổm trên yên. Làm sao nhà vua có thể quên được cái đêm không ngủ
ấy trước ngày thất bại? Ngồi trong căn nhà nhỏ, nhà vua nhìn ngọn nến cháy hết một
nửa đang chảy; Alexaska nằm trên tấm thảm bằng nỉ, âm thầm khóc. Thật khó khăn
lắm mới khắc phục được nỗi tủi hổ, niềm thất vọng và sự giận dữ bất lực trong
lòng mình, thật khó khăn lắm mới có thể nhẫn nhục chịu để vua Charles đánh bại
một cách chắc chắn vào ngày hôm sau. Thật là đau khổ phải tính đến cái nước
không thể tưởng tượng được, không thể nào chịu nổi là rời bỏ quân đội vào một
lúc như thế, lên xe trượt tuyết phóng về Novgorod để làm lại tất cả từ đầu.
Kiếm ra tiền, lúa mì, sắt... Dùng mọi cách, thậm chí bán cả chiếc áo lót cuối
cùng của mình cho bọn thương nhân ngoại quốc để mua vũ khí. Đúc đại bác, đúc
đạn... Và điều chủ yếu là tìm ra người, tìm nữa, tìm mãi!
Kéo dân chúng ta khỏi vùng lầy ngàn đời, mở
mắt họ ra, thúc giục họ... Vật lộn để cho họ tinh khôn lên, dạy dỗ họ. Đi hàng
ngàn cây số trong bùn, trong tuyết... Phá hủy, xây dựng...
Gạt bỏ muôn ngàn cạm bẫy của trường chính
trị châu Âu. Và ngoái cổ nhìn lại đằng sau, lo lắng thốt lên:
- Công việc còn lại phải làm mới lớn làm
sao!
Toán long kỵ binh đi tiên phong vượt ra
ngoài bóng thông ấm áp tiến vào một cánh đồng cỏ rộng, trước tường thành Narva
dựng sừng sững bên kia cái hào đầy nước. Dân chúng hốt hoảng vừa chạy vừa kêu,
vội vã lùa gia súc vào trong thành. Chẳng mấy chốc cánh đồng đã vắng tanh,
chiếc cầu treo kêu cót két, từ từ rút lên và đóng sầm vào cửa.
Piotr Alekseevich cho ngựa đi bước một, leo
lên ngọn đồi. Tất cả lại rút ống nhòm ra quan sát những bức tường thành cao và
dày, cỏ mọc ở các kẽ đá. Trên đỉnh ngọn tháp dựng liền bên cửa thành kiên cố có
thể trông thấy bọn Thụy Điển đội mũ sắt và đeo cổ áo bằng da trâu. Một tên giơ
thẳng cánh tay cầm một lá cờ vàng. Một tên khác, nổi bật lên vì tầm vóc cao
lớn, lại gần lan can, tựa khuỷu tay vào chỗ lỗ châu mai và cũng cầm ống nhòm
chiếu nhìn đám kỵ sĩ đứng trên đồi, rồi chĩa vào Piotr Alekseevich.
- Những thằng mới gớm làm sao! Cứ trông
thấy chúng trên tháp cũng đã đủ sợ rồi, - Apraxin vừa thì thầm bảo Repnin, vừa
cầm mũ quạt. - Bây giờ ông đã hiểu tất cả những nông nỗi tôi phải chịu đựng một
mình với chín khẩu đại bác ở cửa sông Narova, khi hạm đội của chúng tiến đánh
tôi rồi chứ... Cái thằng cha cao lớn, cầm ống nhòm kia là một thằng nguy hiểm
đấy, có thể tin ở lời tôi được... Ngay trước khi các ông đến, tôi đã gặp nó ở
giữa đồng bằng, tôi định bắt nó. Đừng hòng!
- Cái tên cao lớn ở trên tháp kia là đứa
nào thế? - Piotr Alekseevich hỏi, giọng khàn khàn.
- Tâu bệ hạ, đó chính là tướng Horne, tư
lệnh Narva.
Apraxin vừa nói ra cái tên đó, Alekxandr
Danilovich đã thúc ngựa, phóng nước đại qua cánh đồng cỏ về phía tháp.
- Đồ ngu xuẩn!
Piotr Alekseevich tức giận điên người hét
theo sau lưng hắn. Nhưng gió rít bên tai Melsikov khiến hắn không nghe thấy.
Tới gần sát cửa thành Narva, hắn dừng ngựa lại, bỏ phắt mũ ra vẫy, vừa vẫy vừa
hét, giọng kéo dài:
- Ô hê! bớ bọn trên tháp kia! Ô hê! Bớ ngài
tư lệnh! Ta sẽ để cho bay ra khỏi thành với danh dự quân nhân trọn vẹn, với
quân trang quân bị, cờ dong, quân nhạc đi đầu! Hãy biết điều mà rút đi!
Tướng Horne hạ ống nhòm xuống để nghe gã
người Nga kia, quần áo lòe loẹt như một con gà trống, đang lồng lộn trên con
ngựa trắng. Lão quay về phía một tên Thụy Điển, chắc hẳn là phiên dịch. Khuôn
mặt khắc khổ của lão già nhăn lại như thể vừa uống phải dấm chua, lão cúi qua
bờ tường thành và nhổ về phía Melsikov.
- Câu trả lời của ta đó, đồ xuẩn! - lão hét
to, - Mi sẽ nhận được ngay bây giờ một cái còn thẳng cánh hơn kia.
Trên tháp, quân Thụy Điển phá lên một tiếng
cười nhục mạ... Một ánh lửa lóe sáng, một đám mây nhỏ bốc lên, viên đạn trái
phá xé không khí bay rít qua đầu Melsikov.
- Ô hê hê hê! Bớ quân Thuỵ Điển! - Anikita
Ivanovich Repnin cất giọng yếu ớt hét lên. - Bay bắn tồi lắm, hãy gửi bọn pháo
thủ của bay sang bên ta, ta dạy dỗ cho.
Trên đồi, tiếng cười cũng vang lên.
Alekxandr Danilovich biết rằng dẫu thế nào thì cũng không thoát khỏi ăn roi của
vua Piotr Alekseevich, cứ tế ngựa lượn đi lượn lại, vẫy chiếc mũ nỉ và nhe răng
giễu bọn Thuỵ Điển cho đến khi viên đạn trái phá thứ hai nổ cách hắn có hai
bước và con ngựa nòi, chồm sang một bên, phóng đi, đưa người ngồi trên lưng nó
chạy xa khỏi tháp.
Sau khi đã đi một vòng và đếm được ít ra là
ba trăm khẩu đại bác trên tường thành, Piotr Alekseevich quay về và tạt vào căn
nhà bỏ hoang nổi tiếng kia; nhà vua xuống ngựa, bảo mọi người đợi và ra lệnh
cho Melsikov đi theo vào căn phòng mà bốn năm trước đây nhà vua đã cam lòng
chịu nhận lấy nỗi tủi hổ và nhục nhã vì lợi ích của Quốc gia Nga.
Trước kia, phòng này có một cái lò tốt; giờ
đây chỉ còn trông thấy một đống gạch đen sì ngổn ngang trên mặt đất đầy rơm và
phân súc vật. Có vẻ căn nhà này là nơi nhốt dê cừu ban đêm. Piotr Alekseevich
ngồi lên bậu cửa sổ, kính đã vỡ hết; Alexaska, vẻ mặt tiu nghỉu, đứng trước mặt
nhà vua.
- Danilys, ngươi hãy nhớ kỹ điều này: ta mà
còn thấy ngươi huênh hoang một cách ngu dại nữa thì thề có Chúa, ta sẽ lấy roi
tuốt xác ngươi ra. - Piotr Alekseevich nói. - Ngươi im đi, đừng có cãi... Hôm
nay, tự ngươi đã chọn lấy số phận mình... Ta vẫn tự hỏi: không biết nên trao
quyền chỉ huy đội quân vây thành cho ai: cho ngươi hay đại nguyên soái Oginvy?
Trong việc này ta muốn dùng một người Nga hơn... Nhưng anh bạn ơi, ngươi đã làm
hỏng hết mọi việc. Ngươi đã nhảy nhót trên lưng ngựa như một thằng leo dây múa
rối trước mặt tướng Horne! Thật xấu hổ! Cho đến nay, ngươi vẫn chưa quên được
các bãi chợ và các buổi chợ phiên của Moskva. Lúc nào ngươi cũng muốn làm hề,
như ở bàn ăn của ta vậy! Vậy mà toàn thể châu Âu nhìn vào ngươi đấy, đồ ngu! Im
đi, đừng có cãi. - Nhà vua khịt khịt mũi, nhồi thuốc lá vào tẩu - Và còn điều này
nữa, Danilys: ta đã nhìn lại những bức tường kia, ta rất phân vân. Chúng ta
không thể bỏ Narva một lần thứ hai được. Narva là cái chìa khóa của toàn bộ
cuộc chiến tranh. Nếu Charles chưa hiểu điều đó thì ta, ta đã hiểu... Ngày mai,
toàn thể quân đội của ta sẽ bao vây thành, không một người nào, ngay cả một con
chim, có thể lọt ra được. Đại bác công thành của ta hai tuần lễ nữa mới tới nơi...
Và rồi sau đó thì ta sẽ làm gì? Tường thành rất kiên cố, tướng Horne lại bướng
bỉnh, Slipenbac đang đuổi theo chúng ta bén gót... Nếu chúng ta cứ ở đây mà dậm
chân tại chỗ thì rồi chúng ta lại còn phải chống chọi cả với vua Charles sẽ kéo
quân từ Ba Lan tới. Cần phải đánh chiếm thành này cho nhanh và ta không muốn đổ
máu quân lính của ta vô ích... Danilys, ngươi thấy thế nào?
- Chắc có thể nghĩ ra một kế gì đó... Cũng
chẳng khó khăn gì... Nhưng đã có đại nguyên soái Oginvy chỉ huy ở đây, ông ta
cứ việc đọc trong sách của ông ta xem nên làm gì. Còn thần thì biết nói gì
được? Có nói thì lại chỉ là một điều ngu ngốc nữa, một điều thô lỗ của một gã
nhà quê.
Melsikov dậm chân tại chỗ, ngập ngừng không
muốn nói, bỗng hắn ngẩng đầu lên: gương mặt Piotr Alekseevich buồn rầu và bĩnh
tĩnh, ít khi hắn thấy nhà vua như vậy... Alexaska thương hại thấy nhói ở tim
như bị dao đâm.
- Myn
Herz, - hắn khẽ nói, lông mày cau lại, - Myn Herz, sao, bệ hạ làm sao vậy? Bệ hạ hãy chờ cho đến tối nay,
thần sẽ tới lều của bệ hạ, nhất định thần sẽ tìm ra được một kế gì... Bệ hạ
không biết người của ta sao? Bây giờ không phải là năm 1700 nữa... Lạy Chúa,
xin bệ hạ đừng phiền muộn!
-------------
Chú thích:
(1)
Đơn vị đo lường thời xưa, một toadơ bằng 1,949 mét.
Chương 153
Trong cái lều vải rộng rãi, cũng y như trong căn nhà nhỏ tại Petersburg , Nartov đã chú
ý bày trên cái bàn gập các thứ dụng cụ, những hộp com-pa, giấy và các bản đồ
quân sự. Qua cửa lều hơi đất nóng hồi phả vào như qua miệng một cái lò; trong
cỏ, tiếng dế kêu lanh lảnh, chói tai đến phải lấy bông tẩm hắc ín mà đút nút
hai lỗ tai lại.
Piotr Alekseevich ngồi ở bàn làm việc, hai
bàn chân để trần xỏ vào đôi giầy vải, mặc sơ-mi mở phanh ngực và quấn chẽn kiểu
Hà Lan ngắn đến đầu gối. Chốc chốc, nhà vua lại đứng dậy, đi tới một góc lều để
Nartov dội lên đầu một bình nước suối. Từ đầu chiến dịch Narva, vả lại bao giờ
cũng thế - công việc khẩn cấp cứ ùn lên.
Aleksey Vaxilievich Makarov, một thanh niên
nhũn nhặn, làm nhiệm vụ thư ký từ ít lâu nay, đứng ở gần bàn, trước một mớ giấy
tờ và đưa các công văn cho Sa hoàng ký; hắn nói rành rọt, cất cao giọng vừa đủ
để át tiếng côn trùng kêu lanh lảnh:
- Chiếu chỉ cho Aleksey Xidorovich Xiniavin
lãnh nhiệm vụ quản lý các nhà tắm công cộng ở Moskva và các thành phố khác, -
hắn nói và nhẹ nhàng đặt xuống trước mặt Sa hoàng tờ giấy có viết bản chiếu chỉ
ở cột bên trái. Piotr Alekseevich đưa mắt đọc lướt qua, chấm bút lông ngỗng vào
lọ mực và vội vàng bỏ sót cả chữ, viết chéo bên phải tờ giấy, những hàng chữ to
đọc không rõ:
“Ở
bất cứ nơi nào có thể được đặt bên cạnh các nhà tắm công cộng, những phòng cạo
râu để làm cho mọi người quen dần với việc cạo râu. Thêm nữa: tại các nhà tắm,
nên dùng những người lấy chai chân giỏi”.
Makarov đặt trước mặt nhà vua một tờ khác:
- Chiếu chỉ cho Piotr Vanlievich Kikin lãnh
nhiệm vụ quản lý các nơi đánh cá và các cối xay chạy bằng nước trong toàn lãnh
thổ vương quốc... - Bàn tay Piotr
Alekseevich với một giọt mực đọng ở đầu ngòi bút, dừng lại bên trên tờ giấy:
- Ai thảo chiếu chỉ này?
- Tâu bệ hạ, chiếu chỉ này do vương hầu
chấp chính gửi từ Moskva tới để bệ hạ tự tay ký.
- Moskva đầy những kẻ vô công rồi nghề ngồi
ngáp dài bên cửa sổ, hốc dâu chua cho đỡ buồn. Nhưng khi có công việc nghiêm
chỉnh thì chẳng còn tìm thấy đứa nào... Thôi được, cứ thử dùng tên Kikin này
xem sao. Nếu nó có thói tắt mắt, ta sẽ tuốt da nó ra. Ngươi hãy viết thư cho
vương hầu chấp chính biết rằng ta có những điều nghi ngại về tên Kikin này.
- Đây là một bản báo cáo của trung tá
Aleksey Brovkin, một liên lạc viên đã đem từ Petersburg tới, - Makarov nói
tiếp. - Sáu cây thược dược do Tikhon Ivanovich Xtresnev gửi từ Moskva tới cho
vườn hoa của bệ hạ, đã đến nơi, nhưng người làm vườn Leonov không kịp đem
trồng. Vì ông ta chết rồi.
- Sao, chết rồi à? - Piotr Alekseevich hỏi.
- Ngươi nói cái gì vậy?
- Ông ta tắm ở sông Neva, chết đuối.
- Chắc hắn lại say rượu rồi... Ngươi thấy
không, như thế đấy: những người tốt không bền được lâu... Mà hắn lại là một tay
làm vườn rất giỏi... Thật đáng tiếc! Viết đi.
Piotr Alekseevich đến góc lều để người hầu
dội nước lên đầu và vừa rũ tóc vừa tiếp tục đọc cho Makarov; gã này, vẫn đứng
viết một cách khéo léo trên góc bàn:
- Gửi Xtresnev: “Thược dược của ngươi đã tới nơi, toàn vẹn, nhưng tiếc rằng ngươi gửi ít
quá. Ngươi hãy chú ý đừng để mùa hoa qua đi, và gửi từ Izmailovo tới cho ta các
thứ hoa nhất là loại hoa thơm, như phụng tiên, bạc hà và hương mộc... Hãy cử
đến Petersburg cho ta một người làm vườn khéo cùng với gia đình hắn để hắn khỏi
buồn... Và lạy Chúa, ngươi hãy viết thư cho ta biết Catherine Vaxilievskaia,
Anixia Tolstaia và những người xung quanh sống ở Izmailovo thế nào... Ngươi chớ
quên cho ta biết tin luôn luôn... Đồng thời ngươi cũng cho ta biết việc tuyển
mộ lính long kỵ binh đã đến đâu rồi: cần phải tuyển mộ cho nhanh một trung đoàn
gồm những lính giỏi nhất có thể tìm được và đưa ngay tức khắc đến Narva...”
Nhà vua trở về bàn, đọc lại những điều
Makarov vừa viết và vừa ký vừa khe khẽ cười trong miệng.
- Còn gì nữa không? Nhưng đừng có đưa tất
cả mớ giấy tờ này lần lượt cái một, hãy đưa cho ta những cái quan trọng nhất.
- Một bức thư của Grigori Fedorovich
Dolgoruki, viết từ Xokan cho biết quân đội của ta đã tới nơi bình an vô sự.
- Đọc lên.
Piotr Alekseevich nhắm mắt lại và vươn cổ
ra, hai bàn tay to lớn, khỏe, đầy những vết sây sát, đặt trên bàn.
- Dolgoruki viết: “từ khi quân Nga tới Xokan, vua Auguste đã lấy lại được một dũng khí quá
hung hăng và muốn dàn trận đánh nhau ngay với vua Charles, hy vọng rằng, với sự
phù hộ của Chúa, sẽ có thể rửa được nỗi nhục ở Klixov. Đặc biệt là đám nhân
tình của nhà vua đã thúc giục nhà vua làm cái việc điên rồ đó; hiện nay có hai
người và vua Auguste sống một cuộc sống rất sóng gió. Dimitri Mikhailovich
Golixyn chật vật lắm mới thuyết phục được nhà vua từ bỏ ý định giao tranh ngay
với Charles. (Vua Thụy Điển, như một con sói dữ, chỉ chờ một cơ hội tốt như thế
thôi), và chỉ cho nhà vua con đường tiến về Warsawa, nơi đây vua Charles chỉ để
một lực lượng yếu ớt phòng thủ. Sự thể rồi sẽ ra sao, chỉ có Chúa biết...”.
Piotr Alekseevich kiên nhẫn ngồi nghe hết
bức thư dài, môi nhà vua, điểm một vạch ria, cong lên, để hở hàm răng. Nhà vua
lắc mạnh cổ:
- Ta có một ông bạn đồng minh mới báu chứ!
- nhà vua lẩm bẩm và rút một tờ giấy trắng, lấy móng tay gãi gáy, thảo thư trả
lời Dolgoruki; ngòi bút hầu như theo không kịp dòng ý nghĩ của nhà vua:
“Ta
cũng ra lệnh cho các hạ ráng sức làm cho vua Auguste từ bỏ cái ý đồ tai hại và
nguy hiểm đó đi. Nhà vua mơ tưởng dốc toàn lực đánh một trận quyết định, trông
chờ vào số phận, nói một cách khác là trông chờ vào vận may của mình nhưng chỉ
có đức thượng đế mới quyết định cái đó... Còn như người trần chúng ta đây, lý
trí buộc chúng ta phải xem xét đến những cái gần gũi, những sự việc ở cõi trần...
Vậy mà ý định giao chiến đó thật rất nguy hiểm cho vua Auguste, nhà vua có thể
mất sạch tất cả trong một tiếng đồng hồ, nếu trận đánh kết thúc một cách tai
hại. Cầu Chúa tránh cho nhà vua cũng như cho tất cả chúng ta điều đó - hoàng
thượng Auguste không những sẽ bị quân địch làm tình làm tội mà sẽ còn bị bọn Ba
Lan điên cuồng - giận dữ vì tai họa nhà vua đã gây ra cho tổ quốc họ, phế truất
và đuổi khỏi ngai vàng một cách nhục nhã. Tự chuốc lấy những điều bất hạnh ấy
làm gì? Còn những chuyện các hạ báo cho ta biết về các nhân tình của nhà vua
thì quả thật, chẳng có phương thuốc gì cứu chữa nổi cơn sốt nóng ấy... Ta chỉ
nói một điều này: hãy cố gây cảm tình với các phu nhân ấy và liên minh với họ...”.
Khói thuốc lá làm không khí không thể thở
được. Piotr Alekseevich ký “Ptr”, ngòi bút bật mực ra giấy, rồi ra khỏi lều,
giữa cái nóng như thiêu như đốt.
Từ trên đồi nơi Sa hoàng đứng, nhà vua
trông thấy về phía Narva một đám bụi mù mịt bốc lên dưới đoàn xe cộ và đám quân
lính đang từ doanh trại đi về các vị trí chiến đấu trước mặt thành. Piotr Alek
seevich đưa bàn tay lên xoa ngực, trên làn da trắng: tim nhà vua đập thong thả,
rành rọt. Nhà vua đưa mắt nhìn về phía các chiến thuyền của đô đốc De Pru đang
vật vờ trên mặt biển mông mênh trong suốt như pha lê, đầy ấp lương thực đủ cung
cấp cho toàn bộ quân đội Nga.
Trời, đất và biển như thẫn thờ trong chờ
đợi, tựa hồ ngay dòng thời gian cũng dừng lại.
Bỗng một đàn chim đen đông vô kể bay tán
loạn qua ngọn đồi, sải cánh bay miết về phía rừng. Piotr Alekseevich ngẩng đầu
lên; đúng thế! Từ phía Tây Nam, những đám mây trong suốt ùn lên rất nhanh và
rất cao trong bầu trời nóng sực, loang loáng như ánh sắt tây.
- Makarov! - nhà vua gọi. - Ngươi có muốn
đánh cuộc mười đồng eccus không?
Lập tức gã thư ký trẻ, mũi nhọn, da mặt khổ
cứng vì mệt mỏi và thức đêm, cặp môi mỏng và thẳng không bao giờ cười, bước ra
khỏi lều.
- Xin tùy ý bệ hạ, - hắn nói và rút trong
túi ra một bọc tiền.
Piotr Alekseevich giơ tay ngăn lại:
- Ngươi đi bảo Nartov lấy cho ta áo khoác
thủy thủ, mũ vải dầu và, đôi ủng cao... Và bảo buộc lại lều cho thật chắc, nếu
không một cơn gió sẽ có thể thổi tung đi đấy... Bão sẽ to lắm.
Bao giờ cũng vậy, biển hấp dẫn, lôi cuốn
Piotr Alekseevich... Mặc chiếc áo thủy thủ rộng, đội mũ vải đầu sụp xuống tận
gáy, Sa hoàng tế ngựa ra bờ biển, có một nửa trung đội long kỵ binh hộ tống.
Nhà vua đã sai người đến doanh trại Apraxin lấy hai khẩu đại bác và một đội
lính thủ pháo.
Mặt trời rọi ánh nắng gay gắt như một con
bọ cạp giương ngòi trước khi chết. Từng cột bụi quay cuồng trên các nẻo đường.
Gió giật từng cơn thổi trên mặt sóng. Một đám mây đen ùn lên từ phía chân trời
tối sầm. Cuối cùng, biển phả vào một mùi rong biển và vẩy cá. Gió mỗi lúc một
mạnh thêm, gào rít với tất cả lồng ngực của Hải vương thần.
Tay giữ cái mũ vải dầu, Piotr Alekseevich
vui vẻ cười, hàm răng nhe ra trước gió. Nhà vua từ trên lưng ngựa nhảy xuống
bãi cát. Một lần cuối cùng, mặt trời lóe sáng, xuyên qua đám mây lổn nhổn, một
thứ ánh sáng nhờ nhờ lướt trên mặt sóng cuồn cuộn. Đột nhiên trời đất tối sầm.
Sóng lô xô mỗi lúc một cao và đổ xuống, tung tóe thành mưa bụi. Những ánh sáng
nhợt nhạt rọi vào khắp đám mây ầm ầm tiếng sấm động, sáng rực như bốc cháy. Một
tia chớp lằng nhằng lóe lên, chói lòa và đánh xuống nước, ngay gần đó. Tiếng nổ
mạnh đến nỗi những người trên bờ ngồi thụp cả xuống, tưởng như trời sụp.
Melsikov xuất hiện bên cạnh Piotr
Alekseevich, cũng mặc áo khoác thủy thủ và đội mũ vải dầu như nhà vua.
- Chà! Bão to nhỉ! Gió mạnh lắm! - Piotr
Alekseevich hét lên.
- Myn
Herz, bệ hạ tinh thật!
- Bây giờ ngươi mới biết à?
- Sẽ có chiến lợi phẩm chứ?
- Hãy kiên nhẫn, hãy kiên nhẫn!
Không phải chờ đợi lâu. Trong ánh chớp, các
chiến thuyền và thuyền vận tải của đô đốc De Pru hiện ra, rất gần - cơn bão đã
đánh giạt chúng vào bờ biển, vào các bãi cát ngầm. Chúng như nhảy múa trên
sóng, cột buồm chao đảo, trên cột chỉ còn những mảnh buồm đập phành phạch, các
mũi thuyền cao chạm trổ, gắn tượng Hải vương thần và tiên nữ mình người đuôi cá
chồm lên. Hình như chỉ một lát nữa thôi là cả đoàn tàu tan tác sẽ bị xô vào bờ.
- Giỏi lắm! Giỏi lắm! - Piotr Alekseevich
bỗng kêu lên. - Hãy xem kìa! Thật là một tay đô đốc cừ! Hắn kéo buồm cạnh mũi,
kéo buồm mũi giả, dựng các buồm mũi, hắn thả các buồm giữa! Thằng cha gớm thật,
Danilys, hãy học tập làm được như hắn!
- Ồ! hắn sắp chuồn, hắn thoát khỏi tay ta
mất! - Melsikov rền rĩ.
Phải chăng gió đã đổi chiều hay là tài nghệ
của viên đô đốc đã thắng trong cuộc vật lộn với biển cả, dẫu sao thì thuyền của
hắn, chạy vát với những cánh buồm tạm bợ, cứ xa dần và cuối cùng biến mất ở
chân trời, chỉ có ba tàu vận tải, chở rất nặng, là tiếp tục bị thổi giạt vào
các bãi cát. Các trục buồm va chạm nhau chan chát và cánh buồm rách tả tơi đập
phành phạch trước gió, chúng đâm vào một chỗ nước cạn, cách bờ chừng ba trăm
bước. Những đợt sóng lớn xô ba chiếc tàu đổ nghiêng về một bên, quét sạch cầu
tàu, cuốn đi các xuồng và thừng, bẻ gãy các cột buồm.
- Gắng lên! Bắn! Nhưng bắn ngắn, cốt để cho
chúng sợ thôi! - Melsikov ra lệnh cho lính pháo thủ.
Súng đại bác gầm lên và đạn trái phá nổ
tung nước dọc mạn một chiếc tàu; trên tàu bắn trả bằng súng ngắn. Piotr
Alekseevich lên ngựa và thúc ngựa đi xuống biển. Lính thủ pháo theo sau, vừa
chạy vừa hò reo. Melsikov phải xuống ngựa, ngựa của hắn ì ra không chịu đi: hắn
cũng lội xuống nước đục ngầu; vừa lội vừa nhổ và gọi bọn Thuỵ Điển:
- Ê! bớ bọn kia trên các tàu! Hãy nhảy
xuống nước! Đầu hàng đi!
Chắc hắn quân Thụy Điển rất hoảng sợ người
kỵ sĩ đang phi ngựa giữa sóng biển và những tên lính thủ pháo cao lớn, râu xồm,
đang xông lên cận chiến, nước ngập đến ngang ngực và vừa giơ những quả thủ pháo
xì khói hăm dọa, vừa nguyền rủa chửi bới. Thủy thủ và quân lính bèn nhảy cả
xuống nước. Chúng giơ súng, giơ gươm, luôn miệng kêu: “Moskv, Moskv(1), bạn!”, rồi từ từ leo lên bờ; tới nơi, quân long kỵ
binh vây chúng lại. Về phía hắn, Melsikov, theo sau là đám lính thủ pháo, trèo
lên mạn lái chạm trổ của một chiếc tàu và bắt tên thuyền trưởng; nhưng chỉ một
lát sau, Alekxandr Danilovich đã vỗ vào lưng y với một vẻ bề trên và trả lại y
thanh gươm ngắn; rồi từ trên thuyền, hắn gọi to:
- Tâu Ngài pháo thủ, trong hầm tàu hơi có
mùi, nhưng viên thuyền trưởng quả quyết rằng cá mòi và thịt muối vẫn ăn được.
-------------
Chú thích:
(1)
Moskva.
Chương 154
Để bao vây Narva, quân đội Nga đã dàn ra thành hình móng ngựa, hai
cánh dựa vào con sông, mé trên và mé dưới tòa thành. Trên bờ sông bên kia,
thành Ivan-gorod cũng bị bao vây y như vậy. Người ta đảo hào, dựng rào và những
chướng ngại vật cự mã. Doanh trại quân Nga ồn ào, ầm ĩ, khói bụi mù mịt.
Từ trên các tường thành, quân Thụy Điển
theo dõi công cuộc chuẩn bị đó với một con mắt ủ rũ. Sau cơn bão đã làm tan tác
hạm đội của đô đốc De Pru, chúng điên khùng nã đại bác vào cả những người cưỡi
ngựa đi lẻ loi, vì muốn gần, băng tắt qua cánh đồng cỏ, trước mặt các pháo đài
đáng sợ của quân Thụy Điển.
Theo lệnh Sa hoàng Piotr, các thùng cá mòi
và thịt muối, dỡ ở các tàu vận tải xuống, được đưa về doanh trại, trên những cỗ
xe có cắm cành cây, cho quân Thụy Điển trông thấy rõ, theo sau đoàn xe là một
toán lính khiêng một người to béo trần truồng, quấn đầy rong biển, và gào lên
một bài tục tĩu về đô đốc De Pru và tướng Horne. Thịt và cá được phân phát hàng
thùng cho các đại đội và các khẩu đội pháo. Quân lính, vung lưỡi lê xiên một
con cá mòi hoặc một miếng mỡ, hét to:
- Ô hê! bớ quân Thụy Điển, bay muốn có đồ
nhắm không.
Thế là quân Thụy Điển không thể chịu được
nữa. Tiếng kèn nổi lên, trống đánh thùng thùng, chiếc cầu rút hạ xuống và một
trung đội quân giáp kỵ từ trong thành xông ra, những con ngựa lực lưỡng xô lấn
nhau khi qua cửa. Đầu đội mũ sắt có múi cúi rạp xuống, những thanh gươm to bản
chĩa ra giữa hai tai ngựa, quân Thụy Điển nặng nề lao vào các vị trí của quân
Nga. Phải bỏ các thức ăn đấy, vớ được cái gì dùng cái nấy, để đánh lui cuộc tấn
công: gậy gộc, xẻng, chổi lau nòng súng đại bác. Cuộc đánh lộn diễn ra khắp
nơi, không gian vang động tiếng hò hét. Nhưng trông thấy quân long kỵ binh Nga
xông ra đánh tập hậu và những lính thủ pháo dữ tợn đang leo qua rào, quân giáp
kỵ Thụy Điển quay ngựa bỏ chạy. Chỉ có vài đứa nằm lại tại chiến trường và
người ta thấy những con ngựa hoảng sợ, không người cưỡi, chạy lồng lên một hồi
lâu trong cánh đồng cỏ và lính Nga phi ngựa đuổi bắt.
Ngoài những trận đột kích đó, quân Thụy
Điển không tỏ vẻ gì là lo ngại. Theo lời bọn tù binh khai thì tướng Horne đã
bảo:
- Ta không sợ quân Nga, chúng mà dám liều
mạng xung phong với sự phù hộ của Thánh George chiến thắng của chúng, ta sẽ sửa
cho chúng một trận còn đau hơn năm 1700...
Tướng Horne có đầy đủ lúa mì, thuốc súng và
đạn đại bác, nhưng trên tất cả, ông ta tin vào Slipenbac, viên tướng này chỉ
đợi có quân tiếp viện là sẽ cho quân Nga nếm mùi thất bại đẫm máu. Slipenbac
đóng quân ở Vedenberg, một thành phố nhỏ nằm trên đường đi Revan.
Tin này do Alekxandr Danilovich cho biết,
hắn đã thân chinh đi do thám. Quân đội Nga cũng chẳng hoạt động gì: toàn bộ
pháo hãm thành gửi từ Novgorod tới, những khẩu thần công lớn để phá thành và
những khẩu súng cối để đốt thành, vẫn còn đang trên đường, lê lết qua những con
đường không tài nào đi được. Không có trọng pháo thì không thể nghĩ đến chuyện
xung phong đánh thành được.
Tin tức nhận được của đại nguyên soái Boris
Petrovich Seremetiev cũng chẳng vui gì hơn: ông đã bổ vây thành Yuriev; sau khi
lập đồn lũy, dựng hàng rào, ông đã nã trái phá vào trong thành, đồng thời cho
đào một đường hầm ngầm để phá vỡ tường thành.
“Quân
Thụy Điển khó đánh lắm, - Ông viết thư cho Alekxandr Danilovich, tại doanh
trại ở Narva - Cho đến nay, tôi vẫn chưa
làm câm được đại bác và súng cối của địch, bọn quỷ tha ma bắt ấy, chúng bắn
từng loạt đạn một với nhiều khẩu pháo, nã hàng chục quả pháo trái phá cùng một
lúc vào các khẩu đội của ta, và nhất là hay bắn vào xe cộ của ta. Đồng thời,
chúng tôi cũng không bắt được một tù binh nào của thành này cả; chỉ có hai đứa
sang hàng, hai tên Phần Lan, chúng chẳng biết được cái gì đích xác và lúc nào
cũng chỉ líu lô một điều: Slipenbac hứa là chẳng bao lâu nữa sẽ đến cứu viện”.
Quả thực Slipenbac là một cái gai cần phải
nhổ đi ngay. Vấn đề đó choán hết mọi ý nghĩ của Piotr Alekseevich.
Đêm nọ, Melsikov đã giữ lời hứa, hắn đã đến
gặp Sa hoàng trong lều của nhà vua và sau khi đã đuổi hết mọi người ra ngoài,
kể cả Nartov, Melsikov đã trình bày một mưu kế do hắn nghĩ ra, khiến cho tướng
Horne mất hết hy vọng trông chờ vào Slipenbac.
Lúc đầu Piotr Alekseevich còn nổi giận:
- Khi ngươi tìm ra kế này ngươi không say
rượu đấy chứ?
Nhưng sau khi đã đi đi lại lại một hồi lâu
trong lều, vừa đi vừa rít tẩu thuốc lá, nhà vua đột nhiên phá lên cười:
- Nghĩ cho cùng, đánh lừa được thằng già ấy
cũng hay.
- Và ta sẽ đánh lừa được nó, Myn Herz, thần xin cam đoan với bệ hạ.
- Lời cam đoan của ngươi chẳng đáng giá bao
nhiêu... Nếu kế của ngươi không thành thì sao? Ông bạn này, ngươi sẽ phải chịu
trách nhiệm với ta về việc đó và coi chừng đấy?
- Vâng, thần xin chịu trách nhiệm... Đây
chẳng phải là lần đầu... Suốt đời thân chỉ làm có thế thôi.
- Được rồi, ngươi làm đi!
Ngay đêm hôm đó, trung úy Paska Yaguzinski,
sau khi đã uống cốc rượu trước khi lên ngựa, lên đường đi Pskov, nơi đặt tổng
kho của quân đội. Với một sự mau lẹ không ngờ, hắn đã chở về trên những xe tam
mã đủ mọi thứ cần thiết để thực hiện ý đồ của Melsikov.
Thợ may của các đại đội và các tiểu đoàn
thức hai đêm liền để cắt lại, sửa lại áo chẽn, áo bào, đai sĩ quan, quân kỳ,
đính viền trắng vào các mũ ba sừng của quân lính.
Trong những đêm hè ngắn ngủi ấy, hai trung
đoàn long kỵ binh của Axafiep và Gorbov, trung đội này nối tiếp trung đội kia,
cùng với trung đoàn Xemionovski và trung đoàn Inghecmanland, có đại bác theo
sau, giá súng trước kia sơn xanh nay đã sơn lại màu vàng, bí mật đi theo con
đường Revan và đóng vị trí tại khu rừng Tarviegi, cách Narva mười dặm.
Toàn thể áo quần do các thợ may sửa lại
cũng được đưa đến khu rừng này. Quân Thụy Điển không hay biết gì cả.
Vào một buổi sớm sáng sủa, ngày mồng tám
tháng sáu trong doanh trại quân Nga đóng dưới thành Narva bỗng nhốn nháo một
cách khác thường. Trống đánh báo động, chiêng vang boong boong, sĩ quan phóng
ngựa quát tháo om xòm. Quân lính từ trong các lều vải và các túp nhà làm bằng cành
cây nhảy choàng ra. Cài vội khuy áo khuy ủng, vuốt ra sau vai những món tóc dài
xõa ra ngoài mũ ba sừng, họ xếp thành hai hàng.
Lính pháo thủ hò hét, đặt các khẩu pháo vào
vị trí, họng súng chĩa về phía con đường đi Revan. Những quân kỵ xua đàn ngựa
kéo xe ra khỏi cánh đồng cỏ, lùa chúng về trại, sau các xe cộ.
Từ trên tường thành, quân Thụy Điển ngạc
nhiên nhìn cảnh rối loạn không thể tả xiết trong doanh trại quân Nga.
Tướng Horne đầu trần leo cầu thang đá phía
ngoài, trèo lên tháp kề bên cạnh cửa thành và chĩa ống nhòm về phía đường đi
Revan. Từ phía đó vọng lại hai phát súng đại bác, một phút sau lại có hai phát
nữa và cứ như thế tiếp tục đến sáu lần. Khi ấy quân Thụy Điển nhận ra tín hiệu
là Slipenbac đang tới gần. Ngay tức khắc pháo đài Gloria đáp lại bằng vương
hiệu đã hẹn trước, nổ hai mươi mốt phát đại bác. Tất cả các chuông trong thành
khua vang inh ỏi như một ngày hội.
Đã bao ngày nay, kể từ khi thành Narva bị
vây hãm, lần đầu tiên viên tướng Horne khắc khổ, khẽ nhếch mép mỉm cười khi
trông thấy, ở bên kia hào lũy, Melsikov, tên Nga láo xược nhất, ăn mặc lòe loẹt
như một bức tranh thánh, đang nhảy chồm chồm trên lưng con ngựa trắng, trước
mặt quân đội Moskva, xếp thành hai hàng. Làm như mình là một viên tướng tài ba
thật sự, hắn vung gươm lên và ra lệnh cho quân lính ở hàng sau quay mặt về phía
thành; bọn lính như một bầy súc vật, lốc nhốc chạy đến đứng vào các công sự,
sau các hàng rào.
Bây giờ thì hắn thúc cho ngựa chồm lên rồi
phi dọc trước mặt hàng thứ nhất, đối diện với con đường đi Revan.
Đối với tướng Horne đã già đời trong chinh
chiến, sự thể thật đã rõ ràng; con gà trống mặc chiến bào đỏ và cắm lông đà
điểu kia, sắp sửa phạm một sai lầm không tài nào cứu vãn nổi; hắn sẽ dẫn hàng
quân bộ dàn mỏng tiến ra trước quân giáp kỵ sắt thép đầy mình của Slipenbac để
hứng lấy đạn trái phá bắn như mưa, rồi bị cắt vụn ra, dẫm nát và tiêu diệt. Hai
lỗ mũi lông lá của tướng Horne hít một hơi dài.
Mười hai trung đội kỵ binh và bốn tiểu đoàn
bộ binh đang đợi sau các cửa thành đóng kín, sẵn sàng khi Slipenbac xuất hiện,
là xông vào đám quân Nga, đánh bọc hậu.
Melsikov, như thể bay đi đón tử thần, không
cần thiết cũng bỏ mũ ra vẫy vẫy trước các tiểu đoàn đang chạy theo ngựa hắn,
khiến quân lính hô lên “hura”. Tiếng hô vang tới tường thành Narva và tướng
Horne già mỉm một nụ cười giễu cợt.
Các tiểu đoàn của Melsikov tiến về phía một
khu rừng thông; từ trong khu rừng bỗng thấy kỵ binh Nga lao ra, có tiếng súng
bắn đuổi theo. Và cuối cùng, khắp mọi chỗ, từ sau các cây thông, các đại đội
cận vệ oai hùng của Slipenbac xuất hiện, sát cánh nhau tiến lên, mặc binh phục
đại lễ như để diễu binh, súng cầm tay, lưỡi lê cắm ở đầu súng. Vừa đi hàng thứ
hai vừa bắn từng loạt một, qua đầu hàng thứ nhất, trong khi hàng thứ ba nạp đạn
vào súng và chuyển lên. Cờ xí của nhà vua, màu vàng, phất phới bay cao trước
gió.
Lão Horne rời chiếc ống nhòm trong chốc
lát, rút khăn tay bằng vải trong túi đạn, mở ra và lau mặt. Lão lẩm bẩm:
- Thật là những vị thần chiến tranh!
Melsikov đã đội mũ vào, lấy tay giữ mũ,
phóng ngựa qua trước mặt các tiểu đoàn của mình ra lệnh dừng lại.
Những khẩu đại bác do sáu ngựa kéo, cùng
các xe chở đạn do hai ngựa kéo phóng như bay tới hai bên cánh.
Lính pháo thủ Nga rất nhanh nhẹn, họ đã học
hỏi được nhiều trong những năm gần đây. Vận động khéo léo, các khẩu đại bác
sạch bóng - mỗi bên cánh tám khẩu - quay ngoắt lại, họng súng chĩa về phía quân
Thụy Điển (ngựa kéo pháo, vừa được tháo ra, đã phóng đi luôn lập tức) và đồng
thời cũng khạc ra những làn khói trắng dày đặc, điều đó chứng tỏ là thuốc súng
tốt.
Quân Thụy Điển chưa đi được hai mươi bước,
các khẩu pháo đã lại bắn một loạt nữa. Lão Horne vò nhàu chiếc khăn trong tay:
bắn nhanh như thế thật là kỳ lạ. Quân Thụy Điển dừng lại. Quái! Thế là thế nào?
Slipenbac đâu có thế: sợ đại bác ư ? Hoặc giả ông ta định cho quân giáp kỵ tiến
lên trước để xung phong... Hoặc giả có lẽ ông ta chờ pháo binh chăng?
Horne chiếu ống nhòm khắp các phía để tìm
Slipenbac nhưng bị vướng khói mỗi lúc một dày đặc thêm, phủ kín bãi chiến
trường. Thậm chí lão còn thấy quân Thụy Điển hình như núng thế dưới làn mưa đạn...
Tuy nhiên lão vẫn đợi... Cuối cùng, may quá! đại bác Thuỵ Điển với giá súng sơn
vàng từ trong rừng lao ra và lên tiếng dữ dội... Khi đó, - lão trông thấy rất
rõ - hàng ngũ quân lính của Melsikov bắt đầu rối loạn... Đã đến lúc rồi! Bộ mặt
nhăn nheo của tướng Horne rời khỏi ống nhòm và nhe hàm răng vàng khè trông thấy
cả lợi, lão bảo viên phó tướng, đại tá Marka:
- Tôi ra lệnh mở cửa thành và tấn công cánh
phải của quân Nga.
Các cầu rút rít ầm ầm, các trung đội quân
giáp kỵ từ bốn cửa thành cùng xông ra một lúc, bộ binh chạy theo sau. Đại tá
Marka dẫn đầu cuộc tấn công của quân thành Narva, xếp thành hình tam giác và
định một mạch vượt qua các hàng rào, các chướng ngại vật cự mã của quân Nga để
đánh bọc hậu Melsikov ở cánh phải, dồn quân Melsikov về phía quân Slipenbac và
đè bẹp chúng trong cái gọng kìm sắt ấy.
Lúc đầu, tình hình tướng Horne trông thấy
trong ống nhòm khiến lão rất hể hả nhưng rồi lại làm cho lão bối rối. Đội quân
của đại tá Marka, sau khi đã nhanh chóng vượt qua các chướng ngại vật cự mã,
không bị tổn thất mấy, leo qua các hàng rào và lọt vào phía bên trong các công
sự.
Theo sau đội quân, dân chúng trong thành đi
bộ và ngồi xe, cũng kéo ra để cướp phá doanh trại quân Nga, các tiểu đoàn của
Melsikov bắn loạn xạ bỗng chuyển động một cách quái lạ: cánh bên phải bị Marka
tấn công, vội vã rút về chỗ các hàng rào và chướng ngại vật cự mã của họ, trong
khi đó thì quân bên cánh trái cũng vội vã chạy bổ về phía quân Thụy Điển của
Slipenbac, như để đầu hàng.
Đại bác của cả hai bên bỗng im bặt, Marka
đang tiến công hùng dũng, bỗng trơ ra ở giữa một khoảng đất trống, giữa quân
của Melsikov và của Slipenbac. Quân giáp kỵ của hắn, áo giáp sáng choang, kìm
ngựa, tản ra thành hình cánh cung và hoang mang, dừng lại. Bộ binh đuổi theo
kịp, cũng dừng lại:
- Sao thể này? Ta thật không hiểu! Gã Marka
quỷ bắt kia! - Horne kêu lên.
Bixtrom, sĩ quan phụ tá của lão đứng bên
cạnh dáp:
- Thưa tướng quân, tôi cũng không hiểu ra
thế nào cả.
Rồi mỗi lúc càng thêm bồn chồn lia ống nhòm
quan sát Horne trông thấy Melsikov: con gà trống ấy đang phóng như bay về phía
quân Thụy Điển. Để làm gì? Để xin hàng ư?
Nhận ra Melsikov, Marka theo sau là hai tên
lính giáp kỵ, phóng ngựa ra chặn đường.
Nhưng Melsikov đã vượt lên trước và nhảy
xuống ngựa trên một ngọn đồi đầy cỏ mọc, có một nhóm sĩ quan đang đứng đó: cứ
trông chiến bào và lá cờ màu vàng có thêu con sư tử bò thì đúng là bộ tham mưu
của Slipenbac. Nhưng còn chính Slipenbac thì ông ta đâu? Tướng Horne lại chĩa
ống nhòm và trông thấy Marka đang đuổi theo Melsikov đã tới gần nhóm sĩ quan;
đột nhiên hắn vung tay lên một cách quái lạ, như xua tà và định quay ngựa bỏ
chạy; nhưng quân lính đã ập tới, lôi hắn từ trên yên ngựa xuống...
Một kỵ sĩ cưỡi một con ngựa cao lớn, tai
dài, leo lên ngọn đồi và lá cờ hạ xuống trước mặt người đó. Chỉ có thể là
Slipenbac chứ không còn ai khác...
Một giọt nước mắt làm mờ mắt lão Horne; lão
mạnh tay chùi ngay đi và ấn mạnh ống kính bằng đồng của chiếc ống nhòm vào mắt.
Người kỵ sĩ cưỡi con ngựa tai dài nom không giống Slipenbac. Trông có vẻ như
giống....
- Thưa tướng quân, đây là một gian kế, -
viên sĩ quan phụ tá Bixtrom thì thào.
- Không cần ngươi ta cũng đã thấy đó là Sa
hoàng Piotr mặc binh phục Thụy Điển... Chúng đã đánh lừa ta một cách đê tiện,
không cần có ngươi ta cũng đã hiểu. Hãy bảo mang đến cho ta một bộ áo giáp và
thanh gươm của ta... - Và bỏ cái ống nhòm lúc này đã trở thành vô ích, tướng
Horne lao xuống cầu thang dốc đứng của ngọn tháp, nhảy bốn bậc một, như một
chàng trai trẻ.
Ngoài kia, trên bãi chiến trường của trận
đánh vờ vẫn, bắt đầu diễn ra cái phải xảy ra khi một người cầm quân bị mắc lừa.
Một bên là quân lính của các trung đoàn Xemionovski và Inghecmanlan mặc giả làm
quân Thụy Điển, cùng với quân long kỵ binh của Axafiev và Gorbov, nấp ở trong
rừng đợi thời cơ, và một bên là các tiểu đoàn của Melsikov, tất cả đều hung dữ
xông vào đám quân của viên đại tá Marka xấu số.
Marka, sau khi đã nộp gươm cho Sa hoàng
Piotr và ném cái mũ của mình xuống cỏ, đứng trên đồi, giữa các sĩ quan Nga, đầu
cúi gằm vì hổ thẹn và tuyệt vọng, để khỏi nhìn thấy đội quân oai hùng của mình
bị tiêu diệt - một phần ba số quân đồn trú trong thành Narva.
Quân giáp kỵ của Marka bảo vệ cho bộ binh,
giữ vững hàng ngũ, vừa lùi vừa lẻ tẻ bắn trả lại được một lát. Nhưng khi đại tá
Ron dẫn đầu các trung đội long kỵ binh nấp trong rừng phong xông ra đánh tập
hậu, thì trận đánh trở thành một cuộc hỗn chiến khủng khiếp.
Tiếng súng đã dứt. Chỉ còn nghe thấy tiếng
quân Nga hò reo điên cuồng, vung gươm chém lia lịa, tiếng rên rỉ của những tên
lính Thụy Điển hấp hối và tiếng gươm chém vào áo giáp, vào mũ loảng xoảng. Ngựa
chồm lên, cắn lẫn nhau. lá cờ của nhà vua rơi xuống. Những kỵ binh lẻ loi,
thoát ra khỏi vòng chiến, phi ngựa như mù, thục mạng băng qua cánh đồng, húc
phải nhau, ngã lăn ra đất hai tay dang thẳng...
Toàn thể quân đội vây thành từ các chiến
hào xông ra, như đám đông chạy đi xem săn một con gấu trong tuần mặn. Quân lính
hò reo, vui thích nhảy cẫng lên, tung mũ lên trời.
Chỉ có một bộ phận nhỏ của đội quân Thụy
Điển mở được một đường máu rút về thành Narva. Tướng Horne không còn biết làm
thế nào khác là giữ chặt cửa thành để ngăn không cho quân Nga thừa thắng theo
đà xông vào trong thành. Dân chúng Narva chạy ra để ăn cướp, cuống cuồng lên
xe, trước hào.
Lính Nga vượt qua rào và trong lúc hăng
hái, bất chấp đạn từ trên tường thành bắn xuống, bắt được rất nhiều dân cùng
với xe, ngựa, giải về trại bán lại cho các ngài sĩ quan.
Tối hôm đó, trong cái lều rộng rãi của
Melsikov có một bữa tiệc linh đình. Mọi người uống rượu “rhoom” cháy bỏng của đô đốc De Pru, ăn giăm bông Revan và cá dìa
sấy, mà các vị khách trước đây ít người đã được trông thấy. Cá hơi nặng mùi
nhưng vẫn ngon.
Alekxandr Danilovich đau ê ẩm cả lưng vì bị
những người cầm cốc đến chúc mừng mưu kế của hắn thành công, đấm thùm thụp.
- Ngươi đã chơi cho viên tướng rất khôn
ngoan là tướng Horne một vố giỏi lắm! Quả thật, hôm nay, ngươi là nhân vật
chính của ngày hội!
Piotr Alekseevich nói, giọng trầm trầm; nhà
vua đã say mềm, cười oang oang, rung cả hai vai và nện một quả đấm vào giữa hai
bả vai Melsikov như búa bổ.
- Ta đánh cuộc là ngươi có thể lừa được
ngay cả vua Oduxeut(1)!
Samber kêu lên và cũng đấm vào lưng vị toàn
quyền.
- Không ai ranh mãnh hơn người Nga!
Ngắt lời lẫn nhau, các vị khách cùng nhau
thảo một bức thư, viết đi viết lại nhiều lần, báo cho tướng Horne biết rằng lão
được phong tặng huân chương “Mũi to”. Đoạn đầu bức thư viết khá đạt:
“Gửi
nhà ngươi, kẻ bị vây hãm trong thành Narva, thằng già ngu độn đã dái dầm ra
quần, con mèo thiến mà lại muốn gầm như sư tử”.
Rồi trong tiếng ồn ào hỗn độn của cả bàn
tiệc đã say khướt, vang lên những lời lẽ tục tĩu đến nỗi viên thư ký Makarov
cũng ngập ngừng không dám viết lên giấy. Anikita Ivanovich Repnin, sau khi đã
cười một trận hả hê với cái giọng run rẩy của ông ta, cuối cùng nói:
- Tâu hoàng thượng, có thực là nên làm nhục
lão già đó không? Mà công việc cũng chưa phải là xong.
Mọi người la ó ông, đấm tay xuống bàn.
Piotr Alekseevich cầm lấy bức thư viết dở trong tay Makarov, vò nhàu rồi đút
vào túi.
- Mọi người đã được một mẻ cười, thế là đủ
rồi!
Piotr Alekseevich đứng dậy, loạng choạng và
bám vào vai Makarov; khuôn mặt tròn, mềm nhẽo, bỗng do một sự cố gắng trở lại
cứng cỏi. Sa hoàng lắc đầu, vươn cái cổ dài ra, và như mọi lần, lại tự chủ
được:
- Thôi, chấm dứt cuộc chè chén!
Và nhà vua bước ra khỏi lều. Trời rạng
sáng. Cỏ ướt đẫm sương, vương vất những làn khói nhẹ của các đống lửa trại,
trông như trắng xóa. Piotr Alekseevich hít thật mạnh không khí mát mẻ của buổi
sớm:
- Tốt lắm! Đã đến lúc rồi!
Ngay khi đó, Anikita Ivanovich Repnin và
đại tá Ron rời khỏi đám sĩ quan đứng sau lưng Sa hoàng, tiến lại chỗ nhà vua.
- Một lần nữa, ta nhắc lại với cả hai ngươi
rằng, ta không cần những báo cáo chiến thắng hoa mỹ, ta không mong đợi cái đó.
Chúng ta còn có một nhiệm vụ gay go. Cần phải đánh bại quân địch đến mức nó
không thể nào hồi sức lại được nữa. Muốn đi vào một cuộc chiến đấu như vậy,
chúng ta phải giữ vững lòng sắt đá chống lại mọi sự yếu hèn... Thôi các ngươi
đi đi!
Anikita Ivanovich Repnin và đại tá Ron cúi
rạp chào và rời khỏi lều: tiến lên trong đám cỏ rậm cao đến ngang bắp chân, hai
người đi về phía khu rừng tối, trong đó những người tham dự cuộc chiến đấu giả
trang hôm qua, - long kỵ binh và bộ binh ngồi trên xe ngựa, - lại mặc binh phục
vào, sẵn sàng.
Hôm nay, không phải là một trò đùa đang đợi
họ: họ có nhiệm vụ bao vây và tiêu diệt đạo quân của Slipenbac trước thành
Vedenberg.
-------------
Chú thích:
(1)
Tức Uylitxơ: theo thần thoại Hy Lạp, là vua xứ Itac, nổi tiếng về tính thận
trọng và khôn ngoan, mưu mẹo, anh hùng trong chiến tranh thành Troje, đã bày ra
kế dùng ngựa gỗ chiếm thành này; nhân vật chính của truyện Odytxe bằng thơ của
Home.
Chương 155
- Vậy thì, thưa các ngài, cựu hoàng Auguste mà chúng ta trước đây cho
là đã kiệt quệ, hiện nay đã nhận được viện binh của Nga và đang tiến gấp về
Warsawa, - vị vua trẻ tuổi Xtanixlav Lekzinski khai mạc hội nghị quân sự, tuyên
bố như vậy. Nhà vua mệt mỏi vì những công việc quốc gia mà người ta bắt nhà vua
phải cáng đáng: khuôn mặt thanh tú, nghiêm nghị và kiêu kỳ của nhà vua, lúc này
tái xanh, gần như nhợt nhạt; dưới mi mắt cụp xuống, nhà vua không nhìn lên vì
đã chán ngấy bọn triều thần kia với những bộ mặt vênh váo tự phụ, chán ngấy tất
cả những chuyện đánh nhau, tiền nong, vay mượn...
Bàn tay yếu đuối của nhà vua đang lần tràng
hạt. Nhà vua mặc quốc phục mà nhà vua rất ghét; nhưng từ khi quân lính Thụy
Điển dưới sự chỉ huy của đại tá Arvit Horne, cháu gọi người anh hùng ở Narva
bằng chú, đến Warsawa thì các công hầu Ba Lan đã cất các bộ tóc giả và xếp các
bộ y phục kiểu Pháp vào hòm. Bây giờ họ mặc những chiếc jupan, ống tay dài, mở rộng, lòa xòa, đội mũ bằng lông hải ly, đi
ủng mềm có cài đinh thúc ngựa bước đi kêu choang choang, và thay kiếm bằng
những thanh gươm nặng của tổ tiên họ vẫn đeo.
Warsawa sống trong cảnh vui vẻ và vô tư lự
dưới sự canh gác cẩn mật của Arvit Horne: người ta đã tha thứ cho viên đại tá Thụy
Điển về thái độ vô lễ của hắn: khi hắn bắt ép Nghị hội bầu chàng trai dòng dõi
tầm thường, nhưng phong thái rất lịch sự kia lên làm vua.
Sĩ quan Thụy Điển đều hung tợn và kiêu
căng, ngược lại, chúng chịu thua người Ba Lan về tài nốc rượu vang hoặc rượu
mật ong và hoàn toàn lu mờ trước những tay nhảy mazurka cừ khôi như Vixnieski hay Potorki.
Tuy nhiên, tình hình cũng có phần u ám; đất
đai của các lãnh chúa, bị chiến tranh tàn phá, thu lợi ngày một kém đi, nhưng
hình như ngay tình trạng đó cũng sẽ không kéo dài: vua Charles chẳng lẽ cứ cai
quản nước Ba Lan mãi mãi, một ngày kia rồi ông cũng sẽ phải tiến về phía Đông
để thanh toán Sa hoàng Piotr.
Vậy mà giờ đây, một đám mây đen bất ngờ đe
dọa Warsawa. Auguste đã không phải đánh chác gì mà chiếm ngay được thành Lublin
giàu có và dẫn đầu đạo kỵ binh Ba Lan ồn ào của ông ta, đang tiến gấp về thủ đô
của mình, men theo tả ngạn sông Vixtuyn.
Viên ataman
Danila Apoxton, tên hung thần chột chỉ huy quân Cô-dắc vùng Dniep đã sang bên
hữu ngạn sông Vixtuyn và đã tới gần Praga, ngoại ô của Warsawa.
Mười một trung đoàn bộ binh Nga đang quét
sạch những người đi theo phe vua Xtanixlav ra khỏi các thị trấn dọc sông Bue;
chúng đã chiếm đóng Brest-Litovsk và cũng vòng về Warsawa.
Sau hết, đạo quân xứ Xăc của thống chế
Sulenburg, từ phía Tây tới, cũng đang nhanh chóng đến gần, sau khi đã hành binh
khéo léo đánh lừa được vua Charles đang đợi đạo quân đó trên một con đường
khác.
- Chúa và Đức Bà đồng trinh làm chứng cho
ta rằng ta không hề mưu toan chiếm đoạt ngai vàng Ba Lan, ta chỉ tuân theo ý
muốn của Nghị hội. - Vua Xtanixlav, mắt vẫn nhìn xuống, nói chậm rãi một cách
khinh bỉ. Dưới chân nhà vua, một con chó săn cái rất đẹp thuộc loại chó có dòng
dõi, đang nằm dài trên thảm, mõm đặt gìữa hai chân. - Cho đến nay, chức trách
cao cả mà ta đảm nhiệm, - Xtanixlav nói tiếp, - chỉ đem lại cho ta những chuyện
rắc rối và phiền nhiễu. Ta sẵn sàng thoái vị nếu Nghị hội, dựa vào sự thận
trọng và suy tính kỹ lưỡng, cho như vậy là hợp thời, để Warsawa thoát khỏi sự
trả thù của Auguste. Dĩ nhiên, ông ta có trăm ngàn lý do để mà tức giận; ông ta
là người có nhiều tham vọng và bướng bỉnh, và người đồng minh của ông ta là Sa
hoàng Piotr, lại còn bướng bỉnh và quỷ quyệt hơn nữa; họ sẽ đánh cho đến khi
nào đạt được mục đích mới thôi, cho đến khi nào chúng ta hoàn toàn lụn bại.
Nhà vua đặt một chân đi ủng mềm bằng da dê
thuộc lên lưng con chó, con vật ngước cặp mắt màu tím lên nhìn chủ.
- Thực vậy, ta không hề nằn nèo, ta sẽ rất
vui lòng được mời sang nước Ý... Ta sẽ rất sung sướng được theo học ở trường
đại học Boulogne.
Ngồi đối diện với nhà vua trên cái ghế gấp,
đại tá Arvit Horne, thân hình lực lưỡng, da dẻ đỏ hồng, cặp mắt giận dữ một
cách lạnh lùng, mặc áo màu xanh lá mạ đã sờn, làu nhàu qua kẽ răng:
- Đây không phải là một cuộc hội nghị quân
sự mà là một sự đầu hàng nhục nhã!
Vua Xtanixlav chậm rãi bĩu môi. Hồng y giáo
chủ Rotzievski, kẻ thù bất cộng đới thiên của vua Auguste, không nghe thấy lời
nhận xét bất lịch sự của viên đại tá Thụy Điển, nói với cái giọng uyển chuyển
ngọt ngào, hách dịch một cách khiêm nhượng mà người ta đã cố công trau dồi
trong các trường học của dòng Tên từ thời Inhaxơ de Loayola(1):
- Ý bệ hạ muốn tránh cuộc chiến đấu chỉ là
một sự yếu đuối tạm thời mà thôi... Những bông hoa của tâm hồn bệ hạ đã tàn lụi
trước cơn gió lạnh phũ phàng. Chúng tôi rất lấy làm thương cảm... Nhưng mũ miện
của một ông vua theo đạo Thiên chúa khác với cái mũ thường, chỉ có thể vứt bỏ
đi được cùng với cái đầu đội nó. Vậy thì chúng ta hãy vững lòng mà bàn định về
công cuộc chống lại kẻ tiếm quyền; kẻ thù của Nhà thờ, con chiên ghẻ là tuyển
hầu(2) Auguste xứ Xăc. Chúng ta hãy nghe xem đại tá Horne nói gì.
Hồng y giáo chủ nặng nề quay về phía Arvit
Horne, - chiếc áo chùng đỏ thắm bằng lụa lộng lẫy sột soạt, phản chiếu xuống
sàn đánh xi bóng lộn, - và khoát tay một cái rất duyên dáng mời viên đại tá Thụy
Điển nói, như thể mời ăn một món gì hết sức ngon lành. Đại tá Horne đẩy lùi
ghế, soạc đôi chân chắc nịch, đi ủng to bằng da bôi mỡ. - như tất cả những
người Thụy Điển khác rập theo khuôn vua Charles, hắn mặc chiếc áo đã sờn và đi
ủng to, ống ủng loe ra như cái phễu, và đằng hắng dọn giọng:
- Tôi xin nhắc lại một lần nữa: hội nghị
quân sự phải là hội nghị quân sự chứ không phải một cuộc nói chuyện phiếm về
hoa hoét. Tôi sẽ bảo vệ Warsawa đến người lính cuối cùng, đó là ý chí của vua
tôi. Tôi ra lệnh cho lính của tôi nổ súng vào bất cứ ai ra khỏi cửa, kể từ lúc
chập tối. Sẽ không một tên hèn nhát nào ra khỏi được Warsawa, những tên nhát sợ
cũng sẽ phải chiến đấu như tất cả mọi người khác, tôi sẽ có cách bắt chúng phải
làm thế? Các ngài làm tôi buồn cười: quân chúng ta nhiều không kém gì quân của
Auguste. Ngài đại thủ lĩnh, vương hầu Lubomirski, biết rõ điều đó hơn tôi. Các
ngài làm tôi buồn cười? Auguste đang vây chúng ta! Điều đó chỉ có nghĩa là nó
tạo cho chúng ta cơ hội đánh nó một trận tơi bời, lần lượt phá tan các đạo quân
của nó: ở phía Nam, đạo kỵ binh của bọn quý tộc nông thôn Ba Lan say rượu; ở
phía Đông Warsawa tên Ataman Danila
Apoxton với bọn Cô-dắc vũ khí kém cỏi sẽ không thể nào chống đỡ nổi sự tấn công
của quân giáp kỵ của ta... còn như tên thống chế Sulenburg, nó sẽ chết trước
khi tới được Warsawa: chắc chắn là vua tôi đang đuổi theo nó. Nguy cơ nghiêm
trọng là mười một trung đoàn quân Nga của vương hầu Golixyn, nhưng trong thời
gian chúng lê bước từ Brest tới đây thì chúng ta đã tiêu diệt Auguste rồi, nó
chỉ còn chước là rút lui hoặc chết. Tôi yêu cầu vương hầu Lubomirski ngay đêm
nay hãy tập hợp tất cả các trung đoàn kỵ binh tại Warsawa. Tôi đề nghị với bệ
hạ hãy ra lệnh tổng động viên ngay bây giờ, trước khi những ngọn nến kia cháy
hết... Và quỷ bắt tôi đi nếu tôi không nhổ sạch được mớ lông đuôi công của
Auguste!
Thở mạnh trong bộ ria hoe hoe vàng, Arvit Horne
phá lên cười và ngồi xuống. Lúc này, ngay đến nhà vua cũng ngước mắt lên nhìn
đại thủ lĩnh Lubomirski, thống soái quân đội Ba Lan và Lidva. Trong suốt cuộc
bàn cãi, ông ta ngồi ở bên tay trái nhà vua, trên chiếc ghế bành thếp vàng, hai
tay bưng lấy trán, khiến người ta chỉ nhìn thấy cái đầu tròn của ông ta, với
mái tóc hoa râm cắt tròn xoe như cái nồi và bộ ria nhỏ, dài, hai đầu rủ xuống.
Khi tất cả mọi người đã im tiếng, ông ta
như sực tỉnh, thở dài một cái, và ngồi thẳng lên; người ông ta cao lớn, xương
xẩu, vai rộng; ông từ từ đặt bàn tay lên chiếc gậy chỉ huy nạm kim cương, cài
vào thắt lưng làm bằng vải quý. Bộ mặt rỗ với cái mũi khoằm, đôi má hóp, da sần
đỏ, căng thẳng trên gò má, biểu lộ một niềm kiêu căng lầm lì và hung dữ đến nỗi
nhà vua phải chớp chớp mắt và cúi xuống vuốt ve con chó.
Đại thủ lĩnh thong thả đứng dậy. Giờ trả
thù mà ông ta mong đợi bao lâu nay, đã điểm.
Ông là bậc vương hầu danh tiếng nhất Ba
Lan, uy quyền hơn cả nhà vua trong các lãnh địa rộng mênh mông của ông. Khi ông
tới Nghị hội hoặc hành hương viếng Senxtosova, đoàn tùy tùng của ông không dưới
năm nghìn vị quý tộc hoặc đi trước hoặc đi sau xe ông, người thì cưỡi ngựa, kẻ
thì ngồi xe mui bằng mây hoặc đi xe ngựa, tất cả đều nhất loạt mặc jupan đỏ sẫm, ống tay áo dài lòa xòa lót
vải màu thanh thiên. Mỗi lần có lệnh tổng động viên, - để đánh quân Tarta hoặc
dẹp một cuộc nổi loạn ở Ukrain - ông đem theo ba trung đoàn quân kỵ, mặc áo
giáp bằng thép, sau lưng có cánh.
Thuộc dòng dõi họ Piaxt, từ khi vua Auguste
bị phế truất ông tự coi mình là người đầu tiên đáng được lên ngôi vua Ba Lan.
Năm ngoái, hai phần ba đại biểu ở Nghị hội đã hô vang, vỗ gươm kêu loảng xoảng:
- Chúng ta muốn Lubomirski!
Nhưng vua Charles không nghe vì nhà vua cần
có một con rối. Đại tá Horne đã cho quân mang súng vây chặt Nghị hội đang sôi
lên sùng sục; quân Thụy Điển đã châm ngòi súng và đánh trống làm ô nhục cả vẻ
tôn nghiêm cửa nghị trường. Horne bước đi nặng nề như thể lấy gót ủng đóng đinh
xuống sàn, lại gần cái ngai vàng bỏ trống và hét lên rằng:
“Tôi đề nghị Xtanixlav Lekzinski!”.
Từ ngày đó, mối hận thù âm ỉ trong lòng vị
đại thủ lĩnh. Cho tới khi ấy, chưa ai dám xúc phạm tới danh dự của ông. Vậy mà
vua Charles đã làm điều đó - mà vua Charles thì chắc chắn là không có nhiều
ruộng cày và bát đĩa bằng vàng bằng họ nhà Lubomirski.
Đưa con mắt hầm hầm, ghê rợn, nhìn quanh cử
tọa, móng tay gãi vào đầu gậy, ông giận dữ nói, rít lên như một con rắn:
- Ta nghe lầm hay ta mơ ngủ? Một viên tư
lệnh một thành mà lại dám ra lệnh cho ta ư, ta, đại thủ lĩnh, ta, vương hầu
Lubomirski! Đây là một chuyện đùa sao? Hay một sự láo xược quá quắt! - Nhà vua
giơ tay lên, ngón tay cầm chuỗi tràng hạt, hồng y giáo chủ ngồi trên ghế ngả
người về phía trước, lắc cái cái đầu cú da thịt bùng nhùng, nhưng đại thủ lĩnh
lại càng cất cao giọng hăm dọa: - Tại đây mọi người chờ ta cho ý kiến. Ta đã
nghe các ngài nói và ta đã tự vấn lương tâm... Đây là câu trả lời của ta: quân
đội của chúng ta không lấy gì làm chắc chắn cho lắm. Muốn buộc được họ phải đổ
máu mình và máu những người anh em của họ, thì trái tim của mỗi vị quý tộc Ba
Lan phải tràn trề nhiệt tình hoặc đầu óc phải quay cuồng vì điên giận. Có lẽ
vua Xtanixlav biết một khẩu lệnh chiến đấu thích hợp nào chăng? Ta thì ta không
biết... “Nhân danh Chúa, tiến lên, hãy chết vì vinh quang của dòng họ
Lekzincski!”. Họ sẽ chẳng theo. “Nhân danh chúa, tiến lên, vì vinh quang của
vua Thụy Điển!” chăng? Họ sẽ ném vũ khí xuống đất. Ta không thể chỉ huy quân
đội được nữa! Ta không còn là đại thủ lĩnh nữa!
Khuôn mặt méo xệch vì giận dữ của Lubomirski
đỏ gay lên đến tận cặp lông mày chổi sể.
Không thể nén được nữa, ông rút cái gậy chỉ
huy ở thắt lưng ra ném xuống chân vị vua non choẹt kia. Con chó săn cái kêu lên
một tiếng ăng ẳng.
- Phản bội! - Đại tá Horne tức giận điên
cuồng, hét lên.
-------------
Chú thích:
(1)Tu
sĩ sáng lập ra dòng Tên của Thiên chúa giáo (1491 - 1556).
(2)
Vương hầu ở Đức thời xưa có quyền tuyển cử Hoàng đế nước Đức.
Chương 156
Chữ “berxecke” hay là “phát
điên phát cuồng” có từ thời thượng cổ và bắt nguồn ở phong tục của dân Bắc Âu
thường say sưa với những thứ nấm dại giết ruồi. Sau này, thời trung cổ, người
Normandie(1) gọi những binh sĩ chiến đấu điên cuồng trong các trận đánh là “berxecke”: họ chiến đấu không mặc áo
giáp, không đội mũ trụ và không cầm khiên, chỉ mặc độc chiếc áo lót bằng vải
thô và hung tợn đến nỗi ví dụ như, theo truyền thuyết, mười hai “berxecke” con vua Canut phải đi một
chiếc thuyền riêng vì ngay người Normandie cũng sợ họ.
Cơn thịnh nộ của vua Charles chỉ có thể so
sánh được với sự điên khùng của bọn “berxecke”,
đến nỗi tất cả đám cận thần có mặt trong lều nhà vua lúc đó đều phải kinh
hoảng, sửng sốt; còn bá tước Pipe thì ông ta thậm chí còn lo cho cả tính mạng
mình nữa.
Ngày hôm nọ, khi nữ bá tước Koxenka trao
cho nhà vua bức thư do một con chim bồ câu đưa tới, vua Charles vẫn khăng khăng
không lay chuyển trong ý muốn báo thù; trái với ý kiến của Pipe, của thống chế
Renskjon và các tướng lĩnh khác, nhà vua một mực muốn thực hiện dự định của
mình là diệt Auguste ngay tức khắc, bắt toàn cõi Ba Lan phải thần phục
Xtanixlav Lekzinski, và cho quân lính nghỉ ngơi để có thể, năm sau, chỉ trong
một chiến dịch mùa hè, đánh cho tất cả các bầy rợ của Sa hoàng Piotr phải đại
bại, kết liễu chiến tranh ở phía Đỏng. Vua Charles không hề lo ngại về số phận
Narva và Yuriev, quân đồn trú ở hai thành này đều mạnh, tường lại kiên cố, bọn
Moskva đụng vào sẽ phải gẫy răng; ở phía đó còn có Slipenbac, viên dũng tướng
đứng đầu hàng dũng tướng. Hơn nữa phải thay đổi những dự kiến táo bạo của mình
chỉ vì một bức thư mơ hồ do chim câu đưa tới mà lại do một ả giang hồ đồi bại
trao lại, thì thật là quá nhục nhã đối với lòng kiêu hãnh của vua Charles,
người thừa kế vinh quang của Alekxandr đại đế và của Cséza(2).
Tin viện binh Nga tới Xokan và Auguste đột
nhiên tiến quân về Warsawa, ngay dưới mũi của vua Charles, (nhà vua như một con
sư tử đã no nê, ung dung chưa muốn cắm nanh vuốt vào thịt con mồi của mình là
vua nước Ba Lan) đã được một người báo cho quân Thụy Điển biết - người đó chính
là gã quý tộc Ba Lan, trong bữa tiệc của lãnh chúa Xobexanski, đã vung gươm
chém vỡ đôi đĩa xúc xích.
Bá tước Pipe tiu nghỉu, tới đánh thức nhà
vua vào lúc tang tảng sáng. Vua Charles đang ngủ ngon lành trên chiếc giường
lính hai tay khoanh trên ngực. Ánh sáng nhợt nhạt của chiếc đèn đêm bằng đồng
soi sáng cái mũi khoàm của nhà vua, cái má hóp khắc khổ, cặp môi mím chặt, ngay
trong giấc ngủ nhà vua cũng muốn khác thường. Trông nhà vua giống như bức tượng
đá của một hiệp sĩ nằm trên mộ mình.
Thoạt đầu bá tước Pipe hy vọng con gà trống
của nhà vua sẽ giúp ông thoát khỏi nỗi lúng túng: lúc này đúng là lúc nó phải
cất tiếng gáy. Nhưng con gà, bị buộc phải chia sẻ cuộc sống khổ hạnh của chủ,
lục đục trong chuồng sau lều và chỉ rên lên một thứ tiếng “ê khê khê” mơ hồ.
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy thức giấc! - bá
tước Pipe khẽ thì thầm, hết sức nhẹ nhàng, và khơi cao ngọn đèn đêm.
- Có tin dữ, tâu bệ hạ... - Vua Charles mở
mắt ra, nhưng không hể động cựa. - Auguste đã thoát khỏi tay chúng ta rồi!
Ngay lập tức, vua Charles mặc chiếc quần
cộc bằng vải thô, đặt đôi chân đi tất len lên thảm trải ở chân giường, và hai nắm
tay chống xuống giường, nhìn chòng chọc vào mặt bá tước Pipe. Bá tước, với tất
cả sự dè dặt thận trọng của một triều thần, kể lại vận may xảy ra trong số mệnh
của vua Auguste.
- Lấy ủng, lấy giầy cho ta! - vua Charles
thong thả dằn từng tiếng và càng giương to thêm một cách khủng khiếp cặp mắt
nhìn trừng trừng không chớp, nom như tóe lửa, hoặc giả có lẽ đó chỉ là ánh lửa
của ngọn đèn đêm đang lụi? Pipe lao ra ngoài lều và trở lại ngay lập tức, theo
sau là Bijoockenjem đã chụp vội vàng bộ tóc giả lên đầu. Các tướng lĩnh cũng
bước vào lều. Vua Charles giơ chân lên rất cao mặc quần, xỏ ủng, cài khuy áo
làm gẫy mất hai móng tay và lúc đó mới để cơn thịnh nộ nổ bùng ra:
- Các ngươi suốt ngày hú hí với bọn đĩ điếm
bẩn thỉu, các ngươi béo quay ra như một tên thầy tu theo đạo Thiên Chúa! - vua
Charles hét lên như sủa, quai hàm nhà vua bị chuột rút méo xệch và hai hàm răng
đánh lập cập, quát tướng Roden là người không có gì đáng trách. - Ngày hôm nay,
các ngươi đã bị nhục nhã ê chề, - nhà vua quay về phía tướng Lovenhop hét như
muốn đá ông này một cái. - Ngươi chỉ đáng đi theo quân đội ta trông đám hành
lý, như một tên lính quèn. Trinh sát của ngươi đâu? Ta được biết tin tức sau
tất cả mọi người! Một tin tối quan trọng, quyết định đến cả vận mệnh châu Âu,
mà lại do một gã quý tộc hèn mạt say rượu bí tỉ mang đến cho ta! Ta phải lấy
tin tức của một ả giang hồ! Ta đã chuốc lấy đủ điều lố bịch! Ta lấy làm lạ sao
quân Cô-dắc chưa bắt được ta khi ta đang ngủ trên giường rồi giải ta về
Moskova, thòng lọng buộc cổ! Còn ngươi, ông Pipe, ta khuyên ngươi hãy thay cái
mũ bá tước trên huy hiệu của ngươi bằng cái mũ của thằng hề! Đồ chỉ ham ngốn
chim dẽ, gà gô và các thứ chim muông khác, đồ say rượu, đồ con lừa! Ta cấm
ngươi không được làm ra bộ oan ức! Ta sẽ ra lệnh căng xác ngươi ra mà đánh,
phanh thây ngươi ra, ta sẽ rất hả lòng! Do thám của ngươi đâu cả, ta hỏi ngươi?
Liên lạc viên của ngươi đâu; chúng có nhiệm vụ báo cho ta biết tình hình trước
hai mươi bốn tiếng giở hồ kia mà? Ma quỷ bắt tất cả các ngươi đi! Ta bỏ quân
đội đấy, ta sẽ làm một dân thường! Ta chán làm vua các ngươi lắm rồi!
Nói đoạn, nhà vua rứt đứt hết tất cả khuy
áo, đá một cái thật mạnh làm thủng một cái trống; tóm lấy bộ tóc giả trên đầu
nam tước Bijoockenjem xé nát ra từng mảnh... Không ai dám ho he, nhà vua lồng
lộn trong lều giữa đám triều thần đang lùi giạt ra hai bên.
Khi cơn cuồng nộ kiểu “berxecke” đã bắt đầu nguôi, vua Charles chắp hai tay sau lưng, cúi
đầu xuống và dằn từng tiếng:
- Ta ra lệnh báo động ngay lập tức trong
toàn quân và nhổ trại. Các ngươi, ta cho ba giờ đồng hồ để chuẩn bị. Ta xuất
chinh. Nhật lệnh ta sẽ thảo ra, sẽ cho các ngươi biết các công việc khác. hãy
ra hết khỏi lều ta. Bijoockenjem, lấy cho ta bút, giấy và mực.
-------------
Chú thích:
(1)
Người vùng Bắc Âu, nhất là Nauy, Đan Mạch, xưa kia nổi tiếng hung dữ và thiện
chiến, đã từng đánh chiếm vùng sông Dniep nước Nga, ở thế kỷ IX, xứ Normandie
của Pháp ở thế kỷ X và nước Anh thế kỷ XII.
(2)
Vua Hy Lạp và hoàng đế La Mã cổ, lừng lẫy vì những chiến công hiển hách.
Chương 157
-
Thật không sao chịu nổi! Chúng ta dừng lại ở đây đã
hàng thế kỷ rồi! Hãy bạo dạn lên một chút, mở một cuộc tấn công mạnh mẽ và ngay
đêm nay có lẽ chúng ta sẽ ngủ ở Warsawa. - nữ bá tước Koxenxka bực bội nói, đưa
mắt qua cửa xe nhìn những đống lửa trại nhiều vô kể vẽ thành một đường vòng
rộng sáng rực rỡ, trước thành phố không ai trông thấy trong đêm tối. Nữ bá tước
mệt lả, cảm thấy như muốn ngất đi.
Cỗ xe lịch sự của bà ta có gắn tượng thần
ái tình mạ vàng, đã gãy khi qua một con sông nhỏ và bà đã phải lên cỗ xe thảm
hại, bất tiện và rất xóc của Xobesanxka phu nhân. Nữ bá tước bực tức thấy Anna
phu nhân có vẻ tầm thường, bà ta cũng không ngần ngại tỏ ra niềm nở với con bé
quê mùa ấy.
- Xe nhà vua dừng lại trước xe ta, - nữ bá
tước nói, - nhưng không thấy nhà vua trong xe. Nhà vua nghĩ gì? Có Trời biết?
Chẳng thấy chuẩn bị ăn uống, nghỉ ngơi gì cả.
Nữ bá tước kéo một sợi dây da, chật vật mới
hạ được tấm kính cửa xe xuống. Bà ngửi thấy mùi mồ hôi ngựa ấm và hơi xúp ngon
lành của lính. Đêm tối vang động tiếng ồn ảo của doanh trại: tiếng kêu, tiếng
chửi, tiếng vó ngựa, tiếng súng nổ ở xa xa; có tiếng người gọi nhau í ới, những
chiếc xe vướng vào nhau kêu răng rắc.
Nữ bá tước chán ngấy những thú vui ấy của
cuộc đời con nhà võ: bà kéo cửa kính lên và ngồi chúi vào một góc xe. Mọi thứ
đều làm bà khó chịu, cả chiếc áo dài nhàu nát, cái áo khoác ngoài, cả các góc
cạnh của hòm xiểng; giá được cắn ai đến chảy máu hẳn bà sẽ rất hả dạ...
- Tôi e rằng chúng ta sẽ thấy cung điện tan
hoang, bị cướp phá sạch... Họ Lekzinski nổi tiếng là tham lam, còn Xtanixlav
thì tôi biết rõ quá... ngu tín, keo kiệt và bần tiện... Khi trốn khỏi Warsawa,
không phải hắn chỉ mang theo có mỗi quyển kinh thánh trong túi. Bà bạn thân mến
này, tôi khuyên bà nên dành lấy một biệt thự riêng nào đó, nếu cần có thể đến
đấy mà ở; lẽ tất nhiên nếu bà có những chỗ quen biết khá giả ở Warsawa... Không
nên tin lắm vào vua Auguste. Trời, ông ta mới khốn nạn làm sao!
Anna phu nhân rất lấy làm thú vị được chuyện
trò với nữ bá tước; đối với phu nhân, đấy là trường cao đẳng dạy môn xử thế. Từ
thuở nhỏ, từ khi dưới chiếc áo lót đã nổi lên những hình tròn đáng yêu, bà đã
mơ ước sống một cuộc đời phi thường. Bà chỉ cần soi gương tự ngắm mình: xinh
đẹp, mà còn hơn xinh đẹp nữa là khác, - một vẻ đẹp khêu gợi, - tế nhị, cơ trí,
linh lợi và không biết mệt mỏi là gì.
Gia đình bà nghèo, ông bố là một vị quý tộc
phá sản, kiếm ăn những mối lợi nhỏ ở các phiên chợ, ở bàn đánh bạc của các chúa
đất giàu có. Ít khi ông ta ở nhà. Mệt mỏi, ủ rũ, mặt mày hốc hác, mặc chiếc áo
đã bạc, ông ngồi ở cửa sổ nhìn cảnh tiêu điều của cái gia cơ nghèo của mình.
Anna là con một, rất được cưng chiều, luôn
miệng hỏi ông, đòi ông kể những chuyện phiêu lưu của ông. Lúc đầu ông miễn
cưỡng kể nhưng rồi bốc lên, ông khoe khoang khoác lác về những kỳ tích, những
chỗ quen thuộc sang trọng của mình. Anna nghe những chuyện ông kể có thật hoặc
bịa đặt về cuộc sống tráng lệ, xa hoa của các bậc vương giả Xixnevieski,
Potorki, Lubomirski, Xactoriski...
Khi người cha đã ăn hết con gà giò cuối
cùng và bán mất con ngựa còm cuối cùng để trả một món nợ đánh bạc, đem gả con
gái cho ngài Xobexanski già nua thì Anna không hề phản đối vì cô ta hiểu rằng
cuộc hôn nhân ấy chỉ là một bậc thang vững chắc để sau này ngoi lên nữa. Duy có
một điều làm cô buồn phiền là chồng cô mê say cô quá, với một sự mặn nồng không
hợp với tuổi ỏng ta. Cô có một trái tim nhạy cảm, nhưng hoàn toàn phục tùng lý
trí.
Vậy mà giờ đây sự tình cờ đã đưa Anna phu
nhân lên tới đỉnh thang cao nhất của hạnh phúc. Nhà vua đã rơi vào lưới bẫy của
bà ta. Anna phu nhân không vì thế mà choáng váng như một con bé ngốc nghếch,
trí óc tinh tế của bà đã sục sạo như một con chuột nhắt trong vựa thóc tối om:
cần phải cân nhắc mọi điều, dự liệu trước mọi điều.
Đối với chồng - như một đức ông chồng mê
vợ, theo thói thường, ông này chẳng hay biết gì hết - bà đã nũng nịu bảo: “Em
chán cái xó xỉnh hẻo hút này lắm rồi! Anh Josep ạ, ngay anh cũng nên mừng cho
em: bây giờ em muốn là bà đệ nhất phu nhân ở Warsawa. Anh đừng lo nghĩ gì, cứ
yên tâm mà tiệc tùng và hãy yêu quý em”.
Cái khó khăn là ở chỗ khác: cần phải tỏ ra
khôn ngoan hơn nữ bá tước Koxenxka và ngoài mặt cứ làm ra vẻ chẳng hay biết gì
mà dìm mụ ta xuống tận đất đen; cuối cùng, - điểm tế nhị nhất của việc này, - Anna
phu nhân không muốn chỉ là trò chơi nhất thời của nhà vua mà muốn cột chặt nhà
vua vào với mình.
Muốn vậy, sắc đẹp yêu kiều không đủ mà còn
cần phải có kinh nghiệm nữa. Và Anna phu nhân đã không bỏ phí thì giờ, thăm dò
nữ bá tước, cố moi ra những bí quyết để quyến rũ lung lạc người.
- Ồ không, nữ bá tước thân mến, tôi sẵn
sàng sống trong một túp lều ở Warsawa, miễn là tôi được gần bà, như một con ong
hèn mọn bên một bông hồng, - Anna phu nhân nói; bà ta ngồi trong góc xe đối
diện, hai chân gập lại và nhìn trộm khuôn mặt của nữ bá tước đang nhắm mắt lại,
lúc thì ửng hồng dưới ánh lửa trại, lúc thì chìm vào bóng tối. - như mặt trăng
lẩn vào mây. - Là vì tôi hãy còn là một đứa trẻ. Cho đến nay, mỗi khi nhà vua
nói với tôi, tôi vẫn run bắn cả người, tôi không muốn trả lời một câu ngu dại
hay một lời thất thố.
Nữ bá tước nói, như đáp lại những ý nghĩ
chua như dấm của bản thân mình:
- Khi nhà vua đói, ông ta ăn một miếng bánh
lúa mạch cũng ngon lành thích thú như ăn một miếng paté Strasburg(1). Tại một
quán rượu bên đường, ông ta đã say mê một đứa con gái Cô-dắc mặt rỗ đang chạy
ào qua sân để xuống hầm, đem các vò rượu vang lên quán. Ông ta cho đấy là một
người đàn bà... Một cái váy là điều duy nhất đáng kể đối với ông ta... Thật là
một con quái vật! Nữ bá tước Konixmac đã làm ông ta mê mẩn là vì, trong khi
khiêu vũ, con mụ ấy đã để hở cho ông ta trông thấy nịt bít tất của nó: những
băng nhung đen, thắt trên tất màu hồng.
- Lạy Chúa, cái đó tác động đến thế kia ư?
- Anna phu nhân lẩm bẩm.
- Ông ta đã say mê mụ quý tộc Nga Volkova
như một tên súc sinh; trong buổi vũ hội, mụ ta thay áo dài và áo lót rất nhiều
lần; ông ta đã vào buồng, lấy áo lót của mụ mà lau mặt... Ở thế kỷ trước, vua
Pháp Henri đệ nhị cũng đã làm như thế... Nhưng chuyện ấy là khởi đầu một cuộc
dan díu lâu dài, còn đằng này mụ quý tộc Volkova đã chuồn mất ngay dưới mũi
Auguste, ai cũng lấy thế làm hả dạ.
- Chắc là tôi ngu ngốc ghê lắm! - Anna phu
nhân kêu lên, - nhưng tôi không hiểu cái áo lót của bà ấy thì có liên quan gì
đến chuyện này.
- Không phải cái áo lót mà là da dẻ mụ ta,
cái mùi đặc biệt của nó... Da dẻ đàn bà cũng như hương thơm của một bông hoa,
đến các cô gái nhỏ ở nhà tu kín cũng chẳng lạ gì điều đó... Với một người dâm
đãng đàng điếm như nhà vua yêu quý của chúng ta thì cái mũi ông ta quyết định
mọi tình cảm.
- Ôi lạy Đức bà đồng trinh!
- Hẳn bà đã chú ý nhìn cái mũi to tướng của
ông ta rồi chứ, ông ta rất tự hào về cái mũi đó và ông ta cho rằng nó làm ông
ta trông giống vua Henri đệ tứ(2) Lúc nào ông ta cũng hấp háy cái lỗ mũi như
một con chó săn đánh hơi gà gô.
- Như vậy, điều quan trọng nhất là nước
hoa, bột hổ phách, sức nước thơm, có phải không? Tôi hiểu thế có đúng không,
thưa nữ bá tước đáng mến?
- Nếu bà đã đọc Odytxe(3) rồi thì hẳn bà
nhớ là nữ phù thủy Xiêcxê đã biến đàn ông thành lợn... Bà bạn thân mến, đừng
giả đò ngây thơ... Vả lại, tất cả những chuyện ấy kể ra cũng khá khó chịu, bực
mình và nhục nhã.
Nữ bá tước im bặt. Anna phu nhân phân vân
tự hỏi không biết trong hai người - bà ta và nữ tá tước - thực ra ai đã lừa bịp
ai?
Qua kính cửa xe, bà trông thấy đầu một con
ngựa với đôi môi đen sì sùi bọt.
Nhà vua lại gần cỗ xe... nhảy xuống ngựa và
mở cửa xe. Lỗ mũi nhà vua nở ra, một nụ cười rạng rỡ soi sáng khuôn mặt hớn hở,
rõ nét. Dưới ánh đuốc do một tên quân kỵ cầm, trông nhà vua thật là lộng lẫy
với chiếc mũ nhẹ mạ vàng, vành mũ hất lên và chiếc áo bào đỏ thắm oai vệ khoác
trên vai; nom nhà vua đường bệ đến nỗi Anna phu nhân phải tự nhủ: “Không,
không, không được làm những chuyện dại dột”.
Nhà vua vui vẻ kêu lên:
- Xin mời các phu nhân xuống xe, các phu
nhân sẽ dự một cảnh tượng lịch sử!
Anna phu nhân khẽ kêu lên một tiếng, lập
tức lao ra cửa xe, còn nữ bá tước thì nói:
- Thiếp đau lưng như giần, hẳn bệ hạ muốn
vậy. Thiếp chẳng ăn mặc điểm trang gì, thiếp sẽ ở lại đây, nhịn đói mà ngủ gà
ngủ gật vậy.
Nhà vua xẵng giọng đáp:
- Nếu phu nhân cần có một ổ rơm, ta sẽ sai
người đi lấy!
- Lấy ổ rơm cho thiếp!
Ánh lửa xanh lè vụt lóe trong cặp mắt bỗng
mở to của nữ bá tước làm vua Auguste phải lùi lại. Nữ bá tước như cầm một cái
mồi đang cháy, nhảy ra ngoài xe, mình choàng áo khoác màu hoa đào, rực rỡ trong
ánh châu ngọc lấp lánh ở tai, ở cổ, ở ngón tay, tóc hơi rối nhưng không phải vì
thế mà kém phần kiều diễm.
- Lúc nào cũng xin tuân theo lệnh hoàng
thượng, - bà ta nói, và luồn cánh tay để trần vào tay vua.
Một lần nữa, Anna phu nhân thấy người đàn
bà này tài nghệ quả thật cao cường.
Cả ba người đi về phía cỗ xe của vua, bên
cạnh có một trung đội quân kỵ tinh nhuệ túc trực dưới ánh đuốc - toàn là quý
tộc Ba Lan - mặc áo giáp, có những lông thiên nga cắm vào những vòng sắt ở
lưng.
Auguste và hai vị phu nhân - mỗi người một
bên nhà vua và hơi lùi lại sau một chút - ngồi vào ghế bành đặt trên thảm. Tim
Anna phu nhân đập rất nhanh: những kỵ sĩ cao lớn kia, vây quanh bà ta, với
cánh, áo giáp và mũ sắt lấp loáng dưới ánh đuốc, trông tựa những thiên thần của
Chúa giáng xuống trần để đem cung điện Warsawa vinh quang và của cải trả lại
cho vua Auguste. Bà nhắm mắt lại và niệm một bài kinh ngắn:
- Cầu cho nhà vua hiền như một con cừu non
trong tay con!
Bỗng có tiếng vó ngựa. Trung đội kỵ binh rẽ
ra nhường lối cho những người mới đến. Người ta trông thấy từ trong bóng tối
hiện ra vương hầu Lubomirski, đi theo có một đoàn kỵ sĩ cũng có cánh sau lưng
nhưng là lông đen. Tới sát chỗ vua ngồi, vị đại thủ lĩnh gò mạnh cương ngựa,
chiến bào bay phồng lên, rồi nhảy xuống ngựa quỳ một gối xuống thảm, trước mặt
vua Auguste:
- Tâu hoàng thượng, nếu có thể được, xin
hoàng thượng hãy tha thứ cho sự phản nghịch của thần. - Cặp mắt đen của ông ta
nảy lừa, biểu lộ một quyết tâm hung dữ, khuôn mặt đỏ rực lầm lì, giọng nói
nghẹn ngào. Ông đang cố nén lòng kiêu kỳ của mình xuống. Ông không bỏ chiếc mũ
lông thú có đính một chuỗi kim cương, chỉ có hai bàn tay khô khan của ông run
lên: - Sự phản nghịch của thần là một việc điên rồ, một sự mất trí... Nhưng
hoàng thượng hãy tin ở thần, dẫu sao thần cũng không một lúc nào thừa nhận
Xtanixlav là vua... Sự xúc phạm ấy làm thần đau đớn trăm chiều. Cuối cùng giờ
phút thần mong đợi đã đến... Thần đã ném chiếc gậy chỉ huy của thần xuống chân
hắn... Thần đã nhổ toẹt xuống đất và bước ra khỏi nhà hắn... Trong sân hoàng
cung, quân lính của tên quan trấn thủ đã xông lại đánh thần... Nhờ ơn Chúa, tay
thần cầm gươm còn vững, thần đã lấy máu của những tên khốn kiếp ấy đánh dấu
việc thần cắt đứt với Lekzinski... Thần xin dâng tính mạng lên hoàng thượng.
Vừa lắng nghe, vua Auguste vừa từ từ tháo
đôi bao tay bằng sắt ném xuống thảm. Mặt nhà vua tươi tỉnh lên. Nhà vua đứng
dậy, vẫy hai bàn tay chìa ra:
- Đại thủ lĩnh, ta tin ngươi... Ta thực lòng
tha thứ cho ngươi.
Và nhà vua lấy hết sức ghì chặt mặt
Lubomirski vào ngực, áp mạnh vào những vị thần đầu người mình ngựa và các tiên
nữ chạm trổ trên bộ áo giáp Ý của nhà vua. Sau khi đã ôm chặt Lubomirski hôn
như vậy, hơi lâu quá sự cần thiết một chút, vua Auguste ra lệnh mang một chiếc
ghế thứ tư tới. Nhưng ghế đã để sẵn rồi. Viên đại thủ lĩnh vừa xoa bên má bị
đau vừa kể lại những sự việc đã diễn ra từ sau khi ông từ chối không cẩm vũ khí
đánh lại Auguste và quân Nga.
Nỗi kinh hoàng tràn lan khắp Warsawa. Hồng
y giáo chủ Ratzidpski, - năm ngoái tại Nghị hội ở Lublin, còn quỳ gối trước cây
thánh giá, công khai thề trung thành với vua Auguste và nền tự do của quốc gia
Ba Lan, một tháng sau, tại Warsawa, lại tuyên thệ với vua Charles trên kinh
thánh của giáo phái Lute rồi sùi bọt mép, đòi truất vua Auguste và đề cử vương
hầu Lubomirski lên nối ngôi rồi ngay sau đó, lại phản lại Lubomirski theo mệnh
lệnh của Arvit Horne. - tên phản bội đã ba lần phản lại lời thề của mình đó, là
người đầu tiên trốn khỏi thành phố, và đã tìm được cách đem theo rất nhiều hòm
xiểng đựng đầy những bảo vật của nhà thờ.
Vua Xtanixlav lang thang ba ngày ròng trong
cung điện trống rỗng của mình; mỗi sáng, đám đình thần đến hầu lúc vua dậy lại
càng vắng thêm. Arvit Horne, đã từng thề với nhà vua sẽ giữ vững thành phố với
riêng quân lính Thuỵ Điển, không rời nhà vua một bước.
Vì nghi lễ cấm hắn không được ngồi vào bàn
của vua, trong bữa ăn trưa và bữa ăn tối, hắn ở phòng bên cạnh, gõ đinh thúc
ngựa kêu choang choang. Để khỏi phải nghe thấy cái tiếng khó chịu ấy, Xtanixlav
giữa hai món ăn, cất cao giọng ngâm những bài thơ bằng tiếng la tinh của
Apule(4).
Tuy nhiên, đến đêm thứ tư, trá hình làm một
nông dân và đeo râu giả, Xtanixlav đã trốn được khỏi cung điện cùng với người
cạo râu và người hầu phòng của hắn. Hắn đi qua cửa ô của thành phố, trên một
chiếc xe ngựa chở hai cái thùng gắn nhựa thông đựng tất cả kho tàng của hoàng
cung.
Arvit Horne lúc ấy mới hiểu ra nhưng quá
muộn, rằng vua Xtanixlav, đúng là dòng dõi Lekzinski, không phải chỉ có ngâm
thơ Apule bằng tiếng La tinh và cùng với con chó cái, chán chường tha thẩn qua
các căn phòng trống rỗng, mà còn có những mối bận tâm khác trong những ngày đó.
Arvit Horne giật đứt các rèm giường của nhà
vua, dẫm lên, rút gươm đâm chết viên đại thần trông coi hoàng cung và đem xử
bắn viên chỉ huy đội tuần phòng ban đêm. Nhưng giờ đây không còn gì ngăn nổi
các công hầu Ba Lan, có quan hệ cách này hay cách khác với Lekzinski, trốn khỏi
Warsawa.
Vua Auguste nghe kể những sự việc đó, cười
ha hả nắm hai bàn tay đấm xuống chỗ tựa tay ở ghế bành và quay lại phía hai bà
phu nhân. Mắt nữ bá tước Koxenxka chỉ biểu lộ một thái độ khinh bỉ lạnh lùng,
trái lại Anna phu nhân cười rũ rượi, tiếng cười nghe như tiếng chuông vàng,
khánh bạc.
- Đại thủ lĩnh, ngươi khuyên ta nên làm gì?
Bao vây hay mở cuộc công phá ngay?
- Công phá, công phá ngay, muôn tâu thánh
thượng. Quân lính của Arvit Horne đồn trú trong thành không đông. Cần phải
chiếm lấy Warsawa trước khi vua Charles tới.
- Công phá ngay lập tức, văng-trơ-xanh-gri(5), đó là lời khuyên
sáng suốt. - Vua Auguste lắc vai áo giáp kêu loảng xoảng một cách hung hăng. -
Muốn cho cuộc tấn công thắng lợi, quân của ta cần phải ăn no, dù chỉ là ăn thịt
ngỗng luộc... Vậy thì tối thiểu cần phải có năm nghìn con ngỗng! Hừ! - Nhà vua
nhăn mũi. - Cũng nên trả lương cho lính... Vương hầu Dimitri Mikhailovich
Golixyn chỉ cung cấp cho ta được có hai mươi ngàn rixdan... Chẳng thấm tháp vào đâu! Về tiền nong thì Sa hoàng Piotr
chẳng lấy gì làm rộng rãi lắm, ồ không... Ta vẫn trông đợi ở ngân khố của hồng
y giáo chủ và của hoàng cung... Thế là chúng ăn cắp mất của ta rồi! - Nhà vua
kêu lên, mặt đỏ tía. - Dẫu sao thì ta cũng không thể cưỡng bức chính thủ đô của
ta phải nộp tiền chuộc được.
Vương hầu Lubomirski lắng nghe tất cả những
lời nói đó, mắt nhìn xuống đất. Ông khẽ nói:
- Quỹ quân sự của thần chưa cạn... Thánh
thượng chỉ cần ra lệnh!
- Cảm ơn, ta vui lòng nhận, - vua Auguste
đáp lại, hơi vội quá nhưng với một vẻ lịch sự hoàn toàn đúng kiểu Vecxay. - Ta
cần vào khoảng một trăm ngàn rixdan...
Sau trận tấn công, ta sẽ hoàn lại cho nhà ngươi... - Mặt mũi nở nang, nhà vua
đứng dậy và lại ôm hôn vị đại thủ lĩnh, má ép má. - Bây giờ thì vương hầu hãy đi
nghỉ. Ta cũng cần nghỉ ngơi.
Vị đại thủ lĩnh nhảy lên ngựa và không
ngoái đầu lại, phóng ngựa lao vào đêm tối. Vua Auguste nói với hai phu nhân:
- Bây giờ thì hai phu nhân sẽ được đền bù
lại những nỗi mệt nhọc của cuộc hành trình... Hai phu nhân chỉ cần ngỏ cho ta
biết ý muốn... Ý muốn đầu tiên và là ý muốn nhỏ mọn nhất, ta đã đoán được, là
ăn bữa tối. Đừng nghĩ rằng ta quên khuấy mất những tiện nghi và giải trí của
hai phu nhân... Bổn phận ông vua là không bao giờ được quên cái gì hết... Mời
hai phu nhân hãy lên xe ta.
-------------
Chú thích:
(1)
Thành phố Pháp.
(2)
Vua Pháp (1553-1610) nổi tiếng can đảm và nhiều nhân tình.
(3)
Trường ca kể chuyện phiêu lưu của Uylitxơ, tác phẩm trứ danh của đại thi hào
Hôme, thời Hy Lạp cổ.
(4)
Nhà thơ La Mã cổ, thế kỷ thứ II.
(5)
Tiếng Pháp, một tiếng rủa của vua Pháp Henry đệ tứ hay dùng, vua Auguste bắt chước.
Chương 158
Gavrila Brovkin mang theo công lệnh của Sa hoàng, phi một mạch không
nghỉ về Moskva trên cỗ xe trạm nhỏ có bánh xe vành sắt, thắng ba con ngựa, cứ
mỗi trạm lại thay ngựa. Hắn đem thư từ của Sa hoàng và một lệnh truyền miệng
cho vương hầu chấp chính: thúc giao nộp hàng thiết khí các loại cho Petersburg.
Andrey Golikov đi theo Gavrila. Họ được
lệnh không nấn ná trên đường đi. Nấn ná ư? Không lo. Lòng Gavrila bồn chồn như
bay trước cỗ xe tam mã đến hàng trăm sải. Hễ đến trạm nghỉ là hắn lại hối hả,
bụi bặm đầy người, chạy lên bậc thềm lấy cán roi đập thình thình vào cửa:
- Này, trưởng trạm! - hắn trợn mắt gọi to,
- cho ba con ngựa ngay tức khắc!
Và hắn bước thẳng đến chỗ viên trưởng trạm
đang ngái ngủ, chỉ có cái mũ đính lon là dấu hiệu độc nhất của chức vụ y: vì
trời nóng như hun nên y đi chân đất, mặc quần đùi và áo lót dài không có thắt
lưng.
- Cho một bình kvas và phải thắng ngựa vào xe xong xuôi trong khi ta uống đấy...
Cả Andrey Golikov cũng ở trong một tâm
trạng cực kỳ phấn khởi. Tay bám chặt vào thành xe để khỏi ngã lăn xuống đường
và gãy cổ, hàm răng nghiến chặt, tóc bay phần phật trước gió, cái mũi chĩa ra
như mỏ chim mỏ nhát, hắn như mới được mở mắt bây giờ là một. Hắn ngắm nhìn các
khu rừng đang dập dềnh lướt đến, tỏa mùi hương nồng ấm của chất nhựa thông bầu
trời mùa hè và những đám mây nhẹ soi mình trên các hồ lầy, tròn vành vạnh, xung
quanh viền một lớp cây cối xanh um; những dòng sông nhỏ uốn khúc quanh co, nước
đen ngòm; từ đó chim rừng đủ loại cất cánh bay lên khi bánh xe lăn ầm ầm trên
cầu. Tiếng nhạc ngựa loong coong theo nhịp lắc lư của cái ách hình cánh cung,
nói lên nỗi buồn man mác của đường trường vô tận.
Người xà ích luôn luôn thúc ngựa vì sau tấm
lưng còng của hắn, hắn cảm thấy sự có mặt của người hành khách nóng nảy tay cầm
roi.
Thỉnh thoảng xe lại chạy qua những làng dân
cư đi đâu mất đến nửa, với những túp nhà gỗ ọp ẹp, cũ kỹ, khoét một cái lỗ rộng
bằng hai bàn tay làm cửa sổ, có căng một cái bong bóng và bên trên khung cửa
thấp lè tè đục một cái khe khói ám đen sì và dưới một cây liễu cong queo còn có
cả một bức tranh thánh nhỏ với con chim bồ câu, để ít ra cũng có nơi cầu Chúa ở
chốn xó xỉnh heo hút này.
Có xóm chỉ còn lác đác hai hay ba túp nhà
có người ở, các túp lều khác đều thủng mái hay sụt mái, rào giậu siêu vẹo, tầm
ma mọc lan khắp nơi. Còn người thì đi mà tìm họ trong các khu rừng rậm rạp miền
Bắc, dọc dòng sông Dvina hay sông Vyk, có ma nào biết được, không thì họ cũng
đã trốn vào vùng Ural hay vùng hạ lưu sông Đông rồi.
- Chao ôi? Làng mạc thảm hại quá! Chao ôi!
Dân ở đây sống mới xơ xác làm sao chứ! - Golikov lẩm bẩm. Chạnh lòng thương,
hắn đưa bàn tay nhỏ nhắn lên má. Gavrila trả lời rất chí lý:
- Người thì ít mà đất nước ta lại rộng mênh
mông, đi đến mười năm cũng chưa hết một vòng. Do đó mà có cảnh cùng khổ: người
ta đòi hỏi rất nhiều ở mỗi người dân. Như ta chẳng hạn, đã từng ở bên Pháp.
Trời đất ơi! Nông dân đứng không vững nữa, họ chỉ ăn rặt có cỏ và uống rượu
chua loét mà không phải ai cũng có rượu cả đâu... Ấy thế nhưng khi một vị hầu
tước hay đích thân hoàng thái tử đi săn thì ông ta mang về hàng xe bò thứ săn
được... Cảnh cùng khổ đến thế đấy. Nhưng ở bên ấy thì lại vì một nguyên nhân
khác!
Golikov không hỏi tại sao nông dân Pháp lại
đứng không vững... Đầu óc kém mở mang của hắn không hiểu nổi căn nguyên của sự
vật: bằng mắt, bằng tai, bằng mũi, hắn uống thứ rượu ngọt ngào hay cay đắng của
cuộc đời, và vui thú hay đau khổ cũng đều quá mức.
Trên cao nguyên Vandai, phong cảnh tươi tắn
hơn, có những cánh đồng cỏ với những đụn rơm năm ngoái có con chim cắt đậu ở
trên đỉnh, những con đường mòn mất hút trong rừng cây um tùm, vào đó hái dâu
hẳn là thú vị. Ngay cả đến tiếng rừng cây lao xao nghe bây giờ cũng khác, êm ái
hơn, phóng khoáng hơn. Làng mạc cũng trù phú hơn, với các cổng lớn vững chãi và
bậc thềm bằng gỗ chạm trồ.
Khi dừng xe nghỉ trước một cái giếng cho
ngựa uống nước, các du khách nhìn thấy một cô bé chừng mười sáu tuổi, tóc bện
thành bím to, trán chít một vành kokosnic(1)
tết bằng vỏ phong, mỗi múi đính một hạt cườm xanh lơ; cô bé nom xinh đến đỗi
người ta những muốn nhảy xuống xe, hôn cô ta lên môi. Golikov khe khẽ kín đáo
thở dài. Còn Gavrila thì không mảy may chú ý đến cô thôn nữ vô nghĩa lý đó, hắn
bảo cô bé:
- Thế nào, tại sao lại cứ đứng trố mắt ra
như thế, không thấy chúng ta bị gãy vành bánh xe hay sao, chạy đi gọi thợ rèn
đi nào!
- Ừ nhỉ! - cô gái nông dân khẽ thốt lên.
Cô vứt thùng và đòn gánh xuống rồi chạy
trên đám cỏ lơ thơ, hai gót chân hồng hồng lúc ẩn lúc hiện dưới gấu áo thêu
bằng vải thô. Chắc hẳn cô ta đã đi tìm giúp vì chỉ một lát sau, người thợ rèn
đã ra. Nhìn thấy anh ta, nhất định ai cũng phải trầm trồ: “Chà, khỏe quá!”.
Khuôn mặt như tạc, như đẽo, đóng khung trong bộ râu quăn ngắn; một nụ cười ngạo
nghễ thoáng hiện trên môi như thể hắn đã hạ cố chịu phiền đến giúp bọn du khách
ngốc nghếch này; có thể lấy một quả tạ nặng hai pud đánh anh ta vào ngực cũng
chẳng vần gì. Hắn thù lù hai bàn tay to khỏe dưới yếm tạp dề bằng da.
Vẻ giễu cợt, hắn hỏi, giọng trầm trầm nghe
như hát:
- Có phải các ông bị gãy một vành bánh xe
không? Của này làm ở Moskva đây mà, cứ trông cũng biết!
Vừa lắc đầu, hắn vừa đi vòng quanh cỗ xe,
nhìn xuống gầm, nắm phía sau xe và không cần phải gắng sức hắn lắc mạnh cỗ xe
với cả những người ngồi trên.
- Nát lắm rồi. Chỉ để cho quỷ dùng chở củi
thì được thôi!
Gavrila bực dọc mặc cả. Golikov ngẩn người
say sưa ngắm nhìn anh thợ rèn: trong tất cả các kỳ quan hắn đã từng thấy, đây
có lẽ là cái kỳ lạ nhất. Làm sao hắn không nhớ tiếc cây bút lông, thuốc vẽ và
những miếng gỗ ván thơm của hắn cho được? Mọi cái đều trôi qua, phai mờ trước
mắt ta, biến mất vào đám sương mù của quên lãng, không bao giờ trở lại. Chỉ có
nhà họa sĩ là có thể, bằng nghệ thuật của mình, ngăn chặn sự tàn phá mù quáng
bằng cách ghi lại giây phút mong manh lên tấm ván gỗ sồi phủ một nước sơn trắng
làm nền.
- Nhưng liệu có lâu không? - Gavrila hỏi. -
Mỗi phút đối với ta là rất quý, ta đi đây là theo lệnh của Sa hoàng.
- Cũng tùy thôi, - anh thợ trả lời. - Có
thể dềnh dàng mà cũng có thể làm nhanh.
Gavrila đanh nét mặt lại nhìn cái roi của
mình, rồi liếc nhìn anh thợ rèn:
- Thôi được... Ngươi đòi bao nhiêu?
- Tôi đòi bao nhiêu ấy à? - Anh thợ rèn phá
lên cười. - Công tôi đắt lắm. Tôi mà nói đúng giá thì tất cả tiền của ông cũng
không đủ để trả đâu. Nhưng thôi, tôi biết ông, Gavrila Ivanovich ạ. Vào mùa xuân,
ông đã đi qua đây cùng với người anh, ông lại còn ngủ ở nhà tôi nữa kia. Ông
quên rồi à? Anh ông là một người có trí lự. Cả Sa hoàng Piotr nữa, tôi cũng
biết rõ và hoàng thượng cũng biết rõ tôi. Không lần nào hoàng thượng đi qua đây
mà không tạt vào lò rèn nhà tôi. Nhà vua cũng là một người có trí lự. Thôi, ông
hãy cho xe quay lại, đến lò rèn, ta sẽ liệu xem làm được cái gì chăng.
Lò rèn dựng trên sườn đồi nhìn xuống đường
cái; đó là một ngôi nhà thấp cất bằng những cây gỗ tròn to tướng, mái bằng đất và
có ba cái khung để đóng móng ngựa; xung quanh bừa bãi bánh xe, cày, bừa. Trước
cửa có ba người đàn ông đeo tạp dề da, trán buộc một sợi dây da mỏng để giữ mớ
tóc quăn cho khỏi xõa xuống; họ là hai người em của anh thợ rèn, và người anh
hắn, chuyên quai búa, một gã thô kệch râu xồm, mặt mày cau có.
Không vội vàng, nhưng khéo léo, như vừa làm
vừa chơi, anh thợ rèn bắt tay vào việc. Hắn tự tay tháo ngựa ra khỏi xe, lật
sấp thùng xe, tháo bánh và rút các trục sắt ra.
- Xem này! Cả hai chiếc đều rạn cả. Cái lão
thợ rèn Moskva này thật đáng nện vào sọ!
Hắn vùi các trục xe vào lò, đổ vào đó một
túi than rồi gọi người em:
- Vaniusa, kéo bễ mạnh vào! Làm khỏe lên!
Công việc của mấy anh em tiến hành nhộn
nhịp. Gavrila đứng tựa cửa, rít cái tẩu nhỏ. Golikov ngồi trên ngưỡng cửa cao.
Lúc đầu, họ cũng đã đề nghị giúp một tay để công việc thêm nhanh chóng nhưng
anh thợ rèn khoát tay từ chối.
- Các ông cứ ngồi yên, mấy khi các ông có
dịp được trông thấy thợ rèn vùng Vandai làm việc.
Vaniusa kéo mạnh bễ, làm tóe ra từng đám
tàn lửa nổ lách tách cuồn cuộn bay lên mái nhà.
Người anh cả râu xồm, đứng trong ánh lửa
sáng nom như một pho tượng thờ, bàn tay đặt trên cái cán dài của chiếc búa nặng
hai mươi cân. Anh thợ rèn xoay đi lật lại cái trục xe trong lò lửa đang toả ra
một làn hơi nóng hối.
- Cần nói để các ông biết thiên hạ gọi
chúng tôi là anh em nhà Vorobiev. - hắn tuyên bố, vẫn tủm tỉm cười trong bộ ria
quăn. - Chúng tôi là thợ rèn, thợ đúc vũ khí, thợ đúc chuông... Cái nhạc kêu
lanh lảnh ở ách ngựa của các ông là làm theo kiểu của chúng tôi đấy! Năm ngoái
Sa hoàng Piotr đến đây, cũng ngồi như các ông ở ngưỡng cửa, và luôn miệng hỏi
tôi: “Hãy ngừng tay búa đã. Kondrati Vorobiev”, - hoàng thượng bảo tôi - “Hãy
trả lời ta đã. Tại sao nhạc của nhà ngươi đúc lại có tiếng kêu lanh lảnh ấy?
Tại sao những lưỡi kiếm do tay nhà ngươi làm ra lại uốn cong được mà không gãy?
Tại sao súng ngắn của nhà Vorobiev bắn xa hơn súng của các thợ đúc vũ khí khác
đến hai mươi bước và lại nhạy thế?”. Tôi trả lời: “Tâu bệ hạ Piotr Alekseevich,
nhạc ngựa của chúng thần có tiếng kêu đặc biệt đó là vì chúng thần cân đồng và
kẽm theo lời dạy của những người lành nghề và chúng thần nấu kim khí không để
có bong bóng. Nếu lưỡi kiếm của chúng thần cong lại mà không gãy là vì chúng
thần nung thật đỏ lên rồi tôi vào dầu gai. Còn như súng ngắn của chúng thần mà
bắn được xa và nhạy là nhờ ông thân sinh ra chúng thần là Xtepan Xtepanovich,
cầu Chúa hãy cho ông cụ được sống ở thiên đường; ngay từ khi chúng thần còn bé,
cứ mỗi lần sơ suất, dù nhỏ, là ông cụ lại nện chúng thần những trận nên thân và
vừa đét chúng thần vừa luôn miệng nhắc: “Việc làm dối trá còn quá ăn gian!”
Vâng như thế đấy!”.
Kondrati tay kìm cặp chiếc trục xe rút ra
khỏi lò, đặt lên đe và lấy cái chổi con phủi những vẩy phồng, khiến cái chổi bén
lửa: rồi hắn hất hàm ra hiệu cho người anh cả. Gã này lùi lại một bước và ưỡn
người ra đằng sau rồi ngả mạnh ra đằng trước, gã vung búa bắt đầu đập: những
giọt kim khí chảy bắn tung tóe lên tường. Kondrati ra hiệu cho người em:
- Ra tay đi, Xtiopa!
Anh chàng này cầm một cái búa nhỏ hơn đến
đứng trước mặt người anh râu xồm: thế là bắt đầu những tiếng nện choang choang
nghe như tiếng chuông ngày lễ Phục sinh: người anh cả nện một búa thì Xtiopa
nện hai; Kondrati lật đi lật lại thanh sắt trên đe, tay đập búa nhỏ.
- Thôi! - hắn bỗng kêu lên.
Rồi hắn vứt cái trục xe đã rèn xuống nền
nhà bằng đất nện.
- Vaniusa thổi lửa to lên! - Rồi thì hoàng
thượng hỏi tôi, - anh thợ rèn nói tiếp vừa lấy mu bàn tay quệt khuôn mặt đẫm mồ
hôi. - “Kondrati Vorobiev, ngươi có nghe nói đến người thợ rèn Nikita Demidov ở
Tula không? Bây giờ hắn có xưởng ở Ural và có cả hầm mỏ, cả nông dân làm lụng
trên ruộng đất của hắn và nhà của hắn còn sang hơn cả nhà của ta nữa kia... Thế
mà lúc đầu hắn cũng chỉ làm công việc lặt vặt như ngươi thôi... Đối với ngươi
cũng vậy, đã đến lúc ngươi nên nghĩ đến một công việc lớn đi thì vừa: chẳng lẽ
ngươi lại cứ suốt đời đóng móng ngựa bên cạnh đường cái mãi ư? Nếu không có
tiền thì ta sẽ cho, mặc dầu ta cũng chẳng lấy gì làm sung túc lắm. Lẽ ra ngươi nên
mở một xưởng đúc vũ khí ở Moskva, hay tốt hơn, ở Petersburg. Ở đó thật là thiên
đường”. Tóm lại, hoàng thượng cứ nói đi nói lại mãi, tôi cảm thấy hoàng thượng
muốn dụ dỗ tôi... “Ồ! tâu hoàng thượng Piotr Alekseevich - tôi trả lời. - Chúng
thần sống bên cạnh đường trong cảnh vui vẻ no ấm. Ông cụ thân sinh ra chúng
thần thường nói: “ăn ngon chẳng hại gì, ăn cho nhiều, ngủ cho đẫy giấc và làm
việc cho chăm”, những lời giáo huấn đó, chúng thần đã theo đúng. Chúng thần cần
gì cũng có đầy đủ. Mùa thu chúng thần nấu rượu bia, rượu mạnh đến nỗi vỡ tung
cả thùng đựng, rồi muôn tâu đại đế, chúng thần uống rượu, chúc mừng sức khỏe
của hoàng thượng. Chúng thần xỏ bao tay thêu vào rồi ra ngoài trời đấm nhau
chơi cho vui... Cho nên chúng thần chẳng tội gì mà đi khỏi nơi này”. Tôi trả
lời nhà vua như vậy đó. Nhưng hoàng thượng nổi giận đùng đùng: “Kondrati
Vorobiev - hoàng thượng bảo tôi, - câu trả lời của ngươi thật là tệ hại, không
còn thể nào tệ hại hơn được. Kẻ nào tự bằng lòng với những cái mình có sẵn,
không muốn đổi cái tốt lấy cái tốt hơn nữa rồi sẽ mất sạch cả. Chà! - nhà vua
bảo - bao giờ các ngươi mới hiểu ra điều ấy, hử, đồ quỷ lười kia... Thật tình,
nhà vua đã đưa ra cho chúng tôi một vấn đề khó nghĩ quá thể.
Anh thợ rèn ngừng nói, nét mặt sa sầm, và
nhìn xuống đất. Mấy người em im lặng nhìn anh; cố nhiên họ cũng muốn góp ý kiến
nhưng lại không dám. Kondrati gật gù rồi mỉm cười trong bộ râu:
- Nhà vua làm rối đầu óc mọi người như thế
đấy! Chúng tôi mà lười biếng à? Thế mà, theo nhà vua, thì chúng tôi quả là lười
biếng thật đấy!
Bỗng hắn quay ngoắt lại phía lò than, trong
có chiếc trục xe thứ hai đang nung đỏ, cầm lấy kìm rồi gọi anh em hắn: “Về chỗ!”.
Chừng một giờ rưỡi sau, cỗ xe được lắp lại,
hoàn toàn sẵn sàng, trông vững chãi, nhẹ nhàng. Suốt thời gian đó, cô gái đầu
chít dải kokosnic cứ luẩn quẩn quanh
lò. Cuối cùng Kondrati nhìn thấy cô ta:
- Masutka này? - cô bé hất bím tóc dài ra
sau lưng và đứng chừng lại như bị đóng đinh tại chỗ. - Chạy mau lên, đem sữa
lạnh ra mời các vị đây... Họ sẽ giải khát trước khi lên đường.
Gavrila chớp chớp mắt nhìn cặp gót chân
hồng thoăn thoắc của cô gái quê, hỏi anh thợ rèn:
- Em gái ngươi đấy à? Một cô gái đẹp đấy
chứ?
- Chậc! Con bé đang gây cho chúng tôi nhiều
chuyện phiền lắm, - anh thợ rèn trả lời. - Gả chồng cho nó ư? Nó còn trẻ quá,
chúng tôi không nỡ. Nhưng ở nhà nó chẳng được cái tích sự gì hết, dệt cũng
không biết, vắt sữa bò cũng không, chăn ngỗng cũng không nốt. Đầu óc nó chỉ
luẩn quẩn mỗi một chuyện: nhào đất xét xanh và chơi nặn bất cứ cái gì, như con
mèo cưỡi trên lưng con chó chẳng hạn, hay một một mụ già chống gậy trông cứ như
thật, quả có vậy... Nó nặn những con chim, con thú chưa ai từng thấy bao giờ.
Buồng của nó đầy những thứ đồ chơi vớ vẩn đó. Chúng tôi cũng đã định quẳng tất
cả những của ấy đi nhưng nó la hét inh ỏi đến nỗi đành phải để mặc nó vậy!
- Trời ơi! - Golikov lẩm bẩm. - Phải xem
những thứ đó ngay lập tức mới được.
Và như bị một nỗi kinh hãi thiêng liêng
chiếm lấy, hắn trố mắt nhìn anh thợ rèn. Anh này vỗ bụng cười ha hả. Vaniusa và
Xtiopa kín đáo mỉm cười, mặc dù cả hai cũng đều đang muốn cười ồ lên. Cô gái
chít kokosnic đem ra một vò sữa nấu ở
lò.
- Maska, - Kondrati nói, - Ông này muốn xem
các ông phỗng của mày, để làm gì, tao cũng chẳng biết. Đưa cho ông ấy xem.
Cô gái tái mặt, vò sữa run run trong tay.
- Ồ không đâu, tôi chẳng cho xem đâu.
Cô đặt vò sữa xuống cỏ, quay gót bỏ đi,
thất thần như một người mê ngủ, biến mất sau lò rèn. Chuyến này thì tất cả các
anh cô đều ôm bụng lắc đầu cười rũ rượi... Chỉ có Golikov là không cười... Hắn
vươn cổ nhìn về phía cô bé đã mất hút.
- Thế nào, Kondrati Xtepanovich. - Gavrila
hỏi, - Chúng ta trả công cho ngươi sao đây?
- Trả công ấy à?
Anh thợ rèn chùi mắt, vuốt ria và trở nên
đăm chiêu, vừa vuốt râu vừa nói:
- Khi nào gặp Sa hoàng Piotr, ông hãy chào
nhà vua giúp tôi và thêm thắt hộ những lời chúc tụng thường lệ của ông... Nhờ
ông hãy tâu với nhà vua là Kondrati Vorobiev xin nhà vua đừng giận hắn, rằng
Kondrati Vorobiev không chịu làm thằng ngốc hơn người khác đâu. Sa hoàng sẽ
hiểu tôi muốn nói gì.
-------------
Chú thích:
(1)
Một thứ dải để giữ tóc của phụ nữ Nga thời cổ.
Chương 159
Bên kia những cánh đồng trải ra như sóng lượn, những đồng lúa mạch và
những khu rừng phong, tít đằng xa bên kia khu rừng xanh lam, một chiếc cầu vồng
uốn cong trên nền trời một đầu cầu vồng mất hút trong đám mây mù mang mưa bay
về chân trời, và nơi đầu kia chạm mặt đất, người ta thấy lấp lánh và lóe lên
những tia vàng óng.
- Andriuska, nhìn thấy không? Moskva đấy.
- Gavrila Ivanovich ạ, cái cầu vồng chiếu
sáng rực cả thành phố kia cho chúng ta, trông như một điềm gì đó.
- Chính ta cũng không hiểu tại sao Moskva
lại sáng rực lên như vậy... Này, được đến Moskva, hẳn là người bằng lòng chứ?
- Có thể... Bằng lòng nhưng lại cũng sợ.
- Hễ đến nơi là chúng ta đi tắm ngay...
Ngay sáng mai, ta sẽ đến trình diện ngài vương hầu chấp chính. Rồi ta sẽ dẫn
ngươi đến công chúa Natalia Alekseyevna.
- Đấy chính cái đó làm tôi sợ.
- Này, bác ơi, - Gavrila nói với người xà
ích, lần này giọng nói gần như ngọt ngào, - bác thúc ngựa nhanh lên cho, nhanh
nhanh lên bác.
Sau trận mưa, ngồi xe bon êm trên đường
thật là thú vị. Từng mảng đất bắn tung tóe dưới vó ngựa. Lá phong bóng láng.
Làn gió nhẹ thơm phưng phức. Họ gặp những người mugic đang đi về nhà trên những cỗ xe trống rỗng, kéo theo một con
bò không bán được, hay một con ngựa cà khổ khập khiễng cột vào sau xe. Họ vượt
qua một cái cột trên có vẽ con đại bàng và con số 34: còn ba mươi tư dặm nữa
thì đến Moskva.
Và dọc hai bên đường lại thấy những túp nhà
gỗ ọp ẹp cái thì đầu hồi trông ra đường cái, cái thì quay lưng ra mặt đường, và
đằng xa, sau rặng liễu ánh bạc của một nghĩa trang hiện lên cái mái tróc lở của
một ngôi nhà thờ nhỏ. Rồi lại thấy một đứa bé phơi bụng trần chạy ngang qua
đường cái ngay trước mũi cỗ xe tam mã, vừa lắc bờm tóc vừa gật đầu như ngựa.
Bác đánh xe cúi xuống, quất một roi vào đôi mông bị muỗi đốt của nó, nhưng
thằng bé tránh như không và đôi mắt tròn xoe, nhìn theo xe.
Con đường tiếp tục lên rồi lại xuống, hết
vượt qua ngọn đồi này lại leo sang ngọn đồi khác. Nếu nhìn sang bên phải, nơi
một dòng sông nhỏ lấp lánh qua các bụi cây sẽ thấy những người mugic râu xồm, mình bận áo lót dài đi
nối duôi nhau, chân xoạc rộng ra và nhất loạt vung lên những lưỡi hái sáng
loáng. Nhìn sang bên trái sẽ thấy nơi ven rừng, một đàn bò nằm dưới bóng cây,
chú bé chăn bò, tay cầm roi, chạy theo một con bê lang trong khi con chó thông
minh của chú nhảy chồm chồm theo chủ, hai tai vẫy vẫy trên lớp cỏ...
Và rồi lại trông thấy một cái cột vằn sọc
nữa: 31 dặm. Gavrila rên lên:
- Sao, bác đánh xe, mới được có ba dặm thôi
à?
Bác đánh xe quay lại nhìn hắn, cái mũi hếch
trên bộ mặt hớn hở, có vẻ như nằm chen vào giữa hai gò má đỏ hồng là chỉ cốt để
nhòm vào đáy cốc rượu.
- Này, lãnh chúa, không nên đếm dặm theo
cột số hãy đếm theo số quán rượu kia. Hãy chờ mà xem cái này!
Bỗng bác lè nhè quát to: “Ê, này, này? Lũ
ngựa tốt của ta ơi!”. Bác ngả người ra dằng sau và buông cương; những con ngựa
đầu to, màu sắc ô hợp, phi nước đại rồi rẽ ngoặt và dừng lại trước quán rượu:
một căn nhà gỗ dài, cũ kỹ, trên cổng cái có buộc một cây sào dài và đối với ai
biết đọc thì có cả một tấm biển đề: “Quán rượu”, chữ màu đỏ son trên nền xanh
da trời.
- Ngài muốn làm gì thì làm nhưng ngựa mệt
lử rồi, - bác đánh xe vui vẻ vừa nói vừa bỏ cái mũ cao bằng nỉ ra... - Ngài
muốn đánh tôi dữ đòn cũng được, nhưng ngài nên mời chúng tôi một cốc rượu thì
hơn!
Chủ quán, một người da dẻ hồng hào, vẻ mặt
niềm nở, mặc theo kiểu cổ: áo nẹp màu huyết dụ, cổ áo dựng lên cao hơn cả cái
đầu hói, đã đứng sẵn trước cái thềm mọt của căn nhà gỗ và đưa mời khách ba ly
rượu mạnh, và ba chiếc kẹo giòn nhân anh túc để ăn cho thơm miệng, tất cả để
trên một cái khay... Chẳng làm thế nào được, đành phải xuống xe cho giãn xương
giãn cốt vậy.
Khi họ gần đến Moskva thì cảnh hoàng hôn ẩm
ướt bao trùm cả thành phố. Dinh cơ các nhà quý tộc, xóm làng, lùm cây, nhà thờ,
hàng rào, nối tiếp nhau vô tận. Thỉnh thoảng cái ách ngựa lại móc vào một cành
bồ đề và những giọt nước mưa rơi rào rào xuống khách trên xe... khắp nơi, ánh
sáng lờ mờ lọt qua những ô cửa kính có che rèm vái xếp nếp, qua nhưng khung cửa
gắn mi-ca. Ăn mày còn ngồi lê la trên thềm nhà thờ. Có tiếng kêu om xòm của bày
quạ làm tổ trong những gác chuông trổ cửa... Bánh xe lăn ầm ầm trên mặt đường
lát gỗ...
Gavrila tay nắm lấy vai bác đánh xe, chỉ
đường qua những ngõ hẻm quanh co chằng chịt như mắc cửi...
- Bác có thấy người đàn ông nằm dưới chân
rào đằng kia không? Thế thì đến trước mặt hắn, phải quành vào cái ngõ cụt ấy...
Dừng lại dừng lại, đến rồi!
Hắn nhảy xuống xe và gõ vào cái cổng lớn có
đánh đai bằng sắt tráng thiếc như một cái hòm. Đàn chó dữ nổi tiếng của gia
đình Brovkin sủa om lên đáp lại, xích sắt kêu loảng xoảng. Thú vị biết bao khi
trở về dưới mái nhà của gia đình sau một thời gian dài xa vắng! Ta vào - mọi
thứ đều là quen thuộc, ta đều biết rõ, nhưng lại có một vẻ gì mới mẻ. Trong
phòng tiền đình mùa hạ, một cây nến cháy trên bậu cửa sổ, dọc tường có đặt các
ghế gỗ dài, có chạm trổ, cho những kẻ đến xin việc, để họ ung dung chờ lúc được
dẫn vào gặp gia chủ. Xa hơn là phòng tiền đình mùa đông hoàn toàn trống trải,
có đặt hai lò sưởi: một cây nến, ngọn lửa chập chờn theo luồng gió lùa, đặt
trên sàn; bên trái, một cánh cửa lợp dạ dẫn vào các phòng không có người ở, đồ
đạc bày biện theo kiểu Hà Lan và dành riêng cho khách quý; cửa bên thông sang
các căn phòng thấp, ấm áp; nếu cứ đi thẳng thì sẽ lạc vào một đám chằng chịt
những hành lang, cầu thang dốc đứng khi thì leo lên, khi thì đổ xuống nối liền
các tầng dưới, tầng hầm, tầng thượng, kho chứa đồ, buồng xép... Ngôi nhà của
gia đình có một hương vị đặc biệt, dễ chịu, niềm nở... Mọi người vui sướng thấy
ta về, trìư mến nhìn ta và chuyện trò với ta, sẵn sàng chiều bất cứ ý muốn nào
của ta.
Ivan Artemist - người cha, đi vắng; lão đi
thăm các công xưởng của lão. Gavrila thấy ra đón hắn có mụ người ở làm những
việc nặng trong nhà, một người điềm đạm, đẫy đà (đúng như công việc của mụ đòi
hỏi), có giọng nói như hát nhưng phải cái tay chân vụng về; viên chánh quản lý,
một tay mà chính Ivan Artemist cũng phải chịu là ranh ma quỷ quái, và viên quản
gia Karle vừa mới mướn ở nước ngoài về, không ai đọc nổi tên họ của y. Y là một
gã cao lớn, lầm lì, má dày bì bì, cằm vuông, béo phị ra vì cảnh sống nhàn hạ và
món ăn Nga; vầng trán dô của y biểu thị một trí thông minh rộng lớn. Y chỉ có
một khuyết điểm độc nhất, nó giải thích vì sao y lại chịu nhận làm cái công
việc lương lậu xoàng xĩnh này ở Moskva: y phải đeo một cái túi nhung để thay
cho cái mũi và giọng nói hơi the thé.
- Ta chỉ muốn có một điều là đi tắm. -
Gavrila nói. - Ăn bữa tối, ta muốn ăn món giò gà tuốt xương, paté thịt băm,
thịt ngỗng và thêm một món gì thật bổ béo... Là vì ở Petersburg bọn ta chỉ ăn
độc có món bánh mì khô và những thứ mắm ướp thối hoăng, chỉ còn xương bọc da
thôi.
Mụ người ở dang đôi tay mũm mĩm ra rồi lại
chắp lại:
- Lạy Chúa tôi! Sao, cậu chỉ ăn độc có bánh
mì khô thôi ư?
Viên quản lý quỷ quái vừa kêu “ái dà! ái dà”
vừa ra vẻ ái ngại lắc lắc bộ râu dê. Còn viên quản gia vì không biết một tiếng
Nga nào nên cứ đứng trơ ra như phỗng, tay chắp sau lưng, bàn chân bẹt to tướng
của y đưa ra đằng trước ra dáng nghiêm trang, khinh khỉnh. Mụ người ở soạn quần
áo cho Gavrila thay, vừa làm nói huyên thuyên bằng cái giọng như hát của mụ:
- Chúng tôi sẽ để cậu tắm một bữa bằng hơi
nước nóng thật thích. Cậu sẽ ăn uống thỏa thuê rồi sẽ ngủ trên đệm nhồi lông
thiên nga... Cậu ạ, ngủ ở nhà cha mẹ mình là ngon lành lắm... Nhờ ơn Chúa, ở
nhà bình an vô sự, tai họa và bệnh tật đi qua mà không gõ cửa. Đàn bò Hà Lan đã
đẻ cả mà toàn bê cái, lợn sề Anh đã đẻ mỗi con mười sáu con con. Ngay đức ông
chấp chính cũng thân chinh đến xem. Trong vườn cây ăn quả anh đào và dâu ngon
không đâu bì được... Vâng, nhà ta quả đúng là một thiên đàng thực sự... Nhưng
than ôi, nó cũng vắng vẻ lắm! Ivan Artemist, cụ chủ tội nghiệp của tôi đi vòng
quanh các phòng một lượt, hai lượt. “Agapovna này, tao buồn lắm, - cụ bảo tôi -
Tao đi thăm các công xưởng đây”. Cụ có nhiều tiền đến nỗi bây giờ cụ không còn
biết là có bao nhiêu nữa. Không có Xenka. (mụ nháy mắt về phía viên quản lý quỷ
quái) cả đời cụ cũng không đếm xuể... Chỉ có cái lão mũi đen kia là khó chịu
thôi... Tất nhiên bây giờ thì nhà ta không thể thiếu một người như vậy được:
ngoài phố người ta đồn là cụ Ivan Artemist nhà ta rất có thể sẽ được phong tước
đấy... Khi lão kia đội mũ đính lông đỏ vào, cầm gậy gõ gõ xuống sàn và dậm bàn chân
to tướng của lão thì nom cũng sang trọng thật, khỏi phải nói... Lão đã làm quản
gia cho vua Phổ cho đến khi người ta đã xẻo mất hay ăn mất cái mũi của lão, tôi
cũng không rõ nữa. Hồi đầu, chúng tôi cũng thấy ngài ngại lão: dẫu sao một
người ngoại quốc cũng không phải là một chuyện nhỏ... Inhaska, anh chàng mã
phu, đã dạy lão gảy đàn balalaika... Từ đó lão cứ “tơ rưng, tơ rưng” suốt ngày
khiến chúng tôi chán ngấy cả người... Còn về cái khoa ăn thì không ai bằng được
lão. Lão lúc nào cũng lẵng nhẵng sau tôi: “ăn, bà!”. Một thằng ngu độn như chưa
bao giờ từng thấy. Nhưng có lẽ cái nghề của lão cần phải thế chăng? Ngày lễ
Thánh Jean, nhà ta có một bữa tiệc rất lớn. Công chúa Praxkovia Fedorovna có hạ
cố đến dự. Không có lão Karle thì chúng tôi quả cũng không biết xoay xở ra làm
sao. Lão đã mặc một chiếc áo nẹp, cậu ạ, trên áo có đính ít ra là mười livrơ dây tết và lon, và lão mang bao
tay bằng da nai có khâu thành từng ngón riêng và thế là lão bưng đến một nghìn
rúp và quỳ một chân xuống đất, dâng lên công chúa Praxkovia. Rồi lão lại lấy
một cái khay khác và một cái cốc khác còn đẹp hơn cái trước nhiều và dâng lên
công chúa Natalia Alekseyevna.
Trong khi mụ người ở nói chuyện, một gã
nông nô trẻ, được gọi là hầu phòng từ ngày có viên quản gia đến, đã cởi áo ngoài
đầy bụi và áo trong cho Gavrila rồi cởi cà-vạt cho chủ và đang hì hục tháo đôi
ủng. Gavrila giật mạnh chân ra, chồm dậy kêu lên:
- Sao? Công chúa Natalia có đến nhà ta à?
Mụ nói gì vậy?
- Thật đấy, công chúa đã đến, công chúa sao
mà đẹp thế, mà công chúa còn ngồi cả bên trái cụ Ivan Artemist nữa kia, trông
đẹp như tiên ấy... Khách khứa nhìn công chúa đến quên cả ăn uống... Công chúa
đeo nhẫn đầy ngón tay và cổ tay đeo xuyến, vai trắng muốt như lông thiên nga và
ngay ở bên trên vú - ai cùng để ý thấy - có một nốt ruồi chỉ bằng một hạt thóc
đen... Công chúa mặc áo màu cây gai đang độ nở hoa, nhẹ hơn cả không khí, hai
bên bồng ra và ở gấu có những bông hồng bằng lụa... Trên đầu lại cắm cả đuôi
chim lửa.
Gavrila không nghe tiếp nữa. Hắn khoác tấm
lông cừu lên vai và lẹp kẹp đôi dép kiểu Tarta chạy qua các hành lang và thang
gác đến phòng tắm hơi nước nóng. Tới phòng ngoài ẩm ướt, hắn sực nhớ ra:
- Agapovna này! Người đến cùng với ta đâu
rồi?
Hóa ra là tên quản gia đã không cho
Andriuska Golikov vào nhà; hắn vẫn nằm đợi ở ngoài sân, trên chiếc xe đã tháo
ngựa. Kể ra nằm đây, một mình suy nghĩ, hắn thấy cũng dễ chịu. Sao lấp lánh
trên các mái nhà đen sì; mùi nhà bếp, mùi kho chứa cỏ, mùi chuồng bò, ngửi thật
khoan khoái và từng làn hương thơm ngọt ngào của những cây bồ đề đang ra hoa từ
đâu thoảng đến khiến tim Andriuska đập mạnh hơn.
Hắn chống khuỷu tay nhìn các vì sao. Những
đốm sáng lấp lánh trên nền trời tím ngắt kia là gì, chúng có xa ta lắm không và
tại sao chúng lại sáng trên trời cao, hắn không hiểu và cũng không hề suy nghĩ
đến. Nhưng từ trên trời cao, những đốm sáng đó rót niềm thư thái vào lòng hắn
và hắn thấy nằm trong lòng xe này, mình mới nhỏ bé làm sao! Nhỏ bé nhưng không
phải nhỏ bé theo kiểu cha Nectari đã dạy hắn. Hắn không cảm thấy mình là một
con giun hèn mọn, một xác thịt đáng khinh miệt... Hình như không một con vật
nào có thể chịu đựng nổi những nỗi khổ cực mà Andriuska đã từng chịu đựng trong
cuộc đời ngắn ngủi của mình: người ta đã sỉ nhục hắn, đánh đập hắn, hành hạ
hắn, người ta đã để hắn chết rét, chết đói... Còn hắn, như thể bậc vương giả
của những bậc vương giả, mắt nhìn thẳng vào các đốm lửa của vũ trụ, hắn đang
nằm đây lắng nghe một tiếng nói bí mật bên trong nhủ hắn:
“Andrey ạ, đừng nản chí, đừng đi chệch con
đường mình đang đi; rồi đây rất gần đây thôi, sức mạnh kỳ diệu của ngươi sẽ
tưng bừng tỏa rộng và nó sẽ có thể làm được tất cả: trí tưởng tượng của ngươi
sẽ biến hình đổi dạng cho cái xấu và sẽ tạo nên một thế giới đẹp đẽ”.
Chà! chỉ vì nghe theo tiếng nói ma quỷ ấy,
trong thời gian ở nhà tên thánh lão, hắn đã bị xiềng lại bốn mươi ngày, thức ăn
cái uống chỉ có độc một gáo nước, và đã phải lén lấy đầu ở ngọn đèn trong đêm
để bôi lên những vết đòn vấy máu. Hồi tưởng lại cảnh đó, Andriuska mỉm cười,
lòng không chút hằn thù. Một kỷ niệm thoáng qua trí hắn: một hôm ở phố
Vacvarka, trong một quán rượu khói um, khách uống rượu đã đánh đập hắn tàn
nhẫn, hắn, bậc vương giả của các bậc vương giả; họ đã cầm chân hắn lôi xềnh
xệch ra tận thềm và quẳng hắn ra ngoài tuyết lầy bùn. Vì sao họ lại đánh hắn
nhỉ? Hắn cũng chẳng nhớ nữa. Lúc đó là vào cái mùa đông khủng khiếp khi quân xtreletz bị treo cổ lủng lẳng trước gió
trên tường điện Kreml và ở Kitai-gorod.
Thời ấy, Andrey buồn bã và thất vọng, bụng
rỗng, đi chân đất, mình trần khoác một manh áo rách tả tơi, lang thang từ quán
rượu này sang quán rượu khác, xin những kẻ rượu chè be bét một cốc rượu mạnh,
lòng thầm mong rốt cuộc rồi người ta sẽ giết chết mình đi: hắn đau khổ mà mong
ước điều đó, hắn thương thân đến ứa nước mắt...
Tại một quán rượu, hắn đã gặp lão bõ giữ đồ
thánh say rượu của nhà thờ Thánh Barbe, có đôi mắt ti hí hấp háy, đầu mũi xẻ
đôi, bím tóc lơ thơ vén lên sau gáy. Chính lão ta đã khuyên Andrey tìm gặp cha
Nectari để tìm cảnh yên lành trên chốn thiên đàng bằng cách tự hành hạ xác thịt
mình dữ dội, tàn nhẫn...
“Những con người kỳ quặc?” - Andrey lẩm
bẩm. Tự hành hạ xác thịt mình! Mà xác thịt lại có lúc đẹp đẽ biết bao!
Rồi những hình ảnh khác trở lại trong ký ức
hắn: một buổi tối yên tĩnh trong làng, ở Palekh, không khí mù mịt một lớp bụi
vàng, bò cái rống lên đi về chuồng. Mẹ Andrey người gầy ngẳng, hai vai to bè bè
như vai đàn ông, ra mở cổng; cái cổng ấy từ lâu lẽ ra đã phải chữa rồi; vả lại
cả cái nhà nữa cũng đã tơi tả, hoang tàn. Andrey và anh em hắn, tuổi cách nhau
năm một, đang ngồi trên chiếc xe bò lật sấp đã tháo bánh. Chúng kiên nhẫn đợi:
với một bà mẹ như thế thì bắt buộc phải kiên nhẫn thôi! Bà hé mở cánh cửa xộc
xệch. Cái bụng nặng nề, chạm sát hai bên trụ cửa, con Hung đỏ, con bò cái tốt
sữa, bước vào, cất lên những tiếng rống ngắn, hiền lành. Người mẹ có khuôn mặt
lầm lì khắc khổ chán chường, mà con Hung đỏ thì lại có cái mõm âm ấm, ươn ướt,
cái trán lông xoăn, cặp mắt màu hoa cà rất to. Ai chứ con Hung đỏ thì nó chẳng
hành hạ ai! Nó thở phì phì về phía đám trẻ và ra giếng uống nước, và ngay tại
đó, cạnh giếng, người mẹ ngồi trên ghế đẩu bắt đầu vắt sữa. Plích! Plốc! Plích!
Plốc! sữa con Hung đỏ chảy vào cái thùng. Bọn trẻ ngồi trên xe bò vẫn kiên nhẫn
đợi. Người mẹ đem những hũ sành tới và đổ sữa ở thùng vào các hũ. “Kìa, lại đây
chúng mày!” bà gọi, giọng gắt gỏng... Andriuska là đứa đầu tiên uống chỗ sữa âm
ấm cho đến khi bụng no căng; các em nó nhìn nó uống và đứa út lại còn thở dài
một cái vì nó là đứa sẽ uống sau cùng.
- Này! anh kia, xuống xe đi!
Andrey chợt tỉnh. Một anh chàng bé nhỏ, mặt
mày nghiêm nghị (gã hầu phòng) đang đứng trước mặt hắn.
- Gavrila Ivanovich bảo anh đến tắm ở buồng
tắm hơi nóng... Nhưng anh cởi giầy ra ở đây, ném áo nẹp và mũ lông vào gầm xe
kia... Ở nhà này không phải như ở nhà bọn quý tộc: những người rách rưới không
được vào nhà đâu.
Tắm xong, người tỉnh táo, Gavrila và Andrey
ngồi vào bàn ăn, cổ quàng một cái khăn lau tay. Agapovna đã tống tên quản gia
về buồng y: có y mọi người mất cả thoải mái. Bàn tay trắng trẻo, mũm mĩm của mụ
thoăn thoắt trên khắp mặt bàn, đặt những miếng ngon nhất vào đĩa, rót những thứ
rượu mùi, rượu mạnh quý nhất vào những chiếc cốc pha lê của Vơnidơ, được đem ra
dùng trong dịp quan trọng này.
Một lúc sau, nến soi tỏ gian phòng hơn và
Gavrila thấy ở góc phòng có một cái khung đặt trên ghế và phủ vải thô.
Agapovna, vẻ buồn rầu, chống khuỷu tay xuống bàn, bàn tay đỡ má nói:
- Tôi cũng không biết có nên đưa cậu xem
cái này trước mặt người lạ không. Bà Xaniuska, chị cậu, đã gửi từ Hà Lan về vào
đúng ngày lễ Thánh Jean đấy. Cụ Ivan Artemist kính mến, lúc thì treo nó lên
tường, lúc thì thấy buồn lại tháo nó xuống, lấy vải trùm lên. Lúc gửi nó về,
chị cậu có viết thư rằng: “Thưa cha, xin cha đừng ngại, cha cứ treo bức chân
dung của con ở trong phòng ăn, đừng sợ gì cả. Ở châu Âu, người ta còn treo
nhiều bức tranh khác nữa kia. Cha hãy tỏ ra không phải là một người man di mọi
rợ”.
Gavrila đi ra khỏi bàn, cầm một cây nến và
kéo tuột tấm vải phủ cái khung đặt trên ghế: Golikov nhổm người lên khỏi ghế và
cái hắn trông thấy khiến hắn thảng thốt đến nghẹn thở... Đó là chân dung của
Volkova phu nhân, đẹp và quyến rũ khôn xiết tả.
- Chà, ghê thật! - Gavrila chỉ nói được có
bấy nhiêu, tay cầm ngọn nến soi sáng bức tranh.
Nhà nghệ sĩ đã vẽ Alekxandra Ivanovna nằm
trên lưng một con cá heo bơi trên đầu ngọn sóng ở giữa biển cả vào buổi sáng.
Nàng nằm, trần trụi như khi mới lọt lòng mẹ và chỉ lấy có độc bàn tay nhỏ nhắn,
móng tay lóng lánh như xà cừ, che thân; trong tay kia nàng cầm một quả bồng
đựng nho, có hai con chim bồ câu đậu ở bên rìa đang mồ nho ăn. Trên đầu nàng, ở
bên phải và bên trái, có hai chú hài đồng mũm mĩm chân giơ lên trời, phùng má
thổi tù và. Gương mặt tươi trẻ của Alekxandra Ivanovna với đôi mắt xanh pha lam
nhếch mép mỉm cười ranh mãnh.
- Chà, cái chị Xanka này! - Gavrila nói,
hắn cũng hết sức ngạc nhiên. - Andriuska, chúng ta phái ngươi sang Hà Lan chính
là đến chỗ chị ấy đấy... Nhưng hãy coi chừng, ở bên đó ma quỷ rất có thể cám dỗ
ngươi lắm. Thần Vệ nữ, đúng là một vị Thần Vệ nữ! Không lạ gì mà có những chàng
vương tôn công tử đọ gươm vì chị ấy và có người đã bỏ mạng!
Chương 160
Vị vương hầu chấp chính, Người Bảo hộ thành Moskva, sống trong tòa
nhà rộng mênh mông của tổ tiên lão, ở phố Miaxniskaia gần quảng trường
Lubianka.
Trong dinh cơ của lão có một ngôi nhà thờ với
các tu sĩ để thờ phụng Chúa, xưởng dệt vải, xưởng thuộc da và lò rèn, chuồng
ngựa, chuồng bò, chuồng cừu và chuồng gà cùng là nhiều hầm rượu, nhà kho đầy
ắp, tất cả đều xây bằng những khúc gỗ tròn to tướng, bền chắc đến mãn đại. Tuy
bộ mã tòa nhà trông cũng không có vẻ gì sang trọng cho lắm với những khung cửa
sổ nhỏ trổ ở tít trên cao và mái nhà cũ kỹ lợp bằng gỗ rêu phong, nhưng rường
cột của nó rất vững chắc, không có những thứ trang trí diêm dúa ngớ ngẩn thiên
hạ thường phô trương ở Moskva từ thời Sa hoàng Aleksey Mikhailovich. Tục lệ nơi
đây cũng cổ. Song nếu có kẻ nào tâm hồn chất phác tự cho phép mình đến trình
diện, ăn bận theo lối cổ với áo cầu dài tay, gấu áo chấm gót mà thêm vào đó lại
để cả râu nữa thì một người khách như vậy - dù kẻ đó có thuộc dòng dõi vua
Ruric đi chăng nữa - cũng sẽ sớm bước ra khỏi nhà giữa những lời nhạo báng của
đám gia nhân: áo cầu của hắn sẽ bị cắt cụt đến đầu gối, má hắn chỉ còn lơ thơ
vài túm râu, và bộ ria bị cắt thòi lòi ra khỏi túi áo, được đem về để sau này
có thể đặt vào quan tài của hắn nếu hắn thấy hổ thẹn khi đứng trước Chúa...
Khi vị vương hầu chấp chính thết đại tiệc,
phần đông khách khứa đến dự mà lòng lo ngay ngáy vì không khí gò bó, vì những
lời lẽ bỡn cợt thô lỗ và những trò hề sỗ sàng trong bữa tiệc. Chỉ riêng con gấu
được huấn luyện thuần thục cũng đã gây ra lắm nỗi khốn khổ cho khách rồi; nó
dùng hai chân bê một cái khay, lại gần một vị khách ương ngạnh và vừa mời khách
một cốc tướng rượu mạnh ngâm hạt tiêu vừa gầm gừ để buộc ông này phải uống. Nếu
khách cưỡng lại, con gấu vứt khay, xông vào cào xé khách tơi bời. Vị vương hầu
chấp chính chỉ cười, cười ngặt nghẽo đến nỗi cái bụng phệ làm rung cả bàn ăn
trong khi tên hề của lão, một thằng chột tinh ma quỷ quái có cái mồm móm chỉ để
lộ có độc một chiếc răng nanh, kêu lên om xòm:
- Con gấu nó biết cần phải xé xác con vật
nào đấy nhé!
Dậy từ sớm tinh mơ, vị vương hầu chấp chính
bận áo vải thô màu xanh sẫm, bụng thắt một dây lưng nhỏ có dệt Bài kinh cầu
Chúa và đi ủng da mềm màu sặc sỡ đến dự buổi lễ ngắn cầu kinh sáng. Khi một tia
mặt trời xuyên qua đám khói hương mù mịt, khi ánh nến và ánh đèn thờ mờ dần và
khi viên giáo sĩ bé nhỏ và nhút nhát run run niệm “Amen” thì vị vương hầu chấp
chính phủ phục xuống thảm, rên một cách khó nhọc, cúi rạp xuống cho kỳ trán
chạm nền nhà gạch mới lau; rồi sau khi người ta đã đỡ lão dậy, lão hôn chất kim
khí lạnh ngắt của cây thánh giá và đi về phòng ăn. Tại đây, ngồi thoải mái trên
tấm ghế dài, lão vuốt bộ ria đen, uống một cốc rượu mạnh ngâm hạt tiêu, rượu
mạnh đến nỗi người lạ uống vào sẽ phải há hốc mồm ra hồi lâu; rồi lão ăn một
mẩu bánh mì đen rắc muối và bắt đầu ăn xúp lá củ cải để nguội, rau cam tùng
hương, thịt ướp muối đủ các kiểu, nhiều món mì ống thịt quay. Lão ăn thong thả
theo kiểu nông dân.
Cả nhà và ngay cả bà vương hầu Anataxia
Fedorovna, là em họ công chúa Praxkovia, ngồi ăn cũng phải giữ im lặng, đặt
thìa xuống không có tiếng động và nhón ngón tay nhẹ nhàng lấy thức ăn trong
đĩa. Trong các lồng chim treo nơi cửa sổ, chim cưn cút và chim sẻ đá biết nói
bắt đầu líu lo, có một con nói được rõ ràng:
- Chú ơi, cho uống vodka...
Sau khi đã uống một môi kvas, vị vương hầu chấp chính còn ngồi
nán lại một lát rồi mới đứng lên, đi sang phòng ngoài, gỗ lát sàn kêu cót két;
ở phòng ngoài, người hầu đưa lão cái áo nẹp dạ rộng thùng thình, gậy chống và
mũ lông. Khi bóng lão hiện qua những ô kính mờ mờ của thềm nhà có mái che,
thong thả xuống các bậc thang gác thì mọi người ở quanh trong sân, gần nhà, bỏ
chạy tán loạn. Lão đi một mình qua sân, theo một con đường nhỏ lát gạch. Cổ lão
to, khó ngoái lại được nhưng từ khóe mắt lồi, lão nhìn thấy hết: tên này đã
chạy về phía nào, trốn vào đâu, lão nhận ra bất kỳ một sơ xuất nhỏ nào và ghi
tất cả lại trong trí nhớ.
Nhưng hàng đống công việc khẩn cấp, công
việc quốc gia đang đòi hỏi lão, cho nên nhiều khi lão cũng không có thì giờ
dừng lại những chuyện vặt vãnh đó. Lão đi qua cái cổng sắt nhỏ trổ trong hàng
rào, sang sân bên cạnh là sân Bộ Preobrazenski. Nơi đó, trong bóng tranh tối
tranh sáng của các dãy hành lang dài, bọn thơ lại vội vã bỏ mũ im thin thít khi
lão đi qua và quân lính ngay người đứng nghiêm.
Prokho Sitserin, viên thư ký của Bộ
Preobrazenski đón lão ở cửa phòng Quốc ấn; vị vương hầu chấp chính vừa ngồi vào
bàn trước cửa sổ dưới vòm trần long lở, viên thư ký liền theo thứ tự trình bày
công việc thường ngày; hôm qua đã nhận được bốn khẩu đại bác bằng đồng đen từ
Tula đến; cũng từ Tula đưa đến bốn khẩu bằng gang, đúc rất khéo. Có phải gửi đi
ngay không và gửi đi đâu, gửi đi Narva hay đi Yuriev? Hôm qua cũng vừa trang bị
xong cho đại đội một của trung đoàn mới thành lập; chỉ còn thiếu giầy. Giầy
không có khóa sẽ nộp vào tuần sau. Tại Hội đồng xã trường, Xovliakov và Xmurov,
thương nhân ở Chợ giầy, sẵn sàng thề trên cây thánh giá rằng họ sẽ thực hiện
đúng giao kèo.
Cần có những biện pháp gì? Chiểu theo lệnh
nhận được, người ta đã gửi đi Narva thuốc súng, mồi, đạn đựng trong túi và đá
lửa đựng trong bao. Còn thủ pháo thì đã không gửi đi được vì viên thủ kho
Eroska Maximov đã hai ngày nay không tỉnh rượu và không chịu giao chìa khóa cho
ai cả. Người ta đã tìm cách giằng lấy chìa khóa trong tay hắn nhưng hắn cầm con
dao thái bắp cải đe dọa mọi người. Phải làm gì?
Sitserin còn trình bày nhiều báo cáo khác
cũng tương tự như vậy. Cuối cùng, hắn lại gần cửa sổ dưới vòm nhỏ, lấy những cuộn
hồ sơ mật (biên bản các cuộc hỏi cung có dùng hoặc không dùng nhục hình) và bắt
đầu đọc. Khó mà nói được là vị vương hầu chấp chính, bàn tay nặng nề đặt trên
bàn, đang nghe hay đang ngủ gà ngủ gật, nhưng Sitserin biết rằng dù sao lão
cũng nắm được điều cốt yếu:
- Trong nhà tắm hơi nóng bỏ hoang, nơi tên
giáo sĩ phá giới Griska ẩn náu trong sân nhà hai công chúa Catherine
Alekseyevna và Mari Alekseyevna, đã tìm thấy dưới ván lát sàn một cuốn vở khổ
giấy xếp bốn dày bằng một nửa ngón tay. - Sitserin đọc giọng đều đều, tựa hồ y
thả những hạt đỗ khô xuống đầu người nghe. - Trên trang đầu cuốn vở đó viết: “Kho báu của mọi hiểu biết”. Bên dưới,
cũng trên trang ấy: “Nhân danh Đức Chúa
Cha, Đức Chúa Con và Thánh Thần... có một giống cỏ gọi là Zelezka. Rất lớn là
tính năng của nó. Nó mọc trong khe núi, và ở những khoảng rừng đã bị đốt; nó
mảnh cây, có chín lá mọc xung quanh và ba bông hoa ở ngọn màu đỏ son, đỏ tía và
xanh. Phải hái nó vào độ trăng lưỡi liềm, đem giã nhỏ, nấu lên và uống ba lần.
Khi ấy ngươi sẽ thấy xuất hiện các quỷ thần của nước và không trung... Hãy niệm
câu thần chú “Nxtđttsnđxi” và ngươi sẽ được như nguyện”.
Vị vương hầu chấp chính thở dài một cái và
ngước đôi mi mắt lim dim lên:
- Ngươi hãy nhắc lại tiếng đó một lần nữa
xem nào, cho rõ vào.
Sitserin gãi trán, nhăn mặt và cáu kỉnh,
gắng gượng nói: “Nxtđttsnđxi”. Y liếc
nhìn vương hầu chấp chính. Lão gật đầu. Viên thư ký lại tiếp tục đọc:
- “Ôi
các đấng vương tôn, ôi các bậc đại nhân trên thế gian, ôi nước mắt và tiếng thở
dài! Chúng ta muốn gì đây? Chúng ta muốn chế ngự hiện tại cùng cơn cuồng nộ của
nó, để thời buổi bình thường trở lại...”
- Đây rồi! - Vương hầu chấp chính cựa quậy
trên ghế, một ánh thông hiểu tinh ranh lóe lên rồi tắt ngay trong cặp mắt lồi
của lão. - Cỏ zelezka, ta biết là cái
gì rồi đó. Nhưng tên phá giới Griska có nhận đó là cuốn vở của nó không?
- Hôm nay, sau hai giờ tra tấn. Griska đã
nhận đó là cuốn vở của nó. Nó nói đã mua cuốn vở ấy của một người lạ ở phố
Kixlovka, mất bốn kopeik. Bị thúc ép
trả lời tại sao nó lại giấu cuốn vở trong nhà tắm hơi nóng dưới một miếng ván
lát sàn, nó nói là vì ngu dốt.
- Thế ngươi có hỏi nó phải hiểu như thế nào
câu “để thời buổi bình thường trở lại”
không?
- Thưa có ạ. Sau khi quất nó năm roi knút(1), nó đã trả lời là nó mua cuốn vở
đó để lấy giấy đốt nấu bánh thánh. Còn ở trong đó viết những gì thì nó bảo nó
không biết, nó không đọc.
- Chà, thằng khốn kiếp, thằng khốn khiếp!
Vương hầu chấp chính thong thả nhấp nước
bọt vào ngón tay và lật những trang giấy quăn mép của cuốn vở. Lão đọc lầm rầm
một vài đoạn:
- “Cỏ
“vakharia” có hoa màu vàng sẫm. Hãy cho người ăn phải của độc uống và tức khắc
ngươi sẽ thấy hắn miệng nôn, trôn tháo tống độc ra ngoài...” - Một thứ cỏ
quả là có ích, - vương hầu chấp chính nói. Rồi lão tiếp tục đọc, lấy móng tay dò
theo hàng chữ: - “Trong sách thánh Xirin
có viết: một kẻ dụ hoặc rồi sẽ đến, đẩy các ngươi vào vòng cám dỗ. Một trong
những điềm báo hiệu hắn đến là cỏ nicotian tục gọi là thuốc lá, các ngươi sẽ bị
buộc phải đốt cháy và nuốt khói của thứ cỏ ấy, phải tán nhỏ nó ra thành bột mà
hít; và đáng lẽ phải hát các bài thánh kinh thì các ngươi lại phải luôn luôn
hít thứ bột đó làm các ngươi hắt hơi. Một điềm khác báo hiệu hắn đến là việc
cạo râu”.
Vương hầu chấp chính gấp vở lại.
- Này... thư ký! Ta đi hỏi cung nó một
chút: hãy cố tìm hiểu xem ai là kẻ ước mong chế ngự thời buổi chúng ta đang
sống. Tên giáo sĩ này là một con cáo tinh khôn đây. Cuốn vở này, không phải hôm
nay ta mới biết, nó đã đưa cho một nửa thành phố đọc rồi.
Trong khi họ đi xuống cầu thang gạch nhỏ
hẹp, ầm ướt dẫn xuống tầng hầm, đến phòng tra tấn, Sitserin nói với cái giọng
rầu rĩ thường ngày của y:
- Thưa vương hầu, khí ẩm này từ mặt đất bốc
lên, gạch đã mục nát cả, mỗi lần đi là có thể ngã gãy cổ, cần phải cho xây cầu
thang mới.
- Ừ, nên lắm, - lão vương hầu chấp chính
trả lời.
Một viên lục sự đi trước họ, tay cầm cây
nến. Cũng như viên thư ký, hắn mặc một bộ quần áo cắt theo kiểu ngoại quốc
nhưng vải đã sờn trơ sợi, cổ hắn đeo một cái tráp bằng đồng đen đựng đồ dùng để
viết, một cuộn giấy thò ra ở cái túi áo rách đã gần đứt hẳn. Trong căn hầm trần
thấp lè tè, hắn đặt cây nến lên cái bàn bằng gỗ sồi, và tức thì mấy con chuột
vụt chạy như những cái bóng biến vào hang của chúng ở các xó xỉnh.
- Thưa vương hầu, chuột thì bây giờ ở trong
này đầy dẫy. - Viên thư ký nói - Lâu nay, tôi đã định mua bả chuột.
- Ừ, nên lắm!
Hai gã hộ pháp, mặt mày hung hãn, cúi đầu
dưới vòm trần, lôi xềnh xệch tên Griska vào hầm: tên giáo sĩ phá giới mặt xám
ngắt, mắt trợn ngược, môi trễ xuống, bộ râu cằm bết lại như len. Thế nhưng có
thật là chân nó đứng không vững nữa không? Khi người ta đặt nó dưới cái móc
buộc lòng thòng sợi dây thừng của cột điếu hình, nó nhủn người nằm phục xuống,
co quắp như chết. Viên thư ký thì thầm:
- Thưa vương hầu, tôi đã tra nó mà không hề
làm gãy tứ chi nó, và nó đã tự đi được về nơi giam đấy ạ!
Vương hầu chấp chính nhìn cái mảng sọ hói
lộ ra dưới mái tóc bù xù của tên Griskas, rồi lão nói, giọng ề à như buồn ngủ:
- Chúng tao biết là năm kia ở Zvenigorod mi
đã bóc các đồ trang trí bằng bạc của các tranh thánh ở nhà thờ thánh tiên tri
Eli, và mi đã bẻ khóa ống tiền dành cho kẻ nghèo ở nhà thờ Ngự cáo, và mi lại
còn ăn cắp cả áo cầu và ủng dạ của giáo sĩ để ở trong điện thờ. Các thứ đó, mi
đã đem bán đi lấy tiền uống rượu hết sạch. Bị bỏ tù, mi đã tẩu thoát và trốn
trong nhà nhiều người quý tộc ở Moskva và sau đó mi đã trốn ở nhà các bà công
chúa, trong một căn nhà tắm hơi nóng bỏ hoang... Mi thú nhận chứ? Mi có trả lời
không nào? Không à? Được! Tất cả những việc đó mới chỉ là tội nhỏ thôi.
Lão ngừng nói. Sau lưng những tên hộ pháp
mặt mày hung dữ, lặng lẽ xuất hiện một người vẻ chững chạc, mặt hốc hác, xanh
rớt, có cái miệng rộng nom như một vệt đỏ ở giữa bộ ria mượt và bộ râu cằm ngắn
loăn xoăn. Đó là người tra tấn, tên đao phủ.
- Chúng tao biết, - vương hầu chấp chính
nói tiếp, - là mi đã nhiều lần đến xloboda
Đức, tới nhà mụ Uliana, một mụ vãi, trao thư từ và tiền của những người nào đó
cho nó... Mụ Uliana đem những thư đó đến tu viện Novodevichi giao cho người mà
mi biết đấy. Rồi mụ nhận của người ấy thư từ, gói bọc đem về đưa mi trao lại
cho những người mà ta đã nói lúc nãy... Mi có làm việc ấy chứ? Mi có nhận
không?
Viên thư ký nhoài người qua bàn thì thào
vào tai vương hầu chấp chính, vừa đưa mắt chỉ tên Griska:
- Thưa vương hầu, đúng là nó đang nghe đấy.
Cứ nhìn tai nó là tôi biết.
- Mi không muốn thú nhận hả? Được rồi... Mi
gan hả? Mi lầm đấy... Thái độ của mi sẽ gây cho chúng tao thêm một số phiền
phức nữa, còn mi thì sẽ phải chịu thêm những đau đớn vô ích về thể xác... Nhưng
thôi... Bây giờ, đây là điều mi hãy nói cho tao hay. Nói cho chính xác mi hay
lui tới những nhà nào? Mi đã đọc đích xác cho những ai nghe những điều trong
cuốn vở này nói về ước muốn chế ngự thời buổi hiện đại cùng cơn cuồng nộ của nó
để cho thời buổi bình thường trở lại?
Vương hầu chấp chính dường như sực tỉnh,
nhướn cặp lông mày, phồng má lên. Tên đao phủ với dáng đi lanh lẹn lại gần
Griska đang nằm sóng xoài, mặt úp xuống đất; hắn sờ nắn tên tù nhân và lắc đầu:
- Thưa vương hầu Fedor Yurievich, hôm nay
nó sẽ không nói đâu. Có tra nó cũng vô ích, chịu điếu hình và năm roi knut nó như mụ mẫm đi rồi... Phải để lại
ngày mai thôi.
Vương hầu chấp chính lấy ngón tay gõ gõ lên
bàn. Nhưng Xilanti, tên đao phủ không thể nào lầm được: nếu kẻ bị cực hình đã “mụ
mẫm” thì có chặt đôi người nó ra cũng không moi được gì. Mà việc này lại tối
quan trọng: bắt được tên giáo sĩ phá giới Griska, vương hầu chấp chính đã lần
ra được dấu vết, nếu không phải của một vụ âm mưu thực sự thì ít nhất cũng là
của một sự chống đối và những lời thì thào hằn học trong một số người tai mắt ở
Moskva vẫn còn luyến tiếc những đặc quyền mà bọn quý tộc được hưởng dưới thời
công chúa Sofia hiện bị giam ở tu viện Novodevich, và đang mòn mỏi dưới tấm
khăn đen tu sĩ.
Nhưng đành vậy thôi, Vương hầu chấp chính
đứng dậy và trở lên cái cầu thang mục nát.
Sitserin ở lại và loay hoay quanh tên
Griska.
-------------
Chú thích:
(1) Roi
da đầu có buộc cục sắt.
Chương 161
Buổi sáng hôm ấy ẩm thấp, ấm áp và mờ sương. Trong các phố hẻm phảng
phất mùi rào giậu ướt át và mùi khói của các lò sưởi. Con ngựa lội bì bõm trong
các vũng nước. Gavrila xuống ngựa ở cửa Bộ Preobrazenski và đợi viên sĩ quan
thường trực một lúc lâu.
- Hắn chui vào cái xó quái nào rồi thế? -
Hắn hét lên với tên lính để ria mép đứng ở cửa...
- Tôi biết đâu được? Ông ấy vẫn ở đây mãi,
chắc ông ấy đi đâu đấy thôi.
- Thế thì mi hãy chạy đi tìm cho ta.
- Tôi không thể rời khỏi đây được!
- Vậy thì mi hãy mở cửa cho ta vào!
- Có lệnh không được để ai vào cả!
- Ta cứ vào vậy!
Và Gavrila gạt tên lính ra để vào qua cửa
con nhưng tên lính bảo hắn:
- Nếu ông mà mở cửa thì tôi cứ theo luật
lệ, tôi sẽ xiên ông vào lưỡi lê đấy!
Viên sĩ quan thường trực đang ngồi buồn rũ
trong chòi gác bên kia cổng, nghe thấy tiếng ồn ào mãi mới ra. Y có bộ mặt
choắt lốm đốm đấy tàn hương và cặp mắt lờ đờ. Gavrila chạy lại nói rõ là mình
đem thư từ Petersburg về và phải giao tận tay vương hầu Fedor Yurievich.
- Tôi có thể gặp vương hầu chấp chính ở đâu
được? Đức ông hiện có ở đây không?
- Tôi chẳng biết, - viên sĩ quan thường
trực trả lời, và kinh tởm nhìn một con mèo vằn to đang đi qua con đường ướt át.
- Con mèo của ngài vương hầu đấy, - y bảo tên lính. - Thế mà cứ tưởng là mất,
làm om lên. Đấy nó đấy, của nợ!
Bỗng bản lề cửa cổng rít lên, cổng mở
toang, bốn con ngựa ô, yên cương nạm ngọc lam, đóng con trước con sau theo một
hàng dọc, phi nước đại, lao qua cửa.
Gavrila chỉ kịp nhảy tránh sang một bên.
Qua khung cửa của cỗ xe đồ sộ thếp vàng, thấp và tróc sơn, Romodanovski nhìn
hắn với cặp mắt lồi của lão. Gavrila bèn nhảy phốc lên ngựa để đuổi theo, nhưng
viên sĩ quan thường trực vội túm lấy cương ngựa: chẳng hiểu y vốn xấu bụng hay
là luật lệ quả có cấm không được đuổi theo xe của vị vương hầu chấp chính, có
trời biết?
- Buông ra! - Gavrila giận dữ hét lên, tìm
cách gỡ dây cương; hắn thúc cho ngựa lồng lên; viên sĩ quan bị nhấc bổng lủng
lẳng ở đây cương rồi ngã xuống.
- Lính gác đâu! Bắt lấy thằng giặc!
Tiếng la hét vẳng đến tai Gavrila thì hắn
đã tới quảng trường Lubianka.
Hắn không đuổi kịp chiếc xe; bực mình hắn
nhổ toẹt xuống đất, rồi qua cầu Neglini, quay về điện Kreml và đi về phía Bộ
Siberi. Đó là một tòa nhà thấp, mái đã gỉ xây từ triều đại Boris Godunov, dựng
trên một mỏm đất cao nhìn xuống tường điện Kreml, quay lưng về phía sông
Moskva. Trong tiền đình và các hành lang, có nhiều người tụm năm tụm ba, người
thì ngồi, người thì nằm ngay xuống đất dọc tường; những cánh cửa kêu cọt kẹt,
bọn nha lại mặc áo nẹp dài vá ở khuỷu tay (vì cọ mãi lên bàn) vội vã chạy ra;
một cây bút lông ngông giắt sau tai, chúng giơ lên hàng mớ giấy tờ, quát mắng
ầm ĩ những người Siberi mặt mày rầu rĩ đã đi hàng ngàn dặm để kiện một tên tổng
trấn ăn hối lộ chưa từng thấy, hoặc để hỏi về đặc quyền của những người khai mỏ
than, mỏ vàng, của dân chài, thợ săn thú rừng lấy lông.
Người am hiểu, sau khi đã để họ chửi mình
tàn tệ, kín đáo nháy mắt nói với tên thừa lại:
- Thưa ân nhân, hay là ta đến cửa hàng ăn
nói chuyện tâm tình với nhau vậy, hoặc ở một nơi nào đó ngài chỉ cho...
Kẻ không có kinh nghiệm thì tiu nghỉu cúi
gằm mặt ra về để ngày hôm sau và nhiều ngày nữa trở lại đây chầu chực, xin xỏ:
đồng thời khuynh gia bại sản ở quán trọ.
Vương hầu chấp chính đang ở Cục quân giới.
Gavrila không hỏi có được phép vào không, cứ len vào đến tận cửa; có người nắm
vạt áo hắn lôi lại: “Đi đâu? Cấm không được vào!”, hắn huých khuỷu tay gỡ ra cứ
vào.
Vương hầu chấp chính ngồi một mình trong
gian phòng thấp lè tè, ngột ngạt, cửa chớp để hé, lão đang lấy khăn tay sặc sỡ
lau cổ. Một chồng đơn thỉnh cầu, đơn kiện đặt trên bàn trước mặt lão. Trông
thấy Gavrila, lão lắc đầu không bằng lòng:
- Con trai lão Ivan Artemist kia, ngươi táo
gan thật đấy! Xem kìa! Từ thuở nào đám dân hèn lại dám phá cửa mà vào như vậy?
Ngươi muốn gì?
Gavrila đưa cho lão bức thư hắn mang theo
và trình bày những điều hắn được lệnh nói miệng về xưởng chế tạo đồ sắt và nhất
là về số đinh đang cần gửi gấp đến Petersburg.
Vương hầu chấp chính bóc cái dấu đóng bằng
sáp rồi lấy những ngón tay to mẫm mở bức thư của Sa hoàng giơ ra xa mắt, lặng
lẽ mấp máy môi:
“Thưa
Điện hạ, - Sa hoàng Piotr viết cho lão, - ta xin báo để điện hạ rõ rằng trước thành Narva, chúng ta đã gặp một
chuyện kỳ lạ: quân ngu ngốc đã đánh lừa được kẻ khôn ngoan. Tính kiêu căng to
như núi đã che lấp cả mắt mũi quân Thụy Điển, vì thế mà chúng đã không thấy
được mưu kế của ta... Điện hạ sẽ được biết tỉ mỉ chi tiết của trận đánh giả
trang đó (ta đã tiêu diệt và bắt sống được một phần ba quân sĩ đồn trú ở Narva)
từ cửa miệng một người đã mắt thấy tai nghe là trung úy cận vệ Yaguzinski, một
ngày gần đây sẽ đến chỗ điện hạ... Còn về các thứ cây thuốc cần gửi đi
Petersburg để pha chế thuốc men thì cho đến nay, ta chưa nhận được một đồng cân
nào. Việc đó ta đã viết thư nhiều lần cho Andrey Viniux và mỗi lần Andrey lại
đãi ta một lời hứa hẹn suông kiểu Moskva. Xin điện hạ hỏi Andrey về việc đó
cho: tại sao một công việc trọng yếu như vậy, quý giá gấp nghìn lần cái mạng
hắn mà lại tiến hành cẩu thả đến thế? Ptr...”
Đọc xong, vương hầu chấp chính đưa lá thư
lên môi hôn vào chỗ có chữ ký. Lão thở dài mạnh một cái:
- Trong cái nóng bức, cái chốn tối tăm này,
ngột ngạt quá đi mất, - lão nói. - Một đống công việc... Làm cả ngày cũng không
giái quyết nổi một nửa... Phụ tá của ta ấy à? Nói đến làm gì? Chẳng mấy đứa
muốn làm việc, đứa nào cũng tìm cách làm việc thật ít mà lại muốn đớp được
những miếng to nhất... Còn ngươi tại sao ngươi lại ăn mặc bảnh bao thế, tại sao
ngươi lại đội tóc giả. Ngươi đến yết kiến công chúa đấy à? Lệnh bà không ở
trong cung đâu, lệnh bà đã đi Izmailovskoe rồi... Khi nào gặp công chúa, ngươi
nhớ tâu với lệnh bà là ở phố Petrovka, ở cửa sổ một quán rượu, có một con sáo
đen hiếm có; nó nói tiếng Nga sõi đến nỗi khách qua đường đều phải dừng chân
lại nghe. Chính ta hồi nãy, ngồi trên xe, ta cũng nghe thấy... Có thể mua con
sáo đó nếu công chúa muốn... Ngươi đi đi,... Nhân tiện, ngươi hãy bảo tên thơ
lại Nexterov đi triệu Andrey Viniux cho ta và đưa ông ta đến đây ngay lập tức.
Này, hôn tay ta đi!
Chương 162
Buổi chiều, trời mưa lăn tăn. Anixia Tolstaia sợ mọi người buồn bèn
nghĩ ra trò chơi đánh bóng trong điện để Ngai vàng, hiện trống không, đã mấy
năm nay không ai vào.
Chị em nhà Melsikov, Anna và Marfa, thì
thích nô đùa quá đi rồi - những dải lụa tung bay, cánh tay mũm mĩm để trần đến
khuỷu giơ lên, họ hét the thé đuổi theo quả bóng trên sàn nhà cọt kẹt.
Hôm đó Natalia Alekseyevna chẳng hiểu tại
sao, cảm thấy muốn khóc, trò chơi không làm nàng vui... Hồi nàng còn nhỏ, mặt
trời xuyên qua các khung cửa sổ nhỏ trổ tít trên cao, lắp kính đỏ, vàng, xanh,
luôn luôn soi sáng gian phòng này và trên tường, lớp da thếp vàng lấp lánh.
Người ta đã bóc lớp da đi, đề trơ ra những bức tường gỗ súc xơ rủ lòng thòng.
Mưa rơi lộp độp trên mái nhà. Nàng nói với Catherine:
- Ta không thích cung Izmailovskoe, nó
rộng, trống trải dường như một người chết ấy. Chúng ta hãy lẳng lặng ra chỗ
khác ngồi đi.
Nàng đặt tay lên vai Catherine và dẫn cô ta
xuống tầng dưới vào buồng ngủ của Natalia Kirilovna, người mẹ đã quá cố của
nàng: căn phòng chật hẹp này đã bị lãng quên, hoang tàn.
Biết bao thời gian đã trôi qua, vậy mà nơi
đây vẫn còn ngửi thấy, tuy chỉ là thoang thoảng, mùi hương trầm hay có lẽ mùi
xạ. Cho đến những ngày cuối đời mình, Natalia Kirilovna vẫn ưa thích các hương
liệu phương Đông.
Natalia liếc nhìn cái giường trơ trọi không
chăn đệm, những cột xoắn không riềm, cái gương mờ hình vuông nhỏ xíu treo trên
tường; nàng quay đi và đẩy cánh cửa sổ cũ kỹ. Mùi nước mưa đang rơi rào rào
trên lá tứ đinh hương trước cửa sổ, trên cây ngưu bàng và cây tầm ma, lọt vào
phòng.
- Ta ngồi xuống đi, Katia. - Hai người ngồi
trước cửa sổ để ngỏ, - Thế đấy! - Natalia thở dài nói. - Giờ đây mùa hạ đang
tàn, quay đi quay lại đã sắp đến mùa thu rồi... Đối với em điều đó chẳng can
gì! Ở cái tuổi mười chín người ta không thấy ngày tháng trôi qua: mặc cho ngày
tháng cứ bay đi như chim... Còn ta, em biết ta bao nhiêu tuổi rồi không? Ta chỉ
kém Petruska có năm tuổi thôi... Em cứ tính xem... Mẹ ta lấy chồng năm mười bảy
tuổi, cha ta đã gần bốn mươi. Người đẫy đà, rậm râu. Người lúc nào cũng đượm
mùi bạc hà và Người ốm đau luôn... Ta cũng không còn nhớ mấy... Người mất vì
chứng thủy thũng... Anixia Tolstaia một hôm uống rượu ratafia quá chén đã tâm sự với ta những điều bí mật... Mẹ ta hồi
còn trẻ tính tình vui vẻ, vô tư lự và say đắm... Em hiểu không? - Natalia buồn
bã nhìn vào cặp mắt Catherine. - Phe cánh Sofia và bọn ăn bám vào mụ đã đồn đại
về mẹ ta biết bao nhiêu là chuyện! Nhưng có thể buộc tội Người được không? Theo
tục lệ cổ thì cái gì cũng là tội lỗi tất, thậm chí chỉ là đàn bà cũng đã là có
tội rồi; chúng ta là con thuyền của ma quỷ, là cánh cửa dẫn xuống hỏa ngục...
Nhưng theo chúng ta, theo những tập tục mới thì đó chỉ là thần ái tình đáng yêu
đã dang cánh bay đến và đã bắn ngươi trúng một mũi tên... Vậy thì sau đó, một
đêm thu kia, phải đeo đá vào cổ mà nhảy xuống ao ư? Lỗi không phải tại người
đàn bà mà tại ái tình! Anixia kể rằng ở Moskva hồi đó có Muxin - Puskin, một
chàng trai con nhà quý tộc đẹp tựa thiên thần hay nói cho đúng hơn là đẹp một
cách ma quái, can đảm, hăng hái, một trang công tử tuyệt vời và trác táng...
Trong tuần hội giả trang, trên băng sông Moskva, chàng đã thách thức đấu quyền
với tất cả ai muốn đọ sức với chàng... Chàng đánh họ thua tất... Mẹ ta thường
bí mật đi một cỗ xe xuềnh xoàng, che mui kín, lẻn đến xem những cuộc đấu quyền
đó, và cảm phục sự dũng cảm của chàng... Về sau, Người đã đem chàng vào trong
triều làm quan tế tửu ở chỗ Người... - Natalia Alekseyevna quay khuôn mặt xinh
đẹp về phía cái giường đổ nát, một nét nhăn nhó hằn lên ở giữa đôi lông mày. -
Bỗng nhiên, người ta cử chàng đi Puxtozesk làm tổng trấn... Mẹ ta không bao giờ
gặp lại chàng nữa... Ấy thế mà Catherine ạ, đến một chuyện như vậy ta cũng
không có được.
Mưa tiếp tục uể oải rơi lất phất. Không khí
nặng nề. Sau màn sương, thấp thoáng in bóng những thân cảy to tướng nom không
giống những cây thông của Izmailovskoe. Chim chóc náu vào dưới mái nhà không
ríu rít, không hót nữa. Chỉ có một con quạ lông xù đang bay là là trên cánh
đồng trắng xóa. Catherine bình thản nhìn nó, nàng rất muốn nói với công chúa là
con quạ ăn trộm kia đang bay đến chuồng gà con vàng óng.
Natalia Alekseyevna tì cả hai khuỷu tay lên
bậu cửa sổ, đầu nàng cúi xuống như nặng trĩu thêm vì các bím tóc quấn quanh
đầu; Catherine nhìn cái cổ và những món tóc tơ loăn xoăn ở gáy công chúa tự
hỏi:
- Có thể nào lại chưa có ai hôn lên đó?
Buồn thật!
Và Catherine khẽ thở dài.
Nhưng Natalia cũng đã nghe thấy; vẻ đùa
nghịch, nàng nhún một vai và nói, bàn tay đỡ lấy cằm:
- Và bây giờ em hãy nói về em cho ta nghe...
Nhưng phải nói thật... Em đã có bao nhiêu người yêu rồi Catherine?
Catherine quay mặt đi và nói khẽ:
- Ba ạ!
- Alekxandr Danilovich thì ta đã biết rồi.
Nhưng trước ông ta là ai? Seremetiev có phải không?
- Không ạ, ồ thưa lệnh bà không phải ạ! -
Catherine vội vã đáp. - Tiện tì chỉ mới có đủ thời giờ để nấu súp cho ngài đại
nguyên soái thôi, một món xúp kiểu Estonia nấu với sữa ngọt, và giặt quần áo
cho ngài... Chà, tiện tì không thích ngài đâu! Tiện tì chỉ sợ mình khóc lên
mất, nhưng tiện tì đã cương quyết tự nhủ: ta sẽ đốt lò, khói có làm mình chết
ngạt, mình cũng sẽ không sống với ông ta. Alekxandr Danilovich đã đem tiện tì
đi ngay ngày hôm đó... Tiện tì rất mến ông ta... Ông ta vui tính lắm, luôn luôn
nói đùa với tiện tì, hai người cười nhiều lắm... Tiện tì không thấy sợ ông ta
chút nào cả.
- Thế còn anh ta, em có sợ không?
Catherine mím môi, nhíu đôi lông mày mượt
như nhung, thực thà trả lời:
- Thưa có ạ... nhưng hình như chẳng bao lâu
tiện tì sẽ không sợ nữa.
- Thế còn người tình nhân thứ hai của em là
ai?
- Ồ thưa lệnh bà Natasa, người thứ hai
không phải là một người tình nhân thực sự... Anh ta là một người lính Nga, một
người tốt bụng, tiện tì chỉ yêu anh ta có một đêm thôi... Tiện tì chẳng có gì
từ chối anh ta được; chính anh ta là người đã cứu tiện tì thoát khỏi tay đám
người hung tợn đội mũ lông cáo và cầm gươm cong... Họ lôi tiện tì ra khỏi ngôi
nhà đang bốc lửa cháy rừng rực, xé áo tiện tì, lấy roi quất tiện tì vì tiện tì
cào cấu họ, họ định lôi tiện tì lên ngựa... Anh ta chạy đến, xô một tên, gạt
một tên khác, anh ta mới khỏe làm sao chứ! Anh ta thét lên: “Quân uống rượu sữa
ngựa kia! Ai cho phép bay hãm hại con bé này?”. Anh ta bế tiện tì lên đem về
chỗ để xe quân lương... Tiện tì chỉ còn có một cách để tạ ơn anh ta thôi...
Trời đã tối, hai người nằm trên rơm...
Natalia, cánh mũi phập phồng, gay gắt hỏi:
- Dưới gầm xe à?
- Vâng... Anh ta bảo tiện tì: “Tùy em thôi,
cô bé ạ. Là vì người con gái có tự ý ôm ta thì mới thích...”, cho nên dẫu sao
tiện tì cũng coi anh ta như là tình nhân của mình vậy!
- Thế còn người thứ ba?
Catherine nghiêm trang trả lời:
- Người thứ ba là chồng tiện tì, Johan
Rabe, lính giáp kỵ của hoàng thượng Charles ở đồn Marienburg... Khi ấy tiện tì
mười sáu tuổi. Mục sư Gluc bảo: Catherine, ta đã nuôi dưỡng con khôn lớn, ta
muốn làm trọn lời hứa của ta với người mẹ quá cố của con, ta đã tìm cho con một
người chồng tốt.
- Em còn nhớ rõ cha mẹ em chứ? - Natalia
hỏi.
- Không ạ, tiện tì nhớ không rõ... Cha tiện
tì là Ivan Xkavrotsuc... Khi còn trẻ, ông đã trốn khỏi Lidva, khỏi Minsk, trốn
khỏi nhà lãnh chúa Xapieha, sang Estonia sinh sống gần Marienburg, ở đó ông đã
lĩnh canh một cái ấp nhỏ. Chính ở đó, mấy anh em tiện tì đã ra đời: bốn anh,
hai chị, tiện tì là con út... Bệnh dịch hạch phát ra. Cha mẹ và anh cả tiện tì
chết. Mục sư Gluc mang tiện tì về nuôi, ông ta là người cha thứ hai của tiện
tì. Tiện tì đã lớn lên trong nhà ông ta... Một người chị tiện tì ở Revan, chị
kia ở Riga, còn giờ đây các anh tiện tì ở đâu, tiện tì cũng không biết. Chiến
tranh đã khiến anh em tiện tì tan tác mỗi người một nơi.
- Em có yêu chồng em không?
- Tiện tì chưa kịp yêu... Cưới nhau vào
ngày Thánh Jean... Ồ, thật vui quá! Mọi người đã đến bên hồ, đốt lửa lên, tết
những vòng hoa, và nhảy múa theo điệu nhạc của vĩ cầm. Mục sư Gluc kéo đàn! Mọi
người uống rượu bia và nướng xúc xích ướp sa nhân... Một tuần sau, đại nguyên
soái Seremetiev bao vây Marienburg... Khi quân Nga phá vỡ tường thành, tiện tì
bảo Johan: “Trốn đi anh!”. Johan đã nhảy xuống hồ và bơi trốn. Từ đấy tiện tì
không gặp lại anh ta nữa.
- Em phải quên hắn đi!
- Tiện tì cần phải quên nhiều chuyện lắm...
nhưng tiện tì cũng dễ quên thôi, - Catherine nói và rụt rè mỉm cười, cặp mắt
như quả anh đào của nàng giàn giụa nước mắt.
- Catherine, em không giấu gì ta đấy chứ?
- Tiện tì đâu dám thế? - Catherine nói tha
thiết. Nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má nàng mơn mởn như trái đào. - Nếu
tiện tì nhớ ra điều gì, cả đêm tiện tì sẽ không ngủ được, sáng sớm tiện tì sẽ
chạy đến tìm lệnh bà để kể cho lệnh bà nghe.
- Ấy thế mà em còn sướng đấy, - Natalia áp
tay vào má và lại nhìn qua cửa sổ như một con chim trong lồng. Nàng nghẹn ngào
như trong cổ có một cục gì chặn lại. - Chúng ta, những người con gái của Sa
hoàng, chúng ta tha hồ vui chơi thế nào đi nữa thì vẫn chỉ có một con đường độc
nhất đợi chờ chúng ta: con đường đến tu viện... Người ta không gả chồng cho
chúng ta, người ta không lấy chúng ta làm vợ. Hoặc là phải mặt dày mầy dạn như
Maska và Katka... Không phải vô cớ mà chị Sofia đã vật lộn hung dữ như con hổ
cái để dành lấy quyền bính.
Catherine đang cúi xuống để hôn bàn tay
công chúa nổi những đường gân xanh nắm chặt lại vì buồn phiền thì bỗng một
chàng kỵ sĩ cao lớn cưỡi một con ngựa gầy, bờm ướt đẫm, xuất hiện trên cánh
đồng; áo khoác hắn thấm nước và những túm lông chim đính trên mũ cũng ướt sũng
rũ xuống. Trông thấy Natalia Alekseyeva, hắn nhảy xuống ngựa, bỏ mặc đó, rồi
bước một bước về phía cửa sổ, ngả mũ và quỳ gối xuống cỏ, ép mũ vào ngực.
Natalia Alekseyevna choàng đứng dậy, bím
tóc to của nàng rơi thõng xuống cổ, mặt nàng đỏ bừng, run lên, cặp mắt sáng
long lanh, đôi môi hé mở...
- Gavrila! - nàng thầm thì. - Ngươi đấy ư?
Chào anh bạn... Thế nào, vào đi chứ, sao lại cứ đứng ngoài mưa thế?
Theo sau Gavrila, một cỗ xe ngựa tới, ngồi
cạnh người đánh xe là một người mũi nhọn, vẻ mặt sợ hãi, đầu trùm một cái bao
để che mưa. Hắn lập tức bỏ mũ nhưng không xuống xe.
Gavrila, cặp mắt u buồn không rời khỏi
Natalia Alekseyevna, tiến lại sát bụi tử đinh hương:
- Xin kính chào công chúa, cầu Chúa hãy mãi
mãi giữ gìn sức khỏe cho công chúa, - hắn nói giọng nghẹn ngào dường như khó
thở. - Tôi thực hiện một nhiệm vụ của Sa hoàng giao cho, đưa đến cho công chúa
một họa sĩ khéo tay được lệnh vẽ chân dung một người đáng yêu... Sau đó, phải
cho anh ta đi học ở nước ngoài. Anh ta ngồi trên xe kia... Xin công chúa cho
phép tôi vào cùng với anh ta.
Chương 163
Anixia Tolstaia sai một gia nhân lên ngựa đến sở lương thực ở điện
Kreml để lấy đủ các thức ăn, kẹo bánh cho bữa tối “và nến, nhiều nến vào!”. Một
tên khác phóng đến xloboda Đức để mời
nhạc công. Một làn khói dày đặc từ ống khói của khu nhà bếp bốc lên. Những tên
phụ bếp đầu cạo trọc tếu khua dao thớt ầm ĩ. Đám nữ tì, váy xắn cao chạy đuổi
gà trên cỏ ướt.
Những người thợ chài đã trở nên lười nhác
vì vô công rồi nghề, lúc này cầm sào, lưới đi ra các ao hồ để đánh những con cá
chép cũng không kém phần lười nhác, nằm ườn ra trong bùn.
Sau trận mưa, một làn sương mù trùm lên các
hồ ao mọc đầy lau sậy; nó phủ kín cái cầu to đã mục nát không còn ai qua lại
nữa, nó trườn giữa đám cây cối, bò trên cánh đồng trải rộng trước lâu đài cũ
kỹ, và tòa nhà dần dần chìm ngập vào đám sương mù đến tận mái.
Những người già cả, gia nhân cũ của Sa
hoàng Aleksey Mikhailovich ngồi ở ngưỡng cửa bếp và ngưỡng cửa ngôi nhà gỗ, nơi
ở của đám nô bộc, nhìn lên cửa sổ tòa lâu đài mù mịt trong sương: chốc chốc đây
đó lại ẩn hiện ánh sáng lù mù của một ngọn nến, vẳng nghe có tiếng dậm chân và
tiếng cười... Người ta không để yên cho tòa lâu đài cũ kỹ phơi các bức tường gỗ
súc và các mái nhà dột ra sương gió mưa nắng mà già đi, mục nát đi. Ở đây cũng
thế, lớp trẻ bồng bột với những tác phong mới đã xông vào... Họ chạy lên chạy
xuống thang gác ầm ầm, từ tầng sát nóc cho đến tầng cuối cùng... Có thể tìm
thấy cái gì ở đó kia chứ? Chỉ thấy những chú nhện trong các xó nhà và những con
chuột nhắt ló đầu ra khỏi hang.
Dường như ma quỷ đã nhập vào Natalia
Alekseyevna.
Từ sáng nàng buồn thỉu buồn thiu, nhưng từ
khi Gavrila đến, khuôn mặt nàng đã đỏ bừng lên, nàng lại vui vẻ và bày ra đủ
thứ trò chơi không còn để cho ai kịp thở nữa. Anixia Tolstaia không còn biết
xoay xở ra làm sao. Công chúa bảo bà ta:
- Hôm nay sẽ có một bữa tiệc của
Bantaza(1), chúng ta sẽ hóa trang mà ăn bữa tối.
- Nhưng tâu lệnh bà kính mến, còn lâu mới
đến Noen kia mà. Vả lại làm thế nào được, tiện thiếp cũng chưa được thấy vua
Bantaza ăn tiệc bao giờ?
- Ta sẽ lục lọi trong lâu đài xem. Tất cả
những thứ gì trông lạ mắt nhất thì mang cả vào trong phòng ăn. Hôm nay thì đừng
có làm ta bực mình đấy, đừng có ương ngạnh.
Các cầu thang cũ kỹ kêu cót két, bản lề gỉ
của các cánh cửa đã từ lâu không ai mở cũng rên rỉ... Cuộc lùng sục khắp cung
điện bắt đầu. Dẫn đầu là Natalia Alekseyevna, tay đỡ xiêm, theo sau là Gavrila,
cầm một cây nến, mắt sững sờ vì sợ hãi. Hắn đã sững sờ như vậy từ lúc nãy, khi
ngồi trên ngựa, hắn trông thấy Natalia tì má vào nắm tay nhỏ nhắn, rầu rĩ ngồi
ở cửa sổ. Giống y như câu chuyện cổ tích về nàng công chúa Nhan sắc Tuyệt vời
Xanka đã kể cho mấy anh em hắn nghe trong ổ trên bếp lò khi họ còn nhỏ... Hoàng
tử Ivan đã phi ngựa nhảy cao hơn cây trồng, thấp hơn mây bay, tới đúng tầm
khung cửa sổ nơi nàng Nhan sắc tuyệt vời đang đứng và hoàng tử đã tháo chiếc
nhẫn ra khỏi bàn tay trắng muốt của công chúa.
Andrey Golikov cũng cảm thấy choáng váng
đầu óc. Họ đã bảo hắn phải đi theo mọi người.
Từ tối hôm qua, từ khi hắn được thấy bức họa
chân dung chị Gavrila nằm trên mình con cá heo thì hắn thấy dường như mình thức
mà chiêm bao... Các cô em Melsikov má tròn, tóc vàng làm hắn bối rối đến nghẹn
thở; họ đẹp phơi phới, mũm mĩm đến nỗi bao nhiêu nếp xiêm áo cũng không che
giấu nổi bộ ngực đồ sộ. Hai cô thơm thơm mùi táo, và quả thật không thể nào
không nhìn họ được.
Họ tìm thấy trong các buồng chứa đồ vô khối
quần áo cũ những xiêm mũ cổ không ai còn nhớ, những tấm áo cầu rộng thùng thình
bằng gấm Bizăngxơ, chiến bào, áo chẽn, áo nẹp những mũ miện bằng ngọc trai nặng
mỗi cái một pud; đám nữ tỳ trẻ tuổi
ôm tất cả các thứ đó vào phòng ăn.
Đến một tầng dưới, thấy có một cái cửa nhỏ
rất cao, lên tới trần. Natalia cầm lấy nến, kiễng chân lên và ngửa đầu:
- Thế ngộ nó ở trên kia thì sao?
Anna và Marfa khiếp vía đồng thanh hỏi:
- Ai kia ạ?
- Con ma xó ấy, - Natalia nói. Các cô gái
ôm chặt lấy má; họ không tái mặt nhưng mở mắt thao láo như những cái đĩa chén.
Ai cũng sợ.
Lão già đốt lò đem đến một cái thang và đặt
vào tường. Gavrila leo ngay lên thang, giờ thì có phải nhảy xuống vực thẳm, hắn
cũng nhảy... Hắn mở cánh cửa con và biến vào trong bóng tối. Mọi người chờ đợi;
sao mà lâu thế. Mãi không thấy Gavrila trên ấy trả lời và động tĩnh gì cả,
Natalia thì thào ra lệnh, nghe dễ sợ:
- Gavrila! xuống đi!
Khi ấy thấy hiện ra đôi đế ủng, rồi các tà
áo rộng mở của hắn; hắn xuống, người bám đầy mạng nhện.
- Ngươi thấy gì trên đó?
- Chẳng có gì đặc biệt, chỉ có một vật gì
xam xám, đầy lông lá đã vuốt nhẹ má tôi.
Mọi người thốt lên một tiếng “Chà!”. Tất cả
vội vàng rón rén rời khỏi gian phòng, rảo cẳng leo lên thang gác nhảy bốn bậc
một. Mãi đến lúc lên tới trên nhà, Anna và Marfa mới kêu rú lên. Natalia
Alekseyevna bèn nghĩ ra trò chơi tìm ma xó. Đám thanh niên đi tìm các cửa kín,
rón rén mở những căn buồng xép dưới cầu thang, nhìn vào gầm bếp lò, nín thở vì
sợ hãi... Và họ đã đạt được mục đích mong muốn: trong một xó tối om om, chăng
đầy mạng nhện, họ nhìn thấy một cặp mắt xanh lè sáng rực một ánh lửa ma quái...
Cả bọn chết khiếp bỏ chạy hết... Natalia vấp, ngã vào tay Gavrila; hắn ôm chặt
lấy nàng, nàng nghe thấy cả tim hắn đập những tiếng cách quãng, thình thịch một
trái tim đàn ông thực sự... Nàng hất vai và khẽ bảo:
- Buông ta ra!
Rồi họ đi chuẩn bị bữa tiệc của Bantaza.
Lão già đốt lò với bộ râu vàng khè, trông như một con ma xó, cây thánh giá nhỏ
bằng đồng lủng lẳng bên ngoài áo sơ mi, đi ủng dạ mới, đem thang đến. Trên
những bức tường bằng gỗ súc của phòng ăn lớp da đã bị bóc đi từ lâu họ treo lên
những tấm thảm bị nhậy cắn. Họ bỏ bàn ăn đi và dọn bữa ăn tối trên một tấm thảm
trái lên sàn nhà; lệnh truyền cho tất cả mọi người dự tiệc phải ăn theo kiểu
dân Babilon.
Gavrila sẽ là vua Bantaza. Họ mặc cho hắn
một chiếc áo nẹp rất đẹp, tuy đã cũ bằng gấm đỏ tía có thêu những con kỳ lân
bằng kim tuyến; họ khoác lên vai hắn một tấm áo cầu như người ta vẫn thường mặc
một trăm năm về trước, họ đội lên đầu hắn một chiếc mũ miện bằng ngọc trai nghe
đâu của hoàng thái hậu xưa kia.
Natalia Alekseyevna làm Xemiramix(2); họ
mặc cho nàng quần áo bằng gấm vóc, quấn quanh các bím tóc dày của nàng những
tấm khăn quàng sặc sỡ, họ sai các nữ tì trẻ tuổi ra chuồng gà nhổ lấy những
lông đuôi đẹp nhất của gà trống, đem cắm lên khăn.
Còn Marfa và Anna thì sẽ là ai? Natalia ra
lệnh cho họ sang phòng bên, tháo các bím tóc ra, cởi bỏ xiêm áo và chỉ mặc có
áo lót bằng vải mỏng, dài và sạch sẽ.
Cũng đám nữ tì ban nãy lại ba chân bốn cẳng
chạy ra ao hái hoa sen mang về buộc đầy tay cổ và tóc của các cô gái Melsikova,
hai cô lấy những bông có cuống dài thắt vào quanh mình; họ trở thành nữ thần
của sông Tigre và sông Ephrat.
Hóa trang cho Catherine thành nữ thần hoa
quả thì dễ thôi; theo tiếng Babilon cô là Axtacte, và theo tiếng Hy Lạp là Hoa
thần. Bọn nữ tì chạy đi nhổ cà-rốt, rau thơm, hành xanh, đậu hột; họ đem về
những quả bí non màu xanh và táo. Catherine má đỏ ửng, miệng ươn ướt, mắt tròn
xoe vì sung sướng không còn sợ hãi nữa; như mọi khi, nàng cười khanh khách về
bất cứ chuyện gì; nàng đúng là một vị Hoa thần thực sự, trang điểm với quả đậu,
thìa là, đầu đội một vòng tết bằng rau, tay cầm một lẵng đầy quả phúc bồn tứ đỏ
chót.
- Thế còn anh chàng họa sĩ, hắn sẽ là ai
nhỉ? - Natalia sực nghĩ. - Chúng ta chưa có người Ethiopi, hắn sẽ là vua xứ
Ethiopi.
Một chuyện thần kỳ bắt đầu đối với
Andriuska Golikov. Những bàn tay phụ nữ - đây là thực hay là mơ đây - lôi kéo
hắn, xoay hắn, khoác tơ lụa, gấm vóc lên người hắn, bôi đầy bồ hóng lên mặt
hắn, cặp một cái khuyên đồng vào mũi hắn, nhất thiết hắn phải để nguyên chiếc
khuyên đó ở mũi mà ăn... Ví thử Chúa có ban cho hắn đôi cánh tiên, hắn cũng
không thấy hạnh phúc bằng.
Ba nhạc công ở xloboda Đức đến, cúi rạp xuống chào: một nhạc công kéo vĩ cầm, một
người thổi harmonica và một người thổi sáo. Người ta cũng cố hóa trang cho họ.
- Và bây giờ ta ăn thôi!
Mọi người phải ngồi lên đệm, xếp chân lại
và uống rượu mật ong, rượu nho trong vỏ ốc biển. Không ai biết rõ phải chơi cái
trò yến tiệc của vua Bantaza ra sao. Các vị khách ngồi trước các đĩa thức ăn và
đèn nến, đưa mắt nhìn nhau mỉm cười, họ không muốn ăn... Natalia Alekseyevna
bèn lắc mớ lông gà trống và dẩu môi đọc thuộc lòng những câu thơ Gavrila đã
được nghe chính nàng đọc vào một tối mùa đông trong Terem nóng ngốt dưới vòm trần thếp vàng:
Trên
đỉnh núi cao thần tiên đang sống êm đềm.
Bỗng
bị thần ái tình bắn trúng tên thiêng.
Jupite
cũng phải rên rỉ - Ôi đau đớn,
Ta
mất ăn, mất ngủ, không phương cứu chữa,
Lửa
thiêu đốt ruột gan ta, không gì giải nổi cho ta cơn khát,
Ôi
thật đau khổ cho ta, ta không cự nổi ái tình.
Than
ôi, thần thánh còn thua thần ái tình ác nghiệt.
Thì
người trần, còn biết cầu ai,
Thà
vui thú chẳng hơn sao!
Sầu
muộn mà chi!
Hãy
ngợi ca những mũi tên tẩm độc,
Mà
uống cốc rượu nồng...
Trong khi đọc thơ, vẻ mặt Natalia tái đi
dưới chiếc khăn to tướng quấn trên đầu. Nàng uống một ngụm rượu nho và ra nhảy
điệu polka với Anixia Tolstaia.
Nhạc công chơi nhẹ nhàng nhưng chơi hay đến
nỗi từng thớ thịt trong người đều rung lên và hát theo.
Natalia đưa cặp mắt sáng long lanh nhìn
Gavrila:
- Ngươi khiêu vũ với Catherine đi!
Hắn hất chiếc áo cầu của vua Bantaza tụt
khỏi vai, chồm dậy; hắn có thể khiêu vũ hai mươi bốn giờ đồng hồ liền một mạch
không nghỉ. Lưng Catherine ấm áp, mềm mại dưới bàn tay, chân nàng lướt nhẹ; khi
nàng quay tròn, vỏ hạt đậu, quả anh đào trên đầu trên vai văng ra tung tóe.
Gavrila say sưa khiêu vũ và các nhạc công cũng say sưa đàn. Anna và Marfa cũng
cầm tay nhau quay tròn. Riêng có Golikov ngồi lại trên thảm, trước những ngọn
nến; hắn không ăn không uống gì được vì vướng chiếc khuyên đeo ở mũi; nhưng
điều đó cũng không làm giảm niềm hạnh phúc của hắn; trong tiếng sáo réo rắt,
vẫn còn văng vẳng bên tai hắn những câu thơ công chúa Natalia đã ngâm trong đó
có nói đến các thiên thần trên núi Olymp... Và vị nữ thần nằm trên mình con cá
heo cùng với ly rượu đầy cám dỗ, lúc nào cũng chập chờn trước mắt hắn.
Gavrila thực lòng: người ta đã bảo hắn nhảy
điệu polka với Catherine thì hắn
nhảy, nhảy không tiếc gót giầy. Và tuy đã mấy lần hắn thấy dường như vẻ mặt
Natalia Alekseyevna cười có hơi khang khác - không vui, thiếu cái ánh sáng ngời
trong đôi mắt khi nãy, hắn vẫn không hiểu rằng lẽ ra hắn đã phải đưa Catherine
về chỗ cạnh đám bí và cà-rốt từ lâu rồi... Một lần nữa hắn thoáng thấy công
chúa nghiến chặt răng dường như đau đớn... Bỗng nàng lảo đảo, dừng lại, bám
chặt lấy Anixia Tolstaia; vành khăn cắm lông gà rơi xuống.
Anixia kêu lên một tiếng sợ hãi:
- Công chúa bị chóng mặt! - Rồi mụ xua xua
tay về phía các nhạc công ra hiệu cho họ im đi. Natalia Alekseyevna vùng ra
khỏi tay Anixia và áo choàng kéo lết sau lưng, nàng ra khỏi phòng. Đến đây kết
thúc bữa tiệc Bantaza. Anna và Marfa bỗng cảm thấy hết sức trơ trẽn trong những
manh áo lót mình; họ thì thầm với nhau rồi bỏ chạy sang phòng bên.
Catherine hoảng sợ, ngồi vào chỗ cũ và bắt
đầu gỡ bỏ những thứ rau buộc trên người. Gavrila nét mặt sa sầm, đứng giạng hai
chân trước tấm thảm bày đầy thức ăn; lông mày cau lại, hắn chớp chớp mắt trước
ánh nến. Anixia vội vã ra theo công chúa, nhưng lại quay vào ngay; mụ bấm vào
tay Gavrila:
- Đi ra gặp công chúa đi, - mụ thì thào, -
Hãy quỳ xuống chân nàng ấy, đồ ngốc ạ!
Natalia Alekseyevna đứng ngay gần đó, trong
hành lang cạnh phòng ăn; qua cửa sổ để ngỏ nàng nhìn sương mù lấp loáng dưới
ánh sáng mặt trăng bị che khuất đâu đó không trông thấy, Gavrila lại gần. Có
tiếng nước rơi lộp độp từ mái nhà xuống lá cây.
- Ngươi ở lại Moskva có lâu không? - nàng
hỏi, không quay đầu lại.
Hắn nghẹn ngào không sao trả lời được.
- Ngươi không có việc gì ở Moskva cả. Ngay
ngày mai, ngươi hãy trở về chỗ cũ của ngươi đi!
Khi nàng nói xong, đôi vai nàng nhô lên.
Gavrila trả lời:
- Tôi đã làm gì để công chúa bực tức như
vậy? Trời ơi nếu như công chúa biết cho... nếu như công chúa biết cho!
Nàng bèn quay lại và ghé sát khuôn mặt của
nàng với đôi lông mày kẻ bằng than lại gần hắn:
- Ta không thích ngươi đâu, ngươi nghe
chưa? Ngươi hãy đi đi, đi đi!
Vừa nhắc lại: “Đi đi, đi đi”, nàng vừa giơ
tay lên để đẩy hắn, nhưng có lẽ hiểu ra rằng không thể nào đẩy được một con
người to lớn như vậy, nàng đặt hai bàn tay lên vai chàng thanh niên làm những
chiếc xuyến của Xemiramix kêu lanh canh, và cúi đầu xuống rất thấp, cúi mãi
xuống. Gavrila cũng không hiểu mình đang làm gì, hôn nhẹ lên đường ngôi ấm áp
của nàng. Nàng nhắc lại:
- Không, không, ngươi đi đi, đi đi!
-------------
Chú thích:
(1)
Vua xứ Babilon thời cổ. Người ta dùng thành ngữ “bữa tiệc của Bantaza” để trỏ
một bữa tiệc thịnh soạn.
(2)
Theo truyền thuyết, hoàng hậu xứ Axiri và Babilon.
Chương 164
Piotr Alekseevich cởi áo ngoài bằng vải thô ra, xắn tay áo lên, và
theo kiểu bọn cướp biển Bồ Đào Nha và như phó đô đốc Pambur đã có lần dạy Sa
hoàng, buộc lên đầu một chiếc khăn tay màu đỏ thắm có thêu những lá nho xung
quanh - quà từ Izmailovskoe gửi đến. Vài năm về trước, có lẽ nhà vua còn cởi cả
giầy ra để cảm thấy dưới chân mình cái hơi ấm áp của sàn tàu xù xì. Một làn gió
nhẹ thổi căng các cánh buồm của chiếc thuyền hai cột buồm Catherine đang nhẹ
nhàng ngoan ngoãn lướt đi như bay. Chiếc thuyền buồm nhỏ Unrika lướt theo sau
về phía chân trời, trong làn sương mù nhẹ, chiến thuyền Vasmaixte trương hết
buồm đang chạy tới.
Các chiến thuyền đó vừa mới đoạt được của
quân Thụy Điển nhờ một chiến thắng bất ngờ và rất oanh liệt: quân Nga đã bắt
được mười hai thuyền buồm nhỏ và chiến thuyền, - toàn bộ hạm đội cướp biển của
viên tư lệnh Letse đã hai năm nay ngăn không cho bất cứ thuyền nào lọt vào hồ
Peiput, cướp phá các trang trại và làng mạc ven biển và đe dọa đánh tập hậu
Seremetiev đang bao vây thành Yuriev.
Viên tư lệnh Letse là một thủy thủ tài ba,
dũng cảm. Song quân Nga đã tìm cách đánh lừa được y. Vào một đêm tối đen như
mực, đang lúc giông tố, có thể vì sợ bão hay vì một lý do nào khác, y đã dẫn cả
hạm đội vào cửa sông Embac rồi uống rượu say túy lúy trên chiếc thuyền buồm chỉ
huy Carolux, không hề lo nghĩ gì.
Tảng sáng khi y mở mắt ra thì hàng trăm
thuyền, bè và mảng làm bằng thùng gỗ đang hối hả từ hai bên bờ sông bơi về phía
đoàn thuyền của y...
- Bắn cả hai mạn thuyền vào bộ binh Nga! -
viên tư lệnh hét lên.
Quân Thụy Điển chưa kịp nạp đạn vào súng
đại bác, chưa kịp cắt dây neo thì quân Nga đã bổ vây tứ phía; vừa ném thủ pháo
vừa bắn súng ngắn, từ các thuyền, bè, mảng, họ xông lên đánh giáp lá cà. Nhục
nhã làm sao: bộ binh mà bắt được cả hạm đội!
Uất giận, Letse nhảy vào khoang chứa thuốc
súng và châm lửa nổ tung chiếc thuyền buồm; lửa từ khắp các khe hở và cửa sạp
thuyền tóe ra: giữa một tiếng nổ khủng khiếp và khói cuồn cuộn mù mịt, cột
buồm, trục buồm, thùng gỗ, quân sĩ và cả viên tư lệnh đều bắn tung lên tận gần
mây xanh.
Ánh nắng rát lưng, gió nhẹ mơn trớn mặt,
sóng nước loang loáng lóa cả mắt. Piotr Alekseevich nhấp nháy mắt. Nhà vua đứng
ở mạn lái giạng rộng đôi chân cho đỡ nóng. Gió như reo như hát trong đám dây
dợ, cột trục trên thuyền, hải âu cất tiếng kêu khàn khàn phía sau lái trên
đường rẽ nước. Những cánh buồm no gió nom như những bộ ngực trắng nõn, đầy sinh
lực.
Piotr Alekseevich đáp thuyền về Narva sau
trận chiến thắng, nhà vua đem theo những lá cờ Thụy Điển chất đống ở chân cột
buồm cái - hôm kia quân Nga đã xung phong chiếm được Yuriev. Lại nhổ thêm được
một sợi lông ở bộ đuôi công của vua Charles.
Thư gửi đến hoàng đế Áo và vua nước Anh vua
nước Pháp đều nói:
“Nhờ
ơn Chúa cao cả, chúng tôi đã thu hồi được thái ấp xưa của chúng tôi, thành phố
Yuriev, được đại vương hầu Yaroslav Vladimirovich lập ra cách đây bảy trăm năm
để bảo vệ biên thùy nước Nga”.
Piotr Alekseevich chưa hề bao giờ mơ tưởng
- như người anh em đáng yêu của mình là vua Charles chẳng hạn, - thi tài với
vua Alekxandr xứ Maxêđoan. Sa hoàng coi chiến tranh là một công cuộc khó khăn,
nặng nhọc, một việc làm gian khổ và đẫm máu, một sự cần thiết của quốc gia.
Nhưng lần này, trước thành Yuriev, nhà vua tin vào tài chỉ huy quân sự của
mình, rất thích thú và tự hào; trong mười ngày (nhà vua đã rời Narva đến đó),
Piotr Alekseevich đã làm được điều mà đại nguyên soái Seremetiev và các kỹ sư
ngoại quốc, đồ đệ của nguyên soái Voban trứ danh, coi như không thể nào thực
hiện được.
Và thú vị biết bao khi nhìn bờ biển xa xa,
um tùm cây cối và biết rằng bờ biển đó mới gần đây còn thuộc Thụy Điển, nay đã
hoàn toàn về tay mình, cả hồ Peiput nữa. Nhưng con người ta vốn thế - khi đã có
nhiều thì lại muốn được nhiều hơn nữa. Quả vậy, còn gì khoan khoái hơn là vào
một buổi sáng sớm sủa, lênh đênh trên con thuyền hai buồm đẹp tuyệt vời, đằng lái
trương cao lá cờ thánh Andrey to tướng để chọc tức vua Charles.
Ấy thế mà không đâu! Chính ngày hôm đó, nhà
vua lại chỉ nghĩ đến ngươi yêu, nhớ nhung mảnh liệt đến run cả người... Người
yêu... Không thể gọi cô ta khác được - không thể gọi là một phu nhân, hay một
đứa gái điếm - người yêu của ta, nàng Catherine - ánh sáng của ta...
Cựa quậy bả vai dưới lần áo lót, nhà vua
hít mạnh không khí ẩm ướt... Nước và gỗ thuyền tỏa mùi vị của một bữa tắm và
vua Piotr mường tượng Catherine đang tắm vào một buổỉ trời nóng bức... Phải
chăng cô ta đã bỏ bùa vào chiếc khăn tay có thêu lá nho bằng cách thấm đẫm vào
trong đó hương vị phụ nữ của mình - gió từ sau lưng nhà vua thổi tới, tạt mùi
khăn bịt đầu, cù vào mũi, vào môi nhà vua... Ô, cái cô bé phù thủy người xứ
Livoni rất đỗi vui tươi, tóc xoăn ấy, cô ta biết việc mình làm rõ ràng lắm... Ở
Yuriev, đám phụ nữ trong thành sợ chết khiếp kia cũng đã là đẹp đấy. Vậy mà
không cô nào có thể bì được với Catherine, không cô nào biết cách nhí nhảnh lúc
lắc tấm xiêm kẻ xọc trên đôi hông chắc nịch... Không cô nào đã làm cho nhà vua
muốn béo má, muốn nhìn vào mắt, nhìn thấu đến tận đáy lòng, muốn áp răng mình
lên răng cô ta.
Piotr Alekseevich sốt ruột, dậm gót chiếc
giầy vuông mũi xuống sàn. Lập tức, có ai, chắc hẳn giật mình thức giấc, vội vã
nhỏm dậy ở phòng sĩ quan và đóng sập cửa. Aleksey Vaxilievich Makarov chạy
xuống thang:
- Xin đợi lệnh hoàng thượng.
Piotr Alekseevich cố tránh nhìn bộ mặt gầy
gò, nhăn nheo với mi mắt đỏ hoe, nom rất lạc lõng trên thuyền, truyền qua kẽ
răng:
- Các thứ để viết.
Makarov hối hả chạy đi, va ngay vào thang.
Piotr Alekseevich phì cười sau lưng hắn, như một con mèo. Makarov trở lại rất
nhanh đem theo một chiếc ghế xếp, giấy, lọ mực và mấy chiếc bút lông ngỗng cài
sau tai. Piotr Alekseevich cầm lấy một chiếc.
- Ra cầm lái và cầm cho chắc vào, đồ dân
đất liền kia! Ngươi mà để cho buồm rũ xuống thì ngươi sẽ biết tay ta!
Nhà vua nháy mắt với Makarov, rồi ngồi lên
ghế xếp đặt tờ giấy lên đùi, nghiêng đầu nhìn lên đỉnh cột buồm cái có một lá
cờ dài đang bay phấp phới và bắt đầu viết. Trên một mặt giấy nhà vua ghi:
“Gửi
các vị phu nhân Anixia Tolstaia và Catherine và Vaxilievskaia...”
Bên mặt kia nhà vua viết, bỏ sót cả chữ,
ngòi bút tóe mực:
“Dì
và em yêu quý, ta chúc các người sức khỏe lâu dài... Ta muốn được biết tin tức
và sức khỏe của các người... Chúng ta sống trong thiếu thốn và làm việc. Không
có ai để giặt giũ vá may quần áo cho chúng ta và điều chán nhất là ta rất buồn
vì vắng các người.
Hôm
kia chúng ta đã nhảy với quân Thụy Điển một điệu vũ rất hay, vua Charles sẽ
phải tối tăm mặt mũi lại. Ta dám chắc rằng từ ngày nhập ngũ ta chưa hề thấy một
trò chơi nào vui như vậy... Nói tóm lại, nhờ Chúa phù hộ, chúng ta đã đoạt được
thành Yuriev ở đầu mũi kiếm...
Còn
về sức khỏe của các người thì cầu chúa phù hộ, đừng có chuyện gì, các người
phải viết thư cho ta và các người hãy mau chóng đến với ta ngay, để cho cuộc
sống của ta vui lên...
Các
người hãy đến Pskov rồi ở đó đợi chỉ thị xem phải đến đâu, quân địch cũng không
xa đây mấy...
Pite”
- Gấp và đóng dấu bức thư này lại, không
được đọc. - nhà vua vừa bảo Makarov vừa cầm lấy tay lái. - Có dịp thì gửi ngay
đi cho ta.
Nhà vua cảm thấy nhẹ nhõm. Tiếng chuông cầm
canh vọng lên từng hồi hai tiếng boong boong. Lập tức một khẩu đại bác nổ như
sấm ở sàn tàu phía trước, các cánh buồm rung lên, mùi khói thuốc súng thơm thơm
tỏa ra. Thuyền trưởng có bộ mặt trẻ, xương xương, xấc xược, bước bốn bậc một
leo lên cầu chỉ huy, tay nâng thanh đoản kiếm; hắn đưa hai ngón tay lên chiếc
mũ ba cạnh:
- Thưa Ngài pháo thủ, đã đến giờ giải lao,
mời ngài uống một cốc!
Theo sau Nepliuev là gã Fenten thấp lùn,
mặt mày bóng láng và hớn hở, mặc áo gi-lê đan, màu xanh lục. Trên thuyền, thay
vào chiếc mũ cao không vành của người đầu bếp, gã cũng buộc lên đầu một chiếc
khăn tay trắng theo kiểu cướp biển. Gã đưa mời vua Piotr một chiếc cốc bạc, một
cái bánh nướng nhân anh túc đặt trên cái khay mạ thiếc.
Piotr Alekseevich nhắc nhắc cái cốc trong
tay rồi uống một hơi, theo kiểu thủy thủ, thứ vodka rất nặng ngửi như mùi rượu
mạnh và vừa vội vàng ném vào miệng nhai nhai những mẩu bánh nhỏ vừa bảo
Nepliuev:
- Đêm nay, chúng ta sẽ thả neo ở gần sông
Narova, ta sẽ ngủ đêm trên đất liền. Ngươi đã đo mực nước chưa?
- Tâu bệ hạ, ở cửa sông Narova, phía hữu
ngạn có một bãi cát ngầm, nhưng phía tả ngạn thì là mười một bộ.
- Tốt... cho ngươi lui.
Và Piotr Alekseevich lại đứng một mình ở
tay lái trên sàn thuyền nóng bỏng. Sau cốc rượu vừa uống cạn, một niềm vui
thích tỏa khắp người nhà vua và nhà vua khi thì thở phì phì, khi thì cười gằn
nhớ lại chuyện xảy ra hôm kia, oanh liệt đến đỗi vua Charles sẽ phải tối tăm
mặt mũi.
Chương 165
Đại nguyên soái Seremetiev tiến hành việc bao vây thành Yuriev một
cách uể oải; ông không muốn gắng sức quá mức và cũng không muốn quân sĩ của
mình mệt nhọc; hy vọng thắng quân Thụy Điển bằng cái đói. Piotr Alekseevich vo
tròn những bức thư dài của ông ta, quẳng xuống gầm bàn. Ma quỷ đã thay đổi vị
đại nguyên soái rồi; trong hai năm, ông đã chiến đấu táo bạo, hung tợn nữa là
khác; bây giờ thì như một mụ đàn bà, ông ấp a ấp úng dưới chân thành quân Thụy
Điển.
Cuối cùng, khi đại nguyên soái Oginvy đến
doanh trại Narva, - theo lời khẩn cầu của Patkun, tại Viên, Oginvy đã được thu
dùng để giúp Moskva với tiền lương rất cao; ngoài lương thực, rượu cùng các thứ
thực phẩm khác, mỗi năm ông ta còn được lĩnh thêm ba nghìn duca vàng, - thì Piotr Alekseevich trao quyền chỉ huy cho ông ta và
sốt ruột, vội vã đi đến Yuriev.
Seremetiev không biết nhà vua tới; sau bữa
ăn trưa, trong không khí oi bức của giờ ngọ, ông đang bình thản ngáy o o trong
lều vải, giữa đám xe quân dụng, sau một bờ lũy cao; Sa hoàng giật chiếc khăn
tay ông ta che mặt để tránh ruồi, ông mới tỉnh giấc.
- Ngươi núp vào sau các chướng ngại vật cự
mã mà yên trí ngủ. - Vua Piotr hét to, cặp mắt điên giận trợn lên. - Đi, đưa ta
đi xem các công trình công thành!
Vị đại nguyên soái khiếp vía đến nỗi nói
không nên lời; ông không còn nhớ đã làm thế nào mà xỏ chân được vào ống quần;
không tìm thấy bộ tóc giả và thanh gươm, ông cứ thế leo lên ngựa, đầu để trần.
Kỹ sư quân sự Kobe chạy đến; còn ngái ngủ, y cài nhầm hết cả khuy chiếc áo chẽn
may theo kiểu Pháp; từ khi vây thành, y đã ăn uống phè phỡn và nhờ các món ăn
Nga, khuôn mặt của y to bè bè: tất cả công việc của y làm được tốt chỉ có vậy.
Piotr từ trên mình ngựa, giận dữ khẽ gật
đầu chào y. Cả ba người đi ra trận địa. Chẳng có gì vừa ý Piotr Alekseevich...
Phía đông nơi đội quân công thành đóng doanh trại, tường thành rất cao, các
tháp to ngang, lùn tè, đã được củng cố thêm, các bờ lũy xây hình bán nguyệt nhô
ra rất xa trên cánh đồng theo hình ngôi sao và các hào trước mặt lũy đều đầy
nước. Phía tây, thành phố được con sông Embac đầy nước bảo vệ một cách vững
chãi. Phía Nam, trải dài một bãi sình lầy rêu phủ.
Bằng những đường hào sâu và đường hầm tiếp
cận, Seremetiev đã thận trọng tiến dần về phía thành nhưng còn cách xa, vì sợ
đại bác Thụy Điển. Các khẩu đội pháo của ông bố trí lại càng ngu xuẩn hơn, - từ
các trận địa pháo đó, ông đã cho bắn hai nghìn viên đạn trái phá vào thành phố;
ông đã đốt cháy được vài túp lều nhưng tường thành thì chưa sây sát tí gì.
- Đại nguyên soái, ngươi có biết mỗi viên
đạn trái phá tốn kém cho ta bao nhiêu không? - Piotr Alekseevich hỏi, nét mặt
sa sầm. - Chúng ta đưa từ Ural đến! Ngươi có muốn ta trừ vào lương ngươi giá
tiền hai ngàn viên đạn trái phá bắn vô ích đó không? - Nhà vua giật lấy ống
nhòm ở nách đại nguyên soái, quan sát tường thành. - Tường phía Nam thì thấp và
cũ rồi. Đúng như ta đã nghĩ... - Nhà vua quay phắt về phía kỹ sư Kobe. - Phải
bắn trái phá vào đấy, phải phá tường và cổng thành ở đấy. Phải chiếm thành phố
bằng ngả đó chứ không phải qua ngả phía Đông. Đừng có kiếm những chỗ thoải mái
thuận tiện, những nơi khô ráo... Phải tìm kiếm chiến thắng, dù cho có phải sục
vào bãi lầy ngập đến tận cổ!
Seremetiev không dám cãi lại, ông chỉ lúng
búng:
- Cái đó tất nhiên... Thưa Ngài pháo thủ,
Ngài có cương vị hơn để nhận xét... Chúng thần cũng đã suy nghĩ nhưng đã nhầm
lẫn...
Kỹ sư Kobe kính cẩn lúc lắc đôi má, với một
nụ cười ra vẻ ăn năn:
- Tâu bệ hạ, bức tường phía Nam cũng như
cổng tháp, mà người ta gọi là “Cổng Nga” đều cũ cả, nhưng tuy vậy vẫn không thể
đánh được vì chỉ có đi qua bãi lầy mới tiến đến gần được. Mà bãi lầy ấy thì
không làm sao qua nổi!
- Không qua nổi à? Ai không qua nổi? -
Piotr Alekseevich hét lên. Nhà vua lắc cái cổ dài ngoẵng, vung cái chân đã tụt
ra khỏi bàn đạp. - Đối với người lính Nga, cái gì cũng có thể vượt qua được...
Đây không phải là đánh cờ tướng, chúng ta đang làm một chuyện sinh tử! -
Nhà vua nhảy xuống ngựa, trải một tấm bản
đồ lên cỏ - bản đồ thành phố - rút trong túi áo ra một cái bao, lấy ra com-pa,
thước kẻ và bút chì. Nhà vua đo đạc, đánh dấu. Đại nguyên soái và Kobe ngồi xổm
bên cạnh. - Đây là chỗ các ngươi sẽ đặt tất cả các khẩu pháo! - Sa hoàng trỏ
vào ven bãi lầy trước “Cổng Nga”. - Và bên kia sông, ngươi hãy đặt thêm đại bác
tấn công. - Nhà vua thành thạo vạch đường bay của đạn trái phá từ các khẩu đội
đến “Cổng Nga” và cầm com-pa đo lại.
Seremetiev ấp úng:
- Cái đó tất nhiên... khoảng cách như thế
là vừa phải...
Kobe mỉm cười ra vẻ thông hiểu.
- Ta cho các ngươi ba ngày để thay đổi vị
trí... Ngày mùng bảy khai hỏa. - Vua Piotr xếp com-pa và thước vào túi đựng và
định đút nó vào túi áo chẽn, nhưng trong túi áo lại có chiếc khăn tay màu đỏ
thêu lá nho xung quanh; nhà vua bực tức rút khăn ra, nhét vào trong ngực.
Ba ngày ba đêm liền, nhà vua không để quân
lính được dừng chân nghỉ tay.
Ban ngày, dưới mắt quân Thụy Điển, toàn
quân vẫn tiếp tục đắp công sự, đào chiến hào dưới làn đạn và trái phá, và đóng
thang. Ban đêm họ bí mật, không đốt lửa, đóng bò vào đại bác, súng cối chuyển
đến những nơi khác, ở ven bãi lầy và vượt qua cầu phao, sang bên kia sông; họ
che giấu các khẩu pháo sau những bó củi cành và bờ lũy.
Mặt trời vừa nhô lên trên khu rừng soi sáng
các mái cũ kỹ của bức tường thành phía Nam, các lỗ châu mai ở ngọn tháp “Cổng
Nga” vừa xuất hiện bên trên lớp sương mù bao phủ bãi lầy và những làn khói xanh
lam của thành phố vừa mới bốc lên trong bầu không khí im lặng buổi sớm, - thì
sáu mươi khẩu đại bác tấn công và súng cối hạng nặng làm rung chuyển cả trời
đất, đạn đại bác nặng hai pud, trái
phá có ngòi lửa bay vèo vèo qua bãi lầy. Các khẩu đội bên kia sông nổ súng ầm
ầm như sấm.
Quân thủ pháo của trung đoàn Ivan Zidok nấp
sau làn khói súng, khiêng những bó củi cành chạy đến lấp bãi lầy. Piotr
Alekseevich đang ở khẩu đội phía nam. Nhà vua không cần phải la hét, ra lệnh,
nổi giận, mà chỉ mới kịp quay đầu, liếc nhìn các pháo thủ, miệng kêu “Ai-lu-lu,
ai-lu-lu”... chỉ vừa kịp đọc rất nhanh một bài kinh Pate là các pháo thủ đã lấy chổi thông xong nòng súng, đặt những
gói thuốc súng vào rồi tọng đạn và ngắm
- Tất cả các khẩu đội bắn! - đại tá
Nesaiev, người thấp lùn, trợn cặp mắt đỏ ngầu thét lên.
Loạt súng đầu tiên thổi bay mất mũ và bộ
tóc giả của ông ta.
- Cự ly vẫn y nguyên. Đưa mồi lửa lại...
Bắn! - Các khẩu đội trưởng nhắc lại giọng oang oang như lệnh vỡ. - Bắn!
Người ta trông thấy đạn trái phá nổ toang;
các lỗ châu mai trên tháp đổ sập; mái tường thành bắt đầu bốc khói rồi bùng
lửa; những ngôi nhà nhỏ trong thành trúng dạn trái phá bắt đầu bốc cháy. Chuỏng
những ngôi nhà thờ nhọn lắc lư, kêu bính boong. Lính Thụy Điển mặc quân phục
ngắn màu xám chạy ra cổng, mỗi lần có tiếng nổ lại nằm ẹp xuống. Chúng bắt đầu
đắp một bờ lũy, chúng kéo đến nào cột gỗ, nào thùng gỗ, bao bì... Đến tối ngày
hôm đó, ngọn tháp và bức tường thành vẫn đứng vững. Piotr Alekseevich ra lệnh
cho kéo pháo lại gần hơn nữa.
Trận pháo kích kéo dài sáu ngày liền. Lính
thủ pháo của Ivan Zidok, lội trong bãi lầy ngập đến đầu gối, đến ngang thắt
lưng, vừa lấp vũng lầy vừa dùng sọt đựng đầy đất đỡ trái phá và đạn địch. Người
bị bắn chết chìm nghỉm ngay lập tức; quân sĩ cõng những kẻ bị thương đi.
Quân Thụy Điển hiểu rõ nguy cơ ghê gớm đang
đe dọa chúng nên đã đưa về phía này một phần pháo của những tháp khác và mỗi
ngày lại tăng cường thêm hỏa lực.
Khói bao trùm cả thành phố. Mặt trời đỏ lòm
xói những tia nóng bỏng xuyên qua những đám khói thuốc súng bay mù mịt. Piotr
Alekseevich không rời khẩu đội pháo; người đen sì thuốc súng, nhà vua không tắm
rửa, vừa chạy vừa ăn qua quýt, tự tay phân phát vodka cho các đội pháo thủ. Nhà
vua nằm ngay cạnh, dưới gầm xe kéo pháo, chỉ chợp mắt non một giờ đồng hồ trong
tiếng nổ đinh tai của đại bác. Sa hoàng đã tống kỹ sư Kobe về trạm quân lương
vì y thông thái thật nhưng lại hiền lành quá đáng, mà, “những kẻ hiền lành thì
ở đây chúng ta chẳng cần đến!”.
Sẩm tối ngày mười hai rạng ngày mười ba
tháng bảy, Sa hoàng cho gọi Seremetiev đến; trong những ngày đó, vị đại nguyên
soái với toàn quân của mình đã làm náo động lên ở phía đông để uy hiếp quân Thụy
Điển. Ông đã lấy lại dũng cảm, không rời khỏi yên ngựa, hay đánh lính, chửi rủa
luôn miệng.
Ông gặp Piotr Alekseevich bên cạnh một cỗ
pháo im tiếng. Quanh nhà vua là những pháo thủ rậm ria - toàn những người quen
biết cũ - những người vào thời các trò chơi quân sự trước thành Prexburg, kéo
đại bác gỗ, nã củ cải và đạn trái phá bằng đất sét - không phải để đùa đâu -
vào kỵ binh của vương hầu chấp chính. Người thì đầu cuốn giẻ, kẻ thì quần áo
rách toạc.
Piotr Alekseevich ngồi trên giá khẩu đại
bác bằng đồng đen lớn nhất, khẩu “Hỏa xà”, đúc ở Tula, để làm nguội khẩu đại
bác, đã phải đổ gần hai chục thùng dấm mà nó vẫn cháy xèo xèo. Vua Piotr đang
nhai bánh mì và giọng nói hăm hở hấp tấp, đang phân tích công việc hoàn thành
trong ngày hôm đó... Bức tường phía Nam thế là cuối cùng đã bị phá vỡ ở ba chỗ;
kẻ địch không thể bịt kín được những lỗ hổng đó nữa. Pháo thủ Inhat Kurotskin
đã nã trúng nhiều phát trái phá vào góc trái ngọn tháp bên cổng...
- Cứ như là đóng đinh ấy! Có phải đúng thế
không nào? Hả? - Piotr Alekseevich kêu lên, giọng ồ ồ như giọng gà trống, - Cả
một góc tháp đã đổ sụp và toàn bộ cái tháp sắp sập đến nơi rồi. - Inhat, mi ở
đâu, ta không thấy, lại gần đây. - Nhà vua đưa cho người lính pháo thủ cái tẩu
thuốc cán đã bị gặm mòn. - Ta không tặng mi đâu. Ta chẳng còn cái tẩu nào trong
người cả. Nhưng rít một hơi đi... giỏi lắm! Nếu chúng ta sống sót, ta sẽ không
quên mi.
Inhat Kurotskin, một người có vẻ trầm tĩnh,
ria rậm, bỏ chiếc mũ ba cạnh ra, đỡ lấy cái tẩu, lấy móng tay cạo cạo nõ; khuôn
mặt hắn hằn lên những nếp nhăn hóm hỉnh.
- Nhưng mà, tâu bệ hạ, chẳng có lấy một sợi
thuốc nào trong này cả?
Các pháo thủ khác phá lên cười. Piotr
Alekseevich rút túi đựng thuốc ra, không còn một tí thuốc nào. Vừa lúc đó đại
nguyên soái đến. Piotr Alekseevich mừng rỡ:
- Boris Petrovich, ngươi có gì để hút
không? Ở khẩu đội của ta chẳng có vodka, mà cũng chẳng có thuốc lá. - Các pháo
thủ lại cười - Phiền ngươi...
Seremetiev cúi chào lễ phép đưa nhà vua cái
túi đựng thuốc xinh xắn có đính ngọc trai.
- A, cảm ơn... Nhưng hãy cho pháo thủ Inhat
Korutskin cái túi ấy... Inhat, ta cho mi đấy, còn cái tẩu con thì trả lại ta,
nhớ đấy nhé!
Nhà vua bảo các pháo thủ đi ra chỗ khác và
nhai bánh mì khô rau ráu một lúc lâu. Đại nguyên soái, gậy tì vào sườn, im lặng
đứng trước nhà vua.
- Boris Petrovich, không thể đợi thêm được
nữa, - vua Piotr nói, giọng đổi khác. - Quân lính đang cáu kỉnh đấy! Đã mấy
ngày nay lính thủ pháo phải nằm trong bãi lầy... Gian khổ thật! Ta sẽ đốt các
thùng nhựa thông lên và ta sẽ bắn suốt đêm. Ngươi hãy tiếp viện ngay cho ta một
tiểu đoàn tân binh Moskva của trung đoàn Xamokhvalov, họ lầm lì ít lời nhưng
dũng cảm... Còn ngươi thì hãy vì Chúa mà cố hết sức vào, nhưng không nên hy
sinh quân sĩ vô ích... Tang tảng sáng, ta sẽ xung phong... (Seremetiev buông
thõng cánh tay cầm gậy và làm dấu thánh giá). - Cho ông lui, ông bạn ạ.
Khi ở ven bãi lầy và bên kia sông, những
thùng nhựa thông cháy rực lên thì tất thảy các khẩu đội đều nổ súng liên hồi,
quân Thuỵ Điển chưa từng nghe thấy thế bao giờ. Cổng thành đổ sập. Từ bờ lũy,
từ các hàng rào và các chướng ngại vật cự mã, mảnh gỗ bắn ra tung tóe.
Quân Thụy Điển chờ đợi một cuộc tấn công
trong ngay đêm ấy; nhìn qua các lỗ thủng ở tường thành, dưới ánh sáng lập lòe
của nhựa thông cháy, là cả một khối lưỡi lê tua tủa đang lay động, mũ sắt, cờ
xí. Khắp thành phố kéo chuông báo động.
Trong một cái hào, sau các bó củi cành,
Piotr Alekseevich khuỵu hai đầu gối nhìn vào ống nhòm. Đứng cạnh nhà vua là
viên đại tá trẻ tuổi Ivan Zidok, người vùng Oriel, trông giống một gã di-gan -
cặp mắt đen láy sáng quắc, đôi môi rung rung, hắn giận dữ nghiến răng ken két
mà không hay biết. Đêm tối ngắn ngủi; bên kia khu rừng, phía trời Đông đã ngả
dần sang màu xanh lục và sao đã lặn hết. Không thể chờ đợi thêm được nữa. Song
Piotr Alekseevich vẫn chần chừ. Bỗng Ivan Zidok thốt lên từ đáy lòng tiếng “Ồ-ồ-ồ!”
não nuột và lắc lắc cái đầu cúi gục xuống. Piotr Alekseevich nắm lấy vai hắn:
- Đi!
Ivan Zidok nhảy qua các bó củi cành, và lom
khom chạy qua bãi lầy. Ngay lập tức, một quả pháo sáng rít lên xèo xèo, bay vụt
lên trời nổ tung ra thành những đốm lửa xanh lè; một quả pháo sáng thứ hai bắn
lên, rồi một quả thứ ba. Đại bác đã ngừng bặt. Không khí im lặng đè lên mọi
người. Giữa những tảng đất màu đen nhờ nhờ đỏ, quân lính bắt đầu đứng dậy; chân
thụt xuống bùn, họ nặng nề tiến về phía cổng thành. Giờ đây, cả bãi lầy động
đậy lúc nhúc quân lính. Từ bờ sông, các đại đội tân binh Moskva lưỡi lê lăm lăm
chĩa ra phía trước đến tiếp viện cho họ...
Piotr Alekseevich hạ ống nhòm xuống, hít
không khí qua kẽ răng, nhăn mặt: “Ồ, ồ”. Từ bờ lũy bị phá vỡ, năm khẩu đại bác
còn nguyên vẹn nhả đạn thẳng vào lính thủ pháo của Ivan Zidok đang tấn công.
Một giọng điên giận, đơn độc thét lên trên bãi lầy: “Hu-ra-a-a!”...
Qua lỗ thủng của tường thành, quân Thụy
Điển nhảy ra, tựa hồ vui sướng đến điên cuồng, chỉ còn nghe thấy tiếng thét
tiếng gào, tiếng binh khí loảng xoảng. Gần bốn nghìn con người chiến đấu dưới
chân tường và trước cổng thành. Piotr Alekseevich ra khỏi hào và đi trên lớp
rêu, đôi ủng nặng mút bùn oàm oạp; nhà vua lục lọi các túi có lẽ để tìm ống
nhòm đã đánh rơi mất hay vũ khí chăng.
Viên đại tá Nesaiev bé nhỏ đến gặp nhà vua:
- Tâu bệ hạ, bệ hạ đừng lại đấy!
Hai người đều nhìn về một phía. Piotr
Alekseevich bảo hắn:
- Cho gọi thêm viện binh đến!
- Tâu bệ hạ, không cần đâu ạ.
- Ta bảo ngươi cho gọi thêm viện binh!
- Dạ, thưa không cần thiết... Quân ta đã
chiếm được các khẩu đại bác của chúng rồi.
- Ngươi nói láo!
- Dạ, thưa không, thần thấy rất rõ!
Quả vậy, một khẩu đại bác, rồi hai khẩu bắn
về phía cổng thành... Đám người đông nghịt đang chiến đấu, lay động rồi ùa vào
thành phố qua các lỗ hổng. Nesaiev nói, cặp mắt trợn trừng, giàn giụa nước mắt:
- Tâu bệ hạ, giờ thì sẽ kịch liệt đấy!
Điên tiết vì thấy cuộc tấn công khó khăn
đến thế và quân Thụy Điển đã giết mất nhiều người của họ một cách vô ích, lính
thủ pháo và tân binh Moskva đâm chém, đuổi đánh quân địch qua các ngõ hẻm đến
tận quảng trường trung tâm của thành phố. Đến đấy, trong cơn tức giận, họ giết
luôn cả bốn người lính đánh trống của viên tư lệnh thành Yuriev cử đến để đánh
hiệu trống thỉnh hàng. Và chỉ có người lính kèn trèo lên ngọn tháp của vọng lâu
thổi chiếc kèn đồng đến vỡ tung lồng ngực để xin đầu hàng mới ngăn được cuộc
chém giết lại một cách khó nhọc mà cũng không phải là ngay tức khắc.
Chương 166
Chiến thuyền Catherine đã thu buồm - thủy thủ còn lơ lửng trên các
trục buồm - lướt một hồi lâu dọc bờ sông trong bóng mát xanh um của khu rừng.
Sau một phát súng đại bác, xích neo kêu loảng xoảng: Một chiếc xuồng lập tức
tiến lại gần thuyền. Melsikov đứng trên xuồng, mình khoác áo choàng, đầu đội mũ
cắm lông chim dài. Chỉ riêng chỗ vải trang trí trên quần áo anh chàng đẹp trai
đó cũng phải mất ít nhất mười arsin dạ
Anh màu đỏ tươi.
Đứng tì vào lan can thuyền, vua Piotr nhìn
xuống. Alekxandr Danilovich khuỳnh tròn cánh tay đưa lên tai bên phải, ngả mũ
ra và sau khi vung mũ ba lần sang bên cạnh, hắn kêu lên:
- Vạn tuế! Ngài pháo thủ vạn tuế, nhân trận
chiến thắng vĩ đại của Ngài.
Piotr Alekseevich nói, giọng ồm ồm:
- Đợi đấy ta xuống gặp ngươi ngay đây. Còn
ở chỗ các ngươi có gì mới không?
- Ở chỗ chúng thần cũng có một trận thắng.
- Tốt... Nhưng ngươi có chuẩn bị những thứ
ta yêu cầu trong thư của ta không? Ở đằng kia, đến bia cũng không có lấy một
giọt?
- Hôm qua, chúng thần có nhận được ba thùng
rượu vang sông Ranh! - Melsikov nói. - Nơi doanh trại chúng thẩn thì không như
ở chỗ Seremetiev đâu, không chậm trễ mà cũng không từ chối!
- Ngươi chỉ được cái huênh hoang.
Piotr Alekseevich gọi thuyền trưởng
Nepliuev và truyền lệnh cho ngày hôm sau: lập tức sau khi các thuyền đã kéo hạm
kỳ thì cho bắn đại bác cả hai mạn, dong cờ hiệu “Đã anh dũng đoạt được” và nổi
trống đưa cờ xí Thụy Điển xuống đất liền trước toàn quân hàng ngũ chỉnh tề. Đối
với viên thuyền trưởng trẻ tuổi, lệnh đó là một vinh dự; hắn đỏ bừng mặt. Piotr
Alekseevich nhìn hắn chằm chằm khiến hắn càng lúng túng và nói thêm:
- Ngươi, đã điều khiển thuyền khá đấy, ngài
tư lệnh ạ!
Mặt Nepliuev đỏ dừ, mồ hôi vã ra, cặp mắt
sắc sảo rươm rướm ướt... Sa hoàng đã chỉ định hắn làm đô đốc tư lệnh hạm đội...
Piotr Alekseevich không nói gì thêm; duỗi thẳng đôi chân dài, giầy quệt sây sát
cả mạn thuyền sơn hắc ín, nhà vua xuống xuồng. Ngồi bên Melsikov, Sa hoàng
huých hắn:
- Ngươi đến đón ta, ta rất vui lòng. Cảm ơn...
Thế nào, ta cũng phải chúc mừng chiến thắng của các ngươi nữa đấy: các ngươi đã
đánh bại Slipenbac rồi ư?
- Đánh bại quá đi ấy chứ, Myn Herz! Anikita Repnin đã đem bộ binh
đi trên xe ngựa, xông vào đánh hắn kịch liệt ở gần Venden, còn đại tá Ron theo
lời thần khuyên đã dẫn đầu kỵ binh chặn đường không cho hắn trở về thành...
Thành thử hắn đành phải nghênh chiến ở ngoài đồng trống... Chúng thần đã đánh
bại Slipenbac đến đỗi vị anh hùng đó chỉ kịp chuồn về Revan cùng với mười tên
lính giáp kỵ.
- Dẫu sao lần này nữa, hắn cũng lại tẩu
thoát được. Chà, bọn quỷ!
- Hắn lẩn như trạch ấy... Nhưng giờ đây hắn
chẳng còn đại bác, cờ xí, quân đội, thì cái đó cũng chẳng quan trọng gì. Sau
đấy, Anikita Ivanovich trong lúc ngà ngà say đã than vãn: “Để Slipenbac chạy
thoát, thật tôi không tiếc bằng không bắt được con ngựa của hắn. Một của hiếm
đấy!”. Thần đã trách ông ta về những lời lẽ đó: “Anikita Ivanovich, thần bảo
ông ta, ông có phải là dân Tarta vùng Krym đâu mà đi bắt ngựa bằng dây thòng
lọng. Ông là một vị tướng Nga. Ông phải bàn luận như một chính khách chứ?”. Thế
là chúng thần đã cãi nhau kịch liệt... Và đây là một tin nữa: một người liên
lạc đã từ Warsawa cấp tốc phi ngựa về - vua Auguste cử sứ thần đến gặp bệ hạ
đấy... Ta tiếp vị sứ thần đó trong lâu đài ở Narva thì thật là hay... Nên
chăng, Myn Herz?
Piotr Alekseevich, mắt nhấp nháy, nghe hắn
nói chuyện huyên thuyên và gặm móng tay nhìn làn nước xanh lục.
- Ngươi đã nhận được tin tức gì của Moskva
chưa?
- Lại thêm nhiều chuyện làm bệ hạ phải lo
nghĩ đấy: một phái viên của ngài vương hầu chấp chính đã đến, đem theo cả một
tráp thư từ, giấy má... Gavrila Brovkin đã ghé qua nhà thần trên đường đi
Petersburg, hắn có đem cho bệ hạ một bức thư từ Izmailovkoe. - Piotr
Alekseevich liếc nhanh nhìn hắn. - Thần có mang bức thư theo đây, Myn Herz. Và cả bốn quả dưa thơm trồng
trong lồng kính, hắn đã bọc dưa vào trong một cái áo lông cừu. Chúng ta sẽ đem
ra ăn vào bữa tối. Hắn bảo ở Izmailovskoe người ta đang nóng lòng ngóng bệ hạ,
và còn khóc sưng cả mắt nữa kia đấy.
- À chỗ này thì ngươi nói láo.
Chiếc xuồng ghé vào bờ cát. Piotr
Alekseevich nhảy ra khỏi xuồng và trèo lên bờ sông, nơi dựng lều của Melsikov.
Họ ngồi trong lều ăn bữa tối, chỉ có hai người với nhau. Piotr Alekseevich ngồi
trên những tấm đệm lót yên ngựa, lưng khom khom, ăn uống rất nhiều, nhà vua đói
meo sau những ngày ăn ở bếp của Seremetiev.
Melsikov nhón tay lấy thức ăn trong đĩa và
uống rượu rất khỏe vừa uống vừa áp bàn tay vào cái đai lưng to bản, thắt chặt
lấy bụng; niềm nở, đôi má hồng hào, cặp mắt xanh lơ trìu mến và tinh ranh của
hắn phản chiếu ánh lửa các ngọn nến. Rất thận trọng, để tránh gây bất bình trên
khuôn mặt gầy gò và bình tĩnh của Piotr Alekseevich, hắn bắt đầu nói về vị đại
nguyên soái mới Oginvy.
- Ông ta là một nhà thông thái, cái đó khỏi
phải nói. Ông ta đã đưa từ Viên sang cả một xe ngựa đầy sách bọc da bê; sách
vứt thành đống trong lều ông ta. Thoạt tiên ông ta tuyên bố, giọng nói mới kiêu
kỳ làm sao chứ, ông ta sẽ không động đến thức ăn của ta... Khi ngủ dậy lẽ ra
uống một cốc vodka và ăn một miếng đồ nhắm thì ông ta lại đòi phải dọn cho ông
ta sô-cô-la và cà phê và bánh mì trắng. Bữa trưa thì phải có cá tươi mà không
phải bất cứ thứ nào cũng được đâu, toàn cá quả thôi, rồi thịt thú rừng này,
thịt bê này. Chúng thần cứ ngẩn cả người ra. Nhưng vì đại nguyên soái đã ra
lệnh thì chúng thần đành phải xoay xở thôi... Thần đã cử một trinh sát viên
người Phần Lan đi Revan để tìm cà-phê và sô-cô-la, thần đã lấy tiền túi đưa hắn
năm đồng duca, chúng thần đã buộc một
con bò cái vào cọc để dành riêng cho ông ta; rồi kiếm một cô gái thật sạch sẽ
để vắt sữa và làm bơ... Chúng thần đã phải xây nhà xí có cả khóa ở sau lều của
ông ta. Ông ta chẳng đưa chìa khóa cho ai cả.
Piotr Alekseevich nuốt vội một miếng đang
nhai và phá lên cười:
- Thế vì sao ta lại phải trả lương hắn ba
nghìn duca? Chính là để hắn dạy bảo
cho các ngươi là những dân châu Á mọi rợ.
- Quả là ông ta có dạy bảo chúng thần thật...
Sau ngày ông ta tới, ông ta cho gọi các đại tá của các trung đoàn đến; ông ta
chẳng hỏi tên họ mà cũng chẳng bắt tay ai hết. Vẻ mặt quan trọng, ông ta bắt
đầu kể cho chúng thần nghe là hoàng đế Áo yêu quý ông ta như thế nào, ông ta đã
chỉ huy những đội quân nào, đã bao vây những thành phố và thống chế Voban đã
nói với ông ta: “Ngươi là đồ đệ giỏi nhất của ta” và đã tặng ông ta một cái hộp
đựng thuốc lá... Rồi thì ông ta đã cho chúng thần ra về... Lẽ ra ông ta có thể
vì phép lịch sự mời chúng thần uống sô-cô-la, thế nhưng không, ông ta bảo: “Tôi
sẽ sớm viết ra giấy cách bài binh bố trận của quân ta, khi đó các ngài sẽ hiểu
phải làm như thế nào để chiếm lấy Narva”. Đến giờ, ông ta vẫn còn đang viết
đấy!
- Thôi được, được... - Piotr Alekseevich
chùi tay vào khăn lau, cầm chân một cái cốc Mardeburg làm bằng sọ dừa có trang
trí những hình thần thánh thếp vàng và vừa nói vừa vui vẻ nhếch môi, đôi mắt tối
sầm của nhà vua không mấy khi cười: - Như ở Kukui những ngày đã qua, ông bạn
thân mến ạ, chúng ta hãy ngợi ca thân phụ Baccux của chúng ta và thân mẫu chúng
ta là thần Vệ nữ ngỗ nghịch... Đưa lá thư đây cho ta!
Bức thư nhỏ xíu, đóng dấu si và tỏa hương
thơm của phụ nữ, cũng êm dịu như hương thơm của chiếc khăn tay thêu lá nho, là
của Catherine Vaxilievskaia - mặc dầu là do tay Anixia Tolstaia viết vì
Catherine không biết viết.
“Kính
gửi đấng quân vương của thiếp, nguồn ánh sáng của thiếp, niềm vui sướng của
thiếp... thiếp xin gửi đến đấng quân vương của thiếp, Người là ánh sáng và niềm
vui của thiếp, một món quà - những trái dưa thơm chín trong lồng kính ở
Izmailovskoe rất ngon... Bệ hạ hãy dùng cho thêm sức khỏe, đấng quân vương,
nguồn ánh sáng của thiếp, niềm vui sướng của thiếp và lại nữa, nguồn ánh sáng
của thiếp, thiếp mong ước được gặp bệ hạ”.
Piotr Alekseevich khẽ nói, giọng chế giễu:
- Cô ta viết chẳng được bao nhiêu... Nhưng
ta cuộc rằng cô ta đã phải suy đi nghĩ lại rất lâu, chau mày, vò mãi tạp dề đấy...
- Nhà vua uống cạn cốc rượu, vỗ đùi đánh đét một cái, rồi đứng dậy, bước ra
khỏi lều.
- Danilovich, cho gọi Makarov và cùng hắn
xem các công văn của Moskva gửi đến. Ta đi dạo một lát cho đỡ cuồng cẳng.
Buổi tối oi ả ngột ngạt: khu rừng đen ngòm
tỏa mùi nhựa thông nồng nồng. Ánh chiều tà mênh mông không tỏa sáng và ảm đạm
tắt ngóm. Đó là giờ giống chim ăn đêm cất tiếng kêu đơn độc và những con dơi
lặng lẽ bay lướt trên đầu. Đây đó khắp cánh đồng, những đống lửa trại vẫn còn
bập bùng cháy và có tiếng dây buộc hàm thiếc ngựa của đoàn tùy tùng đến cùng
với Melsikov kêu leng keng. Piotr Alekseevich tất ướt sương đến tận đầu gối,
men theo bờ sông. Thỉnh thoảng nhà vua lại dừng lại để hít một hơi dài. Đến bên
một chỗ trũng chạy thoai thoải xuống mặt nước, nhà vua dừng lại, - từ phía bên
kia bay sang một mùi gì mục trộn lẫn mùi mật ong ngây ngất. Một làn khói nhẹ
nhàng bay lên và một tiếng nói vẳng lại, rõ mồn một, - chắc đó là tiếng một gã
mã phu, một tay vào cái hạng hay bông lơn không chịu để thiên hạ ngủ yên mà chỉ
muốn một điều: bắt mọi người phải nghe những câu chuyện thật hoặc bịa của mình.
Piotr Alekseevich đang định quay lại thì
bỗng nghe thấy:
- Một mụ phù thủy, một mụ phù thủy, thôi
đi, tất cả những chuyện đó láo toét hết. Vốn nó là một con ở tầm thường, một
con lọ lem, chỉ có manh áo tã che thân... Người ta bắt được nó như thế đấy.
Ngay trong đám mugic, không phải ai
cũng muốn ngủ với nó. Thế nào Miska, tớ nói có đúng không? Tớ thì tớ đã trông
thấy nó khi còn ở với ngài đại nguyên soái... Nó chạy tót ra, đổ nước rửa bát,
chùi tay vào tạp dề rồi lại chui vào lều. Và tớ nghe thấy nó cầm dao băm... tốc
tốc, nó mũm mĩm, khéo léo... Hồi đó tớ đã nghĩ bụng cái của giăng há này thì
không sợ bị khổ đâu... Con bé khôn lắm!
Có tiếng ngốc nghếch hỏi:
- Bác này, thế rồi về sau nó ra thế nào hả
bác?
- Mày không biết gì chắc? Chà, các cụ nói
đúng thật, muốn tìm ra những thằng ngốc chẳng cần phải lội qua biển... Giờ đây
ấy à, nó ngủ với Sa hoàng của chúng ta, nó ăn vã bánh nướng nhân thịt, bánh
quế, nó ngủ hàng nửa ngày trời, còn nửa ngày kia thì vươn vai ngáp dài.
Vẫn tiếng người kia ngạc nhiên hỏi:
- Bác này, thế thì người nó chắc phải khác
thiên hạ đấy nhỉ?
- Mày cứ hỏi Miska ấy, hắn sẽ bảo cho mày
biết người nó thế nào.
Một giọng nói ồm ồm ngái ngủ đáp:
- Để cho tao yên nào, tao cũng chẳng còn
nhớ nữa.
Piotr Alekseevich thở một cách khó khăn...
mặt nóng ran vì xấu hổ... Cơn giận trào lên như một làn máu đen ngòm... Chỉ cần
nói những lời lẽ phạm thượng như vậy, vương hầu chấp chính cũng đã bắt xích lại
rồi... Bắt chúng! Thật là nhục nhã, thật là nhục nhã! Thiên hạ sẽ chê cười phải
biết! Lỗi tại ai kia? Lỗi tại chính nhà vua! Toàn thể quân đội đã chê cười rồi
kia kìa... “Nhà vua đã lấy một con đĩ lôi từ dưới người thằng Miska”.
Nhà vua cúi đầu xuống, bước một bước về
phía gã mugic lười nhác đã nếm mùi
khoái lạc đầu tiên với cô ta... Nhưng như có một sức mạnh mềm nhũn cản nhà vua
lại, níu chân tay nhà vua lại. Sa hoàng lấy lại hơi, đưa bàn tay lên vầng trán
nhớp nháp mồ hôi đang cúi xuống... “Catherine, một ả giăng há đĩ thõa...”. Nhà
vua nhìn thấy cô ta trong ý nghĩ... Nước da mịn màng, cô ta dịu dàng, ấm áp,
hiền lành, cô ta không có lỗi gì cả. “Khi ngươi lấy cô ta, ngươi đã biết tất cả
mọi chuyện về cô ta rồi kia mà! Và câu chuyện tên lính kia, ngươi cũng đã biết
rồi”.
Nhấc chân rất cao lên trên đám cỏ dại ướt
át, vua Piotr thong thả đi xuống chỗ đất trũng...
Sau làn khói, ba người đứng dậy. “Ai!” -
một giọng dữ tợn quát.
Piotr Alekseevich làu bàu:
- Ta đây...
Trong nháy mắt, những người lính, mặc dầu
sợ chết khiếp, vội vớ lấy súng và đứng nghiêm, mũi hếch lên một cách mạnh dạn,
mắt mở to nhìn Sa hoàng, tất cả đều sẵn sàng đi vào lửa đạn, sẵn sàng hy sinh.
Không hề nhìn họ, Piotr Alekseevich sục giầy vào đống lửa đã tắt.
- Đưa ta một cục than đây!
Người lính đứng giữa, anh chàng bông lơn
vừa kể chuyện quỳ xuống, bới trong đống tro, lấy một cục than nhỏ và tung tung
trong lòng bàn tay chờ Ngài pháo thủ nhồi xong thuốc lá vào tẩu. Vừa châm tẩu,
Piotr Alekseevich vừa liếc nhìn tên lính thứ ba... “Thằng này đây...”.
Một gã cao lớn, vạm vỡ, thân hình cân đối.
Nhà vua không nhìn rõ nét mặt hắn.
- Mi cao bao nhiêu. Tại sao mi không ở
trong đội cận vệ? Tên mi là gì?
Tên lính trả lời theo đúng điều lệnh nhưng
với cái giọng uể oải theo lối nói của dân Moskva - cái giọng uể oải xấc xược ấy
khiến bộ ria của Piotr Alekseevich dựng đứng lên.
- Dạ thưa Ngài pháo thủ, tên là Bludov,
Miska, thuộc trung đoàn long kỵ binh Neva, đại đội sáu, lính mã phu, tuyển mộ
năm 1699, thiếu ba versok thì cao ba arsin.
- Mi đi đánh nhau từ năm chín mươi chín mà
mi vẫn không được thăng một cấp nào sao? Mi lười biếng hay là mi đần?
Tên lính trả lời, giọng thất thần:
- Thưa ngài pháo thủ, xin tuân lệnh, con
lười biếng và đần.
- Đồ ngu!
Piotr Alekseevich thổi tắt ngọn lửa nhỏ bén
trên nõ tẩu. Nhà vua biết là hễ mình mất hút trong sương mù là bọn lính sẽ đưa
mắt ra hiệu cho nhau; chúng sẽ không dám cười đâu song chúng sẽ không khỏi liếc
nhìn nhau một cái... Đôi tay gầy chắp sau lưng, đầu ngẩng thật cao, răng cắn
cán tẩu đang tóe ra những đốm lửa, nhà vua rời chỗ đất trũng. Về đến lều, vua
Piotr ngồi vào bàn, đẩy cây nến ra xa: cổ họng khô rát, nhà vua uống rượu ừng
ực. Nhả một làn khói thuốc mù mịt quanh người, nhà vua nói:
- Danilys... Ở trung đoàn Neva, đại đội sáu
có một tên lính đáng lẽ ra phải ở trung đội cận vệ... Thật là lộn xộn.
Cặp mắt xanh lam của Melsikov không lộ vẻ
ngạc nhiên hay tinh quái mà chỉ tỏ ra thông cảm:
- Miska Bludov... Thần biết... Thần biết
hắn từ lâu rồi... Hắn đã được ban thưởng một rúp trong dịp chiếm thành
Marienburg... Viên đội trưởng đội kỵ binh không muốn nhả hắn ra. Bludov mến
ngựa và ngựa cũng mến hắn. Trong toàn quân chúng ta không đâu có ngựa khỏe mạnh
bằng ngựa của đại đội kỵ binh thứ sáu.
- Ngươi sẽ điều hắn về trung đoàn
Preobrazenski, đại đội một, cánh phải!
Chương 167
Tướng Horne từ trên vọng lâu xuống, đi qua bãi chợ; người lão dài
ngoẵng, đôi chân gầy khẳng khiu đi giầy đế bằng. Cũng như thường lệ, trước các
cửa hàng, người đông nghịt, nhưng than ôi, thực phẩm bán mỗi ngày lại càng khan
hiếm: một bó củ cải đỏ, một con mèo lột da kêu là thỏ, một ít thịt ngựa sấy.
Phụ nữ trong thành phố giận dỗi, chẳng buồn cúi chào vị tướng nữa; có người còn
quay lưng lại. Lão đã nhiều lần nghe thấy tiếng thì thầm: “Hãy đầu hàng quân
Nga đi thôi, con quỷ già kia, tại sao mi lại giam đói người ta vô ích vậy?”. Nhưng
không gì có thể làm tướng Horne nao núng được.
Lúc đồng hồ thành phố đánh chín giờ thì lão
về đến ngôi nhà nhỏ sạch sẽ của mình và chùi chân vào tấm thảm rơm đặt trên bậc
thang. Mụ hầu phòng, ăn bận sạch sẽ, ra mở cửa; mụ cúi rạp xuống chào, đỡ lấy
mũ và thanh kiếm nặng lão vừa tháo ra khỏi đai. Tướng Horne rửa tay rồi thong
thả, chững chạc bước vào phòng ăn; trong phòng, khung cửa sổ thấp lè tè choán
hết cả bề ngang bức tường, mặt kính nổi lổn nhổn hình hạt đậu chỉ để lọt qua
một thứ ánh sáng mờ mờ xanh lục và vàng khè.
Quanh bàn ăn, đứng chờ tướng Horne có vợ
lão, vốn là nữ bá tước Xpeclinh - một người khó tính - ba cô con gái lưng gù,
tóc lơ thơ, mũi dài ngoẵng như mũi bố, và một thằng bé vẻ mặt hờn dỗi, đứa con
cưng của bà mẹ.
Tướng Horne ngồi xuống, mọi người làm theo
rồi chắp tay lại, lặng lẽ cầu kinh. Khi mở nắp liễn xúp bằng thiếc, khói bốc
lên nghi ngút nhưng ngoài hơi nước ra, xúp chẳng có gì ngon lành cả - vẫn cái
thứ cháo kiều mạch, không muối, không sữa. Các cô gái rầu rĩ nuốt cháo một cách
khó khăn: thằng bé hờn dỗi đấy đĩa ra và thì thầm với mẹ: “Không, con chẳng ăn
đâu!”.
Món thứ hai dọn ra là món xương con cừu già
thịt ngày hôm qua và ít đậu hột. Để thay rượu bia, họ uống nước lạnh. Thản
nhiên như không, tướng Horne nhai thịt với bộ răng dài vàng khè.
Nữ bá tước Xpeclinh nói rất nhanh, vừa nói
vừa bẻ vụn một mẩu bánh mì lên đĩa của mình:
- Mười bốn năm nay lấy chồng, tôi đã cố lắm
mà vẫn không hiểu nổi ông, ông Karx ạ... Trong người ông có một giọt máu nào
không vậy? Ông có trái tim của người chồng, người cha không thế? Nhà vua gửi từ
Revan đến cho ông một đoàn thuyền chở dầy giăm bông, đường, cá, thịt sấy và
bánh kẹo... vào địa vị ông, một người cha của bốn đứa trẻ sẽ hành động thế nào?
Người ấy sẽ cầm gươm mở một đường máu đến chỗ thuyền và đem thuyền về thành
phố. Nhưng ông thì ông lại thích đứng trên vọng lâu đưa con mắt bình thản quan
sát bọn lính Nga ăn sống nuốt tươi giăm bông Revan như thế nào... Còn các con
tôi thì phải cố nuốt cháo kiều mạch đến chết nghẹn... Tôi đã nói đi nói lại mãi
rồi! Ông có một cục đá ở chỗ trái tim ấy! Ông là một con quái vật! Lại còn cái
chuyện bất hạnh về trận đánh giả kia nữa! Bây giờ tôi đâu còn dám giơ mặt ra
với châu Âu nữa! Người ta sẽ bảo tôi: “À bà là vợ ông tướng Horne trứ danh đã
bị quân Nga xỏ mũi kéo đi như người ta lừa cái quân ngu ngốc ở ngoài chợ đấy
phải không!”. Tôi sẽ trả lời: “Hỡi ôi, hỡi ôi”. Ông cũng không biết rằng trong
thành phố mụ bán hàng nào cũng gọi ông là con cò già đậu vắt vẻo trên vọng lâu...
Sau cùng thì, niềm hy vọng độc nhất của chúng ta là tướng Slipenbac muốn đến
giúp ta thì lại tử trận ở Venden - còn ông thì như không có chuyện gì xảy ra,
ông cứ ngồi đây mà bình tĩnh nhai thịt cừu dai ngoách, làm như ngày hôm nay là
ngày sung sướng nhất đời ông không bằng... Không, đủ rồi! Ông phải để cho tôi
với mấy đứa trẻ về Stockholm, về triều.
- Muộn rồi, thưa bà, muộn mất rồi! - Horne
nói.
Và cặp mắt trắng đục của lão, trừng trừng
nhìn cửa sổ dường như cũng chỉ để lọt qua rất ít ánh sáng, chẳng khác gì những
ô kính xù xì hột đậu kia vậy.
- Chúng ta đã bị nhốt chặt trong thành
Narva như trong một cái bẫy chuột rồi.
Nữ bá tước Xpeclinh, hai tay túm lấy cái mũ
nhỏ bằng đăng-ten đội trên đầu, kéo sụp xuống trán.
- Bây giờ thì tôi đã hiểu ông muốn gì rồi:
ông muốn cho những đứa con khốn khổ của tôi và tôi, phải ăn cỏ và thịt chuột
chứ gì?
Thằng bé hờn dỗi bật cười và nhìn mẹ, mấy
cô con gái cúi gằm cái mũi đang sụt sịt xuống đĩa. Tướng Horne hơi ngạc nhiên;
thật là oan uổng: lão nào có muốn cho con cái phải ăn cỏ và thịt chuột! Tuy
nhiên, vẫn cứ bình tĩnh như thường, lão ăn xong bữa trưa.
Đinh thúc ngựa của Bixtrom, viên sĩ quan
phụ tá của lão, gõ loảng xoảng ngoài cửa đã được một lúc lâu rồi. Hiển nhiên là
có chuyện gì mới xảy ra.
Tướng Horne cầm lấy cái tẩu bằng đất để
trên thành lò sưởi, nhồi thuốc lá, đánh bật lửa, châm một mẩu giấy vào bấc, hít
một hơi thuốc rồi mới rời khỏi phòng ăn.
Bixtrom cầm kiếm và mũ của tướng Horne
trong tay, hơi hổn hển một chút, nói:
- Thưa đại nhân, có một sự vận động đột
nhiên diễn ra bên doanh trại quân Nga mà chúng tôi không hiểu ý nghĩa ra sao?
Tướng Horne lại đi qua bãi chợ một lần nữa,
một đám đông lo lắng đứng đầy bãi. Lão ngẩng cao đầu không muốn nhìn mặt đám
thị dân đã gọi lão là con cò già. Lão leo lên cầu thang bậc đã mòn nhẵn, đi lên
vọng lâu. Quả thật có điều gì khác thường đang xảy ra trong doanh trại quân
Nga: trên khắp các công sự hãm thành hình móng ngựa bao vây chặt chẽ thành phố,
quân lính dàn thành hàng hai. Thoạt tiên, lão chỉ nhận thấy lính long kỵ binh
phi trên những con ngựa nhỏ. Cách một quãng là Sa hoàng Piotr và Melsikov cưỡi
ngựa theo sau.
Đám bụi vàng khè bốc lên dưới vó ngựa của
đội kỵ binh dày đặc đến đỗi tướng Horne phải nhăn mặt...
Đằng sau Sa hoàng và Melsikov, quân lính
phi ngựa, giơ thật cao mười tám lá cờ bằng xa tanh vàng phấp phới ở đấu cán...
Trong nẹp cờ quằn quại mười tám con sư tử (1) uất ức vươn chân.
Các đội kỵ binh, Sa hoàng, Melsikov cùng
các lá cờ Thụy Điển phi ngựa diễu qua trước đội quân công thành đang gân cổ man
rợ gào lên: “Hura! Chiến thắng!”
-------------
Chú thích:
(1)
Vương miện của vua Thụy Điển.
Chương 168
Không khí hân hoan tràn ngập doanh trại quân Nga. Từ pháo đài Gloria
người ta nhìn thấy súng đại bác nổ xung quanh lều Sa hoàng. Theo số loạt đạn
bắn, có thể đếm được những lời tung hô chúc mừng.
Tướng Horne vốn không lạ gì tính huênh
hoang của quân Nga, biết thế nào họ cũng cử một sứ giả đến nói những lời ngạo
mạn. Quả đúng như vậy. Từ trong lều Sa hoàng bỗng ùa ra một đám chừng bốn chục
người tay vung cao cốc, chén; một người trong bọn họ nhảy lên ngựa phi nước đại
về phía pháo đài Gloria, một tên lính kèn cưỡi ngựa theo sau. Lái ngựa để tránh
đạn, sứ giả rút ra một chiếc khăn tay, lấy mũi thanh kiếm vừa tuốt ra khỏi bao,
giơ chiếc khăn lên và dừng lại ở dưới chân vọng lâu; tên lính kèn ngồi yên ngựa
ngửa cổ ra sức thổi kèn khiến bầy quạ đang bay qua phải kinh hoảng.
- Để ta nói! Để ta nói! - Sứ giả kêu lên. -
Ta là trung tá Karpop, thuộc trung đoàn Preobrazenski. - Y say mèm, mặt đỏ gay,
tóc bị gió thổi bù lên.
Tướng Horne từ trên vọng lâu cúi xuống đáp:
- Nói đi, ta nghe dây. Ta vẫn có đủ thì giờ
để giết ngươi.
Viên trung tá, khuôn mặt hớn hở, ngẩng lên
nói to:
- Ta bảo cho các ngươi biết! Thứ sáu trước,
nhờ ơn Chúa phù hộ, đại nguyên soái Seremetiev đã đánh chiếm thành Yuriép. Thể
theo lời van xin của viên trấn thủ và để biểu dương sự chống cự dũng cảm của
họ, chúng ta đã để cho các tướng tá được giữ kiếm lại và một phần ba quân lính
được giữ súng nhưng không được giữ đạn. Nhưng chúng ta đã chiếm cờ xí và quân
nhạc của họ.
Bixtrom cao giọng dịch lại, các sĩ quan
đứng sau Horne nhìn nhau phẫn nộ. Một người giận sôi lên hét:
- Thằng chó Nga kia, nó nói láo!
Khoát rộng tay, trung tá Karpop chỉ căn lều
đằng xa ở đó vẫn có những người đứng, tay cầm cốc chén!
- Các ngài Thụy Điển, việc hòa giải này
chẳng hơn các trận chiến đấu nhục nhã ở Sluxenburg, Niensan và Yuriev sao? Đã
như vậy, thống tướng nguyên soái Oginvy đề nghị các ngài hãy nộp thành Narva
với những điều kiện danh dự... Quân sứ của các ngài được mời đến trình diện
ngay tại căn lều kia... Rượu đã rót đầy cốc và đại bác đã nạp đạn sẵn để chào
mừng.
Tướng Horne trả lời, giọng trầm trầm:
- Không! Ta sẽ tiếp tục chiến đấu! - Khuôn
mặt với đôi má hóp và cái mũi to vì tuổi già, trắng bệch, đôi bàn tay gân guốc
run lên. - Ngươi hãy cút ngay! Ba phút nữa ta sẽ ra lệnh bắn.
Karpop vung kiếm lên chào, nói to với tên
lính kèn: “Mi về đi!”, nhưng bản thân y thì lại không phóng ngựa trở về mà tế
ngựa tới gần phía bên kia vọng lâu. Bọn sĩ quan Thụy Điển lao tới các lỗ châu
mai. Karpop hét to:
- Trong bọn các ngươi, đứa nào là thằng kẻ
cướp, thằng mất dạy đã chửi ta, một sĩ quan Nga, bảo ta nói dối đấy? Này tên
thông ngôn kia, dịch lại nhanh lên! Thế thì nếu mi có can đảm, mi hãy ra ngoài
này, chúng ta sẽ đấu tay đôi với nhau trên cánh đồng.
Bọn sĩ quan la hét inh ỏi. Một gã trong bọn
chúng béo phục phịch, mặt mũi bỗng đỏ gay lên, hắn vung quả đấm từ trong đám
bạn hắn đi ra. Cò súng kéo lách cách. Karpop cúi rạp mình trên cổ ngựa, phi
nước đại rời xa vọng lâu, tiếng súng nổ đuổi theo y, đạn rít vèo vèo. Cách
khoảng chừng hai trăm bước, y dừng lại, và vừa thúc vừa kìm ngựa, y đợi địch
thủ... Sau một lúc khá lảu, bản lề cổng thành rít lên ken két, cầu treo hạ
xuống và tên sĩ quan to béo thúc ngựa chạy qua cánh đồng về phía Karpop. Hắn
cao hơn, ngựa hắn lớn hơn, và thanh kiếm Thụy Điển dài hơn thanh kiếm Nga đến
hai tấc. Để ra quyết đấu, tên sĩ quan Thuỵ Điển đã mặc áo giáp sắt, còn từ bên
trong chiếc áo chẽn cởi tung khuy của Karpop, xổ ra từng mớ đăng ten bay phất
phơ trước gió.
Theo tục lệ, trước khi xông vào đánh nhau,
hai đối thủ còn chửi nhau một chập đã; một bên thì hung dữ sủa lên những lời lẽ
ghê rợn, bên kia thì liền thoắng văng ra những câu chửi tàn tệ của dân Moskva...
Đôi bên hối hả rút súng ngắn ra khỏi bao ở bên yên, thúc ngựa, xông tới. Hai
tiếng súng nổ cùng một lúc. Tên sĩ quan Thụy Điển cầm nhanh thanh kiếm chĩa
thẳng ra xa trước mặt, Karpop làm như các kỵ binh Tarta, luồn qua dưới mũi con
ngựa, phi quành ra sau, và nổ khẩu súng ngắn thứ hai của mình. Răng tên sĩ quan
Thụy Điển va vào nhau lập cập, hắn làu nhàu, rồi một lần nữa, lại xông vào đối
phương, hung dữ đến nỗi Karpop chỉ nhờ có con ngựa của y chồm lên che lấp y nên
mới thoát chết: lưỡi kiếm của đối thủ cắm ngập sâu vào cổ con vật:
- Chà, thế là mình mất con ngựa rồi, - y tự
nhủ, - đánh bộ mình sẽ không đương nổi mất...
Nhưng tên Thụy Điển như thể buồn ngủ rũ
xuống, buông đốc kiếm lảo đảo, lấy tay trái lục trong túi yên ngựa để rút khẩu
súng ngắn thứ hai, Karpop nhảy xuống đất tránh con ngựa đang ngã gục, và lấy
kiếm chém luôn mấy nhát vào sườn tên Thụy Điển bên dưới áo giáp và y thở hồng
hộc nhìn tên Thụy Điển cứ mỗi lúc một đảo mạnh hơn trên yên ngựa...
- Cái thằng quỷ này khỏe như vâm, nó không
muốn chết!
Và y khập khiễng chạy về bên quân mình.
Bóng tối ban đêm đã trùm lên cánh đồng,
sương rơi tí tách, tiếng súng đã im ắng từ lâu, những đống lửa trại do các hỏa
đầu quân nhóm lên đang bốc khói, mọi sinh vật đều sửa soạn nghỉ ngơi, song
doanh trại quân Nga vẫn không yên lặng. Ở địa giới phía Tây, nơi có bắc một cái
cầu, các đốm lửa chuyển động mỗi lúc một nhiều, có tiếng lệnh truyền và tiếng
ầm ầm đều đều của nhiều người: “Dô ta nào!”. Các đống lửa trại, ánh lửa đuốc,
và ánh sáng đèn lồng đã di chuyển thật xa trên hữu ngạn con sông Narova gần sát
thành Ivan-gorod, và chẳng mấy chốc những ánh lửa đó, có cái đứng im, có cái di
dộng, đã nhiều hơn cả những vì sao uy nghi trên bầu trời tháng tám.
Tang tảng sáng, từ trên đỉnh các ngọn tháp
của thành Narva, người ta có thể trông thấy trên con đường đi Ivan-gorod những
cỗ xe bò tiếp tục kéo những khẩu đại bác công thành to tướng và những khẩu súng
cối. Một phần số súng đã vượt qua cầu nhưng phần lớn thì rẽ ngang và dừng lại
bên hữu ngạn, tại nơi tập trung quân lính.
Sáng hôm đó, tướng Horne đi ngựa vào thành
phố cũ đến pháo đài danh dự, giáp bờ sông. Lão trèo lên một bờ lũy cao xây bằng
gạch được coi là kiên cố không thể phá được. Từ đó, lão có thể nhìn thấy bằng
mắt những con quái vật bằng đồng lắp trên bánh xe bằng gang, lão có thể đếm
được số lượng của chúng và dễ dàng hiểu ra ý đồ của Sa hoàng Piotr và lỗi lầm
của chính bản thân lão. Lần này, quân Nga cũng lại lừa được lão, một con người
đã già đời và dày dạn kinh nghiệm.
Lão đã bỏ qua hai điểm yếu trong hệ thống
phòng ngự của mình; pháo đài Danh dự được coi là không ai phá nổi, mà rồi đại
bác công thành mới của quân Nga sẽ phá sập trong vài ngày, và pháo đài Victoria
bảo vệ thành phố về phía sông, cũng bằng gạch song đã cũ, xây từ thời Ivan Hung
đế. Suốt hai tháng ròng quân Nga đã đánh lạc sự chú ý của lão, giả vờ chuẩn bị
tấn công các công sự kiên cố của thành phố mới. Trong khi đó thì, không còn
nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công đang được chuẩn bị tại đây. Tướng Horne nhìn
hàng ngàn quân lính Nga đang hối hả đào đất và đặt các khẩu pháo tấn công đối
diện với các pháo đài Danh dự, Victoria và Ivan-gorod; pháo đài Ivan-gorod bảo
vệ bến sông. Quân Nga chuẩn bị cuộc xung phong từ bên kia sông, bằng các cầu do
thuyền, bè ghép lại.
- Tốt lắm, sự thể đã rõ, những chuyện đùa
cợt ngu xuẩn đã chấm dứt, chúng ta sắp đánh nhau rồi, - tướng Horne làu nhàu đi
đi lại lại trên bờ lũy, dáng đi nom trẻ hẳn lại. - Về phía chúng ta, chúng ta
sẽ đưa lên hàng đầu lòng dũng cảm của người Thụy Điển. Thế cũng không phải là
ít ỏi đâu.
Lão quay về phía nhóm sĩ quan.
- Hỏa ngục sẽ ở đây! - lão nói, dậm mạnh
úng xuống đất. - Nơi đây chúng ta sẽ giơ ngực ra đón những quả trái phá Nga!
Quân Nga đang chuẩn bị khẩn trương, ta cũng phải làm như vậy. Tôi ra lệnh tập
hợp tất cả những người có thể cầm được xẻng trong thành phố lại. Nếu tường
thành đổ, chúng ta sẽ chiến đấu trên các bờ lũy bên trong, chúng ta sẽ chiến
đấu trong các đường phố... Tôi sẽ không nộp thành Narva cho quân Nga!
Đêm đó mãi khuya tướng Horne mới trở về
nhà. Ở bàn ăn, hàm răng to của lão nhai mãi một thứ thịt dai nhanh nhách. Nữ bá
tước Xpeclinh nghe thấy những lời trò chuyện ở ngoài chợ, đã hoảng sợ đến nỗi
mụ nín lặng, nghẹn ngào vì tức giận. Thằng bé hờn dỗi vừa nói, vừa quệt ngón
tay ướt lên gờ đĩa:
- Bọn trẻ con nói là quân Nga sẽ cắt cổ tất
cả mọi người.
Tướng Horne uống một ngụm nước, châm tẩu
thuốc vào ngọn nến, vắt chéo chân và đáp:
- Con ạ, điều quan trọng đối với con người
là làm tròn bổn phận của mình. Còn ngoài ra thì hãy phó thác mọi việc cho lòng
từ bi của Chúa.
Chương 169
Giá phải một bản tài liệu nào khác cũng dài và chán ngắt như bản này
thì có lẽ Piotr Aleksee vich đã quẳng qua bàn cho viên thư ký Makarov:
- Đọc đi rồi trình bày nội dung cho ta một
cách sáng sủa vào.
Nhưng đây lại là bản bài binh bố trận do
đại nguyên soái Oginvy thảo ra. Vì đã phải trả lương cho hắn từ ngày mồng một
tháng năm và hiện giờ hắn cũng chưa làm được gì khác nên cái bản tài liệu ấy đã
làm Ngân khố tốn bảy trăm duca, chưa
kể cỏ rơm cho ngựa và lương thực. Piotr Alekseevich vừa rít cái tẩu nhỏ kêu
sòng sọc, vừa ho khục khặc, kiên nhẫn đọc công trình của vị đại nguyên soái,
viết bằng tiếng Đức.
Những con nhặng xanh, nắc nẻ, bay vờn xung
quanh các ngọn nến, lăn xả vào ngọn lửa, cháy xém và ngã lăn ra, nằm đầy trên
đống giấy tờ để bề bộn trên bàn; một con bướm đêm to bằng nửa con chim sẻ, quay
cuồng, suýt nữa dập tắt mất các ngọn nến. Piotr Alekseevich giật mình vì ông
không ưa những con vật kỳ quái và vô ích, nhất là gián. Makarov trật bộ tóc giả
và chồm lên đuổi con bướm ra khỏi lều.
Ngồi gần Piotr Alekseevich, cặp đùi ngắn
ngủn giạng ra là Piotr Paplovich Safirov từ Moskva đến cùng với vị đại nguyên
soái, - vóc người y thấp lùn, cặp mắt ươn ướt tươi cười, rất tinh đối với mọi
việc xảy ra. Piotr Alekseevich để ý thăm dò y đã lâu, liệu y có đủ thông minh
để thành một người tôi trung không, sự giảo hoạt của y có nhằm vào những việc
lớn không, y có tham lam quá lắm không? Ít lâu nay, Safirov từ chỗ là một người
thông ngôn bình thường làm việc cho Bộ các sứ quán đã trở thành một nhân vật
lớn ở đó, mặc dầu không có chức tước gì.
- Ông ta lại làm rối bét cả rồi! - Piotr
Alekseevich vừa nói vừa nhăn mặt. Safirov giơ đôi bàn tay nhỏ nhắn đeo đầy nhẫn
lên, đứng phắt dậy khỏi ghế, cúi xuống và dịch rất nhanh và rất chính xác cái
đoạn tối nghĩa. - A, chỉ có thế thôi à? Thế mà ta lại cứ tưởng là có gì ghê gớm
lắm. - Nhà vua chọc cây bút lông ngỗng vào lọ mực và viết nguệch ngoặc mấy chữ
bên lề bản tài liệu. - Theo ta, thế này đơn giàn hơn... Này Piotr Paplovich,
ngươi là người biết rõ đại nguyên soái, hãy nói ta nghe, ông ta có phải là
người giỏi không?
Khuôn mặt có cái cằm xanh của Safirov nở
bạnh ra, nom tinh quái như mồm con quỷ. Y không trả lời, không phải vì thận
trọng, mà vì y biết là cặp mắt của vua Piotr nhìn chằm chằm không chớp, dù sao
cũng sẽ đọc được ý nghĩ của y.
- Tâu bệ hạ, binh sĩ phàn nàn về ông ta, họ
nói là ông ta kiêu kỳ quá. Ông ta không đời nào lại gần một người lính, ông ta
kinh tởm họ... Thần không hiểu người lính Nga có gì là đáng kinh tởm. Cứ vén áo
của bất cứ người lính Nga nào lên mà xem - mình mẩy hắn sạch sẽ, trắng trẻo.
Còn rận thì chỉ có quân mugic của
đoàn xe vận tải họa chăng là có thôi... Chà, cái dân Áo ấy! Sáng nay, thần có
qua chỗ ông ta: ông ta đang rửa mặt trong một cái chậu nhỏ, ông ta rửa cả tay
cả mặt vào cùng một chậu nước rồi khạc nhổ vào trong đó. Thế mà ông ta lại kinh
tởm chúng ta. Từ khi ở Viên đến, ông ta chưa hề tắm một lần nào.
- Chưa một lần nào, chưa một lần nào, -
Safirov vừa cười rũ rượi, vừa lấy đầu ngón tay che miệng. - Ông ta kể với thần
là ở bên Đức, khi một ông lớn nào cần rửa ráy, người ta bưng chậu nước đến và tùy
theo trường hợp, ông ta rửa chân hay rửa tay vào chậu. Còn như tắm táp thì ông
ta coi đó là phong tục của dân man rợ... Ngài đại nguyên soái gớm nhất là ở ta,
nông nô cũng như quý tộc đều ăn nhiều tỏi giã, tỏi băm và tỏi sống... Những
ngày đầu ông ta đã lấy khăn tay bịt mũi.
- Thật à? - Vua Piotr ngạc nhiên. - Sao
ngươi không bảo cho ta biết sớm hơn? Kể ra chúng ta ăn nhiều tỏi thật đấy; mà
ăn tỏi có lợi cho sức khỏe chứ, ông ta rồi cũng phải quen đi.
Nhà vua vứt lên bàn bản tài liệu vừa đọc
xong, vươn vai, vặn xương kêu răng rắc rồi bỗng bảo Makarov:
- Này, đồ man rợ, hãy dọn cái của nợ trên
bàn này đi, dọn những ruồi nhặng này đi... Bảo đem rượu và cái ghế cho ngài đại
nguyên soái. Mà này, Makarov, ngươi có thói xấu: khi nghe, ngươi cứ thở hơi tỏi
vào mặt người ta... Quay ra phía khác mà thở.
Đại nguyên soái Oginvy bước vào lều, đầu
đội bộ tóc giả màu vàng, mình bận áo chẽn trắng đính lon vàng, đi ủng cao bằng
da mềm, mép ủng bẻ xuống bên dưới đầu gối. Một tay ông ta nâng mũ lên, tay kia
giơ cái gậy cúi chào và ngay sau đó, đứng thẳng hẳn lên. Piotr Alekseevich
không đứng dậy, xòe rộng bàn tay chỉ cái ghế:
- Ngồi xuống, sức khỏe thế nào?
Safirov lanh lẹn tiến lại gần và mỉm một nụ
cười ngọt sớt thông ngôn lại. Đại nguyên soái rất đĩnh đạc ngồi xuống, bụng
phưỡn ra, người hơi nằm ngửa trên ghế; ông ta nhắc bàn tay cầm gậy ra xa. Bộ
mặt ông ta bì bì, vàng vọt, một bộ mặt tiều tụy, cặp môi mỏng, duy cái nhìn của
ông ta thì nom hết sức can trường, không thể nói khác được.
- Ta đã đọc bản bày trận của nhà ngươi, kể
thì lý luận đúng đấy. - Piotr Alekseevich rút tấm bản đồ thành phố để ở gầm bàn
lên và trải ra; tức thì nhặng và nắc nẻ sà ngay xuống. - Ta chỉ phản đối có một
điều: phải chiếm lấy Narva không phải trong ba tháng mà là trong ba ngày! - Nhà
vua gật đầu và mím môi lại.
Bộ mặt vàng vọt của vị đại nguyên soái chảy
dài tựa hồ có ai đứng đằng sau đã giúp ông ta làm như vậy, cặp lông mày đỏ bẻm
nhếch lên tận bộ tóc giả, hai bên mép trễ xuống, cặp mắt ông ta lộ vẻ công
phẫn.
- Thôi được! Ta đã nói tuột ra mất rồi: ba
ngày. Ta hãy mặc cả và thỏa thuận với nhau là một tuần vậy. Nhưng ta không cho
ngươi nhiều thì giờ hơn đâu. - Piotr Alekseevich giận dữ búng những con bọ lổm
ngổm trên tấm bản đồ. - Ngươi đã chọn một cách khôn khéo các vị trí đặt đại
bác. Nhưng ngươi bỏ quá cho, chính ta vừa mới ra lệnh chĩa tất cả các khẩu pháo
ở bên kia sông vào các pháo đài Victorva và Danh dự, vì đó là chỗ yếu của tướng
Horne.
- Tâu bệ hạ, - Oginvy giận sôi lên, nói to.
- theo bản kế hoạch, chúng ta sẽ bắt đầu bằng trận pháo kích và tấn công vào
Ivan-gorod kia mà.
- Không chúng ta sẽ không làm thế... Chính
tướng Horne mong chúng ta sẽ dềnh dàng mãi cho đến mùa thu với pháo đài
Ivan-gorod. Nhưng thật ra, pháo đài này chẳng cản trở gì chúng ta cả, ngoài
việc bắn vài phát đại bác vào các cầu phao của ta... Ngươi sợ vua Charles đến
cứu viện là chí phải... Năm 1700, quân cứu viện của vua Charles đã làm ta mất
cả đạo quân cũng trên những vị trí này đây... Ngươi chuẩn bị một cuộc phàn kích
đánh quân cứu viện nhưng nó tốn kém mà phức tạp lắm và ngươi dành quá nhiều
thời gian vào đấy... Cách đánh quân cứu viện của ta là chiếm lấy Narva cho thật
nhanh... Phải tìm chiến thắng trong sự mau lẹ chứ không phải trong sự thận
trọng... Bản kế hoạch của ngươi là kết quả rất mực khôn ngoan của khoa học quân
sự và khoa luận lý của Arixtot... Nhưng ta thì ta cần có Narva ngay như kẻ đói
cần một mẩu bánh mì... Kẻ đói không chờ đợi được.
Oginvy đưa khăn tay lụa lên lau mặt. Trí óc
ông ta thật khó mà theo kịp cách lập luận của gã trai trẻ man rợ kia, song lòng
tự trọng không cho phép ông chấp thuận mà không hề tranh cãi gì. Mồ hôi ông ướt
đẫm chiếc khăn tay.
- Tâu bệ hạ, - Ông ta nói, - hạnh vận đã có
lòng ưu đãi hạ thần khi hạ thần đánh chiếm được mười một thành trì và thành
phố. - Nói rồi, ông vứt khăn tay vào trong cái mũ để trên thảm - Sau trận tấn
công Namur, thống chế Voban đã hôn thần và nói rằng thần là người học trò giỏi
nhất của người. Trên bãi chiến trường giữa đám thương binh đang rên xiết, người
đã trao tặng thần hộp đựng thuốc lá của người. Khi lập bản kế hoạch tác chiến này,
thần đã không hề bỏ qua chút nào những kinh nghiệm quân sự của mình, thần đã
cân nhắc và đắn đo hết thảy. Thần xin mạo muội khẳng định rằng chỉ đi chệch một
chút những điều suy luận của thần cũng có thể gây ra những hậu quả nguy hại.
Quả thật, tâu bệ hạ, thần có kéo dài thời gian công thành song le cũng vì lý do
độc nhất là thần lập luận rằng hiện giờ người lính Nga chưa phải là một người
lính mà mới chỉ là một tên mugic cầm
súng. Hắn chưa hề có một chút khái niệm nào về trật tự và kỷ luật. Còn phải
giần xác hắn nhiều nữa mới buộc được hắn phục tùng mệnh lệnh mà không lý sự lôi
thôi, đúng như một người lính. Khi ấy thì thần mới có thể tin chắc được rằng
cây trượng nguyên soái của thần đã ra hiệu là hắn sẽ lấy một cái thang leo ngay
lên tấn công tường thành dưới làn mưa đạn.
Oginvy tự nghe mình nói một cách thích thú;
mắt nhắm lại như một con chim. Safirov dịch những lời lập luận rắc rối của ông
ta ra tiếng Nga rành mạch. Oginvy nói xong, liếc nhìn vua Piotr: lập tức, quên
cả vẻ đạo mạo đĩnh đạc, ông ta vội vàng co chân vào gầm ghế, thót bụng lại và
hạ cánh tay cầm gậy xuống.
Vẻ mặt vua Piotr Alekseevich nom thật khủng
khiếp, - cổ nhà vua dường như dài ra gấp đôi, những thớ thịt dữ tợn hằn lên ở
hai bên mép, đôi môi mím chặt và cầu Chúa phù hộ độ trì cho, cầu Chúa hãy phù
hộ độ trì cho - các nữ thần thịnh nộ của hỏa ngục như đang sẵn sàng từ trong
cặp mắt trợn trừng xông ra. Nhà vua thở hổn hển. Bàn tay to gân guốc thò ra
ngoài ống tay áo quá ngắn, đặt giữa đám bươm bướm chết, đang tìm kiếm một vật
gì... Nắm được cái bút lông ngỗng, bàn tay bẻ gãy luôn.
- À à lính Nga là một gã mugic cầm súng! - nhà vua nói, giọng tức
nghẹn lại. - Ta không thấy có cái gì là xấu cả. Người mugic Nga thông minh, biết điều, can đảm... Và súng trong tay, hắn
thật là ghê gớm đối với kẻ thù... Bấy nhiêu điều không đáng để cho người ta lấy
gậy đánh đập hắn đâu? Hắn không biết trật tự hả? Không, hắn biết đấy. Mà khi
hắn không biết thì không phải lỗi tại hắn, mà lỗi tại người tướng... Và nếu cần
phải lấy gậy đánh lính của ta thì ta đây sẽ đánh, chứ không phải nhà ngươi!
Tướng Samber, tướng Repnin và Alekxandr
Danilovich Melsikov bước vào lều. Họ cầm lấy mỗi người một cốc rượu vang từ tay
Makarov đưa mời và tiện đâu ngồi đấy. Vua Piotr đứng trước các ngọn nến và vừa
xua ruồi nhặng vừa đưa mắt xem bản viết của đại nguyên soái và những lời ghi
chứ bên cạnh, kẻ những đường thẳng và đánh dấu bằng bút chì lên bản đồ.
Nhà vua đọc cho hội đồng quân sự nghe cách
bày trận mà chỉ vài giờ sau sẽ khiến toàn quân, các khẩu đội và đoàn xe vận tải
chuyển động.
Chương 170
Những người đàn bà đầu tóc rũ rượi xông vào ngựa của tướng Horne. Họ
túm lấy dây cương, bàn đạp bám vào tà áo chẽn bằng da... Người gầy đét, đen sì
vì khói của đám cháy, mắt trợn ngược, họ la hét:
- Nộp thành đi, hãy nộp thành đi!
Quân giáp kỵ - đội hộ vệ của lão - mặt sa
sầm, cũng bị chẹn lại, không tài nào đến chỗ lão được... Tiếng gầm thét của đại
bác Nga làm rung chuyển nhà cửa nơi quảng trường ngổn ngang kèo cột cháy đen,
gạch ngói vỡ. Trận pháo kích kéo dài đã sáu ngày nay rồi. Hôm qua, tướng Horne
đã thẳng tay bác bỏ lời đề nghị phải chăng và nhã nhặn của đại nguyên soái
Oginvy đưa ra, nhằm tránh cho thành phố những sự khủng khiếp của một cuộc xung
phong và cơn cuồng nộ của các đạo quân sẽ tràn vào. Để trả lời, tướng Horne đã
vo tròn bức thư của dại nguyên soái, ném vào mặt sứ giả. Cả thành phố đã biết
chuyện đó. Viên tướng đưa cặp mắt lờ đục như thể kéo màng, nhìn mặt những người
đàn bà đang gào thét, - những khuôn mặt méo xệch đi vì sợ hãi, đói khát - bộ
mặt của chiến tranh là thế đó! Lão rút kiếm ra và lấy bản kiếm đập vào đầu mọi
người, và giục ngựa. Đám đàn bà kêu lên:
- Giết chúng tôi đi, hãy giết chúng tôi đi!
Cứ dày xéo chúng tôi cho chết đi!
Lão lão đảo - họ đang lôi lão ra khỏi yên
ngựa... Vừa lúc đó một tiếng ầm ầm khủng khiếp nổ vang, khiến trái tim sắt đá
của lão cũng phải rung lên. Phía sau các mái ngói của thành phố cũ, vọt lên một
cột khói lửa vàng khè và đen ngòm: Các hầm thuốc súng đã nổ tung.
Cái tháp cao của tòa thị sành cũ kỹ nghiêng
ngả. Tiếng gào thét cuống cuồng nổi dậy, thiên hạ chạy tán loạn vào các ngõ
ngang, quảng trường vắng tanh. Tướng Horne đặt thanh kiếm nằm ngang trên yên,
thúc ngựa phi về phía pháo đài Danh dự. Từ bên kia sông, đạn trái phá bay tới,
to dần lên trông thấy, vạch thành những đường bay đột ngột, rít lên rơi vào mái
những ngôi nhà có đầu hồi nhô ra bên trên đường phố, rơi vào các ngõ hẻm quanh
co, xoáy tít rồi nổ tung... Tướng Horne luôn chân thúc cặp đinh thúc ngựa to
tướng vào bên sườn rớm máu của con ngựa khiến nó thỉnh thoảng lại lồng lên.
Một đám bụi và khói mù mịt phủ kín pháo đài
Danh dự. Tướng Horne nhìn thấy những đống gạch vụn, những khẩu đại bác đổ lật,
những con ngựa nằm chổng bốn vó lên trời và một lỗ hổng to tướng về phía quân
Nga.
Các bức tường đã đổ sập tan tành đến tận
móng, viên chỉ huy trung đoàn mình mẩy xám xịt cát bụi và bị thương ở mặt tiến
lại, tướng Horne bảo hắn:
- Ta ra lệnh cho ngươi chặn quân giặc lại.
Viên sĩ quan liếc nhìn lão ra điều oán
trách hay có lẽ là mỉa mai cũng nên... Tướng Horne quay đi, thúc ngựa phóng qua
những ngõ hẻm chạy về phía pháo đài Victoria. Mấy lần lão đã phải đưa ống tay
áo da lên che mặt để tránh lửa của các ngôi nhà đang bốc cháy. Khi gần đến nơi,
lão nghe thấy tiếng gào rú của những viên đạn trái phá đang bay. Quân Nga bắn
rất trúng. Những bức tường gần bị phá sập của pháo đài bị cong lên, tung lên
trời rồi rơi xuống.
Tướng Horne xuống ngựa. Tên lính mặt tròn
vành vạnh, nước da hồng hào, cầm lấy dây cương và cố tình tránh không nhìn
thẳng vào mặt lão. Tướng Horne lấy nắm tay đeo găng của mình đấm cho hắn một
cái vào cằm, rồi lão leo lên một đống gạch vụn, trèo lên một mảnh tường chưa
đổ. Từ nơi đó, lão trông thấy trận xung phong đã bắt đầu.
Melsikov chạy trên chiếc cầu nổi giữa đám
tân binh bé nhỏ của trung đoàn Inghecmanlan, vừa chạy vừa vung kiếm lên và hò hét
inh ỏi. Tất cả quân lính cũng đều làm như vậy. Từ trên tường thành cao của pháo
đài Ivan-gorod, những khẩu đại bác bằng gang bắn tới tấp vào họ: những quả trái
phá rẽ không khí rơi xuống nước ầm ầm, bay vèo vèo, qua trên đầu. Đến đầu cầu
Melsikov nhảy lên tả ngạn và quay lại: hắn dậm chân, phất vạt chiến bào:
- Tiến lên! Tiến lên!
Đám tân binh, túi đeo ở lưng khiến người
nom như gù, chạy thành đám dày đặc trên cái cầu đã lún võng xuống. Song
Melsikov có cảm giác như họ vẫn dậm chân tại chỗ...
- Nhanh lên! Nhanh lên!
Và như một người say rượu, hắn văng ra
những câu chửi rủa dữ tợn mà hắn vừa mới đặt ra.
Ở trên bờ bên trái, trên dải đất hẹp ngăn
cách bờ sông với bức tường ẩm ướt của pháo đài Victoria, chỗ đứng không được
bao nhiêu; quân lính đã vượt được qua cầu, chen chúc nhau, xô đẩy nhau, đi chậm
lại và tỏa ra mùi mồ hôi nồng nặc. Melsikov bèn chạy bì bõm dưới nước ngập lên
đến đầu gối, vượt qua đoàn quân:
- Trống đâu, tiến lên! Cờ đâu, tiến lên!
Giờ đây đại bác của pháo đài Ivan-gorod bắn
qua sông, nã vào đám quân Nga, văng trúng vào người họ nghe phầm phập... Chân
trượt, tay chới với, các hàng đầu đã leo lên được những đống gạch vụn của lỗ
hổng rồi trèo lên đỉnh... Tiếng trống nổi lên... Tiếng hò reo càng to, ào ào
trên đầu đoàn tán binh đã leo lên tới mặt tường thành. Đằng xa, phía bên kia,
một giọng nói khàn khàn gào lên một hiệu lệnh bằng tiếng Thụy Điển. Một loạt
súng nổ xé trời... Tất cả mọi thứ biến mất trong đám khói... Vượt qua lỗ hổng ở
tường thành quân tán binh ào ào ùa vào thành phố. Đội quân xung phong thứ nhì
tiến qua trước mặt tướng Samber. Hắn cưỡi một con ngựa rất cao; con ngựa ngúc
ngoắc đầu theo nhịp trống đánh.
Samber mặc áo giáp đồng đánh bóng bằng
gạch, hắn chỉ đem ra dùng trong những dịp long trọng: hắn đã bỏ cái mũ sắt nặng
ra cầm ở tay để quân lính có thể nhìn thấy rõ bộ mặt hắn đỏ gay với cái mũi
khoằm, nom giống như một quả trái phá đỏ rực. Giọng bình thản và khàn khàn, hắn
nhắc đi nhắc lại:
- Hỡi quân Nga dũng cảm, tiến lên... Hỡi
quân Nga dũng cảm, tiến lên!
Đi đầu đội quân, - vượt qua cánh đồng cò
tiến về phía pháo đài Danh dự, - một tiểu đoàn của trung đoàn Preobrazenski
đang chạy, quân lính toàn những người cao lớn, để ria rậm, béo tốt, đội mũ ba
cạnh nhỏ chụp xuống tận lông mày, lưỡi lê cắm ở đầu súng, đã được lệnh chỉ đâm
mà không bắn. Trung tá Karpop dẫn đầu tiêu đoàn. Y biết mọi người đang nhìn y,
cà quân Nga lẫn quân Thụy Điển nấp trong lỗ hổng. Y tiến tới, áo quần lịch sự,
ngực ưỡn ra như một con chim bồ câu, mũi hếch lên trời, không ngoái đầu nhìn
lại tiểu đoàn của y. Sau lưng y, bốn người lính đánh trống, thẳng tay nện dồn
dập tang trống căng da lừa. Họ còn cách lỗ hổng toang hoác trong bức tường
thành dày xây bằng gạch, chừng năm chục bước.
Karpop không dấn bước, chỉ hơi so vai lên.
Thấy vậy, quân lính mất nhịp bước đều người đi sau thúc vào lưng kẻ đi trước. “Tờ-rùng, tùng tùng, tờ-rùng, tùng, tùng”
tiếng trống đánh dồn. Trong lỗ hổng, mũ sắt, nòng súng từ từ nhô lên. Karpop
thét lớn:
- Vứt vũ khí xuống, quân khốn kiếp, hãy đầu
hàng đi!
Rồi một tay cầm kiếm, tay kia cầm súng
ngắn, y xông vào trước mũi súng... Một tia chớp lóe lên; súng nổ ầm ầm, phả
khói thuốc súng vào mặt y. Y mừng thầm:
- Thế là ta văn còn sống ư?
Y gạt bỏ nỗi sợ hãi phút trước đã làm cho
vai y phải so lại. Y khao khát chiến đấu... Nhưng quân lính đã vượt lên trước
rồi. Y hoài công tìm kiếm một kẻ địch để vung kiếm xông vào... Y chỉ nhìn thấy
những tấm lưng to bè bè của binh sĩ trung đoàn Preobrazenski đang xỉa lưỡi lê
như cầm chĩa xúc rơm, theo kiểu nhà nông.
Cánh quân thứ ba - cánh quân của Anikita
Ivanovich Repnin - cầm thang lao tới xung phong lên pháo đài Gloria đã bị phá
vỡ đến một nữa. Từ trên tường thành, quân bị bao vây bắn rất rát, ném đá và lao
kèo cột xuống: chúng đốt những thùng nhựa thông để đổ lên đầu quân tấn công.
Anikita Ivanovich cưỡi con ngựa bé nhó, bồn
chồn dậm chân tại chỗ, trước mặt ngọn tháp; hai tay áo to tướng xắn cao, ông ta
vung nắm đấm nhó nhắn lên và hét bằng một giọng yếu ớt để cổ vũ quân sĩ; ông ta
lo họ nao núng khi đứng ở trên thành. Một người trong bọn họ, rồi một người
nữa, rồi vài người nữa bị chém trúng, bị đâm xuyên qua người, ngã nhào từ trên
mặt tường xuống... Nhưng nhờ ơn Chúa phù hộ, từng đám quân sĩ dày đặc bừng bừng
giận dữ đã leo lên thang. Quân Thụy Điển chưa kịp trút các thùng nhựa thông bốc
cháy thì quân ta đã lên tới mặt tường thành rồi.
* * *
Nữ bá tước Xpeclinh túm lấy cánh tay lũ
con, dường như cứ mỗi lần mụ lại muốn đếm lại chúng. Mụ choàng đứng dậy, lắng
tai nghe ngóng, - tiếng súng nổ và tiếng la thét giận dữ của những kẻ đang
chiến đấu đội tới mỗi lúc càng gần hơn... Mụ vặn tay và miệng dúm lại, căm uất
thì thầm:
- Chính ngươi đã muốn thế, đồ quái vật,
chính ngươi, ngươi, con người ương bướng, lòng lang dạ thú!
Mấy đứa con gái vừa kêu vừa khóc:
- Mẹ ơi, mẹ im đi, đừng nói thế....
Thằng bé thấy các chị nó khóc, ấn nắm tay
vào miệng.
Có tiếng bánh xe ngựa lăn ầm ầm gần đấy, nữ
bá tước chạy bổ ra cửa sổ, - một con ngựa què một chân, khập khiễng kéo một cỗ
xe hai bánh chở đầy các thứ linh tinh; một lũ phụ nữ ôm gói, ôm bọc chạy theo
sau... Họ kêu lên:
- Vào lâu đài, vào lâu đài, trốn đi!
Bốn người lính khiêng một cái cáng đi qua...
Rồi lại có thêm nhiều cáng nữa, rất nhiều: mặt mũi thương binh nhợt nhạt như
sáp... Rồi mụ thấy một ông già lưng còng đeo một cái bị - lão ta là một người
giàu có, có tiếng tăm, chuyên nghề cầm cố đồ đạc. Lão hấp tấp bước đi kéo lết
đôi dép, tay ôm một con lợn con kêu eng éc... Thình lình lão vứt cả lợn, cà bị
đâm đầu bỏ chạy... Gần đấy, một tấm kính vỡ loảng xoảng... “Ôi” - một giọng đau
đớn kêu lên... Mãi tít cuối quãng trường mụ nhác thấy tướng Horne. Lão vẫy tay
chỉ một cái gì đó.
Quân giáp kỵ nặng nề phi ngựa qua trước mặt
lão. Tướng Horne lấy kiếm đập mấy lần vào sườn con ngựa đang lảo đảo. Khuôn mặt
đen sạm của lão để lộ cà hàm răng nhe ra như một con sói, và nhấp nhổm rất cao
trên yên ngựa, lão phi biến vào một ngõ ngang.
- Karx! Karx!
Nữ
bá tước chạy ra phòng ngoài, mở cánh cửa trông ra phố:
- Karx! Karx!
Vừa lúc đó, mụ trông thấy quân Nga, - họ đi
tới, men sát tường, trong quảng trường vắng tanh vắng ngắt và nhòm ngó các cửa
sổ. Họ có những bộ mặt bè bè, tóc dài và trên mũ lông có đính con chim ưng bằng
đồng.
Nữ bá tước sợ chết khiếp, sững sờ nhìn quân
Nga đến gần, họ chỉ trỏ mụ và lá cờ tướng treo trên cổng. Quân lính vây quanh
mụ vừa giơ tay chỉ trò vừa quát tháo... Một gã nom gớm chết, có bộ mặt bẹt, gạt
mụ ra để vào nhà... Khi hắn xô mụ như xô một mụ đàn bà tầm thường ngoài chợ,
thì tất cả lòng căm hờn ứ nghẹn trong lòng mụ bấy lâu nay, nổ bùng ra - lòng
căm hờn người chồng già đã đầu độc cả cuộc đời mụ, bao nhiêu đau khổ và hãi
hùng... Nhe nanh vươn móng, mụ nhảy bổ vào người lính có bộ mặt bẹt và kéo gã
ra khỏi phòng ngoài; vừa rít lên vừa lắp bắp vì tức nghẹn lên cố, mụ cào cấu
mặt mày mắt mũi gã, cắn xé gã, lấy đầu gối thúc vào người gã.
Tên lính vùng vẫy cuống cuồng để cố thoát
khỏi tay mụ đàn bà phát khùng... Hai người ngã lăn ra đất... Bạn đồng đội của
tên lính, kinh ngạc trước thái độ điên cuồng của người đàn bà và cùng nổi xung
lên, xông lại cứu bạn: cuối cùng họ gỡ được hai người ra; khi họ lùi lại thì mụ
nữ bá tước nằm úp sấp mặt xuống đất, đầu nghẹo sang một bên, mặt mũi tím bầm
nom khủng khiếp... Một người lính cầm gấu xiêm đã bị tốc lên kéo xuống chân mụ,
một người khác quay phắt về phía ba đứa con gái nhỏ và thằng con trai đang đứng
trên ngưỡng cửa. Thằng bé, dẫm chân đành đạch, khóc không ra tiếng, không có
nước mắt... Người lính nói:
- Quỷ bắt chúng nó đi! Anh em ơi chuồn đi
thôi!
Trong khoảng ba khắc đồng hồ, mọi việc đã
xong xuôi. Như một trận cuồng phong, quân Nga ào ào ùa vào quảng trường, vào
các đường phố của thành Narva cũ. Không thể nào chặn hay đẩy lùi họ lại được
nữa.
Tướng Horne ra lệnh cho quân của mình rút
lui về lũy đất ngăn cách thành phố cũ với thành phố mới. Lũy cao và dày, lão hy
vọng các trung đoàn của Sa hoàng Piotr sẽ phải đổ máu tưới đẫm bờ lũy dốc đứng.
Tướng Horne ngồi trên ngựa, đầu ngựa rũ xuống tận gần vó. Ngọn gió mát mẻ nổi
lên thổi bay phần phật lá cờ hiệu đuôi nheo của lão; màu vàng đen, cắm ở đầu
một cái cán dài. Dăm chục lính giáp kỵ mặt mũi lầm lì đứng im không nhúc nhích
theo hình móng ngựa sau lưng lão. Từ trên mặt lũy, lão nhìn thấy mấy khu phố.
Quân đội sẽ phải rút lui qua phía đó, nhưng phố xá vẫn vắng tanh. Tướng Horne
nhìn và chờ đợi, cắn cắn đôi môi,mày cau lại, và kìa, ở đầu một đường phố rồi ở
đầu một đường phố khác, có những bóng người bé nhỏ đang chạy, mỗi bước là một
bước nhảy.
Tướng Horne không hiểu nổi. Những người đó
là ai và tại sao họ lại nhảy như vậy? Quân giáp kỵ sau lưng lão bắt đầu rì rầm
sì sào. Một kỵ sĩ xuất hiện, phóng nước đại tới. Hắn nhảy xuống ngựa dưới chân
lũy và tay phải đỡ bàn tay trái máu me bê bết, hắn trèo lên bờ lũy dốc đứng. Đó
là viên sĩ quan phụ tá Bixtrom; không gươm, không súng, không mũ, một vạt áo
quân phục rách toạc:
- Thưa tướng quân! - hắn ngẩng bộ mặt như
điên như dại về phía lão. - Thưa tướng quân! Chao, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi!
- Ta nghe đây, trung úy Bixtrom, ngươi hãy
nói cho bình tĩnh!
- Thưa tướng quân, quân ta đã bị bao vây.
Quân Nga chém giết điên cuồng. Tôi chưa bao giờ thấy một cuộc tàn sát như vậy...
Thưa tướng quân, mời ngài hãy chạy về lâu đài.
Tướng Horne cảm thấy bối rối. Giờ lão mới
hiểu ra những người vừa chạy qua phố ở đằng xa kia là ai. Ý nghĩ của lão vốn
chậm chạp và thường đưa đến những quyết định vững chắc, lần này làm đầu óc lão
rối bời. Lão không thể quyết định gì được. Chân lão tuột ra khỏi bàn đạp, thõng
xuống đến quá dưới bụng con ngựa.
Lão cũng không định thần lại được, ngay cả
khi lão nghe thấy những tiếng kêu lo sợ của đội quân giáp kỵ của lão... Hai bên
lũy dày, quân Cô-dắc râu xồm, đội mũ lông cáo, lệch xuống mang tai nom rất
ngang tàng, phi nước đại lao vào với những tiếng hò reo mỗi lúc một to. Họ vung
những thanh gươm cong và giơ những khẩu súng trường nhằm bắn. Để khỏi nhìn thấy
cái cảnh ghê rợn đó. Bixtrom úp mặt vào mình con ngựa của tướng Horne. Quân
giáp kỵ nhìn nhau rồi bắt đầu rút kiếm ra, vứt xuống đất và xuống ngựa.
Đại tá Ron, mồ hôi nhễ nhại phi ngựa đến
đầu tiên và túm lấy dây cương con ngựa của tướng Horne.
- Tướng Horne, ngươi là tù binh của ta!
Khi ấy như một người mơ ngủ, lão nhấc bàn
tay cầm kiếm lên và để lấy thanh kiếm, đại tá Ron phải dùng sức kéo từng ngón
tay của viên tướng co quắp trên đốc kiếm.
* * *
Giá không có mặt đại nguyên soái Oginvy thì
Piotr Alekseevich đã phóng đến chỗ quân sĩ từ lâu rồi; trong có ba khắc, họ đã
hoàn thành một việc mà nhà vua đã chuẩn bị từ bốn năm nay, cái việc khiến nhà
vua phải băn khoăn lo nghĩ, day dứt nhà vua như một vết thương sưng tấy...
Nhưng làm thế nào được? Cần phải xử sự đúng như một vị hoàng đế, theo tục lệ
châu Âu chứ. Piotr Alekseevich vẫn nghiêm trang ngồi trên con ngựa trắng; nhà
vua bận quân phục trung đoàn Preobrazenski có đai, đội mũ ba cạnh mới bằng
nhung có đính quân hiệu, tay cầm ống nhòm tì vào hông bên phải. Từ nơi đây,
trên đỉnh ngọn đồi, không còn có gì mà xem nữa. Gương mặt nhà vua lộ vẻ uy nghi
đường bệ. Sự việc này có một tầm quan trọng đối với toàn châu Âu đấy; thử nghĩ
mà xem! Đánh chiếm được một trong những pháo đài bất khả xâm phạm nhất thế
giới.
Tướng tá phi ngựa đến, vua Piotr hất hàm
chỉ Oginvy, và báo cáo với đại nguyên soái về biến diễn của trận đánh... Bao
nhiêu phố xá, quảng trường đã bị chiếm... Quân ta tiến như một bức tường, đâu
đâu quân địch cũng phải rút chạy hỗn loạn. Cuối cùng ba sĩ quan phóng ngựa qua
cái cổng bị phá vỡ của pháo đài Gloria, phi nước đại về, Oginvy giơ một ngón
tay lên nói:
- Ồ! Họ đem tin mừng đến, thần đoán vậy?
Viên chỉ huy đội quân Cô-dắc đến trước
tiên, ngựa vẫn đang đà phi nhanh, y đã nhảy xuống và ngẩng bộ râu đen nhánh về
phía vua Piotr, nói to:
- Tướng Horne, tư lệnh thành Narva, đã nộp
gươm đầu hàng.
- Tốt lắm! - Oginvy thốt lên.
Và ông ta lịch sự khoát bàn tay xỏ găng
bằng da nai trắng mời Piotr Alekseevich:
- Tâu bệ hạ, kính mời bệ hạ quá bộ vào
trong thành, thành đã thuộc về bệ hạ.
Vua Piotr rảo bước đi vào gian phòng lớn
của tòa lâu đài trần cuốn vòm... Nhà vua dường như cao lên, lưng ưỡn thẳng; nhà
vua thở mạnh... Tay cầm thanh kiếm tuốt trần... Sa hoàng giận dữ lườm Alekxandr
Danilovich, áo giáp sắt của hắn bị đạn bắn lồi lõm méo mó, nét mặt hắn nom phờ
phạc, tóc đẫm mồ hôi, cặp môi khô nẻ; Sa hoàng nhìn tướng Repnin bé nhỏ, đang
hể hả mỉm cười với cặp mắt xếch; Sa hoàng nhìn đại tá Ron, hắn đã có thì giờ
nốc một cốc rượu vang, đôi má đỏ ửng của hắn chứng tỏ điều đó; Sa hoàng nhìn
tướng Samber, nom hí hửng dường như hôm đó chính là ngày lễ mừng sinh nhật y.
Piotr Alekseevich hét lên bảo họ:
- Ta muốn biết tại sao cuộc chiến đấu vẫn
chưa chấm dứt trong thành phố cũ? Tại sao lại để cướp phá thành phố như vậy? -
Nhà vua giơ cánh tay cầm thanh kiếm. - Ta đã chém một tên lính của ta... Hắn
say mèm và đang lôi một đứa con gái... - Nhà vua quăng mạnh thanh kiếm lên bàn.
- Ngài pháo thủ, trung úy Melsikov, ta phong ngươi làm thống đốc của thành phố...
Ta hạn cho ngươi một giờ: phải chấm dứt việc đổ máu và cướp bóc. Ngươi phải lấy
đầu ngươi, chứ không phải lưng đâu, mà đảm bảo việc đó.
Melsikov tái mặt và lập tức đi ra, kéo lết
theo sau chiếc chiến bào rách. Anikita Repnin nói, giọng nhỏ nhẻ:
- Quân địch đã xin hàng quá chậm vì thế nên
rất khó kìm quân sĩ của ta lại. Họ nổi xung lên, thật là tai họa... Các sĩ quan
thần phái đi phải túm lấy tóc họ mới giải tán được họ... Chính dân chúng cũng
cướp bóc trong thành phố.
- Hãy tóm lấy những tên ăn cướp và treo cổ
chúng lên làm gương!
Piotr Alekseevich ngồi vào bàn nhưng lại đứng
dậy ngay. Đại nguyên soái Oginvy đang bước vào; theo sau ông ta, hai người lính
và các sĩ quan dẫn tướng Horne.
Không khí trở nên im lặng; chỉ nghe thấy
tiếng lách cách thong thả của đôi cá sắt hình hoa khế ở đinh thúc ngựa của
tướng Horne. Lão bước lại gần Sa hoàng Piotr, ngẩng mặt lên và đưa cặp mắt đùng
đục nhìn tránh đi nơi khác; miệng lão co dúm méo xệch... Mọi người đều trông
thấy; vua Piotr giật bàn tay khỏi mặt bàn phủ dạ đỏ và nắm chặt tay lại, vai
nhà vua rung lên vì kinh tởm; nhà vua đứng như vậy chẳng nói chẳng rằng một lúc
lâu đến nỗi mọi người nín thở hết cả hơi. Oginvy sợ hãi, bước tới một bước.
Cuối cùng vua Piotr thấp giọng dằn từng tiếng:
Cuối cùng vua Piotr thấp giọng dằn từng tiếng:
- Đừng hòng ta trọng đãi ngươi! Đồ ngu! Đồ
sói già! Đồ dã thú ương ngạnh...
Bỗng nhà vua đưa mắt nhìn đại tá Ron.
- Dẫn nó vào nhà giam, bắt nó đi bộ qua
khắp thành phố để cho nó thấy cái công trình thảm hại tự tay nó gây ra... (*)
---------------
(*) Aleksey Tolstoy đã chết trước khi
hoàn thành cuốn truyện này.
1929 - 1945
Hết
Tuesday, 17 April, 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét