Thứ Ba, 19 tháng 11, 2019

Pie Đệ Nhất - Phần I (Ch 1 - Ch 30)

Pie Đệ Nhất

Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000

Tiểu sử & chú thích
Dịch theo bản tiếng Pháp của Alice Orena,

Aleksey Nicolaievich Tolstoy sinh ngày 10-1-1883 tại thành phố Nikolaievsk, tỉnh Samara miền hạ lưu sông Volga, trong một gia đình quý tộc nhỏ có truyền thống văn học. Năm 1901, ông lên Petersburg theo học trường kỹ thuật, năm 1907 xuất bản tập thơ đầu tiên, nhưng ít lâu sau chuyển sang viết văn xuôi.
Năm 1914-1916, ông làm phóng viên chiến tranh.
Từ 1918 ông sống lưu vong ở Pháp.
Năm 1923 ông trở về nước Nga, tình nguyện đứng vào hàng ngũ những trí thức tham gia công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông mất ngày 23-2-1945 tại nhà an dưỡng Barkhivinsky, ngoại ô Moskva, thọ 63 tuổi.

Chương 1

Xanka nhảy từ ổ nằm trên bếp lò (1) xuống đất, lấy người đẩy cánh cửa ẩm sũng. Sau Xanka đến Laska, Gavrinka và Artamoska cũng tụt nhanh xuống đất, bỗng cả bọn đều thấy khát; chúng nhảy ùa vào lối cửa đi tối om, theo làn hơi và khói từ ngôi nhà gỗ thum thủm mùi chua bay ra mù mịt. Ánh sáng xanh mờ xuyên qua làn tuyết phủ kín khuôn cửa sổ nhỏ lọt vào nhà. Trời rét như cắt. Chậu nước và chiếc gáo gỗ đã bị băng phủ kín.
Mấy đứa trẻ chân không nhảy choi choi; đầu Xanka choàng khăn vuông; Gavrinka và Artamoska phong phanh chiếc áo lót cũn cỡn đến ngang rốn.
Từ trong ngôi nhà gỗ, bà mẹ tru tréo:
- Đóng cửa lại, đồ quỷ sứ!
Bà ta đang đứng trước lò. Trong lò, những thanh củi nhỏ bắt lửa, hắt ánh sáng rực lên khuôn mặt nhăn nheo. Dưới chiếc khăn vuông rách, đôi mắt mờ đi vì khóc nhiều, lúc này sáng ngời, khủng khiếp y như mắt tượng thánh. Xanka, đột nhiên thấy rờn rợn, chẳng hiểu tại sao, liền ráng hết sức đóng sầm cánh cửa lại, sau đó, cô múc nước thơm uống một hớp, nhấm nhấm một cục nước đá rồi cho các em uống. Cô thì thầm:
- Chúng mày có rét lắm không? Nếu không đi ra sân mà xem, bố đang đóng ngựa đấy...
Ngoài sân, ông bố đang đóng ngựa vào xe trượt tuyết. Từ vòm trời nặng trĩu, những bông tuyết nhỏ lặng lẽ rơi; những con quạ khoang đậu trên hàng rào cao; ở đây đỡ giá hơn lối vào ngôi nhà gỗ. ông bố là Ivan Artemist - bà mẹ thường gọi như vậy, còn mọi người thì gọi bác ta là Ivaska và chính bác cũng tự xưng như thế ở nơi công chúng - biệt hiệu là Brovkin, đầu đội chiếc mũ lông cao, nhọn hoắt, ấn sụp xuống tận cặp lông mày cau có. Bộ râu hung hung đỏ chưa được nhát lược nào kể từ ngày lễ Kháng cáo... Đôi bao tay thò ra ở chỗ hở của chiếc áo dài bằng len thô, thắt trễ ngang lưng một sợi dây thừng; đôi giầy bện bằng vỏ gai của bác bực dọc bước lạo xạo trên tuyết trộn lẫn phân: bác không làm sao gỡ nổi bộ yên cương. Bộ yên cương nát quá, chỗ nào cũng chắp nối.
Bác bực mình, mắng con ngựa nhỏ đen nhẫy, chân ngắn cũng như chân chủ, bụng to tướng.
- Rồi tao sẽ cho mày giỡn, đồ chết tiệt?
Mấy đứa trẻ ra ngay chân thềm nhà tè một bãi và co ro nép vào nhau ở trên thềm nhà đóng băng mặc dầu chúng rét căm căm. Artamoska, đứa nhỏ nhất lắp bắp:
- Không sao cả, lát nữa chúng mình lại vào sưởi ở bếp lò!
Đóng ngựa xong, Ivan Artemist cho ngựa uống nước chứa trong một cái thùng. Con ngựa uống một hơi dài, đôi sườn lông lá căng lên như muốn bảo chủ: “Ông đã không cho tôi ăn no thì ít ra tôi cũng phải được uống thỏa thuê...”.
Ivan xỏ bao tay vào, rút lấy chiếc roi để trong xe, dưới lớp rơm. Bác quát bọn trẻ:
- Muốn sống vào trong nhà ngay lập tức! - Bác nghiêng mình ngồi phịch xuống xe, cho xe đi qua cổng rồi cho ngựa chạy nước kiệu theo dọc hàng tùng cao vút lốm đốm tuyết phủ, về phía dinh cơ của lãnh chúa trẻ Volkov.
- Chà, sao mà rét thế nầy, thật buốt thấu xương! - Xanka nói.
Mấy đứa trẻ ùa vào ngôi nhà gỗ tối mò và leo lên ổ trên bếp lò, hai hàm răng lập cập.
Dưới trần nhà đen kịt, làn khói ấm, hanh hanh, bốc lên cuồn cuộn, rồi thoát qua cửa sổ lùa khoét ở trên phía cửa ra vào: cái bếp lò không có ống khói. Bà mẹ đang nhào bột.
Dẫu sao thì gia đình cũng đủ ăn: họ có một ngựa, một bò cái và bốn gà mái. Mọi người vẫn bảo Ivaska Brovkin là một bác nông dân khá giả. Khi những thanh củi trên giá đèn (2) cháy lụi, tàn rơi lả tả xuống chiếc cóng nhỏ đựng nước kêu xèo xèo, Xanka kéo chiếc áo lông cừu đắp lên người mình và cho các em, rồi lại thì thào kể tiếp đủ mọi thứ chuyện khủng khiếp: cô kể cho các em nghe về những cái giống, - lạy Chúa, ai mà dám gọi đến tên thật của chúng - cứ lào xào dưới sàn nhà lúc đêm khuya...
- Thì mới đây thôi, tao mà nói dối thì tao mù mắt, tao đã bị một mẻ sợ hết hồn... Cạnh bậu cửa, có một đống rác và trên đống rác, có một cái chổi bện bằng cành bạch dương. Tao nhìn thì, ôi lạy Chúa tôi! Tao thấy cái thằng lông lá ấy từ dưới cái chổi lù lù hiện ra, râu như râu mèo.
- Ối ối, ối! - bọn trẻ hoảng sợ chúi đầu vào trong cái áo lông cừu kêu ầm lên.
-------------
Chú thích:
(1) Bếp lò ở Nga thường xây cao, bằng gạch hoặc bằng đá, để sưởi ấm nhà và để nấu ăn. Mặt bếp lò phẳng. người Nga hay kê ván làm giường nằm lên trên cho ấm.
(2) Nông dân Nga thời xưa thắp những thanh củi nhỏ (thường bằng gỗ thông) để thay đèn.

Chương 2

Con đường lờ mờ trên tuyết, xuyên qua rừng. Những cây thông cổ thụ che lấp cả vòm trời.
Quãng này thật là khó đi lại, chỗ thì cây cối đổ rạp, chỗ thì bụi rậm um tùm. Năm kia, khu vực này về tay Vaxili tức là Volkov trẻ, - con một nhà quý tộc làm quan ở Moskva, khi hắn ta ra ở riêng. Bộ Công thổ đã cấp cho Vaxili bốn trăm năm mươi dexiatin (1) với ba mươi bảy nông dân và gia đình họ.
Vaxili đã cho dựng một ngôi nhà nhưng vì mắc nợ nên phải đem ruộng đất cầm cho tu viện. Các tu sĩ cho hắn vay lãi rất nặng - những hai mươi kopek (2) một rúp. Mà bổn phận hắn lại là phải phục vụ Sa hoàng, hắn phải có một con ngựa tốt, một bộ áo giáp, một thanh gươm, một khẩu súng hỏa mai và đem theo ba chiến binh, cũng cưỡi ngựa, nai nịt áo chẽn và mang gươm, cung cùng một túi tên đầy... Với số tiền vay được của tu viện, Vaxili phải vất vả lắm mới sắm nổi ngần ấy trang bị. Nhưng rồi lại còn phải nuôi bọn gia nhân. Rồi trả lãi cho các tu sĩ nữa.
Ngân khố của Sa hoàng chẳng tha gì ai. Mỗi năm lại thêm một lệnh mới, nhiều thứ thuế mới - nào thuế lương thực, thuế đường xá, nào tiền cống nạp, tiền đảm phụ. Như vậy thử hỏi còn gì nữa? Và bao giờ thì anh lãnh chúa cũng là có lỗi: người ta trách anh nhu nhược không chịu đốc thuế. Nhưng khốn nỗi người nông dân chỉ có một lần da: làm thế nào đòi tuốt da hắn những hai lần được. Những vụ loạn lạc, những cuộc chiến tranh thời cố Sa hoàng Aleksey Mikhailovich đã làm cho Nhà nước nghèo khốn. Từ khi tên cuồng khấu đã bị rút phép thông công là Xtenka Razin (3) hoành hành khắp nơi thì nông dân đã quên khuấy mất Chúa Trời. O ép quá chút nữa, họ sẽ nhe răng ra như chó sói cho mà xem. Để tránh sưu cao thuế nặng, họ đã phải trốn xuống vùng sông Đông, chẳng làm cách nào mà lôi được họ về, dù có ra lệnh hoặc điều quân đến cũng vậy thôi.
Con ngựa băm ton lon, tuyết phủ đầy mình. Cành cây vướng vào vai cổ ngựa làm tung lên một đám bụi tuyết. Những con sóc đuôi bùm tum, mình dán vào các thân cây, giương mắt nhìn người khách qua đường - trong rừng lúc nhúc những con vật nhỏ này.
Ivan Artemist ngả mình trên xe suy nghĩ; người nông dân chỉ còn lại có thế thôi: suy nghĩ... “Thế đấy... hết dâng cái này lại cúng cái khác... Hết nộp cho ông nọ, lại đóng tiền cho ông kia... Nhà nước mà như nhà nước chúng ta thì thật là một cái vực thẳm! Tài nào mà đổ cho đầy được? Dân ta đâu có ngại việc, dân ta làm cật lực không hề ta thán. Còn như bọn quý tộc ở Moskva thì lúc này đây vẫn đang nghênh ngang xe ngựa thếp vàng. Thế là lại phải trả tiền xe cho chúng nữa, cho cái bọn quỷ ăn no phưỡn bụng ấy. Thôi được rồi... Cần cái gì thì cứ việc mà lấy, nhưng đừng có cắt cổ người ta... Là vì các ông bạn ạ, lăm le lột da con người ta những hai lần là ăn cướp đấy. Bọn viên chức của Sa hoàng lúc nầy đông như kiến cỏ. Cứ nhổ một bãi là nhất định trúng phải một thằng thơ lại hoặc một thằng chủ quán rượu, thằng nào cũng viết đơn viết từ được cả... Và người nông dân thì thân cô thế cô. Ồ, các ông bạn ạ, tớ cũng đến phải chuồn mất thôi dù cho thú rừng có cắn gãy xương đi chăng nữa, thì chết vẫn còn hơn chịu cái cảnh bị cướp bóc này... Cứ cung cách này thì không tài nào cung phụng các bố được lâu nữa đâu”.
Ivaska Brovkin suy nghĩ như vậy và có lẽ bác ta còn suy nghĩ khác nữa kia. Bỗng có một chiếc xe trượt tuyết từ trong rừng đổ ra đường cái. Digan (biệt hiệu của người đó), - một nông dân khác của Volkov - tóc đen có một mớ đã hoa râm, đang quỳ trên xe. Mười lăm năm ròng rã, bác ta đã bỏ trốn đi tha phương, gặp đâu có công việc thì làm. Nhưng rồi người ta ban hành một đạo dụ: trả lại cho các chúa đất tất cả các nông dân đi trốn, dù dã bỏ trốn từ bao nhiêu lâu rồi cũng mặc. Người ta tóm được Digan ở vùng lân cận Voronez là nơi bác đang làm ruộng và đem trả lại cho Volkov bố. Bác lại bỏ trốn lần nữa, - nhưng rồi lại bị bắt, có lệnh trên truyền xuống là lấy roi quất cho bác một trận không thương tiếc rồi đem tống giam, - trong dinh cơ của Volkov - và đợi đến bao giờ da đã liền sẹo thì lại quất cho một trận nữa không thương tiếc và lại tống giam lần nữa, để cho thằng khốn kiếp, cái thằng kẻ cướp ấy, chừa hẳn cái thói đào tẩu đi. Digan phải xin vào làm trong lãnh địa của Vaxili mới thoát được tội.
- Chào bác, - Digan vừa cất tiếng, vừa trèo sang xe trượt tuyết của Ivan.
- Chào bác. Có chuyện gì lạ không?
- Chuyện nào thì cũng chẳng có gì tốt cả...
Digan rút một bên bao tay ra, đưa tay lên vuốt ria mép, rồi đến râu cằm để cho một nụ cười hóm hỉnh.
- Tôi gặp một người ở trong rừng: hắn bảo rằng Sa hoàng đang hấp hối.
Ivan Artemist kinh hãi, nhỏm dậy, bác dừng ngựa lại: “Hở...”, bỏ mũ ra và làm dấu:
- Vậy ai sẽ được đưa lên ngôi Sa hoàng bây giờ?
- Chỉ có mỗi chú bé Piotr Alekseevich thôi, hắn bảo thế. Nhưng chú bé ấy mới rời vú mẹ chưa được bao lâu.
- Vậy thì, người anh em ạ! - Ivan kéo sụp chiếc mũ lông xuống, tuyết đọng trên mí mắt trắng xóa - vậy thì, người anh em ạ... Thời kỳ thống trị của bọn chúa đất sắp bắt đầu rồi... Thế là chết cả nút thôi...
- Có thể là như thế, mà cũng có thể là sẽ không phải như thế, - Digan ngồi sát vào người bạn đồng hành và nháy mắt, - Người đó nói với tôi rằng, rồi sẽ có loạn cho mà xem, chắc chắn là như vậy... Cũng có thể đời sống còn tươi, còn có bánh mì trắng mà ăn. - Chúng mình đâu có phải là bọn non nớt gì... - Digan nhe hàm răng dã thú ra, phá lên cười và ho vang động cả khu rừng. Một chú sóc buông mình rời khỏi thân cây, vọt qua đường; tuyết rơi lả tả; một luồng cơ man những kim nhỏ li ti lấp lánh trong tia nắng xiên khoai. Vầng trái dương to lồ lộ, đỏ chói, lơ lửng ngay trên đầu đường, bên trên một quả đồi, trên những hàng giậu cao, những mái nhà dốc đứng và những làn khói từ dinh cơ của Volkov bốc lên.
-------------
Chú thích:
(1) Đơn vị đo lường Nga bằng 1,09 hecta.
(2) Đơn vị tiền bằng một phần trăm rúp.
(3) Lãnh tụ nông dân người Cô-dắc khởi nghĩa chống bọn chúa đất hoạt động ở vùng biển Kaspien có lần tiến sang tận địa phận Ba Tư. Năm 1670, Razin ngược dòng sông Đông, tiến đến vùng Volga đánh chiếm các thành phố Saratov và Samara và xúi giục người các dân tộc Tarta, Mocsvo, Cheremix và Chuvats nổi dậy chống lại chính quyền Moskva. Razin bị tướng George Baratinski đánh bại ở gần Simbirsk, bị bắt và bị xử tử phanh thây ở Moskva năm 1670.

Chương 3

Ivaska và Digan dừng ngựa trước cổng lớn trên có cái nóc hai mái che một cây thánh giá.
Chung quanh dinh cơ có một hàng rào kiên cố bao bọc, có thể đương đầu nổi một cuộc cướp phá của quân Tarta. Hai bác nông dân bỏ mũ ra... Ivaska nhấc chiếc vồ gõ cửa và theo tục lệ nói:
- Lạy đức Chúa Jesus là con của đức Chúa Trời hãy rủ lòng thương chúng con...
Người gác cổng Averian, chân dận ủng gai kêu lạo xạo từ trông lều đi ra. Lão ngó qua khe cửa:
- Đúng là người nhà rồi. - Lão nói “amen” rồi mở cổng.
Hai bác nông dân đánh ngựa vào sân. Họ đứng đầu trần, liếc nhìn về phía những khuôn cửa sổ nhỏ gắn mica ở ngôi nhà gỗ của chúa đất. Một cái thềm dốc đứng, xinh xắn, bằng gỗ chạm trổ, nóc hình củ hành dẫn vào các phòng. Phía trên là cái mái giống như nóc lều, hai bên khum khum hình thùng rượu bổ đôi với một cái chóp thếp vàng. Tầng dưới ngôi nhà làm bằng những khúc gỗ tròn chắc nịch: Vaxili Volkov muốn dùng nhà này làm nơi chứa lương thực cho mùa đông và mùa hạ - lúa, thức ăn, muối các loại. Nhưng hai bác nông dân biết rõ là trong kho chỉ có chuột thôi. Còn cái thềm lên xuống sang trọng kia, thì đến một vị vương hầu cũng phải lấy làm danh giá.
- Bác Averian, lãnh chúa cho gọi chúng tôi mang theo cả ngựa đến để làm gì thế, có phải để làm tạp dịch không? - Ivaska hỏi. - Hình như chúng tôi có còn nợ đức ông gì nữa đâu?
- Các bác sẽ đưa một số chiến binh đi Moskva đấy...
- À ra lại chuyện ấy, họ sẽ lại quần ngựa của chúng tôi kiệt sức phen nữa chăng?
Digan bước lại gần, hỏi:
- Có tin gì thế? Sẽ đánh nhau với ai à? Hay là có loạn chăng?
- Chuyện ấy đâu có phải của bác hay của lão, - Averian, mái tóc bạc phơ, cúi chào. - Khi nào có lệnh là cứ việc đưa họ đi. Hôm nay người ta mới cho đánh tới đây một xe chở đầy roi, để dành phần cho các người đấy...
Averian, đôi chân cứng đờ, quay vào trong lều.
Đây đó một khuôn cửa sổ nhỏ có thắp đèn lóe sáng trong buổi hoàng hôn mùa đông. Cái sân ngổn ngang nào là chuồng bò, chuồng ngựa, nào là kho chứa đồ, nhà ở bằng gỗ và một cái lò rèn nữa. Nhưng có đến một nửa số nhà đó vô dụng. Volkov chỉ giữ lại một số gia nô trong nhà mà ngay cả số người đó cũng chỉ có bánh mì và nước kvas (1) ăn uống qua ngày thôi. Dĩ nhiên là họ phải làm việc, cày ruộng được chăng hay chớ, gieo hạt, vào rừng kiếm củi. Nhưng như thế liệu có sống nổi không?
Thật là một công việc của nông nô. Người ta đồn rằng Vaxili còn cho một người trong bọn họ đi Moskva giả bộ ăn xin ở cửa các nhà thờ, người này kiếm được tiền. Còn hai người nữa thì đi rong ở Moskva bán thìa, ủng gai và còi... Nhưng dẫu sao thì cơ sở vẫn là nông dân.
Chính họ nuôi sống Volkov... Ivaska và Digan đứng giữa sân trải bóng hoàng hôn, suy nghĩ. Họ không vội gì. Có điều gì tốt lành đâu mà chờ đợi. Theo lời các cụ kể lại thì quả thực là ngày xưa đời sống có dễ chịu hơn: không bằng lòng ở với lãnh chúa của mình thì cứ việc bỏ đi làm cho một lãnh chúa khác. Bây giờ thì điều đó đã bị cấm, lệnh cho ở đâu thì phải ở đó. Đã có lệnh là phải nuôi Vaxili Volkov vậy thì hãy xoay xở mà nuôi cho được lãnh chúa. Mọi người đều trở thành nông nô cả. Và rồi ra có thể còn có những việc cực khổ nữa kia...
Bỗng có tiếng kẹt cửa đâu đấy; một nữ nông nô đầu trần, trơ trẽn, chạy hộc tốc trên tuyết đến:
- Đức ông ra lệnh tháo ngựa ra. Các bác sẽ ngủ lại ở đây. Nhưng lạy Chúa, chớ có lấy cỏ khô của đức ông cho ngựa ăn đấy...
Digan sắp đánh một roi vào cặp mông núng nính của cô ả thì nó đã bỏ chạy mất... Hai người thủng thẳng tháo ngựa rồi vào trong ngôi nhà gỗ dành riêng cho kẻ ăn người ở, để ngủ đêm. Đám nông nô - có tám người tất cả - xoáy được của lãnh chúa một cây nến mỡ liền đánh bài với những lá bài nhờn nhụa; họ vật bài đen đét xuống bàn: họ chơi ăn kopeik... Họ quát tháo, cãi lộn nhau; có người tìm cách giấu tiền trong mồm áp vào một bên má, người khác đã móc rách môi hắn ra, toàn là đồ vô công rồi nghề, nhưng lại được nuôi béo!
Một đứa trẻ mặc áo dài bằng vải thô, đi ủng gai đã mòn vẹt, ngồi trên một chiếc ghế dài, lánh ra một nơi, đó là Alioska con trai Ivan Artemist. Mùa thu qua, trong nhà đói quá, bố mẹ nó buộc phải gán nó làm nô lệ chung thân cho lãnh chúa để trang trải những khoản nợ còn khất lại. Đứa bé có đôi mắt to giống mẹ. Cứ trông mái tóc bù xù của nó cũng đoán được là ở đây nó thường bị đánh đòn. Ivan liếc nhìn con, bác thương nó nhưng lặng ngắt. Alioska lẳng lặng cúi rạp đầu chào. Ivan làm hiệu gọi con lại và thì thầm hỏi:
- Ở đây đã ăn uống gì chưa?
- Đã ạ!
- A, thế mà bố lại không mang bánh đi (bác Ivan láu cá nói dối vì chính ra bác có một mẩu bánh bọc trong một mánh vải thủ trong áo). Liệu con có thể xoay được cái gì không? Alioska, bố có chuyện này muốn nói với con. Đến sáng mai, bố sẽ phục xuống chân đức ông. Bố còn nhiều việc phải làm. Biết đâu đức ông lại không ru lòng thương bố, để con thay bố đi Moskva?
Alioska nghiêm trang gật đầu: “Được thôi, bố ạ”. Ivan tháo ủng ra và nói thật nhanh như thể mình vui vẻ no nê vậy:
- Thế nào, các người anh em, ra ở đây hôm nào cũng cứ vui như hội thế nầy à? A, quá là các người sống dễ chịu thật, phè phỡn ung dung thật!
Một gã to lớn, dáng người thô kệch, bỏ bài xuống bàn, quay mặt lại phía bác:
- Này tên kia, mày là đứa nào mà dám trách móc chúng tao?
Ivan không đợi đến lúc người ta vả vào miệng, vội leo lên ổ ván nằm.
------------
Chú thích:
(1) Một thứ nước uống hơi chua chua, cất bằng lúa mì, tựa như rượu nếp của ta song nhẹ hơn.

Chương 4

Vaxili Volkov có một ông khách ngủ lại đêm là anh bạn láng giềng Mikhail Tyktov, con một lãnh chúa nhỏ. Chủ và khách đã ăn bữa sáng từ sớm. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng sứ tráng men, có đặt thảm dạ, gối, áo khoác bằng da gấu trên mấy chiếc ghế dài to bản. Nhưng hai chàng thanh niên không thấy buồn ngủ.
Trong phòng oi bức. Ngồi trên ghế dài, mình chỉ mặc mỗi bộ quần áo lót, họ chuyện trò trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng vừa ngáp vặt vừa làm dấu trên miệng.
Khách nói, nghiêm trang, nhỏ giọng:
- Cậu thế mà còn khá, thậm chí có nhiều người còn ước ao được như cậu nữa cơ đấy, Vaxili ạ. Nhưng còn mình, cậu thử đặt vào địa vị mình xem. Ông cụ nhà mình có mười bốn đứa con. Bảy đứa đã ra ở riêng và được chia một số đất bỏ hoang; đứa thì có hai nông nô, đứa thì có ba - còn những đứa khác thì bỏ trốn sạch. Mình là thứ tám, ngày mai họ sẽ cấp cho mình một mảnh đất. Chắc sẽ thí cho mình một cái thôn chết dẫm đã cháy lụi và một bãi lầy toàn một giống ếch nhái... Như vậy thì làm thế nào mà sống nổi? Hả?
- Hiện nay thì ai cũng có khó khăn, - Vaxili nói, tay lần một chuỗi tràng hạt bằng gỗ trắc bá để lòng thòng giữa hai đầu gối. - Mọi người ai cũng phải vật lộn gay go... Không biết sống ra làm sao?
- Ngày trước ở viện Duma (1), ông mình ngồi trên Golixyn kia đấy, - Tyktov nói - Cụ đã túc trực mấy ngày đêm liền bên linh cữu Mikhail Fedorovich. Thế mà bây giờ bọn mình ở nhà phải đi ủng gai... Nhục như thế mà rồi cũng cứ phải quen đi! Chẳng có cách nào kiếm cho đủ ăn thì còn biết nhục với nhã là gì nữa. Ông bố mình đã phải dập đầu chào sướt trán ra để đệ đơn thỉnh cầu lên Bộ công thổ: thời buổi này mà không tốt lễ thì đừng có hòng được gì. Phải đút lót cho thằng thơ lại, thằng phó thơ lại, cả thằng phụ việc của thằng phó thơ lại nữa. Mà nào có phải bao giờ chúng cũng nhận ngay cho đâu, chúng còn chê ỏng chê eo... Nhà mình có nhờ tên phó thơ lại Xtiovka Remezov thu xếp cho một việc nhỏ, phải đấm mõm hắn trước 10 antin (2), - thật là vất vả lắm mới chạy được đủ số tiền đó, - và một pud (3) cá kim ngư khô. Tiền thì cái thằng oắt con nát rượu ấy nhận; nhưng còn cá thì hắn vứt vào sọt rác... Có những kẻ khác khéo luồn lọt hơn thì muốn gì được nấy. Như Volotka Romodanov đã lần mò lên đến tận Sa hoàng để đệ đơn thỉnh cầu. Thế là nó được cấp hai thôn lớn hưởng thụ vĩnh viễn. Vậy mà ai chẳng biết rằng lần đánh nhau vừa qua với quân Ba Lan, nó đã bỏ chiến trường chạy bán sống bán chết và cả cái lão bố nó nữa cũng thế, trước thành Smolensk cũng đã ba lần chuồn khỏi chiến trường... Thế mà, đáng lẽ phải thu hồi phần đất và tống cổ chúng ra khỏi lãnh địa của chúng, thì đằng này người ta lại tặng thưởng thêm cho chúng mấy thôn. Thật là chẳng còn công lý gì nữa...
Hai người ngồi im lặng một lúc. Chiếc lò sưởi tỏa hơi nóng sực. Tiếng dế gáy coong coong.
Không khí yên ắng, nặng trĩu u buồn. Đến cả đàn chó ngoài sân cũng thôi không sủa nữa.
Volkov trầm ngâm nói:
- Giá thử có một ông vua nào sẵn lòng chiêu nạp chúng mình ở Vơnizơ, ở Rome hoặc ở Viên nhỉ... Nhất định là mình sẽ đi, không thèm ngoái cổ nhìn lạỉ... Vaxili Vaxilievich Golixyn có cho ông bố đỡ đầu mình mượn một quyển sách; mình đã được đọc... Thì ra hết thảy mọi dân tộc đều giàu có, sống phong lưu thừa thãi, chỉ có chúng mình là sống như bọn khố rách áo ôm. Mới đây mình có đi Moskva để tìm một người thợ làm súng. Người ta khuyên mình đi tìm người Đức, ở xloboda (4) Kukui. Họ không theo chính giáo, đức Chúa Trời sau này sẽ phán quyết về họ. Nhưng mình chỉ mới bước chân vào trong làng thì mắt mình đã trông thấy những gì nào? Phố xá quét tước sạch sẽ, nhà cửa vui mắt và gọn gàng, hoa nở trong vườn... Mình chân bước đi mà lòng bỡ ngỡ thấy gì cũng lạ, y như trong giấc chiêm bao ấy... Mà người nào người nấy đều ân cần niềm nở. Ấy thế mà họ ở ngay sát nách với chúng mình đấy! Mà họ mới giàu làm sao! Nguyên một mình xloboda Kukui cũng giàu hơn tất cả Moskva với các vùng lân cận...
- Đi buôn, thì cũng phải có tiền, - Mikhail nhìn vào đôi chân không của mình. - Xin đăng vào đội xtreletz (5) chăng? Cái nghề ấy cũng chẳng ăn thua gì đâu. Đợi cho đến lúc leo lên được cái chức bách binh trưởng thì cũng đã om xương rồi. Mới đây Dania Melsikov, giám mã của Sa hoàng có tới thăm ông bố mình, ông ta cho biết là Ngân khố còn nợ của các trung đoàn xtreletz tới hai năm rưỡi tiền lương. Nhưng có mở miệng kêu ca thì lập tức bị tống vào ngục tối ngay. Đại tá Puzot đưa quân xtreletz của hắn về dinh cơ riêng ở gần phụ cận Moskva, về đấy họ phải nai lưng ra làm cho hắn như thể bọn nông nô vậy... Họ khiếu nại, thế là người ta quất cho họ một trận ở trước trụ sở cảnh sát. Quân xtreletz rất uất ức. Melsikov bảo rằng: Hãy đợi xem, họ sẽ cho biết họ không phải tay vừa đâu.
- Nghe nói không thể mặc áo kiểu quý tộc sang bên kia sông Moskva được có phải không?
- Làm thế nào được? Ai nấy đều đói rách cả... Người nào cũng ngóc đầu lên không nổi vì sưu cao thuế nặng. Thật chỉ muốn trốn đi đâu cho biệt tăm, không ngoái lại nữa... Melsikov nói với tụi mình rằng bọn người nước ngoài thì họ đi buôn kia; ở Arkhangensk, ở Kholmogory, họ xây được nhà gạch. Họ mua hàng một rúp ở ngoài thì đem bán lại cho mình lấy ba rúp... Còn bọn nhà buôn nước mình thì để hàng mục ra vì cái tính biển lận. Để trốn tránh cái xuất sưu nặng còng lưng, dân chúng ở các vùng ngoại ô đã bỏ trốn, người thì về các quận, kẻ thì đi vào vùng đồng cỏ hoang. Bây giờ đến đục một cái lỗ qua lớp băng đóng trên mặt sông để lấy nước cũng phải trả thuế... Tất cả những số tiền ấy chui vào đâu? Melsikov kể cho tụi mình biết là Vaxili Vaxilievich Golixyn đã cho xây một dinh thự trên bờ sông Neglinnaia. Tường bên ngoài thì dát đồng, còn bên trong thì lót da thếp vàng...
Vaxili ngẩng đầu lên nhìn Mikhail. Mikhail đã co chân vào dưới ghế và cũng đang nhìn Vaxili. Từ một con người hiền lành một lát trước đây, hắn đã thay đổi khác hắn hắn cười nhạt, ngó ngoáy chân, chiếc ghế dài cũng rung theo.
- Cậu làm sao thế? - Vaxili khẽ hỏi.
- Tuần lễ trước, họ lại mới cướp một đoàn xe trượt tuyết ở gần làng Vorobievo. Cậu không nghe thấy chuyện ấy à? (Vaxili sầm mặt lại, cầm lấy chuỗi tràng hạt). Có một bọn lái buôn len dạ vận chuyển nhiều hàng tấm đẹp... Họ vội đến Moskva trước bữa ăn tối nên không muốn nghỉ lại dọc dường và họ đã không về được tới nơi tới chốn... Một người trong bọn lái buôn sống sót đã hô hoán lên. Thế là người ta đuổi theo bọn cướp nhưng chỉ thấy một vết xe mà vết xe đó thì cũng bị tuyết phủ gần kín rồi...
Đôi vai Mikhail rung rung, hắn phá lên cười:
- Cậu đừng sợ, mình không dự gì vào chuyện đó đâu. Đó là Melsikov kể chuyện lại cho mình đấy thôi...
Hắn nghiêng mình về phía Vaxili:
- Người ta đồn rằng vết xe mòn đó dẫn thẳng đến phố Vacvaka, trong sân nhà Xtiovka Odoievski, con út của vương hầu Odoievski... Hắn trạc tuổi bọn mình đấy.
- Thôi chúng ta đi nằm đi, đã đến giờ ngủ rồi, - Vaxili nói, nét mặt tối sầm.
Mikhail lại cười, gượng gạo không vui:
- Phải, nói đùa đủ rồi, ngủ thôi - Hắn nhẹ nhàng đứng dậy, vươn vai làm các khớp xương kêu răng rắc. Hắn rót nước kvas vào chiếc bát gỗ rồi uống một hơi dài và ngoái mắt qua thành bát nhìn Vaxili. - Xtiovka Odoievski trang bị gươm súng cho hai mươi lăm nông nô của hắn... Toàn một bọn liều lĩnh sẵn sàng làm bất cứ một việc gì. Hắn huấn luyện bọn chúng theo cách này: hắn để cho bọn chúng đói rã họng ròng rã một năm trời; đêm đến hắn mới thả chúng ra cho đi ăn cướp... Thật là một đàn sói.
Mikhail nằm xuống ghế dài, kéo chiếc áo khoác bằng da gấu đắp lên mình, luồn một tay xuống dưới gáy mắt hắn bỗng long lanh:
- Cậu có đi tố giác mình không? Có đi kể lại những chuyện mình vừa nói đó không?
Vaxili treo chuỗi tràng hạt lên, lẳng lặng nằm xuống, mặt quay về phía bức tường bằng gỗ thông còn chảy nhựa. Mãi một lúc sau hắn mới đáp:
- Không, mình không đi tố giác cậu đâu!
-------------
Chú thích:
(1) Hội đồng các đại biểu quý tộc.
(2) Một antin ăn ba kopeik (tiền cổ)
(3) Một pud bằng 16,3 kg.
(4) Làng lớn.
(5) Xtreletz: cấm quân, binh sĩ thuộc các đơn vị quân thường trực đặc biệt, bắt đầu có từ thế kỷ 16,17 ở địa khu Moskva.

Chương 5

Qua khỏi cổng lũy Zemlianoi Val, đường phố lồi lõm gồ ghề chạy ngoằn ngoèo giữa những ngôi nhà gỗ hai tầng, cao và hẹp. Người ta vứt ra ngoài đường thôi thì đủ mọi thứ. Chỗ nào cũng thấy những đống tro, xác xúc vật, chai lọ vỡ, giẻ rách.
Alioska tay cầm cương ngựa, đi bên cạnh chiếc xe trượt tuyết có ba nông nô ngồi, đầu đội mũ quân đội bằng vải bông nhồi sợi gai thô vụn, mình mặc áo dài cổ cao bằng dạ trần, lụng thụng cứng đơ - những chiếc áo tigeleis. Họ là chiến binh của Vaxili Volkov. Không đủ tiền sắm áo giáp, Vaxili đã trang bị cho họ những chiếc áo tigeleis nhưng trong bụng vẫn nơm nớp lo khi duyệt binh, người ta sẽ làm nhục hắn, nhiếc móc hắn không đưa đến những vũ bị đã quy định và cho hắn là biển lận...
Vaxili và Mikhail ngồi trên chiếc xe do Digan dắt. Theo sau là mấy nông nô với hai con ngựa: ngựa của Vaxili thắng toàn đồ sang trọng, trên lưng mang một cái yên Ba Tư, còn con ngựa thiến của Mikhail đã thấm mệt thì yên cương xộc xệch.
Mikhail cau mày. Nhiều tay quý tộc và con nhà lãnh chúa đã vượt qua, miệng hò hét tay ra roi. Họ mặc những bộ áo giáp của ông cha để lại, hoặc mặc áo choàng mới may, áo nịt, áo nẹp kiểu Thổ Nhĩ Kỳ - mọi người trong quận đều đến quảng trường Lubianka, nơi duyệt binh để xin cấp đất mới hoặc chia đất cũ. Bất kỳ ai đi ngang qua, trông thấy con ngựa thiến của Mikhail cũng phá lên cười: “Này dẫn nó đến làm mồi cho quạ đấy à? Coi chừng đấy, ngữ nó đến toi mạng dọc đường thôi!”. Khi vượt qua con ngựa thiến của Mikhail họ giơ roi quất vào mình nó, làm nó khuỵu chân xuống, giữa tiếng hò reo cười đùa, tiếng huýt sáo...
Cả bọn Mikhail vượt qua chiếc cầu bắc ngang sông Yauza trên bờ sông cao, hàng trăm chiếc cối xay gió cỡ nhỏ đang quay. Theo sau những xe trượt tuyết và những đoàn xe khác, họ cho ngựa phi nước kiệu vượt qua quảng trường, tiến dọc theo một bức tường trắng vừa trát đã tróc ra từng mảng; phía trên bức tường là những tháp canh xây vuông có đặt đại bác ở các lỗ châu mai. Trước cổng thấp phố Miaxnitskaia, tiếng quát tháo, chửi rủa ầm ầm, người ta chen nhau đến chết bẹp: ai cũng muốn tranh đi trước; thế là xảy ra cảnh đấm đá nhau, kẻ mất mũ, người gẫy xe, ngựa lồng. Phía trên cổng có một ngọn đèn dong đêm thắp thường xuyên trước một bức tranh vẽ các thánh tối mờ mờ. Dưới làn mưa rơi. Alioska rơi mất mũ; không hiểu làm sao nó lại sống sót được? Cả bọn đã vào được phố Miaxnitskaia, Alioska đưa tay lên lau máu mũi chảy ròng ròng và đưa mắt nhìn từ phía; khiếp thật, đến thế là cùng!
Đám người đông đúc ùa vào đường phố chật hẹp ngập ngụa phân súc vật. Đứng trong những gian hàng dựng bằng ván, bọn lái buôn nhoài người qua quầy, lớn tiếng gọi, tay vươn ra níu lấy vạt áo những người qua đường, giật mũ lông của họ hoặc chào khách mua hàng. Phía bên dãy rào cao, người ta thấy những ngôi nhà gạch, những mái nhà dốc ngươc, cái thì đỏ, cái thì thép bạc, những nóc nhà thờ hình củ hành màu sặc sỡ. Nhà thờ thì có tới hàng nghìn. Loại nhà thờ lớn có năm nóc tròn và ở các ngã ba ngã tư là loại nhà thờ bé con con, bé đến mức một người phải chật vật mới lách qua được cửa, bên trong thì chỉ mươi người đứng là hết chỗ nhúc nhích. Nhìn qua cửa chính của nhà thờ bỏ ngỏ, người ta trông thấy ngọn lửa nhỏ sáng rực của những cây nến. Các bà lão đang quỳ cầu kinh ngủ thiếp luôn. Lũ ăn mày râu tóc xồm xoàm trông gớm chết, có cái thói giũ áo quần rách bươm và túm lấy chân những người qua lại, rồi lè nhè kể lể, phô ra cái thân thể đầy máu me hoặc chi chít mụn nhọt đang nung mủ. Có những cha cố mất giáo khu, mắt trợn trừng, gí một chiếc bánh kalats (1) vào mặt khách qua đường, miệng kêu “Này anh lái buôn, hãy cùng ta vào nhà thờ hát mừng một lễ - nếu không ta sẽ cắn chiếc bánh kalats này...”. Bên trên các nhà thờ nhỏ, hàng đàn quạ khoang bay lượn...
Bọn Vaxili phải chật vật lắm mới chen được một lối đến quảng trương Lubianka, lúc nầy đã đông nghịt chiến binh cưỡi ngựa túm tụm lại thành từng nhóm.
Xa xa, trước cửa ô Nikokskie, người ta trông thấy chiếc mũ lông chồn đen, cao ngất nghểu như ống khói của một vị đại thần, những chiếc mũ lông của bọn thơ lại và những chiếc áo dài sẫm màu của một số người cao sang. Một người gày gò, cao ngẳng, có bộ râu dài đứng ở đó miệng hô to, tay vung vẩy một tờ giấy. Mỗi lần hắn hô lại có một gã quý tộc vũ trang sơ sài hoặc rất đầy đủ, đi một mình hoặc có chiến binh đi theo - phi ngựa lại gần chỗ cái bàn để trình diện. Đến nơi, gã xuống ngựa, kính cẩn cúi chào vị đại thần và bọn thơ lại. Bọn này xem xét kỹ càng từ vũ khí cho đến ngựa, rồi đọc bản danh biểu để kiểm soát lại số đất trước đây đã cấp cho gã quý tộc đó. Tiếp đấy là cuộc tranh luận. Có tên quý tộc đấm ngực thùm thụp, miệng thề sống thề chết; có tên thì lạy van, khóc lóc, kêu ca đất đai cằn cỗi cấp cho họ đã làm cho họ lụn bại, lâm vào cảnh chết đói chết rét.
Cứ như thế, hàng năm, trước khi mở những chiến dịch mùa xuân, theo một tục lệ rất lâu đời, người ta duyệt lại các chiến binh, đoàn vệ binh quý tộc phục vụ Sa hoàng.
Vaxili và Mikhail lên mình ngựa. Ngựa của Digan và của Alioska được tháo ra khỏi xe để cho hai nông nô của Volkov cưỡi không yên. Tên nông nô thứ ba được lệnh phải nói rằng ngựa của nó đã bị thương ở chân trên đường đi. Còn hai chiếc xe thì họ bỏ lại.
Digan níu chặt lấy chiếc bàn đạp:
- Đem ngựa của tôi đi đâu thế này? Thưa lãnh Chúa! Xin lãnh chúa hãy rủ lòng thương!...
 Vaxili giơ roi chỉ vào mặt Digan đe doạ:
- Mày có câm ngay mồm đi không!...
Khi Vaxili đã đi khỏi, Digan nguyền rủa không tiếc lời, quẳng vòng cổ ngựa và vai ngựa lên xe, rồi hậm hực chui vào đống rơm nằm.
Người ta quên khuấy mất Alioska. Thu dọn xong bộ yên cương để vào trong xe, Alioska đứng đợi, đầu trần, mình khoác một tấm da cừu đã thủng lỗ chỗ, chẳng bao lâu nó rét cóng. Nhưng số phận của nông dân là thế: phải kiên nhẫn chịu đựng. Bỗng mũi nó ngửi thấy một mùi vị ngon lành. Một bác bán hàng rong đi qua, béo tròn trùng trục, mắt ti hí, đầu đội mũ lông thỏ rừng, đeo ở bụng một cái mẹt đựng nhiều bánh chả nhỏ nóng hổi, trên phủ một mảnh vải cũ nát. Bác bán hàng tinh quái liếc nhìn về phía Alioska, lật một góc mảnh vải che, nói: “Bánh chả nóng sốt vàng ngậy đây!”. Mùi bánh thơm lôi cuốn Alioska. Nó bước theo người bán bánh hỏi:
- Bao nhiêu tiền một cái thế bác?
- Nửa kopeik một đôi. Ngon chết đi được!
Alioska ngậm trong mồm, áp vào bên trong má, đồng nửa kopeik của mẹ cho trước kia để dỗ nó khi đem bán nó cho lãnh chúa làm nông nô. Nó tiếc không muốn mất tiền nhưng lại đói đau cả bụng.
- Thôi, cho một đôi, - Alioska xẵng giọng nói.
Nó mua bánh rồi ăn ngay; quả thật, từ trước đến nay nó chưa bao giờ được ăn thức gì ngon như vậy! Nhưng khi nó trở lại chỗ xe thì chẳng thấy roi lẫn vòng cổ ngựa, đai da buộc ngựa vào xe đâu nữa - có kẻ đã lấy cắp mất rồi.
Nó chạy vội đến chỗ Digan hỏi, bác ta nằm lì trong đống rơm chửi rủa. Alioska hoảng sợ, bủn rủn chân tay, đầu óc choáng váng. Nó ngồi xuống thành xe khóc rồi lại nhổm dậy, chạy xổ ra đón những người qua lại hỏi: “Các bác có trông thấy đứa lấy trộm những thứ của tôi không?”. Mọi người cười rộ. Biết làm thế nào bây giờ đây? Alioska chạy vụt qua quảng trường đi tìm lãnh chúa.
Volkov ngồi trên ngựa, một tay chống nẹ, đầu đội mũ đồng; bộ giáp sắt che kín ngựa và bụng, phủ một lớp sương giá. Thật không tài nào nhận ra Volkov nữa: trông hắn không khác một con chim ưng! Đứng sau Volkov là hai nông nô cũng cưỡi ngựa, mặc áo dạ dài, béo tròn như những cái chum, vai vác gậy. Quả là chiến sĩ hiên ngang! Trông chúng thật lố bịch, ngốc nghếch. Bản thân chúng cũng nhận thấy thế nên chúng cười hềnh hệch.
Alioska vừa lau nước mắt vừa kể lại tai họa của mình, giọng lè nhè thảm hại.
- Chỉ tại mày thôi? - Vaxili mắng. - Bố mày sẽ quật cho mày một trận. Nếu bố mày không mua đền bộ đồ thắng ngựa khác tao sẽ cho đánh róc xác bố mày ra. Xéo ngay, đừng có luẩn quẩn trước ngựa tao nữa!
Vừa lúc đó, gã thơ lại cà khẳng cà kheo, tay vung vẩy tờ giấy, gọi đến Vaxili. Volkov lập tức phi nước đại, mấy nông nô thúc gót ủng gai vào bụng ngựa theo sau, cả bọn lao về phía cửa ô Nikolskie, tới chỗ vị vương hầu khét tiếng oai nghiêm Fedor Yurievich Romodanovski đang ngồi bên bàn, đầu đội mũ lông cao ngất nghểu, mình khoác hai chiếc áo choàng: một chiếc bằng nhung mặc ở trong và choàng ra ngoài là một chiếc bằng da cừu, mặt có lông quay vào trong.
“Làm thế nào bây giờ đây? Mũ đã mất mà bộ đồ thắng ngựa cũng chẳng còn” - Alioska ti tỉ khóc thầm, đi lang thang khắp quảng trường. Mikhail Tyktov lên tiếng gọi nó. Từ trên mình ngựa cao chót vót, Mikhail cúi xuống, nắm lấy vai Alioska:
- Này Alioska! - Mikhail nói, mắt đẫm lệ, môi run run. - Hãy vì Chúa, chạy ngay đến cửa ô Tverkie, hỏi thăm đến nhà giám mã Danila Melsikov. Vào được rồi mày hãy sụp xuống chân ông ra, lậy ba lậy. Mày sẽ nói thế này: ông Mikhail xin ông ra ơn cho một việc... Ngựa của ông ta bị thương... thật là một sự nhục nhã... Ông ta khẩn khoản xin ông cho mượn một con ngựa trong một ngày để ông ta có thể cưỡi đi trình diện. Mày không quên đấy chứ? Bảo ông ấy rằng ta sẽ đền ơn. Nếu cần phải giết một người để có ngựa ta cũng làm. Mày cứ khóc lóc, van lạy nhiều vào...
- Con sẽ van lạy ông ta như đức ông bảo nhưng nếu ông ấy chối từ thì làm thế nào? - Alioska hỏi.
- Thế thì tao sẽ chôn sống mày đến tận cổ! - Mikhail trợn mắt phồng mũi nói.
Sợ cuống cả người, Alioska cắm đầu cắm cổ chạy đi làm cho xong việc Mikhail sai bảo.
Suốt cả ngày, Mikhail chưa hề ăn tí gì, nên rét cóng trên mình ngựa... Mặt trời lặn dần trong đám sương mù lạnh lẽo. Tuyết ngả màu phơn phớt xanh. Tiếng vó ngựa nghe càng giòn giã hơn.
Hoàng hôn đã xuống; từ các gác chuông và tháp nhà thờ khắp Moskva, tiếng chuông báo giờ cầu kinh chiều vang lên. Vaxili vẻ mặt ủ rũ, đầu cúi gằm, cho ngựa đi thủng thẳng bước một, qua chỗ Mikhail, mãi không thấy Alioska về. Nó không trở lại nữa.
--------------
Chú thích:
(1) Kalats: bánh mì nhỏ hình khóa.

Chương 6

Trong căn phòng thấp nóng hầm hập, những ngọn đèn trong đêm thắp trước tranh thánh rọi ánh sáng lên trần nhà xây cuốn tò vò và những bức họa âm u phủ kín trần, vẽ chim muông ở thiên đường và cành lá xoáy cuộn trôn ốc. Nằm trên chiếc bục rộng, dưới những bức tranh thánh tối sầm, Sa hoàng Fedor Alekseevich đang hấp hối, cái thân hình bạc nhược của lão chìm trong đống đệm nhồi lông thiên nga. Người ta đã chờ đợi việc này từ lâu: Sa hoàng mắc bệnh hoại huyết, cả hai chân phù thũng. Hôm đó lão không thể đứng nghe đọc kinh buổi sáng được nữa, lão phải ngồi xuống ghế, rồi bỗng ngã lăn quay ra. Người ta vội vàng vực lão dậy nhưng tim lão chỉ còn thoi thóp, lão được đặt nằm dưới chỗ treo tranh thánh.
Đôi chân lão phù thũng to như cột nhà, rồi đến lượt bụng lão chướng lên. Viên thầy thuốc người Đức được triệu đến chữa bệnh, đã chích rút nước ra, lão đã bớt đau, rồi cứ thế thỉu dần, lỗ mắt trũng thâm quầng, đầu mũi nhọn hoắt. Có một lúc lão lẩm bẩm cái gì đó nhưng chẳng ai hiểu lão nói gì. Viên thầy thuốc người Đức cúi xuống, ghé tai sát đôi môi nhợt nhạt không còn hột máu của lão. Sa hoàng giọng thều thào ú ớ đọc những vần thơ bằng tiếng la-tinh. Viên thầy thuốc tưởng chừng như nghe thấy trong những tiếng lẩm bẩm của lão một câu thơ của Ovide (1)... Đọc thơ Ovide trong giờ hấp hối? Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, Sa hoàng đã mê man bất tỉnh...
Bây giờ thì đến hơi thở của lão cũng không còn nghe thấy nữa.
Giáo trưởng Ioakim, khuôn mặt khắc khổ, vàng ệch, đang ngồi trên một chiếc ghế gập kiểu Ý bên cạnh cửa sổ phủ một lớp sương giá, ánh trăng lấp lánh trên những ô kính nhỏ hình tròn. Mình mặc áo khoác đen và áo tu sĩ có đính cây thánh giá trắng tám cánh, vị giáo trưởng ngồi đấy, người còng xuống, không nhúc nhích, như hiện thân của tứ thần. Hoàng hậu Marfa Matveevna đứng một mình gần tường đưa cặp mắt mờ lệ nhìn về phía chồng đang hấp hối, chỉ trông thấy vầng trán hẹp và cái mũi nhọn hoắt giữa đống chăn đệm nhồi lông chim. Hoàng hậu mới có 17 tuổi. Gia đình nàng - gia đình Apraxin - vốn nghèo, nàng được chọn đưa vào cung vì có nhan sắc. Nàng lên ngôi hoàng hậu mới được có hai tháng.
Khuôn mặt bé nhỏ hơi đần của nàng, có đôi mày đen, sưng húp vì khóc. Nàng khóc nức nở như trẻ con và bẻ ngón tay kêu răng rắc: nàng không dám khóc to. Ở cuối phòng, dưới những vòm tối tăm, đám họ hàng đông đúc của Sa hoàng đang xì xào bàn tán - thôi thì đủ mặt: chị, em, cô, dì, chú, bác và có cả đám cận thần của Sa hoàng: Ivan Maximovich Yazykov, người thấp bé, đẫy đà, tốt bụng, ăn nói ngọt ngào, rất khôn khéo và sành sỏi về những nghi thức trong triều; Aleksey Timofeevich Likbasev, một bực lão thành đạo mạo, mặt hốc hác, học vấn uyên thâm, đại thị thần của Sa hoàng, và vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn đẹp như tranh, mặc y phục kiểu Ba Lan, chòm râu cằm loăn xoăn có đường ngôi ở giữa, bộ ria vểnh ngược, tóc cắt ngắn kiểu Ba Lan, người tầm thước, chân đi ủng ngắn da mềm gót cao. Cặp mắt xanh của vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn, sáng quắc vì xúc động. Giờ phút quyết định đã đến: phải chỉ định một Sa hoàng mới. Nhưng chọn ai? Piotr hay Ivan? Con của Narytakina hay con của Miloslavskaia? Cả hai đều còn là trẻ con chưa hiểu gì cả nhưng có thế mạnh ở chỗ quan hệ gia đình. Piotr rất thông minh, thân thể cường tráng, Ivan thì ngớ ngẩn, ốm yếu, bảo sao nghe vậy... Trong hai người ai hơn? Chọn ai? Vaxili Vaxilievich, nghiêng người tựa vào cái cửa có hai cánh bịt đồng, dán tai vào đó chăm chú nghe: trong đại điện bên cạnh, bọn đại thần đang bàn cãi om sòm. Từ sáng đến giờ, phe Narytskin và phe Miloslavski, cùng vây cánh của họ, vã mồ hôi ra như tắm trong áo lông, chẳng ăn chẳng uống gì. Căn phòng chật ních người: bọn đại thần lăng mạ lẫn nhau, trút oán hờn lên đầu nhau; họ cảm thấy rằng hôm nay có người sẽ thăng quan tiến chức đồng thời cũng có kẻ sẽ lâm cảnh tù đày.
- Nghe kìa, ồn ào như cái chợ, - Vaxili Vaxilievich lẩm bẩm, rồi đi đến chỗ Yazykov nói khẽ bằng tiếng Ba Lan:
- Ivan Maximovich này, dù sao thì ông cũng nên hỏi ý kiến cụ giáo trưởng xem cụ tán thành ai.
Yazykov, tóc quăn, râu vàng hoe mọc lan cả lên má, miệng đỏ như son, vừa ngọt ngào mỉm cười vừa đưa mắt nhìn từ dướỉ lên trên. Tiết trời nóng nực đã làm cho Yazykov toát mồ hôi, người toả ra mùi dầu thơm hoa hồng:
- Giáo trưởng và cả chúng tôi nữa đang đợi ý kiến của ngài đấy, thưa vương hầu quý mến... nhưng tôi cho rằng sự lựa chọn của chúng ta đã dứt khoát rồi...
Likhasev bước lại gần, cất tiếng thở dài, bàn tay trắng muốt nhẹ nhàng đặt lên chòm râu:
- Trong giờ phút nghiêm trọng này, chúng ta không nên chia rẽ, Vaxili Vaxilievich ạ. Chúng tôi đã suy nghĩ như thế này: Ivan mà làm Sa Hoang thì khó đấy và cũng chẳng được bao lâu vì yếu đuối quá. Chúng ta cần có một Sa hoàng tráng kiện.
Vaxili Vaxilievich nheo mắt, đôi môi duyên dáng thoáng nở một nụ cười bên mép. Hắn hiểu rằng, trong lúc này tranh luận là một điều nguy hiểm.
- Vậy ta cứ quyết định thế, - Vaxili Vaxilievich nói - Piotr sẽ lên ngôi Sa hoàng.
Hắn ngước nhìn lên, bỗng cặp mắt xanh của hắn chớp chớp dào dạt yêu thương. Vị vương hầu nhìn công chúa Sofia, người em gái thứ sáu của Sa hoàng, vừa tới. Công chúa không bước vào phòng thong thả như một thiên nga đang bơi, đúng cung cách một tiểu thư. Không, Sofia xồng xộc đi vào, chiếc áo dài mùa nực màu sặc sỡ tuột cúc nơi bộ ngực đồ sộ, tà áo phanh ra, những dãy băng đỏ trên mũ miện có sừng bay phấp phới. Dưới lớp phấn trắng, phấn hồng, khuôn mặt không đẹp của công chúa lấm chấm tàn hương. Công chúa có một thân hình vạm vỡ, béo lùn, chắc nịch và đầu to. Cái trán dô, cặp mắt xanh lá cây và cái miệng với đôi môi mím chặt là của một người đàn ông hơn là của một thiếu nữ. Công chúa nhìn Vaxili Vaxilievich và hình như đã hiểu vương hầu vừa nói gì và đã trả lời gì. Lỗ mũi phập phồng lộ vẻ khinh bỉ, Sofia quay về phía giường kẻ hấp hối, chắp mạnh hai bàn tay kêu thành tiếng, co ngón tay lại rồi quỳ xuống thảm, tì trán vào chiếc chăn. Vị giáo trưởng ngẩng đầu lên, cặp mắt lờ đờ nhìn chằm chặp vào gáy Sofia và những mớ tóc tết đuôi sam bỏ xõa.
Mọi người có mặt trong phòng lo lắng chờ đợi. Năm công chúa kia đưa tay lên làm dấu. Vị giáo trưởng đứng dậy, nhìn Sa hoàng hồi lâu. Hất ngược đôi tay áo đen lên, lão làm dấu thánh giá ban phép lành cho kẻ sắp chết, rồi bắt đầu đọc bài kinh của những kẻ hấp hối.
Sofia đưa hai bàn tay lên ôm lấy gáy, rú lên một cách man rợ rồi bắt đầu kêu gào, giọng trầm trầm. Mấy người chị Sofia cũng phụ họa theo. Hoàng hậu Marfa Matveevna, ngồi thụp xuống mặt áp vào bục. Fedor Matveevich Apraxin, người anh cả của nàng cao lớn, béo phệ, mặc áo lông dài đến tận gót, bước lại gần, lấy tay vuốt ve lưng nàng. Yazykov chạy vội đến chỗ vị giáo trưởng đứng, hôn tay lão rồi đỡ cánh tay lão dìu đi. Vị Giáo trưởng, Yazykov, Likhasev và Golixyn đi vội sang bên đại điện. Bọn đại thần ùa ra đón, tay áo vung vẩy, chòm râu vểnh ngươc, mắt dương dương, trâng tráo, hỏi: “Sao, thế nào, thưa Đức Cha?”
- Sa hoàng Fedor Alekseevich đã qua đời yên lành... Chư vị đại thần, chúng ta hãy thương khóc hoàng thượng đã quá cố?
Chẳng ai buồn nghe lời giáo trưởng, bọn đại thần xô đẩy chen nhau qua cửa, hối hả chạy đến chỗ người chết, quỳ xuống, dập đầu xuống thảm, rồi nhỏm dậy hôn hai bàn tay Sa hoàng nhợt nhạt như sáp đã chắp lại trên ngực. Bầu không khí ngột ngạt đến nỗi các ngọn đèn dong đêm nổ lép bép và bắt đầu lụi. Sofia được dìu ra khỏi phòng. Vaxili Vaxilievich đã biến mất. Người ta thấy hai anh em Piotr và Boris Alekseevich, - vương hầu xứ Golixyn, lão vương hầu Yakov Dolgoruki, trông gớm chết với mớ tóc đen và cặp lông mày rậm, cùng với lũ anh em của hắn: Luka, Boris, Grigori, tiến lại gần Yazykov. Yakov nói:
- Bọn tôi có mang dao găm và áo giáp dưới lần quần áo ngoài... Thế nào, có cần phải suy tôn Piotr lên ngôi không?
- Các vị hãy ra ngoài thềm cho dân chúng thấy. Đợi lúc giáo trưởng ra đứng cùng với các vị, lúc bấy giờ chúng ta sẽ suy tôn Sa hoàng... Và nếu có kẻ nào nêu tên Ivan Alekseevich thì cứ đâm chết lũ kẻ cướp ấy đi.
Một giờ sau, vị giáo trưởng bước ra đứng trên Thềm Đỏ ban phước lành cho đám dân chúng tụ tập trên quảng trường - bọn xtreletz, con em quý tộc, chiến binh, nhà buôn, thợ thủ công - và hỏi ý kiến họ xem trong hai hoàng tử ai là người đáng lên ngôi Sa hoàng. Người ta chất củi đốt lửa cho sáng. Phía sau sông Moskva, mặt trăng đang lặn dần, ánh sáng lờ mờ lạnh lẽo, lấp lánh trên nóc nhà hình tròn. Trong đám đông có người hô:
- Chúng tôi muốn Piotr Alekseevich.
Một giọng khàn khàn kêu:
- Chúng tôi muốn Ivan...
Nhiều người xông về phía có tiếng nói đó và tiếng nói im bặt. Thế là đám đông hô to hơn:
“Piotr, Piotr!...”
--------------
Chú thích:
(1) Nhà thơ thời La-mã cổ (43 trước Công nguyên -16 sau công nguyên)

Chương 7

Trong sân nhà Danila, hai con chó giữ nhà điên cuồng đến nghẹt thở, lăm le chồm lên cắn Alioska. Một con bé con môi đầy vẩy, chiếc áo lông tàng trùm lên đầu, bảo Alioska lên cầu thang có phủ một lớp băng mỏng dẫn đến buồng khách. Con bé cười gằn, chẳng ai hiểu tại sao, rồi chui tọt vào gầm thềm nhà ở tầng dưới cùng tối om, trong đó mấy thanh củi to đang lập lòe cháy trong lò. Alioska vừa leo lên cầu thang, vừa lắng tai nghe: trên gác có tiếng người kêu như bị lột da. “Phen này mình khó mà sống sót thoát khỏi nơi đây” - Alioska nghĩ thầm. Nó rút cái chốt con buộc lòng thòng ở đầu một sợi dây rồi gắng sức kéo cánh cửa ẩm sũng bật ra khỏi khuôn: một luồng không khí nóng và mùi củ cải đen lẫn mùi rượu vodka xộc vào mũi. Dưới chỗ treo tranh liệt thánh, hai người đàn ông đang ngồi trước một cái bàn có bày thức nhắm: một thầy tu, tóc tết đuôi sam nhỏ, râu hung hung đỏ xòe ra như cái quạt và một người béo lùn mặt rỗ, mũi lõ. Họ vừa cầm cốc sắt gõ chan chát xuống bàn vừa hét:
- Nhét vào đít cho nó một ít trí khôn!
Nhân vật thứ ba là một lão to béo, mặc áo lót rộng thùng thình màu quả dâu, đang kẹp một người vào giữa hai đầu gối, lấy dây lưng da quất vào mông đít lột trần. Đôi mông còm nhom, lằn vết roi, dãy dụa, tìm cách tránh đòn:
- Ái, ái, lạy bố!
Kẻ bị quất kêu toáng lên. Alioska sững sờ cả người. Trông thấy nó, người mặt rỗ chớp chớp đôi mi trụi sạch hết lông. Lão thầy tu bá miệng rộng hoác, cất giọng lè nhè quát:
- Lại một thằng nhãi nữa, tiện tay cho nó một trận đi thôi!
Alioska đứng xoạc hai chân đi ủng gai, vươn cổ ra. “Phen này thì thật chết...”.
Lão to béo quay người lại. Một thằng bé, mắt tròn xoe, màu xanh nhạt, luồn qua háng lão, hai tay đỡ quần, chạy tọt ra cửa rồi biến mất. Alioska bèn làm theo lệnh Mikhail đã bảo, thụp ngay xuống chân lão to béo và dập đầu xuống sàn nhà ba lần. Lão ta túm lấy cổ áo Alioska, nhấc nó đứng dậy, kéo nó lại sát cái mặt đỏ như gấc, nhễ nhại mồ hôi và phì phò vào mặt thằng bé một hơi thở nóng hổi sặc sụa mùi rượu mạnh:
- Mày đến đây làm gì? Ăn cắp à? Dò la à? Hay định xoáy cái gì ngoài sân?
Alioska hai hàm răng lập cập trình bày là Tyktov sai đến. Mạch máu của lão mặt đỏ căng phồng lên: lão chẳng hiểu gì cả... “Tyktov nào? Ngựa nào? A, ra mày đến lấy một con ngựa phải không? Mày là một thằng ăn trộm ngựa...”
Alioska khóc sướt mướt, thề sống thề chết, ba ngón tay chụm lại làm dấu. Lão mặt đỏ như gấc liền điên tiết túm tóc Alioska lôi xềnh xệch, tiếng ủng nện thình thịch, giơ chân đạp tung cửa rồi quẳng Alioska xuống chân cầu thang phủ băng giá.
- Tống cổ thằng ăn cắp ra khỏi sân, - lão hét lên, chân bước loạng choạng. - Sarok, Brovka, cắn nó đi!
Danila Melsikov, cúi đầu xuống như con bò mộng, bước qua cửa trở vào ngồi cạnh bàn. Lão vừa thở hồng hộc, vừa rót rượu đầy hai cốc sắt, rồi bốc một nhúm củ cải đen:
- Này anh bạn tu sĩ, anh đã từng đọc kinh thánh nhiều, chắc anh phải nắm vững vấn đề. - Lão càu nhàu nói. - Thằng con tôi không chịu vâng lời... Nó thật là một thằng kẻ cướp, một thằng nhãi ranh chó đẻ. Có lẽ tôi giết quách nó đi thôi! Về việc đó, Kinh Thánh phán báo thế nào, hả?
Thầy tu Finka nghiêm nghị trả lời:
- Kinh Thánh nói thế này: Mi hãy trừng phạt con mi ngay từ khi nó còn thơ ấu, nó sẽ tôn kính mi lúc mi tuổi già. Và mi đừng chùn tay khi đánh con, vì thực ra nếu mi lấy gậy đánh con, nó sẽ không chết đâu mà càng thêm tráng kiện; mi hãy năng đánh con, vì làm như vậy sẽ cứu vớt linh hồn nó khỏi sa đọa...
- A men, - gã mũi lõ thở dài.
- Khoan, để tôỉ thở cái đã, rồi tôi sẽ gọi nó lại, - Danila nói - Hừ, hỏng bét các bạn ạ! Mỗi năm lại càng tồi tệ hơn. Con cái thì không bảo được, chẳng còn được hiếu thảo như thời xưa. Lương lậu thì hai năm nay rồi, Sa hoàng chẳng trả. Chẳng còn gì mà đổ vào mồm nữa. Bọn xtreletz đe sẽ châm lửa tứ phía đốt Moskva. Dân chúng nhốn nháo lắm. Chẳng bao lâu nữa, bọn mình sẽ chết hết cả thôi!
Foma Posipaiev, anh chàng mặt rỗ, mũi nhọn hoắc, chuyên giải thích Kinh Thánh, tuyên bố:
- Bọn Nikoniêng (1) đã phá vỡ đức tin cổ truyền, vậy mà chính đức tin đó (hắn giơ một ngón tay lên) xưa kia đã giúp cho loài người sống bình yên. Đức tin mới thì chẳng có. Trẻ con sinh ra trong vòng tội lỗi, anh có đánh con đến chết đi nữa cũng thế thôi, nó vẫn chứng nào tật ấy, nó làm gì có linh hồn. Đó là những đứa con của thời đại... cùng một giống Nikonieng. Một đàn cừu không có người chăn - mồi của quỷ Satan. Tổng giáo sĩ Avakum đã viết: “Hỡi Nikonieng, có phải mi tìm cách dẫn dụ đàn con chiên của Chúa Kristo vào con đường cám dỗ để rồi cùng chúng hiến linh hồn cho cha mi là Ma vương?” Ma vương! (hắn lại giơ ngón tay lên). Lại đây nữa: “Mi là ai, hả Nikonieng? Mi là cục phân nhơ bẩn, một sự thối tha, một con chó tanh hôi...”.
- Lũ chó!
- Bọn giáo sĩ và bọn tổng giáo sĩ phái Nikon mặc áo dòng bằng lụa đi dạo chơi phố phường, má phị nứt mỡ ra! - thầy tu Finka nói.
Foma Posipaiev đợi cho mọi người chửi rủa xong, nói tiếp:
- Vị tổng giáo sĩ Avakum lại còn nói thế này: “Bạn Ilarion, tổng giám mục xứ Ryazan! Bạn hãy nhớ lại xưa kia Melsixedex sống như thế nào trong rừng sâu, trên ngọn núi Tabo. Ông ăn những cành non để sống, hớp những giọt sương thay nước. Ông là một vị chân tu, không cầu kỳ tìm kiếm để có rượu vang miền sông Ranh hay xứ Burgonh, những rượu mạnh, rượu nho thượng hạng, hoặc rượu bia có mùi sa nhân. Hỡi ông bạn Ilarion, tổng giám mục xứ Ryazan! Bạn trông đấy, Melsixedex đã sống như vậy. Ông không có nằm ngồi ngả ngớn trên xe do những con ngựa ô kéo. Mà ông ta là người hoàng tộc đấy. Còn bạn, hỡi ông bạn giáo sĩ nhỏ mọn, bạn là cái gì? Bạn lên xe xuống ngựa, dương dương tự đắc; bạn nằm sóng soài trên đống đệm, trên xe, tóc chải như tóc con gái, và cho xe đi diễu quanh, mặt vênh vênh váo váo để mọi người đều thấy, để bọn nữ tu sĩ - những con ranh ấy - yêu. Than ôi, tội nghiệp cho bạn... Quỷ Satan làm bạn mù quáng, cái đó thật rõ quá rồi... Bạn chưa từng biết và nay bạn vẫn không biết thế nào là sống theo đạo Chúa”.
Thầy tu Finka nhắm mắt cười, đôi má rung rung. Danila lại rót rượu. Cả bọn cùng uống.
- Quân xtreletz đã xé vụn sách của bọn Nikonieng, vứt tung tóe khắp nơi, - Danila nói. - Nhờ Trời phù hộ, quân xtreletz sẽ nổi lên khôi phục lại những phong tục xưa.
Bỗng lão quay đầu lại. Lũ chó đang sủa ngoài sân. Bậc thềm gỗ kêu cót két. Ngoài cánh cửa có tiếng người đọc một bài kinh cầu Chúa Jesus. “Amen” cả ba người đang chuyện vãn đáp lại. Một gã xtreletz cao lớn, thuộc trung đoàn Pyzov bước vào: Opsey Rezov em rể Danila. Hắn làm dấu phép, mắt nhìn về góc nhà treo tranh liệt thánh, rồi đưa tay lên hất mớ tóc xoã xuống mắt.
- Các anh đang chè chén đấy à? - hắn nói, giọng bình tĩnh. - Và ở trên xảy ra chuyện gì, các anh cũng không hay biết. Sa hoàng đã băng hà... Thật là một tai họa không ngờ... Bây giờ thì số phận tất cả chúng ta nằm trong tay bọn quý tộc đại thần và bọn Nikonieng rồi.
-------------
Chú thích:
(1) Môn đồ của giáo trưởng Nikon, ủng hộ việc cải cách giáo hội do Nikon chủ trương năm 1663.

Chương 8

Như một gã làm xiếc, Alioska lộn nhào từ trên đầu cầu thang xuống, rơi vào một đống tuyết.
Mấy con chó nhe răng vàng khè hùng hổ xông đến chỗ Alioska. Nó vội giơ hai tay che đầu, nhắm nghiền mắt lại. Nhưng lũ chó không cắn xé nó... Thật là như có phép mầu: Chúa đã cứu nó! Bầy chó bỗng lùi lại, gầm gừ. Một người ngồi xổm, cúi xuống nhìn Alioska, lấy ngón tay đụng vào đầu nó, hỏi:
- Này, mày là ai thế?
Alioska hé một bên mắt. Bầy chó vẫn quanh quẩn gần đấy lại gầm gừ. Alioska nhận thấy ra thằng bé vừa bị đòn lúc nãy.
- Tên mày là gì?
- Alioska.
- Mày là con nhà ai?
- Con nhà Brovkin. Bố tao là nông dân.
Thằng bé kia nhìn đi nhìn lại Alioska như kiểu chó nhìn: hết ngoẹo đầu bên này lại ngoẹo đầu sang bên kia. Từ phía sau nóc nhà, ánh trăng rọi vào khuôn mặt to của nó. Chà, thằng nhãi nầy hẳn là rất láu lỉnh.
- Chúng mình đi vào sưởi đi! - thằng bé nói. - Mày không nghe thì liệu hồn, tao sẽ cho biết tay. Mày có muốn đánh nhau không?
- Không.
Alioska vội nằm xuống tuyết như trước. Rồi hai đứa lại gườm gườm nhìn nhau:
- Cậu để tớ đi, - Alioska nói với một giọng lè nhè. - Đừng đánh tớ! Tớ có làm gì cậu đâu. Tớ sẽ đi khỏi chỗ này.
- Nhưng mày đi đâu?
- Tớ không biết... Người ta hẹn sẽ chôn sống tớ... Về nhà tớ cũng bị đập chết.
- Bố mày có quất mầy không?
- Bố tớ bán đứt tớ cho người ta rồi, bây giờ bố tớ không quất tớ nữa... Lẽ tất nhiên, tụi đày tớ đánh tớ. Và khi tớ còn ở nhà, tớ cũng bị quất, cái đó thì đã hẳn rồi.
- Vậy mày là gì, một đứa bỏ trốn à?
- Không, chưa phải... Thế còn cậu, tên cậu là gì?
- Alexaska... Melsikov... Bố tớ quất tớ mỗi ngày hai lần hoặc ba lần tùy hôm. Mông đít tớ chỉ còn trơ xương mất hết cả thịt.
- Ối chao, tội nghiệp cho cậu...
- Thế nào, đi vào sưởi chứ?
- Nào đi.
Hai đứa trẻ chạy vào buồng dưới nhà, nơi trước đó ít lâu Alioska đã trông thấy lửa cháy trong lò. Căn buồng ấm áp, khô ráo, đượm mùi bánh mì nướng; một ngọn nến mỡ cắm trên cái giá bằng sắt uốn cong đang cháy. Gián bò nhung nhúc trên những bức tường ám khói dựng bằng súc gỗ thép. Thật chỉ muốn ở đây suốt đời.
- Chị Vaxionka, đừng nói gì với bố tôi đấy! - Alexaska nói liền một hơi với chị nấu bếp, một người đàn bà hiền lành, lùn tè. - Tháo ủng ra.
Alioska cũng làm theo. Cả hai đứa trèo lên cái lò chiếm hết nửa căn buồng. Phía đằng kia, trong bóng tối, một cặp mắt đang thao láo nhìn không chớp. Đây là con bé lúc nãy đã mở cửa cho Alioska. Nó lùi vào tít trong cùng, sau ống khói bếp lò.
- Chúng mình nói chuyện nhé? - Alexaska thì thầm. - Mẹ tớ chết rồi. Bố tớ ngày nào cũng say mèm. Ông cụ lại muốn lấy vợ khác. Tớ sợ có một người dì ghẻ lắm. Tớ ăn đòn hàng ngày rồi, lại thêm bà dì ghẻ nữa thì họ đánh tớ đến hồn lìa khỏi xác mất...
- Nhất định rồi, - Alioska xác nhận.
Sau ống khói, có tiếng con bé con sụt sịt.
- Thì tớ cũng nói thế... Hôm nay ở cửa ô Serpukhovskie, tớ trông thấy một chỗ cắm trại của người Digan, có cả gấu. Họ thổi sáo, nhảy múa, ca hát... Họ rủ tớ đi theo họ. Hay ta theo người Digan lang thang đây đó đi? Cậu nghĩ sao, hả?
- Đi với bọn Digan sẽ bị đói, - Alioska nói.
- Hay là ta đi làm thuê cho bọn lái buôn, bất cứ công việc gì cũng được... Rồi đến mùa hạ ta lại bỏ đi nơi khác. Trong rừng có thể bắt được gấu con. Tớ quen một anh đi săn ở ngoại ô vẫn đi bắt gấu, anh ta sẽ dạy chúng mình... Cậu sẽ bắt gấu làm trò, tớ sẽ múa hát...Tớ biết vô khối bài hát. Còn nhảy múa thì khắp Moskva, không ai giỏi hơn tớ.
Con bé con, ở phía sau ống khói, lại càng sụt sịt, Alexaska hích cho nó một cái vào sườn:
- Câm mồm đi đồ ngủ nhè. Thôi được, ta sẽ cho nó đi theo.
- Đi với đàn bà nhiều chuyện phiền lắm...
- Ta sẽ cho nó đi theo trong mùa hè để nó nhặt nấm. Nó đần nhưng nhặt nấm thì giỏi lắm. Bây giờ ta chén xúp nấu cải bắp đã; rồi họ sẽ lại gọi tớ lên bắt tớ đọc kinh và cho tớ ăn đòn. Sau tớ sẽ trở lại đây. Ta sẽ đi ngủ. Tờ mờ sáng, ta sẽ chuồn thẳng đến khu Kitaigorod, qua sông Moskva, rồi sau thế nào sẽ hay. Tớ có nhiều bạn bên ấy. Đáng lẽ tớ đã trốn lâu rồi nhưng không có bạn đi cùng...
- Chà, giá mà được một người lái buôn thuê mình đi bán bánh chả thì hay quá, - Alioska nói.
Trên thềm nhà, cánh cửa bỗng đóng sầm. Bọn khách đã ra về, chân bước làm bậc thềm kêu răng rắc. Danila cất tiếng gọi Alexaska nghe thật ghê tợn.

Chương 9

Phố Vavacka có một ngôi nhà gỗ thấp lè tè có sáu khuôn cửa sổ, sống nóc chạm trổ hình những con ngựa, gà trống. Đó là một ty bán rượu, một quán hàng của Sa hoàng. Phía trên cổng to mở rộng có treo một cái sọ cừu đực: bất luận ai muốn vào quán cũng được. Ngoài sân, trên những đống tuyết vàng khè vì nước đái, trên những đống phân, mấy người say rượu đang nằm bất tỉnh: người thì mặt mày máu me bê bết, kẻ thì bị lấy mất cả ủng, cả mũ lông.
Nhiều xe trượt tuyết đỗ trước cổng và ngoài sân: những cỗ xe lớn có đóng ngựa rất rộng, không có chỗ để ngồi; và những chiếc xe của bọn lái buôn có lưng tựa tô màu lòe loẹt, trong nhà, lão chủ quán vẻ mặt khắc nghiệt, đôi lông mày màu nâu, đứng sau quầy rượu. Trên giá để nhiều chai lọ, nhiều cốc bằng thiếc. Ở một góc nhà, trước tranh liệt thánh tối om, le lói mấy ngọn đèn dong đêm. Sát tường kê mấy chiếc ghế dài, một cái bàn dài. Bên kia vách là một căn buồng khác, sạch sẽ hơn, dành riêng cho bọn lái buôn. Nếu một gã rách rưới hay một anh thợ thủ công say rượu định bước vào buồng đó thì lão chủ quán liền cau mày và bắt họ quay ra ngay. Nếu họ không nghe, hắn túm ngay lấy đũng quần rồi đá đít họ tống ra khỏi quán. Cái buồng thứ hai kia là nơi diễn ra các cuộc chuyện trò đứng đắn: bọn lái buôn ngồi uống bia có pha gừng và rượu mật ong hòa với gia vị. Họ mặc cả với nhau, ngã giá rồi đập vào tay nhau tỏ ý ưng thuận. Họ bàn tán về tình hình, mà tình hình lúc này đang xoay chuyển khiến bọn lái buôn phải gãi đầu gãi tai phân vân lưỡng lự. Trong căn buồng thứ nhất, ở trước quầy rượu, bọn sâu rượu hò hét om sòm, hết nguyền lại rủa. Không sao, cứ uống đi, cứ vui cho thỏa thích đi, miễn là phải trả tiền sòng phăng. Ngân khố rất ngặt. Không có tiền à? Thì đưa áo trong đây. Và khi khách chẳng còn gì nữa thì chủ quán đưa mắt nháy gã thơ lại, - gã này ngồi ở góc bàn, ngọn bút lông ngỗng gài mang tai, một lọ mực lủng lẳng ở cổ, gã thơ lại bèn viết lia lịa đen ngòm cả giấy. Ôi thôi, hãy mau mau tỉnh lại, hỡi anh bạn điên rồ còn đang bị ma men ám ảnh. Gã thơ lại khôn ngoan sẽ thảo cho anh một tờ cam kết làm nô lệ. Khi đặt chân vào quán rượu của Sa hoàng, anh là một người tự do nhưng lúc bước ra khỏi quán anh sẽ trần như nhộng và trở thành nô lệ.
- Hôm nay, uống rượu ít nguy hiểm hơn, - lão chủ quán vừa ba hoa thuyết lý, vừa rót rượu khổ ngải vào một chiếc cốc bằng thiếc. - Hôm nay thì bạn bè, họ hàng hay vợ anh đến tìm anh, lôi anh về trước khi anh uống hết nhẵn tiền. Hôm nay thì chúng tôi mặc cho họ kéo nhau đi, không đuổi theo. Cứ về đi! Cầu Chúa phù hộ cho anh. Cũng như trước kia, dưới thời cố Sa hoàng Aleksey Mikhailovich, cũng có khi có người muốn dìu một anh bạn say mềm ra về để hắn khỏi nốc rượu hết đến đồng kopeik cuối cùng. Không được! Làm như thế là thiệt hại đến Ngân khố! Ngay đồng kopeik ấy Ngân khố cũng cần. Lập tức tôi gọi đội cảnh vệ đến. Bọn lính gác tóm ngay lấy anh chàng định can bạn đừng uống rượu rồi giải đến Bộ Hình. Ở đấy người ta sẽ đem gã ra xử, chặt tay trái và chân phải gã, rồi quẳng gã vào chỗ nước đóng băng... Uống đi, các con chim ưng của tôi, cứ uống đi đừng lo ngại gì cả, hôm nay người ta không chặt chân chặt tay ai đâu...

Chương 10

Hôm đó thiên hạ chen chúc nhau trước quán rượu, người nọ bíu lấy người kia nghểnh cổ dòm qua cửa sổ. Ngoài sân, trên thềm, không tài nào lách được một lối đi. Người ta thấy nhan nhản những áo nẹp của bọn xtreletz: cái thì đỏ, cái thì xanh lá cây, cái thì màu vỏ quýt.
Đám đông nhốn nháo, đè lên nhau: “Cái gì thế hả? Ai đấy? Tại sao thế?”. Bên trong quán rượu, trong căn buồng sạch sẽ nọ, bọn xtreletz đang ngồi cùng bọn chủ hiệu buôn to. Hơi người thở ra đọng lại thành những dòng nước nhỏ chảy trên ô kính cửa sổ. Bọn xtreletz đã vực vào quán rượu một người đàn ông bị đánh nhừ tử. Người đó nằm lịm, thân hình hắn béo tốt, mớ tóc hoa râm bết máu họng, mũi, má đầy thương tích. Bọn xtreletz trỏ vào người đó, hét lên:
- Rồi đây, không lâu đâu, chúng sẽ làm như vậy với các ông.
- Các ông mê ngủ à? Nhưng bọn ở xloboda Kukui, chúng không mê ngủ đâu...
- Này anh em, tụi Đức lại đánh người của chúng ta hả?
- May mà chúng tôi đi qua, bênh hắn... không có chúng tôi thì hẳn chúng đã nện hắn đến chết rồi...
- Thời mồ ma Sa hoàng, có ai thấy những chuyện như thế này đâu? Có ai để cho tụi ngoại quốc bắt nạt người mình đâu?
Opsey Rezov lính xtreletz của trung đoàn Pyzov đang tìm cách làm cho bè bạn hắn nguôi giận; hắn chào bọn lái buôn sụ và nói:
- Thưa các vị thương gia tai mắt, chúng tôi đến với các vị. Chúng tôi không còn biết đem vợ con đi đâu nữa. Thật là cảnh khổ sở cùng cực... Gần hai năm nay, người ta không trả lương cho chúng tôi. Bọn đại tá bắt chúng tôi làm những công việc hết sức nặng nhọc. Làm thế nào mà sống được? Và sống bằng gì? Người ta không cho phép chúng tôi buôn bán trong thành phố. Ở ngoại ô thì chật chội... Bọn người Đức đã nắm hết mọi thứ trong tay. Giờ đây, chúng đã mua rấm trước tất cả đay và gai rồi. Lũ quỷ què ấy mua da rồi mang về xloboda Kukui thuộc lấy; làm lấy. Phụ nữ chẳng ai thèm mua giầy của người mình, do những thợ thủ công ở ngoại ô làm; họ đòi giầy của người Đức làm kia. Cuộc sống trở nên không sao chịu nổi nữa rồi. Nếu các vị không bênh vực đám xtreletz chúng tôi thì các vị nên nhớ rằng, các nhà buôn như các vị rồi đây cũng sẽ chết. Bè lũ Narytskin rút cuộc đã nắm được Ngân khố trong tay... Bọn chúng tham lam vô độ. Các vị hãy chờ đấy, rồi đây sưu thuế sẽ nặng đến mức các vị chỉ còn có chết thôi. Hãy chờ đón những điều còn tệ hại hơn thế nữa. Viên đại thần Matveev bị đi đày bây giờ đang trên đường trở về... lòng đầy căm thù. Lão sẽ ăn gỏi Moskva cho mà xem.
Những tiếng rên rỉ của kẻ bị đòn nhừ tử nghe thật khủng khiếp. Những lời nói của gã xtreletz nghe cũng rùng rợn, khó hiểu. Bọn nhà buôn đưa mắt nhìn nhau. Họ khó tin được rằng cái anh chàng bán hàng tội nghiệp kia đã bị bọn người Đức ở Kukui đánh đập tàn nhẫn.
Việc này xem ra có điều mờ ám. Vậy mà bọn xtreletz nói đúng. Hiện giờ đời sống khó khăn thật. Mỗi năm sự nghèo khổ lại tăng lên, mỗi năm lại thêm thấp thỏm lo âu. Mỗi khi có một sắc chỉ mới: “Sa hoàng đã truyền, các vị đại thần đã quyết định”, là lại có một tai họa mới:
Nộp tiền mau, đem tiền mà vứt vào vực thẳm. Kêu với ai? Mà ai bênh vực mình? Bọn quý tộc quyền thế? Chúng chỉ biết rõ mỗi một việc là thu tiền về cho Ngân khố. Nhưng bằng cách nào và đào đâu ra tiền? Cái đó chúng không cần biết. Cởi áo lót của anh ta, đưa đây.
Thật cứ như thể Moskva bị địch chiếm đóng vậy. Một gã lái buôn vung bàn tay đeo đầy nhẫn bạc, lách vào trong vòng người xúm quanh kẻ bị đánh.
- Chúng tôi đây, tức là nhà Vorobiev. - hắn nói, - chúng tôi đem tơ sống đến hội chợ Arkhangensk. Thế nhưng bọn người Đức đã đồng tình bảo nhau không mua lấy một xu tơ của tôi. Và tên bang trưởng của chúng, tức là lão người Đức Vunfiux, nói vào mặt chúng tôi: “Chúng ta sẽ làm cho bọn nhà buôn ở Moskva phải chịu roi vọt vì công nợ và trong tương lai, chúng ta sẽ buộc họ - nghĩa là chính chúng sẽ buộc chúng ta, những nhà buôn ở Moskva - chỉ còn buôn ủng gai được mà thôi”.
Tiếng ồn ào nổi lên khắp căn nhà gỗ. Bọn xtreletz hét lên:
- Đấy, chúng tôi đã bảo mà. Chẳng bao lâu nữa rồi đến ủng gai cũng không còn?
Anh chàng lái buôn trẻ tuổi Bordan Zigulin nhảy vào giữa vòng người, bộ tóc quăn xõa sợi:
- Tôi ở Bạch Hải về, - hắn hăng hái nói, - Tôi đến đấy để mua mỡ hải cẩu. Thế nhưng tôi đi không lại về không, mấy cỗ xe rỗng tuếch. Hai tên ngoại quốc Maxlin và Bierkovov đã mua trước của miền duyên hải tất cả mỡ hải cẩu trong mười năm. Và tất cả dân miền duyên hải đều là con nợ của chúng. Bọn chúng mua mỡ của dân với giá tiền chỉ bằng một phần tư giá thị trường và cấm họ bán mỡ cho người khác. Dân chúng đang sống trong cảnh khổ cực; họ không ra biển đi săn nữa, tan tác mỗi người một nơi. Hiện nay người ta cấm người Nga chúng ta đi lên miền Bắc.
Bọn xtreletz xắn tay áo lên, lại lớn tiếng hò hét. Opsey Rezov cầm gươm gõ mạnh, nghiến răng rít lên:
- Thời cơ đến, chúng ta sẽ thanh toán tụi đại tá! Xong rồi mới đến lượt bọn quý tộc... Chúng ta sẽ kéo chuông báo động khắp thành Moskva. Tất cả ngoại ô đều theo chúng ta. Nhưng các vị thương gia, các vị hãy ủng hộ chúng tôi! Nào, các anh em, khiêng hắn lên, chúng ta đi nào...
Bọn xtreletz nắm lấy gã bị đòn, gã này cất tiếng la om lên đầu lắc lư:
- Trời ôi, người ta giết tôi... ôi... ôi.
Đẩy mọi người lùi lại, họ kéo gã ra khỏi quán rượu, đi đến Hồng trường để cho công chúng trông thấy. Bọn nhà buôn phân vân ở lại trong quán. Hỏng, hỏng bét! Làm gì bây giờ? Liên kết với bọn xtreletz ư? Chúng là những đứa khố rách áo ôm, chúng chẳng có gì mà mất cả... Không liên kết với chúng chăng? Bọn quý tộc sẽ ăn thịt họ ngay.

Chương 11

Lần đó, sau giờ đọc kinh buổi chiều, Alexaska bị một trận đòn tàn nhẫn: nó phải cực nhọc mới lê được về tầng nhà dưới cùng. Nghiến răng, không thốt nửa lời, nó kéo chăn lên đắp kín người. Alioska mang một ít cháo hòa sữa lại cho nó ăn trên bếp lò. Alioska thương hại nó vô cùng:
- Chao ôi, anh bạn tội nghiệp, người ta hành hạ cậu tệ quá!
Alexaska nằm lì suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ ở chỗ ấm áp nhất, ngay cạnh ống khói bếp lò. Nó thấy trong người dễ chịu, lại mở miệng nói:
- Một ông bố như thế, phải đem ra mà đánh róc xác cho chết đi, cái đồ quái vật độc ác ấy! Alioska, cậu lấy trộm ít dầu thắp đèn cho tớ, chai dầu để ở phía sau những tranh thánh ấy! Tớ sẽ bôi dầu lên hai mông đít. Sáng mai vết thương ở mông sẽ khô, ta sẽ chuồn thẳng... Tớ sẽ không trở về nhà nữa, thà chết đường chết chợ còn hơn.
Suốt đêm, bên ngoài bức tường dựng bằng những súc gỗ tròn, trời nổi bão dữ dội, tiếng ma quỷ hú lên từng hồi trong ống khói bếp lò. Đứa con gái chị nấu bếp khóc thút thít. Alioska nằm mơ thấy mẹ nó đứng giữa căn nhà gỗ ám khói, khóc sướt mướt mà mắt vẫn mở trừng, luôn luôn đưa tay lên ôm lấy đầu, miệng than vãn không ngớt... Trong giấc mơ, lòng Alioska se lại. Trời vừa hửng sáng, Alexaska đã huých khuỷu tay vào người Alioska gọi:
- Thôi, không ngủ nữa, dậy đi cậu.
Hai đứa trẻ vừa gãi, vừa cẩn thận xỏ chân vào ủng. Tìm thấy nửa chiếc bánh mì to chúng vớ luôn lấy, huýt sáo gọi cho chó khỏi sủa rồi mở phía dưới cổng lọt ra đường. Buổi sáng hôm ấy yên tĩnh, bầu trời âm u, ẩm ướt. Băng nhũ đọng ở gờ mái nhà rơi lộp bộp. Phố xá lát bằng gỗ tròn ngoằn ngoèo, tối om. Xa xa phía bên kia cái thành phố toàn nhà bằng gỗ, ánh bình minh toả ra, gần gũi, thành từng vệt dài đỏ như tiết, ẩn hiện trong sương mù. Trong các phố, bọn người canh đêm đang uể oải dẹp những hàng rào chắn đặt ban đêm để đề phòng bọn vô lại trộm cướp. Bọn ăn mày, bọn người tàn tật, bọn dở người đang vừa đi vừa chửi bới lẫn nhau. Họ ra đi thật sớm để chiếm chỗ trên thềm các nhà thờ. Trong phố Vozvizenka đầy phân súc vật, người ta đang dẫn bầy súc vật sống om sòm ra sông Neglinnaia cho chúng uống nước. Hai chú bé đi tới tháp tròn ở cửa ô Boroviskie cùng một lúc với bầy súc vật. Một gã ngự lâm pháo thủ người Đức, mặc áo khoác lông cừu, ngủ gà ngủ gật trước những khẩu đại bác bằng gang.
- Ở đây, đi đứng phải thận trọng, Sa hoàng không xa đâu, - Alexaska nói.
Men theo bờ sông dốc, đầy những đống rác rưởi tro tàn của con sông Neglinnaia, chúng đi tới cầu Ivecski rồi sang cầu. Giờ thì trời đã sáng bạch. Phía trên thành phố, những đám mây xám đang lững lờ trôi. Một cái hào sâu chạy theo dọc tường điện Kreml. Những chiếc cọc mục nát nổi lềnh bềnh đâu đó, tàn tích của những chiếc cối xay gió mới bị phá hủy. Trên bờ hào sừng sững mấy chiếc giá treo cổ, mỗi giá là hai cái cột trên đặt một thanh xà ngang. Ở một giá xử giảo lủng lẳng một người đàn ông dài thườn thượt, chân đi ủng gai, tay bị trói giật cánh khuỷu. Cái mặt cúi gập xuống ngực đã bị quạ rỉa.
- Kìa, lại hai người nữa, - Alexaska nói, dưới đáy hào, ngổn ngang xác chết tuyết vùi gần kín. - Bọn kẻ cướp đấy, cậu xem người ta trừng trị chúng như thế nào!
Quảng trường vắng ngắt, từ chỗ nhà thờ nhỏ Ivecskaia cho đến nhà thờ lớn thánh Bazil quét vôi trắng toát với những nóc tròn màu lam, dựng trên một nền nhà cũng màu lam. Vệt xe trượt tuyết lượn ngoằn ngoèo trên quảng trường cho đến tận cửa ô Xpaskie. Dựng trên cửa ô là con chim ưng bằng vàng đứng dạng hai chân; một đàn quạ đen nghịt bay lượn kêu ầm ĩ hoảng loạn như chúng thường kêu về mùa xuân. Khi kim đồng hồ chỉ tám giờ trên cái mặt đồng hồ đen, chuông đồng hồ nổi lên một điệu nhạc nước ngoài. Alioska vội vàng bỏ mũ lông ra và làm dấu thánh giá, mắt nhìn vào tháp. Ở đây, nó thấy sợ.
- Này Alexaska, chuồn đi thôi, họ có thể trông thấy bọn mình.
- Đi với tớ, cậu không phải sợ gì cả, ngốc ạ.
Chúng đi qua quảng trường. Ở phía bên kia, những cửa hiệu và quán hàng ghép bằng ván, những cửa hàng nhỏ quây chiếu vỏ gai, dựng xít vào nhau. Đám nhà buôn mở khóa cửa, bày hàng lên trên những con sào. Trong dãy những cửa hàng bánh mì, khói từ bếp lò bốc lên nghi ngút, tỏa ra mùi bánh nướng thơm phức. Từ khắp các ngõ hẻm lân cận, dân chúng ùn ùn kéo đến. Dù có người nện vào gáy Alexaska hay nguyền rủa nó, nó cũng mặc, miễn sao chỗ nào nó cũng gí được mũi vào một tí. Len lỏi trong đám người đông đúc, nó đến tận các cửa hiệu, bắt chuyện với nhà buôn, hỏi han giá cả, bông phèng. Alioska miệng há hốc, phải chặt vật lắm mới đi theo được nó. Trông thấy một bà to béo, mặc áo khoác dạ, đầu đội mũ lông cáo chùm lên chiếc khăn quàng, Alexaska bèn kéo lê chân, toàn thân run rẩy, lắp bắp nói:
- Bẩm bà... à... à... cao quý, xin... in... in bà làm... àm... phúc... úc cho một đứa trẻ mồ... ồ ồ... côi... ôi... khốn... ốn... khổ... ổ đang chết... ết... đo... ói...
Mụ lái buôn góa chồng, vén váy, móc ví đeo ở bụng lấy ra hai đồng nửa kopeik cho Alexaska rồi nghiêm mặt làm dấu. Hai chú bé liền chạy đi mua bánh chả và uống rượu mật ong hòa gia vị nóng hổi.
- Tớ đã bảo cậu mà, đi với tớ, không có sợ gì cả mà! - Alexaska nói.
Người vẫn ùn ùn kéo đến. Có người đến để nhìn thiên hạ và hóng chuyện người ta bàn tán, kẻ thì đến để trưng quần áo mới và lại có những kẻ đến để hễ có gì sơ hở là khoắng ngay một mẻ. Trong một ngõ hẻm, tóc vụn rải rác trên tuyết như một bức thảm dạ, đám thợ cạo bập kéo lách cách gọi khách. Một gã thợ cạo để khách hàng ngồi lên một súc gỗ cắm xuống tuyết rồi chụp lên đầu khách một cái nồi đất, lấy kéo cắt chỗ tóc thò ra khỏi miệng nồi. Ồn ào nhất là dãy hàng tạp hóa. Ô đây, những mụ đàn bà lắm lời, gào lên như có đám cháy trong khi mua bán kim, chỉ, khuy, mọi thứ lặt vặt. Alioska sợ lạc nên tay không rời thắt lưng Alexaska. Khi chúng trở lại quảng trường thì có một người đàn ông chạy qua, miệng kêu cái gì không rõ. Một đám người dầy đặc từ phố Vavacka tiến lại, tiếng hú, tiếng còi nhức óc.
Bọn xtreletz giơ thẳng tay lên, khiêng người bị đánh. Giọng đầy nước mắt, họ quay về các ngả hét to lên:
- Hỡi các đạo hữu chính thống! Các bạn hãy nhìn xem chúng hành hạ người bán hàng này như thế nào...
Người ta đặt kẻ bị thương vào một chiếc xe trượt tuyết đã tháo ngựa. Gã xtreletz Opsey Rezov trèo lên xe, rồi lặp lại cái luận điệu cũ của gã - Gã nói:
- Bọn Đức điên cuồng như lũ chó dại đã đánh đập gần chết một người buôn bán hiền lành và bọn quý tộc quyền thế sắp sửa dâng cả thành phố Moskva cho bọn ngoại quốc muốn làm gì thì làm!
Alexaska và Alioska len lỏi đến tận chỗ chiếc xe. Alioska ngồi thụp xuống, bỗng nhận ra ngay người bị đánh là bác bán hàng béo có cặp mắt ti hí, đội mũ lông thỏ rừng đã bán cho nó hai cái bánh chả ở quảng trường Lubianka. Hắn sặc sụa mùi rượu vodka và rên rỉ mãi đã mệt nhoài. Hắn nằm nghiêng người, úp mặt vào rơm, khẽ lải nhải:
- Ôi, ôi, hãy vì Chúa để cho tôi đi, đừng giữ tôi ở đây!
Opsey Rezov làm dấu thánh giá, rồi hướng về phía các nhà thờ và đám cử tọa, nghiêng mình chào. Trong đám đông có tiếng bọn xtreletz xì xào. Cơn phẫn nộ mỗi lúc một tăng. Bỗng có tiếng hô: “Họ kia rồi, họ kia rồi”. Từ cửa ô Xpaskie, trên vết đường do xe trượt tuyết để lại, hay kỵ sĩ phi ngựa tới. Người thứ nhất mặc áo dài của quân xtreletz màu vỏ quýt, đầu đội mũ lông lệch xuống mang tai một cách ngang tàng. Thanh gươm cong nạm kim cương đập vào chiếc chăn nhung trùm mông ngựa. Không hề kìm ngựa chậm lại, người đó bỏ dây cương mặc ngựa lao vào đám đông. Nhiều người hoảng sợ, giơ tay nắm dây cương giữ ngựa lại. Người kỵ sĩ quay phắt đầu lại, để lộ hàm răng thưa vàng khè. Người đó trán rộng, mắt sâu và râu cứng. Đó là Yararui, biệt hiệu của dân Moskva đặt cho lão vương hầu Ivan Andreevich Khovanski, một tên tổng trấn, dòng dõi quý tộc quyền thế lâu đời và kẻ thù bất cộng đái thiên với họ Narytskin dòng dõi tầm thường. Thấy lão mặc áo dài của trung đoàn họ, đám xtreletz kêu lên:
- Đức ông đứng về phe chúng ta, Ivan Andreevich đứng về phe chúng ta.
Rồi họ chạy vội về phía lão. Người kỵ sĩ thứ hai tới chậm hơn là Vaxili Vaxilievich Golixyn. Hắn vừa vỗ về cổ ngựa vừa hỏi:
- Hỡi các đạo hữu chính thống, anh em làm loạn à? Ai đã làm gì thiệt hại đến anh em? Và về vấn đề gì? Nói đi, chúng ta suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến lợi ích của dân thôi. Ở trên kia. Sa hoàng đã trông thấy các anh em, nhưng vì Sa hoàng còn nhỏ nên ngài sợ và phái chúng ta ra xem sự thể ra sao.
Đám đông mồm há hốc, ngắm nghía chiếc áo khoác bằng gấm của hắn - với giá tiền chiếc áo khoác nầy, người ta có thể mua được nửa thành phố Moskva, họ ngắm nghía những chiếc nhẫn có nạm ngọc đeo trên mấy ngón tay đang vuốt ve con ngựa. Mấy chiếc nhẫn lóe ra muôn vàn ánh sáng. Đám đông lùi lại không trả lời. Vaxili Vaxilievich cười, thúc ngựa tiến lên đứng song song sát bên ngựa Khovanski. Bọn xtreletz kêu với Vaxili Vaxilievich:
- Đức ông hãy giao bọn đại tá cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ đem chúng ra xử lấy: treo đầu chúng trên đỉnh một tháp chuông. Những vị quý tộc quyền thế ở trên ấy nghĩ gì? Tại sao họ lại buộc chúng tôi phải chấp nhận một đứa bé con, cái thằng nhãi nhép của nhà Narytskin làm Sa hoàng?
Khovanski đưa mép bao tay vuốt bộ ria hoa râm của lão. Lão giơ tay lên. Mọi người im lặng.
- Hỡi quân xtreletz! - Lão nhổm người trên yên ngựa. Mặt đỏ tía tai, lão cất cái giọng ồ ồ cố nói thật to để cho những người đứng xa nhất cũng nghe rõ - Hỡi quân xtreletz, bây giờ chính bản thân các ngươi đã thấy được cái ách không sao chịu nổi mà bọn quý tộc quyền thế đè lên đầu lên cổ các ngươi. Bây giờ bọn chúng đã chọn, có Chúa biết được, một Sa hoàng như thế nào. Không phải ta đã tôn Sa hoàng đó lên ngôi. Rồi đây các ngươi sẽ thấy: không những chúng sẽ không trả lương cho các ngươi mà còn chẳng cho các ngươi có gì mà ăn nữa. Rồi các ngươi sẽ phải làm như tụi nông nô. Rồi con cháu các ngươi sẽ suốt đời làm nông nô cho nhà Narytskin. Hơn thế nữa... chúng sẽ bán các ngươi, chúng sẽ bán tất cả chúng ta cho bọn ngoại quốc... Chúng sẽ phá hủy Moskva và đạo Chính thống... Sức mạnh của người Nga xưa kia, nay đâu rồi, hở các bạn?
Nghe đến đấy, đám đông gào thét một cách kinh khủng đến nỗi Alioska đâm hoảng:
- Thôi chết rồi, họ sắp sửa dẫm bọn mình chết bẹp mất!
Alexaska Melsikov nhảy từ chiếc xe này sang chiếc xe khác, đút hai ngón tay vào miệng huýt sáo. Người ta chỉ nghe thấy tiếng nói của Yararui đang gân cổ gào lên:
- Hỡi quân xtreletz, hãy tiến lên! Chúng ta hãy qua sông đến chỗ các trung đoàn đóng quân bên đó rồi ta sẽ bàn tính sau.

Chương 12

Trên quảng trường chỉ còn lại chiếc xe trượt tuyết đã tháo ngựa. Alioska và Alexaska. Người bán bánh bị đòn nhổm dậy, hé cặp mắt sưng vù nhìn quanh rồi xỉ mũi một hồi lâu.
- Bác ơi, - Alexaska vừa nói với bác bán bánh, vừa nháy mắt với Alioska, - chúng cháu xin dẫn bác về đến tận nhà, chúng cháu thương bác quá.
Người bán bánh vẫn chưa hoàn hồn. Hai đứa bé dìu hắn, hắn loạng choạng bước đi miệng lẩm bẩm. Bỗng hắn đẩy bọn trẻ ra rồi quát: “Đứng lại!”. Hắn hăm dọa ai không rõ, đôi ủng dạ to sù dậm thình thịch. Cả bọn qua sông đi về phía cửa ô Serpukhovskie. Dọc đường bác bán bánh nói cho lũ trẻ biết tên mình là Feka Zaiatz. Nhà hắn ở ngoại thành, không lấy gì làm to. Trên mảnh đất rào kín của hắn mọc độc một cây to trên có nhiều tổ quạ nhưng cái cổng ra vào và cái nhà gỗ thì mới làm. Zaiatz vui mừng khi trông thấy nơi ăn chốn ở của mình.
- Kia rồi, những chiếc bánh chả bé nhỏ và những chiếc bánh sừng bò của ta kia rồi, những chiếc bánh nướng nhân mật ong xinh xẻo của ta, chúng sẽ cứu ta.
Một người đàn bà mặt rỗ, mắt chột, ra mở cái cửa con. Zaiatz đẩy mụ ra, Alexaska và Alioska lỏn theo sau hắn. Zaiatz định đuổi chúng đi:
- Chúng mày đi đâu? Vào làm gì?
Nhưng rồi hắn khoát tay tỏ vẻ mặc kệ và bước vào nhà. Hắn ngồi xuống một cái bục trên rải chiếu mới dệt bằng vỏ gai, và bắt đầu chú ý xem xét thân hình mình. Quần áo hắn rách bươm. Hắn lắc đầu lia lịa rồi khóc ròng:
- Chúng nó đánh tôi nhừ tử, - hắn nói với người đàn bà chột. - Đứa nào đánh, và vì cớ gì tôi cũng không nhớ. Đưa quần áo đây cho tôi thay!
Bỗng hắn hét lên, tay đập đen đét xuống bục:
- Đi đốt lò tắm hơi đi, tao bảo mày đấy, con chó cái chột kia!
Người đàn bà sụt sịt đi ra. Hai thằng bé nép vào cái bếp lò chiếm nửa căn nhà gỗ, Zaiatz nói:
- Này các cháu đã cứu bác. Bây giờ các cháu muốn xin gì bác cũng được! Người bác đau như giần. Chúng nó đánh bác gẫy xương sườn rồi. Bây giờ bác làm thế nào mà mang được cái mẹt bán bánh nướng nữa? Chao ôi! Thật là tai vạ... Vậy mà vẫn phải làm, vẫn phải tiếp tục đi bán hàng...
Alexaska một lần nữa lại đưa mắt nháy Alioska:
- Chúng cháu không cần lấy thưởng, - nó nói, - nhưng bác cho chúng cháu ngủ lại nhà bác đêm nay.
Khi Zaiatz tập tễnh đi vào buồng tắm hơi, hai đứa bé trèo lên cái ổ trên lò.
- Ngày mai, chúng mình sẽ đi bán bánh chả thay lão ta, - Alexaska thì thầm - Tớ đã bảo cậu là đi với tớ cậu không việc gì mà sợ cả mà.
Sáng sớm tinh sương, người đàn bà chột đem bỏ lò nướng đủ loại bánh chả; có loại bánh ngọt nhân củ cải, đậu hột hay nấm muối, có những loại bánh mặn nhân thịt thỏ rừng, thịt bò hay nhồi mì. Feka Zaiatz nằm rên rỉ trên bục, mình đắp cái áo lông. Hắn không sao cử động chân tay được. Alexaska quét nhà, chạy ra sân xách nước, vác củi vào, đổ tro, đổ nước rửa bát. Nó làm mọi việc nhanh như chớp, vừa làm vừa bông đùa; theo lời nó bảo, Alioska cho gia súc của Zaiatz uống nước.
- Mày tháo vát đấy, - Zaiatz rền rĩ - chà, tao cũng muốn để mày mang bánh chả ra chợ bán, nhưng bán được bao nhiêu mày sẽ cuỗm rồi chuồn thẳng, mày sẽ ăn cắp của tao mất thôi! Chú mày láu cá lắm.
Alexaska liền hôn chiếc thánh giá đeo ở cổ là kỷ niệm ngày lễ rửa tội rồi thề rằng nó sẽ không ăn cắp chỗ tiền ấy. Nó tháo ở tường ra một bức tranh vẽ bốn mươi vị thánh rồi ghé miệng hôn. Đến thế thì Zaiatz cũng đành phải tin nó. Người đàn bà bày hai trăm cái bánh chả lên hai cái mẹt, trên phủ một mảnh vải cũ. Alexaska và Alioska mỗi đứa đeo một cái tạp dề, nhét đôi bao tay vào thắt lưng rồi mang mẹt bánh ra đi.
- Ai mua bánh chả nhân mật ong nóng sốt, nửa xu một đôi không? Bánh chả vừa mới ở lò ra ngày hôm nay đây, - Alexaska cất tiếng rao lanh lảnh, mắt nhìn người qua đường. - Ai mua bánh chả nào, ai mua nào, lại đây mua bánh chả đi!
Trông thấy một toán xtreletz đang dừng chân nghỉ, nó nhón chân nhảy một điệu múa, miệng rao to:
- Ai mua bánh chả lại đây mà mua! Bánh chả của Sa hoàng, của các vị đại thần đây. Ở điện Kreml tôi đã bán nhiều rồi nhưng họ giã tôi một trận nên thân, nhà Narytskin đã ăn bánh này và đã bị té re.
Bọn xtreletz cười rộ tranh nhau mua bánh. Alioska cũng ba hoa rao hàng. Hai đứa đi chưa tới sông đã phải quay về lấy mẻ bánh khác.
- Chính Chúa đã run rủi các cháu đến đây, - Zaiatz ngạc nhiên nói.

Chương 13

Đã hơn hai tuần nay, Mikhail Tyktov lang thang trong thành phố Moskva, không có việc làm mà cũng chẳng có tiền. Hôm trước, ở quảng trường Lubianka, bọn thơ lại đã chế giễu hắn. Họ đã không cho hắn một tấc đất, một tên nông nô nào. Lão vương hầu Romodanovski đã chửi mắng hắn tàn nhẫn làm cho hắn xấu hổ chín cả người. Lão truyền cho hắn năm sau phải trở lại nhưng phải cưỡi ngựa tốt mà đến cho đúng phép. Mikhail rời quảng trường Lubianka đến một quán rượu để ngủ trọ đêm. Dọc đường, hắn gặp anh hắn và người anh lại nhiếc móc sự nhục nhã của hắn rồi lấy lại con ngựa thiến nhưng quên không lấy lại thanh gươm cùng chiếc đai đeo gươm bằng lụa kẻ sọc trên có đính những miếng bạc của ông cha họ để lại. Ngay tối hôm đó, Mikhail chếnh choáng rượu vodka ngâm tỏi, gán phăng cả gươm lẫn đai cho người chủ quán. Có hai gã người Moskva, láu lỉnh, bám chặt lấy Mikhail: một gã tự xưng là con nhà buôn, còn gã kia nói mình là thơ lại: kỳ thực chúng chỉ là những kẻ suốt ngày la cà nơi trà đình tửu điếm, chúng thi nhau tán dương tài ba của Mikhail, hôn lên môi hắn, hứa hẹn với hắn mọi thứ vui thú. Mikhail ăn chơi với bọn chúng liền một tuần. Chúng kéo xuống cái hầm nhỏ của một tên Hy Lạp rồi cùng nhau hút thuốc lá nhồi trong sừng bò cái đổ đầy nước; bọn chúng hút cho đến lúc say tê mê chẳng còn biết trời đất gì nữa: đủ mọi thứ hiện tượng ma quái, hình ảnh khoái trá, rùng rợn hiện lên trước mắt chúng... Chúng lại dẫn hắn đến những nhà tắm mà Sa hoàng cho dựng ở bờ sông Moskva để dân chúng dùng; bọn chúng đến đó cốt không phải để tắm hơi nước mà để nhìn và phá lên cười khi có đàn bà trần truồng từ đám hơi nước mù mịt đi ra phòng thay quần áo công cộng tay cầm cái chổi con tết bằng cành phong để che người. Cái đó đối với Mikhail cũng có vẻ huyền ảo như khi hắn say trong làn khói thuốc lá. Chúng lại định kéo hắn đến nhà một mụ cô đầu. Nhưng Mikhail hãy còn rất trẻ, sợ không dám đụng đến quả cấm. Hắn nhớ lại cha hắn, sau giờ đọc kinh chiều, thường lấy ngón tay gạt bấc nến, mở một cuốn sách cổ bọc da có móc cài bằng đồng, giở đến trang góc nhầy mỡ, rồi đọc lên những lời nói về đàn bà. “Đàn bà là gì? Một màng lưới cám dỗ để quyến rũ đàn ông. Mặt mày sáng sủa, nó hết nháy cặp mắt to lại uốn éo bộ đùi khêu gợi và nhóm một ngọn lửa ma quỷ nóng ran khắp tứ chi. Đàn bà là gì? Là sào huyệt của rắn độc, là một bệnh hoạn, là cái chảo của Ma vương, là một cơn thịnh nộ không mục đích, một sự cám dỗ xảo quyệt, một sự vuốt ve của quỷ...”.
Như vậy thì làm sao mà chẳng khiếp sợ! Một hôm, chúng lại dẫn hắn vào một quán rượu ở cửa ô Pokrovskoi. Cả bọn vừa ngồi xuống thì từ phía sau cái chiếu dệt bằng vỏ gai dùng làm màn che, một người con gái béo lùn, đầu bù tóc rối nhảy ra: cặp lông mày ả tô đen xì từ chân mũi ra tận thái dương, hai con mắt ả tròn xoe, tai dài, má tím bầm, dính nhoe nhoét nước củ cải đỏ. Ả vứt bỏ cái chăn làm bằng nhiều miếng vải sặc sỡ quấn quanh người, rồi trần truồng, núng nính, trắng hếu, ả nhảy múa trước mặt Mikhail, chìa tay này rồi tay kia ra mời Mikhail - đôi bàn tay đầy nhẫn và vòng đồng kêu loong coong. Thân hình trần truồng, ghê tởm của ả làm Mikhail kinh sợ, trông ả như quỷ cái... Người ả tỏa ra mùi mồ hôi nồng nặc, hơi thở sặc sụa mùi rượu vodka... Bỗng Mikhail đứng phắt dậy, tóc dựng ngươc trên đầu, hắn thét lên một tiếng man rợ, giơ tay toan đánh người con gái rồi đâm bổ ra ngoài. Ánh tà dương màu vàng mùa xuân đang nhạt dần ở tít đầu con đường phố yên tĩnh. Không khí làm người ta ngây ngất như men rượu. Lớp băng mỏng phủ trên những vũng nước vỡ răng rắc dưới gót ủng. Đằng sau ngọn tháp màu chàm của pháo đài, trên đỉnh có cắm một lá cờ con bằng sắt, vầng trăng đỏ như đồng điếu nhô lên từ phía sau cái nóc tháp nhọn hoắc và chiếu thẳng vào mặt Mikhail. Hắn hoảng sợ... Hai hàm răng lập cập, hắn cảm thấy ngực lạnh toát. Cửa quán rượu kẹt mở và trên thềm, người con gái lúc nãy hiện ra như một cái bóng trắng lốp, giương mắt ngơ ngác hỏi:
- Sợ gì vậy, quay lại đây, mình.
Khiếp sợ đến phát điên lên được, Mikhail chạy trốn. Chẳng bao lâu hắn hết nhẵn tiền. Hai gã kia bỏ hắn, Mikhail luyến tiếc nhớ lại tất cả những thứ hắn đã ăn, đã uống, tất cả những cái hắn đã nhìn thấy mà không đụng chạm tới, đi lang thang hết nhà này qua nhà khác. Trở về nhà với bố ở nông thôn, thì hắn chẳng dám nghĩ đến. Sau cùng hắn nhớ đến người bạn cùng lứa tuổi, Xtiovka Odoievski, con người bố đỡ đầu của hắn, và đến gõ cửa nhà anh ta. Bọn gia nhân - đứa nào trông cũng như kẻ cướp - tiếp hắn chẳng niềm nở chút nào. Một đứa bợp lấy chiếc mũ lông của hắn, quát lên:
- Làm sao bước lên thềm mà lại không bỏ mũ ra là thế nào?
Tuy nhiên, hậm họe xong chúng cũng để cho hắn vào. Trong phòng đợi rộng rãi, ấm áp, ghế phủ da thú, một gã thiếu niên đẹp như tranh, mình mặc áo lót lụa, chân đi ủng ngắn da dê tuyệt đẹp, ra tiếp hắn. Hắn vừa trâng tráo nhìn Mikhail vừa hỏi với một giọng ngọt ngào:
- Anh đến gặp đức ông có việc gì?
- Anh nói với Xtepan Xemionyts rằng có người bạn Mitska Tyktov xin kính chào.
- Để tôi trình với đức ông! - gã thiếu niên đáp lại, giọng như hát, rồi hất mớ tóc quăn óng ả như tơ, đi ra với một dáng điệu uể oải.
Mikhail phải ngồi đợi. Nghèo thì phải nhũn vậy. Gã thiếu niên trở ra giơ tay vẫy khách mời vào. Mikhail bước vào căn phòng trần xây cuốn. Hắn hoảng sợ, giơ tay làm dấu thánh giá lia lịa, mắt nhìn về góc phòng có treo tranh liệt thánh sau một bức màn gấm thêu ren bằng kim tuyến. Hắn đưa mắt liếc quanh.
- À ra bọn nhà giàu sống như thế nầy đây. Xa hoa biết là nhường nào. Tường căng toàn nhung. Trên sàn trải những tấm thảm to nhỏ, sặc sỡ. Mấy chiếc ghế dài đều có vỏ nhung bọc ngoài. Trên bậu cửa sổ có phủ khăn đính ngọc trai quý. Kê sát tường là mấy chiếc hòm và tủ phủ lụa và nhung.
Xưa nay, Mikhail chưa hề dám tơ tưởng có được một chiếc áo khoác hay một chiếc áo choàng may bằng bất cứ thứ hàng nào trong những loại vỏ bọc đó. Đối diện với mấy khuôn cửa sổ là một cái tháp nhỏ bằng gỗ bên trong để một chiếc đồng hồ quả lắc và trên có bày một con voi bằng đồng đỏ.
- A, chào Mitsa! - Xtiovka Odoievski đứng ờ ngưỡng cửa nói.
Mikhail lại gần hẳn và cúi rạp đầu chào, mấy ngón tay phải chạm xuống thảm. Xtiovka gật đầu đáp lại. Tuy nhiên, hắn chìa bàn tay ướt nhơm nhớp ra để Mikhail bắt, như đối xử với con một nhà quý tộc chứ không phải như với một kẻ nông nô.
- Mời anh ngồi, hôm nay anh là khách của tôi.
Nói xong, hắn ngồi xuống trước, vung vẩy cái gậy cầm tay; Mikhail ngồi xuống sau. Đầu Xtiovka cạo trọc lốc đội một cái mũ tròn có dát ngọc. Trán hắn dô không có lông mày, mi mắt mọng đỏ, mũi hơi lệch, cái cằm nhỏ lún phún, lông tơ. “Chỉ khẽ búng một cái là thằng nhãi ranh nầy gẫy ngay xương sống, ấy thế mà nó giàu quá thể”, Mikhail tự nhủ thầm.
Giọng khúm núm đúng với kẻ nghèo hèn, Mikhail kể lể những nỗi đắng cay của hắn và cảnh khốn cùng đã đầu độc quãng đời thanh niên của hắn.
- Xtepan Xemionyts, hãy vì Chúa, chỉ bảo cho tôi, kẻ tôi đòi của anh, tôi đi đâu bây giờ được? Tôi chỉ có cách là đi tu hay mang gậy ra chặn đường ăn cướp mà thôi.
Nghe đến đó, Xtiovka ngửa phắt đầu tựa vào tường, cặp mắt lồi mờ đi. Nhưng Mikhail không động cựa, làm như thể chỉ vì ngu dốt mà nói đến gậy gộc.
- Xtepan Xemionyts, tôi không sao chịu nổi cảnh khốn quẫn đáng nguyền rủa này nữa.
Cả hai người ngồi yên lặng một lúc. Mikhail khẽ thở dài một cách lễ phép. Một nụ cười gằn nở trên môi, Xtiovka lấy đầu gậy vạch theo hình một con quái vật có cánh dệt trên tấm thảm.
- Mitsa, anh muốn tôi khuyên bảo gì? Đối với kẻ ranh mãnh thì có vô số cách nhưng đối với những kẻ ngu dại chỉ có bị gậy, tù đày mà thôi. Đây này, như Volotka Tsemodanov chẳng hạn, hắn kiện nhau với lão láng giềng và được kiện, lấy của lão ta hai cái làng màu mỡ. Leonti Puxtoroxlev thì vừa đây cũng nhờ kiện cáo mà cướp được của nhà Sizov ở Moskva cả một dinh cơ.
- Tôi cũng cơ nghe thấy nói đến và rất lấy làm ngạc nhiên về những việc đó. Nhưng làm thế nào để được kiện? Đâu có phải chuyện dễ!
- Anh chọn lấy một làng nào đó rồi cứ vu khống bừa tên chủ đất. Ai cũng làm thế cả.
- Vu khống nghĩa là thế nào?
- Thế này này: bỏ một kopeik ra mua giấy và mực của gã viết thuê rồi thảo một bức thư tố giác...
- Nhưng vu khống người ta cái gì? Tố giác người ta cái gì?
- Anh ngây thơ quá, hãy còn trẻ con lắm, Mitsa ạ. Đây này, Liovka Puxtoroxlev chẳng hạn, hắn đến nhà lão Sizov để ăn mừng sinh nhật của lão. Hắn uống rượu thì ít mà chú ý nghe thì nhiều và nếu cần thì cũng gật gù tỏ vẻ tán thành. Thế rồi lão Sizov đang ngồi ăn bỗng buột mồm nói: “Cầu Chúa ban sức khỏe cho Sa hoàng Fedor Alekseevich cao cả của chúng ta vì họ đồn Người sẽ băng hà trước khi hết tuần chay. Họ nói rằng đêm qua ở điện Kreml có một con gà mái đã gáy gở...”. Puxtoroxlev không để lỡ cơ hội. Hắn đứng phắt lên quát: “Lời nói và việc làm!”. Thế là họ tóm hết cả khách lẫn lão chủ nhà mà hôm đó là ngày sinh nhật, điệu cả bọn về Bộ mật vụ. Puxtoroxlev khai: “Sizov đã nói thế này thế nọ, những lời xúc phạm đến Sa hoàng của chúng ta”. Họ đã vặn ngươc cả hai cánh tay Sizov ra đằng sau rồi buộc dây thừng kéo tít lên trên cột nhục hình. Chỉ vì một con gà mái gáy gở, người ta đã dựng lên cả một chuyện tày đình. Vì có công với Sa hoàng, Puxtoroxlev được cấp chỗ đất đai của Sizov còn Sizov thì bị đi đầy chung thân ở Siberi. Đấy bọn khôn ngoan làm ăn như vậy đấy... - Xtiovka người cặp mắt lờ đờ như mắt cá nhìn Mikhail không chớp - Volotka Tsemodanov lại còn hành động đơn giản hơn thế nữa: hắn đã tố giác lão láng giềng nói rằng lão này định ám sát hắn trong sân nhà hắn; hắn có hứa cho bọn thơ lại về hùa với hắn một phần ba số của cải sẽ cướp đoạt được. Lão láng giềng phải đem dâng chỗ của cải cuối cùng của mình mới thoát được thân trong vụ kiện đó, và lấy thế làm may mắn lắm rồi.
Mikhail suy nghĩ và cuối cùng nói, tay mân mê chiếc mũ lông:
- Kiếm cớ để thưa kiện người ta thì tôi không có kinh nghiệm, Xtepan Xemionyts ạ.
- Nếu anh có kinh nghiệm thì tôi đã chẳng phải dạy anh (Xtiovka cất tiếng cười một cách bỉ ổi đến nỗi Mikhail trông thấy hàm răng chuột sâu rỗng của hắn, co rúm người lại). Muốn kiện người ta, phải có kinh nghiệm... Nếu không chính mình lại có thể bị treo lên cột nhục hình như chơi... Như thế này, Mitsa ạ: đừng có đụng vào người có quyền thế, cứ nhằm kẻ yếu mà đánh. Như anh chẳng hạn, anh đã đến gặp tôi mà không sợ...
- Xtepan Xemionyts anh nói gì, sao - không sợ... là thế nào...
- Anh im đi. Anh phải biết cách ngồi im mà nghe... Tôi trò chuyện nhã nhặn với anh. Nhưng anh có biết ở chỗ khác thì sao không? Anh cứ thử tướng tượng là tôi đang ngồi buồn không biết làm gì. Tôi vỗ tay ra hiệu... Bọn gia nhân của tôi chạy đến... Tôi bảo chúng: chúng mày làm trò cho tao vui đi... Chúng sẽ nắm ngay lấy đôi bàn tay trắng muốt của anh, kéo anh ra ngoài sân, rồi vờn với anh như mèo vờn chuột - Hắn lại cười, chỉ riêng có cái miệng hắn cười, còn cặp mắt vẫn đờ đẫn như mắt người chết. - Anh đừng sợ, từ sáng đến giờ được cái may là tôi đang thích bỡn cợt.
Mikhail thận trọng đứng dậy xin phép ra về. Xtiovka lấy đầu gậy chọc vào người hắn bắt hắn ngồi xuống.
- Xtepan Xemionyst, xin anh thứ lỗi cho tôi nếu tôi có nói điều gì sơ suất...
- Ngươi chẳng có điều gì sơ suất cả, nhưng về cấp bậc, địa vị, dòng dõi mà nói, nhà ngươi táo tợn quá đấy. - Xtiovka đáp lại, vẻ mặt nghiêm nghị lạnh như tiền. - Nhưng thôi, Chúa sẽ tha thứ cho ngươi. Lần sau, hãy đợi ta ở phòng đợi và nếu người ta mời ngươi vào phòng khách, ngươi phải từ chối, nhất định không vào. Nếu ta ép ngươi ngồi, ngươi cứ đứng. Và ngươi không được cúi rạp xuống chào ta mà phải phủ phục xuống chân ta.
Hai lỗ mũi Mikhail phập phồng, tuy nhiên hắn tự trấn tĩnh được và khúm núm cảm ơn những lời dạy bảo. Xtiovka ngáp và đưa tay lên miệng làm dấu thánh giá.
- Xét ra cần phải giúp đỡ ngươi trong tình cảnh khốn quẫn, cái đó cần. Ta đang có điều lo nghĩ... ít ra thì ngươi cũng biết giữ mồm giữ miệng đấy chứ? Được, tốt lắm, ta thấy ngươi là một gã thông minh đấy. Ngồi dịch lại gần đây.
Hắn gõ đầu gậy xuống sàn; Mikhail vội vàng ngồi sát lại gần hắn. Xtiovka chăm chú nhìn Mikhail.
- Ngươi trọ ở đâu? Trong một quán rượu à? Đến nhà ta mà ngủ. Ta sẽ cho ngươi một cái áo, một cái áo choàng, một quần chẽn, một đôi ủng lịch sự, còn những quần áo của ngươi thì hây tạm thời gác nó lại để vào một chỗ. Vấn đề đặt ra là làm vừa lòng một bà quý tộc.
Mặt Mikhail bỗng đỏ như gấc:
- Về cái khoản ấy à?
- Chính là về cái khoản đó. Phải mua vui cho quỷ. Ngươi sẽ vơ đầy túi mà chẳng khó nhọc gì... Có một bà quý tộc quyền thế, tiền của như nước nhưng ma quỷ nhập vào người... Ngươi đã hiểu chưa, Mitska? Nếu ngươi nghe theo ta thì ngươi sẽ giàu sang... Bằng không ta sẽ cho ném ngươi vào chuồng gấu, xương của ngươi cũng chẳng còn.
Xtiovka hất ngươc ống tay áo có đính ngọc trai quý, vỗ hai bàn tay vào nhau. Gã thiếu niên trâng tráo lúc nãy bước vào:
- Feotist, dẫn cậu ấm đây đến buồng tắm hơi, lấy cho cậu ấy quần lành áo tốt rồi đưa cậu ấy về buồng ta ăn bữa trưa.

Chương 14

Công chúa Sofia đi lễ nhà thờ về, trong người rất mỏi mệt. Công chúa đã đứng dự hai khóa lễ tuần chay, chỉ ăn có bánh mì đen và ít bắp cải muối chua. Công chúa ngồi xuống chiếc ghế bành mang từ nước ngoài về xưa kia vua cha vẫn dùng và đặt lên đầu gối chiếc bánh thánh bọc trong chiếc khăn thêu nhỏ. Theo lệnh của Sofia, chiếc ghế bành vừa mới được đem từ điện Hữu Giác về đây. Được biết việc nầy, hoàng hậu Natalia, người quả phụ của Sa hoàng đã kêu lên:
- Rồi chẳng bao lâu nữa, công chúa truyền lệnh mang ngai vàng về buồng mình cho mà xem!
Mặc, hoàng hậu Natalia nổi giận thì cứ việc tha hồ mà nổi giận. Mặt trời tháng ba rọi những tia ấm áp sặc sỡ qua những ô kính màu nhỏ của hai khuôn cửa sổ. Căn buồng - một căn buồng của con gái - thật giản dị, sạch sẽ, gọn gàng và tỏa ra một mùi cỏ khô thơm thơm.
Mấy bức tường trắng toát như buồng một tu sĩ, cái lò sưởi chung quanh lát gạch men vuông trên có rải chỗ nằm, đang nóng hừng hực. Tất cả đồ đạc trong phòng, cái bàn, mấy cái ghế dài đều phủ vải thô. Mặt đồng hồ quả lắc trên có vẽ hoa hồng đang chậm chạp quay. Cái tủ sách con có màn che phủ kín bên ngoài: đang tuần chay, không phải lúc đọc sách giải trí.
Sofia đặt đôi chân xỏ hài dạ lên trên một chiếc bục con; cặp mắt lim dim, công chúa đưa đẩy người, dở thức dở ngủ. Mùa xuân đã đến, tội lỗi đang lảng vảng trên trái đất, nó khoan khoái lọt vào căn phòng cô gái... Mà lại vào tuần chay mới chết chứ! Lẽ ra phải kéo rèm cửa sổ, dập tắt những tia sáng sặc sỡ kia đi, nhưng Sofia chẳng buồn đứng dậy và cũng chẳng buồn gọi người hầu gái. Những lời cầu nguyện của bài kinh cổ kính hãy còn vang trong ký ức nhưng tai Sofia đã thấp thỏm ngóng chờ. Hình như có tiếng sàn nhà cót két, có phải nguồn ánh sáng của cuộc đời ta đang đến đấy không, chao ôi, có phải tội lỗi đang bước vào đấy không... “Vậy thì ta sẽ cầu nguyện để Chúa tha tội cho... Ta sẽ đi bộ viếng các thánh đường để ăn năn sám hối. Nhưng tội lỗi ơi cứ vào đi”. Căn phòng yên ắng như ngủ thiếp, chỉ nghe thấy tiếng tích tắc đều của chiếc quả lắc... Biết bao nước mắt đã nhỏ ra nơi đây. Biết bao lần Sofia vật vã giữa mấy bức tường này. Kêu khóc, cắn nát ngón tay, cũng vậy thôi; năm tháng vẫn trôi qua, tuổi thanh xuân cứ tàn dần. Đã mang danh là con gái của Sa hoàng thì ngươi phải đời đời chịu cái kiếp làm người trinh nữ, cái kiếp trùm khăn đen... Từ căn phòng xử nữ của công chúa chỉ có một con đường thoát: nó dẫn thẳng đến tu viện. Biết bao nhiêu công chúa đã kêu khóc trong căn phòng này, ban đêm, mặt áp vào gối để tiếng khóc tuyệt vọng khỏi lọt ra ngoài hay đã vò đầu rứt tóc. Nào có ai nghe thấy họ, trông thấy họ. Biết bao nhiêu công chúa, quận chúa đó đã sống một cuộc đời không chồng, không con và đã yên nghỉ dưới những phiến đá lát của tu viện. Tên tuổi những con người đáng thương ấy đã bị người đời lãng quên. Nhưng có một nàng công chúa đã nếm mùi hạnh phúc - đã thoát khỏi cái cảnh giam cầm của mình như một con chim điên dại. Nàng đã nói với trái tim mình: Ta cho phép mi yêu. Và không phải là yêu một người chồng tầm thường đi ủng thô, tay cầm roi. Không, chính là chàng Vaxili Vaxilievich đẹp trai, nguồn ánh sáng của mắt nàng, người yêu ăn nói dịu dàng của nàng, người tình lễ phép nhưng nóng nảy của nàng. Chà, tội lỗi, tội lỗi! Để bánh thánh đấy, Sofia rũ nhẹ hai bàn tay như xua đuổi tội lỗi đi, nhưng rồi nhắm mắt lại, mỉm cười với những tia nắng ấm áp từ cửa sổ rọi vào, mỉm cười với những hình ảnh hiện lên nóng bỏng...

Chương 15

Có tiếng sàn nhà cót két. Sofia vội ngồi thẳng người lên, nhìn chằm chằm vào cánh cửa, như thể ác quỷ, với đôi cánh lửa và bộ quần áo bằng vàng, sắp sửa bước vào đến nơi. Cặp môi run lên, Sofia tựa vào thành ghế bọc nhung, ngả đầu vào lòng bàn tay, tim đập thình thình.
Vaxili Vaxilievich Golixyn cúi đầu chui qua mi cửa thấp, thận trọng bước vào rồi đứng lại không nói không rằng. Sofia những muốn ôm ghì lấy hắn, những muốn như một làn sóng biển ấp ủ hắn trong lòng, dào dạt tình yêu thương. Nhưng công chúa giả vờ đang ngủ chập chờn: như thế đứng đắn hơn, công chúa mệt vì đã đứng suốt khóa lễ, giờ đây công chúa nghỉ, một nụ cười nở trên môi. Vaxili Vaxilievich gọi khẽ đến nỗi công chúa chỉ thoáng nghe thấy:
- Sofia em!
Hắn cúi xuống, nhìn vào mặt công chúa, cái áo gấm hắn mặc sột soạt. Cặp môi của Sofia hé mở. Thế là bộ ria thơm phức của hắn chạm vào má làm công chúa thấy buồn buồn rồi cặp môi ấm ấp của hắn sát lại đặt mạnh một cái hôn lên miệng nàng. Toàn thân Sofia run lên, một sự thèm muốn khôn tả truyền từ lưng, tràn vào lòng nàng thành một cơn nóng bỏng quằn quại. Sofia giơ tay lên, định ôm ghì lấy đầu Vaxili Vaxilievich nhưng lại đẩy hắn ra:
- Ồ lùi ra anh. Anh không nhớ ư? Ngày thứ sáu Thánh (1) mà thế này là có tội đấy.
Công chúa mở to cặp mắt thông minh và cũng như mọi lần ngạc nhiên về vẻ đẹp của Vaxili Vaxilievich. Công chúa cảm thấy hắn đang bồn chồn, sốt ruột. Một niềm vui sướng tràn ngập người Sofia: công chúa lắc đầu:
- Sofia em, - hắn nói, - Ivan Mikhailovich và Ivan Andreevich Khovanski đang chờ ở dưới kia; họ mang đến cho em những tin tức quan trọng. Em hãy xuống đi, công việc cấp bách đấy.
Sofia nắm lấy hai bàn tay Vaxili Vaxilievich, ép vào bộ ngực nở nang của mình, rồi lại đưa lên miệng hôn, đôi hàng mi rớm lệ vì dạt dào yêu thương. Công chúa lại gần gương để sửa chiếc mũ miện và đưa cặp mắt lơ đãng liếc nhìn hình ảnh mình trong gương; không đẹp, nhưng có người yêu...
- Nào đi.
Khovanski và Ivan Mikhailovich Miloslavski, người cậu của công chúa, đang đứng trước một cửa sổ có trụ, mũ lông của họ chạm tới vòm trần. Mikhailovich Miloslavski có đôi gò má cao, cặp mắt ti hí, nhễ nhại mồ hôi trong bộ áo lông mới của Sa hoàng cho, mặt đỏ bừng vì ăn uống no nê và vì xúc động. Sofia bước nhanh lại gần và nghiêng đầu chào theo lối chào của các nữ tu sĩ. Ivan Mikhailovich cố gắng đưa bộ râu và đôi môi về đằng trước, cái bụng lão không cho phép lão lại gần hơn nữa.
- Matveev đã về tới tu viện Ba Ngôi.
Cặp mắt xanh lè của Sofia mở to.
- Bọn tu sĩ đón rước lão như một Sa hoàng. Ngày mười hai tháng năm này là lão tới Moskva. Thằng cháu tôi, Petka Tolstoy, vừa đi thẳng một mạch từ tu viện Ba Ngôi đến đây. Hắn kể lại thế này: sau buổi lễ, Matveev đứng trước đám dân chúng, đã chửi rủa và nói xấu gia đình Miloslavski chúng ta: “Lũ quạ đen, lão nói, đã sà vào Ngân khố của Sa hoàng... Bây giờ chúng lại định dựa vào giáo mác của bọn xtreletz để nắm quyền bính. Nhưng chúng sẽ không làm thế được! Ta sẽ đè bẹp cuộc nổi loạn, ta sẽ điều các trung đoàn xtreletz đến những tỉnh xa xôi, đến những miền biên cương. Ta sẽ bẻ gãy cánh của bọn quý tộc quyền thế. Ta xin hôn Thánh giá để tỏ lòng trung thành với Sa hoàng Piotr Alekseevich. Nhưng vì Sa hoàng hãy còn nhỏ quá nên hoàng hậu Natalia Kirilovna, mẹ Sa hoàng, sẽ trị vì. Ta còn sống, ta quyết thực hiện xong những điều đó”.
Mặt Sofia sạm lại. Công chúa đứng, đầu cúi gầm xuống, hai cánh tay buông thõng. Chỉ có chiếc mũ miện có sừng và bím tóc tết sau lưng là rung động. Vaxili Vaxilievich, vẻ mặt lầm lì, mắt nhìn xuống đất, nói:
- Một cái gì đó sẽ được thực hiện, nhưng không phải như lão ta nói... Matveev sẽ không nắm được quyền bính ở Moskva...
Miloslavski lại hấp tấp thì thầm:
- Lão đã nói xấu và chửi rủa vương hầu Vaxili Vaxilievich hơn tất cả mọi người, “Vaxka Golixyn, lão nói, đang mưu mô, chiếm đoạt ngai vàng, hắn sẽ mất đầu về việc này”.
Sofia từ từ ngoảnh mặt lại, mắt công chúa bắt gặp luồng mắt của Vaxili Vaxilievich. Hắn mỉm cười - một nếp nhăn nhỏ, thảm hại thoáng hiện trên mép, Sofia đã hiểu: việc này có thể nguy hỉểm đến tính mạng hắn, mất đầu như chơi. Để đền bù cho nếp nhăn nhỏ đó, giá phải châm lứa đốt cháy cả thành Moskva ngay lúc đó, Sofia cũng chẳng ngần ngại gì... Nén cơn xúc động, công chúa hỏi:
- Thế bọn xtreletz nói gì?
Miloslavski thở hổn hển. Vaxili Vaxilievich rón rén đi chung quanh căn phòng, nhìn qua các cửa rồi trở lại đứng sau Sofia. Quận chúa không nhịn được, vội ngắt lời Khovanski đang định nói:
- Thế ra là hoàng hậu Natalia Kirilovna muốn đổ máu... Bà ta làm sao thế? Hay tại bà ta không quên được dòng dõi hèn hạ của mình... Ở nhà với bố mẹ, bà ta mang ủng gai... Mọi người đều biết rằng khi Matveev thương hại bà ta mang về nuôi trong dinh thự của lão, bà ta không có cả đến áo lót thay đổi... Bà ta suốt đời chưa từng biết cái phòng dành riêng cho phụ nữ là thế nào. Bà ta ngồi cùng bàn uống rượu vang với bọn đàn ông. - Cái cổ to xù của Sofia bó chặt trong cổ áo lót có đính ngọc trai quý, bạnh ra vì tức giận, những vết đỏ nổi lên trên má. - Hoàng hậu đã vui chơi thỏa thích với cha chúng ta và giáo trưởng Nikon... Bọn đàn bà chúng ta đều biết rõ cả. Thằng em ta, Petrusa, không giống cha một chút nào, từ nét mặt cho đến dáng đi, thật là một sự kỳ lạ không sao hiểu được. - Sofia nắm chặt hai bàn tay lại làm những chiếc nhẫn chạm vào nhau lách cách rồi ép hai nắm tay vào ngực, nói. - Ta chỉ là một người con gái thôi, ta thấy ngượng ngùng phải nói chuyện quốc gia đại sự với các ông... nhưng Natalia Kirilovna đã muốn đổ máu thì bà ta sẽ được đổ máu... Nếu không thì tất cả các ông sẽ mất đầu, còn ta, ta sẽ gieo mình xuống giếng.
- Được nghe những lời như vậy, thật quả là một sự vui sướng, - Vaxili Vaxilievich nói dằn từng tiếng. - Vương hầu Ivan Andreevich, ngài hãy trình công chúa biết tình hình các trung đoàn.
- Thưa công chúa Sofia Alekseyevna, trừ xtreletz ra, tất cả các trung đoàn đều ủng hộ công chúa, - Khovanski nói. - Hàng ngày bọn xtreletz tụ tập rất đông trước các trụ sở cảnh sát ném gạch đá, gậy gộc vào các cửa sổ và gọi bọn đại tá là đồ hèn (Nghe thấy thế, Miloslavski nghẹn cổ, hắng giọng. Vaxili Vaxilievich hoảng sợ chớp mắt, riêng có Sofia là bình tĩnh không nhúc nhích...). Đại tá Bukhbustov và bách binh trưởng Boborykin định tỏ ra nghiêm khắc và bắt bọn xtreletz trở lại trật tự, bọn này bèn lôi hai người lên một cái gác chuông rồi đẩy họ rơi từ trên đó xuống đất, miệng la hét: “Liubô liubô (1)!” Bọn xtreletz bất tuân thượng lệnh; ở ngoại ô, trong chợ, ở các khu Belygorod và Kitaigorod, chúng tụ tập rất đông và xúi giục dân chúng; đứng trước những nhà tắm công cộng, chúng hét lên: “Chúng ta không muốn để bọn Narytskin và bọn Matveev cai trị chúng ta, chúng ta sẽ vặn cổ chúng cho mà xem!”.
- Chúng chỉ được cái to mồm nhưng chúng ta muốn thấy chúng thực hiện những sự việc lớn, - Sofia ưỡn thắng người lên, hầm hầm cau mày nói. - Chúng đừng sợ, cứ đâm chết những kẻ thù của ta đi, bọn Artamon Matveev, Yazykov, Likhasev và bọn Narytskin và tất cả lũ ổ chúng nó, đừng sợ, cứ lật đổ phăng cái thằng chó con ấy đi. Chà! Dì ghẻ ơi là dì ghẻ, cái tâm địa đáng nguyền rủa... Này cầm lấy, - Sofia mạnh tay tháo tuột tất cả nhẫn ra, rồi nắm chặt trong tay đưa cho Khovanski. - Gửi cho chúng những thứ này... Bảo chúng là chúng muốn gì cũng được... Lương hậu, đất cát, mọi thứ miễn trừ... Nhưng gặp thời cơ, chúng chớ có do dự. Bảo chúng tôn ta lên ngôi.
Nghe thấy những lời đó, Miloslavski khoa tay, vẻ mặt hoảng sợ. Khovanski khoái trá, nhe răng cười. Vaxili Vaxilievich lấy tay che mắt: có lẽ hắn không muốn người ta trông thấy vẻ kiêu hãnh trên mặt hắn.
--------------
Chú thích:
(1) Theo đạo Gia tô, ngày Chúa lên trời
(2) Tiếng kêu tỏ ý tán thưởng hoặc vui sướng của dân Nga thời xưa như ta kêu: “Hay, hay” hoặc “Hoan hô”.

Chương 16

Alexaska và Alioska suốt cả mùa xuân xơi bánh nướng nên béo quay. Đời sống ở đây sung sướng thật! Zaiatz cũng phát phì ra, hắn đâm lười:
- Tao đã hết thời làm việc rồi, bây giờ đến lượt chúng mày làm việc cho tao.
Hắn ngồi suốt ngày trên thềm nhà, cắn hạt dẻ, hết nhìn đàn gà mái lại nhìn bầy chim sẻ. Ăn không ngồi rồi, béo phị ra, hắn đâm nghĩ vơ nghĩ vẩn:
- Có lẽ bọn nhãi ăn bớt tiền chăng? Nhất định là chúng phải xoáy, dù rằng chỉ xoáy ít thôi.
Từ đó, mỗi buổi tối, khi đếm số tiền bán được trong ngày là hắn lại tra khảo bọn trẻ, vặn vẹo chúng, lục túi, lùa ngón tay vào mồm chúng để tìm tiền. Ban đêm hắn ngủ không yên, lúc nào hắn cũng nghĩ:
- Con người ta, hễ dính dáng đến tiền nong ai mà chẳng ăn cắp. Chỉ còn một cách là dọa nạt đe chừng bọn trẻ.
Một buổi tối, Alexaska và Alioska hớn hở trở về giờ ăn, chúng nộp tiền bán bánh cho chủ. Zaiatz đếm tiền xong quả quyết là thiếu mất một kopeik...
- Chúng mày xoáy rồi? Đồng kopeik đâu?
Hắn nhặt một cái gậy còn tươi vừa chặt lúc sáng, túm lấy tóc Alexaska rồi đánh bọn trẻ, vừa đánh vừa kèm theo những lời lẽ thích hợp: Alexaska bị một gậy thì Alioska cũng bị một gậy.
Khi hắn đã đánh chúng chán tay, hắn truyền cho dọn ăn.
- Như thế đấy, - hắn vừa nói vừa ngốn hết miếng thịt đông trộn tiêu dấm này đến miếng khác. - Thời buổi này, biết được trước để đề phòng là tốt. Đồ nhãi ranh, tao sẽ làm cho chúng mày thành người. Sau này, chúng mày sẽ đến cảm ơn tao.
Zaiatz ăn xúp bắp cải nấu với mỡ, mề gà nấu với mật ong và gừng, gà nấu mì và thịt quay.
Hắn húp lấy húp để cháo bột nấu với sữa. Mỗi lần để thìa xuống cái bàn không trải khăn, hắn lại ợ một cách khoái trá. Đôi má hắn núng nính vì no nê phè phỡn, cặp mắt hắn húp híp mỡ. Hắn cởi một khuy quần:
- Các con yêu quý, các con sẽ cầu Chúa cho ta. Ta là người hiền lành. Ăn đi, uống đi, các con phải thấy được rằng ta đối đãi với các con như một người cha vậy!
Alexaska bĩu môi làm thinh, mắt gườm gườm nhìn trộm. Sau bữa ăn, nó bảo Alioska:
- Tớ không ở với bố tớ nữa là vì bố tớ đánh tớ cho nên tớ lại càng không thể ở với lão này được. Là vì cái thằng con lợn ấy rồi sẽ quen thói hành hạ bọn mình cho mà xem.
Nghĩ đến phải từ bỏ cuộc đời no đủ này, Alioska hoảng sợ. Lẽ tất nhiên, giá không bị đánh đập thì vẫn hơn! Nhưng trên khắp thế gian này tìm đâu ra được một nơi như thế? Đâu mà chẳng bị ăn đòn? Nằm trên mặt lò, nó tỉ tê khóc thầm. Tuy nhiên nó sẽ không bỏ rơi bạn.
Buổi sáng, hai đứa trẻ mang những mẹt bánh nướng ra đi. Buổỉ sáng tháng năm này mát rười rượi. Bầu trời xanh ngắt in bóng trên những vũng nước bên đường. Cành lá những cây phong sực nức mùi thơm. Bầy sáo hót líu lo, nghểnh cái đầu bé nhỏ về phía mặt trời. Có những cô gái ngây ngất vì mùa xuân đứng tần ngần trước cổng: họ không muốn làm việc.
Có những cô gái khác, chân không giầy, mắt long lên sòng sọc, trên người bận độc một chiếc áo lót bằng vải gai, đầu chít một cái vành bằng vỏ cây phong, bím tóc có buộc dải màu. Trên nóc nhà mấy con sáo líu lo như họa mi, nghe như gọi các cô vào rừng hoặc ra bãi cỏ. Xuân đến là như vậy.
- Bánh nóng, bánh chả nóng, ai mua bánh chả nhân mật ong không...
Alexaska cười:
- Zaiatz tha hồ mà đợi tiền bánh hôm nay.
- Úi chào, Alexaska, làm thế là ăn cắp đấy.
- Này, thôi đi, đồ nhà quê... Thế cái thằng quỷ thọt ấy nó có trả công bọn mình không? Bọn mình làm sụn cả lưng cho hắn suốt cả hai tháng ròng rồi! Này, ông xtreletz ơi, mua bánh nướng nhân thịt thỏ đã, nóng sốt, nửa kopeik hai chiếc...
Bọn đàn bà con gái đứng ra trước cổng mỗi lúc một nhiều. Dân chúng tụ tập ở các ngã tư.
Bỗng một bọn xtreletz chạy ngang qua, tiếng kích kêu loảng xoảng, dân chúng dạt ra nhìn họ một cách khiếp sợ. Càng đi đến gần cầu Voxkhviatski bắc ngang sông Moskva, bọn xtreletz lại càng nhiều, dân chúng lại càng đông. Suốt bờ sông đầy những người - nhan nhản như ruồi; họ trèo lên cả những đống phân súc vật để nhìn điện Kreml cho rõ hơn. Dưới sông, trên mặt nước phẳng lì như gương, thoáng gợn vì dòng nước chảy, lặng lẽ in bóng những ngọn tháp mái xanh, những lỗ châu mai trên những bức tường gạch và những nóc tròn thép vàng của những nhà thờ lớn nhỏ trong điện Kreml. Nhưng dân chúng thì lại không bình tĩnh.
Bên kia những bức tường dầy nổi lên màu sặc sỡ của những nóc nhà kỳ dị và tao nhã của dinh thự bọn đại thần và cung điện Sa hoàng, nơi đó trong sự tĩnh mịch của tháng năm đang xảy ra một điều gì khác thường. Nhưng đích xác là gì thì chưa ai hay. Bọn xtreletz hò hét om sòm nhưng không vượt qua chiếc cầu có hai khẩu đại bác đặt bên phía điện Kreml bảo vệ.
Phía xa xa, người ta trông thấy bọn ziltsy, - đứa cưỡi ngựa, đứa đi bộ, - Con em bọn đại thần, tùy tùng của Sa hoàng. Bên ngoài những chiếc áo nẹp trắng, chúng đeo những cánh thiên nga, đính chặt sau lưng bằng những vòng đồng. Bọn này không đông, hoảng sợ ra mặt khi trông thấy đám dân chúng đông đúc đang từ khu Balsuc ùn ùn kéo đến. Alexaska ra sức chen lấn ở trước cầu. Hai đứa trẻ đã bán hết hàng rất nhanh rồi vứt mẹt đi. Chúng không còn nghĩ đến chuyện bán hàng nữa. Chỗ này, chỗ kia, đám dân chúng đã bắt đầu lên tiếng la ó.
Ai cũng chán ngấy rồi. Đời sống dưới chế độ này không sao chịu nổi được nữa. Những nắm đấm giơ lên đe dọa những ngọn tháp của điện Kreml. Một ông lão, dân ngoại ô, trèo lên một đống rác, cất mũ lông ra để lộ cái đầu hói rồi chậm rãi nói:
- Thời còn mồ ma Aleksey Mikhailovich, nhân dân cũng đã nổi dậy như ngày hôm nay... Thời đó, người ta thiếu bánh mì, thiếu muối, đồng tiền không còn giá trị mấy. Ngân khố đúc lại tiền rúp bằng bạc để ra tiền bằng đồng. Bọn quý tộc quyền thế tham tàn hút máu nhân dân. Nhân dân bèn nổi dậy lôi Aleksey Mikhailovich từ trên mình ngựa xuống đất và xé tan nát chiếc áo lông của Sa hoàng... Khi ấy, người ta giết chết rất nhiều tên đại thần, đốt phá nhà cửa của chúng... Và ở miền Nam, Razin, người Cô-dắc có trái tim dũng cảm, đã nổi lên... Nhân dân đáng lẽ đã được sống tự do và giàu có. Nhưng chẳng ai ủng hộ ông ta cả... Nhân dân yếu hèn chỉ biết ngoạc mồm ra mà kêu hét. Bây giờ cũng vậy, các cháu ạ, nếu không đoàn kết, rồi có ngày các cháu sẽ lên đoạn đầu đài hoặc giá xử giảo, bọn đại thần quý tộc sẽ trị các cháu.
Người ta há hốc mồm nghe ông lão nói. Bối rối và khiếp sợ lại càng tăng lên. Người ta chỉ biết rằng lúc này ở điện Kreml chưa ai nắm quyền hành và bây giờ là lúc thuận lợi để lay chuyển cái thành trì cổ xưa, nhưng bằng cách nào? Ở một chỗ khác, một gã xtreletz đang lớn tiếng kêu gọi dân chúng:
- Các bạn còn đợi gì nữa? Sáng sớm hôm nay, lão đại thần Matveev đã cưỡi ngựa đi vào Moskva. Có lẽ các bạn không biết Matveev? Chừng nào bọn quý tộc quyền thế còn tranh dành nhau ở điện Kreml vì thiếu người cầm đầu thì ta còn thở được... Nhưng bây giờ thì khác, một tên có uy thế như một ông vua đã xuất đầu lộ diện: lão ta sẽ gò chặt dây cương, sẽ làm cho tất cả chúng ta chết bẹp dưới thuế má nặng nề chưa từng thấy bao giờ. Chúng ta phải nổi dậy ngay ngày hôm nay. Để đến mai thì muộn mất.
Những lời đó làm mọi người choáng váng. Đến mai thì quá muộn... Mắt mọi người đỏ ngầu như tiết. Giống như một ảo ảnh, điện Kreml cổ kín cổng cao tường, nham hiểm, vàng bạc đầy ứ kho tàng, hững hờ in bóng xuống mặt sông... Trên tường thành, cạnh mấy khẩu đại bác, không thấy bóng một tên pháo thủ nào. Mọi vật im lìm như chết. Và tít trên bầu trời cao, mấy con diều hâu bay lượn bên trên điện Kreml. Bỗng nhiên ở đầu cầu bên kia, đám ziltsy đeo cánh nhốn nháo; người ta nghe thấy tiếng chúng kêu lên yếu ớt. Một kỵ sĩ vùng vẫy trên mình con ngựa trắng như tuyết, hiện ra giữa bọn chúng. Chúng không muốn để hắn đi, đẩy lui bọn ziltsy, người kỵ sĩ cho ngựa chồm lên, chạy thoát rồi rơi mất mũ, phóng như bay trên chiếc cầu nổi, - nước tung tóe giữa những mảnh ván ghép cầu nghe bì bõm - con ngựa chân thon vừa phi vừa lắc bờm một cách khoan khoái. Đám đông im bặt. Từ bờ bên kia, một phát súng đơn độc vang lên nhằm bắn vào người kỵ sĩ đang phi nước đại. Người này lao vào giữa đám dân chúng rồi đứng thẳng trên bàn đạp: làn da trên cái đầu cạo trọc xanh rì động đậy, khuôn mặt dài kèm theo một cái mũ dài, đỏ ửng vì phi ngựa; hắn thở hổn hển, cặp mắt nâu sáng quắc dưới hàng lông mày rậm, đen như than. Người ta nhận ra hắn.
- Tolstoy... Piotr Andreevich... cháu Miloslavski... Ông này về phe chúng ta... Hãy nghe xem ông ta sắp sửa nói gì.
Với một giọng the thé, luôn luôn đứt quãng, Piotr Andreevich lớn tiếng nói:
- Hỡi nhân dân, hỡi các anh em xtreletz! Tai hoạ... Matveev và bè lũ Naryskin vừa bóp chết thái tử Ivan... Nếu các bạn chậm trễ, chúng sẽ bóp chết cả Piotr nữa. Hãy xông nhanh vào điện Kreml đi kẻo muộn...
Đám đông càu nhàu gầm gừ, hò hét rồi ầm ầm xông về phía cầu... Hàng nghìn cái đầu nhấp nhô, con ngựa trắng của Tolstoy quay cuồng ở giữa. Chiếc cầu kêu cót két, chĩu xuống, nước lên tới đầu gối những người chạy qua. Bọn xtreletz từng đoàn trăm người một, xô bừa mọi người, băng qua cầu, nét mặt hầm hầm dữ tợn. Đâu đó có tiếng chuông, boong, boong... mỗi lúc một dồn dập, khắc khoải. Những tháp chuông khác hưởng ứng, chuông lớn chuông nhỏ kêu vang và bốn mươi tháp chuông trong thành Moskva kéo chuông báo động bốn mươi lần. Trong điện Kreml yên lặng, đó đây, một khuôn cửa sổ nhỏ đóng sập lai, trên ô kính lóe lên một tia sáng mặt trời, rồi lại đến một khuôn cửa sổ khác...

Chương 17

Bọn xtreletz sốt ruột, chạy ùa vào, trung đoàn này xáo lộn với trung đoàn khác, tới điện Hữu Giác và tới Đại thánh đường Ngự cáo. Nhiều người trong bọn họ, tụt lại đằng sau tìm cách phá vỡ những cánh cửa vững chắc của dinh thự bọn đại thần hay trèo lên tháp chuông để kéo chuông báo động. Chiếc chuông khổng lồ của tháp chuông Ivan Veliki âm vang một cách rùng rợn. Trong những ngõ hẻm, giữa những hàng rào tu viện và những bức tường vàng khè của tòa nhà dài nơi đặt các công sở, tụi gia nhân của bọn quý tộc quyền thế nằm sóng sượt, hoặc chết hoặc bị thương; những đứa bị thương rên rỉ, bò lê trên đất. Mấy con ngựa đã đóng yên cương hoảng sợ chạy lung tung. Người ta cười vang, đuổi bắt chúng, hò hét, cầm đá ném vỡ toang những ô cửa sổ. Bọn xtreletz, nhân dân, và hàng đàn trẻ con (trong đó có Alexaska và Alioska) đứng ngắm cái lâu đài sặc sỡ của Sa hoàng chiếm hết một phần tư điện Kreml. Những ngôi nhà bằng đá và bằng gỗ, những terem (1) cao, những căn nhà thấp lè tè dựng bằng gỗ súc, những tiền đình, những tháp canh lớn nhỏ, sơn đỏ, xanh lá mạ, xanh da trời, tường lát ván hay để trơ những súc gỗ tròn, tất cả những loại nhà đó được nối với nhau bằng một số hành lang và cầu thang. Hàng trăm nóc nhà hình mái lều, hình củ hành, hình tháp chuông con có đường xoi, thân phình to, lởm chởm những đường răng cưa như mào gà sống sáng loáng, dát đầy vàng bạc. Đây là chỗ ở của ông chúa trái đất, người đứng đầu thiên hạ sau Chúa Trời. Dẫu sao họ cũng cảm thấy rụt rè ngài ngại. Một người dân đen có đâu lại dám cầm khí giới đến gần cung điện khi mà chính bọn quý tộc quyền thế cũng phải xuống ngựa, để ngựa lại ở ngoài cửa rồi bỏ mũ ra, bì bõm lội trong bùn, mắt liếc về mấy khuôn cửa sổ của Sa hoàng. Đám đông dừng lại, trố mắt nhìn. Tiếng chuông tháp Ivan Veliki não nùng vang dội trong lồng ngực mọi người. Họ rụt rè, cảm thấy lo sợ. Thấy vậy, mấy người lanh lợi nhảy ra, đứng trước đám đông nói:
- Này anh em, sao lại đứng ngẩn người ra dấy làm gì hả? Chúng đã bóp chết thái tử Ivan và đang kết liễu đời Sa hoàng Piotr! Hãy mạnh bạo lên, dựng thang lên, trèo lên thềm mau.
Có tiếng ồn ào trong đám đông trùng trùng điệp điệp. Bỗng một hồi trống nổi lên dữ dội rồi có tiếng gào thét man rợ:
- Mạnh bạo lên, mạnh bạo lên nào!
Ước chừng hai mươi gã xtreletz rút gươm ra, xông lên, trèo qua hàng rào sắt rồi rảo cẳng leo lên Thềm Đỏ. Họ đập ầm ầm vào cánh cửa bằng đồng đen rồi tì vai vào cửa dùng hết sức đẩy. Tiếng hò reo dồn dập lan đi trong đám đông:
- Mạnh bạo lên! Mạnh bạo lên! Mạnh bạo lên!
Những chiếc thang không hiểu từ đâu đưa tới, nhấp nhô trên đầu bể người. Họ dựng thang bên những khuôn cửa sổ của điện Hữu Giác, lên những chỗ vịn ở hai bên cạnh thềm. Bốn người trèo lên trước, nghiến răng ken két, hét lớn:
- Giao Matveev cho chúng tôi, giao bọn Nasryskin cho chúng tôi.
-------------
Chú thích:
(1) Phần trên cùng của một ngôi nhà ở nước Nga cổ.

Chương 18

- Họ sẽ giết chúng ta mất. Làm thế nào hả Artamon Xergeevich?
- Lòng Chúa nhân từ, hoàng hậu cứ yên tâm. Tôi xin ra báo họ... Này? Đã cho người tìm giáo trưởng chưa? Đi tìm nữa đi!
- Đích là bọn thù địch của tôi rồi, Artamon Xergeevich ạ; chính Yazykov đã trông thấy hai tên Miloslavski giả trang đi cùng với tụi xtreletz...
- Hoàng hậu là phụ nữ. Việc của hoàng hậu là đọc kinh cầu Chúa...
Có tiếng nói to trong tiền sảnh:
- Đến kia rồi, đến kia rồi!
Giáo trưởng Ioakim bước vào phòng, vừa đi vừa chọc đầu trượng nhọn xuống sàn nhà bằng gỗ sồi. Cặp mắt long lanh sâu hoắm của vị giáo trưởng nhìn chằm chằm vào những khuôn cửa sổ thấp dưới vòm trần. Bên ngoài, bọn xtreletz đứng trên thang, dán mắt vào những ô kính màu. Giáo trưởng giơ bàn tay khô đét, đe dọa chúng làm chúng vội thụt đầu xuống.
Natalia Kirilovna chạy lại gần vị giáo trưởng. Khuôn mặt tròn vành vạnh của nàng trắng bệch như vôi dưới chiếc mũ con bằng lông cáo xanh. Nàng nắm lấy hai bàn tay lạnh ngắt của vị giáo trưởng, hôn lấy hôn để rồi nghẹn ngào nói:
- Cứu chúng con, lạy Đức Cha, cứu chúng con với.
- Thưa Đức Cha, tình hình rất xấu, - Artamon Xergeevich dằn giọng nói.
Vị giáo trưởng quay lại trừng mắt nhìn Matveev. Matveev hất bộ râu hoa râm xén vuông.
- Đây là một âm mưu, một cuộc nổi loạn có kẻ xúi bẩy. Chúng hò hét nhưng chính chúng cũng không hiểu chuyện gì cả.
Trông tựa một thần tượng cổ xưa với đôi mắt diều hâu và cái mũi mảnh, Matveev tỏ ra bình tĩnh. Trong đời lão, lão đã chứng kiến nhiều chuyện, lão đã chết hụt nhiều phen. Lão chỉ còn có mỗi một tham vọng - lòng khao khát quyền hành. Cố nén cơn tức giận đang sôi sục trong đôi mi mắt già nua, lão nói:
- Chỉ cần làm cho chúng ra khỏi điện Kreml đã. Sau đó ta sẽ trị được chúng.
Bên ngoài tiếng đập cửa thình thình và tiếng la hét mỗi lúc càng thêm hăm doạ. Một gã rón rén chạy qua căn phòng lớn từ cửa này đến cửa khác: đó là Ivan Kirilovich Naryskin, đẹp trai, lịch sự, mới có hai mươi bốn tuổi mà đã là đại thần. Bọn xtreletz cũng như bọn quý tộc quyền thế đều ghét cay ghét đắng Ivan Kirilovich Naryskin, hơn cả ghét quỷ Satan. Người ta đồn rằng hắn đã ướm thử vương miện của Sa hoàng. Bộ ria đen nhỏ xíu của hắn hình như dán vào cái khuôn mặt tái mét vì sợ: như thể hắn đã trông thấy những sự tra khảo sắp tới và cái chết thê thảm của hắn trên đoạn đầu đài. Vung đôi tay áo may theo kiểu Ba Lan hắn kêu to:
- Sofia đã hạ cố đến! - Rồi hắn biến mất sau cánh cửa, theo sau là một tên lùn tập tễnh trên đôi chân vòng kiềng, người không lớn hơn một em bé. Tên lùn này hai tay ôm lấy đầu trên có đội cái mũ cửa bọn hề, bộ mặt nhăn nhúm mếu máo khóc như thể hắn cũng cảm thấy rằng rồi mai đây hắn sẽ phản lại chủ hắn. Sofia, Vaxili Vaxilievich Golixyn và Khovanski bước vội vào căn phòng. Đôi má Sofia bôi son đỏ choét. Mặc toàn gấm dát vàng, công chúa đội trên đầu một cái mũ miện cao đính ngọc trai. Hai bàn tay bắt chéo chữ thập trên ngực công chúa cúi rạp xuống chào hoàng hậu và giáo trưởng. Natalia Kirilovna vội tránh ra một bên như trông thấy một con rắn độc, chớp chớp mắt nhưng không nói gì cả.
- Dân chúng đang nổi giận mà kể ra cũng có lý, - Sofia lên tiếng nói. - Hoàng hậu phải cùng với các em tôi đi ra để cho dân chúng trông thấy mặt. Có Trời biết họ hò hét gì, họ bảo rằng hai đứa trẻ bị giết rồi. Hoàng hậu hãy ra nói cho họ yên tâm, hãy hứa hẹn đi, nếu không họ ùa vào cung điện đến nơi rồi...
Trong khi Sofia nói, hai hàm răng trắng đập vào nhau chan chát, cặp mắt màu lá mạ long lanh. Matveev bước lại chỗ công chúa:
- Bây giờ không phải lúc mang những chuyện đàn bà ra mà thanh toán với nhau.
- Vậy thì ông cứ việc ra để cho họ trông thấy mặt...
- Tôi không sợ chết đâu, Sofia Alekseyevna ạ!
- Thôi đừng bàn cãi nữa, - vị giáo trưởng nói, gõ đầu trượng xuống sàn nhà - Hãy đưa hai đứa bé Ivan và Piotr ra cho họ trông thấy...
- Không, - Natalia Kirilovna kêu lên, tay ôm lấy thái dương - Thưa Đức Cha, tôi không để cho làm như thế đâu. Tôi sợ lắm!...
- Bế hai đứa bé ra ngoài Thềm Đỏ, - vị giáo trưởng nhắc lại.

Chương 19

Cuối cùng, ổ khóa của cái cửa bằng đồng đen trông ra Thềm Đỏ rít lên. Đám đông tiến lại gần, im lặng, hau háu nhìn. Tiếng trống cũng im bặt. Alexaska quặp chặt lấy một chiếc cột phình to ở giữa. Alioska không rời nó một bước mặc dầu nó sợ hết vía. Bỗng cánh cửa mở toang. Người ta trông thấy hoàng hậu Natalia Kirilovna, mặc áo quả phụ màu đen và áo khoác bằng gấm thêu kim tuyến. Trông thấy hàng nghìn cặp mắt nhìn mình chằm chặp, hoàng hậu bủn rủn cả người. Mấy cánh tay giơ một đứa bé con, mình mặc áo nẹp sặc sỡ, cho bà ta bế. Hoàng hậu ưỡn người sốc đứa bé lên để nó đứng trên chỗ tay vịn ở thềm. Chiếc mũ lông Monamakh(1) tụt xuống mang tai đứa bé để lộ bộ tóc nâu cắt ngắn. Thằng bé nghểnh cổ, má phúng phính, cái mũi xinh xinh, đôi mắt tròn như mắt chuột, cái miệng nhỏ mím chặt vì sợ hãi. Hoàng hậu muốn nói điều gì nhưng hết hơi, đành ngửa đầu ra phía sau. Matveev bước ra đứng sau hoàng hậu. Tiếng gầm thét từ đám đông nổi lên. Matveev dắt một đứa bé khác, nhiều tuổi hơn, khuôn mặt gầy còm, vẻ dửng dưng, môi trễ xuống. Cau cặp lông mày bạc trắng, Matveev nói giọng một ông già nhưng oang oang:
- Ai đã nói dối các ngươi rằng Sa hoàng và thái tử đã bị bóp chết? Các người hãy nhìn xem, đây là Sa hoàng Piotr Alekseevich, hoàng hậu đang bế trong tay. Sa hoàng vẫn vui vẻ, khỏe mạnh. Và đây là thái tử Ivan,
Lão bế đứa bé vẻ mặt đứng dưng giơ lên cho dân chúng trông.
- Nhờ ơn Chúa, cả hai đều vẫn sống. - Trong đám dân chúng, người ta nhìn nhau nói: - Đúng rồi, không còn nhầm gì nữa.
- Anh em xtreletz, hãy bình tĩnh trở về nhà... Nếu anh em cần điều gì, muốn yêu cầu hay khiếu nại điều gì, hãy cử người đến...
Khovanski và Vaxili Vaxilievich từ thềm đi xuống chỗ dân chúng. Đặt tay lên vai mấy gã xtreletz và mấy người thường dân họ khuyên chúng giải tán nhưng với một giọng có vẻ chế diễu. Trong đám đông đã tạm nguôi được một lúc, lại nổi lên những lời gay gắt:
- Hai đứa bé vẫn sống thế thì đã sao...
- Ai chẳng trông thấy hai đứa bé sống sờ sờ ra đấy mà còn phải nói.
- Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng chẳng rời khỏi điện Kreml.
- Chẳng dại gì... Ai chẳng biết những lời đường mật của cảnh sát chứ gì.
- Giao bọn Matveev và bọn Naryskin cho chúng tôi...
- Giao Ivan Kirilovich Naryskin cho chúng tôi... Hắn đã ướm mũ miện của Sa hoàng...
- Bọn đại thần là bọn quỷ hút máu người không tanh. Giao Yazykov, Dolgoruki cho chúng tôi...
Tiếng la ó mỗi lúc một thêm căm tức, vạch mặt chỉ tên bọn đại thần bị họ ghét cay ghét đắng. Natalia Kirilovna lại tái mặt, ôm chặt lấy con. Piotr quay cái đầu tròn nhìn tứ phía. Có tiếng người phá lên cười nói:
- Nhìn hắn kìa! Trông hệt một con mèo?
Vương hầu Mikhail Dolgoruki, con trai của vị tư lệnh quân xtreletz, trải chuốt, hợm hĩnh, mặc quần áo bằng nhung đỏ và lông hắc điêu thử, trên người loảng xoảng đầy khí giới, ở trên thềm chạy xuống. Hắn vung roi, quát bọn xtreletz:
- Đồ chó đẻ, chúng mày lợi dụng lúc cha ta ốm liệt giường. Đồ khốn nạn! Cút ngay khỏi nơi này, đồ chó, quân nô lệ kia.
Bọn xtreletz lúc đầu chùn lại trước ngọn roi quất vun vút... Nhưng thời buổi đã đổi thay: ăn nói như vậy là không được... Bọn xtreletz trấn tĩnh lại, sấn sổ thở vào mặt hắn:
- Mày ở trên trời rơi xuống đấy à? Mày là ai mà dám nói với bọn tao như vậy, đồ chó con? Đánh bỏ mẹ nó đi, anh em ơi!
Họ túm lấy quai đeo gươm của hắn buộc ngang vai giật đứt phăng; cái áo nẹp bằng nhung bị xé tan từng mảnh. Mikhail Dolgoruki tuốt gươm ra, rồi, lúng túng trong chiếc áo choàng rộng vừa chống đỡ vừa lùi lên thềm. Bọn xtreletz cầm giáo đuổi theo, túm lấy hắn. Hoàng hậu Natalia Kirilovna bỗng rú lên một tiếng man rợ. Dolgoruki bị giăng chân, giăng tay, tung lên trời rồi rơi xuống biến mất trong đám đông và bị mọi người giầy xéo nát xác.
Matveev và hoàng hậu lùi về phía cửa. Nhưng đã muộn. Opsey Rezov và đồng đội từ tiền sảnh điện Hữu Giác nhảy sang, miệng hét:
- Bắt lấy thằng Matveev!
- Liubô, liubô!
Đám đông gầm lên. Opsey Rezov từ phía sau đánh Matveev. Hoàng hậu vội nép vào người Artamon Xergeevich. Thái tử Ivan bị đẩy ngã lăn ra khóc òa lên. Khuôn mặt tròn của Piotr tái mét, nhăn nhúm lại, hai tay đứa bé níu chặt lấy bộ râu hoa râm của Matveev.
- Lôi nó ra, đừng sợ, xé xác nó ra, - bọn xtreletz hét lên, tay vung giáo. - Ném nó xuống đây cho chúng tôi.
Họ đẩy hoàng hậu ra, gạt Piotr sang một bên như một con mèo con. Bỗng cái thân hình to lớn của Matveev bị tung lên trời, miệng há hốc, chân xoạc ra, rồi nặng nề rơi xuống cắm phập vào những ngọn giáo của bọn xtreletz dựng lên tua tủa. Nhân dân và tụi trẻ con (Alexaska và Alioska) ùa vào trong cung, chạy tràn vào mấy trăm căn phòng. Hoàng hậu Natalia Kirilovna vẫn nằm ngất ở ngoài thềm với hai thái tử. Khovanski và Golixyn lại tới gần bọn người còn đứng lại trên quảng trường. Trong đám đông có tiếng kêu:
- Chúng tôi muốn Ivan làm Sa hoàng. Cả hai đều làm Sa hoàng. Chúng tôi muốn Sofia... Liubô, liubô... chúng tôi muốn Sofia lên ngôi. Chúng tôi muốn người ta trồng một cột trụ trên Hồng trường, một cột trụ kỷ niệm, để vĩnh viễn xác nhận chế độ miễn trừ cho chúng tôi.
--------------
Chú thích:
(1) Mũ của Sa hoàng đội vào những dịp đại lễ.

Chương 20

Bọn xtreletz hoành hành dữ dội. Chúng giết chết một loạt tên quý tộc quyền thế: hai người anh của thái hậu, Ivan và Afanaxi Naryskin, bọn vương hầu Yuri và Mikhail Dolgoruki, Grigori và Andrey Romodanovski, Mikhail Seckaski, Matveev, Piotr và Fedor Xazukov và nhiều người khác, dòng dõi kém vai vế hơn. Chúng được lĩnh lương tất cả là hai trăm bốn mươi nghìn rúp và thêm mỗi người mười rúp tiền thưởng. Tất cả thành phố đều phải nộp bát đĩa bằng vàng bạc để đúc tiền trả cho bọn xtreletz. Một cột trụ được trồng ở Hồng trường; trên bốn mặt cột trụ có viết tên bọn quý tộc bị tàn sát cùng những tội lỗi của chúng. Các trung đoàn xtreletz đòi phải được cấp giấy cam kết trong đó bọn quý tộc quyền thế phải thề rằng trong hiện tại cũng như trong tương lai không bao giờ được dùng những lời lẽ khinh miệt đối với quân xtreletz, không bao giờ được gọi chúng là phiến loạn hay bội phản, không được vô cớ xử tử chúng hoặc đem chúng đi đày. Sau khi lấy lương thực trong điện Kreml ra ăn uống no say, bọn xtreletz trở về doanh trại, bọn thợ thủ công và bọn buôn bán trở về khu phố của họ. Và nếp sống cũ lại trở lại như không có gì xảy ra cả. Những cảnh tối tăm muôn thuở - tình trạng cùng khổ, nô lệ, nghèo nàn - ứ đọng ở khắp nơi, ở Moskva, ở các thành phố, ở hàng trăm quận rải rác trên đất nước mông mênh. Người nông dân với mông đít ăn đòn nát nhừ, cào đất được chăng hay chớ. Anh ta đã kinh tởm đất. Thợ thủ công chết bẹp dưới gánh nặng của thuế má và cống nạp, rên rỉ trong những căn nhà giá lạnh. Bọn buôn bán nhỏ không tiếc lời than thở. Bọn chúa đất nhỏ đang phá sản. Đất cằn cỗi dần: gặt được gấp ba lần số thóc đã gieo đã là phúc to, phải cảm ơn Chúa. Đến cả bọn quý tộc quyền thế và bọn buôn bán lớn cũng phải lẩm bẩm phàn nàn. Xưa kia, một người quý tộc không cần nhiều lắm cũng giữ được thể diện: chỉ cần một cái áo lót lông hắc điêu thử và một cái mũ lông cao ngất nghểu là đủ. Còn ở nhà thì rau cháo thế nào cũng xong, tối đến đọc kinh cầu Chúa rồi đi ngủ sớm. Bây giờ, người ta chú trọng nhiều đến bề ngoài: bọn quý tộc muốn sống sang trọng như bọn quý phái Ba Lan, bọn Livonien, bọn Đức. Họ được nghe nói đến nhiều sự kỳ lạ và cũng được nhìn tận mắt nhiều sự kỳ lạ. Lửa tham ngùn ngụt trong lòng người. Từ đó, bọn quý tộc có đến một trăm gia nhân. Thế nhưng, còn phải đóng giầy, may áo nẹp có mang gia huy và nuôi cái đám người lộn xộn tham lam vô độ đó - lợi tức cũ của họ không sao đủ được. Sống trong những ngôi nhà gỗ bị coi như là không lịch sự. Xưa kia, ông hoặc bà quý tộc đi ra ngoài đường dùng xe trượt tuyết đóng có một ngựa do một gia nhân cưỡi. Để khêu gợi sự ao ước trong lòng người ta, họ treo những chiếc đuôi cáo ở vòng cổ ngựa, ở đai ngựa, ở dây buộc hậu. Bây giờ thì phải mua một xe ngựa thếp vàng từ Danzich về, đóng bốn ngựa, nếu không làm như thế thì bị khinh rẻ ngay. Nhưng đào đâu ra tiền? Thời buổi này khó khăn. Buôn bán ế ẩm. Bán cho người trong nước thì chẳng được bao nhiêu vì họ đã trần như nhộng. Xuất biên ư? Nhưng tàu bè đâu? Biển không phải là của mình. Bọn ngoại quốc đã nắm hết thị trường ngoài nước. Nghe nói đến sự buôn bán ở các nước khác mà bực mình muốn đập đầu chết quách đi cho rồi. Khốn nạn thay cái nước Nga này! Bao giờ mi mới chịu nhúc nhích! Ở Moskva có hai Sa hoàng - Ivan và Piotr và trên cả là công chúa Sofia nắm quyền phụ trách. Đây chỉ là chuyện thay bậc đổi ngôi của bọn quý tộc quyền thế, có thế thôi.
Chán nản vô cùng! Thời gian như dừng lại và chẳng có gì mà mong đợi cả. Một thời gian, trước cái trụ kỷ niệm của quân xtreletz ở Hồng trường có một người lính cầm kích đứng gác, rồi sau không thấy đâu nữa. Dân chúng đem rác rưởi đến đổ thành đống chung quanh cái cột trụ. Và ở các chợ, người ta lại bắt đầu thì thầm xì xào. Bọn xtreletz đâm nghi: vậy ra họ chưa làm đến nơi đến chốn; họ đã làm om sòm lên, nhưng chẳng được lợi lộc gì cả. Có lẽ phải làm cho xong xuôi việc này trước khi quá muộn chăng? Những người già cả nhắc lại những thời tốt đẹp xưa kia. Đời sống lúc đó không đắt đỏ bằng bây giờ, người ta no đủ hơn, sống đường hoàng hơn. Ở nông thôn, trai gái nắm tay nhau ca múa. Ở ngoại ô người ta đâm béo ra vì chẳng phải làm gì cả. Tuyệt nhiên không nghe nói đến chuyện cướp bóc. Thật thế đấy, nhưng tất cả những cái đó là chuyện đã qua!... Sáu người razkonic (1), sáu người không chịu quy phục quốc giáo, chuyên giải thích Kinh thánh, người gầy như mõ không ai lay chuyển được niềm tin, đến xloboda của quân xtreletz. “Con đường sống duy nhất, - họ nói với bọn xtreletz - con đường sống duy nhất cho các bạn là lật đổ lão giáo trưởng theo phái Nikon và tất cả bè lũ quý tộc quyền thế đã theo phái Nikon và tiêm nhiễm phong tục Ba Lan, để trở lại đức tin chân chính và lối sống cũ”. Mấy người razkonic đó đọc những quyển vở mang từ tu viện Xolovetski về trong đó có dạy cách thoát khỏi bùa phép mê hoặc của bọn Nikon và cách cứu vớt linh hồn mình như thế nào. Bọn xtreletz lắng tai nghe, nước mắt ròng ròng. Ở chợ, lão razkonic Nikita Pustosviat, một ông già đạo mạo, đứng trên một xe ngựa nhỏ có mui, đọc quyển vở của tu viện Xolovetski cho dân chúng nghe: “Hỡi các đạo hữu, tôi đã trông thấy Ma Vương, thật vậy tôi đã trông thấy hắn... Mới đây tôi đang chìm đắm trong những tư tưởng buồn nản bụng nghĩ đến thời Ma Vương sẽ xuất hiện, tôi đọc kinh nhưng rồi, khốn nạn thân tôi, tôi đã thiu thiu ngủ. Bỗng tôi thấy một đám đông trên một cánh đồng. Có người đứng bên cạnh tôi. Tôi hỏi người đó: Cái đám người đông đúc kia là thế nào? Hắn trả lời: Ma Vương sắp đến, cứ đứng yên đấy, đừng sợ. Tôi chống cây trượng có hai sừng đứng sững. Và người ta dẫn đến một người trần truồng, da thịt ghê tởm xông ra một mùi hôi thối, hắn thở ra lửa, từ mồm mũi và hai lỗ tai hắn bốc ra một ngọn lửa tanh tưởi đến lộn mửa. Theo sau là Sa hoàng của chúng ta, các thủ lĩnh, những người quý tộc, những quan đại thần của triều đình và những ủy viên của viện Duma... Tôi bèn nhổ vào mặt Ma vương và cảm thấy hết sức đau đớn... Kinh thánh có nói đến việc đó: chẳng bao lâu nữa Ma Vương sẽ đến...”. Thế là người ta hiểu cần phải đòi hỏi những gì. Bọn xtreletz chạy ùa đến điện Kreml. Ivan Andreevich Khovanski, thủ trưởng Bộ Cấm quân xtreletz đã tuyên bố theo giáo phái ly khai. Sáu người razkonic gầy như que củi, đứng đầu là Nikita Pustosvita đã ba hôm nay tuyệt không ăn uống một tí gì, mang những giá tán kinh, những cây thập ác bằng gỗ, những bản kinh cổ đến điện Hữu Giác rồi trước mặt Sofia, họ chửi rủa và nói xấu vị giáo trưởng và giáo hội. Bọn xtreletz tụ tập trước Thềm Đỏ hét lên: “Chúng tôi muốn trở lại đức tin cũ, chúng tôi muốn có đời sống tốt đẹp như xưa”. Có người nói những lời lẽ mạnh mẽ hơn: “Đã đến lúc công chúa nên lui về một tu viện, công chúa gây cho quốc gia khá nhiều chuyện rắc rối rồi. Đủ rồi”. Sofia tức giận chỉ còn cách hăm doạ:
- Các ngươi định đánh đổi chúng ta lấy sáu tên thầy tu, sáu tên nông dân dốt nát ư? Vậy thì chúng ta, những người trong gia đình của Sa hoàng, chúng ta không thể sống ở đây được nữa. Chúng ta sẽ đi đến những thành phố khác báo cho nhân dân biết sự suy tàn của chúng ta và sự phản bội của các ngươi.
Bọn xtreletz hiểu rõ điều Sofia hăm dọa chúng, chúng đâm hoảng. “Nếu bà ấy định tung đoàn vệ binh quý tộc đánh về Moskva thì làm thế nào?” Chúng bèn rút lui rồi bắt đầu thương lượng. Trong khi đó, theo lệnh của Vaxili Vaxilievich Golixyn, người ta đem đến quảng trường từng chậu rượu vodka và rượu bia lấy ở hầm rượu của Sa hoàng. Bọn xtreletz đâm ra nao núng, đầu óc choáng váng. Có kẻ kêu lên: “Bọn mình cần quái gì đến đức tin cũ kia chứ? Đó là việc của bọn thầy tu. Tóm cổ lấy bọn razkonic!”. Nói xong họ lôi một người trong bọn mấy ông già gầy đét ra chặt đầu và bóp cổ chết hai người nữa, mấy ông già còn lại chỉ đủ thì giờ chạy tháo lấy thân. Bọn quý tộc trời đánh thánh vật ấy đã thoát được cơn hiểm nghèo bằng cách đổ rượu cho người dân chất phác say mềm. Ở Moskva, thiên hạ ồn ào bàn tán như ong vỡ tổ. Bạ ai người ấy nói, bạ đâu kêu đấy. Không có ai là người có đầu óc đứng ra cầm đầu cả. Người ta nổi loạn một cách hỗn độn vô trật tự, cướp phá những quán rượu Sa Hoàng, lùng bắt bọn thơ lại của các bộ, các vụ và đem băm họ ra từng mảnh. Ở Moskva, không thể nào qua lại được dù đi bộ hoặc đi xe. Họ bao vây dinh thự của bọn quyền quý, bọn này phải tự tay nổ súng, chật vật lắm mới đánh lui được những cuộc tấn công - những trận đánh nhau trong những ngày đó thật là ác liệt. Lắm nơi cả một dãy nhà gỗ bốc cháy.
Xác chết không có người chôn cất nằm ngổn ngang trên các đường phố và ở các chợ. Có tin đồn rằng bọn quý tộc đã đưa một đoàn vệ binh đến trước thành Moskva: chúng định chỉ một tuần là dẹp xong cuộc nổi loạn. Một lần nữa bọn xtreletz lại cùng với đám nông nô đang trốn tránh đông như kiến cỏ xông vào điện Kreml xiên trên mũi giáo một lá đơn yêu cầu phải giao cho họ tất cả bọn quý tộc quyền thế, không chừa một ai, để đem ra xứ... Sofia ra đứng ở Thềm Đỏ, mặt tái đi vì tức giận:
- Người ta bịa đặt để nói xấu ta, ta không hề nghĩ đến việc tuyển một đoàn vệ binh, ta xin hôn thánh giá mà thề như vậy - Sofia kêu lên, tay giật chiếc thánh giá nạm kim cương lóng lánh đeo trên ngực - chính thái tử Matveika bịa đặt nói xấu ta.
Và từ trên thềm cao người ta quẳng thái tử xấu số người Tarta là Matveika vào mũi giáo mác dựng lên tua tủa. Đấy, cho bọn mi xâu xé lẫn nhau... Bọn xtreletz xé xác Matveika làm trăm mảnh cho hả giận và một lần nữa lại tiu nghỉu ra về... Suốt ba ngày ba đêm, Moskva tựa hồ như biển động; tiếng chuông báo động làm cho hàng đàn quạ cất cánh bay lên. Chính lúc đó, trong đầu óc những kẻ hung hăng nhất nảy ra ý kiến đánh rắn phải đánh dập dầu: đem giết phăng cả hai Sa hoàng lẫn Sofia. Nhưng đến ngày thứ tư khi dân thành Moskva tỉnh dậy thì điện Kreml đã rỗng tuếch: chẳng còn Sa hoàng, chẳng còn công chúa đâu nữa, họ đã cùng bọn quý tộc quyền thế rời Moskva đi nơi khác. Dân chúng rất đỗi hoảng sợ. Sofia trú lại làng Kolomenskoe và tức tốc cho người về các quận tuyển mộ một đoàn vệ binh quý tộc. Suốt tháng tám, Sofia đi khắp các làng mạc và tu viện ở các vùng lân cận Moskva, đứng ở thềm nhà thờ than khóc kể lể những nỗi oán hờn và sự bất hạnh của mình. Ivan Andreevich Khovanski ở lại điện Kreml với bọn xtreletz. Người ta bắt đầu tự hỏi xem có nên tôn hắn lên làm Sa hoàng không? Hắn là một người nhã nhặn, dòng dõi quý tộc lâu đời và tha thiết những phong tục cũ. Nếu như thế thì người dân đen sẽ có một Sa hoàng của riêng họ, do chính họ tôn lên ngôi. Những mong sau này được hưởng ân huệ lớn, bọn quý tộc vui lòng nai nịt lên ngựa ra đi. Một đoàn vệ binh lớn gồm hai trăm ngàn người tập hợp tiến về phía tu viện Ba Ngôi của Thánh Xecgiơ. Tựa như một con chim, Sofia luôn luôn lởn vởn chung quanh thành Moskva. Đến tháng chín, một chi đội kỵ binh do Sofia cấp tốc điều động đến và do Xtiovka Odoievski chỉ huy tấn công làng Kuskino vào lúc tờ mờ sáng. Ivan Andreevich Khovanski sau khi cùng quân xtreletz đi tuần tra chung quanh thành Moskva đã ngủ lại đêm ở đó trong một chiếc lều dựng trên một ngọn đồi nhỏ. Bọn xtreletz thản nhiên ngủ kỹ chẳng đề phòng gì cả nên bị chém chết hết không kịp trở mình. Ivan Andreevich mặc quần áo lót, nhảy bổ ra khỏi lều, tay khoa một lưỡi búa. Mikhail Tyktov từ trên mình ngựa, nhảy cưỡi lên vai hắn. Khovanski bị trói vào yên ngựa rồi giải về làng Vozdvizenskoe, nơi công chúa đang linh đình ăn mừng ngày sinh của mình: hôm đó là ngày Thánh Sofia. Mikhail Tyktov ném Khovanski từ trên mình ngựa xuống đất; quần áo chẳng có, vừa buồn rầu lại vừa xấu hổ, Khovanski quỳ xuống cỏ khóc. Saklovity, viên thơ lại của viện Duma đọc bản tội trạng. Ivan Andreevich tức giận kêu ầm lên:
- Nói láo! Không có ta thì ở Moskva máu đã ngập đến đầu gối từ lâu rồi.
Bọn đại thần do dự, không biết có nên làm đổ máu một dòng dõi quý tộc lâu đời như vậy không. Vaxili Vaxilievich mặt nhợt nhạt không còn một giọt máu. Khovanski và hắn, cả hai đều dòng dõi Gedymin. Vậy mà, bây giờ có những kẻ nguồn gốc nghèo hèn, mới được giàu sang, lại xử một người dòng dõi Gedymin. Thấy mọi người do dự, Ivan Mikhailovich Miloslavski liền tiến về phía những kỵ sĩ rồi ghé vào tai Xtiovka Odoievski thì thầm. Lập tức gã này cho ngựa phi nước đại phóng qua làng đến chiếc lều bằng lụa của công chúa Sofia rồi lại phi như bay trở về, mặc cho ngựa giầy xéo lên gà qué và trẻ con.
- Bà nhiếp chính ra lệnh không do dự, phải kết liễu số phận vương hầu ngay.
Nghe thấy thế, Vaxili Vaxilievich vội vã lánh đi nơi khác, lấy khăn tay che mắt. Khovanski rú lên một tiếng rùng rợn khi Mikhail Tyktov nắm lấy tóc hắn lôi xềnh xệch trên quãng đường bụi bậm. Ra đến đầu làng, người ta chặt đầu vương hầu Khovanski. Thế là bọn xtreletz mất chủ tướng. Khi biết tin Khovanski bị xử tử, chúng đâm hoảng sợ, kéo ùa cả vào trong điện Kreml đóng chặt cửa lại, nạp súng đại bác và chuẩn bị phòng thủ. Sofia vội vã trở lại tu viện Ba Ngôi của Thánh Xecgiơ để lánh mình sau những bức tường dày bất khả xâm phạm. Công chúa giao cho Vaxili Vaxilievich nhiệm vụ điều khiển đoàn vệ binh. Hai bên đóng quân đối diện nhau hầm hè diễu võ dương oai xem bên nào nhụt trước. Bọn xtreletz hoảng trước; chúng cho người đến tu viện Ba Ngôi xin tạ tội với Sofia. Thế là chúng mất hết tự do. Người ta hạ ngay cái cột trụ dựng ở Hồng trường. Người ta thu lại những giấy cam kết và những khoản miễn trừ đã cấp cho chúng. Saklovity được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ cấm quân xtreletz vì đã tỏ ra nhanh nhẹn trong việc thi hành luật pháp. Dân chúng không dám ho he gì nữa và một làn không khí im lặng bi thảm lại đè nặng lên thành Moskva và toàn cõi đất nước.
Năm, tháng trôi qua.
-------------
Chú thích:
(1) Giáo sĩ thuộc phái ly khai với đạo chính thống.

Chương 21

Alexaska rảo cẳng chạy men theo dãy hàng rào, trong ánh hoàng hôn đang trùm đường phố. Thỉnh thoảng nó lại thấy đau nhói trong tim và mắt mờ đi vì mồ hôi chảy ròng ròng. Một ngôi nhà gỗ đang bốc cháy ở đằng xa, ánh lửa ghê rợn chiếu sáng những vũng nước đọng trong vết bánh xe. Đằng sau Alexaska, cách xa khoảng hai mươi bước, Danila Melsikov say khướt đang đuổi theo, tiếng ủng nện xuống đất thình thịch. Lần nầy lão không cầm roi mà cầm một con dao găm lưỡi cong sáng loáng.
- Đứng lại? Tao sẽ giết chết mày! - Danila quát lên với một giọng dữ tợn. Alioska đã tụt lại đằng sau từ lâu, trèo tót lên cây. Đã hơn một năm nay, Alexaska chưa gặp lại bố lần nào, vậy mà bỗng nhiên nó lại gặp bố nó trước một quán rượu bị đốt phá. Lập tức Danila đuổi theo thằng con. Suốt quãng thời gian đó, Alexaska và Alioska ăn không đủ no nhưng sống vui vẻ.
Ở ngoại ô, người ta đã nhẵn mặt chúng, ai cũng vui lòng cho chúng ngủ đỡ lại một đêm.
Suốt mùa hè chúng tha thẩn trong vùng lân cận Moskva, dọc các con sông, trong các khu rừng. Chúng đánh bẫy những loài chim hót hay đem bán cho bọn con buôn, hay đi bẻ trộm hoa quả rau dưa. Có lúc chúng đi câu. Chúng mơ ước đánh bẫy được một con gấu để dạy làm trò, nhưng bắt được gấu đâu có phải chuyện dễ. Một hôm chúng thả câu trên con sông Yauza, nước trong vắt và lặng lờ từ những khu rừng rậm của Đảo Nai chảy ra, chợt chúng trông thấy một đứa bé ngồi ở bờ bên kia, cằm tì vào lòng bàn tay. Đứa bé ăn mặc lạ lùng: chân xỏ bít tất dài màu trắng, mình mặc áo nẹp xinh xinh màu xanh lá cây, may theo kiểu ngoại quốc, ve áo màu đỏ đính khuy sáng loáng. Cách đó không xa, trên một ngọn đồi con, nóc hình răng cưa của lâu đài Preobrazenski vươn lên đám cành lá um tùm của những cây bồ đề. Xưa kia có thể trông thấy toàn bộ lâu đài này: hình dáng thanh tao, màu sặc sỡ, nó in bóng trên sông Yauza; nhưng nay bỏ hoang không người săn sóc, nó đã bị che lấp sau đám cành lá um tùm. Trước cổng và trên cánh đồng cỏ, mấy người đàn bà đang chạy ngược chạy xuôi, miệng gọi ầm lên: hẳn họ đang tìm chú bé con. Nhưng chú bé ngồi khuất trong bụi ngưu bàng, không nhúc nhích, vẻ mặt hờn dỗi. Alexaska nhổ toẹt một bãi nước bọt vào mồi câu, rồi chõ sang phía bên kia bờ gọi đứa bé:
- Này, thôi đi, đừng ngồi đấy làm cá của chúng tao sợ nữa. Liệu hồn, chúng tao sẽ bơi qua sông lột quần mày ra cho mày một trận, cứ đợi đấy, rồi mày sẽ biết tay?
Đứa bé khụt khịt mũi không nói gì, Alexaska lại nói:
- Mày là ai? Bố mày là ai? Này, thằng oắt con...
- Tao sẽ cho chặt đầu mày, lúc đó mày sẽ biết, - đứa bé nói với một giọng nhỏ nhẻ.
Alioska liền thì thầm bảo Alexaska:
- Mày làm sao thế? Sa hoàng đấy. - Rồi nó bỏ cần câu xuống định bỏ chạy.
Một vẻ tinh nghịch lóe lên trong cặp mắt xanh của Alexaska.
- Khoan đã, chúng mình vẫn đủ thì giờ để mà chuồn cơ mà. - Nó thả dây câu rồi toét miệng cười, ngắm nghía thằng bé.
- Mày tưởng dọa chúng tao sợ phỏng? Còn phải tìm được người chặt đầu chứ... Nhưng mày ngồi làm gì đấy? Người ta đang tìm mày kia kìa...
- Tao ngồi đây thôi, tao trốn bọn đàn bà.
- Này, có lẽ mày là Sa hoàng của dân ta chắc? Phải không?
Đứa bé không trả lời ngay, rõ ràng là nó ngạc nhiên thấy có kẻ lại dám nói với nó một cách táo tợn như vậy.
- Phải, tao là Sa hoàng. Thế thì việc gì đến mày?
- Sao, việc gì đến tao à? Lẽ ra mày phải đem bánh mì ngọt ra cho chúng tao chứ. (Piotr nhìn Alexaska không chớp mắt và cũng chẳng cười). Thật đấy, về lấy đem ra cho bọn tao mấy cái, tao sẽ làm trò cho mà xem. - Alexaska bỏ mũ, lấy ở trong lần lót ra một chiếc kim.
- Trông này có đúng là một cái kim không nào? Mày có muốn tao đâm chiếc kim có xâu chỉ này qua má mà không việc gì không?
- Mày không nói dối chứ? - Piotr hỏi.
- Đây tao xin làm dấu thề. Mày có muốn tao làm dấu bằng chân không? - Alexaska nhanh nhẹn ngồi xuống, cầm lấy bàn chân để trần giơ lên mặt làm dấu. Piotr lại càng ngạc nhiên.
- Lại còn thiếu cái nước ấy nữa, bắt Sa hoàng chạy đi lấy bánh ngọt cho mày, - Piotr càu nhàu nói. - Thế cho mày tiền mày có đâm kim qua má không?
- Cho tao một đồng tiền bằng bạc, tao sẽ đâm kim qua má ba lần liền mà không việc gì cả cho mà xem.
- Mày không nói dối chứ? - Piotr tò mò chớp chớp mắt, rồi đứng dậy, nghểnh nhìn qua đám ngưu bàng về phía lâu đài, nơi mấy người đàn bà vẫn đang cuống cuồng gọi “a-hu”, rồi rảo chân chạy về phía chiếc cầu bắc ngang sông. Sang đến đầu cầu bên kia, Piotr đứng cách Alexaska có ba bước. Vài con chuồn chuồn xanh biếc đang rung cánh lướt trên mặt nước.
Mấy đám mây nhỏ và một cây liễu thân bị sét đánh vỡ nứt in bóng xuống mặt sông. Đứng dưới bóng liễu, Alexaska biểu diễn cho Piotr xem cái trò nó đã hứa, nó xiên chiếc kim có sâu chỉ đen qua má ba lần liền mà không việc gì cả; không chảy một giọt máu nào, chỉ có ba vệt bẩn nhỏ trên má mà thôi. Piotr tròn xoe đôi mắt nhìn như mắt cú vọ.
- Đưa tao chiếc kim, - Piotr nói với một giọng nóng nảy.
- Này, thế tiền đâu?
- Đây!
Alexaska giơ tay bắt lấy đồng rúp Piotr vứt cho nó. Piotr cầm lấy chiếc kim, xiên qua má mình rồi ngửa cái đầu có bộ tóc quăn về đằng sau; bật lên cười khanh khách:
- Tao cũng làm được như mày! Cũng làm được như mày? - Rồi bỏ rơi hai đứa bé, Sa hoàng chạy về lâu đài chắc là để dạy cho bọn đại thần biết cách xiên kim qua má. Đồng rúp mới tinh: một mặt có hình con phượng hoàng hai đầu, mặt bên kia có hình bà nhiếp chính Sofia.
Alexaska và Alioska cả đời chưa từng kiếm được nhiều tiền như vậy. Từ đó chúng thường hay đi trên bờ sông Yauza nhưng chỉ trông thấy Piotr ở đằng xa. Lúc thì thấy Piotr cưỡi ngựa con, theo sau là một bọn người to béo cưỡi ngựa, lúc thì thấy Piotr mang trống dẫn đầu một bọn con trai mặc áo nẹp kiểu Đức có đeo súng gỗ, rồi chúng lại thấy bọn người to béo ấy hoa chân múa tay tíu tít chung quanh Piotr.
- Nó chơi đùa nhảm nhí chẳng ra làm sao cả, - Alexaska ngồi dưới gốc liễu bị sét đánh nói.
Cuối mùa hè, Alexaska rút cuộc cũng tìm cách mua được của bọn người Digan một con gấu con gầy còm, có bướu trên lưng như vẫn thấy trên lưng lợn, với số tiền là nửa rúp. Alioska cầm đầu sợi dây xích có móc vào một cái vòng dẫn gấu đi. Alexaska hát múa, vật nhau với con gấu. Nhưng đến mùa thu, trời mưa, các đường phố và quảng trường ở Moskva bùn lầy đến tận đầu gối. Không cỏn chỗ nào để nhảy múa được nữa. Chẳng ai để cho chúng đem gấu vào nhà. Mà con gấu lại rất phàm ăn. Chúng kiếm được bao nhiêu vào mồm gấu hết. Hơn nữa, chúng thấy nó sắp sửa ngủ lì suốt mùa đông. Đành phải bán lỗ nó đi. Khi mùa đông tới, Alioska ăn mặc hết sức tiều tụy, đi ăn xin. Alexaska thì cởi trần đến ngang thắt lưng, đứng run như cầy sấy giữa trời lạnh như cắt trên quảng trường hay trước cửa nhà thờ giả làm kẻ câm hay bại liệt, moi được vô khối tiền của đám công chúng dễ động lòng trắc ẩn. Nhờ trời chúng cũng sống tạm ổn qua được mùa đông. Thế rồi, mặt đất lại khô ráo, các khu rừng lại xanh tươi, chim chóc lại hót líu lo. Hai đứa trẻ rất bận rộn: sáng sớm chúng đi câu trên con sông sương phủ mù mịt; ban ngày chúng la cà các chợ và chiều tối chúng vào rừng đặt bẫy.
Người ta đã nhiều lần bảo cho Alexaska biết:
- Mày coi chừng, lâu nay bố mày đi tìm mày khắp Moskva và dọa sẽ giết mày đấy.
Để trả lời, Alexaska tia nước bọt qua kẽ răng xa đến ba xagien. Thế mà bất chợt, nó lại chạm trán ngay với ông bố... Chạy đến đầu phố Baxmannaia cổ kính thì Alexaska bị chuột rút. Nó không dám ngoái cố lại nhìn nữa nhưng vẫn nghe thấy tiếng ủng chạy huỳnh huỵch và hơi thở phì phò của Danila mỗi lúc một gần sau lưng nó. Thôi, thế là chết đến nơi rồi!
- Cứu tôi với! - Alexaska kêu thất thanh. Giữa lúc đó, một chiếc xe hòm bốn bánh cao ngất nghểu, từ một ngõ ngang lắc lư ngoặt vào phố Razgulaia, nơi có một quán rượu nổi tiếng.
Đôi ngựa, đóng hàng một, đang phi nước kiệu. Một gã người Đức chân đi bít tất dài, đầu đội mũ rộng vảnh, cưỡi con ngựa đi đầu. Lập tức Alexaska lao về phía hai bánh xe sau đánh đu lên trục xe rồi leo lên chỗ ngồi đằng sau xe. Thấy vậy, Danila hét lên: “Đỗ lại!” Nhưng gã người Đức giơ roi thẳng cánh quất Danila ngã chúi vào đống bùn, lão tức uất người nguyền rủa không ngớt miệng. Chiếc xe hòm vụt qua. Alexaska ngồi ở phía sau xe lấy lại hơi thở.
Nó phải đi khỏi nơi này càng xa càng tốt: Ra khỏi cửa ô Pokrovskie, chiếc xe quặt vào một con đường bằng phẳng, chạy mau hơn trước, rồi chẳng mấy chốc đỗ lại trước một hàng rào cao chót vót. Một người ngoại quốc từ cửa đi ra hỏi gì không rõ. Một cái đầu, giống như đầu thầy tu, với bộ tóc dài quăn nhưng không có râu, thò ra ngoài cửa xe trả lời: “Franx Lơfo”.
Cửa mở và thế là Alexaska đã nghiễm nhiên ở Kukui, trong xloboda của người Đức. Bánh xe lăn lạo xạo trên cát. Ánh đèn ấm cúng từ cửa sổ những ngôi nhà nhỏ hắt ra, chiếu sáng những hàng rào thấp, những đám cây nhỏ xén gọn, những bầu thủy tinh hình cầu đặt trên những chiếc cọc cắm ở giữa những lối đi rải cát. Trong những khu vườn cỏn con, trước mấy căn nhà nhỏ, có những bông hoa trắng thơm ngát lạ lùng. Đó đây, trên những chiếc ghế dài và trên thềm nhà, mấy người Đức đang ngồi, đầu đội mũ bằng vải bông, miệng ngậm tẩu dài. “Cha mẹ ơi, sao mà họ sống sạch sẽ ngăn nắp thế?”. Alexaska ngồi sau xe tự nhủ thầm, đầu quay nhìn tứ phía. Những ngọn lửa nhỏ chập chờn trước mắt nó. Chiếc xe đang chạy trước một cái hồ hình vuông chung quanh có những chậu gỗ lớn màu xanh lá cây trồng những khóm cây tròn xinh xinh; xen giữa những chậu cây có treo những đèn lồng chiếu sáng mấy chiếc thuyền trên có phụ nữ đang cười đùa ca hát, váy chùm ngoài vén cao lên để khỏi nhàu, cổ, ngực đều để hở, cánh tay để trần đến tậu khuỷu, đầu đội mũ có cài lông chim.
Chính ở chỗ này dưới chân một chiếc cối xay gió, trước cửa một quán rượu có đèn sáng, thanh niên nam nữ đang từng cặp ôm nhau nhảy múa. Chỗ nào cũng có bọn lính ngự lâm đi lại; ở điện Kreml họ lầm lì khắc khổ nhưng ở đây thì họ không mang vũ khí, áo cởi cả khuy, khoác tay nhau hát cười ầm ĩ một cách bình dị không có một vẻ gì là tức giận. Ở đây tất thảy đều thanh bình, niềm nở tưởng đâu như không phải ở trên trái đất này; có lẽ phải dụi mắt xem có phải thật thế không? Có lẽ là một giấc chiêm bao chăng?
Bỗng xe chạy vào một cái sân rộng, giữa sân lả một cái hồ con hình tròn, có vòi nước phun. Phía trong cùng người ta thấy một ngôi nhà quét vôi giả gạch có dán đè những cột giấy trắng lên trên. Chiếc xe đỗ lại. Người đàn ông có mớ tóc dài xuống xe và trông thấy Alexaska cũng vừa nhảy xuống đất.
- Mày là ai, ở đâu đến đây làm gì? - Người ấy hỏi, giọng nói nghe kỳ cục. - Tao nói với mày đấy, thằng bé con kia. Mày có phải là kẻ cắp không?
- Cháu mà ăn cắp à? Cháu mà ăn cắp thì bác cứ đánh cho chết đi, - Alexaska vui vẻ nhìn thẳng vào khuôn mặt nhẵn nhụi, có cái mũi hếch và cái miệng tươi cười nhỏ nhắn. - Bác đã trông thấy bố cháu vác dao đuổi theo cháu ở phố Razgulaia rồi chứ?
- A, có, tao có trông thấy và tao đã bật buồn cười. Một người to lớn đuổi theo một đứa bé con.
- Dẫu sao thì rồi bố cháu cũng sẽ cắt cổ cháu. Cháu van bác, xin bác để cháu làm việc cho bác.
- Làm cho tao ư? Nhưng mày biết làm gì nào?
- Việc gì cháu cũng làm được... Trước tiên, cháu biết hát vô số bài. Cháu biết thổi sáo, thổi kèn, đánh nhịp bằng những chiếc thìa. Cháu biết pha trò cho người ta cười. Không biết bao lần người ta nghe cháu phải cười vỡ bụng. Cháu có thể nhảy múa từ sáng đến tối, rồi lại từ tối cho đến sáng mà không ra tí mồ hôi nào cả. Bác bảo gì cháu cũng làm được...
Franx Lơfo nắm lấy chiếc cằm nhọn của Alexaska. Rõ ràng hắn thấy thích thằng bé.
- Ồ mày là một thằng bé láu lỉnh... Mày đi lấy xà phòng rửa mặt mũi đi vì mày bẩn lắm. Xong tao sẽ cho mày quần áo rồi mày sẽ làm cho tao. Nhưng nếu mày ăn cắp...
- Bác nghĩ thế chứ, dại gì mà lại ăn cắp, - Alexaska nói một cách chắc chắn đến nỗi Franx Lơfo tin lời nó. Hắn gọi người coi ngựa ra nói cái gì đó về Alexaska rồi đi về phía ngôi nhà, miệng huýt sáo, chân nhún nhảy như múa, chắc là vì ở ngay gần đó, tiếng nhạc vang vang trên mặt hồ và đám phụ nữ Đức đang hò hét vui vẻ.

Chương 22

- Như thế đủ rồi, Nikita Moixeevich ạ, ta e rằng trẻ nó nhức đầu mất...
Natalia Kirilovna nói vừa dứt lời thì Sa hoàng Piotr đang đọc dở quyển sách nói về các vị tông đồ dừng ngay lại rồi vội đưa ngón tay đầy vết mực lên làm dấu. Không đợi cho Nikita Moixeevich Zotov, ông thầy dạy học và sư phó của Sa hoàng, rập đầu chào theo đúng như nghi lễ đã định, Piotr vội vã hôn tay bà mẹ, đang luống cuống muốn giữ con lại với mình dù chỉ trong một phút mà cũng không được. Piotr hấp tấp đi ra, đôi chân to xù rảo bước trên sàn nhà kêu cót két, trên những bậc hành lang và bậc cầu thang làm cho mấy bà già chuyên nghề ăn ghẹ ngồi thu lu trong những góc nhà tối om của lâu đài Preobrazenski hoảng sợ.
- Mũ lông của con đâu, đội vào kẻo cảm nắng đấy! - Thái hậu khẽ gọi con. Nikita Zotov đứng trước thái hậu, thành kính và thẳng đơ như khi ở nhà thờ, tóc chải cẩn thận, quần áo sạch sẽ, chân đi ủng ngắn bằng da mềm, mình khoác áo chùm dài bằng da mịn màu sẫm, cổ áo dựng đứng sau gáy cao hơn đỉnh đầu. Với một thái độ thành kính, hắn ngửa khuôn mặt nhẹ nhõm dễ coi có đôi môi lộ vẻ nhu nhược và một bộ râu loăn xoăn. Hắn là một người mộ đạo, cái đó không còn phải nói gì nữa. Nếu bảo hắn: Nikita, nhảy vào đống lửa đi, hắn sẽ nhảy ngay. Hắn trung thành hơn cả loài khuyển mã nhưng có điều là lúc nào hắn cũng có vẻ hớn hở thanh thản thái quá. Đối với một đứa trẻ khó bảo như Piotr thì đáng lẽ ra một người như hắn không thể làm sư phó được.
- Nikita Moixeevich, cần phải cho hoàng thượng đọc nhiều kinh thánh hơn nữa vì quả thật hoàng thượng không có vẻ Sa hoàng một chút nào cả... Rồi đây, ngoảnh đi ngoảnh lại đã phải lấy vợ cho hoàng thượng rồi... Cho đến giờ vẫn chưa bảo được hoàng thượng đi đứng cho đàng hoàng, thong thả, lúc nào hoàng thượng cũng chạy đùng đùng như một kẻ thường dân. Kia, ông trông hoàng thượng kìa...
Thái hậu nhìn qua cửa sổ, hai tay chắp lại tỏ ý buồn phiền. Piotr đang chạy qua sân, vừa chạy vừa vấp loạng choạng vì muốn chạy nhanh quá. Theo sau là một lũ gia nhân trong lâu đài, cao lêu đêu như sếu, tay cầm súng hỏa mai và rìu nhỏ lưỡi dài. Trên lũy đất đắp trước lầu đất bên kia hàng rào, trông tựa một pháo đài thu nhỏ, có một số nông dân bị lùa từ làng bên đến, đầu đội mũ kiểu Đức rộng vành. Họ lại còn được lệnh phải ngậm những chiếc tẩu nhồi đầy thuốc lá. Thấy Sa hoàng vừa nhảy chồm chồm vừa chạy về phía họ, họ đâm hoảng quên khuấy mất vai trò của mình làm Piotr cáu giận kêu váng lên, giọng như tiếng gà trống.
Natalia Kirilovna kinh hãi, trông thấy con mình mắt tròn xoe vì tức giận. Piotr trèo lên lũy pháo đài và hầm hầm cầm khẩu súng hỏa mai nhỏ đánh lấy đánh để một nông dân đang đứng rụt cổ lại.
- Ai không làm theo ý muốn của hoàng thượng, hoàng thượng có thể giết chết người ta được, - Natalia Kirilovna nói, - không hiểu tính nết hung hãn của hoàng thượng giống ai?
Cuộc chơi bắt đầu lại. Piotr bắt bọn gia nhân cao lênh khênh cầm rìu xếp thành hàng, rồi lại nổi giận vì họ không hiểu rõ ý định của mình. Thật quả là một tai họa: khi cáu lên Piotr líu cả lưỡi lại chẳng còn ai hiểu Sa hoàng nói gì nữa tựa hồ nhà vua muốn nói nhiều mà lưỡi không uốn theo kịp.
- Tại sao ít lâu nay đầu hoàng thượng lại cứ lắc lư như vậy?
Natalia Kirilovna nói và khiếp sợ nhìn con. Bỗng bà bịt hai tai lại. Đám nông dân ở cái pháo đài tí hon mang đến một khẩu đại bác bằng gỗ sồi mà theo lệnh của thái hậu căn dặn, người ta chỉ tọng vào nòng những thứ gì mềm nhất như khoai hoặc củ cải luộc. Đám nông dân châm ngòi bắn rồi hạ ngay khí giới của họ xuống, giơ cao tay lên tỏ ý đầu hàng.
- Không được đầu hàng! Lũ mi phải chiến đấu, - Piotr hét om lên, đầu quay tứ phía lắc lia lịa. - Chơi lại. Phải chơi lại từ đầu!
- Nikita Moixeevich, đóng cửa sổ lại đi, chúng làm ầm quá, ta nhức đầu lắm, - bà thái hậu nói. Khuôn cửa sổ nhỏ có những ô kính màu khép lại. Natalia Kirilovna gục đầu xuống, mấy ngón tay khẽ động đậy lần chuỗi tràng hạt bằng vỏ ốc biển đã được ban phước lành mua từ núi Atox về. Bà rất buồn. Nỗi phiền muộn và nước mắt đã làm bà già đi nhiều trong mấy năm qua. Tất cả nhan sắc của bà chỉ còn lại cặp lông mày và đôi mắt thâm quầng xưa kia long lanh sáng quắc. Lúc nào bà cũng mặc đồ đen, khoác một chiếc khăn quàng đen.
Xưa kia, hoàng hậu Maria Nagais đã sống như vậy ở Uglich với Dimitri xấu số... Nếu một số bất hạnh tương đương cũng xảy ra ở đây...
Bà nhiếp chính Sofia chỉ mơ tưởng có mỗi một điều: lấy Golixyn và lên ngôi báu. Sofia đã đặt bọn thợ thủ công người Đức đúc cho mình một cái vương miện rồi.
Lâu đài Preobrazenski vắng ngắt; chỉ có bọn gia nhân chạy rón rén trên đầu ngón chân và bọn u già, lão bộc xì xào trong các xó tối. Sa hoàng tuy hãy còn trẻ nhưng không sao chịu được những bả già đó: trông thấy một mụ nào áo vấy những giọt sáp đang men sát tường lần đi là Piotr cất tiếng hỏi một cách phũ phàng đến nỗi bà lão tội nghiệp sợ chết khiếp, gắng lắm mới lê được vào một xó nhà gần nhất.
Bọn quý tộc không lui tới lâu đài Preobrazenski vì ở đấy danh, lợi đều không có. Chúng đều đổ xô vào điện Kreml để được gần mặt trời. Để tỏ vẻ tôn trọng nghi lễ đôi chút, Sofia đã cắt bốn vị đại thần đi theo triều đình của Sa hoàng Piotr. Bốn người đó là: vương hầu Mikhail Alegukovich Seckaski, vương hầu Lykov, vương hầu Troekurov và vương hầu Boris Alekseevich Golixyn. Nhưng họ có tác dụng gì mới được chứ? Đến chân thềm, họ xuống ngựa một cách uể oải, hôn tay bà thái hậu rồi ngồi xuống và thỉnh thoảng lại yên lặng thở dài. Tìm đâu ra chuyện mà nói với một vị thái hậu đã bị thất thế? Piotr xồng xộc chạy vào phòng; bọn đại thần chảo Sa hoàng - mà nào có ra Sa hoàng - hỏi thăm sức khỏe Sa hoàng rồi lại thở dài, lắc đầu: quả thật là Sa hoàng trở nên ngỗ nghịch quá đỗi. Một vết sướt trên má, hai bàn tay nẻ toác ra. Không còn ra thể thống gì nữa.
- Nikita Moixeevich, người ta bảo rằng ở Mytisi có một mụ tên là Vorobikha gì đó chuyên xem bói bằng bã rượu kvas hay lắm, mọi sự mụ ấy tiên đoán đều đúng cả... - Bà thái hậu nói một cách rành mạch. - Có lẽ ông cho tìm mụ ấy đến chăng? Nhưng không hiểu tại sao, ta sợ lắm... Chỉ sợ mụ ấy lại tiên đoán một tai họa cho ai thôi...
- Tâu lệnh bà, có tai họa nào mà mụ đốn mạt Vorobikha đó có thể tiên đoán cho lệnh bà được? - Zotov đáp lại với một giọng ngọt ngào dễ nghe. - Nếu thế thì giá có xé xác nó ra từng mảnh cũng hãy còn là nhẹ...
Natalia Kirilovna giơ ngón tay út ra hiệu gọi. Zotov bước tới gần, đôi ủng mềm không một tiếng động.
- Moixeevich... vừa rồi mụ vợ góa của một tên xtreletz có mang một thúng hoa quả vào nhà bếp, mụ đó nói hôm trước Sofia có nói ầm cả cung, ai cũng nghe thấy: “Tiếc thay, bọn xtreletz khi đó đã không bóp chết cả con sói con lẫn con sói mẹ...”
Đôi môi của Natalia Kirilovna mấp máy, cái cằm hai ngấn buộc trong khăn quàng đen rung lên, nước mắt dàn dụa. Biết trả lời làm sao? An ủi thế nào? Tất cả các trung đoàn xtreletz và toàn thể đoàn vệ binh quý tộc đều đứng về phe Sofia, còn Piotr chỉ có khoảng ba chục tên lộc ngộc ngốc nghếch để làm trò vui và một khẩu đại bác bằng gỗ nhồi củ cải... Nikita Zotov dang tay, ngửa đầu về đằng sau tựa gáy vào chiếc cổ áo cứng nhắc. Bà thái hậu thì thầm:
- Hãy cho tìm mụ Vorobikha vào đây, đề mụ nói rõ sự thật xem sao chứ cứ tình hình này ta lại càng thấy sợ.
Ngày hè dài đằng đẵng, buồn tẻ. Từng đám mây trắng nhỏ lững lở trôi, có lúc dừng lại bên trên con sông Yauza. Trời nóng như thiêu như đốt. Ruồi nhặng không ngớt quấy nhiễu. Qua làn sương mờ hiện lên vô số nóc tròn của kinh thành Moskva và những đỉnh tháp của pháo đài, gần hơn nữa là ngọn tháp nhà thờ của người Đức và những chiếc cối xay gió của xloboda Kukui. Tiếng gà mái cục te cục tác, nghe buồn ngủ. Từ nhà bếp vọng ra tiếng dao dĩa chạm nhau loảng xoảng. Thời còn Sa hoàng Aleksey Mikhailovich, lâu đài Preobrazenski suốt ngày vang lên tiếng cười đùa ầm ĩ. Người đông như hội, ngựa hí inh tai.
Hết cuộc vui này lại đến trò chơi khác: khi săn thú, săn gấu, lúc đua ngựa. Còn bây giờ thì trông đấy: cỏ dại đã mọc lấp cả con đường từ cổng đá đần tới thềm nhà. Cuộc đời đã trôi qua. Hãy ngồi đấy mà lần tràng hạt!
Một vật gì bỗng đập vào cửa kính. Zotov vội mở cửa sổ. Piotr đứng dưới gốc một cây bồ đề, người đầy cát, bụi bậm, quyện vào mồ hôi, bẩn thỉu như con nhà nông dân, gọi Zotov:
- Nikita, viết cho ta một đạo dụ... Bọn nông dân của ta chẳng được tích sự gì cả. Chúng già yếu, ngu ngốc quá... Nhanh lên!
- Kẻ hạ thần này phải viết thế nào trong dụ? Xin bệ hạ cho biết, - Nikita nói.
- Ta cần một trăm nông dân, trẻ, khỏe mạnh. Nhanh lên...
- Nhưng dùng bọn nông dân này vào việc gì ạ? Thần phải viết thế nào ạ?
- Dùng vào những trò chơi quân sự... Và phải gửi đến cho ta những súng tốt, với đạn dược... và cả hai khẩu đại bác bằng gang, bắn thật ấy... Nhanh, nhanh lên để ta ký rồi cho phu trạm đưa đi...
Thái hậu thò đầu ra ngoài cửa sổ, lấy tay gạt một cành bồ đề vướng mắt ra một bên.
- Piotr, ánh sáng của mẹ, lúc nào con cũng chỉ đánh nhau thôi... Con hãy nghỉ đi, ở đây với mẹ một lúc đã?
- Không có thì giờ mẹ ạ, chốc nữa, bây giờ con không có thì giờ...
Piotr bỏ chạy. Thái hậu Natalia Kirilovna, đưa mắt nhìn theo con, miệng thở đài. Zotov làm dấu thánh giá rồi rút ra một chiếc lông ngỗng và một con dao con. Hắn tỉ mỉ vót nhọn đầu chiếc lông ngỗng, viết thử lên móng tay. Một lần nữa hắn lại làm dấu, đọc một bài kinh, xong vén ống tay áo ngồi thảo đạo dụ bằng lối chữ bán đại tự:
- Thừa thiên hưng vận, Sa hoàng kiêm Đại quận công, hoàng đế quang minh cao cả vả hùng mạnh Piotr Alekseevich, toàn quyền ngự trị Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga...”
Ngồi buồn, thái hậu Natalia Kirilovna mở vở làm bài của con ra xem. Đó là một vở toán, chi chít vết mực: nét chữ khó đọc, hàng chữ đè lên nhau: “Ví dụ tính cộng... Tôi nợ một số tiền lớn nhưng có ít thiền hơn xố nợ và tôi phải tính còn phải chả bao nhiêu. Phải làm như sau: viết xố thiền nợ lên chên, số tiền có suống dưới rồi chừ xố chên với xố dưới. Ví dụ: hai chừ một còn một. Phải viết xố hai lên chên, xố một xuống dưới, gạch ngang một cái dưới xố một, rồi viết kết quả dưới gạch ngang... “
Bà thái hậu bỗng ngáp, thực ra bà cũng chẳng biết mình muốn gì, muốn ăn hay làm gì...
- Nikita Moixeevich, ta quên khuấy đi mất, hôm nay đã ăn quà chiều rồi hay chưa nhỉ?
- Tâu lệnh bà, - Zotov gác bút sang một bên, đứng dậy cúi chào đáp lại, - sau khi ăn trưa, lệnh bà đã vui lòng đi nghỉ và khi dậy, lệnh bà đã dùng quà chiều, quả đánh kem, lê nấu và rượu mật ong của tu viện gửi đến...
- Ừ phải... Vậy thì sắp phải đi dự khóa lễ chiều rồi.
Thái hậu Natalia Kirilovna uể oải đứng lên đi vào buồng riêng. Trong buồng, dưới ánh sáng le lói của những chiếc đèn chong đêm (cửa sổ che rèm), mấy mụ già ăn bám ngồi dọc theo bức tường trên những chiếc hòm có vải bọc ngoài; vốn hay kiếm chuyện gây sự, họ đang thì thầm trách móc nhau. Thái hậu Natalia Kirilovna vào; cả bọn vội đứng dậy, cúi gập người trông như những con búp bê bằng giẻ cũ không xương và cúi chào. Bà thái hậu ngồi xuống chiếc ghế bành kiểu Vơnidơ, có lưng tựa cao, bên dưới những tranh thánh. Từ phía sau chiếc giường, một mụ lùn mắt toét chạy ra, khóc nức nở như một đứa con nít rồi ngồi thụp xuống, nép vào chân bà thái hậu: mụ bị mấy bà già ăn bám kia bắt nạt.
- Các bà hãy kể ra nghe xem các bà nằm mê thấy những gì nào, - Natalia Kirilovna nói - Có ai mơ thấy kỳ lân không?
Chuông nhà thờ trong lâu đài thong thả điểm từng tiếng một, báo ngày đã tàn. Trong tiền sảnh, ở các cầu thang, xuất hiện bọn con em quý tộc, bọn quý phái nông thôn, dòng dõi tầm thường, bọn dapife (1) do Sofia cắt đi theo triều đình Piotr; chúng vừa đi vừa dụi cặp mắt húp híp vì ngái ngủ. Trong bọn này có Vaxili Volkov - cha hắn đã cầu khẩn nói khó nên cuối cùng đã xin được cho con cái danh giá đó. Ăn uống tha hồ, đời sống dễ dàng, lương lại được sáu mươi rúp một năm. Nhưng chỉ phải cái tội là buồn chẳng biết làm gì cả. Bọn dapife ngủ suốt ngày. Chuông báo khóa lễ chiều. Nhưng Sa hoàng đâu rồi? Bọn dapife bổ đi tìm khắp nơi, ngoài sân, trong vườn rau, ngoài đồng cỏ, bờ sông. Thái hậu đã phái thêm hai mươi vú em to mồm, cùng đi tìm với bọn dapife. Họ tìm kiếm khắp vùng không còn thiếu chỗ nào, gọi ầm cả lên nhưng tuyệt không thấy Sa hoàng đâu cả. Ôi lạy Chúa, hay Sa hoàng chết đuối rồi? Bọn dapife hết cả lờ đờ ngái ngủ. Chúng nhảy lên mình ngựa chẳng kịp đóng yên cương rồi mỗi người đi tìm mỗi ngả, vừa hò vừa gọi trên cánh dồng đang chìm dần vào đêm tối. Tại lâu đài, thật là cả một sự hốt hoảng. Xó nào cũng có những mụ già loắt choắc đang liến láu thì thầm:
- Mụ Sonka(2) đấy, chỉ có mụ ấy thôi chứ còn ai nữa. Vừa rồi có một gã lảng vảng chung quanh lâu dài... trong ống ủng hắn gài một con dao, có người trông thấy... Chúng đã cắt cổ người bố nuôi bé bỏng của ta rồi, chúng đã cắt cổ Người rồi...
Những tiếng thì thầm ghê rợn đó làm Natalia Kirilovna không sao chịu được nữa, sợ hoảng lên. Bà chạy ra ngoài thềm. Một làn khói từ cánh đồng chìm trong đêm tối bốc lên. Tiếng cuốc kêu ra rả trong những thung lũng nhỏ ẩm ướt. Xa xa bên trên khu rừng Chim ưng, một ngôi sao hiện lên, ánh sáng thê lương, nhợt nhạt. Nỗi lo âu như đâm vào tim Natalia Kirilovna. Thái hậu vặn tay tuyệt vọng kêu lên:
- Piotr, con ơi!
Vaxili Volkov phi ngựa dọc theo con sông, tới chỗ mấy người dân chài đang chất củi đốt lửa; đám dân chài sợ quá vội đứng nhỏm cả dậy, nồi cá đang đun đổ lật vào lửa. Volkov thở hổn hển hỏi:
- Này, bọn nông dân, tụi bay có thấy Sa hoàng đâu không?
- Có lẽ chính Sa hoàng đã đi thuyền qua đây lúc nãy chăng? Mấy người chèo thuyền hình như cho thuyền đi thẳng về phía Kukui. Ngài hãy đến chỗ người Đức ở mà tìm.
Cổng xloboda người Đức chưa đóng. Volkov phi ngựa theo đường phố về phía có nhiều người Đức đang túm tụm lại thành một đám đông. Ngồi trên mình ngựa hắn nhìn thấy Sa hoàng, bên cạnh là một người tầm thước tóc dài, vạt áo nẹp ngắn xòe ra như cánh gà. Một tay hắn cầm mũ cách xa người, một tay cầm chiếc gậy. Quân chó đẻ ấy vừa cười vừa nói chuyện với Sa hoàng chẳng chút ngượng nghịu. Piotr vừa nghe hắn nói vừa cắn móng tay.
Và tất cả bọn Đức trâng tráo ấy đứng đàng hoàng chẳng hề khúm núm. Volkov xuống ngựa, len vào quỳ xuống trước mặt Sa hoàng.
- Tâu bệ hạ, thái hậu đang lo lắng không biết có chuyện gì xảy đến cho bệ hạ. Xin bệ hạ hãy trở về dự khóa lễ chiều...
Piotr hất đầu tỏ vẻ sốt ruột:
- Ta không muốn về. Cút đi! 
Volkov vẫn quỳ và nhìn Piotr một cách thành kính, Sa hoàng đỏ mặt tía tai, co chân đạp Volkov, nói:
- Cút đi, đồ nông nô!
Volkov dập đầu sát đất chào rồi vẻ mặt buồn bực, không nhìn những người chung quanh đang khúc khích cười, phi nước kiệu về báo cáo với thái hậu.
Một người Đức tính tình hiền lành, cằm hai ngấn, trắng hồng, mình mặc áo gilê, đầu đội mũ chụp bằng vải bông, chân xỏ giầy vải thêu - hắn bán rượu vang, tên là Ivan Monx - từ trong quán rượu của hắn đi ra để xem mặt Sa hoàng; hắn rút chiếc tẩu sứ ra khỏi miệng, nói:
- Hoàng thượng thích ngự ở đây hơn là ở nhà. Ở đây vui hơn...
Bọn ngoại quốc xúm xung quanh đều nhả tẩu ra cầm tay, gật đầu biểu đồng tình, miệng mỉm cười một cách hiền hậu.
- Đúng đấy, ở khu chúng ta vui hơn...
Rồi họ nhích lại gần để nghe xem Franx Lơfo, anh chàng lịch sự có bộ tóc giả loăn xoăn to xù, đang nói gì với vị Sa hoàng cao lênh khênh cổ ngẳng. Piotr đã gặp hắn ở bờ sông Yanza.
Sa hoàng đi trên một chiếc thuyền lớn, nặng nề, bọn gia nhân vụng về chèo thuyền, mái chèo luôn luôn đập vào cọc chèo. Piotr ngồi ở mũi thuyền, hai chân gập lại. Trong ánh hoàng hôn, Sa hoàng trông thấy những mái ngói, những ngọn tháp nhọn hoắt, ngọn những cây đã được gọt tỉa, những chiếc cối xay gió cắm chong chóng trên đỉnh, những chuồng nuôi chim bồ câu, tất cả những cái ấy đang từ từ tiến lại gần. Một điệu nhạc lạ lùng từ khu Kukui vọng lại, tựa hồ hình ảnh cái thành phố huyền ảo xa xăm trong những câu chuyện thần thoại mà bọn vú bõ đã kể cho Piotr nghe khi Piotr còn thơ ấu. Trên bờ sông, một người mặc áo nẹp bằng nhung, vạt áo phanh ra hai bên hông, cạnh sườn đeo thanh gươm và trên đầu đội mũ ba cạnh, đang đứng trên một đống rác: đó là viên đại úy Franx Lơfo. Piotr đã trông thấy hắn ở điện Kreml trong một cuộc chiêu đãi các sứ thần nước ngoài. Tay trái cầm cách xa người một cái gậy dài, tay phải bỏ mũ ra, hắn lùi lại một bước nghiêng mình chào, - những chùm tóc giả loăn xoăn xoà xuống kín cả mặt. Hắn đứng thẳng người lên cũng không kém phần nhanh nhẹn rồi với một nụ cười nhếch trên mép, hắn nói rành mạch một câu tiếng Nga lủng củng nghe chói cả tai:
- Hạ thần xin hết lòng phụng sự hoàng thượng...
Người đó lanh lợi, vui vẻ và cử chỉ chẳng giống ai đến nỗi Piotr ngây người ra nhìn như một hiện hình kỳ lạ. Lơfo lắc lư bộ tóc giả loăn xoăn nói với Sa hoàng:
- Thần có thể đưa hoàng thượng đến xem một cái cối xay chạy bằng nước, có công dụng bào nhỏ thuốc lá dùng để hít, xay kê, làm chuyển động một chiếc khung cửi và đưa nước lên đổ vào một cái thùng to. Thần lại có thể dẫn hoàng thượng đến xem một cái bánh xe cối xay bên trong có một con chó chạy làm cho bánh xe quay. Ở nhà bác Monx bán rượu vang có một cái hộp âm nhạc trên nắp có tượng mười hai công tử và tiểu thư cùng hai con chim nhỏ trông như thật, nhưng không lớn hơn móng tay. Hai con chim hót như họa mi, đuôi, cánh đều vẫy được, theo những định luật cơ học phức tạp. Thần sẽ đưa hoàng thượng xem một ống viễn kính dùng để quan sát mặt trăng và cho người ta trông thấy trên mặt trăng có nhiều biển cả núi non. Ở hiệu thuốc, hoàng thượng sẽ thấy một đứa con gái sơ sinh ngâm trong cồn: mặt nó bề ngang chỉ đo được một phần tư, mình đầy lông tơ, tay chân chỉ có hai ngón.
Piotr thao láo tròn xoe mắt vì hiếu kỳ nhưng mím cặp môi nhỏ lại không nói. Không hiểu tại sao Piotr cho rằng nếu mình bước lên bờ với cái thân hình lênh khênh và đôi cánh tay dài nghêu thì Lơfo chắc sẽ cười mình. Piotr khụt khịt một cách bực bội, dùng dằng chưa muốn dời thuyền tuy rằng mũi thuyền đã chạm vào bờ. Lơfo liền chạy xuống gần mặt nước, dáng điệu lịch sự, vui vẻ hồn hậu; hắn cầm lấy bàn tay Piotr sứt sát, móng tay gặm mòn, rồi siết chặt vào ngực.
- Chà, bọn dân lành chúng thần ở Kukui sẽ rất sung sướng được bái yết bệ hạ. Họ sẽ đưa bệ hạ xem những vật kỳ lạ rất ngộ nghĩnh.
Lơfo vốn khéo léo và mưu mẹo. Piotr chưa kịp định thần thì đã thấy mình đi bên cạnh Lơfo, tay ve vẩy, tiến về phía cổng xloboda Kukui. Dân cư nơi này béo tốt da dẻ hồng hào, đứng quây chung quanh Piotr và Lơfo, ai cũng muốn khoe nhà mình, cối xay của mình có con chó chạy trong bánh xe, cái vườn của mình, có những lối đi rải cát, những khóm cây xén tỉa gọn gàng và không có đến một ngọn cỏ mọc thừa. Họ đưa Piotr đi xem mọi vật tinh xảo mà Lơfo đã nói. Piotr ngạc nhiên luôn miệng hỏi:
- Thế cái kia là cái gì? Thế còn cái kia dùng để làm gì? Thế còn cái kia, làm thế nào?
Dân Kukui gật gù tỏ vẻ tán thành nói:
- Chà, Sa hoàng trẻ tuổi Piotr Alekseevich cái gì cũng muốn biết, thật đáng khen.
Sau cùng, họ dẫn Piotr đến cái hồ vuông. Trời đã nhá nhem tối. Ánh đèn lọt qua cánh cửa mở toang của quán rượu, chiếu sáng mặt hồ. Piotr trông thấy một chiếc thuyền con, cánh buồm nhỏ rũ xuống vì không có gió. Một cô gái trẻ măng ngồi trên thuyền mình mặc áo dài màu trắng trông tựa một bông hồng đang nở. Tóc cô bé búi lên và cài hoa, đôi cánh tay để trần ôm một cây đàn tỳ bà. Thấy thế, Piotr rất đỗi ngạc nhiên, thậm chí còn sợ nữa, không hiểu tại sao? Cô gái quay mặt về phía Piotr, khuôn mặt trông thật huyền ảo trong ánh hoàng hôn, rồi tay bật dây đàn tỳ bà, nàng bắt đầu hát bằng tiếng Đức với một giọng nhỏ nhẹ, một bài ca nghe hay và cảm động đến nỗi mọi người đều thấy mủi lòng. Giữa những hàng cây xanh tươi tốt xen thành hình cầu hay hình tán, những bông hoa thuốc lá trắng tỏa mùi thơm êm dịu. Một cảm giác lạ lùng làm cho tim Piotr đập thình thình.
- Cô gái hát để chào mừng bệ hạ, - Lơfo nói với Piotr. - Thiếu nữ xinh đẹp đó là con gái của Johan Monx, một nhà buôn rượu vang lớn.
Chính Johan Monx miệng phì phèo tẩu thuốc lá cũng vui vẻ giơ tay lên chào Piotr. Giọng nói cám dỗ của Lơfo thì thầm:
- Nhiều cô gái sắp tụ họp trong quán rượu ngay bây giờ; sẽ có nhảy múa và đốt pháo bông...
Có tiếng vó ngựa lộp cộp dữ dội trong đường phố tối mò. Một đám đông dapife đến tận chỗ Sa hoàng đứng, đem theo nghiêm lệnh của thái hậu đòi Sa hoàng về.
Lần này thì đành phải vâng lời thôi.
-------------
Chú thích:
(1) Thị vệ, quan hầu vua khi ăn.
(2) gọi tắt Sofia.

Chương 23

Khách ngoại quốc đến thăm điện Kreml thường ngạc nhiên nói rằng, không như ở Paris, ở Viên, ở London, ở Warsawa hay ở Stockholm, triều đình Sa hoàng giống một cửa hiệu buôn thì đúng hơn. Những cuộc giải trí lịch sự, những buổi khiêu vũ, những trò chơi, những thú vui tế nhị đều không có. Trong những căn phòng thấp nóng hầm hập của điện Kreml, bọn quý tộc đại thần mình mặc áo dài bằng gấm thêu kim tuyến, bọn vương hầu kiêu kỳ và bọn tổng trấn lừng danh chỉ tụm nhau lại mà nói rặt những chuyện mua bán gai, bột tạt, dầu hải cẩu, lúa mì, da... Họ mặc cả gắt gao. Họ thở ngắn than dài rằng đất đai của họ phì nhiêu, thứ gì cũng dồi dào, nhưng sự buôn bán lại đình trệ, và tuy dinh cơ của những người quý tộc rộng thênh thang nhưng lại chẳng sản xuất được thứ gì để bán cả. Ở Hắc Hải thì người Tarta thống trị. Ra biển Baltic thì không được. Nước Trung Hoa thì xa lắc xa lơ và cả một dãy miền Bắc nằm trong tay người Anh. Nhẽ ra phải chiếm lấy biển cả nhưng việc nầy quá sức họ.
Vả lại người Nga bản chất chậm chạp vụng về, quen sống ru rú xó nhà. Họ sống như loài gấu, ẩn trong những ngôi nhà kín cống cao tường ở Moskva.
Mỗi ngày họ đứng dự ba khóa lễ. Mỗi ngày họ ăn uống no say bốn lần rồi lại còn ngủ trưa nữa để tỏ ra có tư cách và giữ gìn sức khỏe. Chẳng còn mấy thì giờ để làm những công việc khác: bọn quý tộc đại thần thì phải vào triều túc trực để Sa hoàng sai bảo; bọn lái buôn thì ngồi trước cửa hàng chào khách; bọn thơ lại các bộ, các vụ thì vùi đầu vào nghiên cứu văn kiện.
Người Nga hẳn còn phải than thở lâu nữa, miệng húng hắng ho, tay gãi sườn nếu không có một sự việc bất ngờ xảy ra: vận may đã đến với họ. Vua Jean Xobieski nước Ba Lan phái mấy sứ thần danh tiếng đến Moskva để ký kết với nước Nga một liên minh chống Thổ Nhĩ Kỳ. Với một giọng ngọt ngào, mấy người Ba Lan nói rằng không thể nào để cho bọn Thổ đê tiện hành hạ người theo đạo Thiên chúa được và người Nga chính thống mà chung sống hoà bình với vua Thổ Nhĩ Kỳ và phiên vương xứ Krym thì thật không hợp đạo lý chút nào. Ở Moskva, người ta hiểu ngay rằng người Ba Lan đang gặp khó khăn và bây giờ là lúc nên mặc cả với họ. Đúng như vậy: nước Ba Lan đồng minh của hoàng đế Áo đang phải chật vật chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ và về phía Bắc lại bị người Thụy Điển hăm dọa. Mọi người còn nhớ in trong óc những cảnh tàn phá của cuộc chiến tranh Ba mươi năm, khi đế quốc Áo nghiêng ngả, nước Đức kiệt quệ và Ba Lan trở thành một thái ấp của Thuỵ Điển hay cũng gần như vậy. Làm bá chủ biển cả hiện nay là người Pháp, người Hà Lan, người Thổ Nhĩ Kỳ và trên suốt bờ biển Baltic là người Thụy Điển. Người ta hiểu rõ người Ba Lan muốn gì: sử dụng quân đội Nga để bảo vệ những vùng thảo nguyên ở Ukraina chống lại vua Thổ Nhĩ Kỳ.
Vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn, quan đại chưởng ấn của Sa hoàng, bộ trưởng các sứ quán và là tổng trấn tỉnh Novgorod, đòi người Ba Lan phải trả lại Kiev.
- Hãy trả lại chúng tôi đất Kiev với những pháo đài nhỏ của nó, xưa nay vẫn thuộc về Sa hoàng, có như vậy thì sang năm, chúng tôi sẽ gửi quân đến Krym để đánh phiên vương.
Người Ba Lan thương lượng ròng rã ba tháng rưỡi trời:
- Thà chúng tôi mất hết còn hơn phải trả lại Kiev.
Người Nga chẳng có gì phải vội, nên nhất định không chịu rút lui ý kiến, họ đọc cho người Ba Lan nghe tất cả những sử liệu viết từ hồi nước Nga thần thánh lập quốc. Rút cuộc người Nga thắng. Jean Xobieski bị người Thổ Nhĩ Kỳ đánh thua ở Bexarabi vừa khóc vừa ký hòa ước đời đời với triều đình Moskva vả trả lại Kiev với những pháo đài nhỏ cho người Nga.
Thành công quả là lớn, nhưng ngược lại, không thể lùi được nữa: phải tập hợp một đạo quân đi đánh phiên vương xứ Krym.

Chương 24


Trong ngôi nhà Golixyn ở trông ra phố Okhotnyi Riat, chỗ nào cũng sạch sẽ chỉnh tề. Tường nhà rực rỡ chói lọi vì dát đồng mỏng từ nóc nhà đến mặt đất. Ở cửa vào, hai tên lính pháo thủ Thụy Sĩ cao lớn, đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp da trâu, đứng gác trên những nệm rơm bện. Hai tên lính khác gác ở trước hàng rào sắt thếp vàng. Dân chúng đi dạo chơi trong phố Okhotnyi Riat thường đứng ngẩn ra nhìn bộ mặt no nê của bọn lính Thụy Sĩ, cái sân rộng thênh thang lát đá màu, cỗ xe sang trọng hoàn toàn lắp kính, có đóng bốn con ngựa hồng, ngôi nhà lộng lẫy của quan đại chưởng ấn, tình nhân của bà công chúa nhiếp chính.
Trong tiết trời nóng bức oi ả ngày hôm đó, Vaxili Vaxilievich ngồi giữa luồng gió mát, trước cửa sổ mở rộng, và đang chuyện trò bằng tiếng la tinh với De Nơvin một người ngoại quốc từ Warsawa tới. Người khách mang một bộ tóc giả và mặc áo lễ phục Pháp, kiểu mới nhất của triều đình vua Louis XIV. Vaxili Vaxilievich không mang tóc giả nhưng cũng ăn mặc theo kiểu Pháp: bít tất dài và giầy màu đỏ, quần ngắn chẽn ống bằng nhung có thắt dải màu, dưới chiếc áo nhung ngắn, áo lót bằng vải mịn viền đăng-ten thòi ra ở bụng và ở hông.
Vaxili để ria mép nhưng cằm cạo nhẵn thín. Trên một cái bàn tròn ở trước mặt hắn, có để những cuộn giấy má, những quyển vở, những cuốn sách la-tinh bọc da, những bản đồ và những hoạ đồ kiến trúc. Tường đều phủ da thiếp vàng, chạm nổi và có treo chân dung của các vương hầu dòng họ Golixyn; và trong một chiếc khung xa hoa kiểu Vơnidơ, một con chim ưng hai đầu, móng quặp lấy chân dung của Sofia. Những ghế bành kiểu Pháp, kiểu Ý, cái thì bọc vải thêu, cái thì bọc gấm, những thảm màu sắc rực rỡ, rất nhiều đồng hồ treo trên tường, những thứ khí giới của người Ba Tư, quả địa cầu bằng đồng, chiếc hàn thử biểu của Anh, những giá nến và bình trầm bằng bạc khối, những bìa sách, và trên nền trần cuốn, bầu trời chỗ thếp vàng, chỗ thếp bạc, chỗ màu xanh - tất cả những thứ đó phản chiếu vào những tấm gương treo giữa hai khuôn cửa sổ và bên trên cửa ra vào, làm hình ảnh đó tăng lên bất tận. Khách để ý nhìn những đồ đạc nửa Á nửa Âu đó với một vẻ tò mò tán thưởng.
Vaxili Vaxilievich, ngồi bắt chéo ngoeo, tay mân mê cái bút lông ngỗng, ân cần mỉm cười và nói tiếng la-tinh hơi đá giọng Moskva, nhưng được cái trơn tru ít khi phải ngập ngừng chọn chữ:
- Thưa tôn ông De Nơvin, tôi xin trình bày để tôn ông rõ. Hai tầng lớp hợp thành nền tảng của dế quốc chúng tôi: một, chuyên cung cấp lương thực và một, chuyên vào việc phục vụ, nghĩa là tầng lớp nông dân và tầng lớp quý tộc. Hai tầng lớp này đang ở trong cảnh vô cùng khổ cực, đế quốc chúng tôi chẳng được lợi gì chỉ tốn kém thêm thôi. Thật là đại phúc nếu chúng tôi tách được lớp quý tộc ra khỏi nông dân vì rằng hiện nay, chỉ vì tham lam, đám chúa đất ăn sống nuốt tươi tụi nông nô không chút thương xót, khiến cho không những nông dân khốn đốn, mà cả quý tộc cũng khốn đốn và đế quốc cũng vậy...
- Thưa ngài Đại chưởng ấn, thật là những lời lẽ rất mực sáng suốt và sâu sắc, - De Nơvin thủng thẳng nói. - Nhưng ngài định giải quyết vấn đề gay go đó như thế nào?
Vaxili Vaxilievich mỉm cười, nét mặt rạng rỡ hẳn lên, cầm lấy cuốn vở bọc da dê nhuộm màu để ở trên bàn, có mang đầu đề do chính tay hắn viết như sau: “Bàn về đời sống của dân hay về sự cải thiện tất cả các công việc theo lợi ích chung của nhân dân đòi hỏi”.
- Muốn làm cho toàn dân giàu có là một công cuộc lớn lao và vô cùng khó khăn, - Vaxili Vaxilievich tuyên bố, rồi bắt đầu đọc trong cuốn sổ ghi: - “Có hàng triệu dexiatin đang bị bỏ hoang. Những đất đai đó đáng được cày bừa trồng trọt. Tăng số súc vật chăn nuôi. Bỏ giống cừu Nga gầy còm đi và bắt buộc chăn nuôi giống cừu Anh có lông mịn. Làm cho dân chúng quan tâm đến mọi ngành công nghiệp và nhất là công nghiệp hầm mỏ, bằng cách cho họ có lợi đúng mức. Hủy bỏ những sưu thuế, tạp dịch linh tinh nặng nề, và đặt cho tất cả mọi người một thứ thuế chung, độc nhất và vừa phải. Việc này sẽ chỉ thực hiện được với điều kiện là lấy lại hết đất đai của các lãnh chúa, giao lại cho bọn nông dân tự do. Hủy bỏ hết những văn tự sở hữu nông nô cũ để từ nay trở đi toàn dân không phải làm nô lệ cho ai cả, có lẽ chỉ trừ một số nhỏ những kẻ gia nhân...
- Thưa ngài Đại chưởng ấn, - De Nơvin kêu lên, - lịch sử chưa từng thấy có vua chúa nào vạch ra được những kế hoạch vĩ đại và cương quyết đến thế. (Vaxili Vaxilievich vội đưa mắt nhìn xuống và đôi má bì bì của hắn bỗng đỏ ửng). Nhưng liệu lớp quý tộc có vui lòng nhượng đất lại cho nông dân và giải phóng nông nô không?
- Các lãnh chúa sẽ nhận được tiền lương đánh đổi lấy đất đai. Quân đội sẽ chỉ tuyển mộ trong lớp người quý tộc. Chúng tôi sẽ hủy bỏ chế độ tuyển tân binh trong nông nô và trong đám người phải nộp thuế. Dân cày phải cày ruộng. Còn những người quý tộc, để trả công họ, họ sẽ không lãnh đất đai và nông nô, mà lãnh một số tiền lương tăng thêm lên, do ngân khố trích ở tiền thuế điền địa chung. Thu nhập của Nhà nước chắc chắn sẽ tăng lên hơn hai lần.
- Tôi tưởng chừng như được nghe một bậc hiền triết thời xưa, - De Nơvin lẩm bẩm nói.
- Phải gửi những thanh niên con nhà quý tộc đi học quân sự ở Ba Lan, ở Thụy Điển. Phải thiết lập các viện hàn lâm và mở mang các ngành khoa học. Mọi ngành nghệ thuật sẽ được phát triển để tô điểm cho đời sống. Chúng tôi sẽ đưa những nông dân cần cù đến sinh sống ở những miền sa mạc. Chúng tôi sẽ làm cho dân tộc man rợ của chúng tôi trở nên một dân tộc có học thức, chúng tôi sẽ biến những túp lều bẩn thỉu của chúng tôi thành những lâu đài bằng đá. Kẻ hèn nhát sẽ trở nên can đảm. Chúng tôi sẽ làm cho người nghèo trở nên giàu có.
- Vaxili Vaxilievich liếc mắt về phía cửa sổ; ngoài đường một đám bụi đang bay đến cuốn theo lông măng và cọng rơm - Chúng tôi sẽ lát đá các đường phố. Ở Moskva, chúng tôi sẽ xây những nhà bằng đá và bằng gạch... Sự khôn ngoan sẽ tỏa khắp trên đất nước nghèo nàn của chúng tôi.
Tay vẫn cầm bút lông ngỗng, Vaxili Vaxilievich rời ghế bành đứng lên rồi đi đi lại lại trên thảm, tiếp tục trình bày với khách nhiều tư tưởng phi thường khác nữa.
- Nhân dân Anh đã tự tay hủy bỏ cái trật tự bất công, nhưng trong cơn tức giận, họ đã phạm những tội lỗi lớn, họ đã chạm đến tính mạng thiêng liêng của nhà vua... Chúng tôi e ngại những sự ghê tởm đó xảy ra nhưng chúng tôi cũng muốn như dân Anh đem lại ích lợi cho tất cả mọi tầng lớp. Nếu tầng lớp quý tộc chống lại những sáng kiến của chúng tôi, chúng tôi sẽ dùng quyền lực đập tan sự bướng bỉnh muôn thuở của họ.
Câu chuyện bị gián đoạn. Một tên gia nhân mặc áo hầu, cặp mắt tròn xoe tỏ vẻ sợ hãi, rón rén bước đến nói thầm với vương hầu. Nét mặt Vaxili Vaxilievich bỗng trở nên nghiêm trang và căng thẳng. Thấy thế, De Nơvin cầm mũ đứng lên cúi chào rồi đi giật lùi về phía cửa. Vaxili Vaxilievich tiễn khách ra cũng nghiêng mình chào lại, bàn tay đầy nhẫn, vung tròn từ chỗ tim về phía sàn nhà.
- Thưa tôn ông De Nơvin, tôi lấy làm buồn và rất thất vọng vì ngài đã vội ra về.
Còn lại một mình trong phòng, Vaxili Vaxilievich ngắm bóng trong gương rồi vội vã bước sang bên buồng ngủ, gót ủng nên lộp cộp trên sàn. Ở đó, trên chiếc giường kê ở giữa nhà có màn che chung quanh bằng lụa điều, trên đình có cắm lông đà điểu, nữ nhiếp chính Sofia đang ngồi áp thái dương vào cột giường kiểu vặn xoắn. Như mọi lần. Sofia ngồi trong một cỗ xe đóng kín mít bí mật đến bằng lối cửa sau.

Chương 25

- Soniuska em, nguồn ánh sáng của đời anh...
Không trả lời, Sofia ngẩng khuôn mặt cau có lên nhìn Vaxili Vaxilievich chằm chặp với cặp mắt màu lục tựa như mắt đàn ông. Phân vân, Vaxili Vaxilievich dừng bước, không đi tới chỗ giường.
- Có tai họa gì chăng, thưa nữ thánh thượng?
Mùa đông đó Sofia đã kín đáo phá thai. Khuôn mặt của công chúa xị ra, hai bên mép bắp thịt nổi hẳn lên, chẳng còn được hồng hào tươi tỉnh như trước nữa. Những nỗi lo âu bận bịu, thấp thỏm đã để lại trên nét mặt công chúa một vẻ chán ngán. Sofia ăn mặc xa hoa, theo lối thiếu nữ, nhưng dáng đi đứng đường bệ của công chúa là dáng đi của một người đàn bà đã đứng tuổi. Sự cần thiết phải giấu diếm mối tình với Vaxili Vaxilievich làm công chúa đau khổ. Tuy rằng mọi người, cho đến kẻ ăn người ở hèn kém nhất trong nhà chẳng ai còn lạ gì chuyện ấy và mặc dầu ít lâu nay người ta đã thay mấy chữ nhân tình nhân ngãi nhục nhã và tội lỗi bằng mấy chữ ngoại lai nghe đoan trang hơn, - người bạn tình - nhưng không theo pháp luật, không lấy nhau, mà đem cái thân thể không còn trẻ nữa hiến cho người yêu thì thật là sai trái, thật là khổ tâm. Đáng lẽ sang xuân, công chúa được đem hết sức lực của một phụ nữ ra để sinh nở trong những cơn đau đớn sung sướng... người ta đã buộc công chúa phải hủy bỏ cái thai... Vả lại mối tình của công chúa với Vaxili Vaxilievich không phải là một mối tình êm đềm, hợp với tuổi công chúa: yêu với những nỗi lo âu vô tận, luôn luôn phải giấu diếm, lúc nào cũng chỉ tưởng nhớ đến người yêu, đêm đêm trằn trọc trên giường, tinh thần hao tổn, cái đó chỉ hợp với những cỏ thiếu nữ mười bảy tuổi thôi. Và đôi lúc căm thù cuồn cuộn dâng lên đến tận cổ công chúa - Vaxili Vaxilievich chẳng phải là nguyên nhân của tất cả những nỗi dày vò đó sao? Cái thai phải cho ra kia chẳng là của chàng sao? Vậy mà chàng chẳng chút bận tâm, phủi tay mặc kệ, rồi bỏ đi... Ngồi trên giường, chân không chạm tới sàn, thân hình bè bè nhơm nhớp mồ hôi và nóng hầm hập dưới bộ y phục nặng trình trịch, Sofia nhìn Vaxili Vaxilievich từ đầu đến chân với con mắt lạnh lùng.
- Ăn mặc gì mà trông lố bịch thế, - công chúa gằn giọng nói. - Thế là cái gì? Một kiểu áo Pháp à? Nếu không có cái quần chẽn ống, thì nhất định ai cũng phải cho là áo dài của phụ nữ... Thiên hạ sẽ tha hồ mà cười... - Sofia quay mặt đi, cố nén thở dài. - Thưa bố trẻ, vâng ạ, một tai họa đã đến. Chúng ta chẳng có lý do gì để vui sướng đâu...
Ít lâu nay, mỗi khi đến với Vaxili Vaxilievich, Sofia thường tỏ ra không vui, trong lòng có điều gì giấu diếm. Vaxili Vaxilievich biết rằng hai mụ theo hầu để mua vui cho công chúa suốt ngày lảng vảng ở khắp các xó xỉnh trong lâu đài dỏng tai nghe ngóng xem bọn quý tộc đại thần xì xào bàn tán gì để rồi đến giờ đi ngủ kể lại cho Sofia biết.
- Không vui gì đâu, thánh thượng ạ, - Vaxili Vaxilievich nói. - Thiên hạ nói thì còn thiếu điều gì nữa, thây kệ họ, hơi đâu mà em sầu não.
- Thây kệ ư? - Sofia khẽ gõ đầu móng tay lên cột giường rồi từ từ nhếch mép một cách dữ tợn. - Thế anh có biết ở Moskva họ nói gì không? Họ bảo chúng ta nhu nhược quá không cai trị nổi đế quốc... và chúng ta chẳng lập được công trạng gì lớn cả...
Vaxili Vaxilievich đặt mấy ngón tay lên bộ ria mép, nhún vai. Sofia liếc trộm: chao ôi, chàng đẹp trai làm sao... ôi, thật là tai họa cho tôi... nhưng chàng nhu nhược ủy mị như đàn bà... bây giờ lại đầy người diêm dúa đăng-ten.
- Đúng như thế đấy. Anh chỉ được cái đọc sách, viết văn là giỏi, mà lại sáng ý, chính em cũng biết thế. Nhưng chiều hôm qua, sau khóa lễ chiều, cậu em là Ivan Mikhailovich đã nói về anh thế này: “Vaxili Vaxilievich đã đọc cho cậu nghe những lời nói về bọn tiện dân nông dân trong một cuốn sổ làm cậu lấy làm lạ về hắn. Cậu tự hỏi không hiểu vương hầu đầu óc có thật tỉnh táo không”. Và bọn đại thần đều phá lên cười...
Vaxili Vaxilievich bỗng đỏ bừng mặt như một cô gái, cặp mắt màu lam ần dưới hàng mi dài, vụt lóe sáng:
- Bọn họ ngu ngốc quá. Anh có viết cho họ đâu!
- Họ như thế đấy, chúng ta không có được bọn tay chân thông minh hơn... Chính em cũng khổ với họ: ví dụ như em cũng muốn khiêu vũ như hoàng hậu Ba Lan hay ngồi nghiêng trên mình ngựa, váy dài thướt tha dự những cuộc săn bằng chim ưng mà vẫn phải im lìm chẳng dám nói ra... Sơ hở một tí là người ta sẽ bảo em là kẻ tà giáo ngay. Giáo trưởng đã tỏ ra lạnh nhạt với em rồi.
- Chúng ta sống giữa bầy quái vật, - Vaxili Vaxilievich lẩm bẩm nói.
- Em phải nói với anh điều này... Anh hãy bỏ đăng-ten, bít tất, mặc chiến bào vào, cầm lấy gươm và lên đường lập chiến công đi.
- Sao thế? Họ lại nói đến phiên vương Krym phải không?
- Hiện nay đầu óc mọi người đều để cả vào việc đó: chiếm lấy Krym... Không lảng tránh được việc đó đâu, anh chàng ngây thơ của tôi ạ. Hãy chiến thắng trở về rồi thì anh muốn làm gì cũng được. Lúc đó anh sẽ là kẻ mạnh.
- Sofia Alekseyevna, em hãy nên hiểu cho, chúng ta không thể nào theo đuổi chiến tranh được... Chúng ta cần tiền để làm việc khác...
- Sau việc Krym, sẽ đến việc khác, - Sofia gằn giọng cương quyết nói. - Em đã chuẩn bị xong một sắc chỉ phong anh làm đại đô thống. Ngày đêm em sẽ cầu nguyện cho anh, em sẽ quỳ đến mòn đầu gối cũng không thôi, em sẽ đi bộ lần lượt thăm viếng tất cả các tu viện, ông anh ạ: Nếu anh chiến thắng trở về thì đứa nào còn dám ho he gì? Chúng ta sẽ chẳng còn phải giấu diếm sự tủi nhục của chúng ta nữa. Em rất tin tường, rất tin tưởng! Chúa sẽ giúp ta đánh bại phiên vương Krym. - Sofia từ trên giường đứng xuống, ngươc nhìn lên hòng bắt gặp cặp mắt của Vaxili Vaxilievich đang lảng tránh. - Vaxia, em sợ phải nói với anh việc này... Anh có biết họ còn xì xào gì nữa không? Họ nói: “Ở Preobrazenski, một Sa hoàng mạnh đang lớn lên... và công chúa có tham quyền cố vị cũng bằng vô ích mà thôi”. Anh hãy thương đến những ý nghĩ của em, nó chẳng tốt lành gì cá. - Sofia nắm lấy bàn tay bắt đầu run run của vương hầu trong đôi bàn tay nóng hầm hập của mình. - Nó đã mười lăm tuổi rồi đấy, cao lênh khênh như cái sào. Nó vừa ra chiếu chỉ đòi phải tuyển mộ tất cả những bọn coi ngựa và bọn dạy chim ưng đi săn vào đội cận vệ trẻ của nó... Chớ quên rằng gươm và súng của chúng đều bằng sắt... Vaxia, anh hãy cứu em thoát khỏi tội lỗi... Người ta thì thầm bên tai em, người ta nói với em về Dimitri, về Uglich. Nhưng đó là một tội lỗi phải không anh? - Vaxili Vaxilievich vội rút bàn tay ra khỏi lòng bàn tay Sofia. Một nụ cười thảm hại từ từ hiện trên môi công chúa. - Thật đúng như em nói, chỉ nghĩ đến những chuyện đó cũng đã là tội lỗi rồi... Xưa kia thì mới xảy ra những chuyện đó... Toàn châu Âu sẽ biết những chiến công của anh. Khi đó thì nó chẳng đáng sợ nữa, mặc nó tha hồ vui chơi...
- Chúng ta không thể theo đuổi chiến tranh được? - Vaxili Vaxilievich chua chát kêu lên. - Chúng ta không có một đội quân thiện chiến, chúng ta không có tiền... Mà anh thì đang có những dự kiến to tát biết nhường nào. Tất cả những cái đó đều là vô ích cả! Ai là người có thể nhận chân được giá trị của những dự kiến đó, hiểu được những dự kiến đó? Ôi, lạy Chúa, ước gì được ba năm hay hai năm không có chiến tranh!
Hắn vung ống tay áo viền đăng ten một cách thất vọng... Dẫu cho có nói khéo, tìm cách thuyết phục hay cưỡng lại cũng là bằng thừa mà thôi.

Chương 26

Natalia Kirilovna quở mắng Nikita Zotov:
- Hãy chạy đi xem hoàng thượng ở đâu nào, phải tìm bằng được chứ, tờ mờ sáng hoàng thượng đã đi khỏi nhà rồi, chẳng làm dấu và cũng chẳng ăn gì cả?
Tìm được Piotr đâu có phải là chuyện dễ như thế; trừ phi nghe thấy tiếng súng nổ hàng loạt hay tiếng trống dồn đâu đấy trong rừng, nơi Sa hoàng đang đùa nghịch với đội cận vệ trẻ.
Biết bao lần Nikita đã bị bắt làm tù binh trói vào một thân cây để khỏi quấy rầy Sa hoàng với những lời khẩn khoản mời về dự lễ nhà thờ hay nghe lời tường trình của một đại thần từ Moskva đến. Để cho Nikita khỏi buồn ở gốc cây, Piotr ra lệnh cho đặt trước mặt hắn một chai vodka. Vì thế cho nên Zotov dần dần đâm ra thích rượu thậm chí có khi hắn còn yêu cầu được bắt trói vào một gốc cây phong. Khi trở về bên cạnh Natalia Kirilovna, hắn dang tay tỏ vẻ ăn năn hối hận:
- Tâu thái hậu, thần van nài đến hết cả hơi nhưng con phượng hoàng của chúng ta từ chối không chịu theo thần về...
Piotr rất ham thích trò chơi. Nhà vua có thể chơi bất cứ một trò chơi nào suốt ngày, không ăn, không ngủ, miễn sao có sự ồn ào, vui đùa, miễn sao có bắn đại bác, có đánh trống khua chiêng. Hiện giờ nhà vua có gần ba trăm cận vệ trẻ gồm những tay trước đây chuyên trông nom ngựa hay nuôi dạy chim ưng cho Sa hoàng và cả những thanh niên con nhà khá giả nữa. Vua Piotr dẫn đầu cả bọn sục sạo trong các làng và tu viện vùng lân cận Moskva. Đôi khi họ tìm cách trêu đùa làm cho đám tu sĩ khiếp sợ: đang giữa trưa trời nóng như thiêu như đốt, không một ngọn lá phong nào đụng đậy chỉ có đàn ong vo ve dưới bóng cây bồ đề, mọi người đang chập chờn buồn ngủ thì đột nhiên, một lũ quỷ sứ la hét om sòm, mặc áo nẹp màu lục, bề ngoài trông có vẻ là người ngoại quốc, từ khu rừng xông ra, rồi bùm bùm... Thế là họ bắn đại bác với những viên đạn bằng gỗ vào những bức tường yên lành của tu viện. Đám tu sĩ lại càng thêm khiếp sợ khi họ nhận ra gã thanh niên cao lênh khênh, ngỗ nghịch, người đầy bùn và đen ngòm khói thuốc súng lại chính là Sa hoàng. Sự phục dịch trong đội cận vệ trẻ rất khó nhọc - ăn ngủ đều không được như ý muốn. Dù trời mưa hay nóng như thiêu như đốt, Sa hoàng mà chợt nảy ra ý kiến, là lại phải ra đi, có quỷ mà biết được đi đâu và tại sao, để khủng bố những người dân lành. Đôi khi đang đêm, người ta đánh thức bọn cận vệ trẻ dậy: “Lệnh truyền phải đánh bọc hậu quân địch. Bơi qua sông...” Có người đã chết đuối trong đêm tối mù mịt. Lười biếng hay vắng mặt, - có nhiều người chán cái cảnh leo đèo lội suối vô bổ đã nấp vào một chỗ rồi bỏ trốn về nhà, - đều bị trừng phạt bằng roi vọt. Gần đây người ta cắt một vị tổng trấn hay như người ta quen gọi bấy giở, một vị tướng, tên là Artamon Golovin đứng đầu đội quân. Ông ta là một người rất ngu xuẩn nhưng thông thạo cách thức luyện tập quân sự và đặt ra một kỷ luật rất nghiêm ngặt. Có ông ta ở cạnh, Piotr không đùa nghịch không có mục đích rõ ràng như trước nữa mà bắt đầu nghiêm chỉnh học tập nghệ thuật quân sự trong tiểu đoàn đầu tiên lấy tên là tiểu đoàn Preobrazenski. Franx Lơfo, bận phục vụ ở điện Kreml, không giữ một nhiệm vụ nào bên cạnh Piotr cả, nhưng thường cưỡi ngựa đến thăm đội quân luôn và góp ý kiến. Qua sự trung gian của Franx Lơfo, đại úy Fedor Xomme, một người ngoại quốc, được tuyển mộ để dạy cách sử dụng súng ống, lựu đạn và được phong cấp tướng. Bộ Pháo thủ cho chở đến mười sáu cỗ đại bác và từ đó người ta dạy bọn cận vệ trẻ bắn với đạn đại bác bằng gang. Sự học tập rất nghiêm ngặt:
Fedor Xomme không muốn ăn không đồng lương của mình. Không phải lúc đùa nghịch nữa.
Vô số súc vật đủ mọi loại bị bắn chết ở ngoài đồng và khối người bị bắn què.

Chương 27

Kukui, người ngoại quốc thường nói đến vị Sa hoàng trẻ tuổi Piotr luôn. Chiều tối, họ tụ tập nhau trên một nền đất rải cát, giữa những khóm cây được xén tỉa và đập bàn tay xuống mặt những chiếc bàn con, gọi:
- Này bác Monx, cho một cốc bia đây!
Monx, đầu chụp mũ vải, mình mặc áo gi-lê xanh, từ khuôn cửa sáng sủa ánh đèn của quán rượu, bệ vệ đi ra mỗi tay mang năm cốc vại bằng sành bọt bia trùm cả lên miệng cốc. Buổi tối êm đềm, dễ chịu. Ánh sao mọc trên nền trời Nga thật quả không chói lọi huy hoàng bằng ở vùng Turingơ hay ở công quốc Bado hay ở miền Vurtembec, nhưng cũng có thể sống được dưới ánh sao của bầu trời Nga.
- Bác Monx! Hãy kể chuyện Sa hoàng Piotr đến thăm bác cho chúng tôi nghe đi.
Monx ngồi vào bàn của đám khách toàn những người danh giá, tợp một hớp bia ở cốc của một khách hàng rồi nháy mắt, kể:
- Sa hoàng Piotr rất hiếu kỳ. Người đã biết có cái hộp âm nhạc đặc sắc để ở trong buồng ăn của tôi. Ông nhạc tôi đã mua cái hộp đó ở Nuremberg...
- Ừ phải rồi, tất cả chúng tôi đều biết cái hộp tuyệt diệu của bác, - cử toạ công nhận đưa mắt nhìn nhau và vẩy những chiếc tẩu dài.
- Tôi hơi hoảng khi Lơfo và Sa hoàng Piotr bước vào phòng ăn của tôi. Tôi không biết đứng ngồi thế nào cho phải... Trong những trường hợp như vậy, người Nga quỳ thụp xuống: tôi không muốn làm như thế. Nhưng Sa hoàng hỏi ngay: “Cái hộp của nhà ngươi đâu?”. Tôi trả lời: “Tâu Chúa thượng thiêng liêng, đây ạ”. Sa hoàng liền bảo tôi: “Johan, đừng gọi ta là Chúa thượng thiêng liêng nữa, ta đã chán ngấy cái lối xưng hô như thế ở nhà rồi, hãy gọi ta như ta là bạn của nhà ngươi”. Và Lơfo nói: “Ừ phải đấy, bác Monx ạ, chúng tôi đều gọi nhà vua là Herr(1) Pete”. Thế là cả ba chúng tôi phá lên cười một hồi lâu vì lời bông đùa đó. Rồi gọi Ansen, con gái tôi, và bảo nó lên dây cót cái hộp. Bình thường chúng tôi mỗi năm chỉ lên dây có một lần vào đêm Noen, bởi vì đó là một cái hộp rất quý. Cháu Ansen nhìn tôi, và tôi bảo cháu: “Không hề gì, con cứ lên dây đi”. Và cháu nó đã lên dây - thế là các công tử và tiểu thư nhảy múa, chim hót véo von - Pete ngạc nhiên nói: “Ta muốn xem bên trong có gì”. Tôi nghĩ bụng: “Cái hộp âm nhạc của mình đi đời nhà ma mất thôi”. Nhưng Ansen là một con bé rất tinh khôn. Nó nghiêng mình chào một cách duyên dáng rồi nói với Pete và được Lơfo dịch ra tiếng Nga. Ansen nói: “Tâu bệ hạ, thiếp cũng biết múa hát, nhưng hỡi ôi! Nếu bệ hạ muốn nhìn xem bên trong cơ thể thiếp có gì, tại sao thiếp lại múa hát thì sau đó trái tim tội nghiệp của thiếp hẳn là sẽ tan nát mất thôi...”. Lơfo dịch xong rồi phá lên cười. Tôi cũng cười rất to và Pete mặt bỗng đỏ ửng như gấc và nhìn Ansen như thể cháu là một con chim non. Và tôi bụng bảo dạ: “Chà, hàng nghìn ma quỷ đang ám ảnh chàng thanh niên này”. Đến lượt Ansen cũng đỏ mặt lên và cháu nó bỏ chạy, cặp mắt xanh ứa lệ...
Monx khịt mũi rồi tợp một hớp bia ở cốc của một người trong đám khách hàng. Bác ta biết kể chuyện một cách đặc sắc và cảm động. Một làn gió mát mẻ trong đêm tối lay động những quả tua trên mũ vải bông của những người đang chuyện gẫu. Bỗng Ansen hiện ra trong khung cửa sáng trưng: nàng ngước cặp mắt hồn nhiên nhìn những vì sao, thở dài một cách sung sướng rồi biến mất. Đám khách hàng phì phèo tẩu thuốc lá nói rằng Chúa đã ban cho bác Monx một cô con gái ngoan. Chà, một cô con gái như cô bé đó sẽ đem lại giàu sang cho gia đình. Bác thợ rèn Gherit Kixt, vốn người Hà Lan, sinh ở Zandam, to lớn như hộ pháp, râu ria xồm xoàm, mặt mũi đỏ gay, nói:
- Tôi thấy nếu biết xử sự khôn ngoan thì sẽ có thể lợi dụng vị Sa hoàng trẻ tuổi này được nhiều đấy.
Lão thợ đồng hồ Ludvic Pfepfe đáp:
- Ồ không được đâu, như thế là đặt hy vọng không đúng chỗ. Sa hoàng Piotr thiếu lực lượng. Bà nhiếp chính Sofia sẽ không bao giờ để Sa hoàng trị vì. Bà ta là một người độc ác và cương quyết. Hiện giờ bà ta đang tập hợp một đạo quân hai trăm ngàn người để đánh phiên vương xứ Krym. Khi nào đạo quân từ Krym trở về thì đánh cuộc mười pennin(2) về phía Sa hoàng tôi cũng chẳng dại...
- Lý luận như vậy là sai, bác Ludvic Pfepfe ạ, - Monx đáp lại. - Biết bao lần tướng Feodor Fon Xomme mà mới gần đây chỉ là Xomme thôi... - Monx há miệng phá lên cười và mọi người đều cười rộ về câu nói dí dỏm của bác... - Biết bao lần ông ta bảo tôi: “Hãy kiên nhẫn, đợi một hay hai năm nữa là Sa hoàng Piotr sẽ có hai tiểu đoàn quân mà đích thân vua Pháp hay vương hầu Morice xứ Saxe được chỉ huy cũng không lấy làm xấu hổ...”. Đấy, Xomme đã nói với tôi như thế.
- Ồ tốt đấy - Bọn người tiếp chuyện nói, đưa mắt nhìn nhau đầy ngụ ý.
Những buổi chuyện trò này đã diễn ra lúc chiều tối trên nền đất quét tước sạch sẽ trước cửa quán rượu của bác Johan Monx.
-------------
Chú thích:
(1) Tiếng Đức: ông, ngài.
(2) Thứ tiền nhỏ nhất của Đức, bằng một phần trăm đồng Mác.

Chương 28

Trong những gian phòng cuốn vòm của Bộ Nội Điện, không khí nóng bức ngột ngạt không sao thở được. Mấy thầy ký ngồi bên những chiếc bàn dài, đầu ngoẹo sang một bên, tóc xõa xuống mắt, hí hoáy viết, tiếng ngòi bút cạo giấy sột soạt. Trong mực có ruồi. Ruồi bâu vào môi, bâu vào mũi nhớp nháp. Viên thơ lại bụng đã tọng đầy bánh nướng có nhân, đang ngủ gà ngủ gật trên ghế. Viên ký lục Ivan Vaxkov đang chép lại nguyên bản một tờ giấy vào sổ:

Theo lệnh các Thánh thượng, đã may một bộ y phục kiểu Đức để dâng lên Đức Hoàng đế Sa hoàng kiêm Đại quận công Piotr Alekseevich trị vì trên khắp đất Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga, và vì mục đích đó đã mua của tướng Franx Lơfo những thứ hàng hóa sau đây: hai cuộn chỉ kim tuyến giá một rúp mười ba antin(1) hai denghi(2) và đã mua chín tá khuy theo giá sáu antin một tá và còn mua thêm cho chiếc áo nẹp mặc trong sáu tá khuy theo giá hai antin bốn denghi một tá, và mua lụa, vải mất mười antin và những mớ tóc vụn mất ba rúp...”

Vaxkov thổi một con ruồi, mở cặp mi nặng trĩu:
- Này Petrukha, viết chữ “mớ tóc vụn” thế nào, viết hoa hay viết thường?
Viên phó thơ lại ngồi đối diện suy nghĩ rồi đáp:
- Viết chữ thường.
- Hay vị Sa hoàng trẻ tuổi không có tóc chăng?
- Coi chừng, với những lời lẽ như vậy...
Vaxkov đầu ngoẹo về bên trái để viết cho tiện cố nín cười - hắn thấy phải mua tóc của bọn người Đức ở xloboda cho Sa hoàng và phải trả cái của vứt đi đó những ba rúp thì thật là chuyện rất ngộ.
- Petrukha, Sa hoàng đeo những mớ tóc này vào đâu bây giờ?
- Sa hoàng muốn đeo vào đâu thì đeo, đó là ý muốn của Sa hoàng. Và nếu anh còn hỏi tôi nữa, tôi sẽ kêu với ông thơ lại đấy.
Lũ ruồi cũng đang quấy nhiễu viên thơ lại. Hắn rút trong túi ra một chiếc khăn tay bằng lụa, vung vẩy chiếc khăn quanh người rồi thấm mồ hôi trên mặt, trên bộ râu dê của hắn.
- Kìa này, bọn bay ngủ đấy à? - hắn uể oải kêu lên. - Bay có phải là những ông ký, ông lục không đấy? Bay định ăn không tiền của Ngân khố chắc? Bay chẳng còn sợ gì cả, bay quên cả Chúa, rõ đồ ăn hại! Đợi đấy ta sẽ đánh bét đít cả lũ để dạy cho bọn bay phải xắn tay áo lên mà làm việc... Và bay dùng đến tốn mực tốn giấy!... Cầu Trời đánh cho bọn bay tan xác, đồ vô lại!
Viên thơ lại uể oải phe phẩy chiếc khăn tay rồi lại thiu thiu ngủ. Thời buổi này đến chán, chẳng có ai kêu xin việc gì và cũng chẳng có bổng lộc gì cả. Moskva đã rỗng tuếch người, bọn xtreletz, bọn con em quý tộc, bọn lãnh chúa, tất cả đều đã ra đi chinh chiến ở Krym. Chỉ còn ruồi nhặng, bụi bặm và những công việc lặt vặt hàng ngày mà thôi.
- Chà, Petrukha ạ, bây giờ mà được uống kvas thì thú nhỉ! - Vaxkov dằn giọng nói, rồi, sau khi liếc mắt nhìn viên thơ lại, hắn vươn vai, ngả người về đằng sau đến nỗi chiếc áo nẹp của hắn vải đã bở sẵn xoạc toang ở dưới nách. - Tối nay mình sẽ gặp một quả phụ mà mình quen, mình sẽ tha hồ mà uống kvas.
Hắn lắc đầu rồi lại hí hoáy viết: “Theo lệnh của Đại Sa hoàng kiêm Đại quận công Piotr Alekseevich, trị vì trên toàn cõi Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga truyền phải đưa đến làng Kolomenskoe cho Đức Đại Sa hoàng kiêm Đại quận công trị vì trên toàn cõi Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga những tên mã phu Iakim Voronin, Xecgey Bukhvostok, Danila Kartin, Ivan Naghibin, Ivan Ieplep, Xecgey Tseckov và Vaxili Bukhbustov. Những tên mã phu đó sẽ được cử làm pháo thủ trong đội cận vệ của Sa hoàng và sẽ lĩnh mỗi tên một số tiền lương là năm rúp bạc, năm hộc lúa mạch và từng ấy hương mạch...
- Petrukha, bọn họ may mắn nhỉ...
Viên thơ lại nửa thức nửa ngủ, đe:
- Đứa nào còn nói chuyện đấy, hả, đồ chó chết!
-------------
Chú thích:
(1) Một antin ăn ba kopeik.
(2) Bằng nửa kopeik.

Chương 29

Viên dapife Vaxili Volkov ký nhận bộ y phục kiểu Đức và bộ tóc giả rồi cẩn thận mang những thứ đó vào phòng ngủ của Sa hoàng. Trời vừa mới hửng sáng, nhưng vua Piotr ngủ trên bục trải một tấm thảm dạ, mình đắp một chiếc áo lông cừu, đã vùng dậy. Trước hết nhà vua cầm lấy bộ tóc giả đội thử: chật quá! Nhà vua định lấy kéo xén bớt những mớ tóc quăn màu nâu, Volkov phải nói mãi nhà vua mới thôi. Sau cùng vua Piotr đã chụp được bộ tóc giả lên đầu rồi soi gương mỉm cười một cách hóm hỉnh. Hôm nay, nhà vua rửa tay bằng xà phòng và cạy hết ghét móng tay rồi vội vàng mặc bộ y phục mới vào. Theo như Lơfo đã chỉ dẫn, nhà vua quấn quanh cổ một chiếc khăn quàng trắng và thắt ngang lưng ra ngoài chiếc áo nẹp hở tà, một dải lụa cũng màu trắng. Volkov giúp nhà vua mặc áo, lấy làm ngạc nhiên: vua Piotr thường chẳng chú ý gì đến quần áo. Nhà vua nghiến răng lại cố xỏ chân vào đôi giầy chật. Tên nông nô Xtiovka Medved một gã to lớn được gọi đến để nong giầy cho rộng ra. Sau khi đã đút được đôi chân bàn cuốc vào giầy một cách chật vật, Xtiovka liền chạy lùng khắp các cầu thang. Lúc chín giờ (theo cách tính mới về thời gian), Nikita Zotov đến mời vua Piotr dự khóa lễ đầu. Sa hoàng cáu kỉnh trả lời:
- Ngươi nói với mẹ ta rằng ta đang bận việc quốc sự cần kíp... Ta sẽ cầu nguyện một mình. Rồi nhà ngươi phải trở lại đây nhanh lên đấy, hiểu chưa?
Bỗng nhà vua ngửa đầu về phía sau cười rộ: cũng như mọi bận, người ta tưởng chừng nhà vua cố rặn ra tiếng cười. Nikita hiểu ngay là Sa hoàng đã lại bày ra một trò tinh nghịch gì đây, một trong rất nhiều trò Sa hoàng đã học được ở xloboda người Đức. Nhưng hắn khúm núm vâng lệnh, rảo cẳng rút lui trong đôi ủng mềm rồi trở lại thật nhanh, biết chắc chắn rằng mình sẽ lại bị một phen điêu đứng. Hắn đã không lầm. Vua Piotr trợn mắt ra lệnh cho hắn:
- Với tư cách là đại sứ thần của thần Hy Lạp Baccux (1), nhà ngươi hãy kính cẩn đến chào Franx Lơfo và chúc mừng ngày sinh của ông ta.
- Muôn tâu Sa hoàng Piotr Alekseevich, thần xin tuân lệnh, - Zotov kính cẩn đáp lại. Lập tức, theo lời trên phán bảo, hắn mặc một chiếc áo lông thỏ, mặt trong lộn ra ngoài, đầu chụp một bộ tóc giả bằng sợi gai thô, trên đặt một chiếc mũ miện làm bằng cành bạch dương nhỏ - loại cành vẫn dùng để quất vào người khi tắm hơi nước - và cầm một cái cốc. Để tránh khỏi phải chuyện vãn dài dòng với mẹ, vua Piotr ra khỏi lâu đài bằng lối cửa dành cho gia nhân và chạy thẳng đến chỗ bọn mã phu. Ngoài sân, tất cả bọn gia nhân đang vừa cười vừa đuổi bắt bốn con lợn kếch xù. Vua Piotr xông vào giúp họ một tay vừa hò hét vừa xô đẩy, chạy ngược chạy xuôi. Họ bắt được lợn, đặt chúng nằm nghiêng, lấy dây đóng như đóng ngựa rồi buộc chúng vào một cái xe ngựa nhỏ thấp thếp vàng, bốn bánh có trạm trổ (đó là đồ lễ đính hôn của cố Sa hoàng Aleksey Mikhailovich biếu Natalia Kirilovna và thái hậu đã truyền phải gìn giữ hết sức cẩn thận). Viên thơ lại trông coi chuồng ngựa, môi run run, theo dõi vụ cướp đoạt om sòm đó. Giữa tiếng huýt còi và tiếng cười rộ của bọn gia nhân, người ta đẩy Nikita Zotov ngồi vào trong xe ngựa. Vua Piotr trèo lên ngồi xuống chỗ của xà ích.
Volkov, đầu đội một chiếc mũ ba sừng, đeo gươm, đi trước xe, tay vứt cà rốt và củ cải cho lợn. Bọn mã phu đi hai bên, cầm roi quất lợn thúc chúng. Người, xe tiến về Kukui. Ở cổng xloboda của người Đức, một đám đông người, ngoại quốc đón tiếp họ. “Hay đấy, vui lắm, cười đến vỡ bụng mất”, họ vỗ tay kêu lên. Vua Piotr, mặt đỏ bừng, môi mím chặt, mặt hầm hầm, ngồi cứng đơ trên xe. Toàn thể dân trong xloboda đổ ra xem, ôm bụng cười rộ, tay chỉ vào Sa hoàng và bộ tóc giả tết bằng sợi gai thô. Zotov đang sợ chết khiếp trong xe. Lũ lợn mỗi con kéo một ngả làm cho dây thắng lợn rối tung. Bỗng vua Piotr giằng lấy roi của một mã phu, quất đàn lợn túi bụi. Chúng kêu eng éc lồng lên chạy... Cỗ xe xô ngã một người, một người khác ngã nằm dưới bánh xe, đám phụ nữ vội ôm lấy con bế đi chỗ khác. Vua Piotr đứng trên xe, vẫn không ngừng ra roi, đỏ mặt tía tai, hai lỗ mũi phập phồng, cặp mắt tròn xoe đỏ ngầu, tựa hồ nhà vua đang cố cầm nước mắt. Trước cửa nhà Lơfo, bọn mã phu gắng sức ghì lũ lợn kéo xe lại rồi đẩy chúng vào cái cổng mở toang. Lơfo vội chạy ra, tay vung vẩy gậy và mũ, theo sau là khách khứa của hắn, quần áo lịch sự, màu sắc lộng lẫy. Vua Piotr từ trên xe nhảy xuống một cách vụng về, rồi túm lấy cổ áo Zotov, kéo hắn ra khỏi xe.
Nhà vua hầm hầm nhìn chòng chọc vào mặt Lơfo mắt lác trật đi như sợ nhận được ra ai trong đám đông và dằn giọng hổn hển nói:
- Mein liebergenet ư? (1) tôi dẫn đến cho tướng quân một vị đại sứ thần với lời chúc tụng nhiệt liệt của vị thần Hy Lạp Baccux...
Mồ hôi lấm tấm nhỏ giọt trên mặt nhà vua. Vua Piotr liếm môi, mắt vẫn nhìn chòng chọc vào mặt Lơfo, gắng gượng nói thêm:
- Mit Herrlichem Gruss... nghĩa là thần Baccux kính cẩn gửi lời chào ông... gửi đến biếu ông mấy con lợn và cỗ xe... - Bàn tay siết chặt lấy cổ áo Zotov, vua Piotr thì thầm:
- Quỳ xuống chào đi.
Lơfo lộng lẫy trong bộ y phục bằng nhung màu hồng đính đầy đăng ten, mặt thoa phấn, người sực nước hoa, hiểu ra ngay. Hắn giơ cao tay lên, vỗ tay hoan nghênh, cười phá lên một cách vui vẻ rồi hết quay về phía vua Piotr lại quay về phía khách khứa, hắn nói:
- Đây là một trò bông đùa hay tuyệt, tôi chưa từng thấy gì ngộ nghĩnh hơn... Chúng tôi cứ tưởng mình dạy nhà vua những trò vui ngộ nghĩnh, ai ngờ chính nhà vua lại sẽ dạy chúng tôi cách bông đùa. Ban nhạc đâu, hãy cử một điệu hành khúc để chào mừng sứ giả của thần Baccux!
Phía sau những bụi hoa tử đinh hương, chiêng trống nổi lên, tiếng kèn thổi vang. Hai vai vua Piotr rũ xuống, sắc mặt không còn đỏ gay như trước nữa. Đầu ngửa về đằng sau, nhà vua cười lớn. Lơfo nắm lấy cánh tay nhà vua. Vua Piotr đưa mắt nhìn đám khách và trông thấy Ansen đang mỉm cười với mình, đôi hàm răng nhỏ lấp lánh, đôi vai để trần, trông nàng như vươn về phía nhà vua, trong chiếc áo dài tráng lệ trông nàng như một bông hồng đang nở. Một lần nữa, một sự bối rối man rợ lại làm cổ họng vua Piotr nghẹn ngào. Nhà vua đi bên cạnh Lơfo, dẫn đầu đám khách bước vào nhà, chân bước cao như một con sếu. Trên khoảng đất trước thềm, mấy kép hát đang đứng, mình mặc sơmi kiểu Nga đỏ chói. Họ cất tiếng hát một điệu nhảy, vừa hát vừa huýt sáo đệm theo. Một người trong bọn, một gã trâng tráo, mắt xanh, nhảy dài về phía trước, miệng hét:
- Ay, đuđu, đuđu, đuđu... - rồi ngồi xổm mà nhảy, gót sắt nện xuống đất đánh nhịp, tay đập mạnh xuống mặt đất cát, khi lộn, khi chồm lên, quay cưồng như một con quay: - “Hốp-là! Hốp-là!”.
- Hoan hô, Alexaska!
-------------
Chú thích:
(1) Baccux: thần rượu.
(2) Tiếng Đức: Thưa tướng quân thân mến.

Chương 30


Vĩ cầm, đàn anto, kèn ôboa, trống đồng hợp tấu những ca khúc Đức cổ xưa, những điệu múa Nga, những khúc nhạc nhịp ba kiểu cách, những điệu nhạc Anh vui vẻ. Khói thuốc lá cuồn cuộn trong những tia nắng từ ngoài lọt vào qua những cửa sổ nhỏ, tròn của gian buồng cao.
Khách dự tiệc, ngà ngà say, thốt lên những lời làm đám thiếu nữ thẹn đỏ mặt; nhiều vũ nữ xinh đẹp da dẻ tươi như hoa, mặc những chiếc váy căng phồng rộng thùng thình, đuôi váy dài lượt thượt, đang cười như nắc nẻ. Lần đầu tiên trong đời, vua Piotr ngồi cùng bàn với phụ nữ. Lơfo mời nhà vua một cốc vodka pha hồi. Lần đầu tiên, vua Piotr được nếm một thứ rượu bốc mạnh. Vodka bừng bừng trong huyết quản nhà vua như một ngọn lửa. Vua Piotr nhìn Ansen đang cười. Âm nhạc làm toàn thân nhà vua giật giật, gân cổ nổi hằn lên. Nhà vua nghiến răng lại cố nén những thèm muốn dữ dội trong lòng mà nhà vua chưa hiểu ra.
Tiếng ồn ào làm nhà vua không nghe rõ khách cùng dự tiệc giơ cốc về phía nhà vua nói to với nhà vua những gì... Hàm răng của Ansen lóng lánh một cách hóm hỉnh, cặp mắt quyến rũ không lúc nào rời khỏi vua Piotr. Bữa tiệc kéo dài mãi tựa hồ như ngày hôm ấy sẽ không bao giờ chấm dứt. Bác thợ đồng hồ Pfepfe gí cái mũi dài ngoẵng như củ cà rốt vào hộp thuốc lá rồi hắt hơi lia lịa; bác ta đã lột bỏ bộ tóc giả, vung vẩy bên trên cái đầu hói của mình trông thật chết cười! Vua Piotr ngồi ngật ngưỡng, lắc lư đôi cánh tay dài nghêu gạt bát đĩa đổ vỡ lung tung chung quanh chỗ ngồi. Nhà vua tưởng chừng cánh tay mình dài đến mức chỉ việc với qua mặt bàn là có thể luồn ngón tay vào tóc Ansen, ghì chặt lấy đầu nàng, ghé sát môi hôn nàng để hưởng hương vị cái miệng của nàng đang cười. Thế rồi gân cổ nhà vua lại hằn lên, mắt như tối sầm lại. Khi mặt trời đã lặn sau những chiếc cối xay và một làn gió mát hiu hiu lọt vào phòng qua những khuôn cửa sổ để ngỏ. Lơfo chìa tay mời vợ người chủ cối xay, bà Simmenpfenige nặng tới tám pud(1) nhảy một điệu vũ nhịp ba. Lơfo vòng tay lắc lư bộ tóc xoăn rắc đấy phấn màu vàng óng ánh, khuỵu chân xuống chào, mắt đảo nhìn một cách đắm đuối. Bà Simmenpfenige hể hả sung sướng, lướt chân trong mấy tầng váy to xù, sừng sững như một chiếc tàu có bốn mươi cỗ đại bác, chăng đầy cờ xí. Theo sau cặp đó, tất cả khách dự tiệc vừa khiêu vũ vừa rời căn phòng ra ngoài vườn. Những luống hoa trong vườn trồng hoa kết thành tên tắt của chủ nhân ngày vui mừng nầy. Bụi cây và cây nhỏ đều có tết dải lụa màu và treo hoa giấy thếp vàng thếp bạc; những lối đi chạy dọc ngang như hình bàn cờ... Sau điệu vũ nhịp ba, người ta lại chơi một điệu đối vũ vui vẻ, vua Piotr đứng riêng ra một chỗ cắn móng tay. Nhiều lần đám phụ nữ lễ phép cúi chào nhà vua, mời nhà vua cùng khiêu vũ. Vua Piotr lắc đầu lẩm bẩm: “Ta không biết khiêu vũ, không, ta không nhảy được...”. Bà Simmenpfenige bèn đi cùng với Lơfo, đến dâng nhà vua một bó hoa: như thế có nghĩa là người ta đã bầu nhà vua làm chúa cuộc khiêu vũ. Vua Piotr không còn từ chối được nữa. Nhà vua liếc nhìn cặp mắt vui thích nhưng quả quyết của Lơfo rồi líu díu nắm lấy bàn tay bà Simmenpfenige. Lơfo rón rén chạy trên đôi chân chữ bát đến chỗ Ansen, rồi cùng nàng đứng đối diện với vua Piotr để nhảy điệu đối vũ. Đôi bàn tay của Ansen bỏ thõng xuống cầm một chiếc khăn tay nhỏ; cặp mắt của nàng có vẻ như van lơn khẩn khoản. Tiếng trống đồng nổi lên sang sảng đinh tai nhức óc, tiếng trống đánh giòn giã, tiếng vĩ cầm, tiếng kèn trầm bổng du dương, điệu nhạc vui tươi vút lên trong bầu trời buổi chiều chạng vạng làm đàn dơi hốt hoảng. Thế rồi lại như lúc xảy ra với đàn lợn trước đó ít lâu, giông tố nổi lên trong người vua Piotr; nhà vua cảm thấy nóng bức như điên như cuồng. Lơfo lớn tiếng nói:
- Bước vũ thứ nhất! Bên nữ tiến lên rồi lùi xuống, bên nam dìu bên nữ quay tròn!
Vua Piotr nắm ngang hông bà Simmenpfenige rồi dìu bà ta quay tít đến nỗi chiếc áo bà mặc, cái đuôi áo và mấy lớp váy phồng xòe ra tung bay. “Ôi, lạy Chúa!”, bà chủ cối xay thốt lên.
Rồi để bà ta đứng đấy, vua Piotr nhảy múa như thể chính điệu nhạc đang kéo tay giật chân mình. Môi mím chặt, lỗ mũi phập phồng, vua Piotr nhảy vọt thật cao. hai chân đập vào nhau chan chát đến nỗi khách khứa nhìn nhà vua phải ôm bụng mà cười.
- Bước vũ thứ ba, đổi nữ! - Lơfo nói to.
Bàn tay xinh xắn mát rượi của Ansen đặt lên vai nhà vua. Lập tức vua Piotr trấn tĩnh lại, cơn điên cuồng tan biến đâu mất. Toàn thân nhà vua khẽ run lên, đôi chân tự đưa nhà vua đi dẻo như không, trong khi nhà vua và nàng Ansen, nhẹ như chiếc lông hồng, cùng quay tít, ánh sáng le lói của những chiếc đèn xếp được châm lên bằng một sợi pháo dây, truyền từ cây nầy sang cây khác. Một chiếc pháo bông với một tiếng rít giận dữ vọt lên trời. Hai tia lửa lóe lên trong cặp mắt của Ansen. Với một giọng nhỏ nhẻ nàng nói: “Chà, đẹp quá, huyền ảo quá! Chà, Pete ạ, bệ hạ nhảy giỏi lắm!”. Khắp nơi trong vườn, những chiếc pháo bông bay vọt lên không. Những cây bông hình tròn quay tít, giấy bóng các ngọn dèn sáng rực. Tiếng pháo bông nổ lốp đốp lửa phụt tung tóe thành hình rồng rắn, hình hoa cà hoa cải. Ánh hoàng hôn mờ mịt trong làn khói thuốc pháo. Nhưng phải chăng đây chỉ là một giấc chiêm bao nhà vua mơ thấy trong cảnh buồn rầu ảm đạm của lâu đài Preobrazenski?
Lơfo, con người hưởng lạc đó, nhảy với một bà to lớn như hộ pháp đi qua chỗ vua Piotr lớn tiếng nói với nhà vua:
- Thần Cupidon (2) bắn tên xuyên qua tim người ta đấy!
Ansen người nóng rực lên vì khiêu vũ, toàn thân tỏa ra một vẻ duyên dáng tươi mát:
- Chà, mệt quá Pete ạ, - nàng bám vào cánh tay vua Piotr, rên rỉ nói với một giọng cảng nhỏ nhẻ hơn nữa. Một chiếc pháo bông nổ thành hình rồng rắn trên đầu mọi người, chiếu sáng khuôn mặt tuyệt vời của Ansen có vẻ hơi gầy đi đôi chút vì mỏi mệt. Không hiểu thường thường người ta làm thế nào, vua Piotr cứ ôm bừa lấy đôi vai để trần của nàng, nhắm nghiền mắt lại rồi cảm thấy làn môi ướt của nàng chạm vào môi mình. Nhưng cặp môi của Ansen chỉ lướt qua. Nàng vùng ra khỏi tay vua Piotr. Hàng trăm chiếc pháo bông nổ lốp bốp, dữ dội. Ansen đã biến đâu mất. Từ một đám khói mù mịt hiện ra cái áo lông thỏ và bộ tóc giả bằng sợi gai thô của vị sứ giả của thần Baccux. Nikita Zotov say mềm, tay vẫn khư khư cốc rượu, bước đi, miệng lẩm bẩm nói gì không rõ. Hắn bỗng đứng lại, chân nam đá chân xiêu:
- Uống đi, con, - Zotov nói, tay đưa cốc rượu cho vua Piotr - Uống đi, dù sao chăng nữa, thì hai chúng ta cũng đi đứt rồi... Chúng ta đã mất linh hồn rồi, chúng ta đã phá giới trong tuần chay. Hãy uống cho đến giọt cuối cùng, Sa hoàng cao cả của toàn cõi Đại, Tiểu...
Zotov trợn trừng như định dọa nạt ai, rồi ngã vật vào một bụi cây. Vua Piotr uống cạn rồi vứt cốc đi. Niềm vui dào dạt trong người nhà vua tựa hồ muôn ánh hào quang của một cây bông đang quay tít.
- Ansen!
Nhà vua gọi to rồi co chân chạy... Cửa sổ sáng trưng của ngôi nhà, ánh lửa đèn xếp, giấy bóng đèn lồng, tất cả mọi thứ đều bồng bềnh chung quanh. Bỗng nhà vua đứng lại, hai chân xoạc rộng ra, hai tay ôm lấy đầu. Đằng sau vua Piotr, một giọng nói ngọt ngào thì thào vào tai nhà vua:
- Lại đây, thần sẽ chỉ cho hoàng thượng biết chỗ nàng ở đâu.
Đó là gã mặc sơmi đỏ thắm, vừa nhảy múa lúc nãy, có cặp mắt sắc sảo, Alexaska Melsikov.
- Nàng đã trở về nhà rồi.
Vua Piotr chẳng nói chẳng rằng, chạy theo Alexaska trong đêm tối. Họ trèo qua một hàng rào, đụng phải mấy con chó, vượt qua mấy bức giậu tiến vào quảng trường cối xay rồi đến trước quán rượu. Trên cao, một khuôn cửa sổ dài có ánh đèn. Alexaska thì thầm:
- Nàng ở đó! - Rồi hắn ném một nắm cát vào ô kính. Cánh cửa sổ mở, Ansen thò đầu ra cúi xuống nhìn, một chiếc khăn quàng trên vai, đầu tết đầy những mẩu giấy cuộn tóc cho quăn.
- Ai đấy? - nàng hỏi với một giọng nhỏ nhẹ. Nàng cố nhìn trong đêm tối, và nhận ra vua Piotr, nàng lắc đầu nói :
- Không, không... Bệ hạ về đi ngủ đi, Herr Pete ạ...
Với những mẩu giấy cuộn tóc trên đầu trông  Ansen lại càng xinh xắn. Nàng đóng sập cửa sổ lại rồi bỏ rèm đăng-ten xuống ánh đèn vụt tắt.
- Cô ả giữ mình đấy, - Alexaska thì thầm. Hắn chăm chú nhìn vua Piotr rồi ghì chặt vai nhà vua dìu đến một chiếc ghế dài. - Hoàng thượng ngồi xuống đây thì hơn... Thần sẽ dắt ngựa đến. Hoàng thượng có cưỡi ngựa được không?
Khi hắn trở lại, tay cầm dây cương dắt hai con ngựa đã đóng yên, vua Piotr vẫn khom lưng ngồi đấy, hai bàn tay nắm chặt đặt trên đầu gối. Alexaska chăm chú nhìn nét mặt vua Piotr:
- Hoàng thượng uống rượu phải không?
Vua Piotr không trả lời. Alexaska đỡ nhà vua lên ngựa rồi hắn cũng nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và dìu vua Piotr, cho ngựa thủng thỉnh bước một rời khỏi xloboda. Sương mù bay tỏa trên đồng cỏ. Sao thu lấp lánh đầy trời. Ở Preobrazenski gà đã cất tiếng gáy. Bàn tay lạnh ngắt của vua Piotr bíu chặt lấy vai Alexaska, đã cóng đờ. Đến trước lâu đài, vua Piotr bỗng cứng người lại, lảo đảo ngã về đằng sau; nhà vua bám lấy cổ Alexaska, rồi ôm chặt lấy hắn. Đôi ngựa dừng lại. Hơi thở của nhà vua khò khè trong lồng ngực, xương cốt kêu răng rắc:
- Ôm, ôm chặt lấy ta, - vua Piotr nói với một giọng khàn khàn. Một lát sau vua Piotr nới lỏng cánh tay ra, rên rỉ thở dài:
- Nào đi... nhưng ngươi chớ có bỏ ta... Ngươi sẽ ngủ bên cạnh ta.
Tới gần thềm, Volkov nhảy đại về phía họ:
- Tâu chúa thượng? Ôi, lạy Chúa... Thế mà bọn thần...
Bọn dapife, bọn mã phu chạy tới. Từ trên mình ngựa, vua Piotr co chân đạp một cái vào đám người đang xúm xít xung quanh rồi xuống ngựa đi về phòng riêng, tay vẫn không buông Alexaska. Trong hành lang tối tăm, một bà lão loắt choắt đang đi ngang qua, tiếng váy sột soạt vội vàng làm dấu thánh; vua Piotr đẩy bà lão ra một bên. Một bà lão khác chui tọt vào gầm cầu thang như một con chuột.
- Này, lũ khỉ già hớt lẻo, ta chán ngấy lũ bay lắm rồi, lũ bay chết quách đi cho rảnh! - Vua Piotr làu nhàu nói. Trong phòng ngủ, Alexaska tháo ủng, cởi áo nẹp cho vua Piotr. Nhà vua nằm dài trên tấm thảm dạ và truyền cho Alexaska nằm cạnh mình, rồi kề đầu lên vai hắn.
Sau một lát im lặng, nhà vua nói:
- Ta sẽ bổ nhiệm nhà ngươi làm thị vệ của ta. Sáng mai ngươi sẽ bảo thơ lại thảo sắc chỉ... Lúc nãy vui nhỉ..., chà, vui biết nhường nào... Lạy Chúa kính mến!
Một lúc sau, nhà vua bỗng nấc lên một tiếng như một đứa con nít rồi ngủ thiếp đi.
-------------
Chú thích:
(1) Đơn vị trọng lượng Nga mỗi pud bằng 16,38 kg.
(2) Thần ái tình (thần thoại Hy Lạp).
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét