Pie Đệ Nhất
Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000
Tiểu sử
& chú thích
Dịch theo bản tiếng Pháp của Alice Orena,
Aleksey Nicolaievich Tolstoy sinh ngày
10-1-1883 tại thành phố Nikolaievsk, tỉnh Samara miền hạ lưu sông Volga , trong một gia đình quý tộc nhỏ có truyền thống văn
học. Năm 1901, ông lên Petersburg
theo học trường kỹ thuật, năm 1907 xuất bản tập thơ đầu tiên, nhưng ít lâu sau
chuyển sang viết văn xuôi.
Năm 1914-1916, ông làm phóng viên chiến
tranh.
Từ 1918 ông sống lưu vong ở Pháp.
Năm 1923 ông trở về nước Nga, tình nguyện
đứng vào hàng ngũ những trí thức tham gia công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ông mất ngày 23-2-1945 tại nhà an dưỡng Barkhivinsky, ngoại ô Moskva, thọ 63
tuổi.
Chương 1
Xanka nhảy từ ổ nằm trên bếp lò (1) xuống đất, lấy người đẩy cánh cửa
ẩm sũng. Sau Xanka đến Laska, Gavrinka và Artamoska cũng tụt nhanh xuống đất,
bỗng cả bọn đều thấy khát; chúng nhảy ùa vào lối cửa đi tối om, theo làn hơi và
khói từ ngôi nhà gỗ thum thủm mùi chua bay ra mù mịt. Ánh sáng xanh mờ xuyên
qua làn tuyết phủ kín khuôn cửa sổ nhỏ lọt vào nhà. Trời rét như cắt. Chậu nước
và chiếc gáo gỗ đã bị băng phủ kín.
Mấy đứa trẻ chân không nhảy choi choi; đầu
Xanka choàng khăn vuông; Gavrinka và Artamoska phong phanh chiếc áo lót cũn cỡn
đến ngang rốn.
Từ trong ngôi nhà gỗ, bà mẹ tru tréo:
- Đóng cửa lại, đồ quỷ sứ!
Bà ta đang đứng trước lò. Trong lò, những
thanh củi nhỏ bắt lửa, hắt ánh sáng rực lên khuôn mặt nhăn nheo. Dưới chiếc
khăn vuông rách, đôi mắt mờ đi vì khóc nhiều, lúc này sáng ngời, khủng khiếp y
như mắt tượng thánh. Xanka, đột nhiên thấy rờn rợn, chẳng hiểu tại sao, liền
ráng hết sức đóng sầm cánh cửa lại, sau đó, cô múc nước thơm uống một hớp, nhấm
nhấm một cục nước đá rồi cho các em uống. Cô thì thầm:
- Chúng mày có rét lắm không? Nếu không đi
ra sân mà xem, bố đang đóng ngựa đấy...
Ngoài sân, ông bố đang đóng ngựa vào xe
trượt tuyết. Từ vòm trời nặng trĩu, những bông tuyết nhỏ lặng lẽ rơi; những con
quạ khoang đậu trên hàng rào cao; ở đây đỡ giá hơn lối vào ngôi nhà gỗ. ông bố
là Ivan Artemist - bà mẹ thường gọi như vậy, còn mọi người thì gọi bác ta là
Ivaska và chính bác cũng tự xưng như thế ở nơi công chúng - biệt hiệu là
Brovkin, đầu đội chiếc mũ lông cao, nhọn hoắt, ấn sụp xuống tận cặp lông mày
cau có. Bộ râu hung hung đỏ chưa được nhát lược nào kể từ ngày lễ Kháng cáo...
Đôi bao tay thò ra ở chỗ hở của chiếc áo dài bằng len thô, thắt trễ ngang lưng
một sợi dây thừng; đôi giầy bện bằng vỏ gai của bác bực dọc bước lạo xạo trên
tuyết trộn lẫn phân: bác không làm sao gỡ nổi bộ yên cương. Bộ yên cương nát
quá, chỗ nào cũng chắp nối.
Bác bực mình, mắng con ngựa nhỏ đen nhẫy,
chân ngắn cũng như chân chủ, bụng to tướng.
- Rồi tao sẽ cho mày giỡn, đồ chết tiệt?
Mấy đứa trẻ ra ngay chân thềm nhà tè một
bãi và co ro nép vào nhau ở trên thềm nhà đóng băng mặc dầu chúng rét căm căm.
Artamoska, đứa nhỏ nhất lắp bắp:
- Không sao cả, lát nữa chúng mình lại vào
sưởi ở bếp lò!
Đóng ngựa xong, Ivan Artemist cho ngựa uống
nước chứa trong một cái thùng. Con ngựa uống một hơi dài, đôi sườn lông lá căng
lên như muốn bảo chủ: “Ông đã không cho tôi ăn no thì ít ra tôi cũng phải được
uống thỏa thuê...”.
Ivan xỏ bao tay vào, rút lấy chiếc roi để
trong xe, dưới lớp rơm. Bác quát bọn trẻ:
- Muốn sống vào trong nhà ngay lập tức! -
Bác nghiêng mình ngồi phịch xuống xe, cho xe đi qua cổng rồi cho ngựa chạy nước
kiệu theo dọc hàng tùng cao vút lốm đốm tuyết phủ, về phía dinh cơ của lãnh
chúa trẻ Volkov.
- Chà, sao mà rét thế nầy, thật buốt thấu
xương! - Xanka nói.
Mấy đứa trẻ ùa vào ngôi nhà gỗ tối mò và
leo lên ổ trên bếp lò, hai hàm răng lập cập.
Dưới trần nhà đen kịt, làn khói ấm, hanh
hanh, bốc lên cuồn cuộn, rồi thoát qua cửa sổ lùa khoét ở trên phía cửa ra vào:
cái bếp lò không có ống khói. Bà mẹ đang nhào bột.
Dẫu sao thì gia đình cũng đủ ăn: họ có một
ngựa, một bò cái và bốn gà mái. Mọi người vẫn bảo Ivaska Brovkin là một bác
nông dân khá giả. Khi những thanh củi trên giá đèn (2) cháy lụi, tàn rơi lả tả
xuống chiếc cóng nhỏ đựng nước kêu xèo xèo, Xanka kéo chiếc áo lông cừu đắp lên
người mình và cho các em, rồi lại thì thào kể tiếp đủ mọi thứ chuyện khủng
khiếp: cô kể cho các em nghe về những cái giống, - lạy Chúa, ai mà dám gọi đến
tên thật của chúng - cứ lào xào dưới sàn nhà lúc đêm khuya...
- Thì mới đây thôi, tao mà nói dối thì tao
mù mắt, tao đã bị một mẻ sợ hết hồn... Cạnh bậu cửa, có một đống rác và trên
đống rác, có một cái chổi bện bằng cành bạch dương. Tao nhìn thì, ôi lạy Chúa
tôi! Tao thấy cái thằng lông lá ấy từ dưới cái chổi lù lù hiện ra, râu như râu
mèo.
- Ối ối, ối! - bọn trẻ hoảng sợ chúi đầu
vào trong cái áo lông cừu kêu ầm lên.
-------------
Chú thích:
(1) Bếp lò ở Nga thường xây cao, bằng gạch
hoặc bằng đá, để sưởi ấm nhà và để nấu ăn. Mặt bếp lò phẳng. người Nga hay kê
ván làm giường nằm lên trên cho ấm.
(2) Nông dân Nga thời xưa thắp những thanh
củi nhỏ (thường bằng gỗ thông) để thay đèn.
Chương 2
Con đường lờ mờ trên tuyết, xuyên qua rừng. Những cây thông cổ thụ
che lấp cả vòm trời.
Quãng này thật là khó đi lại, chỗ thì cây
cối đổ rạp, chỗ thì bụi rậm um tùm. Năm kia, khu vực này về tay Vaxili tức là
Volkov trẻ, - con một nhà quý tộc làm quan ở Moskva, khi hắn ta ra ở riêng. Bộ Công
thổ đã cấp cho Vaxili bốn trăm năm mươi dexiatin (1) với ba mươi bảy nông dân
và gia đình họ.
Vaxili đã cho dựng một ngôi nhà nhưng vì
mắc nợ nên phải đem ruộng đất cầm cho tu viện. Các tu sĩ cho hắn vay lãi rất
nặng - những hai mươi kopek (2) một rúp. Mà bổn phận hắn lại là phải phục vụ Sa
hoàng, hắn phải có một con ngựa tốt, một bộ áo giáp, một thanh gươm, một khẩu
súng hỏa mai và đem theo ba chiến binh, cũng cưỡi ngựa, nai nịt áo chẽn và mang
gươm, cung cùng một túi tên đầy... Với số tiền vay được của tu viện, Vaxili
phải vất vả lắm mới sắm nổi ngần ấy trang bị. Nhưng rồi lại còn phải nuôi bọn
gia nhân. Rồi trả lãi cho các tu sĩ nữa.
Ngân khố của Sa hoàng chẳng tha gì ai. Mỗi
năm lại thêm một lệnh mới, nhiều thứ thuế mới - nào thuế lương thực, thuế đường
xá, nào tiền cống nạp, tiền đảm phụ. Như vậy thử hỏi còn gì nữa? Và bao giờ thì
anh lãnh chúa cũng là có lỗi: người ta trách anh nhu nhược không chịu đốc thuế.
Nhưng khốn nỗi người nông dân chỉ có một lần da: làm thế nào đòi tuốt da hắn
những hai lần được. Những vụ loạn lạc, những cuộc chiến tranh thời cố Sa hoàng
Aleksey Mikhailovich đã làm cho Nhà nước nghèo khốn. Từ khi tên cuồng khấu đã
bị rút phép thông công là Xtenka Razin (3) hoành hành khắp nơi thì nông dân đã
quên khuấy mất Chúa Trời. O ép quá chút nữa, họ sẽ nhe răng ra như chó sói cho
mà xem. Để tránh sưu cao thuế nặng, họ đã phải trốn xuống vùng sông Đông, chẳng
làm cách nào mà lôi được họ về, dù có ra lệnh hoặc điều quân đến cũng vậy thôi.
Con ngựa băm ton lon, tuyết phủ đầy mình.
Cành cây vướng vào vai cổ ngựa làm tung lên một đám bụi tuyết. Những con sóc
đuôi bùm tum, mình dán vào các thân cây, giương mắt nhìn người khách qua đường
- trong rừng lúc nhúc những con vật nhỏ này.
Ivan Artemist ngả mình trên xe suy nghĩ;
người nông dân chỉ còn lại có thế thôi: suy nghĩ... “Thế đấy... hết dâng cái này
lại cúng cái khác... Hết nộp cho ông nọ, lại đóng tiền cho ông kia... Nhà nước
mà như nhà nước chúng ta thì thật là một cái vực thẳm! Tài nào mà đổ cho đầy
được? Dân ta đâu có ngại việc, dân ta làm cật lực không hề ta thán. Còn như bọn
quý tộc ở Moskva thì lúc này đây vẫn đang nghênh ngang xe ngựa thếp vàng. Thế
là lại phải trả tiền xe cho chúng nữa, cho cái bọn quỷ ăn no phưỡn bụng ấy.
Thôi được rồi... Cần cái gì thì cứ việc mà lấy, nhưng đừng có cắt cổ người ta...
Là vì các ông bạn ạ, lăm le lột da con người ta những hai lần là ăn cướp đấy.
Bọn viên chức của Sa hoàng lúc nầy đông như kiến cỏ. Cứ nhổ một bãi là nhất
định trúng phải một thằng thơ lại hoặc một thằng chủ quán rượu, thằng nào cũng
viết đơn viết từ được cả... Và người nông dân thì thân cô thế cô. Ồ, các ông
bạn ạ, tớ cũng đến phải chuồn mất thôi dù cho thú rừng có cắn gãy xương đi
chăng nữa, thì chết vẫn còn hơn chịu cái cảnh bị cướp bóc này... Cứ cung cách này
thì không tài nào cung phụng các bố được lâu nữa đâu”.
Ivaska Brovkin suy nghĩ như vậy và có lẽ
bác ta còn suy nghĩ khác nữa kia. Bỗng có một chiếc xe trượt tuyết từ trong
rừng đổ ra đường cái. Digan (biệt hiệu của người đó), - một nông dân khác của
Volkov - tóc đen có một mớ đã hoa râm, đang quỳ trên xe. Mười lăm năm ròng rã,
bác ta đã bỏ trốn đi tha phương, gặp đâu có công việc thì làm. Nhưng rồi người
ta ban hành một đạo dụ: trả lại cho các chúa đất tất cả các nông dân đi trốn,
dù dã bỏ trốn từ bao nhiêu lâu rồi cũng mặc. Người ta tóm được Digan ở vùng lân
cận Voronez là nơi bác đang làm ruộng và đem trả lại cho Volkov bố. Bác lại bỏ
trốn lần nữa, - nhưng rồi lại bị bắt, có lệnh trên truyền xuống là lấy roi quất
cho bác một trận không thương tiếc rồi đem tống giam, - trong dinh cơ của
Volkov - và đợi đến bao giờ da đã liền sẹo thì lại quất cho một trận nữa không
thương tiếc và lại tống giam lần nữa, để cho thằng khốn kiếp, cái thằng kẻ cướp
ấy, chừa hẳn cái thói đào tẩu đi. Digan phải xin vào làm trong lãnh địa của
Vaxili mới thoát được tội.
- Chào bác, - Digan vừa cất tiếng, vừa trèo
sang xe trượt tuyết của Ivan.
- Chào bác. Có chuyện gì lạ không?
- Chuyện nào thì cũng chẳng có gì tốt cả...
Digan rút một bên bao tay ra, đưa tay lên
vuốt ria mép, rồi đến râu cằm để cho một nụ cười hóm hỉnh.
- Tôi gặp một người ở trong rừng: hắn bảo
rằng Sa hoàng đang hấp hối.
Ivan Artemist kinh hãi, nhỏm dậy, bác dừng
ngựa lại: “Hở...”, bỏ mũ ra và làm dấu:
- Vậy ai sẽ được đưa lên ngôi Sa hoàng bây
giờ?
- Chỉ có mỗi chú bé Piotr Alekseevich thôi,
hắn bảo thế. Nhưng chú bé ấy mới rời vú mẹ chưa được bao lâu.
- Vậy thì, người anh em ạ! - Ivan kéo sụp
chiếc mũ lông xuống, tuyết đọng trên mí mắt trắng xóa - vậy thì, người anh em ạ...
Thời kỳ thống trị của bọn chúa đất sắp bắt đầu rồi... Thế là chết cả nút thôi...
- Có thể là như thế, mà cũng có thể là sẽ
không phải như thế, - Digan ngồi sát vào người bạn đồng hành và nháy mắt, -
Người đó nói với tôi rằng, rồi sẽ có loạn cho mà xem, chắc chắn là như vậy...
Cũng có thể đời sống còn tươi, còn có bánh mì trắng mà ăn. - Chúng mình đâu có
phải là bọn non nớt gì... - Digan nhe hàm răng dã thú ra, phá lên cười và ho
vang động cả khu rừng. Một chú sóc buông mình rời khỏi thân cây, vọt qua đường;
tuyết rơi lả tả; một luồng cơ man những kim nhỏ li ti lấp lánh trong tia nắng
xiên khoai. Vầng trái dương to lồ lộ, đỏ chói, lơ lửng ngay trên đầu đường, bên
trên một quả đồi, trên những hàng giậu cao, những mái nhà dốc đứng và những làn
khói từ dinh cơ của Volkov bốc lên.
-------------
Chú thích:
(1) Đơn vị đo lường Nga bằng 1,09 hecta.
(2) Đơn vị tiền bằng một phần trăm rúp.
(3) Lãnh tụ nông dân người Cô-dắc khởi
nghĩa chống bọn chúa đất hoạt động ở vùng biển Kaspien có lần tiến sang tận địa
phận Ba Tư. Năm 1670, Razin ngược dòng sông Đông, tiến đến vùng Volga đánh
chiếm các thành phố Saratov và Samara và xúi giục người các dân tộc Tarta,
Mocsvo, Cheremix và Chuvats nổi dậy chống lại chính quyền Moskva. Razin bị
tướng George Baratinski đánh bại ở gần Simbirsk, bị bắt và bị xử tử phanh thây
ở Moskva năm 1670.
Chương 3
Ivaska và Digan dừng ngựa trước cổng lớn trên có cái nóc hai mái che
một cây thánh giá.
Chung quanh dinh cơ có một hàng rào kiên cố
bao bọc, có thể đương đầu nổi một cuộc cướp phá của quân Tarta. Hai bác nông
dân bỏ mũ ra... Ivaska nhấc chiếc vồ gõ cửa và theo tục lệ nói:
- Lạy đức Chúa Jesus là con của đức Chúa
Trời hãy rủ lòng thương chúng con...
Người gác cổng Averian, chân dận ủng gai
kêu lạo xạo từ trông lều đi ra. Lão ngó qua khe cửa:
- Đúng là người nhà rồi. - Lão nói “amen”
rồi mở cổng.
Hai bác nông dân đánh ngựa vào sân. Họ đứng
đầu trần, liếc nhìn về phía những khuôn cửa sổ nhỏ gắn mica ở ngôi nhà gỗ của
chúa đất. Một cái thềm dốc đứng, xinh xắn, bằng gỗ chạm trổ, nóc hình củ hành
dẫn vào các phòng. Phía trên là cái mái giống như nóc lều, hai bên khum khum
hình thùng rượu bổ đôi với một cái chóp thếp vàng. Tầng dưới ngôi nhà làm bằng
những khúc gỗ tròn chắc nịch: Vaxili Volkov muốn dùng nhà này làm nơi chứa
lương thực cho mùa đông và mùa hạ - lúa, thức ăn, muối các loại. Nhưng hai bác
nông dân biết rõ là trong kho chỉ có chuột thôi. Còn cái thềm lên xuống sang
trọng kia, thì đến một vị vương hầu cũng phải lấy làm danh giá.
- Bác Averian, lãnh chúa cho gọi chúng tôi
mang theo cả ngựa đến để làm gì thế, có phải để làm tạp dịch không? - Ivaska
hỏi. - Hình như chúng tôi có còn nợ đức ông gì nữa đâu?
- Các bác sẽ đưa một số chiến binh đi
Moskva đấy...
- À ra lại chuyện ấy, họ sẽ lại quần ngựa
của chúng tôi kiệt sức phen nữa chăng?
Digan bước lại gần, hỏi:
- Có tin gì thế? Sẽ đánh nhau với ai à? Hay
là có loạn chăng?
- Chuyện ấy đâu có phải của bác hay của
lão, - Averian, mái tóc bạc phơ, cúi chào. - Khi nào có lệnh là cứ việc đưa họ
đi. Hôm nay người ta mới cho đánh tới đây một xe chở đầy roi, để dành phần cho
các người đấy...
Averian, đôi chân cứng đờ, quay vào trong
lều.
Đây đó một khuôn cửa sổ nhỏ có thắp đèn lóe
sáng trong buổi hoàng hôn mùa đông. Cái sân ngổn ngang nào là chuồng bò, chuồng
ngựa, nào là kho chứa đồ, nhà ở bằng gỗ và một cái lò rèn nữa. Nhưng có đến một
nửa số nhà đó vô dụng. Volkov chỉ giữ lại một số gia nô trong nhà mà ngay cả số
người đó cũng chỉ có bánh mì và nước kvas (1) ăn uống qua ngày thôi. Dĩ nhiên
là họ phải làm việc, cày ruộng được chăng hay chớ, gieo hạt, vào rừng kiếm củi.
Nhưng như thế liệu có sống nổi không?
Thật là một công việc của nông nô. Người ta
đồn rằng Vaxili còn cho một người trong bọn họ đi Moskva giả bộ ăn xin ở cửa
các nhà thờ, người này kiếm được tiền. Còn hai người nữa thì đi rong ở Moskva
bán thìa, ủng gai và còi... Nhưng dẫu sao thì cơ sở vẫn là nông dân.
Chính họ nuôi sống Volkov... Ivaska và
Digan đứng giữa sân trải bóng hoàng hôn, suy nghĩ. Họ không vội gì. Có điều gì
tốt lành đâu mà chờ đợi. Theo lời các cụ kể lại thì quả thực là ngày xưa đời
sống có dễ chịu hơn: không bằng lòng ở với lãnh chúa của mình thì cứ việc bỏ đi
làm cho một lãnh chúa khác. Bây giờ thì điều đó đã bị cấm, lệnh cho ở đâu thì
phải ở đó. Đã có lệnh là phải nuôi Vaxili Volkov vậy thì hãy xoay xở mà nuôi
cho được lãnh chúa. Mọi người đều trở thành nông nô cả. Và rồi ra có thể còn có
những việc cực khổ nữa kia...
Bỗng có tiếng kẹt cửa đâu đấy; một nữ nông
nô đầu trần, trơ trẽn, chạy hộc tốc trên tuyết đến:
- Đức ông ra lệnh tháo ngựa ra. Các bác sẽ
ngủ lại ở đây. Nhưng lạy Chúa, chớ có lấy cỏ khô của đức ông cho ngựa ăn đấy...
Digan sắp đánh một roi vào cặp mông núng
nính của cô ả thì nó đã bỏ chạy mất... Hai người thủng thẳng tháo ngựa rồi vào
trong ngôi nhà gỗ dành riêng cho kẻ ăn người ở, để ngủ đêm. Đám nông nô - có
tám người tất cả - xoáy được của lãnh chúa một cây nến mỡ liền đánh bài với
những lá bài nhờn nhụa; họ vật bài đen đét xuống bàn: họ chơi ăn kopeik... Họ
quát tháo, cãi lộn nhau; có người tìm cách giấu tiền trong mồm áp vào một bên
má, người khác đã móc rách môi hắn ra, toàn là đồ vô công rồi nghề, nhưng lại
được nuôi béo!
Một đứa trẻ mặc áo dài bằng vải thô, đi ủng
gai đã mòn vẹt, ngồi trên một chiếc ghế dài, lánh ra một nơi, đó là Alioska con
trai Ivan Artemist. Mùa thu qua, trong nhà đói quá, bố mẹ nó buộc phải gán nó
làm nô lệ chung thân cho lãnh chúa để trang trải những khoản nợ còn khất lại. Đứa
bé có đôi mắt to giống mẹ. Cứ trông mái tóc bù xù của nó cũng đoán được là ở
đây nó thường bị đánh đòn. Ivan liếc nhìn con, bác thương nó nhưng lặng ngắt.
Alioska lẳng lặng cúi rạp đầu chào. Ivan làm hiệu gọi con lại và thì thầm hỏi:
- Ở đây đã ăn uống gì chưa?
- Đã ạ!
- A, thế mà bố lại không mang bánh đi (bác
Ivan láu cá nói dối vì chính ra bác có một mẩu bánh bọc trong một mánh vải thủ
trong áo). Liệu con có thể xoay được cái gì không? Alioska, bố có chuyện này
muốn nói với con. Đến sáng mai, bố sẽ phục xuống chân đức ông. Bố còn nhiều
việc phải làm. Biết đâu đức ông lại không ru lòng thương bố, để con thay bố đi
Moskva?
Alioska nghiêm trang gật đầu: “Được thôi,
bố ạ”. Ivan tháo ủng ra và nói thật nhanh như thể mình vui vẻ no nê vậy:
- Thế nào, các người anh em, ra ở đây hôm
nào cũng cứ vui như hội thế nầy à? A, quá là các người sống dễ chịu thật, phè
phỡn ung dung thật!
Một gã to lớn, dáng người thô kệch, bỏ bài
xuống bàn, quay mặt lại phía bác:
- Này tên kia, mày là đứa nào mà dám trách
móc chúng tao?
Ivan không đợi đến lúc người ta vả vào
miệng, vội leo lên ổ ván nằm.
------------
Chú thích:
(1) Một thứ nước uống hơi chua chua, cất
bằng lúa mì, tựa như rượu nếp của ta song nhẹ hơn.
Chương 4
Vaxili Volkov có một ông khách ngủ lại đêm là anh bạn láng giềng
Mikhail Tyktov, con một lãnh chúa nhỏ. Chủ và khách đã ăn bữa sáng từ sớm. Bên
cạnh chiếc lò sưởi bằng sứ tráng men, có đặt thảm dạ, gối, áo khoác bằng da gấu
trên mấy chiếc ghế dài to bản. Nhưng hai chàng thanh niên không thấy buồn ngủ.
Trong phòng oi bức. Ngồi trên ghế dài, mình
chỉ mặc mỗi bộ quần áo lót, họ chuyện trò trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng
vừa ngáp vặt vừa làm dấu trên miệng.
Khách nói, nghiêm trang, nhỏ giọng:
- Cậu thế mà còn khá, thậm chí có nhiều
người còn ước ao được như cậu nữa cơ đấy, Vaxili ạ. Nhưng còn mình, cậu thử đặt
vào địa vị mình xem. Ông cụ nhà mình có mười bốn đứa con. Bảy đứa đã ra ở riêng
và được chia một số đất bỏ hoang; đứa thì có hai nông nô, đứa thì có ba - còn
những đứa khác thì bỏ trốn sạch. Mình là thứ tám, ngày mai họ sẽ cấp cho mình
một mảnh đất. Chắc sẽ thí cho mình một cái thôn chết dẫm đã cháy lụi và một bãi
lầy toàn một giống ếch nhái... Như vậy thì làm thế nào mà sống nổi? Hả?
- Hiện nay thì ai cũng có khó khăn, -
Vaxili nói, tay lần một chuỗi tràng hạt bằng gỗ trắc bá để lòng thòng giữa hai
đầu gối. - Mọi người ai cũng phải vật lộn gay go... Không biết sống ra làm sao?
- Ngày trước ở viện Duma (1), ông mình ngồi
trên Golixyn kia đấy, - Tyktov nói - Cụ đã túc trực mấy ngày đêm liền bên linh
cữu Mikhail Fedorovich. Thế mà bây giờ bọn mình ở nhà phải đi ủng gai... Nhục
như thế mà rồi cũng cứ phải quen đi! Chẳng có cách nào kiếm cho đủ ăn thì còn
biết nhục với nhã là gì nữa. Ông bố mình đã phải dập đầu chào sướt trán ra để
đệ đơn thỉnh cầu lên Bộ công thổ: thời buổi này mà không tốt lễ thì đừng có
hòng được gì. Phải đút lót cho thằng thơ lại, thằng phó thơ lại, cả thằng phụ
việc của thằng phó thơ lại nữa. Mà nào có phải bao giờ chúng cũng nhận ngay cho
đâu, chúng còn chê ỏng chê eo... Nhà mình có nhờ tên phó thơ lại Xtiovka
Remezov thu xếp cho một việc nhỏ, phải đấm mõm hắn trước 10 antin (2), - thật
là vất vả lắm mới chạy được đủ số tiền đó, - và một pud (3) cá kim ngư khô.
Tiền thì cái thằng oắt con nát rượu ấy nhận; nhưng còn cá thì hắn vứt vào sọt
rác... Có những kẻ khác khéo luồn lọt hơn thì muốn gì được nấy. Như Volotka
Romodanov đã lần mò lên đến tận Sa hoàng để đệ đơn thỉnh cầu. Thế là nó được
cấp hai thôn lớn hưởng thụ vĩnh viễn. Vậy mà ai chẳng biết rằng lần đánh nhau
vừa qua với quân Ba Lan, nó đã bỏ chiến trường chạy bán sống bán chết và cả cái
lão bố nó nữa cũng thế, trước thành Smolensk cũng đã ba lần chuồn khỏi chiến
trường... Thế mà, đáng lẽ phải thu hồi phần đất và tống cổ chúng ra khỏi lãnh
địa của chúng, thì đằng này người ta lại tặng thưởng thêm cho chúng mấy thôn.
Thật là chẳng còn công lý gì nữa...
Hai người ngồi im lặng một lúc. Chiếc lò
sưởi tỏa hơi nóng sực. Tiếng dế gáy coong coong.
Không khí yên ắng, nặng trĩu u buồn. Đến cả
đàn chó ngoài sân cũng thôi không sủa nữa.
Volkov trầm ngâm nói:
- Giá thử có một ông vua nào sẵn lòng chiêu
nạp chúng mình ở Vơnizơ, ở Rome
hoặc ở Viên nhỉ... Nhất định là mình sẽ đi, không thèm ngoái cổ nhìn lạỉ... Vaxili
Vaxilievich Golixyn có cho ông bố đỡ đầu mình mượn một quyển sách; mình đã được
đọc... Thì ra hết thảy mọi dân tộc đều giàu có, sống phong lưu thừa thãi, chỉ
có chúng mình là sống như bọn khố rách áo ôm. Mới đây mình có đi Moskva để tìm
một người thợ làm súng. Người ta khuyên mình đi tìm người Đức, ở xloboda (4)
Kukui. Họ không theo chính giáo, đức Chúa Trời sau này sẽ phán quyết về họ.
Nhưng mình chỉ mới bước chân vào trong làng thì mắt mình đã trông thấy những gì
nào? Phố xá quét tước sạch sẽ, nhà cửa vui mắt và gọn gàng, hoa nở trong vườn...
Mình chân bước đi mà lòng bỡ ngỡ thấy gì cũng lạ, y như trong giấc chiêm bao ấy...
Mà người nào người nấy đều ân cần niềm nở. Ấy thế mà họ ở ngay sát nách với
chúng mình đấy! Mà họ mới giàu làm sao! Nguyên một mình xloboda Kukui cũng giàu
hơn tất cả Moskva với các vùng lân cận...
- Đi buôn, thì cũng phải có tiền, - Mikhail
nhìn vào đôi chân không của mình. - Xin đăng vào đội xtreletz (5) chăng? Cái nghề ấy cũng chẳng ăn thua gì đâu. Đợi cho
đến lúc leo lên được cái chức bách binh trưởng thì cũng đã om xương rồi. Mới
đây Dania Melsikov, giám mã của Sa hoàng có tới thăm ông bố mình, ông ta cho
biết là Ngân khố còn nợ của các trung đoàn xtreletz
tới hai năm rưỡi tiền lương. Nhưng có mở miệng kêu ca thì lập tức bị tống vào
ngục tối ngay. Đại tá Puzot đưa quân xtreletz
của hắn về dinh cơ riêng ở gần phụ cận Moskva, về đấy họ phải nai lưng ra làm
cho hắn như thể bọn nông nô vậy... Họ khiếu nại, thế là người ta quất cho họ
một trận ở trước trụ sở cảnh sát. Quân xtreletz
rất uất ức. Melsikov bảo rằng: Hãy đợi xem, họ sẽ cho biết họ không phải tay
vừa đâu.
- Nghe nói không thể mặc áo kiểu quý tộc
sang bên kia sông Moskva được có phải không?
- Làm thế nào được? Ai nấy đều đói rách cả...
Người nào cũng ngóc đầu lên không nổi vì sưu cao thuế nặng. Thật chỉ muốn trốn
đi đâu cho biệt tăm, không ngoái lại nữa... Melsikov nói với tụi mình rằng bọn
người nước ngoài thì họ đi buôn kia; ở Arkhangensk, ở Kholmogory, họ xây được
nhà gạch. Họ mua hàng một rúp ở ngoài thì đem bán lại cho mình lấy ba rúp...
Còn bọn nhà buôn nước mình thì để hàng mục ra vì cái tính biển lận. Để trốn tránh
cái xuất sưu nặng còng lưng, dân chúng ở các vùng ngoại ô đã bỏ trốn, người thì
về các quận, kẻ thì đi vào vùng đồng cỏ hoang. Bây giờ đến đục một cái lỗ qua
lớp băng đóng trên mặt sông để lấy nước cũng phải trả thuế... Tất cả những số
tiền ấy chui vào đâu? Melsikov kể cho tụi mình biết là Vaxili Vaxilievich
Golixyn đã cho xây một dinh thự trên bờ sông Neglinnaia. Tường bên ngoài thì
dát đồng, còn bên trong thì lót da thếp vàng...
Vaxili ngẩng đầu lên nhìn Mikhail. Mikhail
đã co chân vào dưới ghế và cũng đang nhìn Vaxili. Từ một con người hiền lành
một lát trước đây, hắn đã thay đổi khác hắn hắn cười nhạt, ngó ngoáy chân,
chiếc ghế dài cũng rung theo.
- Cậu làm sao thế? - Vaxili khẽ hỏi.
- Tuần lễ trước, họ lại mới cướp một đoàn
xe trượt tuyết ở gần làng Vorobievo. Cậu không nghe thấy chuyện ấy à? (Vaxili
sầm mặt lại, cầm lấy chuỗi tràng hạt). Có một bọn lái buôn len dạ vận chuyển
nhiều hàng tấm đẹp... Họ vội đến Moskva trước bữa ăn tối nên không muốn nghỉ
lại dọc dường và họ đã không về được tới nơi tới chốn... Một người trong bọn
lái buôn sống sót đã hô hoán lên. Thế là người ta đuổi theo bọn cướp nhưng chỉ
thấy một vết xe mà vết xe đó thì cũng bị tuyết phủ gần kín rồi...
Đôi vai Mikhail rung rung, hắn phá lên
cười:
- Cậu đừng sợ, mình không dự gì vào chuyện
đó đâu. Đó là Melsikov kể chuyện lại cho mình đấy thôi...
Hắn nghiêng mình về phía Vaxili:
- Người ta đồn rằng vết xe mòn đó dẫn thẳng
đến phố Vacvaka, trong sân nhà Xtiovka Odoievski, con út của vương hầu
Odoievski... Hắn trạc tuổi bọn mình đấy.
- Thôi chúng ta đi nằm đi, đã đến giờ ngủ
rồi, - Vaxili nói, nét mặt tối sầm.
Mikhail lại cười, gượng gạo không vui:
- Phải, nói đùa đủ rồi, ngủ thôi - Hắn nhẹ
nhàng đứng dậy, vươn vai làm các khớp xương kêu răng rắc. Hắn rót nước kvas vào chiếc bát gỗ rồi uống một hơi
dài và ngoái mắt qua thành bát nhìn Vaxili. - Xtiovka Odoievski trang bị gươm
súng cho hai mươi lăm nông nô của hắn... Toàn một bọn liều lĩnh sẵn sàng làm
bất cứ một việc gì. Hắn huấn luyện bọn chúng theo cách này: hắn để cho bọn
chúng đói rã họng ròng rã một năm trời; đêm đến hắn mới thả chúng ra cho đi ăn
cướp... Thật là một đàn sói.
Mikhail nằm xuống ghế dài, kéo chiếc áo
khoác bằng da gấu đắp lên mình, luồn một tay xuống dưới gáy mắt hắn bỗng long
lanh:
- Cậu có đi tố giác mình không? Có đi kể
lại những chuyện mình vừa nói đó không?
Vaxili treo chuỗi tràng hạt lên, lẳng lặng
nằm xuống, mặt quay về phía bức tường bằng gỗ thông còn chảy nhựa. Mãi một lúc
sau hắn mới đáp:
- Không, mình không đi tố giác cậu đâu!
-------------
Chú thích:
(1) Hội đồng các đại biểu quý tộc.
(2) Một antin ăn ba kopeik (tiền cổ)
(3) Một pud bằng 16,3 kg.
(4) Làng lớn.
(5) Xtreletz: cấm quân, binh sĩ thuộc các
đơn vị quân thường trực đặc biệt, bắt đầu có từ thế kỷ 16,17 ở địa khu Moskva.
Chương 5
Qua khỏi cổng lũy Zemlianoi Val, đường phố lồi lõm gồ ghề chạy ngoằn
ngoèo giữa những ngôi nhà gỗ hai tầng, cao và hẹp. Người ta vứt ra ngoài đường
thôi thì đủ mọi thứ. Chỗ nào cũng thấy những đống tro, xác xúc vật, chai lọ vỡ,
giẻ rách.
Alioska tay cầm cương ngựa, đi bên cạnh
chiếc xe trượt tuyết có ba nông nô ngồi, đầu đội mũ quân đội bằng vải bông nhồi
sợi gai thô vụn, mình mặc áo dài cổ cao bằng dạ trần, lụng thụng cứng đơ -
những chiếc áo tigeleis. Họ là chiến
binh của Vaxili Volkov. Không đủ tiền sắm áo giáp, Vaxili đã trang bị cho họ
những chiếc áo tigeleis nhưng trong
bụng vẫn nơm nớp lo khi duyệt binh, người ta sẽ làm nhục hắn, nhiếc móc hắn
không đưa đến những vũ bị đã quy định và cho hắn là biển lận...
Vaxili và Mikhail ngồi trên chiếc xe do
Digan dắt. Theo sau là mấy nông nô với hai con ngựa: ngựa của Vaxili thắng toàn
đồ sang trọng, trên lưng mang một cái yên Ba Tư, còn con ngựa thiến của Mikhail
đã thấm mệt thì yên cương xộc xệch.
Mikhail cau mày. Nhiều tay quý tộc và con
nhà lãnh chúa đã vượt qua, miệng hò hét tay ra roi. Họ mặc những bộ áo giáp của
ông cha để lại, hoặc mặc áo choàng mới may, áo nịt, áo nẹp kiểu Thổ Nhĩ Kỳ -
mọi người trong quận đều đến quảng trường Lubianka, nơi duyệt binh để xin cấp
đất mới hoặc chia đất cũ. Bất kỳ ai đi ngang qua, trông thấy con ngựa thiến của
Mikhail cũng phá lên cười: “Này dẫn nó đến làm mồi cho quạ đấy à? Coi chừng
đấy, ngữ nó đến toi mạng dọc đường thôi!”. Khi vượt qua con ngựa thiến của
Mikhail họ giơ roi quất vào mình nó, làm nó khuỵu chân xuống, giữa tiếng hò reo
cười đùa, tiếng huýt sáo...
Cả bọn Mikhail vượt qua chiếc cầu bắc ngang
sông Yauza trên bờ sông cao, hàng trăm chiếc cối xay gió cỡ nhỏ đang quay. Theo
sau những xe trượt tuyết và những đoàn xe khác, họ cho ngựa phi nước kiệu vượt
qua quảng trường, tiến dọc theo một bức tường trắng vừa trát đã tróc ra từng
mảng; phía trên bức tường là những tháp canh xây vuông có đặt đại bác ở các lỗ
châu mai. Trước cổng thấp phố Miaxnitskaia, tiếng quát tháo, chửi rủa ầm ầm,
người ta chen nhau đến chết bẹp: ai cũng muốn tranh đi trước; thế là xảy ra
cảnh đấm đá nhau, kẻ mất mũ, người gẫy xe, ngựa lồng. Phía trên cổng có một
ngọn đèn dong đêm thắp thường xuyên trước một bức tranh vẽ các thánh tối mờ mờ.
Dưới làn mưa rơi. Alioska rơi mất mũ; không hiểu làm sao nó lại sống sót được?
Cả bọn đã vào được phố Miaxnitskaia, Alioska đưa tay lên lau máu mũi chảy ròng
ròng và đưa mắt nhìn từ phía; khiếp thật, đến thế là cùng!
Đám người đông đúc ùa vào đường phố chật
hẹp ngập ngụa phân súc vật. Đứng trong những gian hàng dựng bằng ván, bọn lái
buôn nhoài người qua quầy, lớn tiếng gọi, tay vươn ra níu lấy vạt áo những
người qua đường, giật mũ lông của họ hoặc chào khách mua hàng. Phía bên dãy rào
cao, người ta thấy những ngôi nhà gạch, những mái nhà dốc ngươc, cái thì đỏ,
cái thì thép bạc, những nóc nhà thờ hình củ hành màu sặc sỡ. Nhà thờ thì có tới
hàng nghìn. Loại nhà thờ lớn có năm nóc tròn và ở các ngã ba ngã tư là loại nhà
thờ bé con con, bé đến mức một người phải chật vật mới lách qua được cửa, bên
trong thì chỉ mươi người đứng là hết chỗ nhúc nhích. Nhìn qua cửa chính của nhà
thờ bỏ ngỏ, người ta trông thấy ngọn lửa nhỏ sáng rực của những cây nến. Các bà
lão đang quỳ cầu kinh ngủ thiếp luôn. Lũ ăn mày râu tóc xồm xoàm trông gớm
chết, có cái thói giũ áo quần rách bươm và túm lấy chân những người qua lại,
rồi lè nhè kể lể, phô ra cái thân thể đầy máu me hoặc chi chít mụn nhọt đang
nung mủ. Có những cha cố mất giáo khu, mắt trợn trừng, gí một chiếc bánh kalats (1) vào mặt khách qua đường,
miệng kêu “Này anh lái buôn, hãy cùng ta
vào nhà thờ hát mừng một lễ - nếu không ta sẽ cắn chiếc bánh kalats này...”.
Bên trên các nhà thờ nhỏ, hàng đàn quạ khoang bay lượn...
Bọn Vaxili phải chật vật lắm mới chen được
một lối đến quảng trương Lubianka, lúc nầy đã đông nghịt chiến binh cưỡi ngựa
túm tụm lại thành từng nhóm.
Xa xa, trước cửa ô Nikokskie, người ta
trông thấy chiếc mũ lông chồn đen, cao ngất nghểu như ống khói của một vị đại
thần, những chiếc mũ lông của bọn thơ lại và những chiếc áo dài sẫm màu của một
số người cao sang. Một người gày gò, cao ngẳng, có bộ râu dài đứng ở đó miệng
hô to, tay vung vẩy một tờ giấy. Mỗi lần hắn hô lại có một gã quý tộc vũ trang
sơ sài hoặc rất đầy đủ, đi một mình hoặc có chiến binh đi theo - phi ngựa lại
gần chỗ cái bàn để trình diện. Đến nơi, gã xuống ngựa, kính cẩn cúi chào vị đại
thần và bọn thơ lại. Bọn này xem xét kỹ càng từ vũ khí cho đến ngựa, rồi đọc
bản danh biểu để kiểm soát lại số đất trước đây đã cấp cho gã quý tộc đó. Tiếp
đấy là cuộc tranh luận. Có tên quý tộc đấm ngực thùm thụp, miệng thề sống thề
chết; có tên thì lạy van, khóc lóc, kêu ca đất đai cằn cỗi cấp cho họ đã làm
cho họ lụn bại, lâm vào cảnh chết đói chết rét.
Cứ như thế, hàng năm, trước khi mở những
chiến dịch mùa xuân, theo một tục lệ rất lâu đời, người ta duyệt lại các chiến
binh, đoàn vệ binh quý tộc phục vụ Sa hoàng.
Vaxili và Mikhail lên mình ngựa. Ngựa của
Digan và của Alioska được tháo ra khỏi xe để cho hai nông nô của Volkov cưỡi
không yên. Tên nông nô thứ ba được lệnh phải nói rằng ngựa của nó đã bị thương
ở chân trên đường đi. Còn hai chiếc xe thì họ bỏ lại.
Digan níu chặt lấy chiếc bàn đạp:
- Đem ngựa của tôi đi đâu thế này? Thưa
lãnh Chúa! Xin lãnh chúa hãy rủ lòng thương!...
Vaxili giơ roi chỉ vào mặt Digan đe doạ:
- Mày có câm ngay mồm đi không!...
Khi Vaxili đã đi khỏi, Digan nguyền rủa
không tiếc lời, quẳng vòng cổ ngựa và vai ngựa lên xe, rồi hậm hực chui vào
đống rơm nằm.
Người ta quên khuấy mất Alioska. Thu dọn
xong bộ yên cương để vào trong xe, Alioska đứng đợi, đầu trần, mình khoác một
tấm da cừu đã thủng lỗ chỗ, chẳng bao lâu nó rét cóng. Nhưng số phận của nông
dân là thế: phải kiên nhẫn chịu đựng. Bỗng mũi nó ngửi thấy một mùi vị ngon
lành. Một bác bán hàng rong đi qua, béo tròn trùng trục, mắt ti hí, đầu đội mũ
lông thỏ rừng, đeo ở bụng một cái mẹt đựng nhiều bánh chả nhỏ nóng hổi, trên
phủ một mảnh vải cũ nát. Bác bán hàng tinh quái liếc nhìn về phía Alioska, lật
một góc mảnh vải che, nói: “Bánh chả nóng sốt vàng ngậy đây!”. Mùi bánh thơm
lôi cuốn Alioska. Nó bước theo người bán bánh hỏi:
- Bao nhiêu tiền một cái thế bác?
- Nửa kopeik một đôi. Ngon chết đi được!
Alioska ngậm trong mồm, áp vào bên trong
má, đồng nửa kopeik của mẹ cho trước kia để dỗ nó khi đem bán nó cho lãnh chúa
làm nông nô. Nó tiếc không muốn mất tiền nhưng lại đói đau cả bụng.
- Thôi, cho một đôi, - Alioska xẵng giọng
nói.
Nó mua bánh rồi ăn ngay; quả thật, từ trước
đến nay nó chưa bao giờ được ăn thức gì ngon như vậy! Nhưng khi nó trở lại chỗ
xe thì chẳng thấy roi lẫn vòng cổ ngựa, đai da buộc ngựa vào xe đâu nữa - có kẻ
đã lấy cắp mất rồi.
Nó chạy vội đến chỗ Digan hỏi, bác ta nằm
lì trong đống rơm chửi rủa. Alioska hoảng sợ, bủn rủn chân tay, đầu óc choáng
váng. Nó ngồi xuống thành xe khóc rồi lại nhổm dậy, chạy xổ ra đón những người
qua lại hỏi: “Các bác có trông thấy đứa lấy trộm những thứ của tôi không?”. Mọi
người cười rộ. Biết làm thế nào bây giờ đây? Alioska chạy vụt qua quảng trường
đi tìm lãnh chúa.
Volkov ngồi trên ngựa, một tay chống nẹ,
đầu đội mũ đồng; bộ giáp sắt che kín ngựa và bụng, phủ một lớp sương giá. Thật
không tài nào nhận ra Volkov nữa: trông hắn không khác một con chim ưng! Đứng
sau Volkov là hai nông nô cũng cưỡi ngựa, mặc áo dạ dài, béo tròn như những cái
chum, vai vác gậy. Quả là chiến sĩ hiên ngang! Trông chúng thật lố bịch, ngốc
nghếch. Bản thân chúng cũng nhận thấy thế nên chúng cười hềnh hệch.
Alioska vừa lau nước mắt vừa kể lại tai họa
của mình, giọng lè nhè thảm hại.
- Chỉ tại mày thôi? - Vaxili mắng. - Bố mày
sẽ quật cho mày một trận. Nếu bố mày không mua đền bộ đồ thắng ngựa khác tao sẽ
cho đánh róc xác bố mày ra. Xéo ngay, đừng có luẩn quẩn trước ngựa tao nữa!
Vừa lúc đó, gã thơ lại cà khẳng cà kheo,
tay vung vẩy tờ giấy, gọi đến Vaxili. Volkov lập tức phi nước đại, mấy nông nô
thúc gót ủng gai vào bụng ngựa theo sau, cả bọn lao về phía cửa ô Nikolskie,
tới chỗ vị vương hầu khét tiếng oai nghiêm Fedor Yurievich Romodanovski đang
ngồi bên bàn, đầu đội mũ lông cao ngất nghểu, mình khoác hai chiếc áo choàng:
một chiếc bằng nhung mặc ở trong và choàng ra ngoài là một chiếc bằng da cừu,
mặt có lông quay vào trong.
“Làm thế nào bây giờ đây? Mũ đã mất mà bộ
đồ thắng ngựa cũng chẳng còn” - Alioska ti tỉ khóc thầm, đi lang thang khắp
quảng trường. Mikhail Tyktov lên tiếng gọi nó. Từ trên mình ngựa cao chót vót,
Mikhail cúi xuống, nắm lấy vai Alioska:
- Này Alioska! - Mikhail nói, mắt đẫm lệ,
môi run run. - Hãy vì Chúa, chạy ngay đến cửa ô Tverkie, hỏi thăm đến nhà giám
mã Danila Melsikov. Vào được rồi mày hãy sụp xuống chân ông ra, lậy ba lậy. Mày
sẽ nói thế này: ông Mikhail xin ông ra ơn cho một việc... Ngựa của ông ta bị thương...
thật là một sự nhục nhã... Ông ta khẩn khoản xin ông cho mượn một con ngựa
trong một ngày để ông ta có thể cưỡi đi trình diện. Mày không quên đấy chứ? Bảo
ông ấy rằng ta sẽ đền ơn. Nếu cần phải giết một người để có ngựa ta cũng làm.
Mày cứ khóc lóc, van lạy nhiều vào...
- Con sẽ van lạy ông ta như đức ông bảo
nhưng nếu ông ấy chối từ thì làm thế nào? - Alioska hỏi.
- Thế thì tao sẽ chôn sống mày đến tận cổ!
- Mikhail trợn mắt phồng mũi nói.
Sợ cuống cả người, Alioska cắm đầu cắm cổ
chạy đi làm cho xong việc Mikhail sai bảo.
Suốt cả ngày, Mikhail chưa hề ăn tí gì, nên
rét cóng trên mình ngựa... Mặt trời lặn dần trong đám sương mù lạnh lẽo. Tuyết
ngả màu phơn phớt xanh. Tiếng vó ngựa nghe càng giòn giã hơn.
Hoàng hôn đã xuống; từ các gác chuông và tháp
nhà thờ khắp Moskva, tiếng chuông báo giờ cầu kinh chiều vang lên. Vaxili vẻ
mặt ủ rũ, đầu cúi gằm, cho ngựa đi thủng thẳng bước một, qua chỗ Mikhail, mãi
không thấy Alioska về. Nó không trở lại nữa.
--------------
Chú thích:
(1) Kalats: bánh mì nhỏ hình khóa.
Chương 6
Trong căn phòng thấp nóng hầm hập, những ngọn đèn trong đêm thắp
trước tranh thánh rọi ánh sáng lên trần nhà xây cuốn tò vò và những bức họa âm
u phủ kín trần, vẽ chim muông ở thiên đường và cành lá xoáy cuộn trôn ốc. Nằm
trên chiếc bục rộng, dưới những bức tranh thánh tối sầm, Sa hoàng Fedor
Alekseevich đang hấp hối, cái thân hình bạc nhược của lão chìm trong đống đệm
nhồi lông thiên nga. Người ta đã chờ đợi việc này từ lâu: Sa hoàng mắc bệnh
hoại huyết, cả hai chân phù thũng. Hôm đó lão không thể đứng nghe đọc kinh buổi
sáng được nữa, lão phải ngồi xuống ghế, rồi bỗng ngã lăn quay ra. Người ta vội
vàng vực lão dậy nhưng tim lão chỉ còn thoi thóp, lão được đặt nằm dưới chỗ
treo tranh thánh.
Đôi chân lão phù thũng to như cột nhà, rồi đến
lượt bụng lão chướng lên. Viên thầy thuốc người Đức được triệu đến chữa bệnh,
đã chích rút nước ra, lão đã bớt đau, rồi cứ thế thỉu dần, lỗ mắt trũng thâm
quầng, đầu mũi nhọn hoắt. Có một lúc lão lẩm bẩm cái gì đó nhưng chẳng ai hiểu
lão nói gì. Viên thầy thuốc người Đức cúi xuống, ghé tai sát đôi môi nhợt nhạt
không còn hột máu của lão. Sa hoàng giọng thều thào ú ớ đọc những vần thơ bằng
tiếng la-tinh. Viên thầy thuốc tưởng chừng như nghe thấy trong những tiếng lẩm
bẩm của lão một câu thơ của Ovide (1)... Đọc thơ Ovide trong giờ hấp hối? Chẳng
còn nghi ngờ gì nữa, Sa hoàng đã mê man bất tỉnh...
Bây giờ thì đến hơi thở của lão cũng không
còn nghe thấy nữa.
Giáo trưởng Ioakim, khuôn mặt khắc khổ,
vàng ệch, đang ngồi trên một chiếc ghế gập kiểu Ý bên cạnh cửa sổ phủ một lớp
sương giá, ánh trăng lấp lánh trên những ô kính nhỏ hình tròn. Mình mặc áo
khoác đen và áo tu sĩ có đính cây thánh giá trắng tám cánh, vị giáo trưởng ngồi
đấy, người còng xuống, không nhúc nhích, như hiện thân của tứ thần. Hoàng hậu
Marfa Matveevna đứng một mình gần tường đưa cặp mắt mờ lệ nhìn về phía chồng
đang hấp hối, chỉ trông thấy vầng trán hẹp và cái mũi nhọn hoắt giữa đống chăn
đệm nhồi lông chim. Hoàng hậu mới có 17 tuổi. Gia đình nàng - gia đình Apraxin
- vốn nghèo, nàng được chọn đưa vào cung vì có nhan sắc. Nàng lên ngôi hoàng
hậu mới được có hai tháng.
Khuôn mặt bé nhỏ hơi đần của nàng, có đôi
mày đen, sưng húp vì khóc. Nàng khóc nức nở như trẻ con và bẻ ngón tay kêu răng
rắc: nàng không dám khóc to. Ở cuối phòng, dưới những vòm tối tăm, đám họ hàng
đông đúc của Sa hoàng đang xì xào bàn tán - thôi thì đủ mặt: chị, em, cô, dì,
chú, bác và có cả đám cận thần của Sa hoàng: Ivan Maximovich Yazykov, người
thấp bé, đẫy đà, tốt bụng, ăn nói ngọt ngào, rất khôn khéo và sành sỏi về những
nghi thức trong triều; Aleksey Timofeevich Likbasev, một bực lão thành đạo mạo,
mặt hốc hác, học vấn uyên thâm, đại thị thần của Sa hoàng, và vương hầu Vaxili
Vaxilievich Golixyn đẹp như tranh, mặc y phục kiểu Ba Lan, chòm râu cằm loăn
xoăn có đường ngôi ở giữa, bộ ria vểnh ngược, tóc cắt ngắn kiểu Ba Lan, người
tầm thước, chân đi ủng ngắn da mềm gót cao. Cặp mắt xanh của vương hầu Vaxili
Vaxilievich Golixyn, sáng quắc vì xúc động. Giờ phút quyết định đã đến: phải
chỉ định một Sa hoàng mới. Nhưng chọn ai? Piotr hay Ivan? Con của Narytakina
hay con của Miloslavskaia? Cả hai đều còn là trẻ con chưa hiểu gì cả nhưng có
thế mạnh ở chỗ quan hệ gia đình. Piotr rất thông minh, thân thể cường tráng,
Ivan thì ngớ ngẩn, ốm yếu, bảo sao nghe vậy... Trong hai người ai hơn? Chọn ai?
Vaxili Vaxilievich, nghiêng người tựa vào cái cửa có hai cánh bịt đồng, dán tai
vào đó chăm chú nghe: trong đại điện bên cạnh, bọn đại thần đang bàn cãi om
sòm. Từ sáng đến giờ, phe Narytskin và phe Miloslavski, cùng vây cánh của họ,
vã mồ hôi ra như tắm trong áo lông, chẳng ăn chẳng uống gì. Căn phòng chật ních
người: bọn đại thần lăng mạ lẫn nhau, trút oán hờn lên đầu nhau; họ cảm thấy
rằng hôm nay có người sẽ thăng quan tiến chức đồng thời cũng có kẻ sẽ lâm cảnh
tù đày.
- Nghe kìa, ồn ào như cái chợ, - Vaxili
Vaxilievich lẩm bẩm, rồi đi đến chỗ Yazykov nói khẽ bằng tiếng Ba Lan:
- Ivan Maximovich này, dù sao thì ông cũng
nên hỏi ý kiến cụ giáo trưởng xem cụ tán thành ai.
Yazykov, tóc quăn, râu vàng hoe mọc lan cả
lên má, miệng đỏ như son, vừa ngọt ngào mỉm cười vừa đưa mắt nhìn từ dướỉ lên
trên. Tiết trời nóng nực đã làm cho Yazykov toát mồ hôi, người toả ra mùi dầu
thơm hoa hồng:
- Giáo trưởng và cả chúng tôi nữa đang đợi
ý kiến của ngài đấy, thưa vương hầu quý mến... nhưng tôi cho rằng sự lựa chọn
của chúng ta đã dứt khoát rồi...
Likhasev bước lại gần, cất tiếng thở dài,
bàn tay trắng muốt nhẹ nhàng đặt lên chòm râu:
- Trong giờ phút nghiêm trọng này, chúng ta
không nên chia rẽ, Vaxili Vaxilievich ạ. Chúng tôi đã suy nghĩ như thế này: Ivan
mà làm Sa Hoang thì khó đấy và cũng chẳng được bao lâu vì yếu đuối quá. Chúng
ta cần có một Sa hoàng tráng kiện.
Vaxili Vaxilievich nheo mắt, đôi môi duyên
dáng thoáng nở một nụ cười bên mép. Hắn hiểu rằng, trong lúc này tranh luận là
một điều nguy hiểm.
- Vậy ta cứ quyết định thế, - Vaxili
Vaxilievich nói - Piotr sẽ lên ngôi Sa hoàng.
Hắn ngước nhìn lên, bỗng cặp mắt xanh của
hắn chớp chớp dào dạt yêu thương. Vị vương hầu nhìn công chúa Sofia , người em gái thứ sáu của Sa hoàng, vừa
tới. Công chúa không bước vào phòng thong thả như một thiên nga đang bơi, đúng
cung cách một tiểu thư. Không, Sofia
xồng xộc đi vào, chiếc áo dài mùa nực màu sặc sỡ tuột cúc nơi bộ ngực đồ sộ, tà
áo phanh ra, những dãy băng đỏ trên mũ miện có sừng bay phấp phới. Dưới lớp
phấn trắng, phấn hồng, khuôn mặt không đẹp của công chúa lấm chấm tàn hương.
Công chúa có một thân hình vạm vỡ, béo lùn, chắc nịch và đầu to. Cái trán dô,
cặp mắt xanh lá cây và cái miệng với đôi môi mím chặt là của một người đàn ông
hơn là của một thiếu nữ. Công chúa nhìn Vaxili Vaxilievich và hình như đã hiểu
vương hầu vừa nói gì và đã trả lời gì. Lỗ mũi phập phồng lộ vẻ khinh bỉ, Sofia quay về phía giường
kẻ hấp hối, chắp mạnh hai bàn tay kêu thành tiếng, co ngón tay lại rồi quỳ
xuống thảm, tì trán vào chiếc chăn. Vị giáo trưởng ngẩng đầu lên, cặp mắt lờ đờ
nhìn chằm chặp vào gáy Sofia
và những mớ tóc tết đuôi sam bỏ xõa.
Mọi người có mặt trong phòng lo lắng chờ
đợi. Năm công chúa kia đưa tay lên làm dấu. Vị giáo trưởng đứng dậy, nhìn Sa
hoàng hồi lâu. Hất ngược đôi tay áo đen lên, lão làm dấu thánh giá ban phép
lành cho kẻ sắp chết, rồi bắt đầu đọc bài kinh của những kẻ hấp hối.
- Sa hoàng Fedor Alekseevich đã qua đời yên
lành... Chư vị đại thần, chúng ta hãy thương
khóc hoàng thượng đã quá cố?
Chẳng ai buồn nghe lời giáo trưởng, bọn đại
thần xô đẩy chen nhau qua cửa, hối hả chạy đến chỗ người chết, quỳ xuống, dập
đầu xuống thảm, rồi nhỏm dậy hôn hai bàn tay Sa hoàng nhợt nhạt như sáp đã chắp
lại trên ngực. Bầu không khí ngột ngạt đến nỗi các ngọn đèn dong đêm nổ lép bép
và bắt đầu lụi. Sofia
được dìu ra khỏi phòng. Vaxili Vaxilievich đã biến mất. Người ta thấy hai anh
em Piotr và Boris Alekseevich, - vương hầu xứ Golixyn, lão vương hầu Yakov
Dolgoruki, trông gớm chết với mớ tóc đen và cặp lông mày rậm, cùng với lũ anh
em của hắn: Luka, Boris, Grigori, tiến lại gần Yazykov. Yakov nói:
- Bọn tôi có mang dao găm và áo giáp dưới
lần quần áo ngoài... Thế nào, có cần phải suy tôn Piotr lên ngôi không?
- Các vị hãy ra ngoài thềm cho dân chúng
thấy. Đợi lúc giáo trưởng ra đứng cùng với các vị, lúc bấy giờ chúng ta sẽ suy
tôn Sa hoàng... Và nếu có kẻ nào nêu tên Ivan Alekseevich thì cứ đâm chết lũ kẻ
cướp ấy đi.
Một giờ sau, vị giáo trưởng bước ra đứng
trên Thềm Đỏ ban phước lành cho đám dân chúng tụ tập trên quảng trường - bọn xtreletz, con em quý tộc, chiến binh,
nhà buôn, thợ thủ công - và hỏi ý kiến họ xem trong hai hoàng tử ai là người
đáng lên ngôi Sa hoàng. Người ta chất củi đốt lửa cho sáng. Phía sau sông
Moskva, mặt trăng đang lặn dần, ánh sáng lờ mờ lạnh lẽo, lấp lánh trên nóc nhà
hình tròn. Trong đám đông có người hô:
- Chúng tôi muốn Piotr Alekseevich.
Một giọng khàn khàn kêu:
- Chúng tôi muốn Ivan...
Nhiều người xông về phía có tiếng nói đó và
tiếng nói im bặt. Thế là đám đông hô to hơn:
“Piotr, Piotr!...”
--------------
Chú thích:
(1) Nhà thơ thời La-mã cổ (43 trước Công
nguyên -16 sau công nguyên)
Chương 7
Trong sân nhà Danila, hai con chó giữ nhà điên cuồng đến nghẹt thở,
lăm le chồm lên cắn Alioska. Một con bé con môi đầy vẩy, chiếc áo lông tàng
trùm lên đầu, bảo Alioska lên cầu thang có phủ một lớp băng mỏng dẫn đến buồng
khách. Con bé cười gằn, chẳng ai hiểu tại sao, rồi chui tọt vào gầm thềm nhà ở tầng
dưới cùng tối om, trong đó mấy thanh củi to đang lập lòe cháy trong lò. Alioska
vừa leo lên cầu thang, vừa lắng tai nghe: trên gác có tiếng người kêu như bị
lột da. “Phen này mình khó mà sống sót thoát khỏi nơi đây” - Alioska nghĩ thầm.
Nó rút cái chốt con buộc lòng thòng ở đầu một sợi dây rồi gắng sức kéo cánh cửa
ẩm sũng bật ra khỏi khuôn: một luồng không khí nóng và mùi củ cải đen lẫn mùi
rượu vodka xộc vào mũi. Dưới chỗ treo tranh liệt thánh, hai người đàn ông đang
ngồi trước một cái bàn có bày thức nhắm: một thầy tu, tóc tết đuôi sam nhỏ, râu
hung hung đỏ xòe ra như cái quạt và một người béo lùn mặt rỗ, mũi lõ. Họ vừa
cầm cốc sắt gõ chan chát xuống bàn vừa hét:
- Nhét vào đít cho nó một ít trí khôn!
Nhân vật thứ ba là một lão to béo, mặc áo
lót rộng thùng thình màu quả dâu, đang kẹp một người vào giữa hai đầu gối, lấy
dây lưng da quất vào mông đít lột trần. Đôi mông còm nhom, lằn vết roi, dãy
dụa, tìm cách tránh đòn:
- Ái, ái, lạy bố!
Kẻ bị quất kêu toáng lên. Alioska sững sờ
cả người. Trông thấy nó, người mặt rỗ chớp chớp đôi mi trụi sạch hết lông. Lão
thầy tu bá miệng rộng hoác, cất giọng lè nhè quát:
- Lại một thằng nhãi nữa, tiện tay cho nó
một trận đi thôi!
Alioska đứng xoạc hai chân đi ủng gai, vươn
cổ ra. “Phen này thì thật chết...”.
Lão to béo quay người lại. Một thằng bé,
mắt tròn xoe, màu xanh nhạt, luồn qua háng lão, hai tay đỡ quần, chạy tọt ra
cửa rồi biến mất. Alioska bèn làm theo lệnh Mikhail đã bảo, thụp ngay xuống
chân lão to béo và dập đầu xuống sàn nhà ba lần. Lão ta túm lấy cổ áo Alioska,
nhấc nó đứng dậy, kéo nó lại sát cái mặt đỏ như gấc, nhễ nhại mồ hôi và phì phò
vào mặt thằng bé một hơi thở nóng hổi sặc sụa mùi rượu mạnh:
- Mày đến đây làm gì? Ăn cắp à? Dò la à?
Hay định xoáy cái gì ngoài sân?
Alioska hai hàm răng lập cập trình bày là
Tyktov sai đến. Mạch máu của lão mặt đỏ căng phồng lên: lão chẳng hiểu gì cả...
“Tyktov nào? Ngựa nào? A, ra mày đến lấy một con ngựa phải không? Mày là một
thằng ăn trộm ngựa...”
Alioska khóc sướt mướt, thề sống thề chết,
ba ngón tay chụm lại làm dấu. Lão mặt đỏ như gấc liền điên tiết túm tóc Alioska
lôi xềnh xệch, tiếng ủng nện thình thịch, giơ chân đạp tung cửa rồi quẳng
Alioska xuống chân cầu thang phủ băng giá.
- Tống cổ thằng ăn cắp ra khỏi sân, - lão
hét lên, chân bước loạng choạng. - Sarok, Brovka, cắn nó đi!
Danila Melsikov, cúi đầu xuống như con bò
mộng, bước qua cửa trở vào ngồi cạnh bàn. Lão vừa thở hồng hộc, vừa rót rượu
đầy hai cốc sắt, rồi bốc một nhúm củ cải đen:
- Này anh bạn tu sĩ, anh đã từng đọc kinh
thánh nhiều, chắc anh phải nắm vững vấn đề. - Lão càu nhàu nói. - Thằng con tôi
không chịu vâng lời... Nó thật là một thằng kẻ cướp, một thằng nhãi ranh chó
đẻ. Có lẽ tôi giết quách nó đi thôi! Về việc đó, Kinh Thánh phán báo thế nào,
hả?
Thầy tu Finka nghiêm nghị trả lời:
- Kinh Thánh nói thế này: Mi hãy trừng phạt
con mi ngay từ khi nó còn thơ ấu, nó sẽ tôn kính mi lúc mi tuổi già. Và mi đừng
chùn tay khi đánh con, vì thực ra nếu mi lấy gậy đánh con, nó sẽ không chết đâu
mà càng thêm tráng kiện; mi hãy năng đánh con, vì làm như vậy sẽ cứu vớt linh
hồn nó khỏi sa đọa...
- A men, - gã mũi lõ thở dài.
- Khoan, để tôỉ thở cái đã, rồi tôi sẽ gọi
nó lại, - Danila nói - Hừ, hỏng bét các bạn ạ! Mỗi năm lại càng tồi tệ hơn. Con
cái thì không bảo được, chẳng còn được hiếu thảo như thời xưa. Lương lậu thì
hai năm nay rồi, Sa hoàng chẳng trả. Chẳng còn gì mà đổ vào mồm nữa. Bọn xtreletz đe sẽ châm lửa tứ phía đốt
Moskva. Dân chúng nhốn nháo lắm. Chẳng bao lâu nữa, bọn mình sẽ chết hết cả
thôi!
Foma Posipaiev, anh chàng mặt rỗ, mũi nhọn
hoắc, chuyên giải thích Kinh Thánh, tuyên bố:
- Bọn Nikoniêng (1) đã phá vỡ đức tin cổ
truyền, vậy mà chính đức tin đó (hắn giơ một ngón tay lên) xưa kia đã giúp cho
loài người sống bình yên. Đức tin mới thì chẳng có. Trẻ con sinh ra trong vòng
tội lỗi, anh có đánh con đến chết đi nữa cũng thế thôi, nó vẫn chứng nào tật
ấy, nó làm gì có linh hồn. Đó là những đứa con của thời đại... cùng một giống
Nikonieng. Một đàn cừu không có người chăn - mồi của quỷ Satan. Tổng giáo sĩ
Avakum đã viết: “Hỡi Nikonieng, có phải mi tìm cách dẫn dụ đàn con chiên của
Chúa Kristo vào con đường cám dỗ để rồi cùng chúng hiến linh hồn cho cha mi là
Ma vương?” Ma vương! (hắn lại giơ ngón tay lên). Lại đây nữa: “Mi là ai, hả
Nikonieng? Mi là cục phân nhơ bẩn, một sự thối tha, một con chó tanh hôi...”.
- Lũ chó!
- Bọn giáo sĩ và bọn tổng giáo sĩ phái
Nikon mặc áo dòng bằng lụa đi dạo chơi phố phường, má phị nứt mỡ ra! - thầy tu
Finka nói.
Foma Posipaiev đợi cho mọi người chửi rủa
xong, nói tiếp:
- Vị tổng giáo sĩ Avakum lại còn nói thế này:
“Bạn Ilarion, tổng giám mục xứ Ryazan !
Bạn hãy nhớ lại xưa kia Melsixedex sống như thế nào trong rừng sâu, trên ngọn
núi Tabo. Ông ăn những cành non để sống, hớp những giọt sương thay nước. Ông là
một vị chân tu, không cầu kỳ tìm kiếm để có rượu vang miền sông Ranh hay xứ
Burgonh, những rượu mạnh, rượu nho thượng hạng, hoặc rượu bia có mùi sa nhân.
Hỡi ông bạn Ilarion, tổng giám mục xứ Ryazan !
Bạn trông đấy, Melsixedex đã sống như vậy. Ông không có nằm ngồi ngả ngớn trên
xe do những con ngựa ô kéo. Mà ông ta là người hoàng tộc đấy. Còn bạn, hỡi ông
bạn giáo sĩ nhỏ mọn, bạn là cái gì? Bạn lên xe xuống ngựa, dương dương tự đắc;
bạn nằm sóng soài trên đống đệm, trên xe, tóc chải như tóc con gái, và cho xe
đi diễu quanh, mặt vênh vênh váo váo để mọi người đều thấy, để bọn nữ tu sĩ -
những con ranh ấy - yêu. Than ôi, tội nghiệp cho bạn... Quỷ Satan làm bạn mù
quáng, cái đó thật rõ quá rồi... Bạn chưa từng biết và nay bạn vẫn không biết
thế nào là sống theo đạo Chúa”.
Thầy tu Finka nhắm mắt cười, đôi má rung
rung. Danila lại rót rượu. Cả bọn cùng uống.
- Quân xtreletz
đã xé vụn sách của bọn Nikonieng, vứt tung tóe khắp nơi, - Danila nói. - Nhờ
Trời phù hộ, quân xtreletz sẽ nổi lên khôi phục lại những phong tục xưa.
Bỗng lão quay đầu lại. Lũ chó đang sủa
ngoài sân. Bậc thềm gỗ kêu cót két. Ngoài cánh cửa có tiếng người đọc một bài
kinh cầu Chúa Jesus. “Amen” cả ba người đang chuyện vãn đáp lại. Một gã xtreletz cao lớn, thuộc trung đoàn Pyzov
bước vào: Opsey Rezov em rể Danila. Hắn làm dấu phép, mắt nhìn về góc nhà treo tranh
liệt thánh, rồi đưa tay lên hất mớ tóc xoã xuống mắt.
- Các anh đang chè chén đấy à? - hắn nói,
giọng bình tĩnh. - Và ở trên xảy ra chuyện gì, các anh cũng không hay biết. Sa
hoàng đã băng hà... Thật là một tai họa không ngờ... Bây giờ thì số phận tất cả
chúng ta nằm trong tay bọn quý tộc đại thần và bọn Nikonieng rồi.
-------------
Chú thích:
(1) Môn đồ của giáo trưởng Nikon, ủng hộ
việc cải cách giáo hội do Nikon chủ trương năm 1663.
Chương 8
Như một gã làm xiếc, Alioska lộn nhào từ trên đầu cầu thang xuống,
rơi vào một đống tuyết.
Mấy con chó nhe răng vàng khè hùng hổ xông
đến chỗ Alioska. Nó vội giơ hai tay che đầu, nhắm nghiền mắt lại. Nhưng lũ chó
không cắn xé nó... Thật là như có phép mầu: Chúa đã cứu nó! Bầy chó bỗng lùi
lại, gầm gừ. Một người ngồi xổm, cúi xuống nhìn Alioska, lấy ngón tay đụng vào
đầu nó, hỏi:
- Này, mày là ai thế?
Alioska hé một bên mắt. Bầy chó vẫn quanh
quẩn gần đấy lại gầm gừ. Alioska nhận thấy ra thằng bé vừa bị đòn lúc nãy.
- Tên mày là gì?
- Alioska.
- Mày là con nhà ai?
- Con nhà Brovkin. Bố tao là nông dân.
Thằng bé kia nhìn đi nhìn lại Alioska như
kiểu chó nhìn: hết ngoẹo đầu bên này lại ngoẹo đầu sang bên kia. Từ phía sau
nóc nhà, ánh trăng rọi vào khuôn mặt to của nó. Chà, thằng nhãi nầy hẳn là rất
láu lỉnh.
- Chúng mình đi vào sưởi đi! - thằng bé
nói. - Mày không nghe thì liệu hồn, tao sẽ cho biết tay. Mày có muốn đánh nhau
không?
- Không.
Alioska vội nằm xuống tuyết như trước. Rồi
hai đứa lại gườm gườm nhìn nhau:
- Cậu để tớ đi, - Alioska nói với một giọng
lè nhè. - Đừng đánh tớ! Tớ có làm gì cậu đâu. Tớ sẽ đi khỏi chỗ này.
- Nhưng mày đi đâu?
- Tớ không biết... Người ta hẹn sẽ chôn
sống tớ... Về nhà tớ cũng bị đập chết.
- Bố mày có quất mầy không?
- Bố tớ bán đứt tớ cho người ta rồi, bây
giờ bố tớ không quất tớ nữa... Lẽ tất nhiên, tụi đày tớ đánh tớ. Và khi tớ còn
ở nhà, tớ cũng bị quất, cái đó thì đã hẳn rồi.
- Vậy mày là gì, một đứa bỏ trốn à?
- Không, chưa phải... Thế còn cậu, tên cậu
là gì?
- Alexaska... Melsikov... Bố tớ quất tớ mỗi
ngày hai lần hoặc ba lần tùy hôm. Mông đít tớ chỉ còn trơ xương mất hết cả
thịt.
- Ối chao, tội nghiệp cho cậu...
- Thế nào, đi vào sưởi chứ?
- Nào đi.
Hai đứa trẻ chạy vào buồng dưới nhà, nơi
trước đó ít lâu Alioska đã trông thấy lửa cháy trong lò. Căn buồng ấm áp, khô
ráo, đượm mùi bánh mì nướng; một ngọn nến mỡ cắm trên cái giá bằng sắt uốn cong
đang cháy. Gián bò nhung nhúc trên những bức tường ám khói dựng bằng súc gỗ
thép. Thật chỉ muốn ở đây suốt đời.
- Chị Vaxionka, đừng nói gì với bố tôi đấy!
- Alexaska nói liền một hơi với chị nấu bếp, một người đàn bà hiền lành, lùn
tè. - Tháo ủng ra.
Alioska cũng làm theo. Cả hai đứa trèo lên
cái lò chiếm hết nửa căn buồng. Phía đằng kia, trong bóng tối, một cặp mắt đang
thao láo nhìn không chớp. Đây là con bé lúc nãy đã mở cửa cho Alioska. Nó lùi
vào tít trong cùng, sau ống khói bếp lò.
- Chúng mình nói chuyện nhé? - Alexaska thì
thầm. - Mẹ tớ chết rồi. Bố tớ ngày nào cũng say mèm. Ông cụ lại muốn lấy vợ
khác. Tớ sợ có một người dì ghẻ lắm. Tớ ăn đòn hàng ngày rồi, lại thêm bà dì
ghẻ nữa thì họ đánh tớ đến hồn lìa khỏi xác mất...
- Nhất định rồi, - Alioska xác nhận.
Sau ống khói, có tiếng con bé con sụt sịt.
- Thì tớ cũng nói thế... Hôm nay ở cửa ô
Serpukhovskie, tớ trông thấy một chỗ cắm trại của người Digan, có cả gấu. Họ
thổi sáo, nhảy múa, ca hát... Họ rủ tớ đi theo họ. Hay ta theo người Digan lang
thang đây đó đi? Cậu nghĩ sao, hả?
- Đi với bọn Digan sẽ bị đói, - Alioska
nói.
- Hay là ta đi làm thuê cho bọn lái buôn,
bất cứ công việc gì cũng được... Rồi đến mùa hạ ta lại bỏ đi nơi khác. Trong
rừng có thể bắt được gấu con. Tớ quen một anh đi săn ở ngoại ô vẫn đi bắt gấu,
anh ta sẽ dạy chúng mình... Cậu sẽ bắt gấu làm trò, tớ sẽ múa hát...Tớ biết vô
khối bài hát. Còn nhảy múa thì khắp Moskva, không ai giỏi hơn tớ.
Con bé con, ở phía sau ống khói, lại càng
sụt sịt, Alexaska hích cho nó một cái vào sườn:
- Câm mồm đi đồ ngủ nhè. Thôi được, ta sẽ
cho nó đi theo.
- Đi với đàn bà nhiều chuyện phiền lắm...
- Ta sẽ cho nó đi theo trong mùa hè để nó
nhặt nấm. Nó đần nhưng nhặt nấm thì giỏi lắm. Bây giờ ta chén xúp nấu cải bắp
đã; rồi họ sẽ lại gọi tớ lên bắt tớ đọc kinh và cho tớ ăn đòn. Sau tớ sẽ trở
lại đây. Ta sẽ đi ngủ. Tờ mờ sáng, ta sẽ chuồn thẳng đến khu Kitaigorod, qua
sông Moskva, rồi sau thế nào sẽ hay. Tớ có nhiều bạn bên ấy. Đáng lẽ tớ đã trốn
lâu rồi nhưng không có bạn đi cùng...
- Chà, giá mà được một người lái buôn thuê
mình đi bán bánh chả thì hay quá, - Alioska nói.
Trên thềm nhà, cánh cửa bỗng đóng sầm. Bọn
khách đã ra về, chân bước làm bậc thềm kêu răng rắc. Danila cất tiếng gọi
Alexaska nghe thật ghê tợn.
Chương 9
Phố Vavacka có một ngôi nhà gỗ thấp lè tè có sáu khuôn cửa sổ, sống
nóc chạm trổ hình những con ngựa, gà trống. Đó là một ty bán rượu, một quán
hàng của Sa hoàng. Phía trên cổng to mở rộng có treo một cái sọ cừu đực: bất
luận ai muốn vào quán cũng được. Ngoài sân, trên những đống tuyết vàng khè vì
nước đái, trên những đống phân, mấy người say rượu đang nằm bất tỉnh: người thì
mặt mày máu me bê bết, kẻ thì bị lấy mất cả ủng, cả mũ lông.
Nhiều xe trượt tuyết đỗ trước cổng và ngoài
sân: những cỗ xe lớn có đóng ngựa rất rộng, không có chỗ để ngồi; và những
chiếc xe của bọn lái buôn có lưng tựa tô màu lòe loẹt, trong nhà, lão chủ quán
vẻ mặt khắc nghiệt, đôi lông mày màu nâu, đứng sau quầy rượu. Trên giá để nhiều
chai lọ, nhiều cốc bằng thiếc. Ở một góc nhà, trước tranh liệt thánh tối om, le
lói mấy ngọn đèn dong đêm. Sát tường kê mấy chiếc ghế dài, một cái bàn dài. Bên
kia vách là một căn buồng khác, sạch sẽ hơn, dành riêng cho bọn lái buôn. Nếu
một gã rách rưới hay một anh thợ thủ công say rượu định bước vào buồng đó thì
lão chủ quán liền cau mày và bắt họ quay ra ngay. Nếu họ không nghe, hắn túm
ngay lấy đũng quần rồi đá đít họ tống ra khỏi quán. Cái buồng thứ hai kia là
nơi diễn ra các cuộc chuyện trò đứng đắn: bọn lái buôn ngồi uống bia có pha
gừng và rượu mật ong hòa với gia vị. Họ mặc cả với nhau, ngã giá rồi đập vào
tay nhau tỏ ý ưng thuận. Họ bàn tán về tình hình, mà tình hình lúc này đang
xoay chuyển khiến bọn lái buôn phải gãi đầu gãi tai phân vân lưỡng lự. Trong
căn buồng thứ nhất, ở trước quầy rượu, bọn sâu rượu hò hét om sòm, hết nguyền
lại rủa. Không sao, cứ uống đi, cứ vui cho thỏa thích đi, miễn là phải trả tiền
sòng phăng. Ngân khố rất ngặt. Không có tiền à? Thì đưa áo trong đây. Và khi
khách chẳng còn gì nữa thì chủ quán đưa mắt nháy gã thơ lại, - gã này ngồi ở
góc bàn, ngọn bút lông ngỗng gài mang tai, một lọ mực lủng lẳng ở cổ, gã thơ
lại bèn viết lia lịa đen ngòm cả giấy. Ôi thôi, hãy mau mau tỉnh lại, hỡi anh
bạn điên rồ còn đang bị ma men ám ảnh. Gã thơ lại khôn ngoan sẽ thảo cho anh
một tờ cam kết làm nô lệ. Khi đặt chân vào quán rượu của Sa hoàng, anh là một
người tự do nhưng lúc bước ra khỏi quán anh sẽ trần như nhộng và trở thành nô
lệ.
- Hôm nay, uống rượu ít nguy hiểm hơn, -
lão chủ quán vừa ba hoa thuyết lý, vừa rót rượu khổ ngải vào một chiếc cốc bằng
thiếc. - Hôm nay thì bạn bè, họ hàng hay vợ anh đến tìm anh, lôi anh về trước
khi anh uống hết nhẵn tiền. Hôm nay thì chúng tôi mặc cho họ kéo nhau đi, không
đuổi theo. Cứ về đi! Cầu Chúa phù hộ cho anh. Cũng như trước kia, dưới thời cố
Sa hoàng Aleksey Mikhailovich, cũng có khi có người muốn dìu một anh bạn say
mềm ra về để hắn khỏi nốc rượu hết đến đồng kopeik cuối cùng. Không được! Làm
như thế là thiệt hại đến Ngân khố! Ngay đồng kopeik ấy Ngân khố cũng cần. Lập
tức tôi gọi đội cảnh vệ đến. Bọn lính gác tóm ngay lấy anh chàng định can bạn
đừng uống rượu rồi giải đến Bộ Hình. Ở đấy người ta sẽ đem gã ra xử, chặt tay
trái và chân phải gã, rồi quẳng gã vào chỗ nước đóng băng... Uống đi, các con
chim ưng của tôi, cứ uống đi đừng lo ngại gì cả, hôm nay người ta không chặt
chân chặt tay ai đâu...
Chương 10
Hôm đó thiên hạ chen chúc nhau trước
quán rượu, người nọ bíu lấy người kia nghểnh cổ dòm qua cửa sổ. Ngoài sân, trên
thềm, không tài nào lách được một lối đi. Người ta thấy nhan nhản những áo nẹp
của bọn xtreletz: cái thì đỏ, cái thì
xanh lá cây, cái thì màu vỏ quýt.
Đám đông nhốn nháo, đè lên nhau: “Cái gì
thế hả? Ai đấy? Tại sao thế?”. Bên trong quán rượu, trong căn buồng sạch sẽ nọ,
bọn xtreletz đang ngồi cùng bọn chủ
hiệu buôn to. Hơi người thở ra đọng lại thành những dòng nước nhỏ chảy trên ô
kính cửa sổ. Bọn xtreletz đã vực vào
quán rượu một người đàn ông bị đánh nhừ tử. Người đó nằm lịm, thân hình hắn béo
tốt, mớ tóc hoa râm bết máu họng, mũi, má đầy thương tích. Bọn xtreletz trỏ vào người đó, hét lên:
- Rồi đây, không lâu đâu, chúng sẽ làm như
vậy với các ông.
- Các ông mê ngủ à? Nhưng bọn ở xloboda Kukui, chúng không mê ngủ đâu...
- Này anh em, tụi Đức lại đánh người của
chúng ta hả?
- May mà chúng tôi đi qua, bênh hắn...
không có chúng tôi thì hẳn chúng đã nện hắn đến chết rồi...
- Thời mồ ma Sa hoàng, có ai thấy những
chuyện như thế này đâu? Có ai để cho tụi ngoại quốc bắt nạt người mình đâu?
Opsey Rezov lính xtreletz của trung đoàn Pyzov đang tìm cách làm cho bè bạn hắn
nguôi giận; hắn chào bọn lái buôn sụ và nói:
- Thưa các vị thương gia tai mắt, chúng tôi
đến với các vị. Chúng tôi không còn biết đem vợ con đi đâu nữa. Thật là cảnh
khổ sở cùng cực... Gần hai năm nay, người ta không trả lương cho chúng tôi. Bọn
đại tá bắt chúng tôi làm những công việc hết sức nặng nhọc. Làm thế nào mà sống
được? Và sống bằng gì? Người ta không cho phép chúng tôi buôn bán trong thành
phố. Ở ngoại ô thì chật chội... Bọn người Đức đã nắm hết mọi thứ trong tay. Giờ
đây, chúng đã mua rấm trước tất cả đay và gai rồi. Lũ quỷ què ấy mua da rồi
mang về xloboda Kukui thuộc lấy; làm
lấy. Phụ nữ chẳng ai thèm mua giầy của người mình, do những thợ thủ công ở
ngoại ô làm; họ đòi giầy của người Đức làm kia. Cuộc sống trở nên không sao
chịu nổi nữa rồi. Nếu các vị không bênh vực đám xtreletz chúng tôi thì các vị nên nhớ rằng, các nhà buôn như các vị
rồi đây cũng sẽ chết. Bè lũ Narytskin rút cuộc đã nắm được Ngân khố trong tay...
Bọn chúng tham lam vô độ. Các vị hãy chờ đấy, rồi đây sưu thuế sẽ nặng đến mức
các vị chỉ còn có chết thôi. Hãy chờ đón những điều còn tệ hại hơn thế nữa.
Viên đại thần Matveev bị đi đày bây giờ đang trên đường trở về... lòng đầy căm
thù. Lão sẽ ăn gỏi Moskva cho mà xem.
Những tiếng rên rỉ của kẻ bị đòn nhừ tử
nghe thật khủng khiếp. Những lời nói của gã xtreletz
nghe cũng rùng rợn, khó hiểu. Bọn nhà buôn đưa mắt nhìn nhau. Họ khó tin được
rằng cái anh chàng bán hàng tội nghiệp kia đã bị bọn người Đức ở Kukui đánh đập
tàn nhẫn.
Việc này xem ra có điều mờ ám. Vậy mà bọn xtreletz nói đúng. Hiện giờ đời sống khó
khăn thật. Mỗi năm sự nghèo khổ lại tăng lên, mỗi năm lại thêm thấp thỏm lo âu.
Mỗi khi có một sắc chỉ mới: “Sa hoàng đã truyền, các vị đại thần đã quyết định”,
là lại có một tai họa mới:
Nộp tiền mau, đem tiền mà vứt vào vực thẳm.
Kêu với ai? Mà ai bênh vực mình? Bọn quý tộc quyền thế? Chúng chỉ biết rõ mỗi
một việc là thu tiền về cho Ngân khố. Nhưng bằng cách nào và đào đâu ra tiền?
Cái đó chúng không cần biết. Cởi áo lót của anh ta, đưa đây.
Thật cứ như thể Moskva bị địch chiếm đóng
vậy. Một gã lái buôn vung bàn tay đeo đầy nhẫn bạc, lách vào trong vòng người
xúm quanh kẻ bị đánh.
- Chúng tôi đây, tức là nhà Vorobiev. - hắn
nói, - chúng tôi đem tơ sống đến hội chợ Arkhangensk. Thế nhưng bọn người Đức
đã đồng tình bảo nhau không mua lấy một xu tơ của tôi. Và tên bang trưởng của
chúng, tức là lão người Đức Vunfiux, nói vào mặt chúng tôi: “Chúng ta sẽ làm
cho bọn nhà buôn ở Moskva phải chịu roi vọt vì công nợ và trong tương lai,
chúng ta sẽ buộc họ - nghĩa là chính chúng sẽ buộc chúng ta, những nhà buôn ở
Moskva - chỉ còn buôn ủng gai được mà thôi”.
Tiếng ồn ào nổi lên khắp căn nhà gỗ. Bọn xtreletz hét lên:
- Đấy, chúng tôi đã bảo mà. Chẳng bao lâu
nữa rồi đến ủng gai cũng không còn?
Anh chàng lái buôn trẻ tuổi Bordan Zigulin
nhảy vào giữa vòng người, bộ tóc quăn xõa sợi:
- Tôi ở Bạch Hải về, - hắn hăng hái nói, -
Tôi đến đấy để mua mỡ hải cẩu. Thế nhưng tôi đi không lại về không, mấy cỗ xe
rỗng tuếch. Hai tên ngoại quốc Maxlin và Bierkovov đã mua trước của miền duyên
hải tất cả mỡ hải cẩu trong mười năm. Và tất cả dân miền duyên hải đều là con
nợ của chúng. Bọn chúng mua mỡ của dân với giá tiền chỉ bằng một phần tư giá
thị trường và cấm họ bán mỡ cho người khác. Dân chúng đang sống trong cảnh khổ
cực; họ không ra biển đi săn nữa, tan tác mỗi người một nơi. Hiện nay người ta
cấm người Nga chúng ta đi lên miền Bắc.
Bọn xtreletz
xắn tay áo lên, lại lớn tiếng hò hét. Opsey Rezov cầm gươm gõ mạnh, nghiến răng
rít lên:
- Thời cơ đến, chúng ta sẽ thanh toán tụi
đại tá! Xong rồi mới đến lượt bọn quý tộc... Chúng ta sẽ kéo chuông báo động
khắp thành Moskva. Tất cả ngoại ô đều theo chúng ta. Nhưng các vị thương gia,
các vị hãy ủng hộ chúng tôi! Nào, các anh em, khiêng hắn lên, chúng ta đi nào...
Bọn xtreletz
nắm lấy gã bị đòn, gã này cất tiếng la om lên đầu lắc lư:
- Trời ôi, người ta giết tôi... ôi... ôi.
Đẩy mọi người lùi lại, họ kéo gã ra khỏi
quán rượu, đi đến Hồng trường để cho công chúng trông thấy. Bọn nhà buôn phân
vân ở lại trong quán. Hỏng, hỏng bét! Làm gì bây giờ? Liên kết với bọn xtreletz ư? Chúng là những đứa khố rách
áo ôm, chúng chẳng có gì mà mất cả... Không liên kết với chúng chăng? Bọn quý
tộc sẽ ăn thịt họ ngay.
Chương 11
Lần đó, sau giờ đọc kinh buổi chiều,
Alexaska bị một trận đòn tàn nhẫn: nó phải cực nhọc mới lê được về tầng nhà
dưới cùng. Nghiến răng, không thốt nửa lời, nó kéo chăn lên đắp kín người.
Alioska mang một ít cháo hòa sữa lại cho nó ăn trên bếp lò. Alioska thương hại
nó vô cùng:
- Chao ôi, anh bạn tội nghiệp, người ta
hành hạ cậu tệ quá!
Alexaska nằm lì suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ ở chỗ ấm áp nhất, ngay cạnh ống khói bếp lò. Nó thấy trong người dễ
chịu, lại mở miệng nói:
- Một ông bố như thế, phải đem ra mà đánh
róc xác cho chết đi, cái đồ quái vật độc ác ấy! Alioska, cậu lấy trộm ít dầu
thắp đèn cho tớ, chai dầu để ở phía sau những tranh thánh ấy! Tớ sẽ bôi dầu lên
hai mông đít. Sáng mai vết thương ở mông sẽ khô, ta sẽ chuồn thẳng... Tớ sẽ
không trở về nhà nữa, thà chết đường chết chợ còn hơn.
Suốt đêm, bên ngoài bức tường dựng bằng
những súc gỗ tròn, trời nổi bão dữ dội, tiếng ma quỷ hú lên từng hồi trong ống
khói bếp lò. Đứa con gái chị nấu bếp khóc thút thít. Alioska nằm mơ thấy mẹ nó
đứng giữa căn nhà gỗ ám khói, khóc sướt mướt mà mắt vẫn mở trừng, luôn luôn đưa
tay lên ôm lấy đầu, miệng than vãn không ngớt... Trong giấc mơ, lòng Alioska se
lại. Trời vừa hửng sáng, Alexaska đã huých khuỷu tay vào người Alioska gọi:
- Thôi, không ngủ nữa, dậy đi cậu.
Hai đứa trẻ vừa gãi, vừa cẩn thận xỏ chân
vào ủng. Tìm thấy nửa chiếc bánh mì to chúng vớ luôn lấy, huýt sáo gọi cho chó
khỏi sủa rồi mở phía dưới cổng lọt ra đường. Buổi sáng hôm ấy yên tĩnh, bầu
trời âm u, ẩm ướt. Băng nhũ đọng ở gờ mái nhà rơi lộp bộp. Phố xá lát bằng gỗ
tròn ngoằn ngoèo, tối om. Xa xa phía bên kia cái thành phố toàn nhà bằng gỗ,
ánh bình minh toả ra, gần gũi, thành từng vệt dài đỏ như tiết, ẩn hiện trong
sương mù. Trong các phố, bọn người canh đêm đang uể oải dẹp những hàng rào chắn
đặt ban đêm để đề phòng bọn vô lại trộm cướp. Bọn ăn mày, bọn người tàn tật,
bọn dở người đang vừa đi vừa chửi bới lẫn nhau. Họ ra đi thật sớm để chiếm chỗ
trên thềm các nhà thờ. Trong phố Vozvizenka đầy phân súc vật, người ta đang dẫn
bầy súc vật sống om sòm ra sông Neglinnaia cho chúng uống nước. Hai chú bé đi tới
tháp tròn ở cửa ô Boroviskie cùng một lúc với bầy súc vật. Một gã ngự lâm pháo
thủ người Đức, mặc áo khoác lông cừu, ngủ gà ngủ gật trước những khẩu đại bác
bằng gang.
- Ở đây, đi đứng phải thận trọng, Sa hoàng
không xa đâu, - Alexaska nói.
Men theo bờ sông dốc, đầy những đống rác
rưởi tro tàn của con sông Neglinnaia, chúng đi tới cầu Ivecski rồi sang cầu.
Giờ thì trời đã sáng bạch. Phía trên thành phố, những đám mây xám đang lững lờ
trôi. Một cái hào sâu chạy theo dọc tường điện Kreml. Những chiếc cọc mục nát
nổi lềnh bềnh đâu đó, tàn tích của những chiếc cối xay gió mới bị phá hủy. Trên
bờ hào sừng sững mấy chiếc giá treo cổ, mỗi giá là hai cái cột trên đặt một
thanh xà ngang. Ở một giá xử giảo lủng lẳng một người đàn ông dài thườn thượt,
chân đi ủng gai, tay bị trói giật cánh khuỷu. Cái mặt cúi gập xuống ngực đã bị
quạ rỉa.
- Kìa, lại hai người nữa, - Alexaska nói,
dưới đáy hào, ngổn ngang xác chết tuyết vùi gần kín. - Bọn kẻ cướp đấy, cậu xem
người ta trừng trị chúng như thế nào!
Quảng trường vắng ngắt, từ chỗ nhà thờ nhỏ
Ivecskaia cho đến nhà thờ lớn thánh Bazil quét vôi trắng toát với những nóc
tròn màu lam, dựng trên một nền nhà cũng màu lam. Vệt xe trượt tuyết lượn ngoằn
ngoèo trên quảng trường cho đến tận cửa ô Xpaskie. Dựng trên cửa ô là con chim
ưng bằng vàng đứng dạng hai chân; một đàn quạ đen nghịt bay lượn kêu ầm ĩ hoảng
loạn như chúng thường kêu về mùa xuân. Khi kim đồng hồ chỉ tám giờ trên cái mặt
đồng hồ đen, chuông đồng hồ nổi lên một điệu nhạc nước ngoài. Alioska vội vàng
bỏ mũ lông ra và làm dấu thánh giá, mắt nhìn vào tháp. Ở đây, nó thấy sợ.
- Này Alexaska, chuồn đi thôi, họ có thể
trông thấy bọn mình.
- Đi với tớ, cậu không phải sợ gì cả, ngốc
ạ.
Chúng đi qua quảng trường. Ở phía bên kia,
những cửa hiệu và quán hàng ghép bằng ván, những cửa hàng nhỏ quây chiếu vỏ
gai, dựng xít vào nhau. Đám nhà buôn mở khóa cửa, bày hàng lên trên những con
sào. Trong dãy những cửa hàng bánh mì, khói từ bếp lò bốc lên nghi ngút, tỏa ra
mùi bánh nướng thơm phức. Từ khắp các ngõ hẻm lân cận, dân chúng ùn ùn kéo đến.
Dù có người nện vào gáy Alexaska hay nguyền rủa nó, nó cũng mặc, miễn sao chỗ
nào nó cũng gí được mũi vào một tí. Len lỏi trong đám người đông đúc, nó đến
tận các cửa hiệu, bắt chuyện với nhà buôn, hỏi han giá cả, bông phèng. Alioska
miệng há hốc, phải chặt vật lắm mới đi theo được nó. Trông thấy một bà to béo,
mặc áo khoác dạ, đầu đội mũ lông cáo chùm lên chiếc khăn quàng, Alexaska bèn
kéo lê chân, toàn thân run rẩy, lắp bắp nói:
- Bẩm bà... à... à... cao quý, xin... in...
in bà làm... àm... phúc... úc cho một đứa trẻ mồ... ồ ồ... côi... ôi... khốn...
ốn... khổ... ổ đang chết... ết... đo... ói...
Mụ lái buôn góa chồng, vén váy, móc ví đeo
ở bụng lấy ra hai đồng nửa kopeik cho Alexaska rồi nghiêm mặt làm dấu. Hai chú
bé liền chạy đi mua bánh chả và uống rượu mật ong hòa gia vị nóng hổi.
- Tớ đã bảo cậu mà, đi với tớ, không có sợ
gì cả mà! - Alexaska nói.
Người vẫn ùn ùn kéo đến. Có người đến để
nhìn thiên hạ và hóng chuyện người ta bàn tán, kẻ thì đến để trưng quần áo mới
và lại có những kẻ đến để hễ có gì sơ hở là khoắng ngay một mẻ. Trong một ngõ
hẻm, tóc vụn rải rác trên tuyết như một bức thảm dạ, đám thợ cạo bập kéo lách
cách gọi khách. Một gã thợ cạo để khách hàng ngồi lên một súc gỗ cắm xuống
tuyết rồi chụp lên đầu khách một cái nồi đất, lấy kéo cắt chỗ tóc thò ra khỏi
miệng nồi. Ồn ào nhất là dãy hàng tạp hóa. Ô đây, những mụ đàn bà lắm lời, gào
lên như có đám cháy trong khi mua bán kim, chỉ, khuy, mọi thứ lặt vặt. Alioska
sợ lạc nên tay không rời thắt lưng Alexaska. Khi chúng trở lại quảng trường thì
có một người đàn ông chạy qua, miệng kêu cái gì không rõ. Một đám người dầy đặc
từ phố Vavacka tiến lại, tiếng hú, tiếng còi nhức óc.
Bọn xtreletz
giơ thẳng tay lên, khiêng người bị đánh. Giọng đầy nước mắt, họ quay về các ngả
hét to lên:
- Hỡi các đạo hữu chính thống! Các bạn hãy
nhìn xem chúng hành hạ người bán hàng này như thế nào...
Người ta đặt kẻ bị thương vào một chiếc xe
trượt tuyết đã tháo ngựa. Gã xtreletz
Opsey Rezov trèo lên xe, rồi lặp lại cái luận điệu cũ của gã - Gã nói:
- Bọn Đức điên cuồng như lũ chó dại đã đánh
đập gần chết một người buôn bán hiền lành và bọn quý tộc quyền thế sắp sửa dâng
cả thành phố Moskva cho bọn ngoại quốc muốn làm gì thì làm!
Alexaska và Alioska len lỏi đến tận chỗ
chiếc xe. Alioska ngồi thụp xuống, bỗng nhận ra ngay người bị đánh là bác bán
hàng béo có cặp mắt ti hí, đội mũ lông thỏ rừng đã bán cho nó hai cái bánh chả
ở quảng trường Lubianka. Hắn sặc sụa mùi rượu vodka và rên rỉ mãi đã mệt nhoài.
Hắn nằm nghiêng người, úp mặt vào rơm, khẽ lải nhải:
- Ôi, ôi, hãy vì Chúa để cho tôi đi, đừng
giữ tôi ở đây!
Opsey Rezov làm dấu thánh giá, rồi hướng về
phía các nhà thờ và đám cử tọa, nghiêng mình chào. Trong đám đông có tiếng bọn xtreletz
xì xào. Cơn phẫn nộ mỗi lúc một tăng. Bỗng có tiếng hô: “Họ kia rồi, họ kia rồi”.
Từ cửa ô Xpaskie, trên vết đường do xe trượt tuyết để lại, hay kỵ sĩ phi ngựa
tới. Người thứ nhất mặc áo dài của quân xtreletz
màu vỏ quýt, đầu đội mũ lông lệch xuống mang tai một cách ngang tàng. Thanh
gươm cong nạm kim cương đập vào chiếc chăn nhung trùm mông ngựa. Không hề kìm
ngựa chậm lại, người đó bỏ dây cương mặc ngựa lao vào đám đông. Nhiều người
hoảng sợ, giơ tay nắm dây cương giữ ngựa lại. Người kỵ sĩ quay phắt đầu lại, để
lộ hàm răng thưa vàng khè. Người đó trán rộng, mắt sâu và râu cứng. Đó là
Yararui, biệt hiệu của dân Moskva đặt cho lão vương hầu Ivan Andreevich
Khovanski, một tên tổng trấn, dòng dõi quý tộc quyền thế lâu đời và kẻ thù bất
cộng đái thiên với họ Narytskin dòng dõi tầm thường. Thấy lão mặc áo dài của
trung đoàn họ, đám xtreletz kêu lên:
- Đức ông đứng về phe chúng ta, Ivan
Andreevich đứng về phe chúng ta.
Rồi họ chạy vội về phía lão. Người kỵ sĩ
thứ hai tới chậm hơn là Vaxili Vaxilievich Golixyn. Hắn vừa vỗ về cổ ngựa vừa
hỏi:
- Hỡi các đạo hữu chính thống, anh em làm
loạn à? Ai đã làm gì thiệt hại đến anh em? Và về vấn đề gì? Nói đi, chúng ta
suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến lợi ích của dân thôi. Ở trên kia. Sa hoàng đã
trông thấy các anh em, nhưng vì Sa hoàng còn nhỏ nên ngài sợ và phái chúng ta
ra xem sự thể ra sao.
Đám đông mồm há hốc, ngắm nghía chiếc áo
khoác bằng gấm của hắn - với giá tiền chiếc áo khoác nầy, người ta có thể mua
được nửa thành phố Moskva, họ ngắm nghía những chiếc nhẫn có nạm ngọc đeo trên
mấy ngón tay đang vuốt ve con ngựa. Mấy chiếc nhẫn lóe ra muôn vàn ánh sáng.
Đám đông lùi lại không trả lời. Vaxili Vaxilievich cười, thúc ngựa tiến lên
đứng song song sát bên ngựa Khovanski. Bọn xtreletz
kêu với Vaxili Vaxilievich:
- Đức ông hãy giao bọn đại tá cho chúng
tôi. Chúng tôi sẽ đem chúng ra xử lấy: treo đầu chúng trên đỉnh một tháp
chuông. Những vị quý tộc quyền thế ở trên ấy nghĩ gì? Tại sao họ lại buộc chúng
tôi phải chấp nhận một đứa bé con, cái thằng nhãi nhép của nhà Narytskin làm Sa
hoàng?
Khovanski đưa mép bao tay vuốt bộ ria hoa
râm của lão. Lão giơ tay lên. Mọi người im lặng.
- Hỡi quân xtreletz! - Lão nhổm người trên yên ngựa. Mặt đỏ tía tai, lão cất
cái giọng ồ ồ cố nói thật to để cho những người đứng xa nhất cũng nghe rõ - Hỡi
quân xtreletz, bây giờ chính bản thân
các ngươi đã thấy được cái ách không sao chịu nổi mà bọn quý tộc quyền thế đè
lên đầu lên cổ các ngươi. Bây giờ bọn chúng đã chọn, có Chúa biết được, một Sa
hoàng như thế nào. Không phải ta đã tôn Sa hoàng đó lên ngôi. Rồi đây các ngươi
sẽ thấy: không những chúng sẽ không trả lương cho các ngươi mà còn chẳng cho
các ngươi có gì mà ăn nữa. Rồi các ngươi sẽ phải làm như tụi nông nô. Rồi con
cháu các ngươi sẽ suốt đời làm nông nô cho nhà Narytskin. Hơn thế nữa... chúng
sẽ bán các ngươi, chúng sẽ bán tất cả chúng ta cho bọn ngoại quốc... Chúng sẽ
phá hủy Moskva và đạo Chính thống... Sức mạnh của người Nga xưa kia, nay đâu
rồi, hở các bạn?
Nghe đến đấy, đám đông gào thét một cách
kinh khủng đến nỗi Alioska đâm hoảng:
- Thôi chết rồi, họ sắp sửa dẫm bọn mình
chết bẹp mất!
Alexaska Melsikov nhảy từ chiếc xe này sang
chiếc xe khác, đút hai ngón tay vào miệng huýt sáo. Người ta chỉ nghe thấy
tiếng nói của Yararui đang gân cổ gào lên:
- Hỡi quân xtreletz, hãy tiến lên! Chúng ta hãy qua sông đến chỗ các trung
đoàn đóng quân bên đó rồi ta sẽ bàn tính sau.
Chương 12
Trên quảng trường chỉ còn lại chiếc xe
trượt tuyết đã tháo ngựa. Alioska và Alexaska. Người bán bánh bị đòn nhổm dậy,
hé cặp mắt sưng vù nhìn quanh rồi xỉ mũi một hồi lâu.
- Bác ơi, - Alexaska vừa nói với bác bán
bánh, vừa nháy mắt với Alioska, - chúng cháu xin dẫn bác về đến tận nhà, chúng
cháu thương bác quá.
Người bán bánh vẫn chưa hoàn hồn. Hai đứa
bé dìu hắn, hắn loạng choạng bước đi miệng lẩm bẩm. Bỗng hắn đẩy bọn trẻ ra rồi
quát: “Đứng lại!”. Hắn hăm dọa ai không rõ, đôi ủng dạ to sù dậm thình thịch.
Cả bọn qua sông đi về phía cửa ô Serpukhovskie. Dọc đường bác bán bánh nói cho
lũ trẻ biết tên mình là Feka Zaiatz. Nhà hắn ở ngoại thành, không lấy gì làm
to. Trên mảnh đất rào kín của hắn mọc độc một cây to trên có nhiều tổ quạ nhưng
cái cổng ra vào và cái nhà gỗ thì mới làm. Zaiatz vui mừng khi trông thấy nơi
ăn chốn ở của mình.
- Kia rồi, những chiếc bánh chả bé nhỏ và
những chiếc bánh sừng bò của ta kia rồi, những chiếc bánh nướng nhân mật ong
xinh xẻo của ta, chúng sẽ cứu ta.
Một người đàn bà mặt rỗ, mắt chột, ra mở
cái cửa con. Zaiatz đẩy mụ ra, Alexaska và Alioska lỏn theo sau hắn. Zaiatz
định đuổi chúng đi:
- Chúng mày đi đâu? Vào làm gì?
Nhưng rồi hắn khoát tay tỏ vẻ mặc kệ và
bước vào nhà. Hắn ngồi xuống một cái bục trên rải chiếu mới dệt bằng vỏ gai, và
bắt đầu chú ý xem xét thân hình mình. Quần áo hắn rách bươm. Hắn lắc đầu lia
lịa rồi khóc ròng:
- Chúng nó đánh tôi nhừ tử, - hắn nói với
người đàn bà chột. - Đứa nào đánh, và vì cớ gì tôi cũng không nhớ. Đưa quần áo
đây cho tôi thay!
Bỗng hắn hét lên, tay đập đen đét xuống
bục:
- Đi đốt lò tắm hơi đi, tao bảo mày đấy,
con chó cái chột kia!
Người đàn bà sụt sịt đi ra. Hai thằng bé
nép vào cái bếp lò chiếm nửa căn nhà gỗ, Zaiatz nói:
- Này các cháu đã cứu bác. Bây giờ các cháu
muốn xin gì bác cũng được! Người bác đau như giần. Chúng nó đánh bác gẫy xương
sườn rồi. Bây giờ bác làm thế nào mà mang được cái mẹt bán bánh nướng nữa? Chao
ôi! Thật là tai vạ... Vậy mà vẫn phải làm, vẫn phải tiếp tục đi bán hàng...
Alexaska một lần nữa lại đưa mắt nháy
Alioska:
- Chúng cháu không cần lấy thưởng, - nó
nói, - nhưng bác cho chúng cháu ngủ lại nhà bác đêm nay.
Khi Zaiatz tập tễnh đi vào buồng tắm hơi,
hai đứa bé trèo lên cái ổ trên lò.
- Ngày mai, chúng mình sẽ đi bán bánh chả
thay lão ta, - Alexaska thì thầm - Tớ đã bảo cậu là đi với tớ cậu không việc gì
mà sợ cả mà.
Sáng sớm tinh sương, người đàn bà chột đem
bỏ lò nướng đủ loại bánh chả; có loại bánh ngọt nhân củ cải, đậu hột hay nấm
muối, có những loại bánh mặn nhân thịt thỏ rừng, thịt bò hay nhồi mì. Feka
Zaiatz nằm rên rỉ trên bục, mình đắp cái áo lông. Hắn không sao cử động chân
tay được. Alexaska quét nhà, chạy ra sân xách nước, vác củi vào, đổ tro, đổ
nước rửa bát. Nó làm mọi việc nhanh như chớp, vừa làm vừa bông đùa; theo lời nó
bảo, Alioska cho gia súc của Zaiatz uống nước.
- Mày tháo vát đấy, - Zaiatz rền rĩ - chà,
tao cũng muốn để mày mang bánh chả ra chợ bán, nhưng bán được bao nhiêu mày sẽ
cuỗm rồi chuồn thẳng, mày sẽ ăn cắp của tao mất thôi! Chú mày láu cá lắm.
Alexaska liền hôn chiếc thánh giá đeo ở cổ
là kỷ niệm ngày lễ rửa tội rồi thề rằng nó sẽ không ăn cắp chỗ tiền ấy. Nó tháo
ở tường ra một bức tranh vẽ bốn mươi vị thánh rồi ghé miệng hôn. Đến thế thì
Zaiatz cũng đành phải tin nó. Người đàn bà bày hai trăm cái bánh chả lên hai
cái mẹt, trên phủ một mảnh vải cũ. Alexaska và Alioska mỗi đứa đeo một cái tạp
dề, nhét đôi bao tay vào thắt lưng rồi mang mẹt bánh ra đi.
- Ai mua bánh chả nhân mật ong nóng sốt,
nửa xu một đôi không? Bánh chả vừa mới ở lò ra ngày hôm nay đây, - Alexaska cất
tiếng rao lanh lảnh, mắt nhìn người qua đường. - Ai mua bánh chả nào, ai mua
nào, lại đây mua bánh chả đi!
Trông thấy một toán xtreletz đang dừng chân nghỉ, nó nhón chân nhảy một điệu múa, miệng
rao to:
- Ai mua bánh chả lại đây mà mua! Bánh chả
của Sa hoàng, của các vị đại thần đây. Ở điện Kreml tôi đã bán nhiều rồi nhưng
họ giã tôi một trận nên thân, nhà Narytskin đã ăn bánh này và đã bị té re.
Bọn xtreletz
cười rộ tranh nhau mua bánh. Alioska cũng ba hoa rao hàng. Hai đứa đi chưa
tới sông đã phải quay về lấy mẻ bánh khác.
- Chính Chúa đã run rủi các cháu đến đây, -
Zaiatz ngạc nhiên nói.
Chương 13
Đã hơn hai tuần nay, Mikhail Tyktov lang thang trong thành phố
Moskva, không có việc làm mà cũng chẳng có tiền. Hôm trước, ở quảng trường
Lubianka, bọn thơ lại đã chế giễu hắn. Họ đã không cho hắn một tấc đất, một tên
nông nô nào. Lão vương hầu Romodanovski đã chửi mắng hắn tàn nhẫn làm cho hắn
xấu hổ chín cả người. Lão truyền cho hắn năm sau phải trở lại nhưng phải cưỡi
ngựa tốt mà đến cho đúng phép. Mikhail rời quảng trường Lubianka đến một quán
rượu để ngủ trọ đêm. Dọc đường, hắn gặp anh hắn và người anh lại nhiếc móc sự
nhục nhã của hắn rồi lấy lại con ngựa thiến nhưng quên không lấy lại thanh gươm
cùng chiếc đai đeo gươm bằng lụa kẻ sọc trên có đính những miếng bạc của ông
cha họ để lại. Ngay tối hôm đó, Mikhail chếnh choáng rượu vodka ngâm tỏi, gán
phăng cả gươm lẫn đai cho người chủ quán. Có hai gã người Moskva, láu lỉnh, bám
chặt lấy Mikhail: một gã tự xưng là con nhà buôn, còn gã kia nói mình là thơ
lại: kỳ thực chúng chỉ là những kẻ suốt ngày la cà nơi trà đình tửu điếm, chúng
thi nhau tán dương tài ba của Mikhail, hôn lên môi hắn, hứa hẹn với hắn mọi thứ
vui thú. Mikhail ăn chơi với bọn chúng liền một tuần. Chúng kéo xuống cái hầm
nhỏ của một tên Hy Lạp rồi cùng nhau hút thuốc lá nhồi trong sừng bò cái đổ đầy
nước; bọn chúng hút cho đến lúc say tê mê chẳng còn biết trời đất gì nữa: đủ
mọi thứ hiện tượng ma quái, hình ảnh khoái trá, rùng rợn hiện lên trước mắt
chúng... Chúng lại dẫn hắn đến những nhà tắm mà Sa hoàng cho dựng ở bờ sông
Moskva để dân chúng dùng; bọn chúng đến đó cốt không phải để tắm hơi nước mà để
nhìn và phá lên cười khi có đàn bà trần truồng từ đám hơi nước mù mịt đi ra
phòng thay quần áo công cộng tay cầm cái chổi con tết bằng cành phong để che
người. Cái đó đối với Mikhail cũng có vẻ huyền ảo như khi hắn say trong làn
khói thuốc lá. Chúng lại định kéo hắn đến nhà một mụ cô đầu. Nhưng Mikhail hãy
còn rất trẻ, sợ không dám đụng đến quả cấm. Hắn nhớ lại cha hắn, sau giờ đọc
kinh chiều, thường lấy ngón tay gạt bấc nến, mở một cuốn sách cổ bọc da có móc
cài bằng đồng, giở đến trang góc nhầy mỡ, rồi đọc lên những lời nói về đàn bà. “Đàn
bà là gì? Một màng lưới cám dỗ để quyến rũ đàn ông. Mặt mày sáng sủa, nó hết
nháy cặp mắt to lại uốn éo bộ đùi khêu gợi và nhóm một ngọn lửa ma quỷ nóng ran
khắp tứ chi. Đàn bà là gì? Là sào huyệt của rắn độc, là một bệnh hoạn, là cái
chảo của Ma vương, là một cơn thịnh nộ không mục đích, một sự cám dỗ xảo quyệt,
một sự vuốt ve của quỷ...”.
Như vậy thì làm sao mà chẳng khiếp sợ! Một
hôm, chúng lại dẫn hắn vào một quán rượu ở cửa ô Pokrovskoi. Cả bọn vừa ngồi
xuống thì từ phía sau cái chiếu dệt bằng vỏ gai dùng làm màn che, một người con
gái béo lùn, đầu bù tóc rối nhảy ra: cặp lông mày ả tô đen xì từ chân mũi ra
tận thái dương, hai con mắt ả tròn xoe, tai dài, má tím bầm, dính nhoe nhoét
nước củ cải đỏ. Ả vứt bỏ cái chăn làm bằng nhiều miếng vải sặc sỡ quấn quanh
người, rồi trần truồng, núng nính, trắng hếu, ả nhảy múa trước mặt Mikhail,
chìa tay này rồi tay kia ra mời Mikhail - đôi bàn tay đầy nhẫn và vòng đồng kêu
loong coong. Thân hình trần truồng, ghê tởm của ả làm Mikhail kinh sợ, trông ả
như quỷ cái... Người ả tỏa ra mùi mồ hôi nồng nặc, hơi thở sặc sụa mùi rượu
vodka... Bỗng Mikhail đứng phắt dậy, tóc dựng ngươc trên đầu, hắn thét lên một
tiếng man rợ, giơ tay toan đánh người con gái rồi đâm bổ ra ngoài. Ánh tà dương
màu vàng mùa xuân đang nhạt dần ở tít đầu con đường phố yên tĩnh. Không khí làm
người ta ngây ngất như men rượu. Lớp băng mỏng phủ trên những vũng nước vỡ răng
rắc dưới gót ủng. Đằng sau ngọn tháp màu chàm của pháo đài, trên đỉnh có cắm
một lá cờ con bằng sắt, vầng trăng đỏ như đồng điếu nhô lên từ phía sau cái nóc
tháp nhọn hoắc và chiếu thẳng vào mặt Mikhail. Hắn hoảng sợ... Hai hàm răng lập
cập, hắn cảm thấy ngực lạnh toát. Cửa quán rượu kẹt mở và trên thềm, người con
gái lúc nãy hiện ra như một cái bóng trắng lốp, giương mắt ngơ ngác hỏi:
- Sợ gì vậy, quay lại đây, mình.
Khiếp sợ đến phát điên lên được, Mikhail
chạy trốn. Chẳng bao lâu hắn hết nhẵn tiền. Hai gã kia bỏ hắn, Mikhail luyến
tiếc nhớ lại tất cả những thứ hắn đã ăn, đã uống, tất cả những cái hắn đã nhìn
thấy mà không đụng chạm tới, đi lang thang hết nhà này qua nhà khác. Trở về nhà
với bố ở nông thôn, thì hắn chẳng dám nghĩ đến. Sau cùng hắn nhớ đến người bạn
cùng lứa tuổi, Xtiovka Odoievski, con người bố đỡ đầu của hắn, và đến gõ cửa
nhà anh ta. Bọn gia nhân - đứa nào trông cũng như kẻ cướp - tiếp hắn chẳng niềm
nở chút nào. Một đứa bợp lấy chiếc mũ lông của hắn, quát lên:
- Làm sao bước lên thềm mà lại không bỏ mũ
ra là thế nào?
Tuy nhiên, hậm họe xong chúng cũng để cho
hắn vào. Trong phòng đợi rộng rãi, ấm áp, ghế phủ da thú, một gã thiếu niên đẹp
như tranh, mình mặc áo lót lụa, chân đi ủng ngắn da dê tuyệt đẹp, ra tiếp hắn.
Hắn vừa trâng tráo nhìn Mikhail vừa hỏi với một giọng ngọt ngào:
- Anh đến gặp đức ông có việc gì?
- Anh nói với Xtepan Xemionyts rằng có
người bạn Mitska Tyktov xin kính chào.
- Để tôi trình với đức ông! - gã thiếu niên
đáp lại, giọng như hát, rồi hất mớ tóc quăn óng ả như tơ, đi ra với một dáng
điệu uể oải.
Mikhail phải ngồi đợi. Nghèo thì phải nhũn
vậy. Gã thiếu niên trở ra giơ tay vẫy khách mời vào. Mikhail bước vào căn phòng
trần xây cuốn. Hắn hoảng sợ, giơ tay làm dấu thánh giá lia lịa, mắt nhìn về góc
phòng có treo tranh liệt thánh sau một bức màn gấm thêu ren bằng kim tuyến. Hắn
đưa mắt liếc quanh.
- À ra bọn nhà giàu sống như thế nầy đây.
Xa hoa biết là nhường nào. Tường căng toàn nhung. Trên sàn trải những tấm thảm
to nhỏ, sặc sỡ. Mấy chiếc ghế dài đều có vỏ nhung bọc ngoài. Trên bậu cửa sổ có
phủ khăn đính ngọc trai quý. Kê sát tường là mấy chiếc hòm và tủ phủ lụa và
nhung.
Xưa nay, Mikhail chưa hề dám tơ tưởng có
được một chiếc áo khoác hay một chiếc áo choàng may bằng bất cứ thứ hàng nào trong
những loại vỏ bọc đó. Đối diện với mấy khuôn cửa sổ là một cái tháp nhỏ bằng gỗ
bên trong để một chiếc đồng hồ quả lắc và trên có bày một con voi bằng đồng đỏ.
- A, chào Mitsa! - Xtiovka Odoievski đứng ờ
ngưỡng cửa nói.
Mikhail lại gần hẳn và cúi rạp đầu chào,
mấy ngón tay phải chạm xuống thảm. Xtiovka gật đầu đáp lại. Tuy nhiên, hắn chìa
bàn tay ướt nhơm nhớp ra để Mikhail bắt, như đối xử với con một nhà quý tộc chứ
không phải như với một kẻ nông nô.
- Mời anh ngồi, hôm nay anh là khách của
tôi.
Nói xong, hắn ngồi xuống trước, vung vẩy
cái gậy cầm tay; Mikhail ngồi xuống sau. Đầu Xtiovka cạo trọc lốc đội một cái
mũ tròn có dát ngọc. Trán hắn dô không có lông mày, mi mắt mọng đỏ, mũi hơi
lệch, cái cằm nhỏ lún phún, lông tơ. “Chỉ khẽ búng một cái là thằng nhãi ranh
nầy gẫy ngay xương sống, ấy thế mà nó giàu quá thể”, Mikhail tự nhủ thầm.
Giọng khúm núm đúng với kẻ nghèo hèn,
Mikhail kể lể những nỗi đắng cay của hắn và cảnh khốn cùng đã đầu độc quãng đời
thanh niên của hắn.
- Xtepan Xemionyts, hãy vì Chúa, chỉ bảo
cho tôi, kẻ tôi đòi của anh, tôi đi đâu bây giờ được? Tôi chỉ có cách là đi tu
hay mang gậy ra chặn đường ăn cướp mà thôi.
Nghe đến đó, Xtiovka ngửa phắt đầu tựa vào
tường, cặp mắt lồi mờ đi. Nhưng Mikhail không động cựa, làm như thể chỉ vì ngu
dốt mà nói đến gậy gộc.
- Xtepan Xemionyts, tôi không sao chịu nổi
cảnh khốn quẫn đáng nguyền rủa này nữa.
Cả hai người ngồi yên lặng một lúc. Mikhail
khẽ thở dài một cách lễ phép. Một nụ cười gằn nở trên môi, Xtiovka lấy đầu gậy
vạch theo hình một con quái vật có cánh dệt trên tấm thảm.
- Mitsa, anh muốn tôi khuyên bảo gì? Đối
với kẻ ranh mãnh thì có vô số cách nhưng đối với những kẻ ngu dại chỉ có bị
gậy, tù đày mà thôi. Đây này, như Volotka Tsemodanov chẳng hạn, hắn kiện nhau
với lão láng giềng và được kiện, lấy của lão ta hai cái làng màu mỡ. Leonti
Puxtoroxlev thì vừa đây cũng nhờ kiện cáo mà cướp được của nhà Sizov ở Moskva
cả một dinh cơ.
- Tôi cũng cơ nghe thấy nói đến và rất lấy
làm ngạc nhiên về những việc đó. Nhưng làm thế nào để được kiện? Đâu có phải
chuyện dễ!
- Anh chọn lấy một làng nào đó rồi cứ vu
khống bừa tên chủ đất. Ai cũng làm thế cả.
- Vu khống nghĩa là thế nào?
- Thế này này: bỏ một kopeik ra mua giấy và
mực của gã viết thuê rồi thảo một bức thư tố giác...
- Nhưng vu khống người ta cái gì? Tố giác
người ta cái gì?
- Anh ngây thơ quá, hãy còn trẻ con lắm,
Mitsa ạ. Đây này, Liovka Puxtoroxlev chẳng hạn, hắn đến nhà lão Sizov để ăn
mừng sinh nhật của lão. Hắn uống rượu thì ít mà chú ý nghe thì nhiều và nếu cần
thì cũng gật gù tỏ vẻ tán thành. Thế rồi lão Sizov đang ngồi ăn bỗng buột mồm
nói: “Cầu Chúa ban sức khỏe cho Sa hoàng Fedor Alekseevich cao cả của chúng ta
vì họ đồn Người sẽ băng hà trước khi hết tuần chay. Họ nói rằng đêm qua ở điện
Kreml có một con gà mái đã gáy gở...”. Puxtoroxlev không để lỡ cơ hội. Hắn đứng
phắt lên quát: “Lời nói và việc làm!”. Thế là họ tóm hết cả khách lẫn lão chủ
nhà mà hôm đó là ngày sinh nhật, điệu cả bọn về Bộ mật vụ. Puxtoroxlev khai: “Sizov
đã nói thế này thế nọ, những lời xúc phạm đến Sa hoàng của chúng ta”. Họ đã vặn
ngươc cả hai cánh tay Sizov ra đằng sau rồi buộc dây thừng kéo tít lên trên cột
nhục hình. Chỉ vì một con gà mái gáy gở, người ta đã dựng lên cả một chuyện tày
đình. Vì có công với Sa hoàng, Puxtoroxlev được cấp chỗ đất đai của Sizov còn
Sizov thì bị đi đầy chung thân ở Siberi. Đấy bọn khôn ngoan làm ăn như vậy đấy...
- Xtiovka người cặp mắt lờ đờ như mắt cá nhìn Mikhail không chớp - Volotka
Tsemodanov lại còn hành động đơn giản hơn thế nữa: hắn đã tố giác lão láng
giềng nói rằng lão này định ám sát hắn trong sân nhà hắn; hắn có hứa cho bọn
thơ lại về hùa với hắn một phần ba số của cải sẽ cướp đoạt được. Lão láng giềng
phải đem dâng chỗ của cải cuối cùng của mình mới thoát được thân trong vụ kiện
đó, và lấy thế làm may mắn lắm rồi.
Mikhail suy nghĩ và cuối cùng nói, tay mân
mê chiếc mũ lông:
- Kiếm cớ để thưa kiện người ta thì tôi
không có kinh nghiệm, Xtepan Xemionyts ạ.
- Nếu anh có kinh nghiệm thì tôi đã chẳng
phải dạy anh (Xtiovka cất tiếng cười một cách bỉ ổi đến nỗi Mikhail trông thấy
hàm răng chuột sâu rỗng của hắn, co rúm người lại). Muốn kiện người ta, phải có
kinh nghiệm... Nếu không chính mình lại có thể bị treo lên cột nhục hình như
chơi... Như thế này, Mitsa ạ: đừng có đụng vào người có quyền thế, cứ nhằm kẻ
yếu mà đánh. Như anh chẳng hạn, anh đã đến gặp tôi mà không sợ...
- Xtepan Xemionyts anh nói gì, sao - không
sợ... là thế nào...
- Anh im đi. Anh phải biết cách ngồi im mà
nghe... Tôi trò chuyện nhã nhặn với anh. Nhưng anh có biết ở chỗ khác thì sao
không? Anh cứ thử tướng tượng là tôi đang ngồi buồn không biết làm gì. Tôi vỗ
tay ra hiệu... Bọn gia nhân của tôi chạy đến... Tôi bảo chúng: chúng mày làm
trò cho tao vui đi... Chúng sẽ nắm ngay lấy đôi bàn tay trắng muốt của anh, kéo
anh ra ngoài sân, rồi vờn với anh như mèo vờn chuột - Hắn lại cười, chỉ riêng
có cái miệng hắn cười, còn cặp mắt vẫn đờ đẫn như mắt người chết. - Anh đừng
sợ, từ sáng đến giờ được cái may là tôi đang thích bỡn cợt.
Mikhail thận trọng đứng dậy xin phép ra về.
Xtiovka lấy đầu gậy chọc vào người hắn bắt hắn ngồi xuống.
- Xtepan Xemionyst, xin anh thứ lỗi cho tôi
nếu tôi có nói điều gì sơ suất...
- Ngươi chẳng có điều gì sơ suất cả, nhưng
về cấp bậc, địa vị, dòng dõi mà nói, nhà ngươi táo tợn quá đấy. - Xtiovka đáp
lại, vẻ mặt nghiêm nghị lạnh như tiền. - Nhưng thôi, Chúa sẽ tha thứ cho ngươi.
Lần sau, hãy đợi ta ở phòng đợi và nếu người ta mời ngươi vào phòng khách,
ngươi phải từ chối, nhất định không vào. Nếu ta ép ngươi ngồi, ngươi cứ đứng.
Và ngươi không được cúi rạp xuống chào ta mà phải phủ phục xuống chân ta.
Hai lỗ mũi Mikhail phập phồng, tuy nhiên
hắn tự trấn tĩnh được và khúm núm cảm ơn những lời dạy bảo. Xtiovka ngáp và đưa
tay lên miệng làm dấu thánh giá.
- Xét ra cần phải giúp đỡ ngươi trong tình
cảnh khốn quẫn, cái đó cần. Ta đang có điều lo nghĩ... ít ra thì ngươi cũng
biết giữ mồm giữ miệng đấy chứ? Được, tốt lắm, ta thấy ngươi là một gã thông
minh đấy. Ngồi dịch lại gần đây.
Hắn gõ đầu gậy xuống sàn; Mikhail vội vàng
ngồi sát lại gần hắn. Xtiovka chăm chú nhìn Mikhail.
- Ngươi trọ ở đâu? Trong một quán rượu à?
Đến nhà ta mà ngủ. Ta sẽ cho ngươi một cái áo, một cái áo choàng, một quần
chẽn, một đôi ủng lịch sự, còn những quần áo của ngươi thì hây tạm thời gác nó
lại để vào một chỗ. Vấn đề đặt ra là làm vừa lòng một bà quý tộc.
Mặt Mikhail bỗng đỏ như gấc:
- Về cái khoản ấy à?
- Chính là về cái khoản đó. Phải mua vui
cho quỷ. Ngươi sẽ vơ đầy túi mà chẳng khó nhọc gì... Có một bà quý tộc quyền
thế, tiền của như nước nhưng ma quỷ nhập vào người... Ngươi đã hiểu chưa,
Mitska? Nếu ngươi nghe theo ta thì ngươi sẽ giàu sang... Bằng không ta sẽ cho
ném ngươi vào chuồng gấu, xương của ngươi cũng chẳng còn.
Xtiovka hất ngươc ống tay áo có đính ngọc
trai quý, vỗ hai bàn tay vào nhau. Gã thiếu niên trâng tráo lúc nãy bước vào:
- Feotist, dẫn cậu ấm đây đến buồng tắm
hơi, lấy cho cậu ấy quần lành áo tốt rồi đưa cậu ấy về buồng ta ăn bữa trưa.
Chương 14
Công chúa Sofia đi lễ nhà thờ về, trong người rất mỏi
mệt. Công chúa đã đứng dự hai khóa lễ tuần chay, chỉ ăn có bánh mì đen và ít
bắp cải muối chua. Công chúa ngồi xuống chiếc ghế bành mang từ nước ngoài về
xưa kia vua cha vẫn dùng và đặt lên đầu gối chiếc bánh thánh bọc trong chiếc
khăn thêu nhỏ. Theo lệnh của Sofia ,
chiếc ghế bành vừa mới được đem từ điện Hữu Giác về đây. Được biết việc nầy,
hoàng hậu Natalia, người quả phụ của Sa hoàng đã kêu lên:
- Rồi chẳng bao lâu nữa, công chúa truyền
lệnh mang ngai vàng về buồng mình cho mà xem!
Mặc, hoàng hậu Natalia nổi giận thì cứ việc
tha hồ mà nổi giận. Mặt trời tháng ba rọi những tia ấm áp sặc sỡ qua những ô
kính màu nhỏ của hai khuôn cửa sổ. Căn buồng - một căn buồng của con gái - thật
giản dị, sạch sẽ, gọn gàng và tỏa ra một mùi cỏ khô thơm thơm.
Mấy bức tường trắng toát như buồng một tu
sĩ, cái lò sưởi chung quanh lát gạch men vuông trên có rải chỗ nằm, đang nóng
hừng hực. Tất cả đồ đạc trong phòng, cái bàn, mấy cái ghế dài đều phủ vải thô.
Mặt đồng hồ quả lắc trên có vẽ hoa hồng đang chậm chạp quay. Cái tủ sách con có
màn che phủ kín bên ngoài: đang tuần chay, không phải lúc đọc sách giải trí.
Chương 15
Có tiếng sàn nhà cót két. Sofia vội ngồi thẳng người
lên, nhìn chằm chằm vào cánh cửa, như thể ác quỷ, với đôi cánh lửa và bộ quần
áo bằng vàng, sắp sửa bước vào đến nơi. Cặp môi run lên, Sofia tựa vào thành ghế bọc nhung, ngả đầu
vào lòng bàn tay, tim đập thình thình.
Vaxili Vaxilievich Golixyn cúi đầu chui qua
mi cửa thấp, thận trọng bước vào rồi đứng lại không nói không rằng. Sofia những muốn ôm ghì
lấy hắn, những muốn như một làn sóng biển ấp ủ hắn trong lòng, dào dạt tình yêu
thương. Nhưng công chúa giả vờ đang ngủ chập chờn: như thế đứng đắn hơn, công
chúa mệt vì đã đứng suốt khóa lễ, giờ đây công chúa nghỉ, một nụ cười nở trên
môi. Vaxili Vaxilievich gọi khẽ đến nỗi công chúa chỉ thoáng nghe thấy:
- Sofia
em!
Hắn cúi xuống, nhìn vào mặt công chúa, cái
áo gấm hắn mặc sột soạt. Cặp môi của Sofia
hé mở. Thế là bộ ria thơm phức của hắn chạm vào má làm công chúa thấy buồn buồn
rồi cặp môi ấm ấp của hắn sát lại đặt mạnh một cái hôn lên miệng nàng. Toàn
thân Sofia run
lên, một sự thèm muốn khôn tả truyền từ lưng, tràn vào lòng nàng thành một cơn
nóng bỏng quằn quại. Sofia
giơ tay lên, định ôm ghì lấy đầu Vaxili Vaxilievich nhưng lại đẩy hắn ra:
- Ồ lùi ra anh. Anh không nhớ ư? Ngày thứ
sáu Thánh (1) mà thế này là có tội đấy.
Công chúa mở to cặp mắt thông minh và cũng
như mọi lần ngạc nhiên về vẻ đẹp của Vaxili Vaxilievich. Công chúa cảm thấy hắn
đang bồn chồn, sốt ruột. Một niềm vui sướng tràn ngập người Sofia : công chúa lắc đầu:
- Sofia
em, - hắn nói, - Ivan Mikhailovich và Ivan Andreevich Khovanski đang chờ ở dưới
kia; họ mang đến cho em những tin tức quan trọng. Em hãy xuống đi, công việc
cấp bách đấy.
- Nào đi.
Khovanski và Ivan Mikhailovich Miloslavski,
người cậu của công chúa, đang đứng trước một cửa sổ có trụ, mũ lông của họ chạm
tới vòm trần. Mikhailovich Miloslavski có đôi gò má cao, cặp mắt ti hí, nhễ
nhại mồ hôi trong bộ áo lông mới của Sa hoàng cho, mặt đỏ bừng vì ăn uống no nê
và vì xúc động. Sofia
bước nhanh lại gần và nghiêng đầu chào theo lối chào của các nữ tu sĩ. Ivan
Mikhailovich cố gắng đưa bộ râu và đôi môi về đằng trước, cái bụng lão không
cho phép lão lại gần hơn nữa.
- Matveev đã về tới tu viện Ba Ngôi.
Cặp mắt xanh lè của Sofia mở to.
- Bọn tu sĩ đón rước lão như một Sa hoàng.
Ngày mười hai tháng năm này là lão tới Moskva. Thằng cháu tôi, Petka Tolstoy,
vừa đi thẳng một mạch từ tu viện Ba Ngôi đến đây. Hắn kể lại thế này: sau buổi
lễ, Matveev đứng trước đám dân chúng, đã chửi rủa và nói xấu gia đình
Miloslavski chúng ta: “Lũ quạ đen, lão nói, đã sà vào Ngân khố của Sa hoàng...
Bây giờ chúng lại định dựa vào giáo mác của bọn xtreletz để nắm quyền bính. Nhưng chúng sẽ không làm thế được! Ta
sẽ đè bẹp cuộc nổi loạn, ta sẽ điều các trung đoàn xtreletz đến những tỉnh xa xôi, đến những miền biên cương. Ta sẽ bẻ
gãy cánh của bọn quý tộc quyền thế. Ta xin hôn Thánh giá để tỏ lòng trung thành
với Sa hoàng Piotr Alekseevich. Nhưng vì Sa hoàng hãy còn nhỏ quá nên hoàng hậu
Natalia Kirilovna, mẹ Sa hoàng, sẽ trị vì. Ta còn sống, ta quyết thực hiện xong
những điều đó”.
Mặt Sofia sạm lại. Công chúa đứng, đầu cúi
gầm xuống, hai cánh tay buông thõng. Chỉ có chiếc mũ miện có sừng và bím tóc
tết sau lưng là rung động. Vaxili Vaxilievich, vẻ mặt lầm lì, mắt nhìn xuống
đất, nói:
- Một cái gì đó sẽ được thực hiện, nhưng
không phải như lão ta nói... Matveev sẽ không nắm được quyền bính ở Moskva...
Miloslavski lại hấp tấp thì thầm:
- Lão đã nói xấu và chửi rủa vương hầu
Vaxili Vaxilievich hơn tất cả mọi người, “Vaxka Golixyn, lão nói, đang mưu mô,
chiếm đoạt ngai vàng, hắn sẽ mất đầu về việc này”.
- Thế bọn xtreletz nói gì?
Miloslavski thở hổn hển. Vaxili Vaxilievich
rón rén đi chung quanh căn phòng, nhìn qua các cửa rồi trở lại đứng sau Sofia . Quận chúa không
nhịn được, vội ngắt lời Khovanski đang định nói:
- Thế ra là hoàng hậu Natalia Kirilovna
muốn đổ máu... Bà ta làm sao thế? Hay tại bà ta không quên được dòng dõi hèn hạ
của mình... Ở nhà với bố mẹ, bà ta mang ủng gai... Mọi người đều biết rằng khi
Matveev thương hại bà ta mang về nuôi trong dinh thự của lão, bà ta không có cả
đến áo lót thay đổi... Bà ta suốt đời chưa từng biết cái phòng dành riêng cho
phụ nữ là thế nào. Bà ta ngồi cùng bàn uống rượu vang với bọn đàn ông. - Cái cổ
to xù của Sofia
bó chặt trong cổ áo lót có đính ngọc trai quý, bạnh ra vì tức giận, những vết
đỏ nổi lên trên má. - Hoàng hậu đã vui chơi thỏa thích với cha chúng ta và giáo
trưởng Nikon... Bọn đàn bà chúng ta đều biết rõ cả. Thằng em ta, Petrusa, không
giống cha một chút nào, từ nét mặt cho đến dáng đi, thật là một sự kỳ lạ không
sao hiểu được. - Sofia nắm chặt hai bàn tay lại làm những chiếc nhẫn chạm vào
nhau lách cách rồi ép hai nắm tay vào ngực, nói. - Ta chỉ là một người con gái
thôi, ta thấy ngượng ngùng phải nói chuyện quốc gia đại sự với các ông... nhưng
Natalia Kirilovna đã muốn đổ máu thì bà ta sẽ được đổ máu... Nếu không thì tất
cả các ông sẽ mất đầu, còn ta, ta sẽ gieo mình xuống giếng.
- Được nghe những lời như vậy, thật quả là
một sự vui sướng, - Vaxili Vaxilievich nói dằn từng tiếng. - Vương hầu Ivan
Andreevich, ngài hãy trình công chúa biết tình hình các trung đoàn.
- Thưa công chúa Sofia Alekseyevna, trừ xtreletz ra, tất cả các trung đoàn đều
ủng hộ công chúa, - Khovanski nói. - Hàng ngày bọn xtreletz tụ tập rất đông trước các trụ sở cảnh sát ném gạch đá, gậy
gộc vào các cửa sổ và gọi bọn đại tá là đồ hèn (Nghe thấy thế, Miloslavski
nghẹn cổ, hắng giọng. Vaxili Vaxilievich hoảng sợ chớp mắt, riêng có Sofia là bình tĩnh không
nhúc nhích...). Đại tá Bukhbustov và bách binh trưởng Boborykin định tỏ ra
nghiêm khắc và bắt bọn xtreletz trở
lại trật tự, bọn này bèn lôi hai người lên một cái gác chuông rồi đẩy họ rơi từ
trên đó xuống đất, miệng la hét: “Liubô
liubô (1)!” Bọn xtreletz bất tuân
thượng lệnh; ở ngoại ô, trong chợ, ở các khu Belygorod và Kitaigorod, chúng tụ
tập rất đông và xúi giục dân chúng; đứng trước những nhà tắm công cộng, chúng
hét lên: “Chúng ta không muốn để bọn Narytskin và bọn Matveev cai trị chúng ta,
chúng ta sẽ vặn cổ chúng cho mà xem!”.
- Chúng chỉ được cái to mồm nhưng chúng ta
muốn thấy chúng thực hiện những sự việc lớn, - Sofia ưỡn thắng người lên, hầm hầm cau mày
nói. - Chúng đừng sợ, cứ đâm chết những kẻ thù của ta đi, bọn Artamon Matveev,
Yazykov, Likhasev và bọn Narytskin và tất cả lũ ổ chúng nó, đừng sợ, cứ lật đổ
phăng cái thằng chó con ấy đi. Chà! Dì ghẻ ơi là dì ghẻ, cái tâm địa đáng
nguyền rủa... Này cầm lấy, - Sofia
mạnh tay tháo tuột tất cả nhẫn ra, rồi nắm chặt trong tay đưa cho Khovanski. -
Gửi cho chúng những thứ này... Bảo chúng là chúng muốn gì cũng được... Lương
hậu, đất cát, mọi thứ miễn trừ... Nhưng gặp thời cơ, chúng chớ có do dự. Bảo
chúng tôn ta lên ngôi.
Nghe thấy những lời đó, Miloslavski khoa
tay, vẻ mặt hoảng sợ. Khovanski khoái trá, nhe răng cười. Vaxili Vaxilievich
lấy tay che mắt: có lẽ hắn không muốn người ta trông thấy vẻ kiêu hãnh trên mặt
hắn.
--------------
Chú thích:
(1) Theo đạo Gia tô, ngày Chúa lên trời
(2) Tiếng kêu tỏ ý tán thưởng hoặc vui
sướng của dân Nga thời xưa như ta kêu: “Hay, hay” hoặc “Hoan hô”.
Chương 16
Alexaska và Alioska suốt cả mùa xuân
xơi bánh nướng nên béo quay. Đời sống ở đây sung sướng thật! Zaiatz cũng phát
phì ra, hắn đâm lười:
- Tao đã hết thời làm việc rồi, bây giờ đến
lượt chúng mày làm việc cho tao.
Hắn ngồi suốt ngày trên thềm nhà, cắn hạt dẻ,
hết nhìn đàn gà mái lại nhìn bầy chim sẻ. Ăn không ngồi rồi, béo phị ra, hắn
đâm nghĩ vơ nghĩ vẩn:
- Có lẽ bọn nhãi ăn bớt tiền chăng? Nhất
định là chúng phải xoáy, dù rằng chỉ xoáy ít thôi.
Từ đó, mỗi buổi tối, khi đếm số tiền bán
được trong ngày là hắn lại tra khảo bọn trẻ, vặn vẹo chúng, lục túi, lùa ngón
tay vào mồm chúng để tìm tiền. Ban đêm hắn ngủ không yên, lúc nào hắn cũng
nghĩ:
- Con người ta, hễ dính dáng đến tiền nong
ai mà chẳng ăn cắp. Chỉ còn một cách là dọa nạt đe chừng bọn trẻ.
Một buổi tối, Alexaska và Alioska hớn hở
trở về giờ ăn, chúng nộp tiền bán bánh cho chủ. Zaiatz đếm tiền xong quả quyết
là thiếu mất một kopeik...
- Chúng mày xoáy rồi? Đồng kopeik đâu?
Hắn nhặt một cái gậy còn tươi vừa chặt lúc
sáng, túm lấy tóc Alexaska rồi đánh bọn trẻ, vừa đánh vừa kèm theo những lời lẽ
thích hợp: Alexaska bị một gậy thì Alioska cũng bị một gậy.
Khi hắn đã đánh chúng chán tay, hắn truyền
cho dọn ăn.
- Như thế đấy, - hắn vừa nói vừa ngốn hết miếng
thịt đông trộn tiêu dấm này đến miếng khác. - Thời buổi này, biết được trước để
đề phòng là tốt. Đồ nhãi ranh, tao sẽ làm cho chúng mày thành người. Sau này,
chúng mày sẽ đến cảm ơn tao.
Zaiatz ăn xúp bắp cải nấu với mỡ, mề gà nấu
với mật ong và gừng, gà nấu mì và thịt quay.
Hắn húp lấy húp để cháo bột nấu với sữa.
Mỗi lần để thìa xuống cái bàn không trải khăn, hắn lại ợ một cách khoái trá.
Đôi má hắn núng nính vì no nê phè phỡn, cặp mắt hắn húp híp mỡ. Hắn cởi một
khuy quần:
- Các con yêu quý, các con sẽ cầu Chúa cho
ta. Ta là người hiền lành. Ăn đi, uống đi, các con phải thấy được rằng ta đối
đãi với các con như một người cha vậy!
Alexaska bĩu môi làm thinh, mắt gườm gườm
nhìn trộm. Sau bữa ăn, nó bảo Alioska:
- Tớ không ở với bố tớ nữa là vì bố tớ đánh
tớ cho nên tớ lại càng không thể ở với lão này được. Là vì cái thằng con lợn ấy
rồi sẽ quen thói hành hạ bọn mình cho mà xem.
Nghĩ đến phải từ bỏ cuộc đời no đủ này,
Alioska hoảng sợ. Lẽ tất nhiên, giá không bị đánh đập thì vẫn hơn! Nhưng trên
khắp thế gian này tìm đâu ra được một nơi như thế? Đâu mà chẳng bị ăn đòn? Nằm
trên mặt lò, nó tỉ tê khóc thầm. Tuy nhiên nó sẽ không bỏ rơi bạn.
Buổi sáng, hai đứa trẻ mang những mẹt bánh
nướng ra đi. Buổỉ sáng tháng năm này mát rười rượi. Bầu trời xanh ngắt in bóng
trên những vũng nước bên đường. Cành lá những cây phong sực nức mùi thơm. Bầy
sáo hót líu lo, nghểnh cái đầu bé nhỏ về phía mặt trời. Có những cô gái ngây
ngất vì mùa xuân đứng tần ngần trước cổng: họ không muốn làm việc.
Có những cô gái khác, chân không giầy, mắt
long lên sòng sọc, trên người bận độc một chiếc áo lót bằng vải gai, đầu chít
một cái vành bằng vỏ cây phong, bím tóc có buộc dải màu. Trên nóc nhà mấy con
sáo líu lo như họa mi, nghe như gọi các cô vào rừng hoặc ra bãi cỏ. Xuân đến là
như vậy.
- Bánh nóng, bánh chả nóng, ai mua bánh chả
nhân mật ong không...
Alexaska cười:
- Zaiatz tha hồ mà đợi tiền bánh hôm nay.
- Úi chào, Alexaska, làm thế là ăn cắp đấy.
- Này, thôi đi, đồ nhà quê... Thế cái thằng
quỷ thọt ấy nó có trả công bọn mình không? Bọn mình làm sụn cả lưng cho hắn
suốt cả hai tháng ròng rồi! Này, ông xtreletz
ơi, mua bánh nướng nhân thịt thỏ đã, nóng sốt, nửa kopeik hai chiếc...
Bọn đàn bà con gái đứng ra trước cổng mỗi
lúc một nhiều. Dân chúng tụ tập ở các ngã tư.
Bỗng một bọn xtreletz chạy ngang qua, tiếng kích kêu loảng xoảng, dân chúng dạt
ra nhìn họ một cách khiếp sợ. Càng đi đến gần cầu Voxkhviatski bắc ngang sông
Moskva, bọn xtreletz lại càng nhiều,
dân chúng lại càng đông. Suốt bờ sông đầy những người - nhan nhản như ruồi; họ
trèo lên cả những đống phân súc vật để nhìn điện Kreml cho rõ hơn. Dưới sông,
trên mặt nước phẳng lì như gương, thoáng gợn vì dòng nước chảy, lặng lẽ in bóng
những ngọn tháp mái xanh, những lỗ châu mai trên những bức tường gạch và những
nóc tròn thép vàng của những nhà thờ lớn nhỏ trong điện Kreml. Nhưng dân chúng
thì lại không bình tĩnh.
Bên kia những bức tường dầy nổi lên màu sặc
sỡ của những nóc nhà kỳ dị và tao nhã của dinh thự bọn đại thần và cung điện Sa
hoàng, nơi đó trong sự tĩnh mịch của tháng năm đang xảy ra một điều gì khác
thường. Nhưng đích xác là gì thì chưa ai hay. Bọn xtreletz hò hét om sòm nhưng không vượt qua chiếc cầu có hai khẩu
đại bác đặt bên phía điện Kreml bảo vệ.
Phía xa xa, người ta trông thấy bọn ziltsy, - đứa cưỡi ngựa, đứa đi bộ, -
Con em bọn đại thần, tùy tùng của Sa hoàng. Bên ngoài những chiếc áo nẹp trắng,
chúng đeo những cánh thiên nga, đính chặt sau lưng bằng những vòng đồng. Bọn này
không đông, hoảng sợ ra mặt khi trông thấy đám dân chúng đông đúc đang từ khu
Balsuc ùn ùn kéo đến. Alexaska ra sức chen lấn ở trước cầu. Hai đứa trẻ đã bán
hết hàng rất nhanh rồi vứt mẹt đi. Chúng không còn nghĩ đến chuyện bán hàng
nữa. Chỗ này, chỗ kia, đám dân chúng đã bắt đầu lên tiếng la ó.
Ai cũng chán ngấy rồi. Đời sống dưới chế độ
này không sao chịu nổi được nữa. Những nắm đấm giơ lên đe dọa những ngọn tháp
của điện Kreml. Một ông lão, dân ngoại ô, trèo lên một đống rác, cất mũ lông ra
để lộ cái đầu hói rồi chậm rãi nói:
- Thời còn mồ ma Aleksey Mikhailovich, nhân
dân cũng đã nổi dậy như ngày hôm nay... Thời đó, người ta thiếu bánh mì, thiếu
muối, đồng tiền không còn giá trị mấy. Ngân khố đúc lại tiền rúp bằng bạc để ra
tiền bằng đồng. Bọn quý tộc quyền thế tham tàn hút máu nhân dân. Nhân dân bèn
nổi dậy lôi Aleksey Mikhailovich từ trên mình ngựa xuống đất và xé tan nát
chiếc áo lông của Sa hoàng... Khi ấy, người ta giết chết rất nhiều tên đại
thần, đốt phá nhà cửa của chúng... Và ở miền Nam , Razin, người Cô-dắc có trái
tim dũng cảm, đã nổi lên... Nhân dân đáng lẽ đã được sống tự do và giàu có.
Nhưng chẳng ai ủng hộ ông ta cả... Nhân dân yếu hèn chỉ biết ngoạc mồm ra mà
kêu hét. Bây giờ cũng vậy, các cháu ạ, nếu không đoàn kết, rồi có ngày các cháu
sẽ lên đoạn đầu đài hoặc giá xử giảo, bọn đại thần quý tộc sẽ trị các cháu.
Người ta há hốc mồm nghe ông lão nói. Bối
rối và khiếp sợ lại càng tăng lên. Người ta chỉ biết rằng lúc này ở điện Kreml
chưa ai nắm quyền hành và bây giờ là lúc thuận lợi để lay chuyển cái thành trì
cổ xưa, nhưng bằng cách nào? Ở một chỗ khác, một gã xtreletz đang lớn tiếng kêu gọi dân chúng:
- Các bạn còn đợi gì nữa? Sáng sớm hôm nay,
lão đại thần Matveev đã cưỡi ngựa đi vào Moskva. Có lẽ các bạn không biết
Matveev? Chừng nào bọn quý tộc quyền thế còn tranh dành nhau ở điện Kreml vì
thiếu người cầm đầu thì ta còn thở được... Nhưng bây giờ thì khác, một tên có
uy thế như một ông vua đã xuất đầu lộ diện: lão ta sẽ gò chặt dây cương, sẽ làm
cho tất cả chúng ta chết bẹp dưới thuế má nặng nề chưa từng thấy bao giờ. Chúng
ta phải nổi dậy ngay ngày hôm nay. Để đến mai thì muộn mất.
Những lời đó làm mọi người choáng váng. Đến
mai thì quá muộn... Mắt mọi người đỏ ngầu như tiết. Giống như một ảo ảnh, điện
Kreml cổ kín cổng cao tường, nham hiểm, vàng bạc đầy ứ kho tàng, hững hờ in
bóng xuống mặt sông... Trên tường thành, cạnh mấy khẩu đại bác, không thấy bóng
một tên pháo thủ nào. Mọi vật im lìm như chết. Và tít trên bầu trời cao, mấy
con diều hâu bay lượn bên trên điện Kreml. Bỗng nhiên ở đầu cầu bên kia, đám ziltsy đeo cánh nhốn nháo; người ta nghe
thấy tiếng chúng kêu lên yếu ớt. Một kỵ sĩ vùng vẫy trên mình con ngựa trắng
như tuyết, hiện ra giữa bọn chúng. Chúng không muốn để hắn đi, đẩy lui bọn ziltsy, người kỵ sĩ cho ngựa chồm lên,
chạy thoát rồi rơi mất mũ, phóng như bay trên chiếc cầu nổi, - nước tung tóe
giữa những mảnh ván ghép cầu nghe bì bõm - con ngựa chân thon vừa phi vừa lắc
bờm một cách khoan khoái. Đám đông im bặt. Từ bờ bên kia, một phát súng đơn độc
vang lên nhằm bắn vào người kỵ sĩ đang phi nước đại. Người này lao vào giữa đám
dân chúng rồi đứng thẳng trên bàn đạp: làn da trên cái đầu cạo trọc xanh rì
động đậy, khuôn mặt dài kèm theo một cái mũ dài, đỏ ửng vì phi ngựa; hắn thở
hổn hển, cặp mắt nâu sáng quắc dưới hàng lông mày rậm, đen như than. Người ta
nhận ra hắn.
- Tolstoy... Piotr Andreevich... cháu
Miloslavski... Ông này về phe chúng ta... Hãy nghe xem ông ta sắp sửa nói gì.
Với một giọng the thé, luôn luôn đứt quãng,
Piotr Andreevich lớn tiếng nói:
- Hỡi nhân dân, hỡi các anh em xtreletz! Tai hoạ... Matveev và bè lũ
Naryskin vừa bóp chết thái tử Ivan... Nếu các bạn chậm trễ, chúng sẽ bóp chết
cả Piotr nữa. Hãy xông nhanh vào điện Kreml đi kẻo muộn...
Đám đông càu nhàu gầm gừ, hò hét rồi ầm ầm
xông về phía cầu... Hàng nghìn cái đầu nhấp nhô, con ngựa trắng của Tolstoy
quay cuồng ở giữa. Chiếc cầu kêu cót két, chĩu xuống, nước lên tới đầu gối
những người chạy qua. Bọn xtreletz
từng đoàn trăm người một, xô bừa mọi người, băng qua cầu, nét mặt hầm hầm dữ
tợn. Đâu đó có tiếng chuông, boong, boong... mỗi lúc một dồn dập, khắc khoải.
Những tháp chuông khác hưởng ứng, chuông lớn chuông nhỏ kêu vang và bốn mươi
tháp chuông trong thành Moskva kéo chuông báo động bốn mươi lần. Trong điện
Kreml yên lặng, đó đây, một khuôn cửa sổ nhỏ đóng sập lai, trên ô kính lóe lên
một tia sáng mặt trời, rồi lại đến một khuôn cửa sổ khác...
Chương 17
Bọn xtreletz
sốt ruột, chạy ùa vào, trung đoàn này xáo lộn với trung đoàn khác, tới điện Hữu
Giác và tới Đại thánh đường Ngự cáo. Nhiều người trong bọn họ, tụt lại đằng sau
tìm cách phá vỡ những cánh cửa vững chắc của dinh thự bọn đại thần hay trèo lên
tháp chuông để kéo chuông báo động. Chiếc chuông khổng lồ của tháp chuông Ivan
Veliki âm vang một cách rùng rợn. Trong những ngõ hẻm, giữa những hàng rào tu
viện và những bức tường vàng khè của tòa nhà dài nơi đặt các công sở, tụi gia
nhân của bọn quý tộc quyền thế nằm sóng sượt, hoặc chết hoặc bị thương; những
đứa bị thương rên rỉ, bò lê trên đất. Mấy con ngựa đã đóng yên cương hoảng sợ
chạy lung tung. Người ta cười vang, đuổi bắt chúng, hò hét, cầm đá ném vỡ toang
những ô cửa sổ. Bọn xtreletz, nhân
dân, và hàng đàn trẻ con (trong đó có Alexaska và Alioska) đứng ngắm cái lâu
đài sặc sỡ của Sa hoàng chiếm hết một phần tư điện Kreml. Những ngôi nhà bằng
đá và bằng gỗ, những terem (1) cao,
những căn nhà thấp lè tè dựng bằng gỗ súc, những tiền đình, những tháp canh lớn
nhỏ, sơn đỏ, xanh lá mạ, xanh da trời, tường lát ván hay để trơ những súc gỗ
tròn, tất cả những loại nhà đó được nối với nhau bằng một số hành lang và cầu
thang. Hàng trăm nóc nhà hình mái lều, hình củ hành, hình tháp chuông con có
đường xoi, thân phình to, lởm chởm những đường răng cưa như mào gà sống sáng
loáng, dát đầy vàng bạc. Đây là chỗ ở của ông chúa trái đất, người đứng đầu
thiên hạ sau Chúa Trời. Dẫu sao họ cũng cảm thấy rụt rè ngài ngại. Một người
dân đen có đâu lại dám cầm khí giới đến gần cung điện khi mà chính bọn quý tộc
quyền thế cũng phải xuống ngựa, để ngựa lại ở ngoài cửa rồi bỏ mũ ra, bì bõm
lội trong bùn, mắt liếc về mấy khuôn cửa sổ của Sa hoàng. Đám đông dừng lại,
trố mắt nhìn. Tiếng chuông tháp Ivan Veliki não nùng vang dội trong lồng ngực
mọi người. Họ rụt rè, cảm thấy lo sợ. Thấy vậy, mấy người lanh lợi nhảy ra,
đứng trước đám đông nói:
- Này anh em, sao lại đứng ngẩn người ra
dấy làm gì hả? Chúng đã bóp chết thái tử Ivan và đang kết liễu đời Sa hoàng
Piotr! Hãy mạnh bạo lên, dựng thang lên, trèo lên thềm mau.
Có tiếng ồn ào trong đám đông trùng trùng
điệp điệp. Bỗng một hồi trống nổi lên dữ dội rồi có tiếng gào thét man rợ:
- Mạnh bạo lên, mạnh bạo lên nào!
Ước chừng hai mươi gã xtreletz rút gươm ra,
xông lên, trèo qua hàng rào sắt rồi rảo cẳng leo lên Thềm Đỏ. Họ đập ầm ầm vào
cánh cửa bằng đồng đen rồi tì vai vào cửa dùng hết sức đẩy. Tiếng hò reo dồn
dập lan đi trong đám đông:
- Mạnh bạo lên! Mạnh bạo lên! Mạnh bạo lên!
Những chiếc thang không hiểu từ đâu đưa
tới, nhấp nhô trên đầu bể người. Họ dựng thang bên những khuôn cửa sổ của điện
Hữu Giác, lên những chỗ vịn ở hai bên cạnh thềm. Bốn người trèo lên trước,
nghiến răng ken két, hét lớn:
- Giao Matveev cho chúng tôi, giao bọn
Nasryskin cho chúng tôi.
-------------
Chú thích:
(1) Phần trên cùng của một ngôi nhà ở nước
Nga cổ.
Chương 18
- Họ sẽ giết chúng ta mất. Làm thế nào
hả Artamon Xergeevich?
- Lòng Chúa nhân từ, hoàng hậu cứ yên tâm.
Tôi xin ra báo họ... Này? Đã cho người tìm giáo trưởng chưa? Đi tìm nữa đi!
- Đích là bọn thù địch của tôi rồi, Artamon
Xergeevich ạ; chính Yazykov đã trông thấy hai tên Miloslavski giả trang đi cùng
với tụi xtreletz...
- Hoàng hậu là phụ nữ. Việc của hoàng hậu
là đọc kinh cầu Chúa...
Có tiếng nói to trong tiền sảnh:
- Đến kia rồi, đến kia rồi!
Giáo trưởng Ioakim bước vào phòng, vừa đi
vừa chọc đầu trượng nhọn xuống sàn nhà bằng gỗ sồi. Cặp mắt long lanh sâu hoắm
của vị giáo trưởng nhìn chằm chằm vào những khuôn cửa sổ thấp dưới vòm trần.
Bên ngoài, bọn xtreletz đứng trên
thang, dán mắt vào những ô kính màu. Giáo trưởng giơ bàn tay khô đét, đe dọa
chúng làm chúng vội thụt đầu xuống.
Natalia Kirilovna chạy lại gần vị giáo
trưởng. Khuôn mặt tròn vành vạnh của nàng trắng bệch như vôi dưới chiếc mũ con
bằng lông cáo xanh. Nàng nắm lấy hai bàn tay lạnh ngắt của vị giáo trưởng, hôn
lấy hôn để rồi nghẹn ngào nói:
- Cứu chúng con, lạy Đức Cha, cứu chúng con
với.
- Thưa Đức Cha, tình hình rất xấu, -
Artamon Xergeevich dằn giọng nói.
Vị giáo trưởng quay lại trừng mắt nhìn
Matveev. Matveev hất bộ râu hoa râm xén vuông.
- Đây là một âm mưu, một cuộc nổi loạn có
kẻ xúi bẩy. Chúng hò hét nhưng chính chúng cũng không hiểu chuyện gì cả.
Trông tựa một thần tượng cổ xưa với đôi mắt
diều hâu và cái mũi mảnh, Matveev tỏ ra bình tĩnh. Trong đời lão, lão đã chứng
kiến nhiều chuyện, lão đã chết hụt nhiều phen. Lão chỉ còn có mỗi một tham vọng
- lòng khao khát quyền hành. Cố nén cơn tức giận đang sôi sục trong đôi mi mắt
già nua, lão nói:
- Chỉ cần làm cho chúng ra khỏi điện Kreml
đã. Sau đó ta sẽ trị được chúng.
Bên ngoài tiếng đập cửa thình thình và
tiếng la hét mỗi lúc càng thêm hăm doạ. Một gã rón rén chạy qua căn phòng lớn
từ cửa này đến cửa khác: đó là Ivan Kirilovich Naryskin, đẹp trai, lịch sự, mới
có hai mươi bốn tuổi mà đã là đại thần. Bọn xtreletz
cũng như bọn quý tộc quyền thế đều ghét cay ghét đắng Ivan Kirilovich Naryskin,
hơn cả ghét quỷ Satan. Người ta đồn rằng hắn đã ướm thử vương miện của Sa
hoàng. Bộ ria đen nhỏ xíu của hắn hình như dán vào cái khuôn mặt tái mét vì sợ:
như thể hắn đã trông thấy những sự tra khảo sắp tới và cái chết thê thảm của
hắn trên đoạn đầu đài. Vung đôi tay áo may theo kiểu Ba Lan hắn kêu to:
- Sofia
đã hạ cố đến! - Rồi hắn biến mất sau cánh cửa, theo sau là một tên lùn tập tễnh
trên đôi chân vòng kiềng, người không lớn hơn một em bé. Tên lùn này hai tay ôm
lấy đầu trên có đội cái mũ cửa bọn hề, bộ mặt nhăn nhúm mếu máo khóc như thể
hắn cũng cảm thấy rằng rồi mai đây hắn sẽ phản lại chủ hắn. Sofia , Vaxili Vaxilievich Golixyn và
Khovanski bước vội vào căn phòng. Đôi má Sofia
bôi son đỏ choét. Mặc toàn gấm dát vàng, công chúa đội trên đầu một cái mũ miện
cao đính ngọc trai. Hai bàn tay bắt chéo chữ thập trên ngực công chúa cúi rạp
xuống chào hoàng hậu và giáo trưởng. Natalia Kirilovna vội tránh ra một bên như
trông thấy một con rắn độc, chớp chớp mắt nhưng không nói gì cả.
- Dân chúng đang nổi giận mà kể ra cũng có
lý, - Sofia lên
tiếng nói. - Hoàng hậu phải cùng với các em tôi đi ra để cho dân chúng trông
thấy mặt. Có Trời biết họ hò hét gì, họ bảo rằng hai đứa trẻ bị giết rồi. Hoàng
hậu hãy ra nói cho họ yên tâm, hãy hứa hẹn đi, nếu không họ ùa vào cung điện
đến nơi rồi...
Trong khi Sofia nói, hai hàm răng trắng đập vào nhau
chan chát, cặp mắt màu lá mạ long lanh. Matveev bước lại chỗ công chúa:
- Bây giờ không phải lúc mang những chuyện
đàn bà ra mà thanh toán với nhau.
- Vậy thì ông cứ việc ra để cho họ trông
thấy mặt...
- Tôi không sợ chết đâu, Sofia Alekseyevna
ạ!
- Thôi đừng bàn cãi nữa, - vị giáo trưởng
nói, gõ đầu trượng xuống sàn nhà - Hãy đưa hai đứa bé Ivan và Piotr ra cho họ
trông thấy...
- Không, - Natalia Kirilovna kêu lên, tay
ôm lấy thái dương - Thưa Đức Cha, tôi không để cho làm như thế đâu. Tôi sợ lắm!...
- Bế hai đứa bé ra ngoài Thềm Đỏ, - vị giáo
trưởng nhắc lại.
Chương 19
Cuối cùng, ổ khóa của cái cửa bằng đồng
đen trông ra Thềm Đỏ rít lên. Đám đông tiến lại gần, im lặng, hau háu nhìn.
Tiếng trống cũng im bặt. Alexaska quặp chặt lấy một chiếc cột phình to ở giữa.
Alioska không rời nó một bước mặc dầu nó sợ hết vía. Bỗng cánh cửa mở toang.
Người ta trông thấy hoàng hậu Natalia Kirilovna, mặc áo quả phụ màu đen và áo
khoác bằng gấm thêu kim tuyến. Trông thấy hàng nghìn cặp mắt nhìn mình chằm
chặp, hoàng hậu bủn rủn cả người. Mấy cánh tay giơ một đứa bé con, mình mặc áo
nẹp sặc sỡ, cho bà ta bế. Hoàng hậu ưỡn người sốc đứa bé lên để nó đứng trên chỗ
tay vịn ở thềm. Chiếc mũ lông Monamakh(1) tụt xuống mang tai đứa bé để lộ bộ
tóc nâu cắt ngắn. Thằng bé nghểnh cổ, má phúng phính, cái mũi xinh xinh, đôi
mắt tròn như mắt chuột, cái miệng nhỏ mím chặt vì sợ hãi. Hoàng hậu muốn nói
điều gì nhưng hết hơi, đành ngửa đầu ra phía sau. Matveev bước ra đứng sau
hoàng hậu. Tiếng gầm thét từ đám đông nổi lên. Matveev dắt một đứa bé khác,
nhiều tuổi hơn, khuôn mặt gầy còm, vẻ dửng dưng, môi trễ xuống. Cau cặp lông
mày bạc trắng, Matveev nói giọng một ông già nhưng oang oang:
- Ai đã nói dối các ngươi rằng Sa hoàng và
thái tử đã bị bóp chết? Các người hãy nhìn xem, đây là Sa hoàng Piotr
Alekseevich, hoàng hậu đang bế trong tay. Sa hoàng vẫn vui vẻ, khỏe mạnh. Và
đây là thái tử Ivan,
Lão bế đứa bé vẻ mặt đứng dưng giơ lên cho
dân chúng trông.
- Nhờ ơn Chúa, cả hai đều vẫn sống. - Trong
đám dân chúng, người ta nhìn nhau nói: - Đúng rồi, không còn nhầm gì nữa.
- Anh em xtreletz, hãy bình tĩnh trở về nhà... Nếu anh em cần điều gì, muốn
yêu cầu hay khiếu nại điều gì, hãy cử người đến...
Khovanski và Vaxili Vaxilievich từ thềm đi
xuống chỗ dân chúng. Đặt tay lên vai mấy gã xtreletz
và mấy người thường dân họ khuyên chúng giải tán nhưng với một giọng có vẻ chế
diễu. Trong đám đông đã tạm nguôi được một lúc, lại nổi lên những lời gay gắt:
- Hai đứa bé vẫn sống thế thì đã sao...
- Ai chẳng trông thấy hai đứa bé sống sờ sờ
ra đấy mà còn phải nói.
- Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng chẳng
rời khỏi điện Kreml.
- Chẳng dại gì... Ai chẳng biết những lời
đường mật của cảnh sát chứ gì.
- Giao bọn Matveev và bọn Naryskin cho
chúng tôi...
- Giao Ivan Kirilovich Naryskin cho chúng
tôi... Hắn đã ướm mũ miện của Sa hoàng...
- Bọn đại thần là bọn quỷ hút máu người
không tanh. Giao Yazykov, Dolgoruki cho chúng tôi...
Tiếng la ó mỗi lúc một thêm căm tức, vạch
mặt chỉ tên bọn đại thần bị họ ghét cay ghét đắng. Natalia Kirilovna lại tái
mặt, ôm chặt lấy con. Piotr quay cái đầu tròn nhìn tứ phía. Có tiếng người phá
lên cười nói:
- Nhìn hắn kìa! Trông hệt một con mèo?
Vương hầu Mikhail Dolgoruki, con trai của
vị tư lệnh quân xtreletz, trải chuốt,
hợm hĩnh, mặc quần áo bằng nhung đỏ và lông hắc điêu thử, trên người loảng
xoảng đầy khí giới, ở trên thềm chạy xuống. Hắn vung roi, quát bọn xtreletz:
- Đồ chó đẻ, chúng mày lợi dụng lúc cha ta
ốm liệt giường. Đồ khốn nạn! Cút ngay khỏi nơi này, đồ chó, quân nô lệ kia.
Bọn xtreletz
lúc đầu chùn lại trước ngọn roi quất vun vút... Nhưng thời buổi đã đổi thay: ăn
nói như vậy là không được... Bọn xtreletz
trấn tĩnh lại, sấn sổ thở vào mặt hắn:
- Mày ở trên trời rơi xuống đấy à? Mày là
ai mà dám nói với bọn tao như vậy, đồ chó con? Đánh bỏ mẹ nó đi, anh em ơi!
Họ túm lấy quai đeo gươm của hắn buộc ngang
vai giật đứt phăng; cái áo nẹp bằng nhung bị xé tan từng mảnh. Mikhail
Dolgoruki tuốt gươm ra, rồi, lúng túng trong chiếc áo choàng rộng vừa chống đỡ
vừa lùi lên thềm. Bọn xtreletz cầm
giáo đuổi theo, túm lấy hắn. Hoàng hậu Natalia Kirilovna bỗng rú lên một tiếng
man rợ. Dolgoruki bị giăng chân, giăng tay, tung lên trời rồi rơi xuống biến
mất trong đám đông và bị mọi người giầy xéo nát xác.
Matveev và hoàng hậu lùi về phía cửa. Nhưng
đã muộn. Opsey Rezov và đồng đội từ tiền sảnh điện Hữu Giác nhảy sang, miệng
hét:
- Bắt lấy thằng Matveev!
- Liubô, liubô!
Đám đông gầm lên. Opsey Rezov từ phía sau
đánh Matveev. Hoàng hậu vội nép vào người Artamon Xergeevich. Thái tử Ivan bị
đẩy ngã lăn ra khóc òa lên. Khuôn mặt tròn của Piotr tái mét, nhăn nhúm lại,
hai tay đứa bé níu chặt lấy bộ râu hoa râm của Matveev.
- Lôi nó ra, đừng sợ, xé xác nó ra, - bọn xtreletz hét lên, tay vung giáo. - Ném
nó xuống đây cho chúng tôi.
Họ đẩy hoàng hậu ra, gạt Piotr sang một bên
như một con mèo con. Bỗng cái thân hình to lớn của Matveev bị tung lên trời,
miệng há hốc, chân xoạc ra, rồi nặng nề rơi xuống cắm phập vào những ngọn giáo
của bọn xtreletz dựng lên tua tủa.
Nhân dân và tụi trẻ con (Alexaska và Alioska) ùa vào trong cung, chạy tràn vào
mấy trăm căn phòng. Hoàng hậu Natalia Kirilovna vẫn nằm ngất ở ngoài thềm với
hai thái tử. Khovanski và Golixyn lại tới gần bọn người còn đứng lại trên quảng
trường. Trong đám đông có tiếng kêu:
- Chúng tôi muốn Ivan làm Sa hoàng. Cả hai
đều làm Sa hoàng. Chúng tôi muốn Sofia... Liubô,
liubô... chúng tôi muốn Sofia
lên ngôi. Chúng tôi muốn người ta trồng một cột trụ trên Hồng trường, một cột
trụ kỷ niệm, để vĩnh viễn xác nhận chế độ miễn trừ cho chúng tôi.
--------------
Chú thích:
(1) Mũ của Sa hoàng đội vào những dịp đại
lễ.
Chương 20
Bọn xtreletz hoành hành dữ dội. Chúng
giết chết một loạt tên quý tộc quyền thế: hai người anh của thái hậu, Ivan và
Afanaxi Naryskin, bọn vương hầu Yuri và Mikhail Dolgoruki, Grigori và Andrey
Romodanovski, Mikhail Seckaski, Matveev, Piotr và Fedor Xazukov và nhiều người
khác, dòng dõi kém vai vế hơn. Chúng được lĩnh lương tất cả là hai trăm bốn
mươi nghìn rúp và thêm mỗi người mười rúp tiền thưởng. Tất cả thành phố đều
phải nộp bát đĩa bằng vàng bạc để đúc tiền trả cho bọn xtreletz. Một cột trụ được trồng ở Hồng trường; trên bốn mặt cột
trụ có viết tên bọn quý tộc bị tàn sát cùng những tội lỗi của chúng. Các trung
đoàn xtreletz đòi phải được cấp giấy
cam kết trong đó bọn quý tộc quyền thế phải thề rằng trong hiện tại cũng như
trong tương lai không bao giờ được dùng những lời lẽ khinh miệt đối với quân xtreletz, không bao giờ được gọi chúng
là phiến loạn hay bội phản, không được vô cớ xử tử chúng hoặc đem chúng đi đày.
Sau khi lấy lương thực trong điện Kreml ra ăn uống no say, bọn xtreletz trở về doanh trại, bọn thợ thủ
công và bọn buôn bán trở về khu phố của họ. Và nếp sống cũ lại trở lại như
không có gì xảy ra cả. Những cảnh tối tăm muôn thuở - tình trạng cùng khổ, nô
lệ, nghèo nàn - ứ đọng ở khắp nơi, ở Moskva, ở các thành phố, ở hàng trăm quận
rải rác trên đất nước mông mênh. Người nông dân với mông đít ăn đòn nát nhừ,
cào đất được chăng hay chớ. Anh ta đã kinh tởm đất. Thợ thủ công chết bẹp dưới
gánh nặng của thuế má và cống nạp, rên rỉ trong những căn nhà giá lạnh. Bọn
buôn bán nhỏ không tiếc lời than thở. Bọn chúa đất nhỏ đang phá sản. Đất cằn
cỗi dần: gặt được gấp ba lần số thóc đã gieo đã là phúc to, phải cảm ơn Chúa.
Đến cả bọn quý tộc quyền thế và bọn buôn bán lớn cũng phải lẩm bẩm phàn nàn.
Xưa kia, một người quý tộc không cần nhiều lắm cũng giữ được thể diện: chỉ cần
một cái áo lót lông hắc điêu thử và một cái mũ lông cao ngất nghểu là đủ. Còn ở
nhà thì rau cháo thế nào cũng xong, tối đến đọc kinh cầu Chúa rồi đi ngủ sớm.
Bây giờ, người ta chú trọng nhiều đến bề ngoài: bọn quý tộc muốn sống sang
trọng như bọn quý phái Ba Lan, bọn Livonien, bọn Đức. Họ được nghe nói đến
nhiều sự kỳ lạ và cũng được nhìn tận mắt nhiều sự kỳ lạ. Lửa tham ngùn ngụt
trong lòng người. Từ đó, bọn quý tộc có đến một trăm gia nhân. Thế nhưng, còn
phải đóng giầy, may áo nẹp có mang gia huy và nuôi cái đám người lộn xộn tham
lam vô độ đó - lợi tức cũ của họ không sao đủ được. Sống trong những ngôi nhà
gỗ bị coi như là không lịch sự. Xưa kia, ông hoặc bà quý tộc đi ra ngoài đường
dùng xe trượt tuyết đóng có một ngựa do một gia nhân cưỡi. Để khêu gợi sự ao
ước trong lòng người ta, họ treo những chiếc đuôi cáo ở vòng cổ ngựa, ở đai
ngựa, ở dây buộc hậu. Bây giờ thì phải mua một xe ngựa thếp vàng từ Danzich về,
đóng bốn ngựa, nếu không làm như thế thì bị khinh rẻ ngay. Nhưng đào đâu ra
tiền? Thời buổi này khó khăn. Buôn bán ế ẩm. Bán cho người trong nước thì chẳng
được bao nhiêu vì họ đã trần như nhộng. Xuất biên ư? Nhưng tàu bè đâu? Biển
không phải là của mình. Bọn ngoại quốc đã nắm hết thị trường ngoài nước. Nghe
nói đến sự buôn bán ở các nước khác mà bực mình muốn đập đầu chết quách đi cho
rồi. Khốn nạn thay cái nước Nga này! Bao giờ mi mới chịu nhúc nhích! Ở Moskva
có hai Sa hoàng - Ivan và Piotr và trên cả là công chúa Sofia nắm quyền phụ trách. Đây chỉ là chuyện
thay bậc đổi ngôi của bọn quý tộc quyền thế, có thế thôi.
Chán nản vô cùng! Thời gian như dừng lại và
chẳng có gì mà mong đợi cả. Một thời gian, trước cái trụ kỷ niệm của quân xtreletz ở Hồng trường có một người lính
cầm kích đứng gác, rồi sau không thấy đâu nữa. Dân chúng đem rác rưởi đến đổ thành đống chung quanh cái cột trụ. Và ở các chợ, người ta lại bắt đầu thì thầm
xì xào. Bọn xtreletz đâm nghi: vậy ra
họ chưa làm đến nơi đến chốn; họ đã làm om sòm lên, nhưng chẳng được lợi lộc gì
cả. Có lẽ phải làm cho xong xuôi việc này trước khi quá muộn chăng? Những người
già cả nhắc lại những thời tốt đẹp xưa kia. Đời sống lúc đó không đắt đỏ bằng
bây giờ, người ta no đủ hơn, sống đường hoàng hơn. Ở nông thôn, trai gái nắm
tay nhau ca múa. Ở ngoại ô người ta đâm béo ra vì chẳng phải làm gì cả. Tuyệt
nhiên không nghe nói đến chuyện cướp bóc. Thật thế đấy, nhưng tất cả những cái
đó là chuyện đã qua!... Sáu người razkonic
(1), sáu người không chịu quy phục quốc giáo, chuyên giải thích Kinh thánh,
người gầy như mõ không ai lay chuyển được niềm tin, đến xloboda của quân xtreletz.
“Con đường sống duy nhất, - họ nói với bọn xtreletz
- con đường sống duy nhất cho các bạn là lật đổ lão giáo trưởng theo phái Nikon
và tất cả bè lũ quý tộc quyền thế đã theo phái Nikon và tiêm nhiễm phong tục Ba
Lan, để trở lại đức tin chân chính và lối sống cũ”. Mấy người razkonic đó đọc những quyển vở mang từ
tu viện Xolovetski về trong đó có dạy cách thoát khỏi bùa phép mê hoặc của bọn
Nikon và cách cứu vớt linh hồn mình như thế nào. Bọn xtreletz lắng tai nghe, nước mắt ròng ròng. Ở chợ, lão razkonic Nikita Pustosviat, một ông già
đạo mạo, đứng trên một xe ngựa nhỏ có mui, đọc quyển vở của tu viện Xolovetski
cho dân chúng nghe: “Hỡi các đạo hữu, tôi đã trông thấy Ma Vương, thật vậy tôi
đã trông thấy hắn... Mới đây tôi đang chìm đắm trong những tư tưởng buồn nản
bụng nghĩ đến thời Ma Vương sẽ xuất hiện, tôi đọc kinh nhưng rồi, khốn nạn thân
tôi, tôi đã thiu thiu ngủ. Bỗng tôi thấy một đám đông trên một cánh đồng. Có
người đứng bên cạnh tôi. Tôi hỏi người đó: Cái đám người đông đúc kia là thế
nào? Hắn trả lời: Ma Vương sắp đến, cứ đứng yên đấy, đừng sợ. Tôi chống cây
trượng có hai sừng đứng sững. Và người ta dẫn đến một người trần truồng, da
thịt ghê tởm xông ra một mùi hôi thối, hắn thở ra lửa, từ mồm mũi và hai lỗ tai
hắn bốc ra một ngọn lửa tanh tưởi đến lộn mửa. Theo sau là Sa hoàng của chúng
ta, các thủ lĩnh, những người quý tộc, những quan đại thần của triều đình và
những ủy viên của viện Duma... Tôi bèn nhổ vào mặt Ma vương và cảm thấy hết sức
đau đớn... Kinh thánh có nói đến việc đó: chẳng bao lâu nữa Ma Vương sẽ đến...”.
Thế là người ta hiểu cần phải đòi hỏi những gì. Bọn xtreletz chạy ùa đến điện Kreml. Ivan Andreevich Khovanski, thủ
trưởng Bộ Cấm quân xtreletz đã tuyên
bố theo giáo phái ly khai. Sáu người razkonic
gầy như que củi, đứng đầu là Nikita Pustosvita đã ba hôm nay tuyệt không ăn
uống một tí gì, mang những giá tán kinh, những cây thập ác bằng gỗ, những bản
kinh cổ đến điện Hữu Giác rồi trước mặt Sofia, họ chửi rủa và nói xấu vị giáo
trưởng và giáo hội. Bọn xtreletz tụ tập trước Thềm Đỏ hét lên: “Chúng tôi muốn
trở lại đức tin cũ, chúng tôi muốn có đời sống tốt đẹp như xưa”. Có người nói
những lời lẽ mạnh mẽ hơn: “Đã đến lúc công chúa nên lui về một tu viện, công
chúa gây cho quốc gia khá nhiều chuyện rắc rối rồi. Đủ rồi”. Sofia tức giận chỉ
còn cách hăm doạ:
- Các ngươi định đánh đổi chúng ta lấy sáu
tên thầy tu, sáu tên nông dân dốt nát ư? Vậy thì chúng ta, những người trong
gia đình của Sa hoàng, chúng ta không thể sống ở đây được nữa. Chúng ta sẽ đi
đến những thành phố khác báo cho nhân dân biết sự suy tàn của chúng ta và sự
phản bội của các ngươi.
Bọn xtreletz
hiểu rõ điều Sofia hăm dọa chúng, chúng đâm hoảng. “Nếu bà ấy định tung đoàn vệ
binh quý tộc đánh về Moskva thì làm thế nào?” Chúng bèn rút lui rồi bắt đầu
thương lượng. Trong khi đó, theo lệnh của Vaxili Vaxilievich Golixyn, người ta
đem đến quảng trường từng chậu rượu vodka và rượu bia lấy ở hầm rượu của Sa
hoàng. Bọn xtreletz đâm ra nao núng,
đầu óc choáng váng. Có kẻ kêu lên: “Bọn mình cần quái gì đến đức tin cũ kia
chứ? Đó là việc của bọn thầy tu. Tóm cổ lấy bọn razkonic!”. Nói xong họ lôi một người trong bọn mấy ông già gầy đét
ra chặt đầu và bóp cổ chết hai người nữa, mấy ông già còn lại chỉ đủ thì giờ
chạy tháo lấy thân. Bọn quý tộc trời đánh thánh vật ấy đã thoát được cơn hiểm
nghèo bằng cách đổ rượu cho người dân chất phác say mềm. Ở Moskva, thiên hạ ồn
ào bàn tán như ong vỡ tổ. Bạ ai người ấy nói, bạ đâu kêu đấy. Không có ai là
người có đầu óc đứng ra cầm đầu cả. Người ta nổi loạn một cách hỗn độn vô trật
tự, cướp phá những quán rượu Sa Hoàng, lùng bắt bọn thơ lại của các bộ, các vụ
và đem băm họ ra từng mảnh. Ở Moskva, không thể nào qua lại được dù đi bộ hoặc
đi xe. Họ bao vây dinh thự của bọn quyền quý, bọn này phải tự tay nổ súng, chật
vật lắm mới đánh lui được những cuộc tấn công - những trận đánh nhau trong
những ngày đó thật là ác liệt. Lắm nơi cả một dãy nhà gỗ bốc cháy.
Xác chết không có người chôn cất nằm ngổn
ngang trên các đường phố và ở các chợ. Có tin đồn rằng bọn quý tộc đã đưa một
đoàn vệ binh đến trước thành Moskva: chúng định chỉ một tuần là dẹp xong cuộc
nổi loạn. Một lần nữa bọn xtreletz
lại cùng với đám nông nô đang trốn tránh đông như kiến cỏ xông vào điện Kreml
xiên trên mũi giáo một lá đơn yêu cầu phải giao cho họ tất cả bọn quý tộc quyền
thế, không chừa một ai, để đem ra xứ... Sofia ra đứng ở Thềm Đỏ, mặt tái đi vì
tức giận:
- Người ta bịa đặt để nói xấu ta, ta không
hề nghĩ đến việc tuyển một đoàn vệ binh, ta xin hôn thánh giá mà thề như vậy -
Sofia kêu lên, tay giật chiếc thánh giá nạm kim cương lóng lánh đeo trên ngực -
chính thái tử Matveika bịa đặt nói xấu ta.
Và từ trên thềm cao người ta quẳng thái tử
xấu số người Tarta là Matveika vào mũi giáo mác dựng lên tua tủa. Đấy, cho bọn
mi xâu xé lẫn nhau... Bọn xtreletz xé xác Matveika làm trăm mảnh cho hả giận và
một lần nữa lại tiu nghỉu ra về... Suốt ba ngày ba đêm, Moskva tựa hồ như biển
động; tiếng chuông báo động làm cho hàng đàn quạ cất cánh bay lên. Chính lúc
đó, trong đầu óc những kẻ hung hăng nhất nảy ra ý kiến đánh rắn phải đánh dập
dầu: đem giết phăng cả hai Sa hoàng lẫn Sofia. Nhưng đến ngày thứ tư khi dân
thành Moskva tỉnh dậy thì điện Kreml đã rỗng tuếch: chẳng còn Sa hoàng, chẳng
còn công chúa đâu nữa, họ đã cùng bọn quý tộc quyền thế rời Moskva đi nơi khác.
Dân chúng rất đỗi hoảng sợ. Sofia trú lại làng Kolomenskoe và tức tốc cho người
về các quận tuyển mộ một đoàn vệ binh quý tộc. Suốt tháng tám, Sofia đi khắp
các làng mạc và tu viện ở các vùng lân cận Moskva, đứng ở thềm nhà thờ than
khóc kể lể những nỗi oán hờn và sự bất hạnh của mình. Ivan Andreevich Khovanski
ở lại điện Kreml với bọn xtreletz.
Người ta bắt đầu tự hỏi xem có nên tôn hắn lên làm Sa hoàng không? Hắn là một
người nhã nhặn, dòng dõi quý tộc lâu đời và tha thiết những phong tục cũ. Nếu
như thế thì người dân đen sẽ có một Sa hoàng của riêng họ, do chính họ tôn lên
ngôi. Những mong sau này được hưởng ân huệ lớn, bọn quý tộc vui lòng nai nịt
lên ngựa ra đi. Một đoàn vệ binh lớn gồm hai trăm ngàn người tập hợp tiến về
phía tu viện Ba Ngôi của Thánh Xecgiơ. Tựa như một con chim, Sofia luôn luôn
lởn vởn chung quanh thành Moskva. Đến tháng chín, một chi đội kỵ binh do Sofia
cấp tốc điều động đến và do Xtiovka Odoievski chỉ huy tấn công làng Kuskino vào
lúc tờ mờ sáng. Ivan Andreevich Khovanski sau khi cùng quân xtreletz đi tuần tra chung quanh thành
Moskva đã ngủ lại đêm ở đó trong một chiếc lều dựng trên một ngọn đồi nhỏ. Bọn xtreletz thản nhiên ngủ kỹ chẳng đề
phòng gì cả nên bị chém chết hết không kịp trở mình. Ivan Andreevich mặc quần
áo lót, nhảy bổ ra khỏi lều, tay khoa một lưỡi búa. Mikhail Tyktov từ trên mình
ngựa, nhảy cưỡi lên vai hắn. Khovanski bị trói vào yên ngựa rồi giải về làng
Vozdvizenskoe, nơi công chúa đang linh đình ăn mừng ngày sinh của mình: hôm đó
là ngày Thánh Sofia. Mikhail Tyktov ném Khovanski từ trên mình ngựa xuống đất;
quần áo chẳng có, vừa buồn rầu lại vừa xấu hổ, Khovanski quỳ xuống cỏ khóc.
Saklovity, viên thơ lại của viện Duma đọc bản tội trạng. Ivan Andreevich tức
giận kêu ầm lên:
- Nói láo! Không có ta thì ở Moskva máu đã
ngập đến đầu gối từ lâu rồi.
Bọn đại thần do dự, không biết có nên làm
đổ máu một dòng dõi quý tộc lâu đời như vậy không. Vaxili Vaxilievich mặt nhợt
nhạt không còn một giọt máu. Khovanski và hắn, cả hai đều dòng dõi Gedymin. Vậy
mà, bây giờ có những kẻ nguồn gốc nghèo hèn, mới được giàu sang, lại xử một
người dòng dõi Gedymin. Thấy mọi người do dự, Ivan Mikhailovich Miloslavski
liền tiến về phía những kỵ sĩ rồi ghé vào tai Xtiovka Odoievski thì thầm. Lập
tức gã này cho ngựa phi nước đại phóng qua làng đến chiếc lều bằng lụa của công
chúa Sofia rồi lại phi như bay trở về, mặc cho ngựa giầy xéo lên gà qué và trẻ
con.
- Bà nhiếp chính ra lệnh không do dự, phải
kết liễu số phận vương hầu ngay.
Nghe thấy thế, Vaxili Vaxilievich vội vã
lánh đi nơi khác, lấy khăn tay che mắt. Khovanski rú lên một tiếng rùng rợn khi
Mikhail Tyktov nắm lấy tóc hắn lôi xềnh xệch trên quãng đường bụi bậm. Ra đến
đầu làng, người ta chặt đầu vương hầu Khovanski. Thế là bọn xtreletz mất chủ tướng. Khi biết tin
Khovanski bị xử tử, chúng đâm hoảng sợ, kéo ùa cả vào trong điện Kreml đóng
chặt cửa lại, nạp súng đại bác và chuẩn bị phòng thủ. Sofia vội vã trở lại tu viện Ba Ngôi của
Thánh Xecgiơ để lánh mình sau những bức tường dày bất khả xâm phạm. Công chúa
giao cho Vaxili Vaxilievich nhiệm vụ điều khiển đoàn vệ binh. Hai bên đóng quân
đối diện nhau hầm hè diễu võ dương oai xem bên nào nhụt trước. Bọn xtreletz hoảng trước; chúng cho người
đến tu viện Ba Ngôi xin tạ tội với Sofia .
Thế là chúng mất hết tự do. Người ta hạ ngay cái cột trụ dựng ở Hồng trường.
Người ta thu lại những giấy cam kết và những khoản miễn trừ đã cấp cho chúng.
Saklovity được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ cấm quân xtreletz vì đã tỏ ra nhanh nhẹn trong việc thi hành luật pháp. Dân
chúng không dám ho he gì nữa và một làn không khí im lặng bi thảm lại đè nặng
lên thành Moskva và toàn cõi đất nước.
Năm, tháng trôi qua.
-------------
Chú thích:
(1) Giáo sĩ thuộc phái ly khai với đạo
chính thống.
Chương 21
Alexaska rảo cẳng chạy men theo dãy
hàng rào, trong ánh hoàng hôn đang trùm đường phố. Thỉnh thoảng nó lại thấy đau
nhói trong tim và mắt mờ đi vì mồ hôi chảy ròng ròng. Một ngôi nhà gỗ đang bốc
cháy ở đằng xa, ánh lửa ghê rợn chiếu sáng những vũng nước đọng trong vết bánh
xe. Đằng sau Alexaska, cách xa khoảng hai mươi bước, Danila Melsikov say khướt
đang đuổi theo, tiếng ủng nện xuống đất thình thịch. Lần nầy lão không cầm roi mà
cầm một con dao găm lưỡi cong sáng loáng.
- Đứng lại? Tao sẽ giết chết mày! - Danila
quát lên với một giọng dữ tợn. Alioska đã tụt lại đằng sau từ lâu, trèo tót lên
cây. Đã hơn một năm nay, Alexaska chưa gặp lại bố lần nào, vậy mà bỗng nhiên nó
lại gặp bố nó trước một quán rượu bị đốt phá. Lập tức Danila đuổi theo thằng
con. Suốt quãng thời gian đó, Alexaska và Alioska ăn không đủ no nhưng sống vui
vẻ.
Ở ngoại ô, người ta đã nhẵn mặt chúng, ai
cũng vui lòng cho chúng ngủ đỡ lại một đêm.
Suốt mùa hè chúng tha thẩn trong vùng lân
cận Moskva, dọc các con sông, trong các khu rừng. Chúng đánh bẫy những loài
chim hót hay đem bán cho bọn con buôn, hay đi bẻ trộm hoa quả rau dưa. Có lúc
chúng đi câu. Chúng mơ ước đánh bẫy được một con gấu để dạy làm trò, nhưng bắt
được gấu đâu có phải chuyện dễ. Một hôm chúng thả câu trên con sông Yauza, nước
trong vắt và lặng lờ từ những khu rừng rậm của Đảo Nai chảy ra, chợt chúng
trông thấy một đứa bé ngồi ở bờ bên kia, cằm tì vào lòng bàn tay. Đứa bé ăn mặc
lạ lùng: chân xỏ bít tất dài màu trắng, mình mặc áo nẹp xinh xinh màu xanh lá
cây, may theo kiểu ngoại quốc, ve áo màu đỏ đính khuy sáng loáng. Cách đó không
xa, trên một ngọn đồi con, nóc hình răng cưa của lâu đài Preobrazenski vươn lên
đám cành lá um tùm của những cây bồ đề. Xưa kia có thể trông thấy toàn bộ lâu
đài này: hình dáng thanh tao, màu sặc sỡ, nó in bóng trên sông Yauza; nhưng nay
bỏ hoang không người săn sóc, nó đã bị che lấp sau đám cành lá um tùm. Trước
cổng và trên cánh đồng cỏ, mấy người đàn bà đang chạy ngược chạy xuôi, miệng
gọi ầm lên: hẳn họ đang tìm chú bé con. Nhưng chú bé ngồi khuất trong bụi ngưu
bàng, không nhúc nhích, vẻ mặt hờn dỗi. Alexaska nhổ toẹt một bãi nước bọt vào
mồi câu, rồi chõ sang phía bên kia bờ gọi đứa bé:
- Này, thôi đi, đừng ngồi đấy làm cá của
chúng tao sợ nữa. Liệu hồn, chúng tao sẽ bơi qua sông lột quần mày ra cho mày
một trận, cứ đợi đấy, rồi mày sẽ biết tay?
Đứa bé khụt khịt mũi không nói gì, Alexaska
lại nói:
- Mày là ai? Bố mày là ai? Này, thằng oắt
con...
- Tao sẽ cho chặt đầu mày, lúc đó mày sẽ
biết, - đứa bé nói với một giọng nhỏ nhẻ.
Alioska liền thì thầm bảo Alexaska:
- Mày làm sao thế? Sa hoàng đấy. - Rồi nó
bỏ cần câu xuống định bỏ chạy.
Một vẻ tinh nghịch lóe lên trong cặp mắt
xanh của Alexaska.
- Khoan đã, chúng mình vẫn đủ thì giờ để mà
chuồn cơ mà. - Nó thả dây câu rồi toét miệng cười, ngắm nghía thằng bé.
- Mày tưởng dọa chúng tao sợ phỏng? Còn
phải tìm được người chặt đầu chứ... Nhưng mày ngồi làm gì đấy? Người ta đang
tìm mày kia kìa...
- Tao ngồi đây thôi, tao trốn bọn đàn bà.
- Này, có lẽ mày là Sa hoàng của dân ta
chắc? Phải không?
Đứa bé không trả lời ngay, rõ ràng là nó
ngạc nhiên thấy có kẻ lại dám nói với nó một cách táo tợn như vậy.
- Phải, tao là Sa hoàng. Thế thì việc gì
đến mày?
- Sao, việc gì đến tao à? Lẽ ra mày phải
đem bánh mì ngọt ra cho chúng tao chứ. (Piotr nhìn Alexaska không chớp mắt và
cũng chẳng cười). Thật đấy, về lấy đem ra cho bọn tao mấy cái, tao sẽ làm trò
cho mà xem. - Alexaska bỏ mũ, lấy ở trong lần lót ra một chiếc kim.
- Trông này có đúng là một cái kim không
nào? Mày có muốn tao đâm chiếc kim có xâu chỉ này qua má mà không việc gì
không?
- Mày không nói dối chứ? - Piotr hỏi.
- Đây tao xin làm dấu thề. Mày có muốn tao
làm dấu bằng chân không? - Alexaska nhanh nhẹn ngồi xuống, cầm lấy bàn chân để
trần giơ lên mặt làm dấu. Piotr lại càng ngạc nhiên.
- Lại còn thiếu cái nước ấy nữa, bắt Sa
hoàng chạy đi lấy bánh ngọt cho mày, - Piotr càu nhàu nói. - Thế cho mày tiền mày
có đâm kim qua má không?
- Cho tao một đồng tiền bằng bạc, tao sẽ
đâm kim qua má ba lần liền mà không việc gì cả cho mà xem.
- Mày không nói dối chứ? - Piotr tò mò chớp
chớp mắt, rồi đứng dậy, nghểnh nhìn qua đám ngưu bàng về phía lâu đài, nơi mấy
người đàn bà vẫn đang cuống cuồng gọi “a-hu”, rồi rảo chân chạy về phía chiếc cầu
bắc ngang sông. Sang đến đầu cầu bên kia, Piotr đứng cách Alexaska có ba bước.
Vài con chuồn chuồn xanh biếc đang rung cánh lướt trên mặt nước.
Mấy đám mây nhỏ và một cây liễu thân bị sét
đánh vỡ nứt in bóng xuống mặt sông. Đứng dưới bóng liễu, Alexaska biểu diễn cho
Piotr xem cái trò nó đã hứa, nó xiên chiếc kim có sâu chỉ đen qua má ba lần
liền mà không việc gì cả; không chảy một giọt máu nào, chỉ có ba vệt bẩn nhỏ
trên má mà thôi. Piotr tròn xoe đôi mắt nhìn như mắt cú vọ.
- Đưa tao chiếc kim, - Piotr nói với một
giọng nóng nảy.
- Này, thế tiền đâu?
- Đây!
Alexaska giơ tay bắt lấy đồng rúp Piotr vứt
cho nó. Piotr cầm lấy chiếc kim, xiên qua má mình rồi ngửa cái đầu có bộ tóc
quăn về đằng sau; bật lên cười khanh khách:
- Tao cũng làm được như mày! Cũng làm được
như mày? - Rồi bỏ rơi hai đứa bé, Sa hoàng chạy về lâu đài chắc là để dạy cho
bọn đại thần biết cách xiên kim qua má. Đồng rúp mới tinh: một mặt có hình con
phượng hoàng hai đầu, mặt bên kia có hình bà nhiếp chính Sofia.
Alexaska và Alioska cả đời chưa từng kiếm
được nhiều tiền như vậy. Từ đó chúng thường hay đi trên bờ sông Yauza nhưng chỉ
trông thấy Piotr ở đằng xa. Lúc thì thấy Piotr cưỡi ngựa con, theo sau là một
bọn người to béo cưỡi ngựa, lúc thì thấy Piotr mang trống dẫn đầu một bọn con trai
mặc áo nẹp kiểu Đức có đeo súng gỗ, rồi chúng lại thấy bọn người to béo ấy hoa
chân múa tay tíu tít chung quanh Piotr.
- Nó chơi đùa nhảm nhí chẳng ra làm sao cả,
- Alexaska ngồi dưới gốc liễu bị sét đánh nói.
Cuối mùa hè, Alexaska rút cuộc cũng tìm cách
mua được của bọn người Digan một con gấu con gầy còm, có bướu trên lưng như vẫn
thấy trên lưng lợn, với số tiền là nửa rúp. Alioska cầm đầu sợi dây xích có móc
vào một cái vòng dẫn gấu đi. Alexaska hát múa, vật nhau với con gấu. Nhưng đến
mùa thu, trời mưa, các đường phố và quảng trường ở Moskva bùn lầy đến tận đầu
gối. Không cỏn chỗ nào để nhảy múa được nữa. Chẳng ai để cho chúng đem gấu vào
nhà. Mà con gấu lại rất phàm ăn. Chúng kiếm được bao nhiêu vào mồm gấu hết. Hơn
nữa, chúng thấy nó sắp sửa ngủ lì suốt mùa đông. Đành phải bán lỗ nó đi. Khi
mùa đông tới, Alioska ăn mặc hết sức tiều tụy, đi ăn xin. Alexaska thì cởi trần
đến ngang thắt lưng, đứng run như cầy sấy giữa trời lạnh như cắt trên quảng
trường hay trước cửa nhà thờ giả làm kẻ câm hay bại liệt, moi được vô khối tiền
của đám công chúng dễ động lòng trắc ẩn. Nhờ trời chúng cũng sống tạm ổn qua
được mùa đông. Thế rồi, mặt đất lại khô ráo, các khu rừng lại xanh tươi, chim
chóc lại hót líu lo. Hai đứa trẻ rất bận rộn: sáng sớm chúng đi câu trên con sông
sương phủ mù mịt; ban ngày chúng la cà các chợ và chiều tối chúng vào rừng đặt
bẫy.
Người ta đã nhiều lần bảo cho Alexaska
biết:
- Mày coi chừng, lâu nay bố mày đi tìm mày
khắp Moskva và dọa sẽ giết mày đấy.
Để trả lời, Alexaska tia nước bọt qua kẽ răng
xa đến ba xagien. Thế mà bất chợt, nó lại chạm trán ngay với ông bố... Chạy đến
đầu phố Baxmannaia cổ kính thì Alexaska bị chuột rút. Nó không dám ngoái cố lại
nhìn nữa nhưng vẫn nghe thấy tiếng ủng chạy huỳnh huỵch và hơi thở phì phò của
Danila mỗi lúc một gần sau lưng nó. Thôi, thế là chết đến nơi rồi!
- Cứu tôi với! - Alexaska kêu thất thanh.
Giữa lúc đó, một chiếc xe hòm bốn bánh cao ngất nghểu, từ một ngõ ngang lắc lư
ngoặt vào phố Razgulaia, nơi có một quán rượu nổi tiếng.
Đôi ngựa, đóng hàng một, đang phi nước
kiệu. Một gã người Đức chân đi bít tất dài, đầu đội mũ rộng vảnh, cưỡi con ngựa
đi đầu. Lập tức Alexaska lao về phía hai bánh xe sau đánh đu lên trục xe rồi
leo lên chỗ ngồi đằng sau xe. Thấy vậy, Danila hét lên: “Đỗ lại!” Nhưng gã
người Đức giơ roi thẳng cánh quất Danila ngã chúi vào đống bùn, lão tức uất
người nguyền rủa không ngớt miệng. Chiếc xe hòm vụt qua. Alexaska ngồi ở phía
sau xe lấy lại hơi thở.
Nó phải đi khỏi nơi này càng xa càng tốt:
Ra khỏi cửa ô Pokrovskie, chiếc xe quặt vào một con đường bằng phẳng, chạy mau
hơn trước, rồi chẳng mấy chốc đỗ lại trước một hàng rào cao chót vót. Một người
ngoại quốc từ cửa đi ra hỏi gì không rõ. Một cái đầu, giống như đầu thầy tu,
với bộ tóc dài quăn nhưng không có râu, thò ra ngoài cửa xe trả lời: “Franx
Lơfo”.
Cửa mở và thế là Alexaska đã nghiễm nhiên ở
Kukui, trong xloboda của người Đức.
Bánh xe lăn lạo xạo trên cát. Ánh đèn ấm cúng từ cửa sổ những ngôi nhà nhỏ hắt
ra, chiếu sáng những hàng rào thấp, những đám cây nhỏ xén gọn, những bầu thủy
tinh hình cầu đặt trên những chiếc cọc cắm ở giữa những lối đi rải cát. Trong
những khu vườn cỏn con, trước mấy căn nhà nhỏ, có những bông hoa trắng thơm
ngát lạ lùng. Đó đây, trên những chiếc ghế dài và trên thềm nhà, mấy người Đức
đang ngồi, đầu đội mũ bằng vải bông, miệng ngậm tẩu dài. “Cha mẹ ơi, sao mà họ
sống sạch sẽ ngăn nắp thế?”. Alexaska ngồi sau xe tự nhủ thầm, đầu quay nhìn tứ
phía. Những ngọn lửa nhỏ chập chờn trước mắt nó. Chiếc xe đang chạy trước một
cái hồ hình vuông chung quanh có những chậu gỗ lớn màu xanh lá cây trồng những
khóm cây tròn xinh xinh; xen giữa những chậu cây có treo những đèn lồng chiếu
sáng mấy chiếc thuyền trên có phụ nữ đang cười đùa ca hát, váy chùm ngoài vén
cao lên để khỏi nhàu, cổ, ngực đều để hở, cánh tay để trần đến tậu khuỷu, đầu
đội mũ có cài lông chim.
Chính ở chỗ này dưới chân một chiếc cối xay
gió, trước cửa một quán rượu có đèn sáng, thanh niên nam nữ đang từng cặp ôm
nhau nhảy múa. Chỗ nào cũng có bọn lính ngự lâm đi lại; ở điện Kreml họ lầm lì
khắc khổ nhưng ở đây thì họ không mang vũ khí, áo cởi cả khuy, khoác tay nhau
hát cười ầm ĩ một cách bình dị không có một vẻ gì là tức giận. Ở đây tất thảy
đều thanh bình, niềm nở tưởng đâu như không phải ở trên trái đất này; có lẽ
phải dụi mắt xem có phải thật thế không? Có lẽ là một giấc chiêm bao chăng?
Bỗng xe chạy vào một cái sân rộng, giữa sân
lả một cái hồ con hình tròn, có vòi nước phun. Phía trong cùng người ta thấy
một ngôi nhà quét vôi giả gạch có dán đè những cột giấy trắng lên trên. Chiếc
xe đỗ lại. Người đàn ông có mớ tóc dài xuống xe và trông thấy Alexaska cũng vừa
nhảy xuống đất.
- Mày là ai, ở đâu đến đây làm gì? - Người
ấy hỏi, giọng nói nghe kỳ cục. - Tao nói với mày đấy, thằng bé con kia. Mày có
phải là kẻ cắp không?
- Cháu mà ăn cắp à? Cháu mà ăn cắp thì bác
cứ đánh cho chết đi, - Alexaska vui vẻ nhìn thẳng vào khuôn mặt nhẵn nhụi, có
cái mũi hếch và cái miệng tươi cười nhỏ nhắn. - Bác đã trông thấy bố cháu vác
dao đuổi theo cháu ở phố Razgulaia rồi chứ?
- A, có, tao có trông thấy và tao đã bật
buồn cười. Một người to lớn đuổi theo một đứa bé con.
- Dẫu sao thì rồi bố cháu cũng sẽ cắt cổ
cháu. Cháu van bác, xin bác để cháu làm việc cho bác.
- Làm cho tao ư? Nhưng mày biết làm gì nào?
- Việc gì cháu cũng làm được... Trước tiên,
cháu biết hát vô số bài. Cháu biết thổi sáo, thổi kèn, đánh nhịp bằng những
chiếc thìa. Cháu biết pha trò cho người ta cười. Không biết bao lần người ta
nghe cháu phải cười vỡ bụng. Cháu có thể nhảy múa từ sáng đến tối, rồi lại từ
tối cho đến sáng mà không ra tí mồ hôi nào cả. Bác bảo gì cháu cũng làm được...
Franx Lơfo nắm lấy chiếc cằm nhọn của
Alexaska. Rõ ràng hắn thấy thích thằng bé.
- Ồ mày là một thằng bé láu lỉnh... Mày đi
lấy xà phòng rửa mặt mũi đi vì mày bẩn lắm. Xong tao sẽ cho mày quần áo rồi mày
sẽ làm cho tao. Nhưng nếu mày ăn cắp...
- Bác nghĩ thế chứ, dại gì mà lại ăn cắp, -
Alexaska nói một cách chắc chắn đến nỗi Franx Lơfo tin lời nó. Hắn gọi người
coi ngựa ra nói cái gì đó về Alexaska rồi đi về phía ngôi nhà, miệng huýt sáo,
chân nhún nhảy như múa, chắc là vì ở ngay gần đó, tiếng nhạc vang vang trên mặt
hồ và đám phụ nữ Đức đang hò hét vui vẻ.
Chương 22
- Như thế đủ rồi, Nikita Moixeevich ạ,
ta e rằng trẻ nó nhức đầu mất...
Natalia Kirilovna nói vừa dứt lời thì Sa
hoàng Piotr đang đọc dở quyển sách nói về các vị tông đồ dừng ngay lại rồi vội
đưa ngón tay đầy vết mực lên làm dấu. Không đợi cho Nikita Moixeevich Zotov,
ông thầy dạy học và sư phó của Sa hoàng, rập đầu chào theo đúng như nghi lễ đã
định, Piotr vội vã hôn tay bà mẹ, đang luống cuống muốn giữ con lại với mình dù
chỉ trong một phút mà cũng không được. Piotr hấp tấp đi ra, đôi chân to xù rảo
bước trên sàn nhà kêu cót két, trên những bậc hành lang và bậc cầu thang làm
cho mấy bà già chuyên nghề ăn ghẹ ngồi thu lu trong những góc nhà tối om của
lâu đài Preobrazenski hoảng sợ.
- Mũ lông của con đâu, đội vào kẻo cảm nắng
đấy! - Thái hậu khẽ gọi con. Nikita Zotov đứng trước thái hậu, thành kính và thẳng
đơ như khi ở nhà thờ, tóc chải cẩn thận, quần áo sạch sẽ, chân đi ủng ngắn bằng
da mềm, mình khoác áo chùm dài bằng da mịn màu sẫm, cổ áo dựng đứng sau gáy cao
hơn đỉnh đầu. Với một thái độ thành kính, hắn ngửa khuôn mặt nhẹ nhõm dễ coi có
đôi môi lộ vẻ nhu nhược và một bộ râu loăn xoăn. Hắn là một người mộ đạo, cái
đó không còn phải nói gì nữa. Nếu bảo hắn: Nikita, nhảy vào đống lửa đi, hắn sẽ
nhảy ngay. Hắn trung thành hơn cả loài khuyển mã nhưng có điều là lúc nào hắn
cũng có vẻ hớn hở thanh thản thái quá. Đối với một đứa trẻ khó bảo như Piotr
thì đáng lẽ ra một người như hắn không thể làm sư phó được.
- Nikita Moixeevich, cần phải cho hoàng
thượng đọc nhiều kinh thánh hơn nữa vì quả thật hoàng thượng không có vẻ Sa
hoàng một chút nào cả... Rồi đây, ngoảnh đi ngoảnh lại đã phải lấy vợ cho hoàng
thượng rồi... Cho đến giờ vẫn chưa bảo được hoàng thượng đi đứng cho đàng
hoàng, thong thả, lúc nào hoàng thượng cũng chạy đùng đùng như một kẻ thường
dân. Kia, ông trông hoàng thượng kìa...
Thái hậu nhìn qua cửa sổ, hai tay chắp lại
tỏ ý buồn phiền. Piotr đang chạy qua sân, vừa chạy vừa vấp loạng choạng vì muốn
chạy nhanh quá. Theo sau là một lũ gia nhân trong lâu đài, cao lêu đêu như sếu,
tay cầm súng hỏa mai và rìu nhỏ lưỡi dài. Trên lũy đất đắp trước lầu đất bên
kia hàng rào, trông tựa một pháo đài thu nhỏ, có một số nông dân bị lùa từ làng
bên đến, đầu đội mũ kiểu Đức rộng vành. Họ lại còn được lệnh phải ngậm những
chiếc tẩu nhồi đầy thuốc lá. Thấy Sa hoàng vừa nhảy chồm chồm vừa chạy về phía
họ, họ đâm hoảng quên khuấy mất vai trò của mình làm Piotr cáu giận kêu váng
lên, giọng như tiếng gà trống.
Natalia Kirilovna kinh hãi, trông thấy con
mình mắt tròn xoe vì tức giận. Piotr trèo lên lũy pháo đài và hầm hầm cầm khẩu
súng hỏa mai nhỏ đánh lấy đánh để một nông dân đang đứng rụt cổ lại.
- Ai không làm theo ý muốn của hoàng
thượng, hoàng thượng có thể giết chết người ta được, - Natalia Kirilovna nói, -
không hiểu tính nết hung hãn của hoàng thượng giống ai?
Cuộc chơi bắt đầu lại. Piotr bắt bọn gia
nhân cao lênh khênh cầm rìu xếp thành hàng, rồi lại nổi giận vì họ không hiểu
rõ ý định của mình. Thật quả là một tai họa: khi cáu lên Piotr líu cả lưỡi lại
chẳng còn ai hiểu Sa hoàng nói gì nữa tựa hồ nhà vua muốn nói nhiều mà lưỡi
không uốn theo kịp.
- Tại sao ít lâu nay đầu hoàng thượng lại
cứ lắc lư như vậy?
Natalia Kirilovna nói và khiếp sợ nhìn con.
Bỗng bà bịt hai tai lại. Đám nông dân ở cái pháo đài tí hon mang đến một khẩu
đại bác bằng gỗ sồi mà theo lệnh của thái hậu căn dặn, người ta chỉ tọng vào
nòng những thứ gì mềm nhất như khoai hoặc củ cải luộc. Đám nông dân châm ngòi
bắn rồi hạ ngay khí giới của họ xuống, giơ cao tay lên tỏ ý đầu hàng.
- Không được đầu hàng! Lũ mi phải chiến
đấu, - Piotr hét om lên, đầu quay tứ phía lắc lia lịa. - Chơi lại. Phải chơi
lại từ đầu!
- Nikita Moixeevich, đóng cửa sổ lại đi,
chúng làm ầm quá, ta nhức đầu lắm, - bà thái hậu nói. Khuôn cửa sổ nhỏ có những
ô kính màu khép lại. Natalia Kirilovna gục đầu xuống, mấy ngón tay khẽ động đậy
lần chuỗi tràng hạt bằng vỏ ốc biển đã được ban phước lành mua từ núi Atox về.
Bà rất buồn. Nỗi phiền muộn và nước mắt đã làm bà già đi nhiều trong mấy năm
qua. Tất cả nhan sắc của bà chỉ còn lại cặp lông mày và đôi mắt thâm quầng xưa
kia long lanh sáng quắc. Lúc nào bà cũng mặc đồ đen, khoác một chiếc khăn quàng
đen.
Xưa kia, hoàng hậu Maria Nagais đã sống như
vậy ở Uglich với Dimitri xấu số... Nếu một số bất hạnh tương đương cũng xảy ra
ở đây...
Bà nhiếp chính Sofia chỉ mơ tưởng có mỗi
một điều: lấy Golixyn và lên ngôi báu. Sofia đã đặt bọn thợ thủ công người Đức
đúc cho mình một cái vương miện rồi.
Lâu đài Preobrazenski vắng ngắt; chỉ có bọn
gia nhân chạy rón rén trên đầu ngón chân và bọn u già, lão bộc xì xào trong các
xó tối. Sa hoàng tuy hãy còn trẻ nhưng không sao chịu được những bả già đó:
trông thấy một mụ nào áo vấy những giọt sáp đang men sát tường lần đi là Piotr
cất tiếng hỏi một cách phũ phàng đến nỗi bà lão tội nghiệp sợ chết khiếp, gắng
lắm mới lê được vào một xó nhà gần nhất.
Bọn quý tộc không lui tới lâu đài
Preobrazenski vì ở đấy danh, lợi đều không có. Chúng đều đổ xô vào điện Kreml
để được gần mặt trời. Để tỏ vẻ tôn trọng nghi lễ đôi chút, Sofia đã cắt bốn vị
đại thần đi theo triều đình của Sa hoàng Piotr. Bốn người đó là: vương hầu
Mikhail Alegukovich Seckaski, vương hầu Lykov, vương hầu Troekurov và vương hầu
Boris Alekseevich Golixyn. Nhưng họ có tác dụng gì mới được chứ? Đến chân thềm,
họ xuống ngựa một cách uể oải, hôn tay bà thái hậu rồi ngồi xuống và thỉnh
thoảng lại yên lặng thở dài. Tìm đâu ra chuyện mà nói với một vị thái hậu đã bị
thất thế? Piotr xồng xộc chạy vào phòng; bọn đại thần chảo Sa hoàng - mà nào có
ra Sa hoàng - hỏi thăm sức khỏe Sa hoàng rồi lại thở dài, lắc đầu: quả thật là
Sa hoàng trở nên ngỗ nghịch quá đỗi. Một vết sướt trên má, hai bàn tay nẻ toác
ra. Không còn ra thể thống gì nữa.
- Nikita Moixeevich, người ta bảo rằng ở
Mytisi có một mụ tên là Vorobikha gì đó chuyên xem bói bằng bã rượu kvas hay
lắm, mọi sự mụ ấy tiên đoán đều đúng cả... - Bà thái hậu nói một cách rành
mạch. - Có lẽ ông cho tìm mụ ấy đến chăng? Nhưng không hiểu tại sao, ta sợ lắm...
Chỉ sợ mụ ấy lại tiên đoán một tai họa cho ai thôi...
- Tâu lệnh bà, có tai họa nào mà mụ đốn mạt
Vorobikha đó có thể tiên đoán cho lệnh bà được? - Zotov đáp lại với một giọng
ngọt ngào dễ nghe. - Nếu thế thì giá có xé xác nó ra từng mảnh cũng hãy còn là
nhẹ...
Natalia Kirilovna giơ ngón tay út ra hiệu
gọi. Zotov bước tới gần, đôi ủng mềm không một tiếng động.
- Moixeevich... vừa rồi mụ vợ góa của một
tên xtreletz có mang một thúng hoa
quả vào nhà bếp, mụ đó nói hôm trước Sofia có nói ầm cả cung, ai cũng nghe
thấy: “Tiếc thay, bọn xtreletz khi đó
đã không bóp chết cả con sói con lẫn con sói mẹ...”
Đôi môi của Natalia Kirilovna mấp máy, cái
cằm hai ngấn buộc trong khăn quàng đen rung lên, nước mắt dàn dụa. Biết trả lời
làm sao? An ủi thế nào? Tất cả các trung đoàn xtreletz và toàn thể đoàn vệ binh quý tộc đều đứng về phe Sofia, còn
Piotr chỉ có khoảng ba chục tên lộc ngộc ngốc nghếch để làm trò vui và một khẩu
đại bác bằng gỗ nhồi củ cải... Nikita Zotov dang tay, ngửa đầu về đằng sau tựa
gáy vào chiếc cổ áo cứng nhắc. Bà thái hậu thì thầm:
- Hãy cho tìm mụ Vorobikha vào đây, đề mụ
nói rõ sự thật xem sao chứ cứ tình hình này ta lại càng thấy sợ.
Ngày hè dài đằng đẵng, buồn tẻ. Từng đám
mây trắng nhỏ lững lở trôi, có lúc dừng lại bên trên con sông Yauza. Trời nóng
như thiêu như đốt. Ruồi nhặng không ngớt quấy nhiễu. Qua làn sương mờ hiện lên
vô số nóc tròn của kinh thành Moskva và những đỉnh tháp của pháo đài, gần hơn
nữa là ngọn tháp nhà thờ của người Đức và những chiếc cối xay gió của xloboda Kukui. Tiếng gà mái cục te cục
tác, nghe buồn ngủ. Từ nhà bếp vọng ra tiếng dao dĩa chạm nhau loảng xoảng.
Thời còn Sa hoàng Aleksey Mikhailovich, lâu đài Preobrazenski suốt ngày vang
lên tiếng cười đùa ầm ĩ. Người đông như hội, ngựa hí inh tai.
Hết cuộc vui này lại đến trò chơi khác: khi
săn thú, săn gấu, lúc đua ngựa. Còn bây giờ thì trông đấy: cỏ dại đã mọc lấp cả
con đường từ cổng đá đần tới thềm nhà. Cuộc đời đã trôi qua. Hãy ngồi đấy mà
lần tràng hạt!
Một vật gì bỗng đập vào cửa kính. Zotov vội
mở cửa sổ. Piotr đứng dưới gốc một cây bồ đề, người đầy cát, bụi bậm, quyện vào
mồ hôi, bẩn thỉu như con nhà nông dân, gọi Zotov:
- Nikita, viết cho ta một đạo dụ... Bọn
nông dân của ta chẳng được tích sự gì cả. Chúng già yếu, ngu ngốc quá... Nhanh
lên!
- Kẻ hạ thần này phải viết thế nào trong
dụ? Xin bệ hạ cho biết, - Nikita nói.
- Ta cần một trăm nông dân, trẻ, khỏe mạnh.
Nhanh lên...
- Nhưng dùng bọn nông dân này vào việc gì
ạ? Thần phải viết thế nào ạ?
- Dùng vào những trò chơi quân sự... Và
phải gửi đến cho ta những súng tốt, với đạn dược... và cả hai khẩu đại bác bằng
gang, bắn thật ấy... Nhanh, nhanh lên để ta ký rồi cho phu trạm đưa đi...
Thái hậu thò đầu ra ngoài cửa sổ, lấy tay
gạt một cành bồ đề vướng mắt ra một bên.
- Piotr, ánh sáng của mẹ, lúc nào con cũng
chỉ đánh nhau thôi... Con hãy nghỉ đi, ở đây với mẹ một lúc đã?
- Không có thì giờ mẹ ạ, chốc nữa, bây giờ
con không có thì giờ...
Piotr bỏ chạy. Thái hậu Natalia Kirilovna,
đưa mắt nhìn theo con, miệng thở đài. Zotov làm dấu thánh giá rồi rút ra một
chiếc lông ngỗng và một con dao con. Hắn tỉ mỉ vót nhọn đầu chiếc lông ngỗng,
viết thử lên móng tay. Một lần nữa hắn lại làm dấu, đọc một bài kinh, xong vén
ống tay áo ngồi thảo đạo dụ bằng lối chữ bán đại tự:
- Thừa thiên hưng vận, Sa hoàng kiêm Đại
quận công, hoàng đế quang minh cao cả vả hùng mạnh Piotr Alekseevich, toàn
quyền ngự trị Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga...”
Ngồi buồn, thái hậu Natalia Kirilovna mở vở
làm bài của con ra xem. Đó là một vở toán, chi chít vết mực: nét chữ khó đọc,
hàng chữ đè lên nhau: “Ví dụ tính cộng... Tôi nợ một số tiền lớn nhưng có ít thiền hơn xố nợ và tôi phải tính còn phải chả
bao nhiêu. Phải làm như sau: viết xố
thiền nợ lên chên, số tiền có suống dưới
rồi chừ xố chên với xố dưới. Ví
dụ: hai chừ một còn một. Phải viết xố
hai lên chên, xố một xuống dưới, gạch ngang một cái dưới xố một, rồi viết kết quả dưới gạch ngang... “
Bà thái hậu bỗng ngáp, thực ra bà cũng
chẳng biết mình muốn gì, muốn ăn hay làm gì...
- Nikita Moixeevich, ta quên khuấy đi mất,
hôm nay đã ăn quà chiều rồi hay chưa nhỉ?
- Tâu lệnh bà, - Zotov gác bút sang một
bên, đứng dậy cúi chào đáp lại, - sau khi ăn trưa, lệnh bà đã vui lòng đi nghỉ
và khi dậy, lệnh bà đã dùng quà chiều, quả đánh kem, lê nấu và rượu mật ong của
tu viện gửi đến...
- Ừ phải... Vậy thì sắp phải đi dự khóa lễ
chiều rồi.
Thái hậu Natalia Kirilovna uể oải đứng lên
đi vào buồng riêng. Trong buồng, dưới ánh sáng le lói của những chiếc đèn chong
đêm (cửa sổ che rèm), mấy mụ già ăn bám ngồi dọc theo bức tường trên những
chiếc hòm có vải bọc ngoài; vốn hay kiếm chuyện gây sự, họ đang thì thầm trách
móc nhau. Thái hậu Natalia Kirilovna vào; cả bọn vội đứng dậy, cúi gập người
trông như những con búp bê bằng giẻ cũ không xương và cúi chào. Bà thái hậu
ngồi xuống chiếc ghế bành kiểu Vơnidơ, có lưng tựa cao, bên dưới những tranh
thánh. Từ phía sau chiếc giường, một mụ lùn mắt toét chạy ra, khóc nức nở như
một đứa con nít rồi ngồi thụp xuống, nép vào chân bà thái hậu: mụ bị mấy bà già
ăn bám kia bắt nạt.
- Các bà hãy kể ra nghe xem các bà nằm mê
thấy những gì nào, - Natalia Kirilovna nói - Có ai mơ thấy kỳ lân không?
Chuông nhà thờ trong lâu đài thong thả điểm
từng tiếng một, báo ngày đã tàn. Trong tiền sảnh, ở các cầu thang, xuất hiện
bọn con em quý tộc, bọn quý phái nông thôn, dòng dõi tầm thường, bọn dapife (1) do Sofia cắt đi theo triều
đình Piotr; chúng vừa đi vừa dụi cặp mắt húp híp vì ngái ngủ. Trong bọn này có
Vaxili Volkov - cha hắn đã cầu khẩn nói khó nên cuối cùng đã xin được cho con
cái danh giá đó. Ăn uống tha hồ, đời sống dễ dàng, lương lại được sáu mươi rúp
một năm. Nhưng chỉ phải cái tội là buồn chẳng biết làm gì cả. Bọn dapife ngủ suốt ngày. Chuông báo khóa lễ
chiều. Nhưng Sa hoàng đâu rồi? Bọn dapife
bổ đi tìm khắp nơi, ngoài sân, trong vườn rau, ngoài đồng cỏ, bờ sông. Thái hậu
đã phái thêm hai mươi vú em to mồm, cùng đi tìm với bọn dapife. Họ tìm kiếm khắp vùng không còn thiếu chỗ nào, gọi ầm cả
lên nhưng tuyệt không thấy Sa hoàng đâu cả. Ôi lạy Chúa, hay Sa hoàng chết đuối
rồi? Bọn dapife hết cả lờ đờ ngái
ngủ. Chúng nhảy lên mình ngựa chẳng kịp đóng yên cương rồi mỗi người đi tìm mỗi
ngả, vừa hò vừa gọi trên cánh dồng đang chìm dần vào đêm tối. Tại lâu đài, thật
là cả một sự hốt hoảng. Xó nào cũng có những mụ già loắt choắc đang liến láu
thì thầm:
- Mụ Sonka(2) đấy, chỉ có mụ ấy thôi chứ
còn ai nữa. Vừa rồi có một gã lảng vảng chung quanh lâu dài... trong ống ủng
hắn gài một con dao, có người trông thấy... Chúng đã cắt cổ người bố nuôi bé
bỏng của ta rồi, chúng đã cắt cổ Người rồi...
Những tiếng thì thầm ghê rợn đó làm Natalia
Kirilovna không sao chịu được nữa, sợ hoảng lên. Bà chạy ra ngoài thềm. Một làn
khói từ cánh đồng chìm trong đêm tối bốc lên. Tiếng cuốc kêu ra rả trong những
thung lũng nhỏ ẩm ướt. Xa xa bên trên khu rừng Chim ưng, một ngôi sao hiện lên,
ánh sáng thê lương, nhợt nhạt. Nỗi lo âu như đâm vào tim Natalia Kirilovna.
Thái hậu vặn tay tuyệt vọng kêu lên:
- Piotr, con ơi!
Vaxili Volkov phi ngựa dọc theo con sông,
tới chỗ mấy người dân chài đang chất củi đốt lửa; đám dân chài sợ quá vội đứng
nhỏm cả dậy, nồi cá đang đun đổ lật vào lửa. Volkov thở hổn hển hỏi:
- Này, bọn nông dân, tụi bay có thấy Sa
hoàng đâu không?
- Có lẽ chính Sa hoàng đã đi thuyền qua đây
lúc nãy chăng? Mấy người chèo thuyền hình như cho thuyền đi thẳng về phía
Kukui. Ngài hãy đến chỗ người Đức ở mà tìm.
Cổng xloboda người Đức chưa đóng. Volkov
phi ngựa theo đường phố về phía có nhiều người Đức đang túm tụm lại thành một
đám đông. Ngồi trên mình ngựa hắn nhìn thấy Sa hoàng, bên cạnh là một người tầm
thước tóc dài, vạt áo nẹp ngắn xòe ra như cánh gà. Một tay hắn cầm mũ cách xa
người, một tay cầm chiếc gậy. Quân chó đẻ ấy vừa cười vừa nói chuyện với Sa
hoàng chẳng chút ngượng nghịu. Piotr vừa nghe hắn nói vừa cắn móng tay.
Và tất cả bọn Đức trâng tráo ấy đứng đàng
hoàng chẳng hề khúm núm. Volkov xuống ngựa, len vào quỳ xuống trước mặt Sa
hoàng.
- Tâu bệ hạ, thái hậu đang lo lắng không
biết có chuyện gì xảy đến cho bệ hạ. Xin bệ hạ hãy trở về dự khóa lễ chiều...
Piotr hất đầu tỏ vẻ sốt ruột:
- Ta không muốn về. Cút đi!
Volkov vẫn quỳ và nhìn Piotr một cách thành
kính, Sa hoàng đỏ mặt tía tai, co chân đạp Volkov, nói:
- Cút đi, đồ nông nô!
Volkov dập đầu sát đất chào rồi vẻ mặt buồn
bực, không nhìn những người chung quanh đang khúc khích cười, phi nước kiệu về
báo cáo với thái hậu.
Một người Đức tính tình hiền lành, cằm hai
ngấn, trắng hồng, mình mặc áo gilê, đầu đội mũ chụp bằng vải bông, chân xỏ giầy
vải thêu - hắn bán rượu vang, tên là Ivan Monx - từ trong quán rượu của hắn đi
ra để xem mặt Sa hoàng; hắn rút chiếc tẩu sứ ra khỏi miệng, nói:
- Hoàng thượng thích ngự ở đây hơn là ở
nhà. Ở đây vui hơn...
Bọn ngoại quốc xúm xung quanh đều nhả tẩu
ra cầm tay, gật đầu biểu đồng tình, miệng mỉm cười một cách hiền hậu.
- Đúng đấy, ở khu chúng ta vui hơn...
Rồi họ nhích lại gần để nghe xem Franx
Lơfo, anh chàng lịch sự có bộ tóc giả loăn xoăn to xù, đang nói gì với vị Sa
hoàng cao lênh khênh cổ ngẳng. Piotr đã gặp hắn ở bờ sông Yanza.
Sa hoàng đi trên một chiếc thuyền lớn, nặng
nề, bọn gia nhân vụng về chèo thuyền, mái chèo luôn luôn đập vào cọc chèo.
Piotr ngồi ở mũi thuyền, hai chân gập lại. Trong ánh hoàng hôn, Sa hoàng trông
thấy những mái ngói, những ngọn tháp nhọn hoắt, ngọn những cây đã được gọt tỉa,
những chiếc cối xay gió cắm chong chóng trên đỉnh, những chuồng nuôi chim bồ
câu, tất cả những cái ấy đang từ từ tiến lại gần. Một điệu nhạc lạ lùng từ khu
Kukui vọng lại, tựa hồ hình ảnh cái thành phố huyền ảo xa xăm trong những câu
chuyện thần thoại mà bọn vú bõ đã kể cho Piotr nghe khi Piotr còn thơ ấu. Trên
bờ sông, một người mặc áo nẹp bằng nhung, vạt áo phanh ra hai bên hông, cạnh
sườn đeo thanh gươm và trên đầu đội mũ ba cạnh, đang đứng trên một đống rác: đó
là viên đại úy Franx Lơfo. Piotr đã trông thấy hắn ở điện Kreml trong một cuộc
chiêu đãi các sứ thần nước ngoài. Tay trái cầm cách xa người một cái gậy dài,
tay phải bỏ mũ ra, hắn lùi lại một bước nghiêng mình chào, - những chùm tóc giả
loăn xoăn xoà xuống kín cả mặt. Hắn đứng thẳng người lên cũng không kém phần
nhanh nhẹn rồi với một nụ cười nhếch trên mép, hắn nói rành mạch một câu tiếng
Nga lủng củng nghe chói cả tai:
- Hạ thần xin hết lòng phụng sự hoàng
thượng...
Người đó lanh lợi, vui vẻ và cử chỉ chẳng
giống ai đến nỗi Piotr ngây người ra nhìn như một hiện hình kỳ lạ. Lơfo lắc lư
bộ tóc giả loăn xoăn nói với Sa hoàng:
- Thần có thể đưa hoàng thượng đến xem một
cái cối xay chạy bằng nước, có công dụng bào nhỏ thuốc lá dùng để hít, xay kê,
làm chuyển động một chiếc khung cửi và đưa nước lên đổ vào một cái thùng to.
Thần lại có thể dẫn hoàng thượng đến xem một cái bánh xe cối xay bên trong có
một con chó chạy làm cho bánh xe quay. Ở nhà bác Monx bán rượu vang có một cái
hộp âm nhạc trên nắp có tượng mười hai công tử và tiểu thư cùng hai con chim
nhỏ trông như thật, nhưng không lớn hơn móng tay. Hai con chim hót như họa mi,
đuôi, cánh đều vẫy được, theo những định luật cơ học phức tạp. Thần sẽ đưa
hoàng thượng xem một ống viễn kính dùng để quan sát mặt trăng và cho người ta
trông thấy trên mặt trăng có nhiều biển cả núi non. Ở hiệu thuốc, hoàng thượng
sẽ thấy một đứa con gái sơ sinh ngâm trong cồn: mặt nó bề ngang chỉ đo được một
phần tư, mình đầy lông tơ, tay chân chỉ có hai ngón.
Piotr thao láo tròn xoe mắt vì hiếu kỳ
nhưng mím cặp môi nhỏ lại không nói. Không hiểu tại sao Piotr cho rằng nếu mình
bước lên bờ với cái thân hình lênh khênh và đôi cánh tay dài nghêu thì Lơfo
chắc sẽ cười mình. Piotr khụt khịt một cách bực bội, dùng dằng chưa muốn dời
thuyền tuy rằng mũi thuyền đã chạm vào bờ. Lơfo liền chạy xuống gần mặt nước,
dáng điệu lịch sự, vui vẻ hồn hậu; hắn cầm lấy bàn tay Piotr sứt sát, móng tay
gặm mòn, rồi siết chặt vào ngực.
- Chà, bọn dân lành chúng thần ở Kukui sẽ
rất sung sướng được bái yết bệ hạ. Họ sẽ đưa bệ hạ xem những vật kỳ lạ rất ngộ
nghĩnh.
Lơfo vốn khéo léo và mưu mẹo. Piotr chưa
kịp định thần thì đã thấy mình đi bên cạnh Lơfo, tay ve vẩy, tiến về phía cổng xloboda Kukui. Dân cư nơi này béo tốt da
dẻ hồng hào, đứng quây chung quanh Piotr và Lơfo, ai cũng muốn khoe nhà mình,
cối xay của mình có con chó chạy trong bánh xe, cái vườn của mình, có những lối
đi rải cát, những khóm cây xén tỉa gọn gàng và không có đến một ngọn cỏ mọc
thừa. Họ đưa Piotr đi xem mọi vật tinh xảo mà Lơfo đã nói. Piotr ngạc nhiên
luôn miệng hỏi:
- Thế cái kia là cái gì? Thế còn cái kia
dùng để làm gì? Thế còn cái kia, làm thế nào?
Dân Kukui gật gù tỏ vẻ tán thành nói:
- Chà, Sa hoàng trẻ tuổi Piotr Alekseevich
cái gì cũng muốn biết, thật đáng khen.
Sau cùng, họ dẫn Piotr đến cái hồ vuông.
Trời đã nhá nhem tối. Ánh đèn lọt qua cánh cửa mở toang của quán rượu, chiếu
sáng mặt hồ. Piotr trông thấy một chiếc thuyền con, cánh buồm nhỏ rũ xuống vì
không có gió. Một cô gái trẻ măng ngồi trên thuyền mình mặc áo dài màu trắng
trông tựa một bông hồng đang nở. Tóc cô bé búi lên và cài hoa, đôi cánh tay để
trần ôm một cây đàn tỳ bà. Thấy thế, Piotr rất đỗi ngạc nhiên, thậm chí còn sợ
nữa, không hiểu tại sao? Cô gái quay mặt về phía Piotr, khuôn mặt trông thật huyền
ảo trong ánh hoàng hôn, rồi tay bật dây đàn tỳ bà, nàng bắt đầu hát bằng tiếng
Đức với một giọng nhỏ nhẹ, một bài ca nghe hay và cảm động đến nỗi mọi người
đều thấy mủi lòng. Giữa những hàng cây xanh tươi tốt xen thành hình cầu hay
hình tán, những bông hoa thuốc lá trắng tỏa mùi thơm êm dịu. Một cảm giác lạ
lùng làm cho tim Piotr đập thình thình.
- Cô gái hát để chào mừng bệ hạ, - Lơfo nói
với Piotr. - Thiếu nữ xinh đẹp đó là con gái của Johan Monx, một nhà buôn rượu
vang lớn.
Chính Johan Monx miệng phì phèo tẩu thuốc
lá cũng vui vẻ giơ tay lên chào Piotr. Giọng nói cám dỗ của Lơfo thì thầm:
- Nhiều cô gái sắp tụ họp trong quán rượu
ngay bây giờ; sẽ có nhảy múa và đốt pháo bông...
Có tiếng vó ngựa lộp cộp dữ dội trong đường
phố tối mò. Một đám đông dapife đến
tận chỗ Sa hoàng đứng, đem theo nghiêm lệnh của thái hậu đòi Sa hoàng về.
Lần này thì đành phải vâng lời thôi.
-------------
Chú thích:
(1) Thị vệ, quan hầu vua khi ăn.
(2) gọi tắt Sofia.
Chương 23
Khách ngoại quốc đến thăm điện Kreml
thường ngạc nhiên nói rằng, không như ở Paris, ở Viên, ở London, ở Warsawa hay
ở Stockholm, triều đình Sa hoàng giống một cửa hiệu buôn thì đúng hơn. Những
cuộc giải trí lịch sự, những buổi khiêu vũ, những trò chơi, những thú vui tế
nhị đều không có. Trong những căn phòng thấp nóng hầm hập của điện Kreml, bọn
quý tộc đại thần mình mặc áo dài bằng gấm thêu kim tuyến, bọn vương hầu kiêu kỳ
và bọn tổng trấn lừng danh chỉ tụm nhau lại mà nói rặt những chuyện mua bán
gai, bột tạt, dầu hải cẩu, lúa mì, da... Họ mặc cả gắt gao. Họ thở ngắn than
dài rằng đất đai của họ phì nhiêu, thứ gì cũng dồi dào, nhưng sự buôn bán lại
đình trệ, và tuy dinh cơ của những người quý tộc rộng thênh thang nhưng lại
chẳng sản xuất được thứ gì để bán cả. Ở Hắc Hải thì người Tarta thống trị. Ra
biển Baltic thì không được. Nước Trung Hoa thì xa lắc xa lơ và cả một dãy miền
Bắc nằm trong tay người Anh. Nhẽ ra phải chiếm lấy biển cả nhưng việc nầy quá
sức họ.
Vả lại người Nga bản chất chậm chạp vụng
về, quen sống ru rú xó nhà. Họ sống như loài gấu, ẩn trong những ngôi nhà kín
cống cao tường ở Moskva.
Mỗi ngày họ đứng dự ba khóa lễ. Mỗi ngày họ
ăn uống no say bốn lần rồi lại còn ngủ trưa nữa để tỏ ra có tư cách và giữ gìn
sức khỏe. Chẳng còn mấy thì giờ để làm những công việc khác: bọn quý tộc đại
thần thì phải vào triều túc trực để Sa hoàng sai bảo; bọn lái buôn thì ngồi
trước cửa hàng chào khách; bọn thơ lại các bộ, các vụ thì vùi đầu vào nghiên
cứu văn kiện.
Người Nga hẳn còn phải than thở lâu nữa,
miệng húng hắng ho, tay gãi sườn nếu không có một sự việc bất ngờ xảy ra: vận
may đã đến với họ. Vua Jean Xobieski nước Ba Lan phái mấy sứ thần danh tiếng
đến Moskva để ký kết với nước Nga một liên minh chống Thổ Nhĩ Kỳ. Với một giọng
ngọt ngào, mấy người Ba Lan nói rằng không thể nào để cho bọn Thổ đê tiện hành hạ
người theo đạo Thiên chúa được và người Nga chính thống mà chung sống hoà bình
với vua Thổ Nhĩ Kỳ và phiên vương xứ Krym thì thật không hợp đạo lý chút nào. Ở
Moskva, người ta hiểu ngay rằng người Ba Lan đang gặp khó khăn và bây giờ là
lúc nên mặc cả với họ. Đúng như vậy: nước Ba Lan đồng minh của hoàng đế Áo đang
phải chật vật chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ và về phía Bắc lại bị người Thụy Điển
hăm dọa. Mọi người còn nhớ in trong óc những cảnh tàn phá của cuộc chiến tranh
Ba mươi năm, khi đế quốc Áo nghiêng ngả, nước Đức kiệt quệ và Ba Lan trở thành
một thái ấp của Thuỵ Điển hay cũng gần như vậy. Làm bá chủ biển cả hiện nay là
người Pháp, người Hà Lan, người Thổ Nhĩ Kỳ và trên suốt bờ biển Baltic là người
Thụy Điển. Người ta hiểu rõ người Ba Lan muốn gì: sử dụng quân đội Nga để bảo
vệ những vùng thảo nguyên ở Ukraina chống lại vua Thổ Nhĩ Kỳ.
Vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn, quan
đại chưởng ấn của Sa hoàng, bộ trưởng các sứ quán và là tổng trấn tỉnh
Novgorod, đòi người Ba Lan phải trả lại Kiev.
- Hãy trả lại chúng tôi đất Kiev với những
pháo đài nhỏ của nó, xưa nay vẫn thuộc về Sa hoàng, có như vậy thì sang năm,
chúng tôi sẽ gửi quân đến Krym để đánh phiên vương.
Người Ba Lan thương lượng ròng rã ba tháng
rưỡi trời:
- Thà chúng tôi mất hết còn hơn phải trả
lại Kiev .
Người Nga chẳng có gì phải vội, nên nhất
định không chịu rút lui ý kiến, họ đọc cho người Ba Lan nghe tất cả những sử
liệu viết từ hồi nước Nga thần thánh lập quốc. Rút cuộc người Nga thắng. Jean
Xobieski bị người Thổ Nhĩ Kỳ đánh thua ở Bexarabi vừa khóc vừa ký hòa ước đời
đời với triều đình Moskva vả trả lại Kiev
với những pháo đài nhỏ cho người Nga.
Thành công quả là lớn, nhưng ngược lại,
không thể lùi được nữa: phải tập hợp một đạo quân đi đánh phiên vương xứ Krym.
Chương 24
Trong ngôi nhà Golixyn ở trông ra phố
Okhotnyi Riat, chỗ nào cũng sạch sẽ chỉnh tề. Tường nhà rực rỡ chói lọi vì dát
đồng mỏng từ nóc nhà đến mặt đất. Ở cửa vào, hai tên lính pháo thủ Thụy Sĩ cao
lớn, đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp da trâu, đứng gác trên những nệm rơm bện.
Hai tên lính khác gác ở trước hàng rào sắt thếp vàng. Dân chúng đi dạo chơi
trong phố Okhotnyi Riat thường đứng ngẩn ra nhìn bộ mặt no nê của bọn lính Thụy
Sĩ, cái sân rộng thênh thang lát đá màu, cỗ xe sang trọng hoàn toàn lắp kính,
có đóng bốn con ngựa hồng, ngôi nhà lộng lẫy của quan đại chưởng ấn, tình nhân
của bà công chúa nhiếp chính.
Trong tiết trời nóng bức oi ả ngày hôm đó,
Vaxili Vaxilievich ngồi giữa luồng gió mát, trước cửa sổ mở rộng, và đang
chuyện trò bằng tiếng la tinh với De Nơvin một người ngoại quốc từ Warsawa tới.
Người khách mang một bộ tóc giả và mặc áo lễ phục Pháp, kiểu mới nhất của triều
đình vua Louis XIV. Vaxili Vaxilievich không mang tóc giả nhưng cũng ăn mặc
theo kiểu Pháp: bít tất dài và giầy màu đỏ, quần ngắn chẽn ống bằng nhung có
thắt dải màu, dưới chiếc áo nhung ngắn, áo lót bằng vải mịn viền đăng-ten thòi
ra ở bụng và ở hông.
Vaxili để ria mép nhưng cằm cạo nhẵn thín.
Trên một cái bàn tròn ở trước mặt hắn, có để những cuộn giấy má, những quyển
vở, những cuốn sách la-tinh bọc da, những bản đồ và những hoạ đồ kiến trúc.
Tường đều phủ da thiếp vàng, chạm nổi và có treo chân dung của các vương hầu
dòng họ Golixyn; và trong một chiếc khung xa hoa kiểu Vơnidơ, một con chim ưng
hai đầu, móng quặp lấy chân dung của Sofia .
Những ghế bành kiểu Pháp, kiểu Ý, cái thì bọc vải thêu, cái thì bọc gấm, những
thảm màu sắc rực rỡ, rất nhiều đồng hồ treo trên tường, những thứ khí giới của
người Ba Tư, quả địa cầu bằng đồng, chiếc hàn thử biểu của Anh, những giá nến
và bình trầm bằng bạc khối, những bìa sách, và trên nền trần cuốn, bầu trời chỗ
thếp vàng, chỗ thếp bạc, chỗ màu xanh - tất cả những thứ đó phản chiếu vào
những tấm gương treo giữa hai khuôn cửa sổ và bên trên cửa ra vào, làm hình ảnh
đó tăng lên bất tận. Khách để ý nhìn những đồ đạc nửa Á nửa Âu đó với một vẻ tò
mò tán thưởng.
Vaxili Vaxilievich, ngồi bắt chéo ngoeo,
tay mân mê cái bút lông ngỗng, ân cần mỉm cười và nói tiếng la-tinh hơi đá
giọng Moskva, nhưng được cái trơn tru ít khi phải ngập ngừng chọn chữ:
- Thưa tôn ông De Nơvin, tôi xin trình bày
để tôn ông rõ. Hai tầng lớp hợp thành nền tảng của dế quốc chúng tôi: một,
chuyên cung cấp lương thực và một, chuyên vào việc phục vụ, nghĩa là tầng lớp
nông dân và tầng lớp quý tộc. Hai tầng lớp này đang ở trong cảnh vô cùng khổ
cực, đế quốc chúng tôi chẳng được lợi gì chỉ tốn kém thêm thôi. Thật là đại
phúc nếu chúng tôi tách được lớp quý tộc ra khỏi nông dân vì rằng hiện nay, chỉ
vì tham lam, đám chúa đất ăn sống nuốt tươi tụi nông nô không chút thương xót,
khiến cho không những nông dân khốn đốn, mà cả quý tộc cũng khốn đốn và đế quốc
cũng vậy...
- Thưa ngài Đại chưởng ấn, thật là những
lời lẽ rất mực sáng suốt và sâu sắc, - De Nơvin thủng thẳng nói. - Nhưng ngài
định giải quyết vấn đề gay go đó như thế nào?
Vaxili Vaxilievich mỉm cười, nét mặt rạng
rỡ hẳn lên, cầm lấy cuốn vở bọc da dê nhuộm màu để ở trên bàn, có mang đầu đề
do chính tay hắn viết như sau: “Bàn về đời sống của dân hay về sự cải thiện tất
cả các công việc theo lợi ích chung của nhân dân đòi hỏi”.
- Muốn làm cho toàn dân giàu có là một công
cuộc lớn lao và vô cùng khó khăn, - Vaxili Vaxilievich tuyên bố, rồi bắt đầu
đọc trong cuốn sổ ghi: - “Có hàng triệu dexiatin đang bị bỏ hoang. Những đất
đai đó đáng được cày bừa trồng trọt. Tăng số súc vật chăn nuôi. Bỏ giống cừu
Nga gầy còm đi và bắt buộc chăn nuôi giống cừu Anh có lông mịn. Làm cho dân
chúng quan tâm đến mọi ngành công nghiệp và nhất là công nghiệp hầm mỏ, bằng
cách cho họ có lợi đúng mức. Hủy bỏ những sưu thuế, tạp dịch linh tinh nặng nề,
và đặt cho tất cả mọi người một thứ thuế chung, độc nhất và vừa phải. Việc này
sẽ chỉ thực hiện được với điều kiện là lấy lại hết đất đai của các lãnh chúa,
giao lại cho bọn nông dân tự do. Hủy bỏ hết những văn tự sở hữu nông nô cũ để
từ nay trở đi toàn dân không phải làm nô lệ cho ai cả, có lẽ chỉ trừ một số nhỏ
những kẻ gia nhân...”
- Thưa ngài Đại chưởng ấn, - De Nơvin kêu
lên, - lịch sử chưa từng thấy có vua chúa nào vạch ra được những kế hoạch vĩ
đại và cương quyết đến thế. (Vaxili Vaxilievich vội đưa mắt nhìn xuống và đôi
má bì bì của hắn bỗng đỏ ửng). Nhưng liệu lớp quý tộc có vui lòng nhượng đất
lại cho nông dân và giải phóng nông nô không?
- Các lãnh chúa sẽ nhận được tiền lương
đánh đổi lấy đất đai. Quân đội sẽ chỉ tuyển mộ trong lớp người quý tộc. Chúng
tôi sẽ hủy bỏ chế độ tuyển tân binh trong nông nô và trong đám người phải nộp
thuế. Dân cày phải cày ruộng. Còn những người quý tộc, để trả công họ, họ sẽ
không lãnh đất đai và nông nô, mà lãnh một số tiền lương tăng thêm lên, do ngân
khố trích ở tiền thuế điền địa chung. Thu nhập của Nhà nước chắc chắn sẽ tăng
lên hơn hai lần.
- Tôi tưởng chừng như được nghe một bậc
hiền triết thời xưa, - De Nơvin lẩm bẩm nói.
- Phải gửi những thanh niên con nhà quý tộc
đi học quân sự ở Ba Lan, ở Thụy Điển. Phải thiết lập các viện hàn lâm và mở
mang các ngành khoa học. Mọi ngành nghệ thuật sẽ được phát triển để tô điểm cho
đời sống. Chúng tôi sẽ đưa những nông dân cần cù đến sinh sống ở những miền sa
mạc. Chúng tôi sẽ làm cho dân tộc man rợ của chúng tôi trở nên một dân tộc có
học thức, chúng tôi sẽ biến những túp lều bẩn thỉu của chúng tôi thành những
lâu đài bằng đá. Kẻ hèn nhát sẽ trở nên can đảm. Chúng tôi sẽ làm cho người
nghèo trở nên giàu có.
- Vaxili Vaxilievich liếc mắt về phía cửa
sổ; ngoài đường một đám bụi đang bay đến cuốn theo lông măng và cọng rơm -
Chúng tôi sẽ lát đá các đường phố. Ở Moskva, chúng tôi sẽ xây những nhà bằng đá
và bằng gạch... Sự khôn ngoan sẽ tỏa khắp trên đất nước nghèo nàn của chúng
tôi.
Tay vẫn cầm bút lông ngỗng, Vaxili
Vaxilievich rời ghế bành đứng lên rồi đi đi lại lại trên thảm, tiếp tục trình
bày với khách nhiều tư tưởng phi thường khác nữa.
- Nhân dân Anh đã tự tay hủy bỏ cái trật tự
bất công, nhưng trong cơn tức giận, họ đã phạm những tội lỗi lớn, họ đã chạm
đến tính mạng thiêng liêng của nhà vua... Chúng tôi e ngại những sự ghê tởm đó
xảy ra nhưng chúng tôi cũng muốn như dân Anh đem lại ích lợi cho tất cả mọi
tầng lớp. Nếu tầng lớp quý tộc chống lại những sáng kiến của chúng tôi, chúng
tôi sẽ dùng quyền lực đập tan sự bướng bỉnh muôn thuở của họ.
Câu chuyện bị gián đoạn. Một tên gia nhân
mặc áo hầu, cặp mắt tròn xoe tỏ vẻ sợ hãi, rón rén bước đến nói thầm với vương
hầu. Nét mặt Vaxili Vaxilievich bỗng trở nên nghiêm trang và căng thẳng. Thấy
thế, De Nơvin cầm mũ đứng lên cúi chào rồi đi giật lùi về phía cửa. Vaxili
Vaxilievich tiễn khách ra cũng nghiêng mình chào lại, bàn tay đầy nhẫn, vung
tròn từ chỗ tim về phía sàn nhà.
- Thưa tôn ông De Nơvin, tôi lấy làm buồn
và rất thất vọng vì ngài đã vội ra về.
Còn lại một mình trong phòng, Vaxili
Vaxilievich ngắm bóng trong gương rồi vội vã bước sang bên buồng ngủ, gót ủng
nên lộp cộp trên sàn. Ở đó, trên chiếc giường kê ở giữa nhà có màn che chung
quanh bằng lụa điều, trên đình có cắm lông đà điểu, nữ nhiếp chính Sofia đang ngồi áp thái
dương vào cột giường kiểu vặn xoắn. Như mọi lần. Sofia ngồi trong một cỗ xe đóng kín mít bí
mật đến bằng lối cửa sau.
Chương 25
- Soniuska em, nguồn ánh sáng của đời
anh...
Không trả lời, Sofia ngẩng khuôn mặt cau có lên nhìn Vaxili
Vaxilievich chằm chặp với cặp mắt màu lục tựa như mắt đàn ông. Phân vân, Vaxili
Vaxilievich dừng bước, không đi tới chỗ giường.
- Có tai họa gì chăng, thưa nữ thánh
thượng?
Mùa đông đó Sofia đã kín đáo phá thai. Khuôn mặt của công
chúa xị ra, hai bên mép bắp thịt nổi hẳn lên, chẳng còn được hồng hào tươi tỉnh
như trước nữa. Những nỗi lo âu bận bịu, thấp thỏm đã để lại trên nét mặt công
chúa một vẻ chán ngán. Sofia
ăn mặc xa hoa, theo lối thiếu nữ, nhưng dáng đi đứng đường bệ của công chúa là
dáng đi của một người đàn bà đã đứng tuổi. Sự cần thiết phải giấu diếm mối tình
với Vaxili Vaxilievich làm công chúa đau khổ. Tuy rằng mọi người, cho đến kẻ ăn
người ở hèn kém nhất trong nhà chẳng ai còn lạ gì chuyện ấy và mặc dầu ít lâu
nay người ta đã thay mấy chữ nhân tình nhân ngãi nhục nhã và tội lỗi bằng mấy
chữ ngoại lai nghe đoan trang hơn, - người bạn tình - nhưng không theo pháp
luật, không lấy nhau, mà đem cái thân thể không còn trẻ nữa hiến cho người yêu
thì thật là sai trái, thật là khổ tâm. Đáng lẽ sang xuân, công chúa được đem
hết sức lực của một phụ nữ ra để sinh nở trong những cơn đau đớn sung sướng...
người ta đã buộc công chúa phải hủy bỏ cái thai... Vả lại mối tình của công
chúa với Vaxili Vaxilievich không phải là một mối tình êm đềm, hợp với tuổi
công chúa: yêu với những nỗi lo âu vô tận, luôn luôn phải giấu diếm, lúc nào
cũng chỉ tưởng nhớ đến người yêu, đêm đêm trằn trọc trên giường, tinh thần hao
tổn, cái đó chỉ hợp với những cỏ thiếu nữ mười bảy tuổi thôi. Và đôi lúc căm
thù cuồn cuộn dâng lên đến tận cổ công chúa - Vaxili Vaxilievich chẳng phải là
nguyên nhân của tất cả những nỗi dày vò đó sao? Cái thai phải cho ra kia chẳng
là của chàng sao? Vậy mà chàng chẳng chút bận tâm, phủi tay mặc kệ, rồi bỏ đi...
Ngồi trên giường, chân không chạm tới sàn, thân hình bè bè nhơm nhớp mồ hôi và
nóng hầm hập dưới bộ y phục nặng trình trịch, Sofia nhìn Vaxili Vaxilievich từ
đầu đến chân với con mắt lạnh lùng.
- Ăn mặc gì mà trông lố bịch thế, - công
chúa gằn giọng nói. - Thế là cái gì? Một kiểu áo Pháp à? Nếu không có cái quần
chẽn ống, thì nhất định ai cũng phải cho là áo dài của phụ nữ... Thiên hạ sẽ
tha hồ mà cười... - Sofia quay mặt đi, cố nén thở dài. - Thưa bố trẻ, vâng ạ,
một tai họa đã đến. Chúng ta chẳng có lý do gì để vui sướng đâu...
Ít lâu nay, mỗi khi đến với Vaxili
Vaxilievich, Sofia thường tỏ ra không vui, trong lòng có điều gì giấu diếm.
Vaxili Vaxilievich biết rằng hai mụ theo hầu để mua vui cho công chúa suốt ngày
lảng vảng ở khắp các xó xỉnh trong lâu đài dỏng tai nghe ngóng xem bọn quý tộc
đại thần xì xào bàn tán gì để rồi đến giờ đi ngủ kể lại cho Sofia biết.
- Không vui gì đâu, thánh thượng ạ, -
Vaxili Vaxilievich nói. - Thiên hạ nói thì còn thiếu điều gì nữa, thây kệ họ,
hơi đâu mà em sầu não.
- Thây kệ ư? - Sofia khẽ gõ đầu móng tay
lên cột giường rồi từ từ nhếch mép một cách dữ tợn. - Thế anh có biết ở Moskva
họ nói gì không? Họ bảo chúng ta nhu nhược quá không cai trị nổi đế quốc... và
chúng ta chẳng lập được công trạng gì lớn cả...
Vaxili Vaxilievich đặt mấy ngón tay lên bộ
ria mép, nhún vai. Sofia liếc trộm: chao ôi, chàng đẹp trai làm sao... ôi, thật
là tai họa cho tôi... nhưng chàng nhu nhược ủy mị như đàn bà... bây giờ lại đầy
người diêm dúa đăng-ten.
- Đúng như thế đấy. Anh chỉ được cái đọc
sách, viết văn là giỏi, mà lại sáng ý, chính em cũng biết thế. Nhưng chiều hôm
qua, sau khóa lễ chiều, cậu em là Ivan Mikhailovich đã nói về anh thế này: “Vaxili
Vaxilievich đã đọc cho cậu nghe những lời nói về bọn tiện dân nông dân trong
một cuốn sổ làm cậu lấy làm lạ về hắn. Cậu tự hỏi không hiểu vương hầu đầu óc
có thật tỉnh táo không”. Và bọn đại thần đều phá lên cười...
Vaxili Vaxilievich bỗng đỏ bừng mặt như một
cô gái, cặp mắt màu lam ần dưới hàng mi dài, vụt lóe sáng:
- Bọn họ ngu ngốc quá. Anh có viết cho họ
đâu!
- Họ như thế đấy, chúng ta không có được
bọn tay chân thông minh hơn... Chính em cũng khổ với họ: ví dụ như em cũng muốn
khiêu vũ như hoàng hậu Ba Lan hay ngồi nghiêng trên mình ngựa, váy dài thướt
tha dự những cuộc săn bằng chim ưng mà vẫn phải im lìm chẳng dám nói ra... Sơ
hở một tí là người ta sẽ bảo em là kẻ tà giáo ngay. Giáo trưởng đã tỏ ra lạnh
nhạt với em rồi.
- Chúng ta sống giữa bầy quái vật, - Vaxili
Vaxilievich lẩm bẩm nói.
- Em phải nói với anh điều này... Anh hãy
bỏ đăng-ten, bít tất, mặc chiến bào vào, cầm lấy gươm và lên đường lập chiến
công đi.
- Sao thế? Họ lại nói đến phiên vương Krym
phải không?
- Hiện nay đầu óc mọi người đều để cả vào
việc đó: chiếm lấy Krym... Không lảng tránh được việc đó đâu, anh chàng ngây
thơ của tôi ạ. Hãy chiến thắng trở về rồi thì anh muốn làm gì cũng được. Lúc đó
anh sẽ là kẻ mạnh.
- Sofia Alekseyevna, em hãy nên hiểu cho,
chúng ta không thể nào theo đuổi chiến tranh được... Chúng ta cần tiền để làm
việc khác...
- Sau việc Krym, sẽ đến việc khác, - Sofia gằn giọng cương
quyết nói. - Em đã chuẩn bị xong một sắc chỉ phong anh làm đại đô thống. Ngày
đêm em sẽ cầu nguyện cho anh, em sẽ quỳ đến mòn đầu gối cũng không thôi, em sẽ
đi bộ lần lượt thăm viếng tất cả các tu viện, ông anh ạ: Nếu anh chiến thắng
trở về thì đứa nào còn dám ho he gì? Chúng ta sẽ chẳng còn phải giấu diếm sự
tủi nhục của chúng ta nữa. Em rất tin tường, rất tin tưởng! Chúa sẽ giúp ta
đánh bại phiên vương Krym. - Sofia
từ trên giường đứng xuống, ngươc nhìn lên hòng bắt gặp cặp mắt của Vaxili
Vaxilievich đang lảng tránh. - Vaxia, em sợ phải nói với anh việc này... Anh có
biết họ còn xì xào gì nữa không? Họ nói: “Ở Preobrazenski, một Sa hoàng mạnh
đang lớn lên... và công chúa có tham quyền cố vị cũng bằng vô ích mà thôi”. Anh
hãy thương đến những ý nghĩ của em, nó chẳng tốt lành gì cá. - Sofia nắm lấy bàn tay bắt đầu run run của
vương hầu trong đôi bàn tay nóng hầm hập của mình. - Nó đã mười lăm tuổi rồi
đấy, cao lênh khênh như cái sào. Nó vừa ra chiếu chỉ đòi phải tuyển mộ tất cả
những bọn coi ngựa và bọn dạy chim ưng đi săn vào đội cận vệ trẻ của nó... Chớ
quên rằng gươm và súng của chúng đều bằng sắt... Vaxia, anh hãy cứu em thoát
khỏi tội lỗi... Người ta thì thầm bên tai em, người ta nói với em về Dimitri,
về Uglich. Nhưng đó là một tội lỗi phải không anh? - Vaxili Vaxilievich vội rút
bàn tay ra khỏi lòng bàn tay Sofia .
Một nụ cười thảm hại từ từ hiện trên môi công chúa. - Thật đúng như em nói, chỉ
nghĩ đến những chuyện đó cũng đã là tội lỗi rồi... Xưa kia thì mới xảy ra những
chuyện đó... Toàn châu Âu sẽ biết những chiến công của anh. Khi đó thì nó chẳng
đáng sợ nữa, mặc nó tha hồ vui chơi...
- Chúng ta không thể theo đuổi chiến tranh
được? - Vaxili Vaxilievich chua chát kêu lên. - Chúng ta không có một đội quân
thiện chiến, chúng ta không có tiền... Mà anh thì đang có những dự kiến to tát
biết nhường nào. Tất cả những cái đó đều là vô ích cả! Ai là người có thể nhận
chân được giá trị của những dự kiến đó, hiểu được những dự kiến đó? Ôi, lạy
Chúa, ước gì được ba năm hay hai năm không có chiến tranh!
Hắn vung ống tay áo viền đăng ten một cách
thất vọng... Dẫu cho có nói khéo, tìm cách thuyết phục hay cưỡng lại cũng là
bằng thừa mà thôi.
Chương 26
Natalia Kirilovna quở mắng Nikita
Zotov:
- Hãy chạy đi xem hoàng thượng ở đâu nào,
phải tìm bằng được chứ, tờ mờ sáng hoàng thượng đã đi khỏi nhà rồi, chẳng làm
dấu và cũng chẳng ăn gì cả?
Tìm được Piotr đâu có phải là chuyện dễ như
thế; trừ phi nghe thấy tiếng súng nổ hàng loạt hay tiếng trống dồn đâu đấy
trong rừng, nơi Sa hoàng đang đùa nghịch với đội cận vệ trẻ.
Biết bao lần Nikita đã bị bắt làm tù binh
trói vào một thân cây để khỏi quấy rầy Sa hoàng với những lời khẩn khoản mời về
dự lễ nhà thờ hay nghe lời tường trình của một đại thần từ Moskva đến. Để cho
Nikita khỏi buồn ở gốc cây, Piotr ra lệnh cho đặt trước mặt hắn một chai vodka.
Vì thế cho nên Zotov dần dần đâm ra thích rượu thậm chí có khi hắn còn yêu cầu
được bắt trói vào một gốc cây phong. Khi trở về bên cạnh Natalia Kirilovna, hắn
dang tay tỏ vẻ ăn năn hối hận:
- Tâu thái hậu, thần van nài đến hết cả hơi
nhưng con phượng hoàng của chúng ta từ chối không chịu theo thần về...
Piotr rất ham thích trò chơi. Nhà vua có
thể chơi bất cứ một trò chơi nào suốt ngày, không ăn, không ngủ, miễn sao có sự
ồn ào, vui đùa, miễn sao có bắn đại bác, có đánh trống khua chiêng. Hiện giờ
nhà vua có gần ba trăm cận vệ trẻ gồm những tay trước đây chuyên trông nom ngựa
hay nuôi dạy chim ưng cho Sa hoàng và cả những thanh niên con nhà khá giả nữa.
Vua Piotr dẫn đầu cả bọn sục sạo trong các làng và tu viện vùng lân cận Moskva.
Đôi khi họ tìm cách trêu đùa làm cho đám tu sĩ khiếp sợ: đang giữa trưa trời
nóng như thiêu như đốt, không một ngọn lá phong nào đụng đậy chỉ có đàn ong vo
ve dưới bóng cây bồ đề, mọi người đang chập chờn buồn ngủ thì đột nhiên, một lũ
quỷ sứ la hét om sòm, mặc áo nẹp màu lục, bề ngoài trông có vẻ là người ngoại
quốc, từ khu rừng xông ra, rồi bùm bùm... Thế là họ bắn đại bác với những viên
đạn bằng gỗ vào những bức tường yên lành của tu viện. Đám tu sĩ lại càng thêm
khiếp sợ khi họ nhận ra gã thanh niên cao lênh khênh, ngỗ nghịch, người đầy bùn
và đen ngòm khói thuốc súng lại chính là Sa hoàng. Sự phục dịch trong đội cận
vệ trẻ rất khó nhọc - ăn ngủ đều không được như ý muốn. Dù trời mưa hay nóng
như thiêu như đốt, Sa hoàng mà chợt nảy ra ý kiến, là lại phải ra đi, có quỷ mà
biết được đi đâu và tại sao, để khủng bố những người dân lành. Đôi khi đang
đêm, người ta đánh thức bọn cận vệ trẻ dậy: “Lệnh truyền phải đánh bọc hậu quân
địch. Bơi qua sông...” Có người đã chết đuối trong đêm tối mù mịt. Lười biếng
hay vắng mặt, - có nhiều người chán cái cảnh leo đèo lội suối vô bổ đã nấp vào
một chỗ rồi bỏ trốn về nhà, - đều bị trừng phạt bằng roi vọt. Gần đây người ta
cắt một vị tổng trấn hay như người ta quen gọi bấy giở, một vị tướng, tên là
Artamon Golovin đứng đầu đội quân. Ông ta là một người rất ngu xuẩn nhưng thông
thạo cách thức luyện tập quân sự và đặt ra một kỷ luật rất nghiêm ngặt. Có ông
ta ở cạnh, Piotr không đùa nghịch không có mục đích rõ ràng như trước nữa mà
bắt đầu nghiêm chỉnh học tập nghệ thuật quân sự trong tiểu đoàn đầu tiên lấy
tên là tiểu đoàn Preobrazenski. Franx Lơfo, bận phục vụ ở điện Kreml, không giữ
một nhiệm vụ nào bên cạnh Piotr cả, nhưng thường cưỡi ngựa đến thăm đội quân
luôn và góp ý kiến. Qua sự trung gian của Franx Lơfo, đại úy Fedor Xomme, một
người ngoại quốc, được tuyển mộ để dạy cách sử dụng súng ống, lựu đạn và được
phong cấp tướng. Bộ Pháo thủ cho chở đến mười sáu cỗ đại bác và từ đó người ta
dạy bọn cận vệ trẻ bắn với đạn đại bác bằng gang. Sự học tập rất nghiêm ngặt:
Fedor Xomme không muốn ăn không đồng lương
của mình. Không phải lúc đùa nghịch nữa.
Vô số súc vật đủ mọi loại bị bắn chết ở
ngoài đồng và khối người bị bắn què.
Chương 27
Ở Kukui, người ngoại quốc thường nói đến vị Sa hoàng trẻ tuổi Piotr
luôn. Chiều tối, họ tụ tập nhau trên một nền đất rải cát, giữa những khóm cây
được xén tỉa và đập bàn tay xuống mặt những chiếc bàn con, gọi:
- Này bác Monx, cho một cốc bia đây!
Monx, đầu chụp mũ vải, mình mặc áo gi-lê
xanh, từ khuôn cửa sáng sủa ánh đèn của quán rượu, bệ vệ đi ra mỗi tay mang năm
cốc vại bằng sành bọt bia trùm cả lên miệng cốc. Buổi tối êm đềm, dễ chịu. Ánh
sao mọc trên nền trời Nga thật quả không chói lọi huy hoàng bằng ở vùng Turingơ
hay ở công quốc Bado hay ở miền Vurtembec, nhưng cũng có thể sống được dưới ánh
sao của bầu trời Nga.
- Bác Monx! Hãy kể chuyện Sa hoàng Piotr
đến thăm bác cho chúng tôi nghe đi.
Monx ngồi vào bàn của đám khách toàn những
người danh giá, tợp một hớp bia ở cốc của một khách hàng rồi nháy mắt, kể:
- Sa hoàng Piotr rất hiếu kỳ. Người đã biết
có cái hộp âm nhạc đặc sắc để ở trong buồng ăn của tôi. Ông nhạc tôi đã mua cái
hộp đó ở Nuremberg...
- Ừ phải rồi, tất cả chúng tôi đều biết cái
hộp tuyệt diệu của bác, - cử toạ công nhận đưa mắt nhìn nhau và vẩy những chiếc
tẩu dài.
- Tôi hơi hoảng khi Lơfo và Sa hoàng Piotr
bước vào phòng ăn của tôi. Tôi không biết đứng ngồi thế nào cho phải... Trong
những trường hợp như vậy, người Nga quỳ thụp xuống: tôi không muốn làm như thế.
Nhưng Sa hoàng hỏi ngay: “Cái hộp của nhà ngươi đâu?”. Tôi trả lời: “Tâu Chúa
thượng thiêng liêng, đây ạ”. Sa hoàng liền bảo tôi: “Johan, đừng gọi ta là Chúa
thượng thiêng liêng nữa, ta đã chán ngấy cái lối xưng hô như thế ở nhà rồi, hãy
gọi ta như ta là bạn của nhà ngươi”. Và Lơfo nói: “Ừ phải đấy, bác Monx ạ,
chúng tôi đều gọi nhà vua là Herr(1) Pete”. Thế là cả ba chúng tôi phá lên
cười một hồi lâu vì lời bông đùa đó. Rồi gọi Ansen, con gái tôi, và bảo nó lên
dây cót cái hộp. Bình thường chúng tôi mỗi năm chỉ lên dây có một lần vào đêm
Noen, bởi vì đó là một cái hộp rất quý. Cháu Ansen nhìn tôi, và tôi bảo cháu: “Không
hề gì, con cứ lên dây đi”. Và cháu nó đã lên dây - thế là các công tử và tiểu
thư nhảy múa, chim hót véo von - Pete ngạc nhiên nói: “Ta muốn xem bên trong có
gì”. Tôi nghĩ bụng: “Cái hộp âm nhạc của mình đi đời nhà ma mất thôi”. Nhưng
Ansen là một con bé rất tinh khôn. Nó nghiêng mình chào một cách duyên dáng rồi
nói với Pete và được Lơfo dịch ra tiếng Nga. Ansen nói: “Tâu bệ hạ, thiếp cũng
biết múa hát, nhưng hỡi ôi! Nếu bệ hạ muốn nhìn xem bên trong cơ thể thiếp có
gì, tại sao thiếp lại múa hát thì sau đó trái tim tội nghiệp của thiếp hẳn là
sẽ tan nát mất thôi...”. Lơfo dịch xong rồi phá lên cười. Tôi cũng cười rất to
và Pete mặt bỗng đỏ ửng như gấc và nhìn Ansen như thể cháu là một con chim non.
Và tôi bụng bảo dạ: “Chà, hàng nghìn ma quỷ đang ám ảnh chàng thanh niên này”.
Đến lượt Ansen cũng đỏ mặt lên và cháu nó bỏ chạy, cặp mắt xanh ứa lệ...
Monx khịt mũi rồi tợp một hớp bia ở cốc của
một người trong đám khách hàng. Bác ta biết kể chuyện một cách đặc sắc và cảm
động. Một làn gió mát mẻ trong đêm tối lay động những quả tua trên mũ vải bông
của những người đang chuyện gẫu. Bỗng Ansen hiện ra trong khung cửa sáng trưng:
nàng ngước cặp mắt hồn nhiên nhìn những vì sao, thở dài một cách sung sướng rồi
biến mất. Đám khách hàng phì phèo tẩu thuốc lá nói rằng Chúa đã ban cho bác
Monx một cô con gái ngoan. Chà, một cô con gái như cô bé đó sẽ đem lại giàu
sang cho gia đình. Bác thợ rèn Gherit Kixt, vốn người Hà Lan, sinh ở Zandam, to
lớn như hộ pháp, râu ria xồm xoàm, mặt mũi đỏ gay, nói:
- Tôi thấy nếu biết xử sự khôn ngoan thì sẽ
có thể lợi dụng vị Sa hoàng trẻ tuổi này được nhiều đấy.
Lão thợ đồng hồ Ludvic Pfepfe đáp:
- Ồ không được đâu, như thế là đặt hy vọng
không đúng chỗ. Sa hoàng Piotr thiếu lực lượng. Bà nhiếp chính Sofia sẽ không
bao giờ để Sa hoàng trị vì. Bà ta là một người độc ác và cương quyết. Hiện giờ
bà ta đang tập hợp một đạo quân hai trăm ngàn người để đánh phiên vương xứ
Krym. Khi nào đạo quân từ Krym trở về thì đánh cuộc mười pennin(2) về phía Sa
hoàng tôi cũng chẳng dại...
- Lý luận như vậy là sai, bác Ludvic Pfepfe
ạ, - Monx đáp lại. - Biết bao lần tướng Feodor Fon Xomme mà mới gần đây chỉ là
Xomme thôi... - Monx há miệng phá lên cười và mọi người đều cười rộ về câu nói
dí dỏm của bác... - Biết bao lần ông ta bảo tôi: “Hãy kiên nhẫn, đợi một hay
hai năm nữa là Sa hoàng Piotr sẽ có hai tiểu đoàn quân mà đích thân vua Pháp
hay vương hầu Morice xứ Saxe được chỉ huy cũng không lấy làm xấu hổ...”. Đấy,
Xomme đã nói với tôi như thế.
- Ồ tốt đấy - Bọn người tiếp chuyện nói,
đưa mắt nhìn nhau đầy ngụ ý.
Những buổi chuyện trò này đã diễn ra lúc
chiều tối trên nền đất quét tước sạch sẽ trước cửa quán rượu của bác Johan
Monx.
-------------
Chú thích:
(1) Tiếng Đức: ông, ngài.
(2) Thứ tiền nhỏ nhất của Đức, bằng một
phần trăm đồng Mác.
Chương 28
Trong những gian phòng cuốn vòm của Bộ Nội Điện, không khí nóng bức
ngột ngạt không sao thở được. Mấy thầy ký ngồi bên những chiếc bàn dài, đầu
ngoẹo sang một bên, tóc xõa xuống mắt, hí hoáy viết, tiếng ngòi bút cạo giấy
sột soạt. Trong mực có ruồi. Ruồi bâu vào môi, bâu vào mũi nhớp nháp. Viên thơ
lại bụng đã tọng đầy bánh nướng có nhân, đang ngủ gà ngủ gật trên ghế. Viên ký
lục Ivan Vaxkov đang chép lại nguyên bản một tờ giấy vào sổ:
“Theo lệnh các Thánh thượng, đã may một bộ
y phục kiểu Đức để dâng lên Đức Hoàng đế Sa hoàng kiêm Đại quận công Piotr
Alekseevich trị vì trên khắp đất Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga, và vì mục đích
đó đã mua của tướng Franx Lơfo những thứ hàng hóa sau đây: hai cuộn chỉ kim
tuyến giá một rúp mười ba antin(1) hai denghi(2) và đã mua chín tá khuy theo
giá sáu antin một tá và còn mua thêm cho chiếc áo nẹp mặc trong sáu tá khuy
theo giá hai antin bốn denghi một tá, và mua lụa, vải mất mười antin và những
mớ tóc vụn mất ba rúp...”
Vaxkov thổi một con ruồi, mở cặp mi nặng
trĩu:
- Này Petrukha, viết chữ “mớ tóc vụn” thế
nào, viết hoa hay viết thường?
Viên phó thơ lại ngồi đối diện suy nghĩ rồi
đáp:
- Viết chữ thường.
- Hay vị Sa hoàng trẻ tuổi không có tóc
chăng?
- Coi chừng, với những lời lẽ như vậy...
Vaxkov đầu ngoẹo về bên trái để viết cho
tiện cố nín cười - hắn thấy phải mua tóc của bọn người Đức ở xloboda cho Sa hoàng và phải trả cái của
vứt đi đó những ba rúp thì thật là chuyện rất ngộ.
- Petrukha, Sa hoàng đeo những mớ tóc này
vào đâu bây giờ?
- Sa hoàng muốn đeo vào đâu thì đeo, đó là
ý muốn của Sa hoàng. Và nếu anh còn hỏi tôi nữa, tôi sẽ kêu với ông thơ lại
đấy.
Lũ ruồi cũng đang quấy nhiễu viên thơ lại.
Hắn rút trong túi ra một chiếc khăn tay bằng lụa, vung vẩy chiếc khăn quanh
người rồi thấm mồ hôi trên mặt, trên bộ râu dê của hắn.
- Kìa này, bọn bay ngủ đấy à? - hắn uể oải
kêu lên. - Bay có phải là những ông ký, ông lục không đấy? Bay định ăn không tiền
của Ngân khố chắc? Bay chẳng còn sợ gì cả, bay quên cả Chúa, rõ đồ ăn hại! Đợi
đấy ta sẽ đánh bét đít cả lũ để dạy cho bọn bay phải xắn tay áo lên mà làm việc...
Và bay dùng đến tốn mực tốn giấy!... Cầu Trời đánh cho bọn bay tan xác, đồ vô
lại!
Viên thơ lại uể oải phe phẩy chiếc khăn tay
rồi lại thiu thiu ngủ. Thời buổi này đến chán, chẳng có ai kêu xin việc gì và
cũng chẳng có bổng lộc gì cả. Moskva đã rỗng tuếch người, bọn xtreletz, bọn con em quý tộc, bọn lãnh
chúa, tất cả đều đã ra đi chinh chiến ở Krym. Chỉ còn ruồi nhặng, bụi bặm và
những công việc lặt vặt hàng ngày mà thôi.
- Chà, Petrukha ạ, bây giờ mà được uống
kvas thì thú nhỉ! - Vaxkov dằn giọng nói, rồi, sau khi liếc mắt nhìn viên thơ
lại, hắn vươn vai, ngả người về đằng sau đến nỗi chiếc áo nẹp của hắn vải đã bở
sẵn xoạc toang ở dưới nách. - Tối nay mình sẽ gặp một quả phụ mà mình quen,
mình sẽ tha hồ mà uống kvas.
Hắn lắc đầu rồi lại hí hoáy viết: “Theo
lệnh của Đại Sa hoàng kiêm Đại quận công Piotr Alekseevich, trị vì trên toàn
cõi Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga truyền phải đưa đến làng Kolomenskoe cho Đức
Đại Sa hoàng kiêm Đại quận công trị vì trên toàn cõi Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch
Nga những tên mã phu Iakim Voronin, Xecgey Bukhvostok, Danila Kartin, Ivan
Naghibin, Ivan Ieplep, Xecgey Tseckov và Vaxili Bukhbustov. Những tên mã phu đó
sẽ được cử làm pháo thủ trong đội cận vệ của Sa hoàng và sẽ lĩnh mỗi tên một số
tiền lương là năm rúp bạc, năm hộc lúa mạch và từng ấy hương mạch...”
- Petrukha, bọn họ may mắn nhỉ...
Viên thơ lại nửa thức nửa ngủ, đe:
- Đứa nào còn nói chuyện đấy, hả, đồ chó
chết!
-------------
Chú thích:
(1) Một antin ăn ba kopeik.
(2) Bằng nửa kopeik.
Chương 29
Viên dapife Vaxili Volkov ký nhận bộ y phục kiểu Đức và bộ tóc giả rồi
cẩn thận mang những thứ đó vào phòng ngủ của Sa hoàng. Trời vừa mới hửng sáng,
nhưng vua Piotr ngủ trên bục trải một tấm thảm dạ, mình đắp một chiếc áo lông
cừu, đã vùng dậy. Trước hết nhà vua cầm lấy bộ tóc giả đội thử: chật quá! Nhà
vua định lấy kéo xén bớt những mớ tóc quăn màu nâu, Volkov phải nói mãi nhà vua
mới thôi. Sau cùng vua Piotr đã chụp được bộ tóc giả lên đầu rồi soi gương mỉm
cười một cách hóm hỉnh. Hôm nay, nhà vua rửa tay bằng xà phòng và cạy hết ghét
móng tay rồi vội vàng mặc bộ y phục mới vào. Theo như Lơfo đã chỉ dẫn, nhà vua
quấn quanh cổ một chiếc khăn quàng trắng và thắt ngang lưng ra ngoài chiếc áo
nẹp hở tà, một dải lụa cũng màu trắng. Volkov giúp nhà vua mặc áo, lấy làm ngạc
nhiên: vua Piotr thường chẳng chú ý gì đến quần áo. Nhà vua nghiến răng lại cố
xỏ chân vào đôi giầy chật. Tên nông nô Xtiovka Medved một gã to lớn được gọi
đến để nong giầy cho rộng ra. Sau khi đã đút được đôi chân bàn cuốc vào giầy
một cách chật vật, Xtiovka liền chạy lùng khắp các cầu thang. Lúc chín giờ
(theo cách tính mới về thời gian), Nikita Zotov đến mời vua Piotr dự khóa lễ
đầu. Sa hoàng cáu kỉnh trả lời:
- Ngươi nói với mẹ ta rằng ta đang bận việc
quốc sự cần kíp... Ta sẽ cầu nguyện một mình. Rồi nhà ngươi phải trở lại đây
nhanh lên đấy, hiểu chưa?
Bỗng nhà vua ngửa đầu về phía sau cười rộ:
cũng như mọi bận, người ta tưởng chừng nhà vua cố rặn ra tiếng cười. Nikita
hiểu ngay là Sa hoàng đã lại bày ra một trò tinh nghịch gì đây, một trong rất
nhiều trò Sa hoàng đã học được ở xloboda
người Đức. Nhưng hắn khúm núm vâng lệnh, rảo cẳng rút lui trong đôi ủng mềm rồi
trở lại thật nhanh, biết chắc chắn rằng mình sẽ lại bị một phen điêu đứng. Hắn
đã không lầm. Vua Piotr trợn mắt ra lệnh cho hắn:
- Với tư cách là đại sứ thần của thần Hy
Lạp Baccux (1), nhà ngươi hãy kính cẩn đến chào Franx Lơfo và chúc mừng ngày
sinh của ông ta.
- Muôn tâu Sa hoàng Piotr Alekseevich, thần
xin tuân lệnh, - Zotov kính cẩn đáp lại. Lập tức, theo lời trên phán bảo, hắn
mặc một chiếc áo lông thỏ, mặt trong lộn ra ngoài, đầu chụp một bộ tóc giả bằng
sợi gai thô, trên đặt một chiếc mũ miện làm bằng cành bạch dương nhỏ - loại
cành vẫn dùng để quất vào người khi tắm hơi nước - và cầm một cái cốc. Để tránh
khỏi phải chuyện vãn dài dòng với mẹ, vua Piotr ra khỏi lâu đài bằng lối cửa
dành cho gia nhân và chạy thẳng đến chỗ bọn mã phu. Ngoài sân, tất cả bọn gia
nhân đang vừa cười vừa đuổi bắt bốn con lợn kếch xù. Vua Piotr xông vào giúp họ
một tay vừa hò hét vừa xô đẩy, chạy ngược chạy xuôi. Họ bắt được lợn, đặt chúng
nằm nghiêng, lấy dây đóng như đóng ngựa rồi buộc chúng vào một cái xe ngựa nhỏ
thấp thếp vàng, bốn bánh có trạm trổ (đó là đồ lễ đính hôn của cố Sa hoàng
Aleksey Mikhailovich biếu Natalia Kirilovna và thái hậu đã truyền phải gìn giữ
hết sức cẩn thận). Viên thơ lại trông coi chuồng ngựa, môi run run, theo dõi vụ
cướp đoạt om sòm đó. Giữa tiếng huýt còi và tiếng cười rộ của bọn gia nhân,
người ta đẩy Nikita Zotov ngồi vào trong xe ngựa. Vua Piotr trèo lên ngồi xuống
chỗ của xà ích.
Volkov, đầu đội một chiếc mũ ba sừng, đeo
gươm, đi trước xe, tay vứt cà rốt và củ cải cho lợn. Bọn mã phu đi hai bên, cầm
roi quất lợn thúc chúng. Người, xe tiến về Kukui. Ở cổng xloboda của người Đức, một đám đông người, ngoại quốc đón tiếp họ. “Hay
đấy, vui lắm, cười đến vỡ bụng mất”, họ vỗ tay kêu lên. Vua Piotr, mặt đỏ bừng,
môi mím chặt, mặt hầm hầm, ngồi cứng đơ trên xe. Toàn thể dân trong xloboda đổ ra xem, ôm bụng cười rộ, tay
chỉ vào Sa hoàng và bộ tóc giả tết bằng sợi gai thô. Zotov đang sợ chết khiếp
trong xe. Lũ lợn mỗi con kéo một ngả làm cho dây thắng lợn rối tung. Bỗng vua
Piotr giằng lấy roi của một mã phu, quất đàn lợn túi bụi. Chúng kêu eng éc lồng
lên chạy... Cỗ xe xô ngã một người, một người khác ngã nằm dưới bánh xe, đám
phụ nữ vội ôm lấy con bế đi chỗ khác. Vua Piotr đứng trên xe, vẫn không ngừng
ra roi, đỏ mặt tía tai, hai lỗ mũi phập phồng, cặp mắt tròn xoe đỏ ngầu, tựa hồ
nhà vua đang cố cầm nước mắt. Trước cửa nhà Lơfo, bọn mã phu gắng sức ghì lũ
lợn kéo xe lại rồi đẩy chúng vào cái cổng mở toang. Lơfo vội chạy ra, tay vung
vẩy gậy và mũ, theo sau là khách khứa của hắn, quần áo lịch sự, màu sắc lộng
lẫy. Vua Piotr từ trên xe nhảy xuống một cách vụng về, rồi túm lấy cổ áo Zotov,
kéo hắn ra khỏi xe.
Nhà vua hầm hầm nhìn chòng chọc vào mặt
Lơfo mắt lác trật đi như sợ nhận được ra ai trong đám đông và dằn giọng hổn hển
nói:
- Mein
liebergenet ư? (1) tôi dẫn đến cho tướng quân một vị đại sứ thần với lời
chúc tụng nhiệt liệt của vị thần Hy Lạp Baccux...
Mồ hôi lấm tấm nhỏ giọt trên mặt nhà vua.
Vua Piotr liếm môi, mắt vẫn nhìn chòng chọc vào mặt Lơfo, gắng gượng nói thêm:
- Mit
Herrlichem Gruss... nghĩa là thần Baccux kính cẩn gửi lời chào ông... gửi
đến biếu ông mấy con lợn và cỗ xe... - Bàn tay siết chặt lấy cổ áo Zotov, vua
Piotr thì thầm:
- Quỳ xuống chào đi.
Lơfo lộng lẫy trong bộ y phục bằng nhung
màu hồng đính đầy đăng ten, mặt thoa phấn, người sực nước hoa, hiểu ra ngay.
Hắn giơ cao tay lên, vỗ tay hoan nghênh, cười phá lên một cách vui vẻ rồi hết
quay về phía vua Piotr lại quay về phía khách khứa, hắn nói:
- Đây là một trò bông đùa hay tuyệt, tôi
chưa từng thấy gì ngộ nghĩnh hơn... Chúng tôi cứ tưởng mình dạy nhà vua những
trò vui ngộ nghĩnh, ai ngờ chính nhà vua lại sẽ dạy chúng tôi cách bông đùa.
Ban nhạc đâu, hãy cử một điệu hành khúc để chào mừng sứ giả của thần Baccux!
Phía sau những bụi hoa tử đinh hương,
chiêng trống nổi lên, tiếng kèn thổi vang. Hai vai vua Piotr rũ xuống, sắc mặt
không còn đỏ gay như trước nữa. Đầu ngửa về đằng sau, nhà vua cười lớn. Lơfo
nắm lấy cánh tay nhà vua. Vua Piotr đưa mắt nhìn đám khách và trông thấy Ansen
đang mỉm cười với mình, đôi hàm răng nhỏ lấp lánh, đôi vai để trần, trông nàng
như vươn về phía nhà vua, trong chiếc áo dài tráng lệ trông nàng như một bông
hồng đang nở. Một lần nữa, một sự bối rối man rợ lại làm cổ họng vua Piotr
nghẹn ngào. Nhà vua đi bên cạnh Lơfo, dẫn đầu đám khách bước vào nhà, chân bước
cao như một con sếu. Trên khoảng đất trước thềm, mấy kép hát đang đứng, mình
mặc sơmi kiểu Nga đỏ chói. Họ cất tiếng hát một điệu nhảy, vừa hát vừa huýt sáo
đệm theo. Một người trong bọn, một gã trâng tráo, mắt xanh, nhảy dài về phía
trước, miệng hét:
- Ay,
đuđu, đuđu, đuđu... - rồi ngồi xổm mà nhảy, gót sắt nện xuống đất đánh
nhịp, tay đập mạnh xuống mặt đất cát, khi lộn, khi chồm lên, quay cưồng như một
con quay: - “Hốp-là! Hốp-là!”.
- Hoan hô, Alexaska!
-------------
Chú thích:
(1) Baccux: thần rượu.
(2) Tiếng Đức: Thưa tướng quân thân mến.
Chương 30
Vĩ cầm, đàn anto, kèn ôboa, trống đồng
hợp tấu những ca khúc Đức cổ xưa, những điệu múa Nga, những khúc nhạc nhịp ba
kiểu cách, những điệu nhạc Anh vui vẻ. Khói thuốc lá cuồn cuộn trong những tia
nắng từ ngoài lọt vào qua những cửa sổ nhỏ, tròn của gian buồng cao.
Khách dự tiệc, ngà ngà say, thốt lên những
lời làm đám thiếu nữ thẹn đỏ mặt; nhiều vũ nữ xinh đẹp da dẻ tươi như hoa, mặc
những chiếc váy căng phồng rộng thùng thình, đuôi váy dài lượt thượt, đang cười
như nắc nẻ. Lần đầu tiên trong đời, vua Piotr ngồi cùng bàn với phụ nữ. Lơfo
mời nhà vua một cốc vodka pha hồi. Lần đầu tiên, vua Piotr được nếm một thứ
rượu bốc mạnh. Vodka bừng bừng trong huyết quản nhà vua như một ngọn lửa. Vua
Piotr nhìn Ansen đang cười. Âm nhạc làm toàn thân nhà vua giật giật, gân cổ nổi
hằn lên. Nhà vua nghiến răng lại cố nén những thèm muốn dữ dội trong lòng mà
nhà vua chưa hiểu ra.
Tiếng ồn ào làm nhà vua không nghe rõ khách
cùng dự tiệc giơ cốc về phía nhà vua nói to với nhà vua những gì... Hàm răng
của Ansen lóng lánh một cách hóm hỉnh, cặp mắt quyến rũ không lúc nào rời khỏi
vua Piotr. Bữa tiệc kéo dài mãi tựa hồ như ngày hôm ấy sẽ không bao giờ chấm
dứt. Bác thợ đồng hồ Pfepfe gí cái mũi dài ngoẵng như củ cà rốt vào hộp thuốc
lá rồi hắt hơi lia lịa; bác ta đã lột bỏ bộ tóc giả, vung vẩy bên trên cái đầu
hói của mình trông thật chết cười! Vua Piotr ngồi ngật ngưỡng, lắc lư đôi cánh
tay dài nghêu gạt bát đĩa đổ vỡ lung tung chung quanh chỗ ngồi. Nhà vua tưởng
chừng cánh tay mình dài đến mức chỉ việc với qua mặt bàn là có thể luồn ngón
tay vào tóc Ansen, ghì chặt lấy đầu nàng, ghé sát môi hôn nàng để hưởng hương
vị cái miệng của nàng đang cười. Thế rồi gân cổ nhà vua lại hằn lên, mắt như
tối sầm lại. Khi mặt trời đã lặn sau những chiếc cối xay và một làn gió mát hiu
hiu lọt vào phòng qua những khuôn cửa sổ để ngỏ. Lơfo chìa tay mời vợ người chủ
cối xay, bà Simmenpfenige nặng tới tám pud(1) nhảy một điệu vũ nhịp ba. Lơfo
vòng tay lắc lư bộ tóc xoăn rắc đấy phấn màu vàng óng ánh, khuỵu chân xuống
chào, mắt đảo nhìn một cách đắm đuối. Bà Simmenpfenige hể hả sung sướng, lướt
chân trong mấy tầng váy to xù, sừng sững như một chiếc tàu có bốn mươi cỗ đại
bác, chăng đầy cờ xí. Theo sau cặp đó, tất cả khách dự tiệc vừa khiêu vũ vừa
rời căn phòng ra ngoài vườn. Những luống hoa trong vườn trồng hoa kết thành tên
tắt của chủ nhân ngày vui mừng nầy. Bụi cây và cây nhỏ đều có tết dải lụa màu
và treo hoa giấy thếp vàng thếp bạc; những lối đi chạy dọc ngang như hình bàn
cờ... Sau điệu vũ nhịp ba, người ta lại chơi một điệu đối vũ vui vẻ, vua Piotr
đứng riêng ra một chỗ cắn móng tay. Nhiều lần đám phụ nữ lễ phép cúi chào nhà
vua, mời nhà vua cùng khiêu vũ. Vua Piotr lắc đầu lẩm bẩm: “Ta không biết khiêu
vũ, không, ta không nhảy được...”. Bà Simmenpfenige bèn đi cùng với Lơfo, đến
dâng nhà vua một bó hoa: như thế có nghĩa là người ta đã bầu nhà vua làm chúa
cuộc khiêu vũ. Vua Piotr không còn từ chối được nữa. Nhà vua liếc nhìn cặp mắt
vui thích nhưng quả quyết của Lơfo rồi líu díu nắm lấy bàn tay bà
Simmenpfenige. Lơfo rón rén chạy trên đôi chân chữ bát đến chỗ Ansen, rồi cùng
nàng đứng đối diện với vua Piotr để nhảy điệu đối vũ. Đôi bàn tay của Ansen bỏ
thõng xuống cầm một chiếc khăn tay nhỏ; cặp mắt của nàng có vẻ như van lơn khẩn
khoản. Tiếng trống đồng nổi lên sang sảng đinh tai nhức óc, tiếng trống đánh
giòn giã, tiếng vĩ cầm, tiếng kèn trầm bổng du dương, điệu nhạc vui tươi vút
lên trong bầu trời buổi chiều chạng vạng làm đàn dơi hốt hoảng. Thế rồi lại như
lúc xảy ra với đàn lợn trước đó ít lâu, giông tố nổi lên trong người vua Piotr;
nhà vua cảm thấy nóng bức như điên như cuồng. Lơfo lớn tiếng nói:
- Bước vũ thứ nhất! Bên nữ tiến lên rồi lùi
xuống, bên nam dìu bên nữ quay tròn!
Vua Piotr nắm ngang hông bà Simmenpfenige
rồi dìu bà ta quay tít đến nỗi chiếc áo bà mặc, cái đuôi áo và mấy lớp váy
phồng xòe ra tung bay. “Ôi, lạy Chúa!”, bà chủ cối xay thốt lên.
Rồi để bà ta đứng đấy, vua Piotr nhảy múa
như thể chính điệu nhạc đang kéo tay giật chân mình. Môi mím chặt, lỗ mũi phập
phồng, vua Piotr nhảy vọt thật cao. hai chân đập vào nhau chan chát đến nỗi
khách khứa nhìn nhà vua phải ôm bụng mà cười.
- Bước vũ thứ ba, đổi nữ! - Lơfo nói to.
Bàn tay xinh xắn mát rượi của Ansen đặt lên
vai nhà vua. Lập tức vua Piotr trấn tĩnh lại, cơn điên cuồng tan biến đâu mất.
Toàn thân nhà vua khẽ run lên, đôi chân tự đưa nhà vua đi dẻo như không, trong
khi nhà vua và nàng Ansen, nhẹ như chiếc lông hồng, cùng quay tít, ánh sáng le
lói của những chiếc đèn xếp được châm lên bằng một sợi pháo dây, truyền từ cây
nầy sang cây khác. Một chiếc pháo bông với một tiếng rít giận dữ vọt lên trời.
Hai tia lửa lóe lên trong cặp mắt của Ansen. Với một giọng nhỏ nhẻ nàng nói: “Chà,
đẹp quá, huyền ảo quá! Chà, Pete ạ, bệ hạ nhảy giỏi lắm!”. Khắp nơi trong vườn,
những chiếc pháo bông bay vọt lên không. Những cây bông hình tròn quay tít,
giấy bóng các ngọn dèn sáng rực. Tiếng pháo bông nổ lốp đốp lửa phụt tung tóe
thành hình rồng rắn, hình hoa cà hoa cải. Ánh hoàng hôn mờ mịt trong làn khói
thuốc pháo. Nhưng phải chăng đây chỉ là một giấc chiêm bao nhà vua mơ thấy
trong cảnh buồn rầu ảm đạm của lâu đài Preobrazenski?
Lơfo, con người hưởng lạc đó, nhảy với một
bà to lớn như hộ pháp đi qua chỗ vua Piotr lớn tiếng nói với nhà vua:
- Thần Cupidon (2) bắn tên xuyên qua tim
người ta đấy!
Ansen người nóng rực lên vì khiêu vũ, toàn
thân tỏa ra một vẻ duyên dáng tươi mát:
- Chà, mệt quá Pete ạ, - nàng bám vào cánh
tay vua Piotr, rên rỉ nói với một giọng cảng nhỏ nhẻ hơn nữa. Một chiếc pháo
bông nổ thành hình rồng rắn trên đầu mọi người, chiếu sáng khuôn mặt tuyệt vời
của Ansen có vẻ hơi gầy đi đôi chút vì mỏi mệt. Không hiểu thường thường người
ta làm thế nào, vua Piotr cứ ôm bừa lấy đôi vai để trần của nàng, nhắm nghiền
mắt lại rồi cảm thấy làn môi ướt của nàng chạm vào môi mình. Nhưng cặp môi của
Ansen chỉ lướt qua. Nàng vùng ra khỏi tay vua Piotr. Hàng trăm chiếc pháo bông
nổ lốp bốp, dữ dội. Ansen đã biến đâu mất. Từ một đám khói mù mịt hiện ra cái
áo lông thỏ và bộ tóc giả bằng sợi gai thô của vị sứ giả của thần Baccux.
Nikita Zotov say mềm, tay vẫn khư khư cốc rượu, bước đi, miệng lẩm bẩm nói gì
không rõ. Hắn bỗng đứng lại, chân nam đá chân xiêu:
- Uống đi, con, - Zotov nói, tay đưa cốc
rượu cho vua Piotr - Uống đi, dù sao chăng nữa, thì hai chúng ta cũng đi đứt
rồi... Chúng ta đã mất linh hồn rồi, chúng ta đã phá giới trong tuần chay. Hãy
uống cho đến giọt cuối cùng, Sa hoàng cao cả của toàn cõi Đại, Tiểu...
Zotov trợn trừng như định dọa nạt ai, rồi
ngã vật vào một bụi cây. Vua Piotr uống cạn rồi vứt cốc đi. Niềm vui dào dạt
trong người nhà vua tựa hồ muôn ánh hào quang của một cây bông đang quay tít.
- Ansen!
Nhà vua gọi to rồi co chân chạy... Cửa sổ
sáng trưng của ngôi nhà, ánh lửa đèn xếp, giấy bóng đèn lồng, tất cả mọi thứ
đều bồng bềnh chung quanh. Bỗng nhà vua đứng lại, hai chân xoạc rộng ra, hai
tay ôm lấy đầu. Đằng sau vua Piotr, một giọng nói ngọt ngào thì thào vào tai
nhà vua:
- Lại đây, thần sẽ chỉ cho hoàng thượng
biết chỗ nàng ở đâu.
Đó là gã mặc sơmi đỏ thắm, vừa nhảy múa lúc
nãy, có cặp mắt sắc sảo, Alexaska Melsikov.
- Nàng đã trở về nhà rồi.
Vua Piotr chẳng nói chẳng rằng, chạy theo
Alexaska trong đêm tối. Họ trèo qua một hàng rào, đụng phải mấy con chó, vượt
qua mấy bức giậu tiến vào quảng trường cối xay rồi đến trước quán rượu. Trên
cao, một khuôn cửa sổ dài có ánh đèn. Alexaska thì thầm:
- Nàng ở đó! - Rồi hắn ném một nắm cát vào
ô kính. Cánh cửa sổ mở, Ansen thò đầu ra cúi xuống nhìn, một chiếc khăn quàng
trên vai, đầu tết đầy những mẩu giấy cuộn tóc cho quăn.
- Ai đấy? - nàng hỏi với một giọng nhỏ nhẹ.
Nàng cố nhìn trong đêm tối, và nhận ra vua Piotr, nàng lắc đầu nói :
- Không, không... Bệ hạ về đi ngủ đi, Herr
Pete ạ...
Với những mẩu giấy cuộn tóc trên đầu
trông Ansen lại càng xinh xắn. Nàng đóng
sập cửa sổ lại rồi bỏ rèm đăng-ten xuống ánh đèn vụt tắt.
- Cô ả giữ mình đấy, - Alexaska thì thầm.
Hắn chăm chú nhìn vua Piotr rồi ghì chặt vai nhà vua dìu đến một chiếc ghế dài.
- Hoàng thượng ngồi xuống đây thì hơn... Thần sẽ dắt ngựa đến. Hoàng thượng có
cưỡi ngựa được không?
Khi hắn trở lại, tay cầm dây cương dắt hai
con ngựa đã đóng yên, vua Piotr vẫn khom lưng ngồi đấy, hai bàn tay nắm chặt
đặt trên đầu gối. Alexaska chăm chú nhìn nét mặt vua Piotr:
- Hoàng thượng uống rượu phải không?
Vua Piotr không trả lời. Alexaska đỡ nhà
vua lên ngựa rồi hắn cũng nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và dìu vua Piotr, cho ngựa
thủng thỉnh bước một rời khỏi xloboda.
Sương mù bay tỏa trên đồng cỏ. Sao thu lấp lánh đầy trời. Ở Preobrazenski gà đã
cất tiếng gáy. Bàn tay lạnh ngắt của vua Piotr bíu chặt lấy vai Alexaska, đã
cóng đờ. Đến trước lâu đài, vua Piotr bỗng cứng người lại, lảo đảo ngã về đằng
sau; nhà vua bám lấy cổ Alexaska, rồi ôm chặt lấy hắn. Đôi ngựa dừng lại. Hơi
thở của nhà vua khò khè trong lồng ngực, xương cốt kêu răng rắc:
- Ôm, ôm chặt lấy ta, - vua Piotr nói với
một giọng khàn khàn. Một lát sau vua Piotr nới lỏng cánh tay ra, rên rỉ thở
dài:
- Nào đi... nhưng ngươi chớ có bỏ ta...
Ngươi sẽ ngủ bên cạnh ta.
Tới gần thềm, Volkov nhảy đại về phía họ:
- Tâu chúa thượng? Ôi, lạy Chúa... Thế mà
bọn thần...
Bọn dapife,
bọn mã phu chạy tới. Từ trên mình ngựa, vua Piotr co chân đạp một cái vào đám
người đang xúm xít xung quanh rồi xuống ngựa đi về phòng riêng, tay vẫn không
buông Alexaska. Trong hành lang tối tăm, một bà lão loắt choắt đang đi ngang
qua, tiếng váy sột soạt vội vàng làm dấu thánh; vua Piotr đẩy bà lão ra một
bên. Một bà lão khác chui tọt vào gầm cầu thang như một con chuột.
- Này, lũ khỉ già hớt lẻo, ta chán ngấy lũ
bay lắm rồi, lũ bay chết quách đi cho rảnh! - Vua Piotr làu nhàu nói. Trong
phòng ngủ, Alexaska tháo ủng, cởi áo nẹp cho vua Piotr. Nhà vua nằm dài trên
tấm thảm dạ và truyền cho Alexaska nằm cạnh mình, rồi kề đầu lên vai hắn.
Sau một lát im lặng, nhà vua nói:
- Ta sẽ bổ nhiệm nhà ngươi làm thị vệ của
ta. Sáng mai ngươi sẽ bảo thơ lại thảo sắc chỉ... Lúc nãy vui nhỉ..., chà, vui
biết nhường nào... Lạy Chúa kính mến!
Một lúc sau, nhà vua bỗng nấc lên một tiếng
như một đứa con nít rồi ngủ thiếp đi.
-------------
Chú
thích:
(1)
Đơn vị trọng lượng Nga mỗi pud bằng 16,38 kg.
(2)
Thần ái tình (thần thoại Hy Lạp).
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét