Con Đường Đau Khổ - Tập II
Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976
Tập II - Năm 1918
Ba lần dìm xuống nước,
Tắm trong máu ba lần
Ba lần luộc trong kiềm,
Ta trong sạch hơn những gì trong sạch nhất.
1
Thế là hết. Gió lạnh xua tơi tả những mẩu
giấy loại qua những dãy phố vắng vẻ của thành Pêterburg nay đã vắng lặng: những
tờ quân lệnh, những mẩu quảng cáo nhà hát, những bản hiệu triệu “lương tâm và
lòng yêu nước” của dân Nga. Những mảnh giấy rách nát đủ màu đủ cỡ ấy, với những
vệt hồ đã khô cứng, bay lả tả theo những đường bụi tuyết ngoằn ngoèo đang trườn
trên mặt đất, tiếng sột soạt ảm đạm như báo điềm chẳng lành.
Những cuộc xô đẩy ồn ào, hỗn độn và điên rồ
vừa qua ở chốn kinh thành nay chỉ còn để lại có thế. Những đám người vô công rồi
nghề nay không còn chen chúc trên các quãng trường và các đường phố nữa. Cung
điện Mùa Đông, mái bị một quả đại bác của chiến hạm “Rạng Đông” bắn thủng, nay
không còn ai lui tới nữa. Những vị bộ trưởng của Chính phủ lâm thời, những ông
chủ nhà băng đầy thế lực, những vị tướng đầy danh vọng đều đã trốn đi đâu hết...
Trên mặt những đường phố tróc lở và bẩn thỉu, không còn thấy bóng dáng những cỗ
xe ngựa lộng lẫy, những tiểu thư và thiếu phụ thanh lịch, những sĩ quan, những
viên chức, những chính khách ngông cuồng. Đêm đêm, những tiếng búa đóng ván bịt
lối ra vào các cửa hiệu ngày càng vang lên nhiều hơn. Lác đác trong các tủ kính
còn thấy bày nơi thì miếng phó mát, nơi thì chiếc bánh nướng khô đét. Nhưng cảnh
đó chỉ khơi sâu thêm nỗi nhớ tiếc cuộc sống đã qua. Người qua đường sợ hãi nép
vào tường, mắt lấm lét nhìn các đội tuần tiễu - những tốp người cương quyết đội
mũ đính sao đỏ, vai khoác khẩu súng trường nòng chúc xuống dưới.
Gió bấc phả hơi lạnh vào những khung cửa sổ
tối tăm, lùa vào những khoảng thầm vắng vẻ, xua tan những bào ảnh của sự xa hoa
đã lụi tàn. Cảnh Pêterburg vào cuối năm 1917 thật ảm đạm.
Ảm đạm, khủng khiếp, và không sao hiểu nổi,
không sao tưởng tượng được Mọi sự đều đã chấm dứt. Mọi thứ đều bị bãi bỏ. Một
người đội chiếc mũ rách, tay xách cái xô nhỏ và cái chổi quét hồ, chạy qua mặt
đường tuyết bay lất phất. Hắn dán thêm những tờ yết thị mới, và những tờ giấy
trăng trắng ấy như những tấm mụn vải vá lên những bức tường nền đã trải qua
hàng thế kỷ. Những cấp bậc, những phẩm hàm, những món tiền hưu bổng, những chiếc
lon sĩ quan, chữ “yer” [một chữ cổ của văn tự Nga bị bãi bỏ và thay bằng chữ E sau năm 1917], Thượng đế, quyền tư hữu và ngay cả cái quyền được sống
theo ý muốn cũng đều bị bãi bỏ. Bãi bỏ hết rồi! Dưới vành mũ, đôi mắt người đi
dán yết thị gườm gườm nhìn lên những khung cửa kính nơi những kẻ trưởng giả hãy
còn đi đi lại lại trong mấy căn phòng lạnh lẽo, bẻ đốt ngón tay và nhắc đi nhắc
lại.
- Thế này là thế nào? Rồi sẽ ra sao? Nước
Nga sẽ tiêu vong, tất cả sẽ chấm dứt... Chỉ còn một chết nữa mà thôi.
Lại gần cửa sổ, họ thấy: chênh chếch sang
bên cạnh, trước tòa dinh thự của Cụ Lớn,
nơi trước kia thường có một viên cảnh binh đứng nghiêm liếc nhìn lên mặt nhà
xam xám, bây giờ có một chiếc xe tải dài đổ trước thềm, và từ những khung cửa mở
toang có những người mang vũ khí đang khiêng nào bàn ghế, nào thảm nệm, nào
tranh ảnh ra ngoài. Trên mái hiên có cắm một ngọn cờ đỏ con con, và ngay trên
thềm, đích thân cụ lớn, với đôi râu má để như Xkôbêlev, mình mặc chiếc áo bành
tô mỏng, đang dẫm chân lạch bạch, mái đầu bạc rung rung. Họ đang tống cổ cụ lớn
đi! Cụ lớn biết đi đâu giữa cái thời tiết giá băng này? Muốn đi đâu thì mặc xác
cụ lớn, mặc xác cái bậc lương đống của triều đình ấy!
Đêm xuống. Ngoài đường tối mịt: không có lấy
một ngọn đèn, không có lấy một tia sáng nào từ các khung cửa sổ đen ngòm chiếu
ra. Than không có. Ấy thế mà nghe nói điện Xmolny lại rực rỡ ánh đèn, và các
khu nhà máy cũng sáng trưng lên như thế. Trên đô thành bị giày vò hành hạ, bị bắn
thủng lỗ chỗ, bão tuyết rú lên, thổi hun hút qua những mái nhà dột nát như tiếng
than thở: “Kh-kh-khốn to rồi -ồ-ồ-ồi!...”. Trong đêm tối chốc chốc lại vang lên
một tiếng súng. Ai bắn thế, vì sao mà bắn, bắn vào ai? Có phải tiếng súng phát
ra từ nơi chập chờn ánh lửa nhuốm đỏ những đám tuyết đang buông xuống mờ mờ? Đó
là những kho rượu đang cháy... Dưới các hầm chứa, có những người đang sặc sụa
trong vũng rượu từ những cái thùng vỡ chảy ra lênh láng thành từng ao... Kệ mẹ
họ, cứ việc nằm đấy mà chết thiêu đi!
Ôi, dân Nga, dân Nga!
Dân Nga đang theo từng đoàn tàu lũ lượt kéo
từ mặt trận về nhà, về làng, về thảo nguyên, về đồng lầy, về rừng núi... Về với
đất đai, với vợ con... Dân Nga đứng chen chúc trong những toa tàu đã vỡ hết cửa
kính thành từng đống người nêm chặt, không cựa quậy được nữa, đến nỗi có ai chết
cũng không sao kéo ra ngoài mà ném xác qua cửa sổ được. Dân Nga ngồi đầy cả những
lá chắn đệm toa, ngồi kín cả các nóc toa. Dân Nga chết cóng trên tàu, bị nghiền
nát dưới bánh sắt, bị những thanh vòm cầu đánh vỡ sọ. Dân Nga chở của về trong
những cái thùng, những tay nải: đó là tất cả những vật gì họ có thể vớ được, và
tất cả những thứ đó đều có thể có ích cho công việc làm ăn của họ: một khẩu
súng máy, một cái quy-lát, mớ đồ dùng lặt vặt lấy được trên một thây chết, một
khẩu súng trường, một cái máy hát, hay tấm da cắt được trên đệm ghế tàu. Chỉ có
tiền là họ không mang về mà thôi: cái thứ giấy lộn này đến vấn điếu thuốc sâu
kèn cũng chẳng xong.
Những đoàn tàu chậm chạp bò qua những cánh
đồng bằng mênh mông của nước Nga. Kiệt sức, chúng dừng lại bên một ngôi nhà ga
đã vỡ hết cửa lớn lẫn cửa sổ. Mỗi nhà ga đều bị đoàn người đi trên tàu chửi bới
tục tằn. Những người lính mặc ca-pốt xám nhảy từ trên nóc toa xuống, lên cò
súng lách cách, lao đi tìm tên trưởng ga, để tiêu diệt ngay tại chỗ loài tôi tớ
này của giai cấp tư sản toàn thế giới. “Đưa ngay đầu máy ra đây!... Chán sống rồi
hay sao, hả đồ chó đẻ? Phải cho đoàn tàu lên đường ngay!...”. Họ chạy lên toa đầu
máy đã hết hơi mà cả người tài xế lẫn người đốt lò đã bỏ đấy để trốn biệt vào
thảo nguyên. “Than đâu, củi đâu! Phá hàng rào ga ra mà đun, chẻ cánh cửa ra!”
Ba năm về trước Dân Nga không hỏi han gì
nhiều về nỗi họ phải đi đánh ai, để bảo vệ cái gì. Chẳng qua họ chỉ thấy bỗng
đâu như trời long đất lở: mộ lính, chiến tranh! Dân Nga đã hiểu rằng thời của
những việc khủng khiếp đã đến. Cuộc sống cũ đã chấm dứt. Trong tay, một khẩu
súng trường. Thôi muốn ra sao thì ra, chứ mình sẽ không bao giờ còn quay lại với
cuộc sống cũ nữa. Những mối oán cừu tích tụ từ bao thế kỷ nay đã sôi réo lên.
Qua ba năm họ đã biết rõ thế nào là chiến tranh.
Phía trước là một khẩu đại liên, và phía sau là một khẩu nữa: cứ phải lăn lóc
trong phân rác, áo quần đầy chấy rận, chừng nào hãy còn sống. Rồi sau đó họ đã
giật mình hoang mang: cách mạng!... Họ đã sực tỉnh: thế chúng tôi đây thì sao hở?
Người ta lại bịp chúng tôi lần nữa chăng? Họ lắng nghe những kẻ đi tuyên truyền:
thế ra trước đây ta vẫn là đồ ngu, nhưng từ đây thì phải khôn ngoan mới được.
Đánh nhau đủ rồi, bây giờ phải về nhà mà đền ơn trả oán. Bây giờ ta đã biết rõ
phải cắm lưỡi lê vào bụng thằng nào. Bây giờ không còn Sa hoàng, cũng chẳng còn
thượng đế. Chỉ còn chúng ta. Về thôi, về mà chia đất!
Như một lưỡi cày, những đoàn tàu chở lính từ
mặt trận về kéo qua những cánh đồng bằng Nga, bỏ lại ở phía sau những ngôi nhà
ga dột nát, những dãy toa bị đập vỡ, những thị trấn bị lột da. Trong các làng mạc
và trại ấp vang lên tiếng rít nhức nhối của những lưỡi dũa: người ta đang cưa cụt
những nòng súng trường. Dân Nga lại lập cơ ngơi vững vàng trở lại trên đất đai.
Và trong những ngôi nhà gỗ, hệt như thuở xa xưa, ánh đóm nhựa lại sáng lên, và
các cô thôn nữ lại căng sợi trên các khung cửi của tổ tiên họ. Tưởng chừng như
thời gian đã lăn ngược trở về những thế kỷ đã qua. Ấy là vào tiết mùa đông, khi
cuộc cách mạng thứ hai, cuộc cách mạng Tháng Mười, đã bùng nổ...
Lúc bấy giờ, thành Pêterburg đói khát, bị
các làng mạc ở xung quanh cướp phá, bị gió bắc cực xuyên vào thấu xương thấu thịt,
bị chiến tuyến của địch vây kín, bị những cuộc âm mưu làm rung chuyển, một
thành phố không có than, không có bánh mì, bao nhiêu ống khói nhà máy đều tắt
ngấm, một thành phố giống như một bộ não người phơi trần ra, - thành Pêterburg
phóng ra xung quanh, qua những làn sóng điện của đài phát thanh Txarxkôiê
Xê-lô, những luồng tư tưởng cuồng dại, hung hãn như những tiếng bom nổ.
Đứng trên bệ đá hoa cương của pho tượng
Alekxandr đệ Tam, một anh chàng gầy gò, chiếc mũ chụp Phần-lan đội ngược trước
ra sau, đang gân cổ lên gào, giọng khản đặc vì cảm lạnh:
- Các đồng chí đào ngũ! Các đồng chí đã
quay lưng lại với lũ đế quốc tham tàn... Chúng tôi, công nhân thành Pêterburg,
chúng tôi xin nói với các đồng chí là các đồng chí đã hành động đúng... Chúng
ta không muốn làm lính đánh thuê cho giai cấp tư sản khát máu. Đả đảo chiến
tranh đế quốc!
- Đả-ả-ảo, đảo...đảo... - tiếng hô uể oải
chuyền qua đám lính râu ria xồm xoàm. Vai vẫn khoác súng và tay nải đựng những
thứ của hôi được, họ đứng trước pho tượng, dáng mệt mỏi và nặng nề. Cái thân
hình to lớn của ông vua đồng đen lấm tấm bụi tuyết, và cái mõm của con ngựa béo
lùn cúi sát trên người diễn giả khoác áo bành tô mỏng phanh ngực.
- Các đồng chí... Thế nhưng ta không nên
buông súng! Cách mạng đang lâm nguy... Từ khắp bốn phương, quân thù đang trỗi dậy
chống chúng ta... Đôi tay tham tàn của chúng ôm hàng núi vàng và cầm những vũ
khí có sức hủy diệt khủng khiếp... Chưa chi chúng đã run lên vì mừng rỡ khi thấy
chúng ta sặc sụa trong máu... Nhưng chúng ta quyết không run tay... Vũ khí của
chúng ta là niềm tin nồng nhiệt vào cuộc cách mạng xã hội thế giới... Cuộc cách
mạng ấy sẽ nổ ra, nó đang chín muồi...
Đoạn cuối câu nói bị gió thổi bạt đi. Lúc bấy
giờ có một người vai rộng, cổ áo khoác bẻ dựng lên, tha thẩn dừng lại bên pho
tượng. Hình như người ấy đang mải nghĩ chuyện gì, không hề chú ý đến pho tượng
mà cũng chẳng trông thấy diễn giả và đám lính khoác tay nải đứng trước mặt.
Nhưng rồi bỗng một câu nói nào đấy đã làm cho người ấy chú ý - nói cho đúng ra
cũng chẳng phải là một câu nói, mà là cái niềm tin bồng bột trong cái giọng nói
đang sang sảng vang lên dưới cái mõm ngựa bằng đồng.
- ... Vì các đồng chí phải hiểu rằng... chỉ
nửa năm nữa chúng ta sẽ vĩnh viễn tiêu diệt cái tệ nạn đáng nguyền rủa nhất: tiền
tệ... Đói khổ, túng quẫn, nhục nhằn đều không còn nữa... Cần thứ gì cứ việc đến
kho công cộng mà lấy... Còn vàng thì ta sẽ dùng để xây nhà xí công cộng, các đồng
chí ạ...
Đến đây một cơn gió lùa tuyết vào tận họng
diễn giả. Phẫn uất, diễn giả cúi gập người xuống ho một thôi dài như xé phổi,
không sao nín lại được nữa. Đám lính đứng yên một lát, lắc lắc mấy cái mũ chụp
rồi bỏ đi, người thì ra ga, người thì đi qua thành phố sang bên kia sông. Diễn
giả rời bệ tượng đồng tụt xuống đất; móng tay anh ta trượt trên đá hoa cương
trơn. Người mặc áo khoác bẻ cổ cất tiếng gọi khe khẽ:
- Rublyôv, chào anh.
Vaxili Rublyôv, vẫn còn ho khục khặc, cài
áo bành tô lại. Anh ta không chìa tay ra, hai mắt gườm gườm nhìn Ivan Ilyits
Têlêghin.
- Sao, anh cần hỏi gì?
- À, gặp anh, tôi rất mừng, thế thôi...
- Mấy thằng cha kia, đầu óc đần độn quá, -
Rublyôv nói, mắt nhìn về phía ngôi nhà ga với những đường viền mờ mờ sau tuyết,
nơi có mấy tốp lính râu ria, người đầy chấy rận, đang đứng cạnh mớ hành lý để
giữa đất. - Không sao làm cho họ vỡ nhẽ ra được! Họ bỏ mặt trận trốn về như lũ gián.
Chẳng hiểu cái gì!... Phải khủng bố mới xong...
Bàn tay rét cóng của Rublyôv như nắm chặt lấy
làn gió tuyết... Nắm tay anh ta đấm mạnh vào một vật gì đang bay trong làn gió ấy,
rồi buông thõng xuống. Rublyôv rùng mình...
- Rublyôv ạ, anh biết rõ tôi lắm, (Têlêghin
bẻ cổ áo lại và cúi xuống sát gương mặt xám ngoét của Rublyôv)... Anh hãy giảng
rõ cho tôi nghe với... Vì giờ đây chúng ta đang đút cổ vào thòng lọng... Nếu
quân Đức muốn, trong một tuần nữa chúng sẽ ở Pêtrôgrad... Anh hiểu chứ, - tôi
xưa nay chưa bao giờ quan tâm đến chính trị...
- Không quan tâm là thế nào? - Rublyôv xửng
cồ lên, vụng về quay phắt lại. - Thế anh quan tâm đến cái gì? Bây giờ, kẻ nào
không quan tâm đến chính trị thì anh có biết đó là hạng người gì không? - Anh
ta quắc mắt nhìn Ivan Ilyits - một kẻ trung lập là một kẻ thù của nhân dân...
- Chính tôi muốn hỏi anh về chuyện đó... Thế
thì anh hãy nói cho nó tử tế một chút, như một con người nói với một con người.
Ivan Ilyits cũng xửng cồ lên. Rublyôv thở
hít vào một hơi dài.
- Anh gàn lắm, Têlêghin ạ... Bây giờ tôi
không có thì giờ nói chuyện với anh đâu, anh có hiểu được điều đó không?
- Rublyôv ạ, tôi bây giờ gay quá, chẳng biết
theo hướng nào... Chắc anh đã nghe nói Kornilôv dấy binh khắp vùng sông Đôn rồi
chứ?
- Có nghe.
- Hoặc tôi về vùng sông Đôn, hoặc tôi đi với
các anh.
- “Hoặc” là thế nào?
- Là thế này: tôi tin cái gì thì tôi đi
theo cái ấy... Anh theo cách mạng, tôi theo nước Nga... Mà có lẽ, tôi theo cả
cách mạng nữa cũng nên. Anh biết đấy: tôi là một sĩ quan dã chiến...
Ánh lửa tức giận đã tắt ngấm trong đôi mắt
tối xẫm của Rublyôv, chỉ còn lại vẻ mệt mỏi của một người thiếu ngủ.
- Thôi được, ngày mai anh đến điện Xmolmy hỏi
tôi... “Nước Nga” kia chứ! - anh ta lắc đầu cười nhạt, - Cái nước Nga ấy rồi sẽ
làm cho anh phát điên phát cuồng lên cho mà xem... Đến chảy máu mắt ra với
nó... Nhưng dù sao tất cả chúng ta rồi cũng sẽ chết vì nước Nga... Bây giờ anh
ra ga Baltic. Ở đấy có đến ba ngàn lính đào ngũ nằm lăn lóc giữa nền đất từ ba
hôm nay... Anh đến họp mít tinh với họ một chút, đến tuyên truyền cho chính quyền
xô-viết đi... Anh hãy nói với họ là Pêtrôgrad đang cần bánh mì, còn chúng tôi
đang cần chiến sĩ... (Mắt anh ta lại quắc lên). Anh hãy nói là nếu họ còn nằm ì
trên lò sưởi mà gãi bụng thì sẽ chết toi, như đồ chó đẻ vậy. Cách mạng sẽ quật
vào mông cho mà xem... Anh hãy cố nhồi vào đầu cho họ hiểu mấy!... Bây giờ
ngoài chính quyền Xô-viết ra không còn ai có thể cứu nước Nga, cứu cách mạng được
nữa... Anh hiểu chưa? Bây giờ trên đời này không có cái gì quan trọng hơn cuộc
cách mạng của chúng tôi nữa...
Têlêghin leo lên cái cầu thang giá buốt, lần
trong bóng tối tìm về căn nhà của chàng ở tầng thứ năm. Chàng sờ soạng tìm cánh
cửa vào. Chàng gõ ba tiếng liền nhau, rồi một tiếng nữa. Trong nhà có tiếng bước
lại gần cánh cửa. Im lặng một lát, rồi có tiếng vợ chàng hỏi khe khẽ:
- Ai?
- Anh đây, anh đây Đasa ạ.
Sau cánh cửa có tiếng thở dài. Sợi dây chuyền
móc cửa kêu lách cách. Mấy cái móc mãi hồi lâu không mở ra được. Tiếng Đasa thì
thầm: “Trời ơi! Trời ơi!”. Cuối cùng nàng mở cửa ra và lập tức bỏ vào phía
trong dẫy hành lang tối om, ngồi xuống một chỗ nào đấy.
Têlêghin cẩn thận cài tất cả các thứ then,
móc lại. Chàng cởi giày lót ngoài. Chàng nắn túi - quỷ thật, chẳng thấy bao
diêm đâu nữa. Không cởi áo ngoài, đầu vẫn đội mũ lông, hai tay giang ra phía
trước, chàng đi về phía Đasa vào lúc nãy.
- Tệ quá, - chàng nói, - lại mất điện rồi.
Đasa, em ở đâu thế?
Đasa im lặng một lát rồi từ trong phòng làm
việc trả lời ra, giọng yếu ớt:
- Ban nãy hãy còn, mới mất đấy.
Chàng đi vào phòng làm việc; đó là gian
phòng ấm nhất trong cả căn nhà, nhưng hôm nay cũng lạnh. Chàng nhìn vào phòng
mà chẳng trông thấy gì, ngay hơi thở của Đasa cũng không nghe thấy. Chàng thấy
thèm ăn, và nhất là thèm ngụm nước chè. Nhưng chàng đoán biết là Đasa chẳng đun
nấu gì hết.
Bẻ cổ áo khoác xuống, Ivan Ilyits ngồi vào
chiếc ghế bành đặt cạnh đi-văng mặt trông ra cửa sổ. Ngoài kia, giữa bầu trời mờ
mịt những bông tuyết chập chờn, một vệt sáng đùng đục quét qua quét lại; không
biết ở Krônstađt hay ở một nơi nào gần hơn, một ngọn đèn chiếu đang sờ soạng
tìm kiếm trên nền trời.
“Giá đốt lò sưởi lên một chút thì hay quá,
- Ivan Ilyits nghĩ thầm - làm thế nào hỏi Đasa xem diêm ở đâu rồi nhỉ?”
Nhưng rồi chàng không dám hỏi. Chàng không
thể biết chắc được là nàng đang khóc hay đang thiu thiu ngủ. Cả tòa nhà lớn nhiều
tầng lặng ngắt như một tòa nhà bỏ hoang. Chỉ nghe xa xa vọng lại yếu ớt những
tiếng súng lẻ tẻ. Bỗng sáu cái bóng trên chùm đèn pha lê ửng đỏ lên, ánh sáng yếu
ớt tỏa lờ mờ xuống căn phòng Đasa đang ngồi ở bàn viết, chiếc áo khoác lông
trùm ra ngoài - một mớ áo gì dày cộm, chỉ để lộ một bên chân đi ủng dạ. Đầu
nàng đặt nghiêng trên mặt bàn, má úp vào tấm giấy thấm. Khuôn mặt nàng gầy gò,
tiều tụy, mắt mở trừng trừng. Nàng ngồi ở một tư thế rất cấn cái, thiếu tự
nhiên, bạ thế nào ngồi thế ấy, mắt cũng chẳng buồn nhắm lại nữa.
- Đasenka ạ, dù sao cũng không thể cứ thế
này mãi được. - Têlêghin nói, giọng trầm trầm. Chàng thấy thương vợ quá chừng,
không tài nào chịu nổi. Chàng đi về phía bàn. Nhưng mấy sợi dây tóc đo đỏ trên
chùm đèn bỗng chớp chớp rồi tắt ngấm. Đèn chỉ hơi sáng lên được có mấy giây.
Chàng đến đứng sau lưng Đasa, nín thở cúi
xuống. Còn biết có cách gì giản dị hơn nữa, ngoài cách im lặng vuốt tóc nàng?
Nhưng nàng cứ rũ ra như cái xác, không hề có chút gì tỏ ra nàng biết có chàng
bên cạnh.
- Đasa, thôi em đừng làm khổ mình nữa...
Cách đây một tháng, Đasa ở cữ. Đứa con trai
sống chỉ được hai ngày. Nàng đã đẻ non sau một cơn chấn động tinh thần khủng
khiếp. Hôm đó, vào lúc chập choạng, nàng đang đi trên quảng trường Chiến thần
thì có hai bóng người cao lớn dị thường, mình khoác khăn liệm bay phất phới, xồ
ra chận nàng lại. Chắc hẳn đó chính là bọn “cướp nhảy” vẫn dùng những đôi giày
có lắp lò xo đặc biệt để giả làm ma, đã làm cho cả thành Pêterburg khiếp sợ
trong những ngày quái đản này. Chúng nghiến răng ken két, rít the thé vào mặt
Đasa. Nàng ngã xuống. Chúng giật chiếc áo khoác của nàng rồi nhảy chồm chồm qua
cầu Lêbyaji. Đasa nằm sóng soài giữa đất một lát. Mưa đổ rào rào xuống từng
cơn, mấy cây bồ đề trụi lá trong Vườn mùa hạ rú lên man dại. Đâu ở bên kia dòng
kênh Fontanka có tiếng ai kêu cứu. Đứa bé đạp mạnh trong bụng Đasa, đòi ra đời.
Nó cứ thế đòi nằng nặc, Đasa đành gượng dậy,
đi qua cầu Trôitxki. Gió ép nàng vào dãy lan can bằng gang, vạt áo dài nàng ướt
đẫm dính bết vào chân. Không có lấy một ánh đèn, không thấy bóng một người qua
đường. Phía dưới là sông Nêva cuộn sóng đen ngòm. Trong khi đi qua cầu. Đasa đã
thấy chớm đau lần đầu. Nàng hiểu rằng mình sẽ không về đến nhà được, chỉ mong
sao lê đến một gốc cây, tựa vào đấy cho đỡ mệt, đỡ gió. Ngay ở đây, trên phố
Kraxuyê Zory, nàng bị một đội tuần tiểu chặn lại. Một người lính cầm súng trường
cúi xuống sát gương mặt tái mét của nàng.
- Chúng nó cướp hết áo rét rồi còn gì, quân
khốn kiếp! Xem này, lại có bụng nữa mới khổ chứ!
Chính người lính ấy đưa Đasa về nhà, vực
nàng lên tầng năm. Anh ta nện báng súng vào cửa, rồi khi Têlêghin ló đầu ra,
anh ta quát vào mặt chàng:
- Cái lối đâu lại để vợ đi ban đêm một mình
như thế, suýt đẻ ra giữa đường đấy... Đồ trưởng giả quỷ quái, chẳng biết cái
gì!
Nàng bắt đầu trở dạ ngay đêm ấy. Một bà đỡ
đến, nói không ngớt mồm. Đến đêm hôm sau những cơn đau mới chấm dứt. Đứa bé
không thấy thở nó đã bị sặc nước. Người ta vỗ đen đét, xát mạnh vào người nó.
Nó nhăn nhó rồi khóc lên được mấy tiếng. Bà đỡ không nản lòng, tuy đứa bé bắt đầu
ho sù sụ. Nó cứ khóc thảm thương như con mèo con và không chịu bú. Rồi nó không
khóc nữa, chỉ rên ư ử. Đến sáng ngày thứ ba, Đasa vừa thò tay vào nôi sờ thử đã
rụt ngay lại: người thằng bé lạnh ngắt. Nàng bế nó lên, tháo tã lót ra: trên đỉnh
đầu nó những sợi tóc thưa thớt màu vàng nhạt dựng đứng lên.
Đasa kêu lên một tiếng man dại. Nàng rời
giường ngủ chạy ra cửa sổ: nàng định đập vỡ cửa kính, nhảy xuống đường, đừng sống
nữa... “Mẹ đã bỏ con, mẹ đã phản bội con... Mẹ không thể sống được nữa, không
thể sống được!” - Nàng cứ nhắc đi nhắc lại. Têlêghin chật vật lắm mới giữ được
nàng lại, dìu nàng đi nằm. Chàng bế cái xác bé bỏng đi. Đasa nói với chồng:
- Trong khi em ngủ, cái chết đã đến bắt nó.
Anh hiểu không: tóc nó dựng đứng lên... Nó quằn quại một mình... Em thì vẫn ngủ...
Chàng có khuyên nhủ van lơn thế nào cũng
không sao xua đuổi được ra khỏi tâm trí nàng cái cảnh tượng đứa bé đang một
thân một mình vật lộn với cái chết.
- Thôi được, anh ạ, em sẽ không nghĩ đến
chuyện ấy nữa đâu, - nàng trả lời Têlêghin, để khỏi nghe cái giọng điềm tĩnh của
chồng, khỏi nhìn thấy gương mặt hồng hào khỏe mạnh mặc dầu phải chịu đựng đủ mọi
sự thiếu thốn, bộ mặt “yêu đời” của chàng.
Sức khỏe thì Têlêghin có thừa để từ tảng
sáng đến đêm khuya, chân đi đôi giày bọc rách, chạy khắp thành phố tìm việc làm
thêm, kiếm thức ăn, củi đốt và thứ này thứ nọ. Trong khi chạy chọt như vậy
chàng vẫn tạt về nhà mấy lần, và lúc nào cũng ân cần săn sóc nàng hết sức.
Nhưng bây giờ những săn sóc ân cần ấy chính
là cái mà Đasa ít cần đến hơn cả. Têlêghin càng tỏ ra xốc vác bao nhiêu thì
Đasa lại càng xa chàng ra một cách vô hy vọng bấy nhiêu. Suốt ngày nàng ngồi một
mình trong căn phòng lạnh lẽo. Thật may mắn nếu nàng chợp mắt đi được: nàng
thiu thiu ngủ một lúc, rồi tỉnh dậy đưa tay lên dụi mắt, và có thể tưởng như chẳng
có gì xẩy ra. Nàng đi xuống bếp, nhớ lại rằng Ivan có dặn nàng làm cái gì đấy.
Nhưng dù là một công việc nhẹ nhàng đến đâu nàng cũng không sao làm nổi. Chỉ bắt
tay vào là đã phải bỏ đấy ngay. Trong khi đó, mưa tháng một rả rích gõ từng hồi
trên cửa sổ. Gió thổi rào rào qua thành Pêterburg. Ngoài khu nghĩa địa bên bờ
biển, cái xác bé bỏng của con nàng đang nằm giữa mưa rét, đến khóc cũng chẳng
còn khóc được nữa.
Ivan Ilyits hiểu rằng nàng đang ở trong một
tình trạng đau ốm về tinh thần. Hễ điện tắt là nàng rúc vào một xó xỉnh nào đấy,
ngồi thu lu trong chiếc ghế bành, đầu trùm chiếc khăn san và lặng người đi
trong một nỗi buồn da diết tưởng chết đi được. Thế mà lúc này lại cần phải sống,
nhất thiết phải sống... Chàng viết thư về Moxkva nói rõ tình trạng của Đasa cho
Êkatêrina Đmitrievna biết, nhưng thư không đến. Không thấy Katya trả lời, chắc
nàng cũng gặp chuyện gì chẳng lành. Thời buổi khó khăn quá.
Đứng sau lưng Đasa, Ivan Ilyits loay hoay
thế nào dẫm phải một bao diêm. Chàng hiểu ngay mọi sự: khi điện tắt, Đasa vật lộn
với bóng tối, với nỗi buồn, thỉnh thoảng lại đánh một que diêm lên cho đỡ buồn,
đỡ tối. “Khổ thân quá, chàng nghĩ bụng, - thế mà suốt ngày lại phải ngồi một
mình”.
Chàng thận trọng nhặt bao diêm lên. Trong
bao hãy còn mấy que. Chàng liền xuống bếp lấy mớ củi đã chuẩn bị sẵn từ sáng sớm
lên: đó là những mảnh ván của cái tủ áo cũ cưa nhỏ ra một cách rất cẩn thận -
Chàng ngồi xổm trong phòng làm việc, lúi húi đốt cái lò sưởi nhỏ xây bằng gạch,
có cái ống thông bằng tôn dài gấp khuỷu chạy suốt chiều rộng của gian phòng.
Thanh đóm cháy rực lên, tỏa ra một mùi khói dễ chịu. Gió hút vào những kẽ hở
trên cửa lò kêu vù vù. Một cái vệt sáng lung linh soi lên trần nhà.
Những cái lò sưởi tự chế này về sau được gọi
một cách khá phổ biến là “mụ tư sản” hay là “con ong”. Chúng đã phụng sự nhân
loại một cách đắc lực trong suốt thời kỳ cộng sản thời chiến. Những kiểu bếp
đơn giản làm bằng sắt, có bốn cái chân, chỉ trổ một cái lỗ tròn để nấu nướng,
hay những kiểu cầu kỳ hơn, có một ngăn hơi có thể dùng để nướng bánh đa trộn bã
cà-phê, đôi khi còn nướng được cả chả cá nữa, hay những kiểu “sang trọng”, có
lát gạch hoa gỡ ở lò sưởi lớn ra - tất cả những kiểu lò ấy đều vừa sưởi, vừa nấu,
vừa nướng, lại vừa cất tiếng hát bài ca muôn thuở của lửa hồng hòa với tiếng rú
của cơn bão tuyết đang lồng lộn ở ngoài trời.
Người ta quây quần xung quanh những hòn
than đỏ rực của cái lò sưởi con con, như những người nguyên thủy quây quần bên
đống lửa của thị tộc, hơ những đôi tay rét cóng, chờ khi nắp ấm chè nhảy lên bần
bật. Người ta nói với nhau những câu chuyện thú vị mà tiếc thay, chẳng ai có ý
ghi lại. Nhích chiếc ghế bành ọp ẹp lại gần hơn nữa, những vị giáo sư râu ria để
xồm xoàm, chân đi ủng dạ, đùi đắp chăn đơn, ngồi soạn những cuốn sách kỳ diệu.
Những nhà thơ bủng beo vì ốm đói viết những bài thơ diễm huyền về tình yêu và
cách mạng. Ngồi quanh lò sưởi đôi khi lại là những kẻ đồng lõa chụm đầu vào
nhau thầm thì to nhỏ những tin tức hết sức dị kỳ và quái gở. Và trong những năm
ấy đã có bao nhiêu đồ gỗ cổ kính, tráng lệ đã bay thành khói qua những cái ống
khói bằng tôn của mấy cái lò sưởi ấy!
Ivan Ilyits rất kính trọng cái lò của
chàng, lấy đất sét trát vào những kẽ hở, lấy vỏ đồ hộp treo dưới những chỗ nối ống
để hắc ín khỏi giọt xuống sàn nhà. Khi ấm chè đã sôi sùng sục chàng rút trong
túi áo ra một gói đường, trút vào cốc rõ nhiều, cho thật ngọt. Từ túi áo bên
kia chàng lấy ra một quả chanh mà ngày hôm nay chàng vừa kiếm được nhờ một sự
may mắn kỳ lạ: trên đại lộ Nevxki, một người tàn tật đã đổi quả chanh ấy cho
chàng để lấy một đôi bao tay. Chàng pha một cốc nước chè đường có bỏ chanh rồi
đem đặt trước mặt Đasa.
- Đasenka ạ, em uống đi, có cả chanh đấy...
Để anh đi thắp cây đèn nháy.
“Đèn nháy” là danh hiệu người ta vẫn dùng để
gọi cây đèn tạm bợ làm bằng cái hộp sắt tây tròn đổ đầy dầu hướng dương, trong
có một sợi bấc thả lềnh bềnh, Ivan Ilyits đem cây đèn nháy vào, và gian phòng tạm
sáng lên một chút.
Đasa đã ngồi lại tử tế trên ghế bành, uống
nước chè. Têlêghin rất hài lòng ngồi xuống cạnh nàng.
- Đasa ạ, em có biết anh vừa gặp ai không?
Vaxili Rublyôv. Chắc em còn nhớ ở xưởng anh có hai bố con ông Rublyôv: họ thân
với anh lắm. Ông bố có con mắt rất tinh ranh, một chân ở nông thôn, một chân ở
nhà máy. Một mẫu người đặc sắc! Còn Vaxili thì từ dạo trước đã là một tay
bolsêvik. Rất thông minh, tính thì hung dữ như con quỷ. Hồi tháng hai hắn là
người đầu tiên dẫn cả nhà máy xuống đường. Hắn sục vào các gác xép lùng cảnh
sát; nghe nói tự tay hắn đâm chết dễ đến nửa tá... Sau sự biến tháng Mười, hắn
trở thành một yếu nhân. Ấy, thế thì vừa rồi anh có gặp hắn nói chuyện... em vẫn
nghe anh nói đấy chứ, Đasa?
- Em vẫn nghe, - nàng đáp. Lúc bấy giờ nàng
đã đặt cái cốc xuống bàn, tựa cằm lên nắm tay gầy guộc, mắt thẫn thờ nhìn ngọn
đèn nhấp nháy. Đôi mắt xám của nàng để lộ một sự thờ ơ hoàn toàn với mọi sự
trên thế gian này. Khuôn mặt nàng hốc hác, làn da mịn trông như trong suốt, cái
mũi thanh tú trước kia trông bướng bỉnh và thậm chí ngông nghênh nữa, bây giờ
đã nhọn thêm ra.
- Anh Ivan ạ, - nàng nói (chắc để tỏ lòng cảm
ơn Têlêghin về chén trà có bỏ lát chanh) - ban nãy em đi tìm diêm tình cớ thấy
có bao thuốc lá sau dãy sách. Nếu anh cần...
- Thuốc lá à? Thôi đúng là bao thuốc mua từ
dạo nọ, loại anh thích nhất đấy Đasenka ạ! - Ivan Ilyits mừng rỡ như vậy là quá
đáng, vì bao thuốc lá ấy chính chàng đã đem cất đi để phòng xa. Chàng châm thuốc
hút, mắt liếc nhìn những đường nét trông nghiêng của Đasa im lìm như đã chết. “Phải
đưa Đasa đi xa nơi này, đến một miền nào thật nhiều ánh nắng”.
- Ấy, thế là anh với Vaxili Rublyôv nói
chuyện với nhau và Vaxili đã giúp anh hiểu thêm rất nhiều, Đasa ạ... Anh không
tin rằng những người bolsêvik ấy lại có thể tự dưng biến mất. Cội rễ của họ là
những người như Rublyôv, em hiểu không?... Quả thật chẳng có ai bầu họ lên hết.
Chính quyền của họ như treo trên sợi tóc: chỉ có ở Pêterburg, Moxkva và một vài
tỉnh lỵ... Nhưng ở đấy bí quyết nằm trong phẩm chất của chính quyền kia...
Chính quyền này có huyết mạch ăn thông vào những người như Vaxili Rublyôv. Ở nước
ta họ chẳng đông đảo gì... Nhưng họ có lòng tin. Vaxili Rublyôv thì dù có bỏ
vào chuồng sư tử hay đem thiêu sống cũng vẫn hân hoan cất tiếng hát “Quốc tế ca”
như thường...
Đasa vẫn lặng thinh.
Têlêghin ngồi xổm trước lò sưởi, khời khời
trong đống than hồng. Chàng nói:
- Em có hiểu anh định nói gì không?... Phải
đi ra thôi. Cứ ngồi yên đợi cho mọi việc xong xuôi ổn thỏa thì cũng khó coi, em
ạ... Ngồi kế bên vệ đường mà ăn xin thì xấu hổ lắm. Anh khỏe mạnh, anh không phải
là kẻ phá hoại... Nói thật, anh thấy ngứa ngáy chân tay lắm rồi...
Đasa thở dài. Mắt nàng nhắm nghiền, và dưới
hàng mi một giọt nước mắt trào ra. Ivan Ilyits thở mạnh:
- Dĩ nhiên trước hết phải giải quyết vấn đề
em đã, Đasa ạ... Em phải cố vận dụng nghị lực, phải tự lay tỉnh... Vì sống như
em bây giờ là chết mòn.
Chàng đã nói không tự kiềm chế được, chàng
đã bực dọc nhấn mạnh hai chữ “chết mòn”. Nghe thấy thế, Đasa liền nói, giọng
như giọng trẻ con rên rỉ:
- Dạo ấy tôi không chết đi được thì có phải
lỗi tại tôi đâu? Bây giờ tôi cản trở cuộc sống của anh... Anh kiếm chanh về làm
gì... Tôi có vòi anh đâu...
“Thế thì còn nói chuyện làm sao được?” Ivan
Ilyits đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc lại dừng bên cửa sổ, lấy móng tay
gõ gõ lên mấy tấm kính đổ mồ hôi. Ngoài kia bão tuyết rú lên từng hồi, tuyết
quay cuồng bay tán loạn, và gió thổi dữ dội như thể muốn vượt cả thời gian bay
vào tận tương lai báo tin những biến cố phi thường. “Gửi Đasa ra nước ngoài
chăng? - Ivan Ilyits tự hỏi - Hay gửi về Xamara ở với ông cụ? Phức tạp quá chừng...
Nhưng cứ sống thế này thì không thể được nữa rồi...”
* * *
Chị của Đasa là Êkatêrina Đmitrievna đã đưa
Vađim Pêtrôvits Rôstsin, chồng nàng, về Xamara ở với bố. Ở đấy có thể yên tâm
chờ sang xuân mà không phải lo lắng về miếng ăn hàng ngày. Đến mùa xuân thì dĩ
nhiên là bọn bolsêvik phải bị tiêu diệt hết rồi. Thậm chí bác sĩ Đmitri
Xtêpanôvits Bulavin còn xác định cả ngày tháng cụ thể: khoảng giữa tiết tan giá
và lúc bắt đầu rữa tuyết mùa xuân, quân Đức sẽ mở cuộc tấn công trên khắp trận
tuyến, trong khi những đám tàn quân Nga đang họp mít tinh, còn các ủy ban binh
sĩ thì giữa cảnh hỗn loạn, phản bội và đào ngũ, đang hoài công tìm kiếm những
hình thức kỷ luật cách mạng mới.
Mấy năm nay Đmitri Xtêpanôvits đã già đi
nhiều. Ông sống khá chật vật và càng nói chuyện chính trị nhiều hơn trước. Thấy
con gái về, ông rất mừng và lập tức bắt tay vào việc giáo huấn chính trị cho
Rôstsin. Hai người ngồi suốt buổi trong phòng ăn, bên chiếc ấm lò cũ kỹ. Đó là
một chiếc xamovar móp chứa được hàng
chục lít, đã từng đun sôi trong lòng mình một lượng nước có thể đổ đầy một cái
hồ lớn, và càng cũ thì hình như lại càng tốt lên: chỉ cần ném hòn than vào là
nó lập tức cất tiếng hát lên điệu nhạc ấm lò tỉnh lẻ kéo dài vô tận của nó.
Đmitri Xtêpanôvits, ăn mặc lôi thôi lếch thếch, người béo bệu, bộ tóc bạc bù xù
không buồn chải, mồm hút một điếu thuốc lá hôi rình, ho sù sụ đến đỏ mặt tía
tai lên, và nói thao thao bất tuyệt...
- Cái xứ sở của chúng ta nó đi đời nhà ma rồi...
Ta bại trận rồi... Nói thế này ông đừng giận, ông thượng tá ạ, chứ lẽ ra phải
đình chiến với Đức từ năm 1915 kia mới đúng... Và chịu khó làm đầy tớ cho người
ta để mà học hỏi người ta. Giá được như thế, thì họ đã dạy dỗ cho ta được ít
nhiều, may ra ta còn có thể thành người được. Chứ bây giờ thì hỏng hết rồi...
Thật là vô phương cứu vãn, như người ta vẫn nói... Thôi tôi xin ông!... Ta thì
chống cự gì? Biết lấy gì mà chống cự? Lấy gậy đinh ba ra mà đánh nhau chắc? Chỉ
đến hè năm nay quân Đức sẽ chiếm hết miền nam và miền trung nước Nga, quân Nhật
sẽ chiếm vùng Xibiri, còn lũ mu-gích nhà ta với những cây gậy đinh ba trứ danh ấy
thì sẽ bị dồn vào mấy bãi tunđra [Vùng rộng khong có rừng cây ở miền cực Bắc, quanh
năm băng giá, chỉ mọc những bụi cây nhỏ] sát vòng đai Bắc cực, và sẽ
bắt đầu có trật tự, có văn hóa, có thái độ kính trọng đối với con người... Lúc
bấy giờ ta sẽ có nước Đại Nga... tôi rất hài lòng!
Đmitri Xtêpanôvits vốn là một ông già theo
phái khoáng đạt, và bây giờ ông thường lấy giọng mỉa mai chua chát nhạo báng
cái dĩ vãng “thiêng liêng”. Trong khắp căn nhà ông ở đều có thể thấy rõ dấu ấn
của thái độ tự phỉ nhổ này. Mấy gian phòng của ông không bao giờ được dọn dẹp,
cửa sổ bụi bám đen kịt; bức chân dung Menđêlêyev trong phòng làm việc chăng đầy
mạng nhện, những cây cảnh trồng trong thùng gỗ đều khô héo, những chồng sách,
những tấm thảm, những bức tranh đều vẫn để nằm nguyên trong thùng kể từ mùa hè
năm 1914, khi Đasa về đây lần cuối cùng.
Đến khi chính quyền ở Xamara lọt vào tay xô
viết đại biểu và phần đông các bác sĩ đều không chịu ra làm việc với “bọn đại
biểu lính tráng và cu-li”, người ta mời Đmitri Xtêpanôvits đứng ra quản đốc tất
cả các bệnh viện của thị xã. Vì theo dự tính của ông thì đằng nào sang xuân
quân Đức cũng sẽ chiếm đóng Xamara, ông đã nhận lời. Tình hình thuốc men rất
khó khăn, bệnh gì Đmitri Xtêpanôvits cũng chửa bằng phương pháp rửa ruột. “Cái
gì cũng đều do ruột tất, - ông thường nói với những người trợ lý, mắt ngạo nghễ
nhìn họ qua đôi kính cặp mũi rạn nứt - Suốt thời gian chiến tranh dân ta chưa
được rửa ruột. Nếu các ông chịu khó đi tìm những nguyên nhân tối sơ của cái
tình trạng vô chính phủ diễm phúc của ta ngày nay, các ông sẽ thấy ngay rằng đó
chính là chứng tắt ruột. Thế đấy, các ông ạ... nhất nhất phải rửa ruột cho từng
người...”
Đối với Rôstsin, những câu trò chuyện bên
chén trà của Đmitri Xtêpanôvits gây một ấn tượng rất nặng nề. Vết thương của
chàng từ dạo đánh nhau trên đường phố Moxkva cho đến nay vẫn chưa khỏi. Lúc bấy
giờ chàng chỉ huy một đại đội Junker
[Sinh viên trường võ bị, được coi như đang tòng ngũ
trong quân đội thường trực] bảo vệ những lối vào quảng trường
Nikitxkyê Vorôty. Từ phía quãng trường Xtratnaia, một toán bolsêvik do Xablin dẫn
đầu tiến lại. Rôstsin có quen Xablin từ hồi hắn còn đi học. Đó là một cậu bé
xinh đẹp kháu khỉnh như chú thiên thần, có đôi mắt màu thiên thanh và đôi má ửng
hồng e lệ. Thật là quái gở khi đem so sánh cậu thiếu niên con nhà trí thức thuộc
lớp dân Moxkva cố cựu ấy với cái tên bolsêvik sừng sỏ này (là bolsêvik hay là đảng
viên xã hội cách mạng cánh tả - có ma nó phân biệt được!), mình mặc chiếc áo
khoác dài, cầm khẩu súng trường chạy nấp sau mấy dãy bồ đề của chính cái phố
Tverxkaia mà Puskin đã bao lần ca ngợi, nơi mà mới ngày nào cậu học sinh ngoan
ngoãn chuyên cần ấy vẫn thường dạo qua với cuốn sách văn phạm cắp dưới nách.
“Phản bội nước Nga, phản bội quân đội, mở
đường cho Đức, tháo cũi cho ác thú - lý tưởng chiến đấu của ngài té ra là như vậy
đấy, ngài Xablin ạ!... Đối với bọn tốt đen chó má kia thì còn khả thứ, chứ đối
với hạng ngài thì...”. Rôstsin thân hành đến phục sau khẩu súng máy đặt trên một
cái hào nhỏ ở góc phố Malaia Nikitxkaia, cạnh hiệu bán sữa của lão Tsitskin, và
đến khi cái bóng dáng mảnh dẻ mặc áo khoác dài của Xablin lại từ sau rặng bồ đề
vụt nhảy ra, chàng bóp cò tưới cho nó một tràng dài đạn chì. Xablin buông cây
súng và ngồi phịch xuống đất, tay ôm lên đùi, ở chỗ sát háng. Gần như ngay phút
ấy một mảnh đại bác lật tung chiếc mũ lưỡi trai của Rôstsin. Chàng bị dập xương
trán và phải ra ngoài vòng chiến đấu.
Trận đánh kéo dài đến đêm thứ bảy thì một
làn sương mù màu vàng dày đặc buông xuống thành Moxkva. Tiếng súng nay đã im lắng.
Chỉ còn đây đó một vài tốp junker,
sinh viên, công chức rời rạc nổ vài phát súng lẻ tẻ. Nhưng Ủy ban An ninh công
cộng do bác sĩ Ruđnev đứng đầu nay đã không còn tồn tại nữa. Moxkva bị những
quân đội của Ủy ban cách mạng chiếm giữ. Ngay hôm sau trên các phố xá có thể
trông thấy những thanh niên mặc thường phục, tay xách bọc áo quần, mắt gườm gườm
đầy sát khí. Họ ra các ga xe lửa - đường Kirxk hay đường Brianxk... Và tuy chân
họ đều quấn xà cạp hay đi ủng kỵ binh, chẳng ai giữ họ lại cả.
Ví thử không bị thương thì Rôstsin cũng đi
rồi. Nhưng vết thương của chàng đã gây một trạng thái tê liệt nhẹ, rồi làm cho
mắt chàng lòa hẳn đi trong một thời gian, rồi lại thêm một cái chứng quỷ quái
gì đấy ở tim nữa. Chàng vẫn mong đợi: có lẽ chỉ ít hôm nữa quân của tổng hành
dinh sẽ tiến về đặt đại bác trăm linh hai trên ngọn đồi Chim sẻ bắn vào thành
Kremlin. Nhưng cách mạng mới chỉ bắt đầu thấm sâu vào dân chúng. Katya năn nỉ
chồng về quê ít lâu, tạm thời hãy quên bọn bolsêvik, quên quân Đức đi. Rồi sau
hẵng hay.
Vadim Pêtrôvits đã chiều theo ý nàng. Thế rồi
chàng ngồi lì ở Xamara, không ra khỏi nhà bác sĩ Đmitri Xtêpanôvits. Ngày ngày
đến bữa chàng vẫn ăn, đêm đêm chàng vẫn ngủ. Nhưng quên thì quên làm sao được?
Mỗi buổi sáng giở tờ “Tin Xô viết Xamara” in trên giấy gói hàng, chàng cứ nghiến
chặt hàm răng lại. Mỗi dòng chữ quất vào chàng như một ngọn roi da.
“... Đại hội các xô viết đại biểu nông dân
toàn quốc kêu gọi nông dân, công nhân và binh sĩ nước Đức và nước Áo Hung hãy
quyết liệt phản kháng những yêu sách đế quốc chủ nghĩa của chính phủ họ... Đại
hội kêu gọi binh sĩ, nông dân và công nhân các nước Pháp, Anh và Ý buộc các
chính phủ khát máu của họ phải lập tức ký một hòa ước trung thực xác lập nền
hòa bình dân chủ giữa toàn thể các dân tộc. Đả đảo chiến tranh đế quốc! Tình hữu
ái của nhân dân lao động toàn thế giới muôn năm!”
- Quên ư! Katya! Có quên được thì chính là
phải quên bản thân mình đi. Quên cái dĩ vãng nghìn năm. Quên cả thời oanh liệt
đã qua... Cách đây chưa đầy một thế kỷ, nước Nga hãy còn bắt châu Âu cúi đầu
trước ý chí của mình. Thế mà bây giờ phải đành tâm đặt tất cả những cái đó dưới
chân người Đức hay sao? Chuyên chính vô sản! Nghe mà ớn cả người! Ngu xuẩn quá!
Ôi, cái ngu xuẩn tai hại của dân Nga-la-tư... Thế còn chú mu-gích kia thì sao?
Chao ôi, chú mu-gích ạ! Chú sẽ phải trả một cách cay đắng vô cùng...
Đáp lại những câu lý sự dông dài của Đmitri
Xtêpanôvits bên chén trà, Rôstsin thường nói:
- Không đâu Đmitri Xtêpanôvits ạ, nước Nga
vẫn còn có sức... Chúng tôi chưa chết hết kia mà... Chúng tôi không phải là đống
phân bón cho cái lũ Đức của cụ đâu... Chúng tôi sẽ còn vật lộn. Chúng tôi sẽ bảo
vệ nước Nga! Và chúng tôi sẽ trừng phạt... sẽ trừng phạt một cách dữ dội... Cứ
đợi đấy mà xem...
Katya, người thứ ba tham dự những câu chuyện
bên ấm lò, nghe tất cả những cuộc bàn cãi ấy chỉ hiểu ra được mỗi một điều, là
người mà nàng yêu dấu, Rôstsin, đang khổ sở, đau đớn như phải chịu một cực hình
kéo dài. Cái đầu tròn trĩnh húi ngắn của chàng đã điểm bạc. Khuôn mặt gầy với
đôi mắt lõm sâu trông như đen xạm lại. Mỗi khi chàng xiết chặt hai nắm tay nặng
trịch trên tấm vải sơn trải bàn, nói: “Chúng ta sẽ trả thù! Chúng ta sẽ trừng
phạt!”. Katya ngỡ chừng như thể chàng mới đi đâu về, bực tức, mệt mỏi rã rời,
và đang hăm dọa ai: “Liệu hồn đấy, rồi sẽ biết tay ta!...” Nhưng thật ra,
Rôstsin thì trả thù được ai? Một con người dịu hiền, tế nhị, mệt mỏi kiệt quệ
như chàng thì trả thù gì? Chả nhẽ lại trả thù mấy anh lính Nga rách rưới đứng
trên những dãy phố rét mướt kia xin người qua đường mẩu bánh mì hay điếu thuốc
lá? Mỗi lần như thế Katya lại rụt rè ngồi xuống cạnh chồng, khẽ vuốt lên tay
chàng, lòng tràn ngập tình yêu và niềm thương xót. Nàng không biết thế nào là
thù hằn: ví thử nàng có cảm thấy thù ai, hẳn nàng sẽ tự trách mình trước tiên.
Nàng không hiểu được một chút gì về những sự
việc đang diễn ra! Trong tâm trí nàng, cách mạng tựa hồ một đêm giông bão trùm
lên đất Nga. Có những danh từ nàng thấy sợ lắm: như “Xovđep” [Xô viết đại biểu] chẳng hạn, nàng nghe
sao dữ tợn quá chừng, còn “Revkom” [Ủy ban cách mạng]
thì khủng khiếp như tiếng gầm của con bò mộng ngày nào thò cái mõm lông lá xù
xì qua dãy hàng rào mắt cáo nhìn vào mảnh vườn của cô bé Katya (đó là một kỷ niệm
thuở nhỏ của nàng). Những khi nàng giở tờ báo màu nâu nhạt ra đọc mấy dòng chữ “Bọn
đế quốc Pháp với những dã tâm xâm lược đen tối và những âm mưu cấu kết nham hiểm
của chúng...”, nàng lại mường tượng thấy hiện ra trước mắt thành Pari êm ả chìm
trong làn sương màu lam nhạt của buổi chiều hè, trong mùi hương va-ni và hương
buồn nhớ, với những dòng nước nho nhỏ chảy róc rách dọc vỉa hè; nàng nhớ lại
cái ông già lạ mặt ngày nào vẫn đi theo nàng khắp nơi, và trước ngày chết một
hôm đã bắt chuyện với nàng trên chiếc ghế đá ở vườn hoa: “Cô đừng sợ tôi, tôi bị
ung thư phổi, tôi già lắm rồi. Tôi đã gặp một nỗi bất hạnh lớn lao: tôi đã yêu
cô. Ôi, sao cô có khuôn mặt đáng yêu thế, đáng yêu quá chừng...” và Katya thầm
nghĩ: “Đế quốc gì những con người ấy?”.
Mùa đông sắp hết. Trong thành phố có những
tin đồn càng ngày càng kỳ dị. Họ nói là Anh và Pháp đã bí mật ký hòa ước với Đức
để chung sức tiến đánh nước Nga. Họ truyền tụng những trận thắng kỳ diệu của tướng
Kornilôv, đã cùng một dúm sĩ quan đánh tan nhiều đội Cận vệ đỏ đông hàng mấy
nghìn quân, đánh chiếm nhiều làng cô-dắc rồi lại trả cho dân cô-dắc vì chẳng biết
dùng làm gì và đang chuẩn bị sang hè mở cuộc tổng tấn công về Moxkva.
Rôstsin thường nói:
- Chao ôi! Katya ạ, em thử nghĩ mà xem, người
ta thì đang đánh nhau, còn anh thì cứ ngồi ru rú ở xó nhà... Không thể cứ thế
này mãi được, không thể được.
Ngày mồng bốn tháng hai, những đám dân
chúng đông đúc cầm cờ và biểu ngữ kéo qua trước nhà bác sĩ Đmitri Xtêpanôvits.
Tuyết đổ từng bông lớn, một cơn bão nổi lên, kèn đồng lớn tiếng cử bài “Quốc tế
ca”. Đmitri Xtêpanôvits từ ngoài phố đùng đùng ẩy cửa bước vào phòng ăn, mũ
lông và áo khoác phủ đầy những tuyết.
- Thưa quý vị, hòa ước với Đức đã ký kết
xong.
Rôstsin lặng lẽ đưa mắt nhìn gương mặt ngạo
nghễ, nở nang, ướt át của bác sĩ đang nhoẻn một nụ cười tự mãn, rồi ra cửa sổ.
Ngoài kia, sau tấm màn dày đặc của bão tuyết, một đoàn người đông nghịt đang
khoác vai nhau từng tốp kéo đi kìn kìn, vừa đi vừa reo hò và cười ha hả: những
chiếc áo khoác dài ngắn đủ cỡ, quân phục có, thường phục có, có cả đàn bà, có cả
trẻ con. Nước Nga-la-tư quê mùa, cổ lỗ đang diễu qua. Ở đâu chui ra mà lắm thế
không biết!
Cái gáy điểm bạc của Rôstsin, căng thẳng và
băn khoăn, rụt sâu vào cổ áo. Katya chạm má lên vai chàng. Ngoài khung cửa sổ
cao của ngôi nhà, một cuộc sống mà nàng không sao hiểu nổi đang diễn ra.
- Vađim, anh xem kìa, - nàng nói, - cứ
trông vẻ mặt cũng thấy họ vui mừng đến nhường nào... Hết chiến tranh thật rồi
ư? Em ngỡ ngàng không dám tin nữa. Thật may mắn quá!...
Rôstsin né người ra, xiết chặt hai nắm tay
sau lưng, môi mím lại thành một nét hằn cay độc.
- Các người chớ vội mừng...
* * *
Trong một gian phòng nhỏ trần cuốn thành
vòm, năm người ngồi quanh một cái bàn, mình mặc những chiếc áo vét tông nhàu
nát hay những chiếc sơ mi nhà binh bằng dạ thô. Gương mặt họ lầm lì, trông như
xạm đi vì mất ngủ. Trên tấm nỉ trải bàn thủng lỗ chỗ, giữa những tờ giấy, những
mẩu thuốc lá và những miếng bánh mì, có đặt mấy cái cốc nước chè và vài cái máy
điện thoại. Thỉnh thoảng, cửa phòng lại mở ra để lộ một dãy hành lang dài lố nhố
những người, rồi một quân nhân rộng vai, nịt da thắt ngang dọc khắp người, cầm
một tập công văn bước vào lấy chữ ký.
Người chủ tọa là một người nhỏ bé mặc chiếc
áo vét tông ngắn, ngồi trong một chiếc ghế bành ở cuối bàn, quá cao so với vóc
người ông ta, hình như đang thiu thiu ngủ. Bàn tay trái ông ta đặt trên trán,
che khuất đôi mắt và cái mũ, chỉ còn trông thấy cái miệng thẳng nét với bộ ria
chổi xể và cái má lởm chởm râu, trên có một thớ thịt đang nhích nhích lên xuống.
Chỉ có ai quen thuộc lắm mới có thể nhận thấy rằng sau cái khe hở giữa mấy ngón
tay mệt mỏi đang bưng lấy mặt, có một con mắt sắc sảo và ranh mãnh đang nhìn
vào báo cáo viên và theo dõi những sự thay đổi sắc thái trên gương mặt mấy người
đang ngồi họp.
Chuông điện thoại hầu như không lúc nào ngớt.
Vẫn người quân nhân rộng vai thắt đầy nịt da ban nãy đến nhắc ống lên nghe, khe
khẽ nói dóng một: “Hội đồng dân ủy đây. Đang họp. Không được...” Chốc chốc những
người đứng ngoài hành lang lại xô vào cánh cửa, quả nắm bằng đồng quay đi quay
lại. Ngoài cửa sổ gió biển rít lên từng hồi, phả tuyết to hạt và nước mưa vào mấy
tấm kính.
Báo cáo viên đã nói hết. Những người ngồi họp,
người thì cúi mặt, người thì lấy tay ôm đầu. Người chủ tọa chuyển bàn tay đang
bưng mặt lên mái đầu hói rồi lấy bút viết lên một tờ giấy con con. Trong mấy
dòng chữ vừa viết có một từ ông gạch dưới đến ba lần, mạnh đến nỗi ngòi bút cạo
rách cả giấy. Viết xong, ông vứt mảnh giấy sang cho người thứ ba ngồi bên trái,
một người gầy gò, để bộ ria đen, tóc dựng đứng.
Đọc xong mảnh giấy, người này cười nhạt sau
bộ ria, viết luôn vào mảnh giấy mấy câu trả lời...
Người chủ tọa nhìn ra cửa sổ, nơi cơn bão
tuyết đang hoành hành, và thong thả xé vụn mảnh giấy ra.
- Quân không có, lương thực không còn. Đúng
như báo cáo viên đã nói, chúng ta đang loay hoay trong cõi hư không, - ông nói,
giọng trầm trầm. - Quân Đức đang tấn công và sẽ còn tấn công nữa. Báo cáo viên
nói đúng...
- Chả nhẽ thế là hết ư? Có cách gì cứu vãn
không? Phải đầu hàng à? Lui vào bí mật à? - mấy người nhao nhao hỏi.
- Có cách gì cứu vãn không ấy à? - Chủ tọa
nheo nheo đôi mắt nói - Chiến đấu. Chiến đấu ác liệt. Đánh tan quân Đức. Nếu
bây giờ chưa thắng được, ta sẽ rút về Moxkva. Quân Đức chiếm Moxkva thì ta sẽ
rút về dãy Ural. Ta sẽ thành lập nước cộng hòa Ural-Kuznetxk. Ở đấy có than, có
sắt và có một giai cấp vô sản dồi dào sức chiến đấu. Ta sẽ cho công nhân
Pêterburg di cư về đấy. Thế là ổn. Rồi nếu cần, ta sẽ rút nữa, đến tận
Kamtsatka cũng không nề. Chỉ cần nhớ lấy một điều thôi bảo tồn cho được lớp
tinh hoa của giai cấp công nhân, đừng để cho nó bị hủy hoại. Rồi ta sẽ chiếm lại
Moxkva và Pêterburg... Ở phương tây tình hình còn thay đổi vài chục lần nữa...
Chúi mũi xuống đất giơ tay ôm đầu không phải là lề lối của người bolsêvik...
Với một động tác nhanh nhẹn không ngờ, ông
rời chiếc ghế bành cao đứng vụt dậy, và hai tay vẫn đút túi, ông chạy ra hai
cánh cửa gỗ sồi, mở ra một cánh. Từ ngoài hành lang, từ những đám hơi người bốc
lên hầm hập trong ánh sáng mờ đục, những gương mặt râu ria, gầy gò, nhăn nheo,
những đôi mắt nồng cháy của thợ thuyền Pêterburg đổ dồn về phía ông... Ông giơ
bàn tay to đầy vết mực lên:
- Các đồng chí, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
đang lâm nguy!
2
Đầu mùa đông, ở các ga chính trên các tuyến
đường sắt miền Nam nước Nga có hai dòng người chạm trán nhau. Từ phía bắc, những
chính khách, những sĩ quan cải trang, những thương nhân, những cảnh binh, những
trang chủ vừa rời bỏ trang viên đang bốc cháy, những gã đầu cơ, những diễn
viên, những nhà văn, những viên chức, những cậu thiếu niên đã đánh hơi thấy mùi
phiêu lưu mạo hiểm của thời Fenimore Cooper, nói tóm lại là cái đám dân cư mới
vừa đây còn ồn ào và sặc sỡ của hai chốn kinh kỳ, xô nhau trốn khỏi cái cảnh khủng
khiếp hoang đường đang diễn ra ở thủ đô để trẩy về những nơi dồi dào lương thực
ở vùng sông Đôn, sông Kuban, sông Terek.
Đi ngược chiều với họ là đám người dày đặc
đông hàng triệu của quân đoàn Zakavkaz từ phía nam kéo lên, mang theo vũ khí, đại
bác, đạn dược, hàng toa muối, đường, vải vóc. Ở những đoạn đường giao nhau luôn
luôn xảy ra những vụ nghẽn đường: đất dụng võ của bọn gián điệp bạch vệ. Dân
cô-dắc ở làng xung quanh kéo ra đường sắt đón tàu mua lại vũ khí, nông dân giàu
thì đem bột mì và mở lợn ra đổi lấy vải. Những tên cướp đường và kẻ cắp vặt luồn
lỏi khắp nơi. Những đứa bị bắt đều bị đánh chết ngay tại chỗ, trên đường sắt.
Những đội án ngữ của hồng quân chẳng có được
bao nhiêu hiệu lực: họ cứ bị chọc thủng một cách dễ dàng như những tấm mạng nhện.
Đây là chốn thảo nguyên, xứ sở của tự do. Ở đây từ thời thượng cổ những gã cô-dắc
đội mũ lệch đã ngang dọc tung hoành. Mọi sự đều bấp bênh, bất định, mơ hồ. Hôm
nay, dân tứ chiếng và dân ít ruộng át giọng dân cô-dắc, bầu lên một Xô-viết đại
biểu, nhưng đến ngày hôm sau dân cô-dắc kỳ cựu lại vung gươm lên đuổi cộng sản
và cho người cưỡi ngựa mang thư trong mũ lông đi Nôvôtserkaxxk gặp thủ lĩnh Kalêđin.
Ở đây họ coi khinh chính quyền Pêtrôgrađ.
Nhưng từ cuối tháng một chính quyền
Pêtrôgrad đã bắt đầu có thanh thế. Những chi đội cách mạng đầu tiên được thành
lập. Đó là những đội quân lưu động gồm những thủy thủ, những công nhân, những cựu
binh vô gia cư, di chuyển trên các toa tàu ọp ẹp. Họ là những con người khó chỉ
huy, hay cãi bướng, họ đánh rất dữ, nhưng hễ hơi thất bại một chút họ đã chùn
trở lại và cứ sau mỗi trận họ lại họp những cuộc mít tinh khổng lồ dọa xé xác
các cấp chỉ huy của họ ra.
Theo cái kế hoạch đã được vạch ra từ hồi bấy
giờ, vùng sông Đôn và vùng sông Kuban bị bao vây theo ba hướng chính: Xablin tiến
quân từ phía tây bắc, cắt sông Đôn ra khỏi xứ Ukrain, Xirvex tiến quân thành một
vòng bán nguyệt về phía Rôxtôv và Nôvôtserkaxxk; từ Nôvôrôxixk, những đội thủy
binh Hắc hải ép dần vào. Trong nội địa đang diễn ra những cuộc chuẩn bị khởi
nghĩa ở các khu công nghiệp và mỏ than.
Đến tháng giêng có những chi đội đỏ tiến đến
gần Taganrôk, Rôxtôv và Nôvôtserkaxxk. Trong các thôn ấp cô-dắc vùng sông Đôn,
tinh trạng bất hòa giữa dân cô-dắc và dân cư ngụ chưa căng thẳng đến mức xung đột
vũ trang. Vùng sông Đôn vẫn nằm im. Những đội quân thưa thớt của thủ lĩnh
Kalêđin, dưới sức ép của quân đỏ, rút khỏi mặt trận mà không hề nổ súng.
Quân đỏ vẫn là một nguy cơ hiểm nghèo treo
lơ lửng trên đầu. Ở Taganrôk thợ thuyền đã nổi dậy đánh đuổi trung đoàn tình
nguyện của Kutêpôv ra khỏi thành phố. Chi hội đỏ của thượng sĩ Pôđtelkôv đã
đánh tan và tiêu diệt đội án ngữ cuối cùng của thủ lĩnh Kalêđin.
Lúc bấy giờ thủ lĩnh Kalêđin gửi tới vùng
sông Đôn một lời kêu gọi cuối cùng, một lời kêu gọi tuyệt vọng, yêu cầu gửi những
người cô-dắc tình nguyện tới cái đơn vị duy nhất có thanh thế lúc bấy giờ là đạo
quân tình nguyện đang được các tướng Kornilôv, Alekxêyev và Đênikin thành lập ở
Rôxtôv... Nhưng lời kêu gọi của thủ lĩnh Kalêđin không được ai hưởng ứng.
Ngày hai mươi chín tháng giêng thủ lĩnh
Kalêđin triệu tập chính phủ riêng của hắn ở cung điện Nôvôtserkaxxk. Ngồi trong
gian phòng lớn bằng cẩm thạch trắng, quanh cái bàn hình bán nguyệt, có mười bốn
viên chỉ huy khu vực của đạo quân sông Đôn, mấy viên tướng nổi tiếng và các đại
biểu của “trung tâm đấu tranh với chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa bolsêvik ở
Moxkva”. Thủ lĩnh Kalêđin, một người cao lớn, vẻ mặt cau có, để bộ ria trễ dài
hai bên mép, nói một giọng điềm tĩnh và ảm đạm:
- Thưa các ngài, tôi có bổn phận thông báo
với các ngài rằng chúng ta đã lâm vào một tình thế vô hy vọng. Lực lượng của bọn
bolsêvik mỗi ngày một tăng. Kornilôv đang cho rút tất cả các đơn vị của ông ra
khỏi mặt trận của ta. Ông đã quyết định dứt khoát như vậy, không có gì lay chuyển
được nữa. Đáp lại lời kêu gọi bảo vệ vùng sông Đôn, vỏn vẹn chỉ có được một
trăm bốn mươi bảy tay súng. Dân cư vùng sông Đôn và sông Kuban không những
không ủng hộ ta, mà còn có thái độ thù địch với ta nữa. Tại sao như vậy? Biết lấy
gì đặt tên cho cái tình trạng ô nhục gớm guốc này? Tâm lý bảo mạng hèn nhát đã
làm hại chúng ta. Không còn thấy có ý thức bổn phận, danh dự gì nữa. Thưa các
ngài, tôi yêu cầu các ngài trút bỏ toàn quyền và trao nó lại cho người khác. -
Hắn ngồi xuống rồi nói thêm, không nhìn vào ai cả: - Thưa các ngài, xin các
ngài nói ngắn cho, ta không có thì giờ dông dài...
Thủ lĩnh phó Mitrôfan Bôgaievxki, biệt hiệu
là “con họa mi sông Đôn” quát vào mặt Kalêđin, giọng hằn học:
- Nói một cách khác, ngài đề nghị trao
chính quyền cho bọn bolsêvik chứ gì?...
Thủ lĩnh Kalêđin đáp rằng chính phủ quân quản
xét thấy thế nào là phải thì cứ thế mà hành động, đoạn lập tức rời khỏi cuộc họp,
bước nặng nề đi ra cửa bên, trở về tư thất. Hắn ngoảnh ra cửa sổ nhìn rặng cây
trụi lá nghiêng ngả ngoài khu vườn của cung điện, nhìn những đám tuyết bay cuồn
cuộn một cách tuyệt vọng, rồi cất tiếng gọi vợ. Không thấy trả lời, hắn đi luôn
vào căn phòng ngủ với ngọn lửa đang cháy rừng rực trong lò sưởi. Hắn cởi áo
ngoài và tháo chiếc thánh giá đeo trên cổ, rồi một lần cuối cùng nữa, như thể
chưa tin hẳn, hắn nhìn kỹ những tấm địa đồ quân sự treo trên giường ngủ. Những
lá cờ đỏ chi chít quây thành một vòng, vây kín những cánh thảo nguyên vùng sông
Đôn và sông Kuban. Một chiếc kim găm dán cờ ba sắc được cắm vào cái chấm đen có
đề “Rôxtôv”. Và chỉ có thế. Thủ lĩnh Kalêđin rút từ túi sau chiếc quần xanh nẹp
đỏ ra một khẩu browning dẹt và ấm, rồi đặt lên tim bóp cò.
Ngày mồng chín tháng hai tướng Kornilôv dẫn
đạo quân tình nguyện nhỏ bé của mình (gồm toàn sĩ quan, sinh viên trường võ bị ca-đê [học
sinh trường võ bị trung cấp chuẩn bị cho con em quý tộc vào trường võ bị cao cấp
hoặc ra làm sĩ quan cấp dưới], cùng với các chiếc xe chở đồ của các
tướng và của những nhân vật quan trọng đi lánh nạn, rút ra khỏi Rôxtôv, vượt
qua sông Đôn và đi vào vùng thảo nguyên.
Viên tướng thấp bé, khuôn mặt kiểu người
Kalmuk, dáng cáu kỉnh, cùng đi bộ với đạo tiền quân, vai mang bạc đà lính.
Trong một chiếc xe giàn đi với đoàn thồ, tướng Đênikin bị viêm cuống phổi nằm
dưới tấm chăn màu da hổ, thiểu não, bất hạnh.
* * *
Ngoài cửa số toa tàu những cánh thảo nguyên
đã trút bỏ lớp tuyết, một màu nâu đỏ cạch bồng bềnh trôi về phía sau. Qua tấm
kính vỡ, một luồng gió mát thoảng mùi đất ướt lùa vào trong toa. Katya nhìn ra
cửa sổ. Đầu nàng trùm một chiếc khăn san Ôrenburg phủ xuống đến tận ngực, thắt
nút ở sau lưng. Rôstsin, mình mặc áo khoác lính, đầu đội mũ lưỡi trai rách, duỗi
thẳng hai chân ngủ gà ngủ gật. Xe lửa đi chầm chậm. Một rặng cây trơ trụi diễu
qua cửa sổ, cành ép sát vào thân, chim làm tổ dày kìn kịt. Từng đám quạ lượn
vòng trên rặng cây, thỉnh thoảng lại đổ xuống các cành khô rung rinh. Katya ngả
người ra sát cửa sổ. Đàn quạ chốc chốc lại cất tiếng kêu lo lắng, hoang dã - tiếng
kêu đầu xuân, nghe hệt như tiếng quạ hồi nào đã từng vang lên trong thời thơ ấu
- giọng như nhắc nhở những dòng nước lũ mùa xuân, những buổi sáng sương mù, những
cơn giông đầu mùa hạ.
Katya và Rôstsin đi về phương nam. Họ về
đâu? Về Rôxtôv, về Nôvôtserkaxxk,, hay về các làng cô-dắc vùng sông Đôn? Họ về
nơi cuộc nội chiến đang rối tung, thắt lại thành nút. Rôstsin đang ngủ, đầu gục
xuống, khuôn mặt hốc hác, râu mọc lởm chởm, hai bên mép hằn những nếp nhăn khắc
khổ, môi bĩu lại như ghê tởm điều gì. Và Katya chợt thấy sợ: đó không phải là mặt
chàng, đó là một khuôn mặt nào xa lạ, đanh ác... Gió lùa tiếng quạ vào cửa sổ.
Toa tàu lăn chầm chậm, nẩy lên ở những đoạn bẻ ghi. Trên con đường lầy lội kẻ
thành một nét chếch mất hút ở cuối thảo nguyên, một đoàn xe thồ đang kéo đi - với
những con ngựa bé nhỏ lông lá xù xì, những chiếc xe giàn bê bết những bùn, những
con người râu ria xồm xoàm, xa lạ, hung ác. Trong giấc ngủ, Rôstsin phát ra một
tiếng ú ớ không rõ là tiếng ngáy hay tiếng rên, một âm thanh khàn khàn, đau đớn.
Katya vội đưa hai bàn tay run rẩy chạm lên mặt chàng.
- Vađim, anh Vađim!...
Chàng ngừng bặt tiếng ú ớ ghê sợ, mở choàng
đôi mắt ngơ ngác.
- Chà, quỷ thật, mê sợ quá... thật gớm guốc...
Đoàn tàu dừng bánh. Bây giờ ngoài tiếng quạ
kêu còn cả tiếng người nói nữa. Mấy mụ đàn bà chạy qua, chân đi ủng đàn ông,
vai mang bị; họ xô đẩy nhau leo lên toa chở hàng, để lộ mấy cặp đùi trắng hếu. Ở
cửa sổ toa tàu Katya đang ngồi, bỗng có một cái đầu bờm xờm đội chiếc mũ lưỡi
trai cáu ghét thò vào, phía dưới là một cái mặt râu mọc xồm xoàm lên đến sát
đôi mắt gấu, rối bết lại thành từng mớ.
- Đây có ai có súng máy bán không?
Trên giá hành lý có tiếng thở ì ạch, tiếng
trở mình nặng nề, rồi một giọng người vui vẻ đáp:
- Có mấy khẩu đại bác, còn súng máy thì bán
hết rồi.
- Đại bác thì chúng tôi chẳng biết dùng làm
gì, - người mu-gích nói, cái miệng rộng mở hoác ra, đến nỗi bộ râu xồm tỏa rộng
ra hai bên như cái quạt. Hắn chống hai khuỷu tay chồm hẳn người vào cửa sổ, đôi
mắt xảo quyệt nhìn khắp ngăn toa một lượt - xem thử có gì gạ mua được chăng? Từ
ngăn giường trên nhảy xuống một người lính cao lớn, khuôn mặt rộng, đôi mắt
xanh trong như mắt trẻ con, cái sọ tròn trĩnh cạo nhẵn. Bằng một động tác mạnh
mẽ, hắn thắt lại cái nịt da trên áo khoác.
- Bố ạ, tuổi bố thì súng ống trận mạc gì, cứ
nằm khểnh trên lò sưởi cho nó nhàn cái thân già có hơn không?
- Phải rồi, ai chả muốn thế - người mu-gích
đáp. - Nhưng thời buổi này nằm khểnh trên lò cũng chả ngủ ngáy gì được. Ai để
cho mình ngủ mà ngủ! Với lại phải kiếm ăn nữa chứ.
- Bằng nghề cướp à?
- Ơ, ai lại nói thế...
- Thế sao lại cần súng máy làm gì?
- Biết nói thế nào cho anh hiểu bây giờ? - Người
nông dân khịt mũi, đưa bàn tay xù xì lên cào cào bộ râu: chẳng qua cũng chỉ để
giấu cái ánh mắt đang tinh quái cười cợt. - Tôi có thằng con trai vừa đi lính về.
Nó cứ giục tôi ra ga mãi, ra mà kiếm lấy khẩu súng máy, nó bảo thế. Có được khẩu
súng nào tôi đổi ngay, bốn pút thóc cũng được. Hả?
- Chao ôi, các bố cu-lắc! - người lính thốt
lên, đoạn cười lớn. - Thật một lũ quỷ rửng mỡ! Thế bố có được mấy con ngựa?
- Nhờ trời, được tám con. Thế không có súng
ống hay đồ đạc gì bán à? - Hắn đưa mắt nhìn mấy người ngồi trong ngăn toa một
lượt nữa, rồi bỗng nụ cười và ánh mắt của hắn vụt tắt ngấm, hắn quay ngoắt đi,
như thể trong ngăn toa chỉ toàn cứt chứ chẳng phải là người, rồi rảo bước đi
trên sân ga nhớp nháp, tay huơ huơ cái roi ngựa.
- Thế đấy! - người lính nói, đôi mắt trong
trẻo nhìn thẳng vào Katya - Ngựa tám con! Con trai thì phải đến mười hai đứa là
ít. Cứ cho lên ngựa phóng ra thảo nguyên, thế là thành một toán đi săn của. Còn
lão ta thì nằm trên lò sưởi, đít nhúng trong thóc, cứ việc dồn của.
Người lính đưa mắt sang Rôstsin, rồi bỗng
đôi mày hắn giương cao lên, gương mặt sáng bừng.
- Ông Vađim Pêtrôvits, ông đấy à?
Rôstsin đưa mắt rất nhanh về phía Katya,
nhưng cơ sự đã thế này, chẳng còn có cách gì nữa. Chàng chìa tay ra nói: “Chào
anh”.
Người lính xiết chặt tay chàng, rồi ngồi xuống
cạnh. Katya thấy rõ Rôstsin lúng túng khó chịu.
- Thế là chúng ta lại gặp nhau ở đây, - chàng
nói, giọng chua chát - Được gặp anh khỏe mạnh thế kia, tôi rất mừng, Alekxêy
Ivanôvits ạ... Còn tôi thì, anh cũng thấy đấy, tôi đang đi dự vũ hội hóa trang
đây...
Đến đây Katya đã hiểu ra rằng người lính
này là Alekxêy Kraxilnikôv, trước làm cần vụ cho Rôstsin. Vađim Pêtrôvits đã mấy
lần kể chuyện anh ta cho nàng nghe, và vẫn coi anh ta là một điển hình ưu tú của
người nông dân Nga thông minh, có thiên tư đặc sắc. Cho nên nàng lấy làm lạ khi
thấy Rôstsin đối đãi với anh ta một cách lạnh nhạt như vậy. Nhưng Kraxilnikôv
thì hình như lại hiểu rất rõ tại sao chàng có thái độ này. Anh ta mỉm cười,
châm thuốc lá hút. Đoạn hỏi khe khẽ, vẻ bận rộn:
- Vợ ông đây à?
- Phải, tôi lấy vợ rồi đây. Hai người làm
quen đi, Katya ạ, đây chính là vị thiên thần hộ mệnh của anh, em có nhớ không
anh vẫn kể chuyện đấy... Thế là hết chiến tranh rồi Alekxêy Ivanôvits nhỉ...
Thôi thì cũng nên có lời chúc mừng cái hòa bình khốn nạn này... Những con chim
ưng Nga, hê hê... Ấy, bây giờ hai vợ chồng tôi mò về miền nam... Cho gần mặt trời
chút... (Hai chữ “mặt trời” này nghe rất gượng, Rôstsin nói xong nhăn hẳn mặt lại,
nhưng Kraxilnikôv vẫn điềm nhiên như không). Chẳng còn cách nào khác... Tổ quốc
biết ơn đã thưởng công chúng ta bằng một mũi lê đâm vào bụng... (Chàng rùng
mình như thể bị rận đốt khắp người). Ngoài vòng pháp luật mà, kẻ thù của nhân
dân mà... Thế đấy...
- Tình cảnh của ông cũng khó khăn thật! - Kraxilnikôv
lắc đầu, nheo nheo đôi mắt nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, sau dãy hàng rào đổ nát,
có một đám đông đang chen chúc trong khoảng sân ga - Những người như ông bây giờ
chẳng khác nào đang sống ở một xứ sở xa lạ! Tôi thì tôi hiểu ông, Vađim
Pêtrôvits ạ, chứ người khác họ không hiểu đâu. Ông không biết rõ dân ta.
- Tôi không biết là thế nào?
- Là thế thôi... Mà xưa nay ông cũng chưa
bao giờ biết cả. Từ bé ông đã bị lừa.
- Bị ai lừa?
- Chúng tôi. Lính tráng, mu-gích, chúng tôi
đã lừa ông... Ông quay lưng đi một cái, là chúng tôi cười với nhau. Chao ôi,
Vađim Pêtrôvits! Dũng cảm quên mình, thờ vua, yêu nước - ấy là các ông lớn họ
bày đặt ra, còn lũ lính tráng chúng tôi cứ thế mà tụng thuộc lòng theo quy chế
nhà binh... Tôi là một gã mu-gích. Bây giờ tôi đang đi Rôxtôv tìm thằng em trai
tôi: hắn bị thương đang nằm ở đấy, ngực bị đạn của sĩ quan bắn thủng. Tôi sẽ
đưa nó về làng... Có thể chúng tôi sẽ làm ruộng, mà cũng có thể lại đi đánh
nhau... Đến đấy hẵng hay... Nhưng có đánh nhau thì sẽ đánh nhau theo ý thích của
chúng tôi, không có trống trận, đánh thật ác liệt. Thôi ông đừng đi về miền Nam
nữa Vađim Pêtrôvits ạ. Rồi chẳng gặp điều gì tốt lành ở đấy đâu...
Đôi mắt sáng quắc nhìn Kraxilnikôv, Rôstsin
liếm đôi môi khô. Kraxilnikôv nhìn ra sân ga mỗi lúc một chăm chú hơn. Ở đấy,
tiếng người nói nhao nhao cũng mỗi lúc một dữ dội hơn. Có mấy người trèo lên
cây xem.
- Đằng nào thì ông cũng chẳng chọi được với
dân đâu, ông cứ yên trí như thế. Dù sao ông cũng sẽ như người ngoại quốc, như bọn
tư sản ấy. Bây giờ hai chữ này nguy hiểm lắm, cũng chẳng khác nào nói “quân ăn
trộm ngựa”. Ấy như ông tướng Kornilôv, quả là con nhà tướng thật sự; tự tay ông
ta đã gắn huân chương Ghêorghi cho tôi. Ấy thế mà đến khi ông toan dấy động các
làng cô-dắc lên để ủng hộ Hội đồng lập hiến thì kết quả thật thảm hại: lời lẽ của
ông ta không hợp chút nào, thế mà cứ tưởng ông ta cũng biết rõ dân chứ có phải
không đâu... Bây giờ thì nghe nói ông ta đang loay hoay giữa mấy cánh thảo
nguyên Kuban như con chó giữa bầy sói... Nông dân nói: “Bọn tư sản tức đến phát
cuồng lên vì họ bị ép ở Moxkva, và ông tin chắc rằng nông dân họ đã lau chùi
súng ống rất kỹ để phòng khi bất trắc. Thôi, Vađim Pêtrôvits ạ, ông đưa bà về
kinh đô đi... Ở đấy an toàn cho hai ông bà hơn là ở giữa đám mu-gích... - Bỗng
anh ta to giọng hẳn lên, cau mày nói: - Xem kìa, họ giết chết gã kia mất...
Trong sân ga hình như cái sự việc đang diễn
ra nãy giờ đã sắp đến đoạn kết thúc. Hai người lính vạm vỡ, vẻ mặt hung ác,
đang giữ chặt lấy một người đàn ông gầy yếu mặc chiếc áo va-rơi bằng chăn đơn
rách ngực. Mặt hắn tái mét, râu mọc nham nhở, mũi sưng phồng lên. Từ bên cái
mép run run rỉ ra một dòng máu. Đôi mắt sáng, trắng dã của hắn theo dõi từng cử
chỉ của một mụ đàn bà nông dân trẻ tuổi đang lồng lộn lên vì tức giận. Mụ đàn
bà này khi thì giật chiếc khăn ấm đang trùm trên đầu xuống, khi thì ngồi thụp
xuống đất rũ rũ chiếc váy, khi thì lại xông vào người đàn ông mặt tái mét kia,
túm lấy mái tóc dựng lởm chởm của hắn mà gào thét, nghe có phần say sưa khoái
chá:
- Nó đánh cắp, nó rứt ở dưới váy tôi ra,
cái thằng đểu ấy! Giả tiền tao đây! - mụ ta bấu lấy hai má hắn, rồi đứng đực ra
đấy.
Người bị giữ đột nhiên vùng ra khỏi tay mụ,
nhưng hai người lính vạm vỡ đã chồm lên người hắn. Mụ đàn bà rú lên the thé. Vừa
lúc ấy người nông dân mặt gấu ban nãy rẽ đám đông xông vào tận nơi, dùng vai ẩy
người đàn bà sang một bên rồi giơ tay đấm một quả rất gọn, rất chững chạc vào
giữa mồm người bị giữ, nghe đánh chát một tiếng. Người bị đánh gục ngay. Trên
cành cây gần nhất, có một người mặc áo dài tay cúi rạp người hét lên một tiếng:
“Đánh bỏ mẹ nó đi!” Đám đông lập tức xô lại, thi nhau đánh tới tấp, chỉ thấy lố
nhố những tấm lưng thì thụp lên xuống và những quả đấm nện lia lịa.
Cửa sổ toa tàu trôi dần qua đám đông. May
quá! Họng Katya có một cục gì chẹn lại: nàng đã cố nén một tiếng kêu. Rôstsin
nhăn mặt ghê tởm. Kraxilnikôv lắc đầu, chép miệng nói:
- Gã kia hẳn là bị đánh chết. Mấy mụ đàn bà
ấy tài xúi bẩy vô cùng. Đàn ông mu-gích cũng không ác bằng. Trong bốn năm qua họ
đã thay đổi kinh khủng! Ở mặt trận về, chúng tôi chẳng còn nhận ra được nữa, chẳng
còn giống trước chút nào. Bây giờ không thể cầm cương họ dễ dàng như xưa nữa, bản
thân mình còn phải dờ hồn với họ, cố tươi tỉnh với họ. Chao ôi, đàn bà bây giờ
gớm lắm!
* * *
Mới nhìn qua, thật khó lòng mà hiểu nổi tại
sao hai vị tướng “cứu quốc” - hai vị tổng tư lệnh Alekxêyev và Lavr Kornilôv -
lại đưa một dúm sĩ quan và học sinh võ bị, cả thảy chỉ năm nghìn người, với mấy
đội pháo binh tồi tàn, đạn đại bác và đạn súng trường hầu như hết nhẵn, về miền
Nam, về Êtaterinôđar, ngay giữa vòng vây dày đặc của quân bolsêvik đang quây
thành hình bán nguyệt quanh thủ phủ của dân cô-dắc vùng Kuban.
Ở đây không thể nhận ra một kế hoạch nào có
tính chiến lược thực sự hết. Đạo quân tình nguyện ấy đã bị đánh bật ra khỏi
Rôxtôv mà họ không sao giữ nổi. Họ kéo về các thảo nguyên Kuban chẳng qua vì trận
bão cách mạng đã lùa họ vào đấy. Nhưng quả có một kế hoạch chính trị mà những sự
biến xảy ra hai tháng về sau đã xác nhận là có căn cứ. Lớp cô-dắc giàu có chắc
chắn sẽ nổi dậy chống lại dân tứ xứ - tức là tất cả những hạng dân cư ngụ ở nơi
khác đến, sống bằng cách lĩnh canh đất đai của dân cô-dắc và không hề được hưởng
những đặc quyền đặc lợi của dân cô-dắc [trong đó quan
trọng nhất là quyền sở hữu đất đai được hưởng trọn đời, do Sa hoàng ban cho dân
cô-dắc không có đất vào năm 1883]. Ở vùng Kuban, có một triệu bốn vạn
dân cô-dắc đương đầu với một triệu sáu mươi vạn dân tứ xứ.
Dân tứ xứ thế nào cũng phải tìm cách chiếm
lấy ruộng đất và chính quyền. Dân cô-dắc thế nào cũng phải vũ trang nổi dậy để
bảo vệ các đặc quyền của họ. Dân tứ xứ được phe bolsêvik lãnh đạo. Dân cô-dắc
thì ban đầu không chịu tuân lệnh ai hết: còn gì bằng tự làm chủ lấy các thôn ấp
cô-dắc? Nhưng đến tháng hai, một gã giang hồ tên là Gôlubôv, gốc gác vốn là dân
cô-dắc, dẫn hai mươi bảy người cô-dắc ập vào phòng họp của bộ tham mưu hành
quân của thủ lĩnh Nazarôv ở Nôvôtserkaxxk, và tay vung lia lịa khẩu súng lục,
giữa tiếng lên quy-lát lách cách, hắn quát lên: “Đứng hết dậy, quân khốn kiếp,
thủ lĩnh xô viết Gôlubôv đã đến nhận chính quyền đây!”, và quả nhiên đến hôm
sau Gôlubôv đưa thủ lĩnh cô-dắc Nazarôv ra một khóm rừng ở ngoại thành, bắn chết
Nazarôv cùng với toàn bộ tham mưu của hắn. (Để chiếm lấy cây quyền trượng thủ
lĩnh). Sau đó Gôlubôv bắn thêm hai nghìn sĩ quan cô-dắc nữa, phóng ngựa vào thảo
nguyên bắt Mitrôfan Brôgaievxki, chở lão ta đi dự đủ các cuộc mít tinh, cổ động
cho vùng sông Đôn tự do và cho quyền thủ lĩnh của mình, và cuối cùng, chính hắn
cũng bị giết chết trong một cuộc mít tinh ở thôn Zaplavxkaia. Rốt cục, đến
tháng hai dân cô-dắc vẫn không có người cầm đầu. Đúng vào lúc này, xứ Đại Nga
đói rách, xù xì lại từ phía Bắc rục rịch tràn xuống.
Nắm lấy quyền cầm đầu dân cô-dắc sau khi
chiếm lĩnh Êkatêrinôđar, huy động quân cô-dắc chính quy, cắt vùng Kavkaz và các
mỏ dầu Grôzny và Baku ra khỏi nước Nga bolsêvik, khẳng định lại lòng trung thành
với đồng minh, - đó chính là kế hoạch ban đầu của bộ tư lệnh Quân đoàn tình
nguyện khi khởi đầu cuộc hành quân sau này được gọi là “Chiến dịch băng giá”.
Thủy thủ Xêmiôn Kraxilnikôv (em trai
Alekxêy) cùng đồng đội nằm trên một khoảng đất cày, cạnh một bờ vực không xa
con đường sắt đắp cao. Bên cạnh anh ta, một người lính lục quân đang dùng xẻng
đào đất lia lịa, dáng tất bật như con chuột trũi. Khi người đã nằm lọt xuống
cái hố nhỏ mới đào, anh ta đun khẩu súng trường ra phía trước rồi quay về phía
Xêmiôn:
- Phải sâu nữa cơ anh bạn ạ.
Xêmiôn khó nhọc bới lớp đất lầy lụa ở dưới
bụng lên. Đạn đang bay veo veo ở trên đầu. Cái xẻng vấp phải hòn gạch nghe đánh
“keng” một tiếng. Anh văng tục một câu, quỳ gối lên, và ngay lúc ấy như có một
vật gì nóng ran đập mạnh vào ngực anh. Anh sặc sụa ngã sấp xuống cái hố mới
đào.
Ấy là một trong những trận đánh ngắn xảy ra
liên tiếp trên đường tiến của Quân đoàn tình nguyện. Cũng như trong hầu hết các
trận khác, lực lượng quân đỏ trội hơn. Nhưng quân lính đỏ có thể tùy ý muốn
đánh thì đánh, muốn rút thì rút, chẳng cần, vào thời kỳ này của cuộc chiến, khi
lâm trận họ không nhất thiết phải giành cho được phần thắng. Nếu địa thế bất lợi,
hay bọn “cađê” hăng máu quá, thì thôi, họ khất lại một dịp khác, và cứ để cho
Kornilôv tiến quân qua.
Đối với đoàn quân tình nguyện thì mỗi trận
giao chiến lại là một phen đánh cuộc sinh tử. Quân đoàn phải thắng cho kỳ được,
và kéo qua cho trót lọt với cả đoàn xe thồ và xe chở thương binh trong một ngày
hành quân. Không thể nào rút lui được, vì không có lối nào mà rút. Cho nên quân
của Kornilôv hễ lâm trận thì dốc hết sức lực vào đấy, liều mạng xông bừa lên,
và đều giành được thắng lợi. Lần này cũng thế.
Khoảng nửa dặm về phía sau đội xạ thủ đang
dán mình xuống đất dưới hỏa lực súng máy, trên một đống rơm cắt từ năm ngoái,
Kornilôv đứng dạng chân, hai khuỷu tay nâng cao lên, đưa ống nhòm nhìn về phía
trước. Sau lưng ông ta, chiếc túi vải chốc chốc lại rung rung. Chiếc áo khoác
ngắn màu đen bằng da cừu viền lông xám mở phanh ra. Ông ta đang nóng bức lắm.
Phía dưới cặp ống nhòm, cái cằm bướng bỉnh nhô ra phía trước, phủ dưới một lớp
râu bạc lởm chởm.
Ở phía dưới, trung úy Đôlinxki, sĩ quan phụ
tá của tướng tư lệnh, đứng áp sát lưng vào đống rơm. Đó là một thanh niên mắt
to, mày thẫm, mình mặc áo ca-pốt sĩ quan, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai bị bóp
nhàu đi một cách ngang ngạnh. Cố nuốt nỗi xúc động đang dâng lên trong cổ, anh
ta ngước lên nhìn cái cằm lởm chởm râu bạc của quan tư lệnh, tựa hồ như thể
trong chòm râu chứa chất một cái gì rất người, rất gần gũi ấy giờ đây bao hàm tất
cả niềm hy vọng cứu vãn.
- Bẩm tướng quân, xin ngài xuống cho, tôi
van ngài, ngài sẽ bị trúng đạn mất, - Đôlinxki nhắc đi nhắc lại.
Anh ta nhìn đôi môi tím của Kornilôv hé mở
ra, cái miệng méo xệch đi như trong một cơn co giật. Thế nghĩa là tình thế gay
go rồi. Đôlinxki không còn buồn nhìn về phía những hình người đen đen nhỏ li ti
đang lổm ngổm trên cánh thảo nguyên màu cỏ úa, nơi những đội quân bolsêvik dày
đặc đang chạy lên từng đợt. Những loạt đạn đại bác đang bay về phía ấy, rít lên
từng hồi: xxxưk, xxưk. Nhưng Đôlinxki biết lắm: đạn rất ít, ít lắm... Bùm! -
bên kia cái cầu đổ, khẩu đại bác trăm linh hai ly của quân đỏ nghiêm trang lên
tiếng. Một khẩu súng máy gõ mấy hồi vội vã. Và đâu đây, sát trên đầu quan tư lệnh,
mấy viên đạn bay qua, tiếng vù vù như bầy ong.
- Bẩm tướng quân, e trúng đạn mất...
Kornilôv, buông ống nhòm xuống. Khuôn mặt
màu nâu của ông, giống mặt người Kalmưk, với đôi mắt đen láy như mắt chim sơn
ca, co quắp lại thành những nếp nhăn chằng chịt. Ông ta giẫm giẫm đôi chân trên
đống rơm, quay người lại, cúi xuống phía mấy tên lính Têki - đội vệ binh riêng
của ông ta. Đó là những người gày gò, chân vòng kiềng, đội mũ lông cừu to tướng,
mặc áo Tserkex màu lòng tôm. Họ đứng hiên ngang, không nhúc nhích, tay cầm
cương mấy con ngựa gầy.
Giọng gay gắt nghe như sủa, Kornilôv hô mệnh
lệnh, tay chỉ về phía khe. Toán lính Têki nhanh như cắt nhảy lên yên ngựa. Một
người trong bọn dùng tiếng Têki hô một câu ngắn, giọng ồ ồ như phát ra từ đáy họng.
Những thanh gươm cong được tuốt ra khỏi vỏ, và toán lính cho ngựa chạy nước kiệu,
rồi chuyển sang nước đại phóng ra thảo nguyên, về phía khe, nơi những khoảng đất
cày hiện ra đen đen ở phía sau con đường sắt đắp cao chạy dài thành một dải thẳng.
Xêmiôn Kraxilnikôv bây giờ nằm nghiêng; nằm
như thế đỡ đau hơn. Mới cách đây một tiếng đồng hồ, anh ta hãy còn cường tráng
và hùng dũng, nhưng bây giờ anh chỉ rên yếu ớt từng quãng liên tiếp. Máu cứ ứa
ra mồm, anh khó nhọc nhổ đi. Bên trái và bên phải, các bạn anh đang nổ súng một
cách lộn xộn. Họ cũng nhìn về phía anh đang nhìn - về phía cái gò thoai thoải
màu hung bên kia khe. Từ trên đỉnh gò khoảng năm mươi kỵ binh đang phi xuống
như một đợt phún thạch lỏng tràn xuống sườn núi lửa.
Từ phía sau có một người mặc áo va-rơi đen
chạy tới, quỳ gục xuống bên cạnh rồi vung khẩu Mauzer lên gào thất thanh. Đội kỵ
binh đã tản xuống khe. Người mặc áo va-rơi vẫn gào, giọng chẳng giống tiếng hô
lính chút nào, nhưng vẫn quyết liệt một cách khủng khiếp:
- Không được lùi, nhất thiết không được
lùi!
Và đây, trên bờ khe bên này nhô lên những
chiếc mũ chụp lông to tướng, một tiếng hú kéo dài nổi lên, nghe như tiếng gió.
Bọn Têki lao tới. Mình mặc áo vạt dài kẻ sọc cúi rạp trên bờm ngựa, họ phi trên
lớp đất cày nhão quánh, trên các luống cầy hãy còn đọng lại những mảng tuyết bẩn.
Những cục bùn bị vó ngựa bật tung lên không. Những khuôn mặt choắt và đen để
ria mép nhăn nhở dưới cái mũ lông, rít lên: “Yaaaa - y - aaaa”. Đã trông thấy
rõ ánh thép loang loáng của những thanh gươm cong sắc như nước. Ôi, quân ta
không chịu nổi cuộc tập kích của kỵ binh này rồi! Những chiếc áo ca-pốt xám nhổm
lên trên khoảng đất cày. Bộ binh đỏ vừa bắn vừa lùi. Viên chính ủy mặc áo da cuống
quít lên. Ông ta nhảy xổ tới đấm vào lưng một người lính:
- Tiến lên, đâm lê!
Kraxilnikôv trông thấy một kỵ binh mặc áo sọc
lăn từ trên lưng ngựa xuống, trông như thể cố ý, và con tuấn mã hoảng hốt nhìn
quanh rồi phi chéo sang một bên. Một loạt đạn bi của pháo binh trắng nổ trên trận
địa đội xạ thủ, tiếng đanh như thép, tỏa ra những đám khói vàng. Vaxka, một anh
lính lục quân hay bông lơn, mặc chiếc áo ca-pốt quá cỡ, hoảng hốt vứt súng xuống.
Mặt trắng bợt ra, mồm há hốc, anh ta trố mắt nhìn cái chết đang lao tới. Kỵ
binh địch mỗi lúc một gần lại, người và ngựa to hẳn lên. Một tên phi phía trước,
con ngựa rạp mình xuống như con chó săn, đầu cúi gằm. Tên kỵ binh rướn người
lên đứng thẳng trên bàn đạp, tà áo sọc bay phấp phới.
- Quân khốn kiếp! - Kraxilnikôv cố nhoài ra
với khẩu súng. - Chà, chính ủy đến đi tong mất! - Tên kỵ binh Têki thúc ngựa
xông thẳng vào chiếc áo va-rơi da - Kìa bắn đi chứ, con khỉ!
Kraxilnikôv chỉ trông thấy thanh gươm cong
loáng một cái trên chiếc áo va-rơi... Ngay tức khắc cả đội kỵ binh Têki như một
đợt thủy triều tràn lên khắp trận địa xạ kích. Xung quanh sực mùi mồ hôi ngựa
nóng hổi.
Kỵ binh đã phi qua, và rẽ ngoặt sang bên sườn.
Từ dưới khe đã thấy những tấm áo ca-pốt xám nhạt và đen chạy lên khoảng đất
cày, chân vấp váp trên những mô đất lổn ngổn, trên vai óng ánh những chiếc lon
quan lớn.
- Xung phoooong!
Trận đánh đã chuyển về phía con đường sắt.
Một hồi lâu Kraxilnikôv chỉ nghe thấy tiếng rên của viên chính ủy bị chém sả
ngang người. Tiếng súng trường mỗi lúc một thưa. Đại bác đã im hẳn. Kraxilnikôv
nhắm mắt lại, - trong đầu cứ kêu ong ong, ngực đau ê ẩm. Anh thấy thương hại
cho mình quá, chẳng muốn chết chút nào. Thân hình anh như nặng hẳn lên, dán chặt
xuống đất. Anh xót xa nhớ tới Matriôna, vợ anh. Nhà nó gay go quá rồi. Nhà nó
mong chồng quá, có biên thư về Taganrôk: thế nào nhà cũng về nhé! Giá bây giờ
Matriôna trông thấy anh, chị ta sẽ băng bó vết thương cho anh, đi lấy nước cho
anh uống. Giá có tý nước với ít sữa đông nhỉ...
Đâu đây có tiếng chửi rất tục và những tiếng
nói lao xao nghe rất lạ tai: toàn giọng ông lớn. Kraxilnikôv hé mắt ra nhìn. Có
bốn người đang đi tới: một người mặc áo Tserkex xám, hai người mặc áo khoác sĩ
quan, người thứ tư mặc ca-pốt sinh viên có đính lon hạ sĩ quan. Họ cắp súng trường
dưới nách như người đi săn.
- Kìa, một thằng thủy thủ, xiên ngay đi, - một
người nói.
- Ngoẻo rồi còn xiên làm gì... Thằng kia
hãy còn sống kia.
Họ đứng lại nhìn anh chàng Vaxka hay pha
trò. Người mặc áo Tserkex cất tiếng dữ tợn, như thể bỗng nổi giận điên cuồng:
- Đứng dậy - hắn đá vào Vaxka một cái.
Kraxilnikôv trông thấy Vaxka đứng dậy, một
nửa mặt máu chảy đầm đìa.
- Nghiêm! Tay áp nẹp quần! - người mặc áo
Tserkex quát, đoạn tống quả đấm vào miệng Vaxka một phát rất gọn. Và lập tức cả
bốn chĩa lưỡi lê vào người Vaxka. Vaxka kêu lên, giọng như khóc:
- Xin ông tha cho.
Người mặc áo Tserkex nhảy lùi ra, rồi đâm
phập lưỡi lê vào bụng Vaxka, miệng thở đánh hự một tiếng. Đâm xong, hắn quay
ngoắt lại và bỏ đi. Mấy người kia cúi xuống tháo ủng của Vaxka.
Sau khi bắn nốt những người bị thương và đốt
trụ sở ban quản trị thôn cô-dắc để cho dân làng nhớ mãi làm răn, quân tình nguyện
tiếp tục hành quân về phía Nam. Mấy người cô-dắc nhặt Kraxilnikôv trên ruộng
đem về làng: họ đã đưa vợ con và bò ngựa trở về thôn cô-dắc ngay khi các đoàn
xe tải của bọn ca-đê vừa khuất sau chân trời thẳng tắp của cánh thảo nguyên mới
bắt đầu chớm nhú những chồi xanh.
Xêmiôn rất lo mình sẽ phải chết giữa những
người xa lạ. Vốn có sẵn tiền trong người, anh ta nài được một người đánh xe
giàn chở anh về Rôxtôv. Đến đây rồi, anh viết thư cho ông anh nói là mình bị
thương nặng ở ngực, chỉ lo chết nơi đất khách, quê người, và nhắn thêm là mong
được gặp Matriôna. Bức thư được một người hàng xứ mang về hộ.
* * *
Kể cho đến năm 1918, Xêmiôn làm thủy thủ
trong hạm đội Hắc hải, trên khu trục hạm “Kerts”. Tư lệnh hạm đội là đô đốc
Kôltsak. Tuy có trí tuệ, có học thức, và có một lòng yêu nước vô tư (theo như bản
thân ông vẫn nghĩ), Kôltsak vẫn không hiểu được một chút gì về những việc đang
xảy ra cũng như về những việc tất nhiên sẽ phải xảy ra. Ông ta biết rõ thành phần
và cách trang bị của tất cả các hạm đội trên thế giới, ông ta có thể xác định một
cách hoàn toàn chắc chắn qua làn sương mù bất cứ kiểu chiến hạm nào, ông ta là
một người am hiểu tinh tường bậc nhất về kỹ thuật mìn và ngư lôi, và là một
trong những người đứng ra khởi xướng việc chấn hưng năng lực chiến đấu của hạm
đội Nga sau trận Đối mã, [Tsushima - một
hòn đảo trên eo biển Triều tiên. Năm 1904, gần đảo này có xẩy ra một trận thủy
chiến lớn giữa hai hạm đội Nga, Nhật; trong đó hạm đội Nga do đô đốc
Rôjđextvenxki chỉ huy đã bị thất bại nặng nề], nhưng nếu trước 1917
có ai bàn chuyện chính trị với ông, ông sẽ trả lời rằng ông không quan tâm đến
chính trị, không hiểu gì về lĩnh vực này và quan niệm rằng đó là lĩnh vực của bọn
sinh viên, của mấy cô nữ sinh lem luốc và của bọn Do Thái.
Trong cách hình dung của ông, nước Nga là một
đoàn thiết giáp hạm (gồm cả những chiếc có thật lẫn những chiếc do ông tưởng tượng
ra) xếp thành hàng dọc nhả khói tiến ra khơi, với lá cờ mang chữ thập thánh
Anđrêy phấp phới một cách kiêu hãnh trên kỳ hạm, khiến nước Đức phải kinh hồn
thất đảm. Ông rất thích cái thềm uy nghi và nghiêm khắc (kiến trúc theo phong
cách đại đế chế) của bộ chiến tranh, với ông lão gác cổng què quen thuộc (mỗi lần
cởi áo khoác cho ông lại nói, giọng ôn tồn: “Hôm nay trời xấu quá, dạ thưa ngài
Alekxanđr Vaxilyêvits”), rất thích các bạn đồng ngũ lịch thiệp, trang nhã và
cái không khí cách biệt với bên ngoài nhưng thân ái ở bên trong của câu lạc bộ
sĩ quan. Hoàng đế là cái chóp đỉnh của hệ thống này, của những truyền thống
này.
Tất nhiên, Kôltsak cũng còn yêu một nước
Nga khác, cái nước Nga đứng xếp hàng trên boong sau, đội mũ bình thiên không có
lưỡi trai, đính hai dải lụa ở sau gáy, mặt rộng, da rạm nắng, thân hình gân guốc.
Cái nước Nga ấy hát những bài kinh cầu nguyện ban chiều hay lạ lùng những khi hạ
quốc kỳ trong ánh tà dương. Cái nước Nga ấy chết một cách “toàn tâm toàn ý” khi
nào người ta ra lệnh cho nó phải chết. Có thể tự hào về cái nước Nga ấy được.
Năm 1917, Kôltsak không chút do dự tuyên thệ
trung thành với Chính phủ lâm thời và ở lại chỉ huy hạm đội Hắc hải. Ông chịu đựng
sự sụp đổ của vị đứng đầu đế quốc với một nỗi đau khổ chua chát, như chịu đựng
một tai biến không thể nào tránh khỏi, và nghiến răng công nhận các ủy ban thủy
thủ và trật tự cách mạng, chỉ cốt sao hạm đội và nước Nga có đủ sức tiếp tục
chiến tranh với quân Đức. Ví thử ông chỉ còn mỗi một chiếc xuồng phóng ngư lôi,
có lẽ ông cũng vẫn tiếp tục chiến đấu. Ông đi dự những cuộc mít tinh của thủy
thủ ở Xêvaxtôpôl, và đáp lại những bài diễn văn sôi sục của các công nhân sở tại
và từ nơi khác đến, ông nói rằng cá nhân ông không cần gì hai eo biển Đarđanel
và Bôxphor, vì bản thân ông không có ruộng đất, cũng như không có nhà máy, cho
nên chẳng có hàng hóa gì cần phải xuất khẩu ra ngoài nước Nga, nhưng ông nhất
thiết yêu cầu tiến hành chiến tranh đến cùng, không phải với tư cách một tên
lính đánh thuê cho giai cấp tư sản (nói đến đây, gương mặt cạo nhẵn với cái cằm
lực lưỡng, đôi môi mềm yếu và đôi mắt trũng sâu của ông nhăn nhúm lại vì kinh tởm),
mà “tôi nói đây là với tư cách một người Nga yêu nước”.
Thủy thủ cười rộ. Thật khủng khiếp! Mới hôm
qua thôi những con người trung thành ấy hãy còn sẵn sàng lao vào nước lửa vì tổ
quốc và lá cờ chữ thập thánh Anđrêy, thế mà giờ đây họ đã dám thét vào mặt thủy
sư đô đốc của họ: “Đả đảo bọn tay sai của chủ nghĩa đế quốc!”. Ông đã nói lên bốn
chữ “Người Nga yêu nước” bằng một giọng hùng tráng, hai tay mở rộng, và giây
phút ấy bản thân ông sẵn sàng chết vì tổ quốc, thế mà bọn thủy thủ không biết bị
ma quỷ xui khiến thế nào lại nghe đô đốc của họ như nghe một kẻ thù đang ra sức
lừa dối họ một cách xảo quyệt.
Ở các buổi mít-tinh, Xêmiôn Kraxilnikôv có
nghe nói là những kẻ muốn kéo dài chiến tranh không phải là những người “yêu nước”,
mà là những lão chủ nhà máy và đại địa chủ, vốn nhờ chiến tranh mà tích lũy được
những số vốn kếch xù, còn nhân dân thì không cần gì đến một cuộc chiến tranh
như thế. Họ nói rằng lính Đức cũng là mu-gích và thợ thuyền như lính ta, sở dĩ
họ đi đánh nhau là vì họ bị bọn tư sản khát máu bên nước họ và bọn mensêvik lừa
gạt. Trong những cuộc mít-tinh này các “anh em” lính thủy đều sôi máu lên vì căm
thù... “Hàng nghìn năm nay chúng nó đã lừa dối dân Nga ta! Hàng nghìn năm nay
chúng nó đã uống máu chúng ta! Bọn địa chủ, bọn tư sản ấy!... Cái quân khốn nạn!”.
Mắt họ đã mở: ra vì thế mà họ sống khổ hơn trâu ngựa... Chính đấy là kẻ thù của
họ!... Và Xêmiôn, tuy rất nhớ cái cơ ngơi bị bỏ bê và rất nhớ cô vợ trẻ
Matriôna, cũng siết chặt nắm tay trong khi nghe các diễn giả, cũng say sưa với
chất men của cách mạng như mọi người, và chất men ấy đã làm cho anh ta quên nỗi
niềm nhớ nhà, nhớ vợ - cô Matriôna xinh đẹp.
Một hôm từ Pêtrôgrađ cử về một cán bộ tuyên
truyền có tiếng là Vaxili Rubliôv. Anh ta đặt vấn đề: “Anh em định đi phất phơ
như chó dại và khua môi múa mép trong các cuộc mít-tinh cho đến bao giờ thì
thôi đấy? Kêrenxki đã bán anh em cho tư bản từ lâu rồi. Chúng nó sẽ để cho anh
em sủa nhăng sủa nhít dăm ba bữa nữa, rồi bọn phản cách mạng sẽ ngứt hết thủ cấp
của anh em. Trong khi hãy còn kịp, phải lật nhào Kôltsak, phải nắm lấy hạm đội
trong đôi bàn tay công nông...”.
Ngày hôm sau từ một chiến hạm phát đi một
hiệu lệnh bằng vô tuyến điện: tước khí giới toàn thể tập đoàn chỉ huy. Một số
sĩ quan dùng súng tự sát, số còn lại hạ vũ khí. Kôltsak đứng trên kỳ hạm “Ghêorghi
bách thắng” ra lệnh thổi còi tập họp toàn thể thủy thủ. Thủy thủ vừa cười cợt vừa
lên boong sau. Thủy sư đô đốc Kôltsak đứng trên cầu chỉ huy, mình mặc quân phục
lễ trưng chỉnh tề.
- Hỡi các thủy thủ, - ông nói to bằng một
giọng kim nghe như rạn vỡ, - nay đã xẩy ra một tai họa không sao còn cứu vãn nổi:
những kẻ thù của nhân dân, những tên mật vụ của quân Đức, đã tước vũ khí các sĩ
quan. Dù là kẻ đần độn nhất đời cũng không thể nói một cách nghiêm trang rằng
các sĩ quan đang âm mưu phản cách mạng! Vả lại nói chung, tôi phải khẳng định rằng
không hề có một âm mưu phản cách mạng nào trên đời này hết!
Đến đây, đô đốc đi đi lại lại rất nhanh
trên cầu, thanh kiếm kêu lách cách, và bắt đầu nói cho hả giận:
- Tất cả những gì đã xẩy ra, trước hết tôi
đều coi như một sự lăng nhục đối với cá nhân tôi, người cao cấp nhất trong các
sĩ quan, và dĩ nhiên tôi không còn có thể và không còn muốn chỉ huy hạm đội nữa.
Ngay bây giờ tôi sẽ điện lên Chính phủ là tôi rời khỏi hạm đội. Đủ lắm rồi!...
Xêmiôn trông thấy đô đốc giơ cả hai tay nắm
lấy thanh gươm vàng, bắt đầu tháo nó ra; nhưng loay hoay mãi không tháo được,
ông giật đứt quai đeo. Môi ông tím bầm lại.
- Bất cứ một sĩ quan trung trực nào ở địa vị
tôi cũng phải hành động như thế!...
Ông giơ cao thanh kiếm lên và ném xuống biển.
Nhưng ngay cái cử chỉ lịch sử này cũng không gây được một ấn tượng nào trong
đám thủy thủ.
Từ đấy những biến cố đột ngột cứ dồn dập xẩy
ra trong hạm đội - phong vũ biểu đã tụt hẳn xuống, báo hiệu giông bão. Các thủy
vốn gắn bó với nhau vì cuộc sống trên mặt biển, khỏe mạnh, quả cảm và tháo vát,
đã từng được trông thấy những đại dương và những đất nước xa lạ, vốn hiểu biết
rộng hơn lính lục quân, và cảm thấy thấm thía hơn cái giới tuyến dứt khoát ngăn
cách sĩ quan với lính thủy; họ làm thành một lực lượng rất dễ phát động, một chất
nổ rất dễ bén lửa. Cách mạng đã sử dụng họ trước tiên. Với tất cả cái nhiệt
tình chưa hề bị hao tổn của họ, các “anh em” thủy thủ xông thẳng vào giữa lò lửa
của cuộc đấu tranh và bản thân họ cũng làm cho đối thủ bốc lửa lên, trong khi
nó hãy còn phân vân, chưa dám dấn thân thực sự, đang đợi chờ, tìm cách củng cố
và tích lũy lực lượng.
Bây giờ Xêmiôn không còn có lúc nào mà nghĩ
đến nhà, đến vợ nữa. Đến tháng mười những lời lẽ hoa mỹ đã chấm dứt, khẩu súng
trường bắt đầu lên tiếng. Quân thù nhan nhản khắp nơi. Mỗi khóe mắt sợ sệt, hằn
học, lấm lét đều có cái chết ẩn nấp ở bên trong. Từ bể Baltic cho đến Thái bình
dương, từ Bạch hải cho đến Hắc hải, nước Nga như một mặt nước cuộn lên đục ngầu,
đầy những tiên triệu bất thường. Xêmiôn khoác súng lên vai đi đánh nhau với “con
quái xà phản cách mạng”.
* * *
Rôstsin và Katya, tay xách cái tay nải và
chiếc ấm đun nước, len lỏi qua đám đông đang chen chúc trước nhà ga và xuôi
dòng thác người lách qua một trạm gác tua tủa những lưỡi lê, rồi đi ngược lên
phố chính thành Rôxtôv.
Mới cách đây một tháng rưỡi trong thành phố
này lớp tinh hoa của kinh đô Pêterburg hãy còn dạo chơi từ cửa hàng này sang cửa
hàng khác. Các vỉa hè nhộn nhịp những chiếc mũ lưỡi trai của sĩ quan cận vệ, những
tiếng cựa giày lách cách, những mẩu chuyện trò bằng tiếng Pháp, những cô tiểu
thư và mệnh phụ trang nhã đang giấu cái mũi xinh xinh vào những cổ áo lông đắt
tiền cho khỏi lạnh và ẩm. Với một tâm trạng vô tư lự không sao hiểu nổi, họ
tính chỉ ở đây qua mùa đông, rồi đến tiết đêm trắng sẽ trở về Pêterburg, trở về
với những căn nhà và những ngôi biệt thự, với những người gác cổng oai vệ, với
những gian đại sảnh có hai dãy cột cao, những tấm thảm quý, những lò sưởi lửa
cháy sáng rực. Ôi, Pêterburg! Rốt cục rồi mọi sự cũng được ổn định trở lại thôi
mà. Các tiểu thư và mệnh phụ trang nhã nào có tội tình gì trong tất cả những
chuyện này?
Ấy thế rồi nhà đạo diễn tối cao vỗ tay một
tiếng: mọi vật đều biến đâu mất, như trên một sân khấu quay. Cảnh trí thay đổi
hẳn. Các phố Rôxtôv vắng ngắt đi. Các cửa hàng đều đóng ván bịt kín cửa lại,
các tủ kính đều bị đạn xuyên thủng. Các tiểu thư và mệnh phụ giấu áo lông đi, lấy
khăn vải trùm đầu. Một số ít sĩ quan trốn theo Kornilôv, số còn lại thì, nhanh
như trong phòng hóa trang nhà hát, biến thành những ông tiểu chủ lành như đất,
những anh diễn viên, những nhà thơ viết ca khúc, những ông thầy dạy khiêu vũ, vân
vân. Và gió bấc tháng hai xua những mảnh giấy loại bay tan tác trên các vỉa
hè...
- Phải, ta đến muộn mất rồi, - Rôstsin nói.
Chàng rảo bước, đầu cúi gầm. Chàng có cảm tưởng là thân thể nước Nga đã bị cắt
vụn ra làm hàng nghìn mảnh. Cái mái vòm toàn vẹn vẫn che phủ lên đế quốc Nga
nay đã đổ vỡ tan tành. Nhân dân đã biến thành một bầy súc vật. Lịch sử, dĩ vãng
oanh liệt đều đã tan biến đi như những tấm màn mờ ảo của một bộ phong cảnh, để
lộ một cõi hoang vu trơ trụi và cháy xém, lổn nhổn những nấm mồ... Nước Nga đã
cáo chung. Chàng cảm thấy trong người chàng có một cái gì đang vỡ vụn ra, và những
mảnh vụn sắc cạnh của nó đâm vào lòng chàng đau nhói, một cái gì mà trước kia
chàng vẫn tưởng là không có gì lay chuyển nổi: đó là rường cột của đời chàng...
Chàng bước thất thểu sau lưng Katya. “Rôxtôv đã thất thủ, quân đoàn của
Kornilôv, cái mảnh vở biết đi cuối cùng của nước Nga đang lang thang vô định,
không chóng thì chày rồi cũng sẽ bị tiêu diệt, và lúc bấy giờ chỉ còn có cách bắn
một viên đạn vào thái dương”.
Họ cứ đi vu vơ qua các phố, Rôstsin còn nhớ
địa chỉ một vài người bạn cùng sư đoàn. Nhưng có lẽ họ đã trốn đi hay bị bắn rồi
cũng nên. “Nếu thế thì đến phải chết rấp trên vỉa hè. Chàng đưa mắt nhìn Katya.
Nàng bước đi, dáng điềm đạm và khiêm nhường trong tấm áo chẽn ngắn bằng dạ thô,
đầu trùm chiếc khăn san Ôrenburg. Gương mặt kiều diễm đáng yêu của nàng, với
đôi mắt xám mênh mông, chốc chốc lại quay lại nhìn những tấm biển hiệu tuột
móc, những tủ kính vỡ nát, vẻ thật thà và ngây thơ. Hai khóe môi nàng thoáng nhếch
lên như một nụ cười. “Cô ấy làm sao thế nhỉ, chẳng lẽ không thấy rõ cái cảnh khủng
khiếp này? Không sao hiểu nổi cái lối vạn tội vạn xá trong bất cứ hoàn cảnh nào
ấy được”.
Có một tốp lính không vũ khí đứng ở góc phố.
Một người trong bọn họ, mặt rỗ hoa, một bên mắt sưng bầm, nách cắp một cái bánh
mì xám xịt, thong thả bẻ từng miếng bỏ vào mồm nhai chầm chậm.
- Chẳng còn hiểu ra làm sao nữa: ở đây là
chính quyền xô-viết hay là cái thứ chính quyền gì? - một người lính đứng bên cạnh
nói với hắn. Người này mang một cái tráp gỗ có buộc đôi ủng dạ đã sờn cũ. Người
đang ăn đáp:
- Chinh quyền là ngài đồng chí Broinitxki.
Nếu luồn lọt vào gặp được ngài, ngài sẽ cho một oàn tàu, ta sẽ đi thôi. Chứ cứ
thế này thì đến chết rục ở Rôxtôv.
- Ngài là gì? Cấp bậc gì?
- Chính ủy quân sự hay sao ấy...
Rôstsin đến gần tốp lính hỏi thăm xem có ai
biết lối đi đến địa chỉ chàng đang tìm không.
Một người trả lời, vẻ khó chịu:
- Chúng tôi không phải người ở đây.
Một người khác nói:
- Đến vùng sông Đôn không phải là lúc rồi,
ông sĩ quan ạ.
Katya lập tức kéo ống tay áo chồng, và hai
người đi sang vỉa hè bên kia. Ở đây, cạnh một gốc cây trơ trụi, có một cụ già mặc
áo khoác sờn chỉ, đội mũ rơm, đang ngồi trên một chiếc ghế dài khập khiễng. Cái
cằm râu mọc lởm chởm tì lên đầu gậy uốn cong, cụ già run lẩy bẩy. Từ đôi mắt nhắm
nghiền, hai dòng nước mắt từ từ chảy trên đôi má hóp nhăn nheo.
Mặt Katya rung lên. Rôstsin liền kéo tay áo
nàng:
- Đi thôi, đi thôi, chẳng thương xót hết được
cả thiên hạ đâu...
Họ còn đi lang thang hồi lâu qua các phố
phường bẩn thỉu, rách rưới, mãi mới tìm được số nhà cần đến. Vào cổng, họ trông
thấy một người thấp lùn, chân béo núc ních, đầu hói trụi như quả trứng. Người ấy
mặc một chiếc áo bông trấn thủ của binh sĩ, cáu ghét đến cùng cực, hai tay bưng
một cái nồi vừa đi vừa ngoảnh mặt sang một bên để tránh mùi hôi ở trong nồi bay
ra. Đó là một bạn đồng ngũ của Rôstsin, thượng tá lục quân Tyôtkin. Ông ta đặt
cái nồi xuống đất và ôm hôn Vađim Pêtrôvits rồi cộp gót giày bắt tay Katya.
- Rõ rồi, rõ rồi, chẳng cần nói nữa, tôi sẽ
thu xếp. Chỉ có một phòng nhỏ, nhưng được cái có cả gương đứng và chậu cây. Xin
anh chị biết cho rằng vợ tôi là người ở đây... Trước chúng tôi ở nhà này (ông ta
chỉ tòa nhà hai tầng), nhưng nay đã dọn sang ở đây cho nó bình dân (ông ta chỉ
ngôi nhà xép xiêu vẹo làm bằng gỗ). Tôi làm nghề nấu xi đánh giày, chắc anh
cũng thấy đấy. Tôi đã đăng ký xin việc ở sở lao động - thất nghiệp mà! Nếu hàng
xóm không tố giác, thì cũng tạm sống qua được. Cũng là dân Nga ta cả, cực khổ
thế nào rồi cũng quen hết.
Há cái miệng rộng hoác với bộ răng thượng hảo
hạng ra, ông ta cười hô hố, rồi nói ra chiều tư lự: “Phải, cơ sự nó thế đấy”,
đoạn xoa lòng bàn tay lên cái sọ bóng nhoáng, bôi cả xi đánh giày lên đấy.
Bà vợ của ông, cũng thấp lùn phốp pháp như
thế, cất cái giọng ngân nga lên chào hai người khách, nhưng trên đôi mắt màu hạt
dẻ của bà ta có thể nhận thấy bà không lấy gì làm hài lòng cho lắm. Họ xếp
Katya và Rôstsin vào một gian phòng thấp lè tè, giấy dán tường đã tróc từng mảng.
Quả nhiên trong góc phòng có đặt tấm gương đứng cũ kỹ, mặt gương quay vào tường.
Ngoài ra trong phòng còn có một cái giường sắt và một chậu cây cảnh.
- Tấm gương chúng tôi để quay mặt vào tường
cho nó an toàn hơn đấy - Tyôtkin nói, - vì của này bây giờ đắt lắm. Ấy, nhỡ họ
vào khám nhà, nhìn vào gương là họ đập vỡ tan ngay: họ không chịu nổi cái bộ mặt
của họ. - Ông ta lại cười hô hố và xoa tay lên sọ - Vả lại tôi cũng thông cảm với
họ phần nào: xung quanh đang đổ vỡ tan hoang thế kia mà ở đây lại bày gương! Dĩ
nhiên phải đập cho vỡ nốt...
Bà vợ ông ta trải lên bàn một tấm khăn rất
sạch, nhưng nĩa thì lại rỉ, đĩa ăn thì lại mẻ, hẳn là đồ tốt họ đã đem giấu hết
đi. Rôstsin và Katya ăn rất ngon lành món cá hun, khoanh bánh mì trắng và miếng
chả trứng đúc thịt mỡ. Tyôtkin đi lại lăng xăng tiếp thức ăn cho khách. Bà vợ
khoanh hai cánh tay phốp pháp trước ngực, luôn luôn than phiền về cuộc sống:
- Xung quanh toàn những cảnh hà hiếp quái gở,
thật là một cảnh địa ngục trần gian. Ông bà có biết không, đã hơn tháng nay tôi
không ra khỏi sân nhà đấy... Chỉ mong sao chóng đuổi được bọn bolsêvik ấy đi...
Ở kinh đô ông bà có nghe nói gì về chuyện ấy không? Sắp tiêu diệt được chúng nó
rồi chứ?...
- Thôi đi bà, chỉ được cái mau miệng, - Tyôtkin
nói, vẻ luống cuống - bây giờ mà ăn nói như thế thì có ngày toi mạng đấy Xôfya
Ivanôvna ạ.
- Tôi cứ nói đấy, cứ việc đem bắn tôi đi! -
Mắt Xôfya Ivanôvna tròn xoe ra, hai cánh tay khoanh trước ngực siết chặt lại -
Ta sẽ lại có vua, nhất định sẽ có... (Bà ta quay sang nói với chồng, ngực phồng
cao lên) chỉ có một mình ông là chẳng trông thấy gì.
Tyôtkin nhăn mặt, sượng sùng. Khi bà vợ đã
giận dữ bỏ ra ngoài, ông ta nói thì thầm:
- Anh chị đừng để tâm. Bà ấy là người có
tâm huyết, một bà nội trợ tuyệt vời, nhưng vì cảnh ngộ đâm ra như thể bất bình
thường... (ông ta nhìn gương mặt Katya ửng hồng vì chén trà nóng, nhìn Rôstsin
đang quấn điếu thuốc lá) Chao ôi, Vađim Pôtrôvits ạ, chẳng phải đơn giản đâu...
Không thể vơ cả nắm mà nói nhăng nói cuội được... Tôi đã có dịp tiếp xúc với
nhiều người, chứng kiến nhiều việc... Tôi đã từng đến Bataixk, bên kia sông Đôn
ấy, ở đấy phần đông là dân nghèo, thợ thuyền... Giặc cướp gì bọn họ ấy hở Vađim
Pêtrôvits? Chẳng qua là một lũ người bị ức hiếp, bị lăng nhục... Họ mong chính
quyền Xô-viết mới thiết tha làm sao!... Ấy, chỉ xin anh đừng nghĩ tôi là
bolsêvik sê-viếc gì đấy nhé... (ông ta đặt hai bàn tay ngắn lên ngực, vẻ van
lơn, như thể đang cuống quít xin lỗi). Những kẻ cầm quyền kiêu căng và u mê đã
để Rôxtôv lọt vào tay chính quyền Xô-viết... Giá anh được chứng kiến những chuyện
xảy ra ở đây dưới thời thủ lĩnh Kalêđin nhỉ... Anh ạ, trên phố Xađôvaia, quân cận
vệ kéo từng đoàn dài đi chơi phố, quân phục rất sang, dáng bộ ngang tàng và tự
mãn. “Chúng tôi sẽ đuổi bọn vô lại ấy chui hết xuống nhà hầm như cũ cho mà xem”,
họ nói thế. Nhưng cái bọn vô lại ấy lại là toàn thể dân Nga đấy ạ... Họ chống cự
lại, họ không chịu chui xuống hầm nhà cho. Tháng mười hai vừa rồi tôi ở
Nôvôtserkaxxk. Anh còn nhớ chứ, bên đại lộ chính có một tòa nhà dùng làm ngục
thất, đâu do thủ lĩnh Platôv xây từ thời vua Alexanđr Cả phước thì phải, kiến
trúc kiểu “Empire” đấy. Bây giờ nhắm mắt lại, tôi còn thấy rõ như in những bậc
thềm ngập máu... Dạo ấy tôi đang đi ngang lô cốt thì nghe thấy một tiếng hú ghê
rợn, như tiếng người bị tra tấn ấy... Ngay giữa thanh thiên bạch nhật, ở trung
tâm thủ phủ vùng sông Đôn... Tôi lại gần. Quanh nhà tù có một đám đông cô-dắc
đã xuống ngựa. Họ im lặng đứng nhìn: trước dãy cột đang diễn ra một cuộc hành
hình nhằm làm gương cho dân chúng. Họ bắt từng đôi một trong nhà giam ra những
người thợ bị bắt vì có cảm tình với bolsêvik. Anh hiểu chứ: vì cảm tình. Lập tức
người ta trói sấp họ vào mấy cái cột và bốn tên cô-dắc lực lưỡng dùng roi da quất
vào lưng, vào mông họ. Mấy ngọn roi quất vun vút: lúc đầu quần áo họ tung ra từng
mảnh, rồi đến thịt họ bắn ra từng miếng một, máu chảy lênh láng trên các bậc thềm,
như máu súc vật bị chọc tiết: Tôi vốn ít ngạc nhiên lắm, ấy thế mà lúc bấy giờ
tôi đã phải ngạc nhiên: tiếng kêu gào khủng khiếp quá... Nếu chỉ đau về thể xác
không thôi thì người ta không kêu gào như vậy...
Rôstsin ngồi nghe, mắt nhìn xuống đất, mấy
ngón tay đang cầm điếu thuốc run bắn lên. Tyôtkin lấy móng tay cạo cạo một vết
mù-tạt trên khăn trải bàn.
- Ấy thế. Bây giờ thủ lĩnh Kalêđin không
còn ở trên thế gian này nữa, thế là tinh hoa của lớp quý tộc cô-dắc bị chôn vùi
dưới cái khe ở ngoại thành: dòng máu lênh láng trên các bậc thềm lớn tiếng đòi
phục thù. Bây giờ là chính quyền của dân nghèo... Riêng cá nhân tôi thì thế nào
cũng xong: nấu xi hay làm nghề gì cũng thế thôi... Tôi đã sống sót qua cuộc đại
chiến, và tôi chỉ quý có một điều: hơi thở của sự sống - anh bỏ quá cho cái tỷ
dụ này: hồi ở chiến hào tôi đọc lắm sách, đâm quen cái lối so sánh văn hoa... Ấy
thế cho nên... (Ông ta ngoái cổ nhìn ra cửa và hạ giọng nói khẽ hơn), tôi chấp
nhận bất cứ cơ cấu sinh hoạt nào, miễn là mọi người được sung sướng... Tôi
không phải là bolsêvik đâu nhé. Vađim Pêtrôvits ạ... (Ông ta lại đặt hai tay
lên ngực). Bản thân tôi chẳng cần gì nhiều: một miếng bánh mì, một dúm thuốc
lá, một quan hệ thực sự chân thành, thế là đủ... (Ông ta ngượng nghịu). Nhưng
khốn nỗi chính công nhân ở đây họ cũng kêu ca rất nhiều, tôi không nói đến bọn
trưởng giả làm gì... Anh đã bao giờ nghe nói tới đồng chí ủy viên quân sự
Broinitxki chưa? Tôi có lời khuyên anh nhé: hễ thấy ôtô của ông ta phóng qua,
anh nên nấp đi cho kín. Ông ta phất lên ngay lập tức sau khi chiếm Bôxtôv. Động
một tí là ông ta kêu lên: “Tôi được đồng chí Lê-nin hết sức quý trọng, tôi vẫn
đánh điện riêng cho đồng chí Lê-nin...”. Tay chân ông ta toàn là những phần tử
gian ác. Lúc nào cũng trưng dụng với lại xử bắn. Đêm đêm trên các phố bất kỳ ai
cũng có thể bị lột sạch. Ông ta hành động như một tên kẻ cướp... Như thế là như
thế nào? Của bị trưng dụng đi đâu? Thế mà ủy ban cách mạng thì đành bó tay, chẳng
làm gì được ông ta hết. Họ sợ lắm... Tôi không tin ông ta là người có tư tưởng...
Ông ta còn làm hại tư tưởng vô sản hơn là... (Nói đến đây Tyôtkin hình như thấy
mình đã quá trớn bèn ngoảnh đi, khịt mũi, rồi lại đặt hai tay lên ngực, nhưng lần
này chẳng nói kèm theo một câu nào).
- Tôi thật không hiểu ông, ông thượng tá. -
Rôstsin nói, giọng lạnh lùng. - Bè lũ Broinitxki chính là tinh hoa của chính
quyền xô-viết chứ gì nữa... Không thể thanh minh cho chúng được, chỉ có thể đấu
tranh một mất một còn với chúng mà thôi.
- Đấu tranh vì cái gì kia ạ? - Tyôtkin hỏi
vội.
- Vì nước Đại Nga, ông thượng tá ạ.
- Nhưng nước Đại Nga là cái gì thế? Anh bỏ
quá cho, tôi xin hỏi một câu ngu xuẩn: cụ thể là nước Đại Nga theo quan niệm của
ai? Nếu có thể, xin cho biết chính xác một chút. Theo quan niệm của giới thượng
lưu Pêtrôgrađ chăng? Đó là một... Hay theo quan niệm của trung đoàn xạ kích
trong đó anh và tôi đã từng chiến đấu, cái trung đoàn đã anh dũng hy sinh trên
hàng rào dây thép gai? Đây đã là một cái gì khác rồi. Hay là theo quan niệm của
hội nghị thương mại Moxkva (anh còn nhớ không: ở nhà hát lớn, Ryabusinxki đã lớn
tiếng khóc nước Đại Nga đấy). Đây là một cái gì khác nữa. Hay là theo quan niệm
người thợ cảm thụ nước Đại Nga vào những ngày lễ, trong khi ngồi trong quán bia
bẩn thỉu? Hay là một trăm triệu người mu-gích đang...
- Thôi tôi xin ông! Rõ chán... (Katya hối hả
nắm chặt tay Rôstsin ở dưới bàn). Xin lỗi thượng tá. Từ trước tới nay tôi được
biết rằng nước Nga là tên gọi một lãnh thổ rộng bằng một phần sáu quả đất, có một
cư dân đã trải qua một lịch sử oanh liệt... Có lẽ theo quan niệm bolsêvik thì
không phải như thế... Xin ông thứ lỗi cho... (Chàng mỉm cười chua chát, chật vật
lắm mới nén nổi cơn giận).
- Không đâu, đúng như thế đấy ạ... Tôi lấy
làm tự hào... Và bản thân tôi thấy hoàn toàn thỏa mãn khi đọc lịch sử quốc gia
Nga-la-tư. Nhưng có một trăm triệu mu-gích không hề đọc qua sách này. Và họ chẳng tự
hào gì hết. Họ muốn có một lịch sử của chính họ, không phải diễn ra trong các
thời đại đã qua, mà triển khai ra trong các thời đại sẽ đến... Một lịch sử no đủ...
Cái đó thì ta đành chịu bó tay. Hơn nữa họ lại có những người dẫn đường: giai cấp
vô sản. Bọn này còn đi xa hơn nữa: họ dám sáng tạo cả lịch sử nhân loại nữa
kia... Cái này ta cũng đành chịu bó tay nốt... Vađim Pêtrôvits ạ, anh buộc tội
tôi là theo chủ nghĩa bolsêvik... Tôi thì tôi lại tự buộc tôi là chỉ suy tưởng
vu vơ: một tội trọng đấy. Nhưng tôi có một lý do để tự bào chữa là tình trạng
quá mệt mỏi sau thời gian ở chiến hào. Tôi hy vọng sau này sẽ có sức hoạt động hơn,
và đến lúc ấy, có lẽ tôi sẽ không chối cãi lời buộc tội của anh nữa...
Nói tóm lại, Tyôtkin đã bắt đầu xửng cồ
lên; cái sọ đỏ ửng của ông ta lấm tấm mồ hôi. Rôstsin vội vã cài khuy áo khoác,
lúng túng mãi mới cài trúng lỗ khuyết. Katya nhăn nhó hết nhìn chồng lại nhìn
sang Tyôtkin. Sau một phút im lặng nặng nề, Rôstsin nói:
- Tôi rất tiếc là đã mất một người bạn. Tôi
xin cảm tạ ông đã rộng lòng đón tiếp...
Không bắt tay Tyôtkin, chàng ra khỏi phòng.
Lúc bấy giờ Katya, “con cừu non” lúc nào cũng thầm lặng, chắp hai tay lại và gần
như kêu lên:
- Vađim, em xin anh, khoan đã... (Chàng
quay lại, đôi mày giương cao) Vađim ạ, lần này thì anh sai rồi... (Má nàng đỏ bừng
lên). Sống với một tâm trạng như thế, với những ý nghĩ như thế thì không thể
nào sống được...
- À ra thế! - Rôstsin thốt lên, vẻ hăm dọa
- Xin có lời mừng cô...
- Vađim ạ, anh chưa bao giờ hỏi em, mà em
cũng không hề đòi anh phải hỏi, em không hề can thiệp vào công việc của anh...
Em tin anh. Nhưng anh Vađim yêu dấu của em, anh phải hiểu rằng anh đang có những
ý nghĩ sai trái. Đã từ lâu, từ lâu lắm. em muốn nói với anh... Cần phải làm một
cái gì khác hẳn... Chứ không phải là cái việc mà anh định làm khi lên đường đến
đây... Trước hết phải hiểu đã... Rồi sau đó, nếu anh tin chắc là mình hiểu đúng
(tuy đã buông tay xuống, trong cơn xúc động dữ dội nàng vẫn vặn hai bàn tay vào
nhau ở dưới bàn). Nếu anh tin chắc là lương tâm anh cho phép anh làm như vậy,
anh hãy đi mà chém giết...
- Katya! - Rôstsin gầm lên một tiếng hằn học
như vừa bị đánh. - Anh xin em im ngay đi cho.
- Không!... Em nói thế là vì em yêu anh vô
cùng... Anh không được làm kẻ sát nhân, không được, không được...
Tyôtkin, không dám bênh nàng mà cũng chẳng
dám bênh chàng, cứ thì thào nhắc đi nhắc lại:
- Kìa hai bạn, hai bạn, chúng mình hãy nói
chuyện bình tĩnh, rồi chúng mình sẽ thỏa thuận được với nhau thôi...
Nhưng đến đây không còn cách gì thỏa thuận
được với nhau nữa rồi. Tất cả những gì u uất đang cháy âm ỉ trong lòng Rôstsin
từ mấy tháng nay, bây giờ đã nổ tung ra thành một nỗi căm hờn điên rồ. Đứng ở
ngưỡng cửa, cổ vươn ra, môi hé mở để lộ hai hàm răng nghiến chặt, chàng hầm hầm
nhìn Katya.
- Tôi căm thù cô, - chàng rít qua kẽ răng.
- Cô đem cái tình yêu ấy đi đâu thì đi cho khuất mắt tôi... Cô sẽ tìm được một
thằng Do thái... một thằng bolsêvik nào đấy... Đi đi!...
Từ cổ chàng phát ra một âm thanh ấm ức đau
đớn, hệt như hôm nào ở trên toa xe lửa. Có thể ngở chừng chàng sắp nổ bùng ra,
gây một tai họa gì khủng khiếp... (thậm chí Tyôtkin còn bất giác nhích tới để
che đỡ cho Katya). Nhưng Rôstsin từ từ nhắm mắt lại, rồi đi ra...
* * *
Xêmiôn Kraxilnikôv ngồi trên giường bệnh xá
nghe ông anh nói chuyện, vẻ mặt lầm lì. Những món quà của Matriôna gửi tới - miếng
thịt mỡ ướp, con gà, mấy chiếc bánh rán nhân thịt - được bày ở chân giường,
Xêmiôn chẳng buồn nhìn tới. Anh ta gầy lắm, sắc mặt bủng beo, râu ria không cạo,
mái tóc vì nằm lâu đã xẹp hẳn xuống, đôi ống quần lót bằng vải trúc bâu vàng phủ
lên một đôi ống chân khẳng khiu. Anh cầm một quả trứng đỏ tẩn mẩn chuyển từ tay
này sang tay kia. Alekxêy, ông anh ruột của Xêmiôn, nước da rám nắng, bộ râu
vàng óng, ngồi trên một chiếc ghế đẩu, hai chân đi đôi ủng hạng tốt chạng ra
hai bên, ăn nói dịu dàng rất dễ nghe, nhưng anh ta nói bao nhiêu thì lòng
Xêmiôn lại thấy xa lạ ngỡ ngàng bấy nhiêu.
- Đường lối nông dân đi một đàng, đường lối
công nhân đi một nẻo, chú nó ạ. - Alekxêy nói. - Ở chỗ ta, trong khu mỏ
Glubôki, công nhân xuống hầm: mỏ bị ngập, máy không chạy, kỹ sư thì trốn hết.
Thế nhưng phải có cái ăn chứ, có phải không nào? Thế là bao nhiêu công nhân đều
vào Hồng quân sạch. Có nghĩa là quyền lợi của họ ở như đào sâu cách mạng. Có phải
không nào? Còn như cách mạng của cánh nông dân ta chung quy là sáu thước đất mầu.
Đào sâu của ta là cày, gieo, gặt. Anh nói có đúng không nào? Chúng mình đi đánh
nhau cả, thì lấy ai mà làm ruộng? Đàn bà chắc? Đàn bà thì lo được cho gia súc
cũng đã là phúc rồi. Thế mà đất thì ưa “cần”, nó phải được chăm chút tử tế. Thế
đấy chú nó ạ. Ta về đi; ăn cơm nhà, chú nó sẽ chóng khỏe hơn. Bây giờ nhà ta có
đất rồi. Nhưng lại thiếu người: nào bừa, nào gieo, - một mình anh với Matriôna
làm sao xuể? Lợn nhà bây giờ mười tám con. Đang tính chuyện tậu thêm con bò cái
nữa. Bao nhiêu việc ấy đều cần có người làm cả.
Alekxêy rút trong túi áo ca-pốt ra một gói
thuốc lá mộc. Xêmiôn lắc đầu ra hiệu không hút: “Ngực hãy còn đau”. Trong khi
tiếp tục khuyên nhủ em về làng, Alekxêy lục lọi mấy món quà, lấy ra một chiếc
bánh rán tròn trĩnh, nắn nắn rồi nói:
- Ăn đi chú, chỉ tính riêng bơ thôi
Matriôna đã tống vào đây vài lạng rồi.
- Nó thế này, anh Alekxêy Ivanôvits ạ, - Xêmiôn
nói, - em cũng chẳng biết trả lời anh như thế nào bây giờ. Về nhà ở cho đến khi
vết thương khỏi hẳn thì tội gì em chẳng về, lại còn mừng nữa ấy chứ. Nhưng bây
giờ em chẳng ở lại làm ruộng được đâu, anh đừng trông mong gì vào em.
- Thế cơ đấy. Nhưng cho anh hỏi tí: tại
sao?
- Em không thể ở lại nhà được, Aliôsa ạ...
(Miệng Xêmiôn mếu xệch đi, nhưng rồi anh cố tự chủ được). Anh hiểu cho em, em
không thể thế được. Em không thể quên vết thương của em được... Em không thể
quên cảnh chúng nó tàn sát, hành hạ các bạn đồng ngũ của em được... (Anh quay mặt
ra cửa sổ, miệng lại mếu xệch đi như ban nãy, mắt nhìn trừng trừng, ánh lên một
tia lửa hằn học). Anh phải tự đặt mình vào địa vị của em... Trong tâm khảm em
chỉ có một ước mộng: phải làm thế nào cho cái lũ rắn độc ấy... (anh lẩm bẩm mấy
tiếng gì không rõ, đoạn lại nói to lên, tay bóp chặt quả trứng đỏ). Em không thể
nào nguôi được... Chừng nào mà quân chó má ấy vẫn còn uống máu chúng ta... thì
em không ngồi yên được!
Alekxêy Ivanôvits lắc đầu. Anh ta nhổ một
bãi nước bọt, bóp tắt mẩu thuốc lá, nhìn quanh tìm chỗ rồi vứt nó xuống gầm giường.
- Thôi được, Xêmiôn ạ, đó là việc của chú
nó, anh phải coi trọng... Thế thì cứ về nhà mà tĩnh dưỡng. Rồi anh không ép uổng
chú nó đâu.
Alekxêy Kraxilnikôv vừa ra khỏi bệnh xá thì
gặp ngay một người đồng hương tên là Ignat, mới ở mặt trận về. Hai người đứng lại
chào hỏi nhau một lát. Ignat cho biết rằng mình hiện lái xe cho ủy ban hành
chính.
- Ta đến rạp “Xolêyl” đi, - Ignat nói, - rồi
về nhà tôi ngủ. Hôm nay ở đấy họ sẽ đấu nhau một phen kịch liệt đây. Anh có
nghe nói đến chính ủy Broinitxki chứ? Ấy, không biết hôm nay ông ta sẽ xoay sở
ra sao đây? “Quân” của ông ta quá quắt lắm: cả thành phố kêu váng lên. Chiều
hôm qua ở góc phố đằng kia có hai thằng học trò nhỏ bị chúng nó giết chết: tự
dưng vô cớ chúng nó tuốt gươm xông vào chém hai thằng bé. Lúc ấy tôi đang đứng
cạnh cái trụ kia. Trông thấy mà lộn cả gan ruột lên.
Đang dở câu chuyện, họ đã đến rạp chiếu
bóng “Xolêyl”. Trong rạp đông nghịt. Hai người chen một lúc thì vào được sát chỗ
dành cho dàn nhạc. Trên cái sân khấu nhỏ, trước bàn của chủ tịch đoàn (gồm có một
bà mặt tròn mặc áo ca-pốt nhà binh, một người lính lầm lì đầu quấn băng bẩn, một
ông già khô đét đeo mục kỉnh và hai người thanh niên mặc áo sơ mi cổ chui của bộ
đội), một người dáng hơi gù, mặt tái xanh, mái tóc đen rất rậm, đang bước từng
bước ngắn và mau đi đi lại lại như con thú bị nhốt trong chuồng. Ông ta vừa nói
vừa giơ nắm tay yếu ớt lên làm một cử chỉ lặp đi lặp lại đều đều như đánh nhịp,
tay kia thì nắm một tập những mảnh giấy in cắt ở các báo ra.
Ignat rỉ tai Kraxilnikôv:
- Một ông giáo, có chân trong xô-viết đấy...
- ...Chúng ta không thể làm thinh... Chúng
ta không được làm thinh... Thử hỏi chính quyền trong thành phố này có phải là
chính quyền xô-viết mà các đồng chí đã đấu tranh để thiết lập nên không?... Ở
đây chỉ có sự lộng hành thống trị... Một chế độ cường bạo còn tệ hơn cả chế độ
Sa hoàng... Người ta xông bừa vào nhà dân lành... Đến chập tối là không ai dám
ra phố nữa... người ta lột áo, người ta cướp của... người ta giết trẻ em ngay
giữa phố... Tôi đã nói chuyện này với ủy ban hành chính, tôi cũng đã nói với ủy
ban cách mạng... Họ đều bất lực... Ông ủy viên quân sự đang dùng quyền lực vô hạn
của mình để bao che tất cả những tội ác này... Các đồng chí!... (Ông ta lập cập
giơ nắm giấy in lên đập vào ngực). Tại sao họ giết trẻ con? Các người có bắn
chúng tôi thì bắn đi... Chứ sao các người lại đi giết trẻ con?
Mấy tiếng sau cùng của ông giáo bị tiếng
xôn xao xúc động nổi lên khắp căn phòng át đi. Ai nấy đều đưa mắt sợ sệt và
khích động nhìn nhau. Diễn giả ngồi xuống cạnh bàn chủ tịch đoàn đưa nắm giấy
in lên che gương mặt nhăn nheo. Người lính băng đầu đang giữ quyền chủ tọa
ngoái cổ nhìn vào hậu trường:
- Xin mời đồng chí Trifônôv, đội trưởng đội
Xích vệ, phát biểu.
Tiếng vỗ tay vang khắp phòng họp. Cử tọa
giơ cao hai tay lên mà vỗ. Từ cuối phòng có mấy giọng phụ nữ gọi to: “Yêu cầu đồng
chí Trifônôv phát biểu!”. Một giọng trầm vang lên ồ ồ: “Trifônôv đi!”. Bấy giờ
Alekxêy kraxilnikôv để ý thấy bên cái vành bán nguyệt dành cho dàn nhạc có một
người nãy giờ đứng quay lưng về phía cử tọa, và đến đây bỗng bật thẳng người
lên như cái lò xo, quay hẳn mặt về phía những người đang hò hét. Đó là một người
cao dong dỏng, mặc chiếc áo va-rơi da rất diện có hai dây đai của sĩ quan nịt
chéo trước ngực. Đôi mắt lồi nhàn nhạt màu thép của hắn ngạo nghễ, lạnh lùng lướt
qua từng gương mặt, và hắn nhìn đến đâu thì ở chỗ ấy lập tức thấy người ta bỏ
tay xuống, rụt đầu lại và thôi vỗ tay. Có một người cúi lom khom bước vội ra cửa.
Người có đôi mắt màu thép mỉm cười khinh bỉ.
Bằng một động tác gọn ghẽ, hắn nắn lại bao súng. Hắn có một gương mặt dài dài,
cạo rất nhẵn, trông như mặt kép hát. Hắn lại quay về phía sân khấu, tựa hai khuỷu
tay lên dãy lan can bao quanh chỗ ngồi của dàn nhạc.
Ignat huých vào sườn Kraxilnikôv.
- Broinitxki đấy. Cậu ạ, ông ta mới nhìn một
cái mình đã thấy sợ rồi.
Từ trong hậu trường, đội trưởng Xích vệ
Trifônôv bước ra, đôi ủng nặng nện thình thình trên sân khấu. Ống tay áo va-rơi
vải bông của ông ta có đeo một dải băng đỏ. Ông cầm trong tay một cái mũ lưỡi
trai, cũng có đính băng đỏ trên vành. Dáng ông ta chắc nịch, điềm tĩnh. Ông
thong thả bước ra mép ngoài sân khấu. Lớp da đầu cạo trọc màu xanh xám nhích
nhích. Bóng rợp từ vành lông mày hất xuống che kín đôi mắt. Ông giơ tay lên
(trong phòng im ắng hẳn đi) và đưa lòng bàn tay khum khum chỉ về phía
Broinitxki đang đứng ở bên dưới.
- Thưa các đồng chí, hiện đồng chí
Broinitxki, ủy viên quân sự, có mặt ở đây. Như thế rất tốt. Đồng chí ấy hãy trả
lời câu hỏi của chúng ta. Còn nếu đồng chí ấy không muốn, chúng ta sẽ bắt đồng
chí ấy trả lời...
- À, à! - Broinitski nói, giọng hăm dọa.
- Phải, chúng ta sẽ có cách. Chúng ta là
chính quyền công nông, đồng chí ấy có bổn phận phục tòng chính quyền ấy. Các đồng
chí ạ, trong tình hình hiện nay, khó lòng có thể phân biệt ngay được phải trái
trong mọi vấn đề... Thời buổi đang rối ren lắm... Và như ai nấy đều biết, rác
rưởi bao giờ cũng nổi lên trên.... Cho nên có thể khẳng định rằng có những hạng
ký sinh đang bám vào cách mạng để làm bậy...
- Nghĩa là thế nào?... Thì cứ nói rõ tên
ra, nói rõ tên ra nào. - Broinixki quát lên, giọng Ba-lan rất nặng.
- Cứ yên trí, rồi đâu sẽ có đấy cả, vội
gì?... Các đồng chí, nhờ những nỗ lực của công nhân và nông dân đã sẵn sàng hy
sinh xương máu, chúng ta đã quét sạch lũ bạch vệ ra khỏi thành phố Rôxtôv...
Chính quyền Xô-viết đã đứng vững trên vùng sông Đôn. Vậy thì tại sao khắp nơi đều
vang lên những lời phản kháng? Công nhân dấy động, hồng quân bất bình... Các
đoàn tàu chở binh sĩ nổi loạn; tại sao các người bắt chúng tôi chết mục trên
các tuyến đường sắt?... Vừa rồi chúng ta đã được nghe một đại diện của giới trí
thức phát biểu (bàn tay khum khum đưa về phía diễn giả ban nãy). Vậy thì tình
trạng ấy do đâu mà có? Cứ như thể mọi người đếu bất mãn với chính quyền xô-viết.
Ai mà chẳng muốn hỏi: tại sao các người lại cướp bóc, tại sao các người lại say
rượu, tại sao các người lại giết trẻ con? Diễn giả phát biểu trước tôi thậm chí
còn đề nghị được đem ra xử bắn nữa (Đôi ba chỗ có tiếng cười và vài tiếng vỗ
tay lác đác). Thưa các đồng chí! Chính quyền xô-viết không cướp bóc và không giết
trẻ con. Thế nhưng có những hạng vô lại đủ cỡ bám vào chính quyền xô-viết để cướp
của và giết người... Làm như vậy, chúng phá hoại lòng tin của nhân dân đối với
chính quyền xô-viết, và do đó chúng cung cấp cho những kẻ thù của chúng ta một
vũ khí tàn khốc... (Một khoảng trống. Trong phòng im phăng phắc, đến hơi thở của
hàng trăm con người cũng không hề nghe thấy). Cho nên tôi muốn hỏi đồng chí
Broinixki một câu... Đồng chí ấy có biết vụ giết hai em học sinh chiều qua
không?
Một giọng băng giá từ phía dưới đưa lên:
- Có, có biết.
- Tốt lắm. Thế đồng chí ấy có biết những vụ
cướp đêm, biết những cuộc chè chén ở khách sạn “Palax” không? Có biết những của
cải bị trưng dụng lọt vào tay ai không? Đồng chí làm thinh à, đồng chí
Broinitxki? Chẳng biết trả lời thế nào bây giờ, đồng chí nhỉ. Của trưng dụng đều
được một lũ kẻ cướp bán đi lấy tiền uống rượu hết rồi... (Trong phòng nhao nhao
lên. Trifônôv giơ tay). Và chúng tôi còn được biết thêm những chuyện sau đây nữa.
Không hề có ai trao quyền cho đồng chí ở Rôvtôv cả, công lệnh của đồng chí là
công lệnh giả, và những câu khoe khoang của đồng chí nói là có liên lạc với
Moxkva và nhất là với đồng chí Lê-nin là những câu nói dối trâng tráo...
Bấy giờ Broinitxki đứng rất thẳng. Gương mặt
đẹp trai của hắn tái mét đi và giật giật từng đợt. Đột nhiên hắn đâm bổ sang một
bên, nơi có anh lính hồng quân trẻ măng có bộ tóc vàng nhạt đang đứng há mồm
ra, túm lấy áo ca-pốt anh ta và chỉ lên Trifônôv quát lớn, giọng nghe mà sởn
gáy:
- Bắn chết thằng khốn nạn kia đi!
Mặt anh lính trẻ biến dạng đi một cách kỳ dị.
Anh ta lấy khẩu súng đeo sau lưng. Trifônôv đứng im không nhúc nhích, hai chân
chạng ra, chỉ có cái đầu cúi xuống như con bò tót. Từ bên cánh gà, một anh công
nhân nhảy ra đứng bên cạnh Trifônôv, tay hấp tấp lên quy lát, rồi lập tức lại
có thêm một người nữa, rồi một người thứ ba, và nhoáng một cái khắp sân khấu đã
đen kịt những áo va-rơi, áo bêkes, áo ca-pốt, những lưỡi lê chạm vào nhau lách
cách. Bấy giờ chủ tọa đứng lên trên chiếc ghế, rồi vừa nắn lại dải băng tụt xuống
mắt vừa cất cái giọng khàn khàn lên nói:
- Yêu cầu các đồng chí chớ hoảng hốt, không
hề xảy ra một việc gì bất ngờ cả. Phía sau kia, yêu cầu đóng các cửa lại. Đồng
chí Trifônôv được bảo vệ an toàn tuyệt đối. Bây giờ mời đồng chí Broinitxki trả
lời.
Nhưng Broinitxki đã biến đi đằng nào không
rõ. Chỉ còn anh lính tóc vàng cầm súng đứng bên chỗ ngồi của dàn nhạc, mồm há hốc
ra vì sửng sốt.
3
Trước thôn Kôrênevxkaia. Quân đoàn tình
nguyện đã gặp phải một sức kháng cự rất đáng gờm. Tuy vậy, nó vẫn chiếm được
cái thôn cô-dắc này với những tổn thất nặng nề, và đến đây cái tin mà người ta
sợ nhất đời, đã được xác nhận: cách đây mấy hôm thành phố Êkatêrinôđar, thủ phủ
vùng Kuban - tức là mục tiêu của cuộc hành quân, là nơi nghỉ ngơi mà mọi ngưởi
đang mong ước, và là căn cứ của những chiến dịch sau này - đã đầu hàng bọn
bolsêvik mà không hề nổ súng. Đội quân tình nguyện Kuban do Pôkrôvxki chỉ huy,
thủ lĩnh vùng Kuban và hội đồng Rađa đều đã tẩu thoát đi đằng nào hết. Thế là
cách mục tiêu ba ngày đường, đột nhiên quân đoàn đã lâm vào thế bí.
Niềm hy vọng sẽ được vùng Kuban đón tiếp niềm
nở cũng tỏ ra vô căn cứ nốt, bọn cô-dắc hình như đã quyết định tự mình tìm hiểu
lấy tình hình, không cần đến sự giúp dỡ của bọn “ca-đê”. Trên đường hành quân của
Quân đoàn tình nguyện, các ấp trại đều bị bỏ trống, qua mỗi làng đều có thể bị
phục kích, trên mỗi đỉnh đồi đều có một khẩu súng máy rình sẵn. Bây giờ Quân
đoàn tình nguyện có thể trông mong vào đâu? Liệu có thể mong rằng dân cô-dắc
vùng Kuban - vốn là người gốc gác ở Ukrain - hay dân Tserkex, vẫn còn nhớ mối
thù lâu đời đối với người Nga, hay những đơn vị của quân đoàn Kavkaz bị mắc nghẽn
trên đường sắt đã nằm lì lại trên đất Kuban trù phú - liệu có thể mong rằng những
phần tử đó đột nhiên hòa giọng với đám sĩ quan đeo lon vàng và đám Junker măng
sữa mà hát lên: “Vì Kornilôv, vì tổ quốc, vì đức tin, ta hãy đồng thanh hô ura”
không? Dù sao thì đó cũng là cái công thức duy nhất mà Quân đoàn tình nguyện có
thể đưa ra trước các thôn ấp cô-dắc trù phú đang chột dạ đề phòng (“Có lẽ đã đến
lúc tuyên bố thành lập một nền cộng hòa độc lập của ta, của dân cô-dắc chăng?”)
cũng như trước đám dân tứ xứ đã tập họp lại dưới ngọn cờ đỏ để chiến đấu cho
quyền bình đẳng được cày bừa và đánh cá trên các đất đai và sông hồ vùng Kuban
và vùng sông Đôn, chiến đấu để thành lập các xô-viết thôn ấp...
Quả tình, trong đoàn xe tải đi theo đạo
quân có một cán bộ tuyên truyền rất nổi tiếng là thủy thủ Fiôđor Batkin, một
người đi chân vòng kiềng, nước da đen đủi, mặc áo va-rơi cài chéo và đội mũ
lính thủy có đính vải lụa Thánh Ghêorghi. Đã nhiều lần các sĩ quan tìm cách bắn
chết hắn trong đoàn xe tải vì lẽ hắn là một thằng Do-thái và là một thằng
bolsêvik chó đẻ. Nhưng bản thân Kornilôv đã bao che cho hắn, nghĩ rằng tên thủy
thủ nổi tiếng này có thể bù đắp một cách trọn vẹn tất cả những lỗ hổng của quân
đoàn về phương diện tư tưởng. Mỗi khi quan tổng tư lệnh cần nói chuyện với nhân
dân (trong các thôn cô-dắc), ngài đều cho Batkin ra nói trước. Batkin liền chứng
minh một cách tài tình cho dân làng thấy rằng Kornilôv là người bảo vệ cách mạng,
còn bọn bolsêvik thì ngược lại, chính là những tên phản cách mạng đã bị quân Đức
mua chuộc.
Quân đoàn không thể đầu hàng được: hồi ấy
không có lệ bắt sống tù binh. Phân tán đi thì sẽ bị tỉa lẻ. Đã có cả một kế hoạch
mở con đường máu qua các thảo nguyên Axtrakhan chạy ra sông Volga và rút về
Xibêri. Nhưng Kornilôv khăng khăng một mực chủ trương tiếp tục hành quân về
Êkatêrinôđar và dùng xung kích đánh chiếm thành phố. Từ Kirênevxkaia quân đoàn
đi ngoặt về phía nam, và sau những trận đánh ác liệt ở cạnh làng Uxt Labinxkaia,
đã vượt qua sông Kuban đang mùa lũ nước cuộn lên dữ dội. Đoàn quân đi không nghỉ
chân, kéo theo một đoàn xe chở rất nhiều thương binh, tuy vậy nó vẫn rất đáng sợ,
và mỗi lần bị tập kích, nó đánh trả những đòn đau đến nỗi lần nào vòng vây của
quân đỏ cũng đều phải đứt ra để cho nó đi qua.
Đoàn quân tiến về phía Maikôp để đánh lạc
hướng quân địch, rồi đến làng Philippôvxkaia, nó lại vượt qua sông Bêlaia và đột
ngột quay ngoắt về phía tây, tiến vào hậu phương Êkatêrinôđar. Ở đây, phía sau
sông Bêlaia, trong một khe núi hẹp, nó đã bị một lực lượng hồng quân rất lớn chặn
đánh. Tình thế đã có vẻ tuyệt vọng. Thương binh nhẹ chở trong đoàn xe đều được
phát súng... Trận chiến đấu kéo dài suốt ngày hôm ấy. Quân đỏ từ các cao điểm
nã đại bác xuống và quét đại liên vào những điểm xung yếu, vào đoàn xe tải, làm
cho lính xạ kích không ngóc đầu lên được. Nhưng đến chập tối, khi những đơn vị
tình nguyện xơ xác tuyệt vọng tiến lên phản công một đợt cuối cùng nữa, quân đỏ
rút bỏ các cao điểm và để cho đạo quân của Korlinôv đi về phía tây. Lần này đã
lại diễn ra cái điều vẫn diễn ra trước đây: kinh nghiệm quân sự, và cái ý thức
cho rằng kết quả trận đánh quyết định sự sống còn của mình, đã giành phần thắng.
Suốt đêm hôm ấy, các làng cô-dắc ở xung
quanh bốc cháy ngùn ngụt. Thời tiết xấu hẳn đi, gió bấc thổi mạnh. Trời phủ đầy
những đám mây dày đặc. Mưa bắt đầu đổ hột, rồi cứ thế trút xuống rào rào suốt
đêm. Ngày mười lăm tháng ba đoàn quân đang tiến về phía Nôvô-Đmitrôvxkaia thì
thấy trải ra trước mặt một khoảng rộng mênh mông ngập nước và bùn nhão. Những
đám gò thưa thớt đầy rãnh bánh xe đều mất hút trong đám sương mù bay là là sát
đất. Quân lính lội bì bõm trong bùn, nước ngập đến đầu gối, xe giàn và đại bác
lún đến trục bánh xe. Những bông tuyết ướt át đổ xuống, và trời bắt đầu nổi một
trận bão tuyết dữ dội chưa từng thấy.
* * *
Rôstsin bước ra khỏi toa chở hàng, xốc lại
khẩu súng trường và túi đựng đồ đeo sau lưng. Chàng đưa mắt nhìn quanh. Trên
các đường ray nhộn nhịp những toán lính của trung đoàn Varnavxki... Ở đây lẫn lộn
những áo ca-pốt, áo khoác ngắn bằng da cừu, áo măng tô thành thị nịt bằng dây
gai. Nhiều người khoác băng đạn súng máy, đeo lựu đạn, súng lục. Người thì đội
mũ lưỡi trai, người thì đội mũ chụp lông, có người lại đội mũ dạ tròn tước được
của một gã đầu cơ nào đấy. Bùn nhão bị giẫm be bét dưới những đôi ủng rách, những
đôi giày nỉ cao ống, những đôi chân quấn giẻ. Lưỡi lê chạm vào nhau lách cách.
Có mấy người quát: “Nhanh lên các cậu, đến mà họp mít-tinh! Ta sẽ tự giải quyết
lấy! Họ đưa chúng mình vào lò sát sinh nhiều quá rồi!”.
Sở dĩ có tình trạng khích động này là vì những
tìn đồn, cũng khuếch đại như mọi tin đồn khác - về cuộc bại trận của các đơn vị
đỏ ở cạnh làng Philippôvxkaia. Họ quát tháo: “Kornilôv có năm vạn thằng ca-đê,
thế mà người ta lại đưa một trung đoàn đơn độc đến cho nó thịt... Có kẻ làm phản
anh em ạ! Lôi cổ thằng chỉ huy ra đây!”
Binh sĩ chạy dồn vào sân ga ăn liền với
cánh thảo nguyên chìm trong làn mưa mù mịt. Trên các toa chở hàng, những cánh cửa
nặng bị xô ầm ầm, và từ trên toa nhảy xuống những con người hoang dã cầm súng
trường chạy tới chỗ có một đám đông đứng dưới làn gió đang rít lên từng hồi
trong những rặng phong dương hình chóp hãy còn trụi lá, xung quanh có những đàn
quạ vừa lượn vòng vừa kêu quang quác. Các diễn giả leo lên cái nắp hầm ướp lạnh
đắp bằng đất đỏ, khua khua nắm tay trước mặt quát lên: “Các đồng chí, tại sao
những toán giặc Kornilôv lại đánh bại được quân ta?... Tại sao người ta lại để
cho bọn ca-đê tiến đến Êkatêrinôđar?... Kế hoạch ở đây như thế nào?... Cấp chỉ
huy hãy trả lời đi xem!”.
Hàng ngàn người thét lên: “Trả lời đi!”, tiếng
thét mạnh đến nỗi bầy quạ hốt hoảng bay vút lên cao. Đứng trên ngưỡng cửa ga.
Rôstsin trông thấy cái mũ lưỡi trai nhàu nát của viên chỉ huy len lỏi giữa đám
đầu người nhấp nhô đi về phía nắp hầm đất cỏ: khuôn mặt xương xương cạo nhẵn,
nước da tai tái, với đôi mắt nhìn trân trân về một phía, trông rất cương nghị.
Rôstsin nhận ra một người quen cũ: Xerghêy Xerghêyêvits Xapôjkôv.
Hồi trước chiến tranh, Xapôjkôv đã từng đại
diện cho nhóm “những con người của tương lai” lên diễn đàn đập phá tan tành nền
luân lý cũ. Anh ta thường xuất hiện trong những buổi họp mặt của giới trưởng giả,
với những hình vẽ hấp dẫn trên má, mình mặc chiếc áo đuôi tôm bằng vải trúc bâu
nhuộm một màu xanh lá cây tươi rói. Đến thời chiến tranh anh ta tình nguyện
xung vào kỵ binh, và đã khét tiếng là một tay trinh sát liều lĩnh và là một anh
chàng hay gây sự đánh nhau. Anh ta được nhận hàm thiếu úy. Vào đầu năm 1917, đột
nhiên anh bị bắt đưa về Pêtrograđ và bị tuyên án xử bắn vì tham gia một tổ chức
bí mật. Được cuộc cách mạng tháng hai giải phóng, anh tham gia xô-viết binh sĩ
với tư cách đại biểu của nhóm vô chính phủ. Sau đó anh ta mất hút đi đâu một thời
gian rồi đến tháng mười lại thấy anh xuất hiện trong trận chiếm Cung điện Mùa
đông. Anh ta là một trong những sĩ quan chính quy đầu tiên sung vào Hồng quân.
Bây giờ anh ta trầy trật leo lên nắp hầm,
chân trượt lên lớp cỏ, rồi, vừa rướn cổ lên vừa chúc cằm xuống làm cho lớp da
dưới cằm gấp nếp lại, anh ta đút hai ngón tay cái vào thắt lưng, đưa mắt qua
hàng ngàn cái đầu đang ngẩng lên phía mình.
- Các anh muốn biết vì sao bọn chó đểu đeo
lon vàng lại đánh các anh thua liểng xiểng phải không, hả cái lũ quỷ to mồm
kia? Thế thì đây: chính vì cái thói kêu la inh ỏi và làm ăn bậy bạ của các anh
chứ còn vì sao nữa. - Xapôjkôv nói, giọng ngạo nghễ và không lấy gì là to lắm,
nhưng đủ cho cả đám lính đều nghe rõ. - Các anh không chịu nghe lệnh của tổng
chỉ huy, động một tí là các anh sủa nhắng lên, nhưng thế vẫn chưa đủ... Bây giờ
mới biết là trong bọn các anh lại có cả những kẻ hoảng loạn nữa!... Ai bảo các
anh là quân ta bị đánh bại ở Philippôvxkaia? Ai bảo với các anh là có kẻ phản
trắc để cho Kornilôv tiến quân đến Êkatêrinêđar? Anh phải không? (Xapôjkôv
nhanh nhẹn rút khẩu súng lục ra chỉ vào một người nào đó trong đám binh sĩ đứng
ở phía dưới). Nào, leo lên đây, ta nói chuyên... À, không phải anh hả...
(Xapôjkôv miễn cưỡng đút súng vào túi). Các anh tưởng tôi là thằng ngu, thằng
con nuông chỉ biết làm nũng mẹ, cho nên không hiểu tại sao các anh sủa nhắng
lên thế phỏng?... Các anh có muốn tôi nói rõ là tại sao không? Kia kìa, Feđka
Ivôlghin là một, Pavlenkôv là hai, Têrenti Đulya là ba, có điện trực tiếp báo
cáo cho biết là ở ga Afipxkaia có mấy toa xi-téc chở đầy rượu... (Có tiếng cười
rộ, Rôstsin cười gằn một mình, miệng méo xệch: “Hắn gỡ được rồi, cái thằng đểu,
cái thằng hề chết tiệt ấy”). Thôi thế là rõ: các cậu ấy anh dũng lao vào chiến
đấu. Rõ ràng tổng chỉ huy là tên phản bội rồi: nhỡ mấy toa xi-téc lọt vào tay bọn
sĩ quan của Kornilôv, thì có phải là tai hại cho nền cộng hòa xô viết không...
(Đám binh sĩ cười phá lên. Lũ quạ lại bay tán loạn). Như vậy, chuyện này tôi
coi như đã thanh toán xong, các đồng chí ạ... Bây giờ tôi đọc các đồng chí nghe
bản thông báo chiến sự mới nhất.
Xapôjkôv rút ra một tập giấy và bắt đầu đọc
to lên, Rôstsin quay lại, đi qua nhà ga ra thềm, và ngồi xuống một chiếc ghế
dài đã gãy, lấy gói thuốc lá mộc ra quấn một điếu. Cách đây một tuần chàng đã
dùng những giấy tờ giả mạo đăng ký vào một đoàn hồng quân đi tàu ra mặt trận.
Chàng và Katya đã tạm thu xếp được với nhau. Sau cuộc nói chuyện khổ tâm trong
bữa trà ở nhà Tyôtkin, Rôstsin đi lang thang suốt ngày trong thành phố, đến đêm
mới về. Tránh nhìn vào mặt Katya để khỏi tỏ ra yếu đuối, chàng nói, giọng
nghiêm khắc:
- Em sẽ ở đây một vài tháng gì đấy, cũng
chưa biết trước được... Em với ông ta chắc là chính kiến hợp nhau lắm rồi... Hễ
có dịp là anh sẽ trả tiền trọ cho ông ta. Nhưng anh tha thiết yêu cầu em nói
cho ông ta biết ngay từ bây giờ rằng ông ta không phải nuôi không em đâu, anh
không muốn chịu ơn ai hết... Thế đấy, còn anh thì sẽ đi biệt trong một thời
gian.
Katya hỏi khẽ, đôi môi chỉ hơi mấp máy:
- Ra mặt trận à?
- Em ạ, điều đó chỉ có liên quan đến mỗi một
mình anh thôi.
Tình cảnh Katya thật chẳng ổn một chút nào.
Mùa hè năm ngoái, sau một ngày tháng bảy, trên dải bờ xây, trước mặt dòng sông
Nêva phẳng như gương in bóng những đường cong của các nhịp cầu và dãy cột trên
đảo Vaxilievxki, vào cái ngày nắng sáng đã lùi xa vào dĩ vãng ấy, Katya ngồi
bên mé nước, trên một chiếc ghế đá hoa cương, và Rôstsin đã nói với nàng: “Những cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt, những cuộc
cách mạng sẽ qua đi, những quốc gia sẽ tiêu vong, và chỉ còn lại tấm lòng em
ngàn đời bất diệt...”. Thế mà nay họ đã chia tay nhau như hai kẻ thù trên một
góc sân lầy lội... Katya có tội tình gì mà phải chịu một kết cục như vậy?... “Nhưng
trong khi cả nước Nga đang diệt vong thì điều đó có nghĩa lý quái gì?”.
Dự định của Rôstsin rất đơn giản: trà trộn
vào một đơn vị hồng quân đi tới khu vực đang đánh nhau với quân đoàn tình nguyện
và hễ có cơ hội là trốn sang hàng ngũ bạch quân. Trong quân đoàn chàng có quen
riêng tướng Markôv và đại tá Nêjentxev. Chàng có thể cung cấp cho họ những tài
liệu quý giá về cách bố trí và tình hình của các đơn vị đỏ. Nhưng điều chủ yếu
nhất là chàng chỉ mong sao được cảm thấy mình ở giữa những người của mình, vứt
bỏ cái mặt nạ đáng nguyền rủa này đi, thở cho thật thoải mái, và cùng với tràng
đạn chì, nhổ vào mặt cái “lũ dân ngu bị lừa bịp và lũ mọi rợ xổng dây cương” ấy
tất cả mối căm thù đang ứ đọng lại trong lòng chàng thành một cục máu đông đặc...
Một người lù đù, mình mặc chiếc áo khoác ngắn,
lông cừu độn trong lần vải thòi ra ngoài qua mấy lỗ thủng ở dưới nách và ở sau
lưng, nói với Rôstsin:
- Về cái khoản rượu chè ấy ông chỉ huy nói
đúng đấy. Chúng ta làm ồn nhiều quá. Chúng ta cứ nhặng xị cả lên, nhưng xem lại
thì thấy cần phải suy nghĩ cho kỹ mới hiểu được ra nhẽ.
Hắn ngồi ghé vào chiếc ghế Rôstsin đang ngồi,
xin dúm thuốc lá.
- Cậu ạ, tôi hút tẩu theo kiểu người già.
(Hắn quay về phía Rôstsin một khuôn mặt dạn dầy mưa gió, với bộ râu bạc màu và
đôi mắt xếch nheo nheo). Ở Nijni tôi làm công trong các nhà kho của phường
buôn, đâm quen hút tẩu từ dạo ấy. Từ năm 1914 tôi đi đánh nhau. Từ đấy không
tài nào ngừng lại được nữa. Đấy cậu xem, cũng là một chiến sĩ ra trò đấy chứ!
- Phải, cũng đã đến tuổi phải nghỉ ngơi rồi,
- Rôstsin đáp miễn cưỡng.
- Nghỉ ngơi! Nghỉ ngơi thế quái nào được? Cậu
rõ ràng là con nhà giàu. Không, tôi không rời bỏ công chuyện đánh nhau đâu. Tôi
đã khổ vì bọn tư sản quá nhiều rồi! Mười sáu tuổi đã đi làm công thế mà từ đấy
cứ làm thằng giữ kho suốt. Đến khi làm ở nhà lão lái buôn Vaxenkôv - chắc cậu
có nghe nói tới lão - tôi được thăng lên trật xà ích nhưng rồi tôi làm hỏng mất
đôi ngựa xám của lão (cho uống nước không phải cách mà); đôi ngựa tốt thật, chỉ
tại tôi làm ăn không phải cách thôi, phải nhận như thế, dĩ nhiên là họ đuổi tôi
đi. Thằng con trai tôi bị giết, vợ tôi đã chết từ lâu. Bây giờ cậu thử nói tôi
nghe: tôi nên chiến đấu cho ai, cho xô-viết hay cho tư sản? Tôi được ăn no, ủng
thì tuần trước tôi lột được đôi này của một xác chết. Kín lắm, nước không vào
được đâu, cậu xem này. Công việc của tôi là bắn súng, xung phong rồi sau đó có
thể ngồi chực bên nồi xúp. Được cái biết rõ mình khó nhọc cho công chuyện của
mình, cậu ạ. Toàn là dân nghèo khổ, dân khố rách áo ôm như người ta thường nói,
toàn những kẻ bị cái vận cơ cực nó ám suốt đời - quân đội ta là thế đấy. Còn
như hội đồng lập hiến (ở Nijini tôi đã đi xem họ bầu) thì toàn trí thức với lại
những ông già khọm.
- Ông anh ăn nói lém lỉnh nhỉ, - Rôstsin vừa
nói vừa đưa mắt nhìn trộm ông bạn bất đắc dĩ.
Tên ông ta là Kvasin. Đã một tuần nay hai
người cùng ngồi một toa xe, ngủ cạnh nhau trên giá để đồ. Trong toa họ gọi Kvasin
là “ông nội”. Hễ vớ được chỗ nào ngồi đọc được là ông ta lấy báo ra đọc ngay:
ông ta đeo lên cái mũi khô đét một cái kính cặp mũi gọng vàng và bắt đầu lẩm bẩm
đọc khe khẽ. “Cái mục kỉnh này - ông ta kể chuyện - tôi kiếm được ở Xamara,
theo biên lai đặt hàng. Người đặt hàng là lão triệu phú Baskirev. Người lĩnh
hàng lại là tôi”.
- Đúng đấy, tôi lém thật, - ông ta trả lời
Rôstsin, - tôi không bỏ qua một buổi mít-tinh nào. Mỗi lần đến ga là bao nhiêu
sắc lệnh, nghị định, chỉ thị tôi đều đọc hết. Sức mạnh của vô sản chúng ta là ở
như lời nói. Nếu cứ im thin thít, chẳng có ý thức giác ngộ gì, thì còn đáng giá
được bao nhiêu? Chỉ là cái bị thịt!
Ông ta rút một tờ báo, cẩn thận giở nó ra,
trịnh trọng đeo mục kỉnh vào và bắt đầu đọc xã luận, phát âm như thể các từ ngữ
trong bài báo viết bằng thứ tiếng gì ấy chứ không phải tiếng Nga:
“...Hãy nhớ rằng chúng ta chiến đấu vì hạnh
phúc của tất cả những người lao động và bị bóc lột, chúng ta chiến đấu để giành
quyền xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống công bằng...”.
Rôstsin quay mặt đi, chàng không nhận thấy
rằng trong khi đọc đoạn cuối, Kvasin nhìn chàng chầm chập qua vành trên đôi mục
kỉnh.
- Thôi anh chàng này đúng là con nhà giầu rồi
- Kvasin nói bằng một giọng khác hẳn, - cậu không ưa nghe những chuyện tôi đọc
chút nào. Hay cậu là gián điệp?
Đến ga Afipxkaia, trung đoàn Varnavxki xuống
tàu đi bộ đến thôn Nôvô-Đmitrôvxkaia. Trong đêm khuya tối mịt, gió thổi hun hút
trên các lưỡi lê, giật rách cả quần áo, lùa những bông tuyết to hạt, lạnh buốt
vào mặt rát như roi quất! Chân giẫm vỡ lớp tuyết giòn và mỏng, lún xuống lóp
bùn nhớp nháp. Qua tiếng gió hút vẳng lại những tiếng quát tháo: “Đứng lại! Đứng
lại! Nhẹ tay chứ! Đừng xô đồ quỷ!”.
Khí lạnh luồn qua chiếc áo ca-pốt tồi tàn,
buốt đến tận xương. Rôstsin nghĩ bụng: “Mong sao đừng ngã xuống, chúng nó giẫm
chết mất...”. Cực nhục hơn cả là những lúc phải đứng lại và nghe những tiếng
quát tháo như thế từ phía trước vẳng lại. Rõ ràng là đoàn quân đã lạc lối, đi
vu vơ ở đâu dọc một bờ vực hay một bờ ngòi gì đấy. “Anh em ơi, tôi kiệt sức rồi”,
có tiếng ai nấc lên như một lời vĩnh biệt. “Có phải Kvasin vừa kêu lên không nhỉ?
Hắn lúc nào cũng đi kè kè bên cạnh mình kia mà. Hắn đoán ra được rồi. Hắn không
tin lấy một lời nào”. Hôm qua Rôstsin chật vật lắm mới bứt được khỏi hắn.
Phía trước lại một lần nữa bị ách lại.
Rôstsin nhỡ đà đâm chúi vào một vạt lưng áo khoác cứng đét lại vì giá. Hai tay
tê cóng đút vào ống áo, đầu gục xuống, chàng đứng yên nghĩ thầm: “Thế là đã bốn
năm nay mình cố khắc phục tình trạng mệt mỏi, vượt qua hàng nghìn dặm, để đi
chém giết. Điều đó rất quan trọng và rất có ý nghĩa. Mình đã xúc phạm đến Katya
và đã ruồng bỏ nàng: điều đó có ít nghĩa lý hơn. Ngày mai hay ngày kia mình sẽ
trốn và cũng dưới một trận bão tuyết như thế này mình sẽ bắn giết những người
này, những người Nga. Kể cũng kỳ quặc. Katya vẫn nói mình là người cao quý và
nhân hậu. Kỳ quặc thật, rất kỳ quặc”.
Chàng tò mò theo dõi những ý nghĩ này. Dòng
suy tư của chàng đã đứt đoạn. “Chà, gay quá, - chàng nghĩ - ta chết cóng mất.
Những ý nghĩ quan trọng nhất, những ý nghĩ cuối cùng, đang lần lượt diễn qua
tâm trí ta. Như thế nghĩa là ta sắp nằm xuống tuyết”.
Nhưng cái lưng áo cứng đét ở trước mặt lắc
lư bước tới, Rôstsin cũng lắc lư bước theo. Hai chân đã bắt đầu lún xuống đến tận
đầu gối. Chiếc ủng nặng hàng chục cân phải ráng sức lắm mới rút được ra khỏi lớp
đất sét nhão. Gió đưa lại một mảng câu đứt đoạn: “Sông, các cậu ạ...”. Một tiếng
chửi truyền đi. Gió vẫn thổi hun hút trên các lưỡi lê, lồng vào trí óc người ta
những ý nghĩ kỳ dị. Những bóng người mờ mờ lom khom đi qua cạnh Rôstsin. Chàng
lấy hết sức rút chân lên, bật ra một tiếng kêu, rồi lại bước đi.
Dòng sông cuồn cuộn vạch thành một nét sẫm
trên tuyết, rồi mờ dần sau tấm màn dày dệt bằng những bông tuyết bay loạn xạ.
Chân cứ trượt trên bờ dốc... Dòng nước đen sẫm hung hãn lao đi. Xung quanh có
tiếng nói xôn xao:
- Cầu ngập rồi.
- Quay trở lại thôi chứ?
- Đứa nào bảo quay trở lại đấy? Mày hẳn?
Mày muốn quay lại à?
- Buông ra... Kìa đồng chí, buông ra nào.
- Cho nó một báng súng.
- Ối giời ơi! Ối giời ơi!
Ở phía dưới, sát mé nước có ánh đèn pin bật
lên. Tia sáng hình chóp soi lên nhịp cầu uốn lưng rùa ngập dưới làn nước xám chảy
băng băng, soi lên những mảnh lan can đã nứt toác ra. Ánh đèn pin chiếu ngoằn
ngoèo lên cao, rồi tắt ngấm. Một giọng khàn khàn, dễ sợ vang lên:
- Toàn trung đội... qua sông!... Súng đạn để
lên đầu. Đừng xô đẩy. Từng hai người một... Đi đi!
Tay cầm súng giơ cao lên, Rôstsin lội xuống
nước ngập đến thắt lưng. Dù sao nước cũng vẫn không lạnh bằng gió. Nó xô mạnh
vào sườn bên phải, đẩy nghiêng người đi, ra sức lôi người ta xuống cái vực thẳm
màu xám nhờ nhờ kia. Chân cứ trượt đi tuồn tuột, chỉ chạm hờ vào ván cầu gẫy gập
ghềnh.
Trung đoàn Varnavxki được điều gấp đến
Nôvô-Đmitrôvxkaia để trợ lực cho các đơn vị địa phương. Dân trong làng cô-dắc đều
ra đào hào, đắp công sự quanh trụ sở ban quản trị thôn ấp và quanh một số nhà,
đắp ụ súng máy. Trọng pháo được bố trí ở phía nam, trong làng Grigôrievxkaia.
Cũng trong khu vực ấy có trung đoàn Bắc Kavkaz thứ hai do Đmitri Jlôba chỉ huy,
đã truy kích quân đoàn tình nguyện mãi từ Rôxtôv trở đi. Chếch về phía tây, ở
Afipxkaia, có một đội trấn thủ, một đơn vị pháo và mấy đoàn tàu bọc thép. Lực
lượng của hồng quân được bố trí quá tản mạn - một điều không thể chấp nhận được
trong một tình trạng đường sá ngập ngụa như lúc bấy giờ.
Đến xế chiều có một người cô-dắc mình phủ đầy
tuyết ẩm và bùn phi qua khoảng đất trống trước mặt trụ sở ban quản trị thôn ấp.
Con ngựa dừng lại trước thềm, sườn phập phồng bốc hơi lên.
- Đồng chí chỉ huy đâu?...
Mấy người chạy ra thềm, tay vội vã cài khuy
áo ca-pốt. Xapôjkôv mặc chiếc áo khoác ngắn của kỵ binh gạt họ ra hai bên, bước
ra phía trước.
- Tôi là chỉ huy.
Thở hổn hển, người cúi rạp xuống mỏ yên,
người cô-dắc nói:
- Đồn cảnh giới bị tiêu diệt sạch. Chỉ một
mình tôi thoát được.
- Còn gì nữa không?
- Còn một điều nữa là đến đêm Kornilôv sẽ
đem toàn lực đánh vào đây. Các ông cứ yên trí như thế.
Mấy người đứng trên thềm đưa mắt nhìn nhau.
Trong số những người đứng đây có những đảng viên cộng sản phụ trách tổ chức việc
phòng thủ thôn ấp. Xapôjkôv thở phì phò, da cổ gấp nếp lại: “Tôi đã sẵn sàng,
còn các đồng chí thì sao?...”. Người cô-dắc xuống ngựa, bắt đầu kể chuyện quân
Tserkex trong lữ đoàn của tướng Erđêli đã giết sạch cả đồn canh như thế nào. Một
đám đông bộ đội, đàn bà cô-dắc, trẻ con xúm xít lại ở trước thềm, im lặng nghe
kể.
Rôstsin cũng lại gần, đầu trùm kín trong
chiếc mũ chụp đính vào áo khoác. Đêm qua chàng đã ngủ được một giấc khá đẫy và
hong khô áo quần trong một căn nhà nóng nực và hôi hám. Trong nhà còn có năm
mươi người lính hồng quân nằm ngổn ngang giữa những đống áo quần và giẻ quấn
chân vứt bừa bãi. Tảng sáng, cô chủ nhà nướng bánh mì, tự tay đem ra cắt từng
khoanh phát cho binh sĩ:
- Các anh cố lên nhé, đừng để bọn sĩ quan
vào làng chúng tôi.
Mấy người lính hồng quân trả lời cô chủ:
- Cô đừng sợ... Có chăng cũng chỉ nên sợ lấy
một điều...
Kế theo là một câu đùa tục tĩu đến nỗi cô
ta giơ khúc bánh mì lên như để dọa đánh, nói:
- Mấy cái anh trời đánh này, chết đến nơi rồi
mà trong óc vẫn chỉ có mỗi chuyện ấy.
Sau cuộc hành quân đêm qua, Rôstsin thấy mỏi
rục ra, khắp người đau ê ẩm. Nhưng chí chàng đã quyết. Từ sáng chàng đào hào
trên các ruộng rau đất đóng băng cứng như đá, rồi lại khuân các thùng đạn ở các
xe tải vào trụ sở ban quản trị thôn. Đến bữa ăn trưa họ phát cho mỗi người một
chén rượu mạnh. Uống hớp rượu nồng như lửa vào Rôstsin thấy cái cảm giác ê ẩm
khắp người tan biến đi đâu hết và chân tay lại dẻo dai trở lại. Chàng quyết định
thực hiện ý đồ ngay hôm nay, không trì hoãn nữa.
Nãy giờ chàng cứ lởn vởn ở trước thềm trụ sở
ban quản trị, đợi dịp xin được cử đến một vị trí tiền tiêu. Chàng đã dự tính hết,
cho chí đôi lon đại úy khâu vào phía trong lần ngực áo cổ chui. Cái cơ hội
chàng vẫn mong chờ đã đến. Người thủy thủ vạm vỡ đang đứng cạnh Xapôjkôv từ
trên thềm bước xuống và bắt đầu tuyển những người tình nguyện đi ra tiền tiêu
làm một công việc nguy hiểm.
- Các cậu, - hắn nói, giọng đanh như thép,
- nào, có ai không thiết sống lắm thì ra đây.
Một tiếng đồng hồ sau, cùng với một đội biệt
động gồm năm mươi người, Rôstsin rời làng cô-dắc đi ra cánh đồng bằng phủ sương
mù dày đặc. Một buổi hoàng hôn mục ruỗng đang xuống dần. Tuyết đã ngừng rơi.
Gió giật từng cơn hắt những giọt mưa nặng vào mặt. Họ cứ đi bừa giữa khoảng nước
mênh mông như đi giữa hồ, chẳng cần đường sá gì cả, về phía mấy ngọn đồi ở tiền
duyên, nơi cần phải đào thêm công sự.
Trong màn sương mai tối tăm và ướt át lóe
lên một ánh lửa sáng rực. Một tiếng súng gầm lên. Quả đạn đại bác bay qua đầu,
tiếng rú xa dần về phía sau. Và lập tức trên các sườn đồi, dọc bờ sông nổi lên
những tiếng súng trường lộn xộn. Lại một ánh lửa lóe lên, một phát đại bác nổ,
và xa xa ở phía trước, một khẩu súng máy bắt đầu gõ từng tràng trong sương mù.
Ấy là Kornilôv đang tiến đến. Những đơn vị
tiền quân của ông đã ở bên kia sông. Rôstsin mường tượng như trông thấy hai ba
bóng người lom khom chạy xuống sát mé nước, nấp vào mấy bụi cây. Trống ngực
chàng đập thình thình. Chàng nhô người ra khỏi cái hầm nhỏ đào trên đỉnh dốc bờ
sông.
Nước sông dâng rất cao, đục ngầu một màu
thiếc vàng vàng, cộng thành từng xoáy nước chảy băng băng. Ở bên trái, giữa
nòng súng có thể trông thấy nhịp cầu nước ngập hết một nửa. Từ dưới nước có khoảng
hai mươi bóng người mờ mờ leo lên cầu chạy lom khom sang bờ bên này. Tiếng súng
trường từ trên mấy sườn đồi bắn xuống sông, bắn vào cầu mỗi lúc một dồn dập và
hỗn loạn hơn. Ở một nơi nào rất gần bên kia sông lóe lên một ngọn lửa dài phụt
ra từ một nòng đại bác. Phía trên cái hầm của Rôstsin đang nấp, một quả đạn bi
nổ rất đanh. Từ bên kia gò đất những bóng người mặc áo xám và áo đen nhô lên rồi
đổ xuống sườn gò, bên này, kẻ thì chạy, người thì trượt ngửa xuống, kẻ thì lăn,
người thì ngã dúi dụi. Trên vai mỗi người đều có thể thấy rõ những chiếc lon lấp
lánh.
Lại một tiếng đại bác bắn ra, rồi một tiếng
tạc đạn nổ rất đanh ở phía trên cái hầm nhỏ “Ối, ối, anh em ơi” - một tiếng rên
rỉ kéo dài. Giữa tiếng súng nổ ùng oàng có ai hét tướng lên:
- Chúng nó đang vòng ra sau lưng ta đấy.
Các cậu ơi, rút đi!...
Rôstsin cảm thấy giây phút mong đợi đã đến
sát sườn. Chàng vội nằm sấp xuống đất, không động đậy. Chàng nghĩ, loáng
thoáng: “Không có khăn, phải xé một mảnh sơ-mi buộc lên lưỡi lê rồi nói thật to
- nhất định phải nói tiếng Pháp...”.
Bỗng có ai lao cả người rơi phịch xuống
lưng chàng, đè lên chàng nặng trịch, chộp lấy cổ chàng. Rôstsin ngoảnh lại nhìn
qua vai, thì thấy một khuôn mặt bê bết máu, một con mắt màu đỏ hung hung lồi
ra, cái miệng móm há hốc. Đó là Kvasin: lại cái lão ấy! Lão nhắc đi nhắc lại
như trong cơn mê:
- À, mày làm dấu thánh. Mày trông thấy đồng
đội rồi mà...
Rôstsin hất lão ra, đứng thẳng lên, loạng
choạng. Kvasin bấu vào vai chàng chặt cứng. Rôstsin vùng vẫy, ngã ngửa trên miệng
hầm, điên dại cắn vào cái áo hôi hám của lão. Chàng cảm thấy khuỷu tay và đầu gối
mình bắt đầu trượt trên lớp đất sét nhão. Chỉ hơn một sải tay nữa là đến bờ vực.
- Buông ra! - Rôstsin gầm lên.
Đất lở tung dưới người chàng, và cả hai người
lăn lông lốc xuống sông.
Tiếng súng đại bác vang dội khắp bốn bề, đất
rung lên từng đợt dưới những quả đạn trái phá. Những đơn vị chủ lực của Quân
đoàn tình nguyện vượt qua sông. Pháo binh đỏ ở làng Grigôrievxkaia nã vào những
đơn vị ấy. Đạn đại bác nổ khắp cánh đồng phủ tuyết, rơi xuống sông tung nước
lên thành từng cột trắng xóa.
Bộ binh bạch vệ cưỡi ngựa bơi qua sông từng
hai người một. Ngựa thấy nước chảy xiết quá ùi lại. Người ta dùng mũi lê thúc
chúng đi. Từ trên bờ dốc lầy lội, một cỗ ngựa kéo pháo phi xuống. Khẩu đại bác
nghiêng sang bên này, ngả sang bên kia, rồi chìm nghỉm dưới nước. Mấy người
đánh xe kéo pháo vụt roi tới tấp. Mấy con ngựa gầy trầy trật mãi mới kéo khẩu
pháo lên đỉnh lưng rùa giữa nhịp cầu ngập một nửa dưới nước. Hai bên cầu, những
quả đạn pháo rơi xuống nổ ầm ầm, nước sôi lên sùng sục. Ngựa cứ lồng lên, vướng
vít vào càng xe.
Mấy chiếc xe ngựa hai bánh chở đại liên lao
xuống sông, bên cạnh cầu, trôi lềnh bềnh, quay tít giữa dòng. Một chiếc lật sấp
lại và bị nước cuốn đi băng băng cùng với cỗ ngựa và mấy người bám vào hai
bánh. Từ trên không, một quả tạc đạn lao xuống cái mớ hổ lốn này, tung lên một
cột nước cao ngất xen lẫn những mảnh gỗ và những mảng thịt bị xé nát.
Trên bờ, một người thấp bé để râu cằm cưỡi
trên con ngựa nhỏ lấm bùn đang lăng xăng qua lại. Hắn mặc một chiếc áo vét bằng
vải bông nâu, đội một chiếc mũ lông trắng chụp sâu xuống tận mắt. Hắn vừa khua
cây roi da lên dọa dẫm vừa quát tháo bằng một giọng the thé, hợm hĩnh. Đó là tướng
Markôv, đang chỉ huy cuộc tiến quân qua sông. Về lòng dũng cảm của ông tướng
này, người ta kể cho nhau nghe những chuyện hết sức huyễn hoặc.
Markôv thuộc cái hạng người đã vĩnh viễn bị
đầu độc vì cái tử khí bốc lên từ những chiến trường đầy xác chết của cuộc đại
chiến thế giới mà họ đã tham dự. Cầm chiếc ống nhòm ngồi trên lưng ngựa hay tuốt
gươm đi trong hàng xạ thủ đang tiến lên, trong khi chỉ huy trò chơi khủng khiếp
của chiến trận chắc ông ta phải thể nghiệm một khoái cảm tuyệt vời không thể lấy
gì sánh kịp. Xét cho cùng, có lẽ ông ta sẵn lòng đánh nhau bất cứ với ai và bất
cứ vì lý tưởng gì cũng được hết. Trong óc ông ta có đựng dăm ba cái công thức dập
khuôn về thượng đế, Sa hoàng và tổ quốc. Đối với ông ta đó là những chân lý tuyệt
đối, ngoài ra không cần gì nữa. Như một người đánh cờ tướng khi tìm nước đi,
trong cả khoảng không gian rộng lớn của cuộc đời ông chỉ thấy thế đứng của những
quân cờ trên các ô vuông ngang dọc.
Ông ta hám danh, kiêu căng và hách dịch đối
với thuộc hạ. Trong quân đội người ta rất sợ Markôv, và cũng có lắm người ngấm
ngầm thù ghét ông ta, một kẻ coi con người chẳng khác gì quân cờ tướng. Nhưng
ông ta lại dũng cảm, và biết rất rõ những phút ác liệt của chiến trận mà muốn
đi nước cờ quyết định người chỉ huy cần phải đùa cợt với cái chết, tay cầm con
roi ngựa đi trước toán quân, thản nhiên dưới làn mưa đạn.
Cuộc chuyển quân qua sông kéo dài một tiếng,
hai tiếng, rồi ba tiếng. Con sông và hai bên bờ lại ngập dưới một cơn bão tuyết.
Gió mạnh hẳn lên, quay về hướng Bắc. Nhiệt độ tụt xuống rất nhanh.
Rôstsin nằm dưới chân bờ dốc đứng, sát bên
mé nước, một bên vai bị sái hẳn xương. Chàng đã hết hy vọng được một người nào
trông thấy. Tuy vai đau dữ dội, chàng vẫn lấy hai cái lon trong ngực áo ra,
dùng kim găm đính tạm vào cầu vai cổ áo chui, gỡ ngôi sao năm cánh trên mũ lưỡi
trai ra. Xác của Kvasin đã bị nước cuốn đi từ lâu. Khắp nơi la liệt những người
bị thương, nhưng lúc bấy giờ chẳng ai hơi đâu mà nghĩ đến họ.
Sau khi vượt qua sông, đạo quân của
Kornilôv không dừng lại, vừa nổ súng vừa tiến vào Nôvô-Đmitrôvxkaia. Quần áo của
binh sĩ cứng đét lại và phủ một lớp băng mỏng. Đất rắn kêu răng rắc dưới vó ngựa
và bánh xe, những mô đất và rãnh đường xé rách đế giày ra, cứa vào chân rát buốt.
Trong số thương binh có mấy người nhổm dậy khập khiễng bò lên bờ sông dốc đứng,
chốc chốc lại tuột chân rơi xuống. Rôstsin cảm thấy hai chân bị băng gắn chặt
xuống đất. Chàng nghiến răng (vai, hông, cái đầu gối bị giập đều đau nhoi nhói)
nhổm dậy và lết theo mấy người kia. Không ai để ý đến chàng. Phải ráng hết hơi
sức mới trèo lên được ngọn dốc. Trên ấy bão tuyết thổi ào ào, đạn bay vun vút,
người đang đi tập tễnh trước mặt Rôstsin dáng gù gù trong chiếc áo ca-pốt sĩ
quan cứng đờ đính cái mũ chụp nhọn hoắt, bỗng ngã chúi xuống một bên. Rôstsin
chỉ khom người thấp hơn cho đỡ gió.
Một xác ngựa phủ tuyết nằm còng queo, một
chân sau chổng lên trời. Cạnh một khẩu đại bác bị bỏ lại, hai con ngựa gầy còm
đứng chúi mõm xuống, hai bên sườn đã tê cứng lại, tuyết dồn từng đống nhỏ trên
lưng phía trước, tiếng súng máy mỗi lúc một thêm dữ dội và dai dẳng. Quân đoàn
tình nguyện ra sức chiến đấu để đêm nay có thể vào ngủ trong những căn nhà ấm
áp, khỏi phải chết rấp ngoài đồng, dưới bão tuyết.
Đội pháo binh đỏ ở Grigôrievxkaia bắn vào
những đơn vị bạch vệ đang tấn công. Nhưng những lực lượng còn lại của hồng
quân, kể cả những đội dự bị ở Afipxkaia, đều không được tung vào trận đánh.
Trung đoàn hai Bắc-Kavkaz chỉ nhận được lệnh tiến quân sau khi trung đoàn
Varnavxki đã bị vây hãm trong thôn Nôvô-Đmitrôvxkaia và bị tiêu diệt trong một
trận giáp lá cà trên các đường làng. Trung đoàn hai Bắc-Kavkaz phải qua mười dặm
đồng lầy và đầm bùn liên tục, mất cả một đại đội những binh sĩ bị chết đuối và
chết cóng, rồi mới đánh tập hậu vào quân địch, tạo điều kiện cho tàn quân của
trung đoàn Varnavxki chọc thủng vòng vây.
Trong các đơn vị bạch vệ cũng diễn ra một
tình trạng rối ren và hỗn loạn y như thế. Chi đội Kuban của Pôkrôvxki, vốn có
nhiệm vụ tiến đánh thôn Nôvô-Đmitrôvxkaia từ phía nam, đã ì ra đấy không chịu
đi qua đầm lầy. Thêm vào đấy, Pôkrôvxki, vốn nhận chức thiếu tướng do quyết định
của chính phủ Kuban chứ không phải do sắc lệnh của Sa hoàng, lại bị tướng
Alekxêyev giáng cho một vố rất nhục trong hội nghị quân sự. Tướng Alekxêyev đã
nói với ông ta với thái độ khinh miệt của bậc công thần: “Thôi đi đại tá... à
xin lỗi, quả bây giờ tôi cũng chẳng biết gọi ông là cái gì nữa...”. Chính vì
hai chữ “đại tá” ấy mà Pôkrôvxki không chịu hành quân qua đầm lầy. Quân kỵ mã của
tướng Erđêli được điều đi đánh làng cô-dắc từ phía bắc đã không vượt qua được một
cái khe sâu ngập nước, mãi đến đêm mới quay về chỗ đại quân qua sông.
Đơn vị đầu tiên đến Nôvô-Đmitrovxkaia là
trung đoàn sĩ quan. Trong khi đã gần như chết cóng và gần như phát điên lên vì
căm uất, những viên sĩ quan kỳ cựu, những chiến sĩ dạn dày lửa đạn ấy chợt ngủi
thấy mùi phân khô đốt lò và mùi bánh mì nướng, trông thấy ánh sáng ấm áp trong
các khung cửa sổ; không thèm đợi viện binh nữa, họ bò trên lớp tuyết pha bùn
nhão nhoét, bò qua những khoảng nước mênh mông phủ một lớp băng mỏng. Khi họ đã
đến sát làng, quân đỏ phát hiện ra họ và nã súng máy vào họ. Các sĩ quan liền
xông lên đánh lưỡi lê. Mỗi người trong bọn họ đều biết rất tinh tường từng giây
một mình phải làm gì và xử lý ra sao. Đâu đâu cũng thấy thấp thoáng cái mũ lông
trắng của Markôv. Đó là một trận chiến đấu giữa một đội quân gồm toàn cấp chỉ
huy với một đám lính được chỉ đạo một cách vụng về và chưa quen với kỷ luật.
Đoàn sĩ quan xông vào làng đánh giáp lá cà
với các binh sĩ Varnavxki và quân du kích, trên các đường làng. Trong đêm tối,
giữa cảnh hỗn chiến, những người bắn súng máy lần lượt bị đâm chết hay bị lựu đạn
xé tan ra bên cạnh khẩu súng. Phía quân bạch vệ, những đơn vị tiếp viện kéo đến
không ngớt. Hồng quân bị bao vây phải lùi dần về sân trụ sở ban quản trị thôn,
nơi ủy ban cách mạng đang đóng.
Từ mỗi nơi có thể nấp được đều có tiếng
súng bắn ra. Họ đánh nhau trên từng ngã tư đường. Một cỗ xe kéo pháo phi tới giữa
những mảng bùn bắn tung tóe, dừng lại ở cuối khoảng đất trống, chĩa nòng vào trụ
sở và nã tạc đạn vào đấy: ục...oàng! ục...oàng! Từ các khung cửa sổ, những người
nấp trong trụ sở bắt đầu nhảy ra, một làn khói vàng khè tràn ra xung quanh: những
hòm đạn bị pháo bắn trúng bắt đầu nổ tung lên.
Đúng vào lúc ấy trung đoàn hai Bắc-Kavkaz từ
phía đông bắn vào quân tấn công. Nghe thấy tiếng súng nổ giòn ở phía sau lưng
quân địch, lính Varnavxki vững tâm trở lại. Xapôjkôv, giọng khản đặc vì quát
tháo và chửi bới suốt từ nãy đến giờ, giật lá quân kỳ của trung đoàn quấn vải
sơn trong tay người lính cầm cờ, tháo bọc ra và giương cờ chạy qua khoảng đất
trống lao về phía mấy cây phong cao đang đung đưa, nơi quân trắng tập trung dày
đặc nhất. Quân Varnavxki đang nấp sau những cánh cổng và những dãy hàng rào liền
nhảy xổ ra, những người nằm giữa đất vùng dậy, và từ khắp nơi, họ cầm ngang lưỡi
lê xông ra chọc thủng vòng vây và tháo ra khỏi làng rút về phía tây.
Đêm hôm ấy Rôstsin ngủ trên một chiếc xe
giàn bị bỏ lại, sau khi đã lôi ra khỏi xe hai xác chết đã lạnh cứng và lấy rơm
phủ kín người. Suốt đêm những khẩu pháo đơn độc bắn dóng một, đạn bi nổ đì đùng
trên làng Nôvô-Đmitrôvxkaia. Đến sáng những đoàn xe tải của quân tình nguyện ngủ
lại ở làng Kalujxkaia lục tục kéo đến. Rôstsin ra khỏi chiếc xe giàn và đi theo
một đoàn xe. Tâm thần chàng khích động đến nỗi không thấy đau đớn gì nữa.
Gió bây giờ thổi từ hướng đông, mỗi lúc một
mạnh, quét sạch những đám mây nặng trĩu mưa và tuyết. Khoảng tám giờ sáng, qua
những mảng mây đen tan tác lơ lửng trên cao lộ ra những khoảng trời xanh trong
suốt. Mặt trời chiếu xuống những tia nắng ấm thẳng tắp như những thanh kiếm.
Tuyết tan dần. Thảo nguyên thẫm màu lại rất nhanh, những dải cỏ xanh màu ngọc
bích và những đám rạ màu vàng dần dần hiện rõ lên. Những cánh đồng ngập nước
sáng lấp lánh, trong các đường rãnh bánh xe đi nước chảy róc rách. Những xác chết
được hong khô trên các mỏm gò giương đôi mắt không hồn nhìn lên trời xanh.
- Ô kìa, Rôstsin kia kìa, đúng hắn rồi!
Rôstsin, làm sao lại ở đây được thế? - Trong đoàn xe đang đi qua có tiếng người
hét lên gọi chàng.
Rôstsin ngoảnh lại. Trên một chiếc xe giàn
bẩn thỉu và ọp ẹp do một người cô-dắc lầm lì trùm chiếc áo tu-lúp cũ kỹ cầm
cương, có ba người đầu quấn băng, tay treo lên cổ. Một người trong bọn, cao và
gầy, cái cổ khẳng kheo nhô cao ra khỏi cổ áo, gật đầu lia lịa chào Rôstsin, đôi
môi khô nứt nẻ nhoẻn rộng ra cười. Rôstsin nhìn mãi mới nhận ra Vaxka Têplôv, một
anh bạn cùng trung đoàn, xưa kia vốn là một thanh niên hồng hào vui tính, mê
gái và hay rượu. Chàng lặng lẽ đến cạnh chiếc xe giàn ôm hôn bạn.
- Têplôv này, bây giờ tôi cần đến trình diện
ai? Tham mưu trưởng của các cậu là ai? Dù sao thì cậu cũng thấy đấy, lon của
tôi đính bằng kim găm. Mới trốn sang đây từ hôm qua...
- Ngồi lên đây đã. Ê, dừng xe lại cái nào,
con khỉ! - Têplôv quát người đánh xe.
Người cô-dắc càu nhàu, nhưng vẫn ghìm ngựa
lại. Rôstsin trèo lên ngồi ở góc xe, chân buông thõng ra ngoài, lủng lẳng ở
phía trên bánh xe. Ngồi xe dưới nắng ấm quả là một cái thú đáng hưởng. Chàng kể
lại một cách khô khan như đọc báo cáo những chuyện đã xẩy ra với chàng từ hồi rời
Moxkva ra đi. Têplôv vừa nói vừa ho húng hắng:
- Tớ sẽ thân hành đưa cậu đến gặp tướng
quân Rômanôvxki... Vào đến làng, ta đi kiếm cái gì chén đã, rồi tớ sẽ thu xếp
cho cậu, nhoáng nhoàng một cái là xong.... Cậu này gàn thật! Thế nào, cậu định
đến trình diện thẳng bộ chỉ huy: thưa ngài, thế này thế nọ, tôi vừa rời hàng
ngũ giặc đỏ, được hân hạnh đến đây trình diện... thế phỏng? Cậu không biết rõ
cánh ta. Cậu không mò đến bộ tham mưu được đâu, giữa đường người ta sẽ thanh
toán cậu ngay... Trông kìa, trông kìa, - Têplôv chỉ một xác chết dài lêu đêu mặc
ca-pốt sĩ quan. - Đó là Miska, nam tước Korf, đang yên giấc... Ấy, chắc cậu còn
nhớ hắn ta... Chà anh chàng hay ra phết... Này, có thuốc lá không? Sáng nay trời
tuyệt quá nhỉ! Cậu ơi, ngày kia chúng mình sẽ vào Êkatêrinôđar, sẽ được nằm giường
đệm đánh một giấc thật đẫy, rồi kéo nhau ra đại lộ! Nào nhạc, nào gái, nào bia,
tha hồ!
Hắn cười phá lên, nghe như tiếng nấc. Khuôn
mặt đau yếu, xương xẩu của hắn nhăn nhó, gò má nổi lên những đám đo đỏ như người
sốt.
- Và trên khắp nước Nga cũng sẽ như vậy: âm
nhạc, phụ nữ, rượu bia. Chúng mình sẽ nghỉ ngơi ở Êkatêrinôđar một tháng, tắm
giặt sạch sẽ, rồi lên đường đi trừng phạt. Ha ha! Bây giờ chúng mình chẳng ngu
ngốc gì nữa đâu, cậu ạ... Chúng mình đã lấy máu mua cái quyền cai trị đế quốc
Nga. Chúng mình sẽ ban cho chúng nó một trật tự ra hồn... Quân chó chết! Kia
kìa, nhìn mà xem, một thằng đang phơi thây ra kìa. - Hắn chỉ một bờ rãnh: một
người mặc áo lông cừu nằm sóng sượt, chân tay giang rộng ra một cách phi tự
nhiên. - Chắc chắn đó là một Đăngtông nào đấy của chúng nó...
Một chiếc xe ngựa, thùng xe đan bằng mây,
dáng dấp thô kệch, vượt lên trước chiếc xe giàn. Ngồi trên xe là hai người lấm
bùn bê bết, mặc áo khoác lông cổ bẻ ngược ra sau lưng, đội mũ chụp lông ướt
sũng. Một người thì to lớn đẫy đà, mặt béo phị, nước da xạm, còn người kia ngậm
một cái bót thuốc lá dài bên góc miệng trễ xuống, có bộ râu xam xám mọc rậm rì,
mi dưới bùng nhùng.
- Hai vị cứu tinh của dân tộc đấy, - Têplôv
hất hàm về phía họ. - Vì chẳng còn ai hơn nữa, ta hẵng tạm chịu vậy. Rồi cũng
được việc.
- Lão béo là Gutskôv phải không nhỉ?
- Chính thị! Rồi đến lúc lão ta cũng sẽ bị
xử bắn, cậu cứ yên chí... Còn lão ngậm bót là Bôrix Xuvôrin, cũng là một tay
thành tích bất hảo... Lão có vẻ như muốn bảo hoàng, nhưng rồi cũng không ra bảo
hoàng lắm. Lão rất quanh co, nhưng cũng là một nhà báo có năng lực... Ta sẽ
không bắn làm gì...
Chiếc xe giàn đã vào làng. Sau những mảnh
vườn rào, những ngôi nhà và những túp lều trông như hoàn toàn vắng vẻ. Khói bốc
lên từ một ngôi nhà bị đốt cháy. Giữa đất ngổn ngang mấy cái xác chết ngập một
nửa trong bùn. Đây đó có mấy tiếng súng nổ lẻ tẻ: người ta đang hóa kiếp cho mấy
thằng dân tứ xứ mới bị lôi ra khỏi hầm rượu và các lán che cỏ. Trên khoảng đất
trống trước trụ sở ban quản trị, mấy chiếc xe tải bỏ ngổn ngang. Thương binh nằm
trên xe tải cất tiếng kêu la. Giữa mấy cái xe giàn, dăm cô y tá mặc áo ca-pốt
lính bẩn thỉu vật vờ qua lại, vẻ đờ đẩn, phờ phạc. Từ một cái sân nhà nào đấy vẳng
lại những tiếng gào man dại và những tiếng roi quất đen đét. Mấy kỵ binh phi ngựa
qua. Bên dãy hàng rào, một tốp junker xì
xụp uống sữa trong xô bằng sắt tây.
Từ trên bầu trời lộng gió một màu xanh thăm
thẳm, ánh nắng rót xuống mỗi lúc một thêm chói chang và nồng nực. Trên một
thanh xà bắc ngang giữa một thân cây và một cột dây thép, bảy cái xác dài lêu
đêu đung đưa trước gió, cổ ngoẹo sang một bên, chân không có giày, đầu ngón
chúc thẳng xuống: đó là những tên cộng sản trong ủy ban cách mạng và tòa án
nhân dân.
* * *
Ngày cuối cùng của cuộc hành quân Kornilôv
đã đến. Mấy người trinh sát kỵ mã, tay giơ lên ngang mày che ánh nắng nhìn sang
bên kia sông Kuban đục ngầu đã trông thấy hiện lên trong sương sớm những mái
vòm khum giát vàng của các thánh đường Êkatêrinôđar.
Nhiệm vụ của đơn vị kỵ binh tiền phong là
đánh chiếm của hồng quân cái bến phà duy nhất ở khu vực này để vượt qua sông
Kuban ở cạnh làng cô-dắc Êlizavêtinxkaia. Đó là một cái mẹo lớn của Kornilôv.
Người ta có thể dự tính là ngài sẽ tiến từ phía nam, tức từ Nôvô-Đmitrôvxkaia,
từ phía tây nam - theo con đường sắt Nôvôrôxxixk - Êkatêrinôđar. Nhưng dự đoán
rằng để tấn công vào thành phố ngài sẽ chọn lối đi vòng sang phía tây thành phố,
một lối đi hết sức nguy hiểm, mà lại cho cả quân đoàn vượt qua con sông Kuban
chảy xiết ở một chỗ không có cầu, trên một con phà duy nhất, và do đó tự tước bỏ
của mình mọi khả năng rút lui, - một nước cờ chiến thuật như vậy thì bộ tham
mưu của tư lệnh hồng quân là Avtônômôv không thể nào dự đoán được. Nhưng
Kornilôv, con cáo già mưu chước, đã chọn chính con đường ít được phòng ngự nhất
ấy, một lối đi cho phép quân bạch vệ nghỉ chiến đấu vài ba ngày cho lại sức và
dẫn thẳng họ vào các vườn tược của thành Êkatêrinôđar.
Tình trạng thiếu đạn đã được bổ cứu khi chiếm
ga Afipxkaia, nơi quân tình nguyện đã đặt mìn phá đường sắt để khỏi phải chịu đựng
hỏa lực của các đoàn tàu bọc thép. Tuy vậy súng máy của một đoàn tàu hồng quân
cũng đã quét vào sườn quân tấn công đang lội bì bõm giữa cánh đồng ngập nước.
Khi những tia nước phụt lên từng dãy dài do những tràng đạn tung lên đã chạy đến
sát họ, họ ngã nhoài ra, ngụp cả đầu xuống nước như vịt mò ăn, rồi lại chồm lên
chạy. Đội quân trấn thủ ga Afipxkaia đã chống cự một cách tuyệt vọng. Nhưng đội
hồng quân ấy không sao tránh khỏi bị tiêu diệt, vì họ chỉ chống cự, mà đối thủ
của họ thì lại đang tấn công.
Từ từ, tiến ngoằn ngoèo từng đơn vị nhỏ,
các đơn vị của quân đoàn tình nguyện đã bao vây và tiến công ga Afipxkaia. Ánh
nắng tràn ngập cánh đồng bằng xanh biếc, với những khóm cây, những đụm rơm, những
mái nhà nhô lên khỏi mặt nước, với những bóng rợp bắt đầu từ những đám mây mùa
xuân lướt nhanh trên những mặt hồ nước lũ. Kornilôv mặc chiếc áo khoác lông ngắn
với đôi lon vai mềm, đeo ống nhòm và địa đồ, có bộ tham mưu đi theo, cưỡi ngựa
đi trên cánh đồng lấp loáng như gương ấy. Thỉnh thoảng ông ta lại ra lệnh cho
các liên lạc viên: họ lập tức thúc con ngựa nhỏ bé phi đi, vó ngựa làm nước bắn
lên tung tóe. Có một lúc hỏa lực đỏ bắn xả vào ông, làm tướng Rômanôvxki đi cạnh
ông bị thương nhẹ.
Khi nhà ga đã bị vây bọc từ phía tây và trận
tổng xung kích bắt đầu, Kornilôv quất ngựa chạy nước kiệu tiến thẳng vào
Afipxkaia. Ông không chút hoài nghi về thắng lợi. Cạnh nhà ga, giữa những đường
ray, những dãy toa, những tòa nhà của sở hỏa xa, những dãy đề-pô, những trại
lính, các đơn vị bạch vệ vừa xông vào đang tiêu diệt quân đỏ. Đó là trận thắng
cuối cùng, trận thắng đẫm máu nhất của Quân đoàn tình nguyện.
Đại tá Nêjentxev, dáng trẻ trung, má đỏ hồng,
vẻ phấn khích, nhảy qua mấy cái xác chết chạy đến trước mặt Kornilôv báo cáo,
đôi kính cặp mũi ánh lên loang loáng.
- Bẩm tướng quân, ga Afipxkaia đã chiếm
xong...
Kornilôv sốt ruột ngắt lời ngay:
- Có lấy được đạn không?
- Bẩm có ạ, bảy trăm quả đạn đại bác và bốn
toa đạn súng trường.
- Đội ơn Chúa! - Kornilôv giang tay làm dấu
thánh rất rộng, móng tay út cào lên vạt áo khoác lông đã khô rắn lại. - Đội ơn
Chúa!
Bấy giờ Nêjentxev đưa mắt chỉ về phía đội
xung kích đang đứng lộn xộn bên cạnh nhà ga. Đó là một trung đoàn đặc biệt gồm
những tay anh chị liều lĩnh, trên ống tay áo có thêu một hình chéo góc ba màu.
Giống như những người vừa leo lên một đỉnh dốc cheo leo, họ đứng tì tay lên
súng trường. Trên mặt họ ngưng đọng lại những nếp nhăn mệt mỏi của một nỗi căm
giận điên rồ, hai bàn tay họ - và ở một số người, cả mặt nữa - đều vấy máu. Mắt
họ nhìn ngơ ngác, thẫn thờ.
- Bẩm tướng quân, họ đã hai lần cứu vãn
tình thế và đã xung phong vào trước tiên.
- À, à! - Kornilôv nói đoạn quất ngựa, và
tuy khoảng cách không xa là bao, ông phi hết tốc lực về phía đội xung kích (họ
lập tức nhớn nhác lên và hối hả xếp hàng), rồi lấy hết sức ghìm phắt ngựa lại
như người ta thường thấy ở những pho tượng kỵ mã, đoạn ngửa mặt ra nói to, giọng
dằn mạnh từng đoạn:
- Cám ơn các chiến sĩ phượng hoàng của tôi!
Tôi có lời cảm tạ các ngài đã giành được thắng lợi xuất sắc, và một lần nữa cảm
tạ các ngài đã chiếm được kho đạn. Tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước các
ngài...
* * *
Sau khi nhận được số đạn bổ sung, quân đoàn
bắt đầu vượt qua sông Kuban trên chiếc phà bằng ván mà đội kỵ binh tiên phong
đã cướp được. Vào lúc này quân số của quân đoàn gồm có chín nghìn bộ binh và kỵ
binh, và bốn nghìn con ngựa. Cuộc vượt sông kéo dài ba ngày liền. Ở hai bên bến
phà, các đơn vị dã chiến, các đoàn xe tải, xe giàn, các cỗ pháo tỏa rộng ra
thành một doanh trại khổng lồ. Gió xuân thổi bay phất phới những manh áo rách mới
giặt phơi trên các càng xe. Những bếp lửa bốc khói nghi ngút. Những con ngựa buộc
chân đi ăn tha thẩn trên các bãi cỏ. Những sĩ quan, đã vui vẻ hoạt bát trở lại,
trèo lên mấy cỗ xe bắt ống nhòm cố nhìn vào cái khoảng không xanh xanh xa tắp
kia, mong nhận ra những khu vườn và những mái vòm thành Êkatêrinôđar hằng mơ ước.
- Quả thật... Ngày xưa thập tự quân tiến đến
gần Jêrusalem cũng đúng như thế này đây!
- Thưa các ngài, ở Jêrusalem thì có các em
Do-thái, còn ở đây thì có các em vô sản...
- Ta sẽ tuyên bố công hữu hóa phụ nữ...
Hô-hô...
- Tắm rửa, bát phố, và nốc bia!
Về phía Êkatêrinôđar không thấy có mưu toan
cản trở cuộc hành quân qua sông. Thỉnh thoảng chỉ có những đội trinh sát mon
men đến bắn vài phát súng. Cộng sản quyết định chống cự. Họ hối hả huy động
toàn thể dân phố, kể cả đàn bà và trẻ em, ra đào chiến hào, chăng dây thép gai,
đắp trận địa pháo. Từ Nôvôrôxxixk có mấy đoàn tàu chở những đơn vị thủy thủ Hắc
hải đến, cùng với súng đại bác và đạn. Các chính ủy diễn thuyết cho các đơn vị
bộ đội nghe về thực chất giai cấp của quân tình nguyện Kornilôv, nêu rõ rằng
sau lưng chúng là “Giai cấp tư sản thế giới tàn bạo mà chúng ta đang mở một trận
quyết liệt để đánh đổ”, và thề thà chết chứ không để Êkatêrinôđar lọt vào tay
giặc.
Đến ngày thứ tư, Quân đoàn tình nguyện mở
cuộc tấn công vào thủ phủ vùng Kuban.
Những đội quân tình nguyện đang hung hãn tiến
lên được tiếp đón bằng hỏa lực vũ bảo của các trận địa pháo đặt ở phía ga Hắc hải
và ở các bến tàu trên sông Kuban. Nhưng địa hình gồ ghề và những khu vườn, những
đường rãnh, những dãy rào và những lòng suối đã cho phép quân tình nguyện tiến
vào sát thành phố mà không bị tổn thất gì lớn lắm.
Đến đây, trận ác chiến bắt đầu. Gần một nơi
được gọi là “trại” - một ngôi nhà trắng xây ở ven một khóm rừng phong dương hãy
còn trụi lá cheo leo trên bờ sông Kuban - hồng quân đã kháng cự quyết liệt. Họ
bị đánh bật ra, nhưng lại tiến lên từng toán dày đặc xông vào những khẩu súng
máy, chiếm lại cái trại, rồi một tiếng sau lại bị bộ binh cô-dắc của đại tá
Ulajai đánh bật ra lần thứ hai.
Kornilôv và bộ tham mưu của ông ta lập tức
đặt đại bản doanh trong ngôi nhà nhỏ một tầng của “trại”. Đứng ở đây có thể
trông rõ như trong lòng bàn tay những dãy phố thẳng tắp của thành Êkatêrinôđar,
những ngôi nhà cao quét vôi trắng, những mảnh vườn, khu nghĩa địa, nhà ga Hắc hải
và ở phía trước cái toàn cảnh ấy là những dãy chiến hào dài dằng dặc. Hôm ấy là
một ngày xuân quang đãng và lộng gió. Khắp nơi đều có những làn khói súng mảnh
như sợi chỉ bay lên, và cả cái khoảng bao la sáng rực ánh nắng ấy tràn đầy tiếng
vang nặng nề xé ruột của những phát đại bác nổ liên hồi. Ngày hôm ấy hồng quân
cũng như bạch quân đều chiến đấu không biết tiếc mạng.
Trong ngôi nhà trắng người ta xếp cho tổng
tư lệnh Kornilôv một căn buồng ở trong góc, đặt mấy chiếc máy điện thoại dã chiến,
một cái bàn và một cái ghế bành. Kornilôv lập tức vào buồng, ngồi xuống cạnh
bàn, trương rộng bản đồ ra và trầm ngâm suy nghĩ về quá trình diễn biến của cuộc
cờ. Hai viên sĩ quan phụ tá của ông là thiếu úy Đôlinxki và tù trưởng Khadjiev
đứng chờ lệnh chủ tướng, một người đứng ở cửa, một người đứng bên máy điện thoại.
Khuôn mặt kiểu người Kalmuk của viên tổng
tư lệnh, với những đường nét căng thẳng, chằng chịt những nếp nhăn, dưới mái
tóc hoa râm húi kiểu bàn chải, trông lầm lì hơn bao giờ hết. Bàn tay nhỏ và khô
đeo chiếc nhẫn vàng nằm im trên tấm bản đồ, như bàn tay một xác chết. Ông ta đã
một mình quyết định lấy cuộc tấn công này, bất chấp những lời khuyên của
Alekxêyev, Đênikin và các tướng khác, và giờ đây, khi ngày đầu tiên của trận
đánh đã sắp tàn, lòng tự tin của ông bắt đầu dao động. Nhưng ông không dám thú
nhận điều đó, dù với chính bản thân cũng vậy.
Ông đã phạm hai sai lầm: thứ nhất là đã để
một phần ba quân lữ do tướng Markôv chỉ huy ở lại bến phà để bảo vệ các đoàn xe
tải; do đó đợt tấn công đầu tiên vào Êkatêrinôđar không được thật tập trung và
không đem lại kết quả vẫn mong đợi: quân đỏ đã giữ vững được, bám chặt lấy các
chiến hào và hình như có đủ sức cố thủ ở đấy. Sai lầm thứ hai là đã ứng dụng
cho Êkatêrinôđar cái chiến thuật của một cuộc hành quân trừng phạt - cũng cái
chiến thuật trước đây đã được dùng trên đường đi cho các làng cô-dắc; thành phố
bị vây bọc từ bốn phía (ở sườn bên phải thì bộ binh chính quy và bộ binh cô-dắc
chuyển quân dọc sông tiến về phía các nhà máy thuộc da, ở sườn trái thì kỵ binh
của Êrđêli chuyển thành đường vòng tiến sâu vào trận địa) nhằm chặn hết các lối
ra vào và đàn áp những người bảo vệ thành phố cũng như toàn thể cư dân bằng
cách xử bắn, treo cổ và đánh chết bằng roi da, coi họ là những “kẻ cướp” và những
“tiện dân nổi loạn”. Một chiến thuật như vậy đã đưa đến cái kết quả là những
người đang kháng cự nhất quyết thà chết trong chiến trận còn hơn chết trên giá
treo cổ. “Kornilôv đã quyết định giết sạch chúng ta!” trong thành phố họ loan
tin như vậy. Đàn bà, con gái, trẻ em, ông già bà cả, đều thi nhau vượt qua làn
đạn bưng những bình sữa, những gói bánh rán, bánh nướng ra các chiến hào: “Ăn
đi các anh thủy thủ, ăn đi các anh bộ đội, các đồng chí thân yêu, ăn đi cho khỏe
mà bảo vệ nhân dân chúng tôi...”. Và tuy khắp nơi, nhất là về chiều, đều có những
đội kỵ binh phi qua các phố quát: “Cấm ra phố! Ai về nhà nấy! Tắt đèn đi!”, họ
vẫn mang thức ăn và thùng đạn cho những người đang chiến đấu để bảo vệ họ.
Như vậy là ngày đầu tiên đã đem lại ưu thế
cho hồng quân. Quân trắng ngày hôm ấy đã mất ba người chỉ huy ưu tú, khoảng một
nghìn sĩ quan và binh lính, và đã bắn hết hơn một phần ba số đạn tuy chẳng có mục
tiêu gì cụ thể. Trong khi đó, từ Nôvôrôxxixk luôn luôn có những đoàn tàu thủng
nát xác xơ chở thủy thủ, đạn dược và đại bác vượt qua lưới lửa đến tiếp sức cho
thành phố bị uy hiếp. Các chiến sĩ vừa xuống tàu đã chạy thẳng tới các chiến
hào. Vì tập trung quá dày đặc, lại không có tổ chức chỉ huy, số thương vong rất
lớn.
Kornilôv ngồi lì bên tấm địa đồ, không ra
khỏi căn buồng ở góc trại. Ông ta đã hiểu ra rằng không có lối thoát nào khác:
chỉ có thể một là chiếm được thành phố, hai là chết sạch. Dòng suy tưởng của
ông đã hầu như dẫn ông đến ý định tự sát... Đạo quân mà ông chỉ huy một mình
đang tan dần như những chú lính chì ném vào lò sưởi. Nhưng con người quả cảm và
ít thông minh này vẫn ngoan cố như một con trâu lì lợm.
Trong làng cô-dắc Êlizavêtinxkaia, trên sân
nhà thờ có khoảng hai mươi sĩ quan bị thương đang ngồi phơi nắng. Từ phía đông
đưa lại tiếng đại bác nổ rền như tiếng sấm, khi to, khi nhỏ. Phía trên cái tháp
chuông bị một quả đạn đại bác bắn thủng, mấy con chim câu chốc chốc lại bay vút
lên nền trời không gợn bóng mây. Quảng trường trước mặt nhà thờ vắng tanh vắng
ngắt. Không thấy có một bóng người nào trong mấy túp lều đã bị đập vỡ hết cửa sổ.
Bên một dãy hàng rào trồng những bụi tử đinh hương đang đâm chồi non, một xác
chết nằm sấp, đất lấp một nửa, nửa trồi ra ngoài ruồi nhặng bâu đen kịt.
Trên sân nhà thờ, mấy sĩ quan nói chuyện
khe khẽ.
- Trước kia mình có một người yêu, một thiếu
nữ xinh đẹp, tuyệt vời. Mình còn nhớ là nàng, hay mặc chiếc áo dài màu hồng có
viền gấp. Bây giờ nàng ở đâu, mình cũng chẳng biết nữa.
- Phải, tình yêu... Bây giờ nghĩ lại, thậm
chí còn thấy nó kỳ quặc thế nào... Cứ nhớ tiếc cuộc sống trước kia quá đỗi...
Những cô thiếu nữ sạch sẽ tinh khôi... Mình thì ăn mặc bảnh bao, ngồi thoải mái
trong tiệm ăn... Chao ôi, thích thật các anh ạ...
- Cái anh bạn bolsêvik thân mến kia thối
quá rồi đấy. Vùi đi chứ nhỉ?
- Ruồi nó sẽ chén hết thôi.
- Yên... nghe tí nào... Lại một đợt pháo
kích vũ bão...
- Tôi cam đoan đó là đợt kết thúc... Quân
ta đã vào thành phố rồi.
Im lặng. Cả bọn quay lại, nhìn về phía
đông, nơi có một đám khói và bụi lơ lửng trên thành Êkatênôđar như một đám mây
màu xám vàng vàng. Một sĩ quan tóc hung đỏ, gầy như bộ xương, khập khiểng bước
tới, ngồi xuống rồi nói:
- Thằng Valka vừa chết... Lúc hấp hối nó cứ
kêu: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ có nghe thấy tiếng con không?...”. Nó kêu dữ quá.
Cuối sân nhà thờ, một giọng gay gắt thốt
lên:
- Tình yêu! Những cô áo hồng! Vớ vẩn! Toàn
chuyện nhảm! Vợ tao còn đẹp gấp mấy cái con người yêu mặc áo có viền gấp của
mày... Thế mà tao vẫn cho đi tong... (hắn giận dữ thở đánh xì một tiếng). Vả lại
mày chỉ nói láo chứ mày làm gì có người yêu... Khẩu súng sáu trong túi với
thanh gươm: gia đình thân quyến của mày chỉ có thế...
Rôstsin đang vác súng đi đi lại lại cạnh
nhà thờ - bấy giờ là phiên gác của chàng. Chàng đứng lại và chăm chú nhìn người
đang nói. Đó là một thanh niên tóc vàng có bộ mặt trẻ con với cái mũi hếch,
nhưng hai bên mép lại hằn lên hai nếp nhăn sâu hoắm, và đôi mắt màu xanh đùng đục,
già nua, nặng nề, là đôi mắt của một tên sát nhân bẩm sinh. Rôstsin tì lên khẩu
súng (chân chàng vẫn còn đau) và những ý nghĩ không đâu cứ tràn vào tâm trí
chàng. Trong ký ức chàng lại hiện lên hình bóng của Katya bị bỏ bơ vơ một mình,
và lòng chàng đau nhói lên vì một niềm thương xót da diết. Chàng áp trán vào chất
thép lạnh của lưỡi lê. “Thôi, thôi đừng nghĩ nữa, đó là một sự yếu đuối, những
cái đó không cần thiết...”. Chàng rùng mình, bật thẳng người lên để xua tan những
kỷ niệm ấy và tiếp tục bước trên lớp cỏ non. “Lúc này không phải là lúc thương
xót, lúc này không phải là lúc nghĩ đến tình yêu...”.
* * *
Bên một bức tường gạch bị đạn đại bác bắn sập,
một người đàn ông vạm vỡ đang đứng nhìn vào ống nhòm, đôi mày cau lại. Trên chiếc
áo va-rơi da rất diện, trên cái quần da và đôi ủng cô-dắc mềm của ông ta đều lấm
thấm những vết bùn đã khô cứng lại. Sát hai bên người ông ta phút phút lại có
những viên đạn bay chiu chíu đến húc vào bức tường gạch.
Ở phía dưới, cách ông ta một trăm bước, có
mấy khẩu pháo và mấy thùng đạn sơn xanh. Mấy con ngựa vừa bị buộc vào hàng rào
đang đứng ủ rũ bên bãi phân của chúng mới ỉa hãy còn bốc hơi. Mấy người lính cần
vụ ngồi trên giá súng cười đùa và hút thuốc, chốc chốc lại đưa mắt về phía viên
chỉ huy cầm ống nhòm. Hầu hết đều là thủy thủ, trừ hai người pháo binh râu ria,
ăn mặc rách rưới.
Khói và bụi che kín cả chân trời - đường
nét của những dãy chiến hào, những nếp lồi lõm của địa hình, những mảnh vườn
xanh. Cái mục tiêu mà viên chỉ huy đang quan sát cứ chập chờn khi ẩn khi hiện.
Từ phía sau ngôi nhà ông ta đang đứng nhô ra một anh lính thủy da đỏ ong như đồng,
mình chỉ mặc chiếc áo may-ô. Anh ta trườn như con mèo dọc bức tường và ngồi xuống
bên chân người chỉ huy vạm vỡ, hai cánh tay lực lưỡng xăm chàm ôm lấy đầu gối,
đôi mắt màu hung như mắt diều hâu hơi nheo nheo lại.
- Sát bờ sông có hai cái cây, ông trông thấy
không? - anh ta nói khe khẽ.
- Thì sao?
- Sau hai cái cây ấy là một ngôi nhà nhỏ,
tường trăng trắng đấy, ông thấy chưa?
- Thì sao?
- Trại đấy.
- Biết rồi.
- Thế còn bên phải có một khóm cây. Còn kia
là con đường, ông xem.
- Thấy rồi.
- Từ lúc bốn giờ có nhiều đứa cưỡi ngựa đi
qua lối ấy. Người ra vào luôn luôn. Đến tối có hai cỗ xe song mã ghé lại. Con
quỷ nó ở ngay đấy đấy, chứ không còn ở chỗ nào khác nữa đâu.
- Xuống đi, - người vạm vỡ ra lệnh, rồi gọi
viên chỉ huy đội pháo lên. Một người râu ria mặc áo tu-lúp lông cừu trèo lên
gò. Người vạm vỡ đưa ống nhòm cho anh ta. Anh ta nhìn một hồi lâu.
- Cái ấp của Xluxarev, cái “trại” đấy, -
anh ta nói, giọng khàn khàn, - cự ly bốn verxta phẩy hai mươi lăm. Nã vào
Xluxarev cũng được thôi.
Anh ta trả ống nhòm, vụng về bò xuống, rồi
gân cổ lên hô:
- Toàn pháo đội chuẩn bị!... Cự ly... Loạt
thứ nhất...Bắn...
Mấy khẩu pháo gầm lên như sấm, nòng giật
lùi trên bàn hãm, một ngọn lửa phụt ra, và mấy quả tạc đạn nặng vừa lao đi vừa
thì thầm nói về cái chết, nhằm thẳng ngôi nhà trắng cheo leo trên bờ sông Kuban
dốc đứng, nơi Kornilôv đang ủ rũ ngồi trước tấm địa đồ.
Đến ngày thứ hai của cuộc tấn công, có lệnh
điều động tướng Markôv cùng với trung đoàn sĩ quan đang đóng cạnh đoàn xe tải gần
bến phà. Trong đội quân này, Rôstsin làm lính thường. Trong một tiếng đồng hồ họ
chạy qua cái khoảng cách bảy dặm từ chỗ đóng quân cho đến thành Êkatêrinôđar mà
những trận pháo kích đã phủ lên một lớp bụi còn dày đặc hơn hôm trước nữa. Người
đi đầu là Markôv, chiếc mũ chụp lông đội hất ra sau gáy, mình mặc chiếc áo
va-rơi bông phanh ngực. Nói với viên đại tá tham mưu đang ì ạch cố chạy theo
cho kịp ông ta, Markôv chửi bới và mạt sát bộ chỉ huy tối cao không tiếc lời:
- Chúng nó xé vụn lữ đoàn ra làm từng mảnh,
chúng nó bắt tao, đ...mẹ, phải ngồi trơ ra ở đoàn xe tải...giá chúng nó để tao
kéo lữ đoàn của tao đi thì, đ...mẹ, tao đã chiếm Êkatêrinôđar từ lâu rồi...
Ông nhảy qua một cái rãnh, vung roi da lên,
và quay về phía đoàn quân đang trải dài trên cánh đồng xanh, ông hô mệnh lệnh,
mạch máu trên cổ căng phồng lên.
Thở hổn hển, gương mặt nghiêm nghị ướt đẫm
mồ hôi, các sĩ quan cố chạy vượt lên. Đoàn quân chuyển thành đường vòng như
xung quanh một cái trục, và hướng về phía thành phố dàn ra thành bốn hình chữ
nhật dài, đường viền rung rinh trên cánh đồng. Chỗ Rôstsin đứng cách Markôv
không xa. Đoàn quân đứng yên mấy phút. Họ thử lại quy-lát, kiểm tra lại các bao
đạn và thắt lại cẩn thận. Markôv lại hô lên một mệnh lệnh, kéo dài các nguyên
âm ra. Lập tức một đội xích hầu tách ra và chạy vượt lên trước một quãng xa.
Các đội chủ lực tiến theo sau.
Bên trái, đi ngược lại phía họ trên con đường
gồ ghề chằng chịt vết bánh xe là những cỗ xe tải chở thương binh. Có nhiều người
đi bộ, đầu cúi gầm. Cũng có nhiều người ngồi bên bờ rãnh hay trên những chiếc
xe giàn đổ kềnh ra bên đường. Và người ta có cảm giác như số xe giàn và thương
binh nhiều vô kể, dễ cả quân đoàn.
Một người cao lớn và đẫy đà để bộ ria mép
cưỡi con ngựa ô vượt qua trung đoàn. Hắn đội mũ lưỡi trai vành đỏ và mặc một
chiếc áo đuôi én may rất đẹp, vai đính đôi lon tết bằng kim tuyến - lon của ban
quản trị giám mã. Hắn vui vẻ quát lên một câu gì đấy với tướng Markôv, nhưng
ông này ngoảnh mặt đi không đáp. Đó là Rôđzyankô, đã xin phép rời đoàn xe tải để
đến xem qua trận tấn công một chút.
Trung đoàn lại dừng bước. Từ xa vọng lại một
mệnh lệnh. Nhiều người châm thuốc lá. Tất cả đều lặng thinh nhìn về phía đội
xích hầu đang nấp giữa các hố rãnh và các mô đất. Tướng Markôv vừa vung roi da
vừa đi về phía một khóm rừng phong dương cao vút. Ở đấy, giữa những cây phong mới
chớm nẩy chồi xanh, chốc chốc lại phun lên những cột khói xù xì tung cao những
cành gẫy và những mảnh đất lên. Họ đứng khá lâu. Lúc bấy giờ đã hơn bốn giờ chiều.
Từ sau khóm rừng ló ra một kỵ binh phi nước đại, mình cúi rạp xuống bờm ngựa.
Rôstsin nhìn thấy con ngựa ướt đẫm bọt mồ hôi xoay xoay bên bờ rãnh, không dám
qua, rồi vẫy mạnh đuôi chồm tới. Người cưỡi ngựa rơi mất mũ. Phi tới gần trung
đoàn, hắn quát:
- Có lệnh tấn công... trại pháo binh... tướng
quân ở phía trước... kia...
Hắn khoát tay về phía một ngọn gò nhỏ, ở
trên thấp thoáng mấy bóng người, trong đó có thể nom rõ một người đội mũ trắng.
Một mệnh lệnh vang lên:
- Toàn đội xạ kích, tiến!
Cổ Rôstsin nghẹn ngào, mắt chàng như ráo hoảnh
đi: một giây lát lo sợ và hân hoan, khiến cho thân hình chàng như mất hẳn trọng
lượng, một khát vọng thiết tha: được lao lên, thét lớn, bắn, đâm, sao cho trong
giây phút hân hoan ấy máu đỏ tưới ngập tim chàng, và chàng sẽ hy sinh cả trái
tim ấy...
Đội hình thứ nhất tách lên, Rôstsin đi ở sườn
bên trái. Họ đã đi ngang ngọn gò nhỏ, trên đỉnh có Markôv đang đứng chạng hai
chân, mặt hướng về trung đoàn sĩ quan đang tiến lên.
- Các bạn! Các bạn hãy tiến lên! - Markôv
nhắc đi nhắc lại, và đôi mắt xưa nay bao giờ cũng nheo nheo giờ đây trông như mở
rộng hẳn ra, hung ác, dữ dội.
Rồi Rôstsin trông thấy những ngọn cỏ héo nhấp
nhô. Ngổn ngang khắp nơi giữa các bụi cỏ, những xác người nằm sấp hoặc nằm
nghiêng im lìm như những cái bị vứt lăn lóc, mình mặc áo sơ-mi nhà binh, áo
va-rơi lính thủy hay áo ca-pốt sĩ quan. Phía trước chàng trông thấy một dãy tường
thấp xây bằng đá phiến, với những bụi gai không có lá mọc ven tường. Một người
mặt dài thườn thượt, mặc áo cánh bông của binh sĩ, ngồi tựa vào tường, miệng
ngáp ngáp liên tục.
Rôstsin nhảy qua tường và ra đến một con đường
rộng. Trên mặt đường có những tia bụi phụt lên từng dãy đang nhích gần lại rất
nhanh. Đó là quân bolsêvik quét súng máy vào đoàn quân đang tiến công. Rôstsin
dừng lại, lùi vào lề đường, thở hổn hển và đưa mắt nhìn quanh. Những sĩ quan đã
nhảy qua tường đều nằm rạp xuống. Rôstsin cũng nằm, má áp xuống mặt đất lởm chởm.
Chàng khó nhọc buộc mình phải nhấc đầu lên. Phân đội xạ kích vẫn nằm im. Trên
cánh đồng ở trước mặt, cách khoảng năm mươi bước có một cái rãnh bờ đắp cao
lên. Rôstsin nhổm dậy, cúi lom khom chạy qua cái khoảng cách năm mươi bước ấy.
Trống ngực chàng đập điên cuồng. Chàng gieo mình xuống cái rãnh bùn nhớp nháp.
Từng người một, cả đội chạy theo chàng. Một người chưa chạy đến rãnh đã ngã gục
xuống, rồi một người nữa. Nằm dưới rãnh, họ thở dốc ra. Trên đầu họ, đạn tới tấp
quét vào bờ rãnh.
Nhưng ở phía trước chợt có một cái gì thay
đổi; không biết từ đâu, đạn đại bác rít lên từng hồi bay về phía doanh trại pháo
binh đỏ. Hỏa lực súng máy yếu hẳn đi.
Đội xạ kích khó nhọc bò lên và tiến về phía
trước. Rôstsin nhìn cái bóng dài màu đen đo đỏ của mình trườn trên cánh đồng mấp
mô. Nó uốn ngoằn ngoèo, khi thì ngắn lại, khi thì vút ra mãi tận đâu đâu. Chàng
nghĩ lẩn thẩn: “Lạ thật, mình vẫn còn sống, lại có cả bóng nữa”.
Hỏa lực từ phía trại lính lại bắn rát,
nhưng đội xạ kích, hàng ngũ thưa thớt hẳn đi, đã phục cách trại một trăm bước,
dưới một cái khe sâu. Trên lớp đất sét xám đọng dưới đáy khe, Markôv đi đi lại
lại, mắt long lên dữ tợn, miệng nhắc đi nhắc lại:
- Các vị, các vị nghỉ ngơi đi một chút...
hút thuốc đi, mẹ kiếp... Rồi một đợt cuối cùng nữa.... Chuyện vặt ấy mà: chỉ
còn có một trăm bước nữa...
Bên cạnh Rôstsin, một viên sĩ quan thấp bé,
hói đầu, nhìn lên bờ khe ở phía trên, bụi tung mù mịt dưới những loạt đạn, mồm
cứ nhắc đi nhắc lại mãi một câu chửi tục tằn. Mấy người nằm xuống đất, hai tay
che mặt. Một người nhổm lên, tay bưng lấy trán, nôn ra máu. Nhiều người, như những
con linh cẩu bị nhốt vào chuồng, đi đi lại lại dọc khe. Một mệnh lệnh vang lên:
“Tiến công!”. Tuồng như không ai nghe thấy tiếng hô cả. Rôstsin lập cập thắt lại
nịt da, bám vào một bụi cây trèo lên. Chàng buột tay rơi phịch xuống rồi lại
nghiến răng cố leo lên. Lên đến bờ khe, chàng trông thấy Markôv đang ngồi xổm
xuống hô:
- Trèo lên, Xung phong!
Cách có mấy bước, Rôstsin trông thấy đôi đế
giày thủng của Markôv chạy loang loáng ở trước mắt. Mấy người vượt lên trước
chàng. Bức tường gạch của doanh trại đỏ rực dưới ánh mặt trời lặn. Những tấm
kính vỡ sáng lóe lên trong các khung cửa sổ. Mấy bóng người rời trại lính chạy
qua đồng về phía những ngôi nhà và những mảnh vườn ở tít đàng xa...
* * *
Một tốp thường dân và binh sĩ đứng bên cạnh
cái cổng thể dục đã gãy dựng trên sân cát của doanh trại pháo binh. Mặt họ tái
xanh, hốc hác, đăm chiêu, mắt họ nhìn xuống đất; tay họ buông thõng xuống rũ rượi.
Trước mắt họ là một tốp ít người hơn: đó là
những sĩ quan đang tì lên súng trường đợi lệnh. Họ nhìn tốp người bị bắt với một
nỗi căm thù cay độc. Cả hai bên đều im lặng đợi chờ. Nhưng rồi một người bước
ra sân, đi rất nhanh, dáng đi nhún nhảy. Đó là đại úy kỵ binh fon Mecke, chính cái gã có đôi mắt của một
tên sát nhân bẩm sinh, - Rôstsin đã nhận ra hắn.
- Bắn tất! - hắn vui vẻ reo lên, - có lệnh
bắn tất... Yêu cầu mười vị ra thi hành mệnh lệnh.
Trước khi mười viên sĩ quan bước lên trước
và lên quy-lát lách cách, trong đám người bị bắt nhốn nháo lên một lát. Một người
cao lớn, ngực rộng, tuột bỏ chiếc áo sơ-mi dạ qua đầu. Một người mặc thường phục,
ho lao và móm mém, có bộ ria đen thẳng đuột, thét lên, giọng như nấc:
- Cứ uống máu công nhân cho nhiều vào, đồ
ký sinh!
Hai người ôm chặt lấy nhau. Có ai cất tiếng
hát, giọng khàn khàn và sai cung bậc: “Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian...”.
Mười viên sĩ quan ghì báng súng vào vai. Vừa lúc ấy Rôstsin cảm thấy như có ai
đang chăm chú nhìn mình (chàng ngồi trên một chiếc thùng gỗ, đang thay xà cạp).
Ngẩng đầu lên, chàng trông thấy hai con mắt đang nhìn chàng đăm đăm, cái nhìn
tràn đầy ý trách móc của kẻ sắp lìa đời, chứa chất một vẻ trang trọng cao cả...
“Trời ơi, đôi mắt xám quen thuộc, đôi mắt xám thân yêu!”.
- Bắn!
Tiếng súng nổ vội vã, không đều. Có tiếng
kêu và tiếng rên rỉ. Rôstsin cúi xuống thật thấp chăm chú quấn dải xà cạp bẩn
vào cổ chân bị một viên đạn sượt qua.
* * *
Ngày thứ hai cũng không đem lại thắng lợi
cho quân tình nguyện. Quả bên sườn phải họ có chiếm được doanh trại pháo binh,
nhưng ở trung tâm thì họ không nhích lên được bước nào, và trung đoàn bạch vệ
chiến đấu ở đây đã phải mất viên chỉ huy là đại tá Nêjentxev, người được
Kornilôv yêu quý nhất. Ở sườn trái đội kỵ binh của Erđêli đã phải rút lui. Quân
đỏ tỏ ra ngoan cường hơn bao giờ hết, tuy ở Êkatêrinôđar hầu như nhà nào cũng
có thương binh nằm. Nhiều phụ nữ và trẻ em bị trúng đạn chết cạnh các chiến hào
trên các đường phố. Giá ở địa vị của Avtônômôv có một người có kinh nghiệm chiến
đấu biết cách chỉ huy một cuộc tổng tấn công của các lực lượng đỏ trong thành
phố, thì Quân đoàn tình nguyện, đã sẵn xác xơ, đơn vị này lẫn vào đơn vị nọ, chắc
chắn sẽ bị đánh tan và tiêu diệt.
Đến ngày thứ ba các trung đoàn quân tình
nguyện, sau khi đã được bổ sung qua loa bằng những thành phần không lấy gì làm
sung sức, lại được ném vào trận tấn công và lại phải lùi về vị trí xuất phát.
Nhiều người vứt súng quay về đoàn xe tải ở hậu phương. Các tướng nản lòng.
Nhưng không một ai dám đến nói với tổng tư lệnh rằng ván cờ đã thất bại, và dù
có nhờ một phép thần thông nào đấy mà đột nhập được vào Êkatêrinôđar thì bấy giờ
vẫn không thể nào giữ được thành phố.
Sau khi hôn vào vầng trán đã giá lạnh của
Nêjentxev, viên sĩ quan yêu quý của mình (thi hài của Nêjentxev được chở trên một
chiếc xe giàn đưa đến tận cửa sổ của tướng quân), Kornilôv không buồn hé miệng
ra nữa và không nói với ai một câu nào. Chỉ có một lần, khi một quả đạn bi nổ
ngay cạnh ngôi nhà và một viên bi xuyên qua cửa sổ giát lên trần, ông lẳng lặng
đưa ngón tay khô đét chỉ lên viên bi và nói với viên sĩ quan phụ tá Khađjiev,
chẳng hiểu để làm gì:
- Tù trưởng hãy giữ lấy nó.
Vào đêm thứ ba rạng ngày thứ tư của cuộc tấn
công, có lệnh của tổng tư lệnh truyền xuống qua tất cả các đường dây điện thoại
dã chiến: “Tiếp tục tấn công”.
Nhưng đến ngày thứ tư thì mọi người đều thấy
rõ rằng tốc độ tấn công đã giảm sút rất nhiều. Tướng Kutêpôv, người được cử đến
thay Nêjentxev đã tử trận, không sao vực nổi trung đoàn Kornilôv (trung đoàn ưu
tú nhất của đoàn quân tình nguyện) đang nằm bẹp ở các vườn rau. Các đơn vị đều
chiến đấu uể oải. Kỵ binh của Erđêri vẫn tiếp tục rút lui. Markôv, giọng khản đặc
vì hò hét và chửi bới, vừa đi vừa ngủ gật, các sĩ quan của ông không tài nào
thò mũi ra quá doanh trại đã chiếm được.
Đến trưa trong căn phòng của Kornilôv có
triệu tập một hội đồng quân sự gồm có các tướng Alekxêyev, Rômanôvxki,
Bôgaievxki, Filimônôv và Đênikin. Kornilôv, cái đầu tóc bạc tụt sâu xuống giữa
hai vai, lắng nghe bản báo cáo của Rômanôvxki:
“Đạn đại bác đã hết. Đạn súng trường cũng
không còn. Lính tình nguyện cô-dắc bỏ về làng. Tất cả các trung đoàn đều xơ
xác. Tinh thần rất suy sút. Nhiều người không bị thương cũng bỏ chiến tuyến về
chỗ đoàn xe tải”, vân vân...
Các tướng lắng nghe, mắt nhìn xuống đất.
Markôv gục đầu vào người ngồi cạnh mà ngủ. Trong bóng tối lờ mờ (vì cửa sổ
chăng rèm kín) khuôn mặt có đôi gò má cao của Kornilôv trông như mặt một xác ướp
khô đét. Ông ta nói, giọng trầm trầm:
- Thưa các ngài, như vậy là tình hình thực
sự nghiêm trọng. Tôi không thấy có lối thoát nào khác ngoài cách chiếm
Êkatêrinôđar. Tôi quyết định tảng sáng ngày mai sẽ tấn công thành phố trên khắp
chiến tuyến. Trung đoàn của Kazanôvits sẽ ở lại dự bị. Tôi sẽ thân hành dẫn đầu
trung đoàn này lên tập kích.
Ông ta đột nhiên thở đánh phì một tiếng.
Các tướng cúi đầu ngồi im. Tướng Đênikin, người phốp pháp, có bộ râu cằm hoa
râm, dáng dấp như một ông công chức thâm niên, lâu nay vẫn mắc chứng viêm phế
quản, bất giác thốt lên: “Trời ơi! Trời ơi!”, bật ho sù sụ rồi đi ra cửa.
Kornilôv quắc đôi mắt đen nhìn như xói vào lưng ông. Viên tổng tư lệnh lắng
nghe những ý kiến phản bác, đứng dậy và giải tán hội đồng. Đợt tấn công quyết
liệt được ấn định vào ngày mồng một tháng tư.
Nửa giờ sau Đênikin trở vào phòng, hơi thở
vẫn còn huýt lên như sáo trong lồng ngực. Ông ta ngồi xuống và nói một giọng trầm
tĩnh êm ái:
- Bẩm tướng quân đại nhân, xin tướng quân
cho phép tôi lấy tư cách một con người nói chuyện với một con người mà hỏi tướng
quân một câu.
- Xin ông cứ hỏi, Antôn Ivanôvits ạ.
- Lavr Ghêorghiêvits, sao ngài nỡ cố chấp
như vậy?
Kornilôv trả lời ngay, như thể đã chuẩn bị
câu trả lời này từ lâu:
- Không có cách nào khác. Nếu ta không chiếm
được Êkatêrinôđar, tôi sẽ cho một viên đạn vào đầu (ông ta lấy ngón tay móng gặm
đến tận thịt chỉ vào thái dương).
- Ngài không thể làm như thế được! -
Đênikin giơ hai bàn tay múp míp, trắng nõn lên áp vào ngực: - Lavr
Ghêorghiêvits, trước thượng đế, trước tổ quốc... ai sẽ lĩnh lấy trách nhiệm
lãnh đạo quân đội?
- Thưa ngài, chính ngài đấy...
Và bằng một cử chỉ sốt ruột, Kornilôv cho
Đênikin hiểu rằng cuộc nói chuyện đã kết thúc.
Sáng ngày 31 tháng ba, trời nóng nực và
không gợn một bóng mây. Từ mặt đất đã phủ kín màu xanh của cây cỏ bốc lên từng
luồng hơi hầm hập. Giữa đôi bờ dốc đứng, dòng sông Kuban màu vàng đục lười biếng
trôi đi, lâu lâu lại có một con cá quẫy lên làm xáo động mặt nước lặng lờ. Cảnh
vật im phăng phắc. Chỉ thỉnh thoảng mới có một tiếng súng trường, hay một khẩu
đại bác nổ xa xa, rồi quả tạc đạn bay vun vút qua đầu. Quân lính đang nghỉ ngơi
để rồi ngày mai lại mở trận huyết chiến.
Thiếu úy Đôlinxki ngồi hút thuốc lá trên thềm
ngôi nhà trắng. Anh ta nghĩ bụng: “Phải giặt sơ-mi, quần đùi, bít tất mới được...
Giá được tắm một cái thì hay quá”. Một con chim từ đâu ghé lại đang hót líu lo
trong khóm rừng. Đôlinxki ngẩng đầu lên. Một quả tạc đạn bay thẳng vào khóm rừng,
rít lên the thé. Có tiếng nổ rất đanh. Con chim không hót nữa. Đôlinxki ném mẩu
thuốc lá hút dở vào một con gà mái ngốc nghếch, không hiểu tại sao lại chưa vào
nồi xúp, rồi thở dài, quay vào nhà ngồi bên ngưỡng cửa, nhưng lại đứng dậy ngay
và bước vào căn buồng tối mờ mờ. Kornilôv đứng cạnh bàn, đang thắt lại nịt quần.
- Sao, trà chưa có à? - ông hỏi khẽ.
- Bẩm tướng quân chỉ một phút nữa thôi là
có thôi ạ.
Kornilôv ngồi vào bàn, chống hai khuỷu tay
lên, đưa lòng bàn tay khô khan xoa xoa những nếp nhăn trên trán.
- Tôi định nói với ông cái gì mà bây giờ lại
quên mất, thiếu úy ạ. Khổ thật.
Đôlinxki nghiêng nghiêng mình về phía bàn đợi
nghe xem chủ tướng sẽ nói gì. Trong cung cách của tổng tư lệnh hôm nay, tất cả
- giọng nói nhỏ nhẹ, vẻ ngơ ngác bàng hoàng - đều khác thường đến nỗi anh ta
phát sợ lên. Kornilôv nhắc lại:
- Khổ thật đấy... Tất nhiên là tôi sẽ nhớ
ra, ông đừng bỏ đi... Vừa rồi tôi nhìn ra cửa sổ: sáng hôm nay trời đẹp quá...
À, nhớ ra rồi...
Ông ta im bặt và ngẩng đầu lên nghe ngóng.
Bây giờ cả Đôlinxki cũng nghe ra tiếng rú nức nở mỗi lúc một gần của quả đạn đại
bác. Có cảm giác như nó sắp bay thẳng vào khung cửa sổ căng rèm. Đôlinxki bắt
giác lùi lại. Một tiếng nổ khủng khiếp ở trên đầu. Không khí bị xé toang ra. Lửa
lóe lên sáng lòa. Thân hình viên tổng tư lệnh, chân tay giang rộng, bị hất tung
lên giữa phòng...
Đôlinxki bị thổi bật ra ngoài cửa sổ. Anh
ta ngồi trên cỏ, người trắng xóa những vôi, hai môi run bần bật. Mọi người đổ
xô lại...
* * *
Bên thi hài Kornilôv đặt trên cái cáng, một
chiếc áo burka đắp ngang bụng, ông bác sĩ ngồi xổm xuống, loay hoay sờ nắn.
Cách đấy một quãng, một tốp sĩ quan tham mưu đứng nhìn, gần cáng hơn cả là
Đênikin dưới chiếc mũ lưỡi trai vành rộng đội một cách vụng về. Cách đấy một
phút Kornilôv hãy còn thở thoi thóp. Trên thân thể ông không thấy có thương
tích gì ngoài một vết xước lớn trên thái dương. Bác sĩ là một người lù đù trông
chẳng có thớ chút nào, nhưng giờ phút này ông ta hiểu rằng bao nhiêu cặp mắt đều
đổ dồn vào ông, và tuy biết rõ là mọi sự đã xong xuôi, ông vẫn tiếp tục khám
xét, dáng quan trọng. Rồi ông thong thả đứng lên, sửa lại mục kỉnh và lắc đầu
như muốn nói: “Đáng tiếc là trong trường hợp này y học hoàn toàn bất lực”.
Đênikin đến cạnh bác sĩ nói, giọng nghẹn
ngào:
- Ông nói đi, cho chúng tôi yên lòng.
- Vô hy vọng! - Bác sĩ giang rộng hai tay.
- Thế là hết.
Đênikin lập cập rút mùi xoa áp lên mắt, và
cả người ông đều run lên bần bật, cái thân hình phốp pháp của ông rũ rượi ra. Tốp
sĩ quan tham mưu nhích gần lại, không nhìn cái xác chết nữa, mà nhìn Đênikin.
Đênikin quỳ xuống làm dấu thánh lên khuôn mặt vàng như sáp của Kornilôv và hôn
lên trán viên tổng tư lệnh. Hai sĩ quan đỡ ông ta đứng dậy. Một người thứ ba hỏi,
giọng xúc động:
- Thưa các vị, ai sẽ lĩnh quyền chỉ huy?
- Tôi, dĩ nhiên là tôi sẽ nhận quyền chỉ
huy, - Đênikin nói, giọng nấc lên rất cao. - Trước đây Lavr Ghêorghiêvits đã có
chỉ thị như vậy, và mới hôm qua đây ngài đã nói việc ấy với tôi...
Ngay đêm hôm ấy tất cả các đơn vị của Quân
đoàn tình nguyện đều lặng lẽ rời vị trí, và bộ binh, kỵ binh, xe tải, xe kéo
pháo và xe chở các chính khách đều rút về phương bắc, về phía khu trại
Gnatsban, chở theo hai thi hài của Kornilôv và Nêjentxev.
Chiến dịch Kornilôv đã thất bại. Những thủ
lĩnh chủ yếu và một nửa số quân tham gia chiến dịch đã thiệt mạng. Có thể tưởng
chừng như người viết sử đời sau chỉ cần nhắc mấy câu đến sự kiện này là đủ.
Thật ra “chiến dịch băng giá” của Kornilôv
có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong chiến dịch này, lần đầu tiên bạch
quân đã có một ngôn ngữ riêng, một truyền thuyết riêng, một hệ thuật ngữ quân sự
riêng, - tất cả, cho chí tấm huân chương bạch vệ mới đặt ra: đó là hình một
thanh kiếm và một chiếc mũ miện bằng cành gai* đính lên dải huân chương
Ghêorghi.
*[Theo Phúc âm,
nhà cầm quyền La mã đã bắt Jesus đội mũ miện băng cành gai để nhạo báng và sỉ
nhục ông trước khi đem đi hành hình. Vì vậy nó tượng trưng cho nỗi đau khổ và tủi
nhục của kẻ tuẫn đạo]
Về sau, trong những cuộc tuyển mộ và động
viên, vào những lúc phải phân trần phiền toái với những người ngoại quốc hoặc
có chuyện lôi thôi với dân địa phương, họ đều đưa cái vòng gai của kẻ tuẫn đạo
ra như một luận cứ đầu tiên và tối cao. Đã đưa cái biểu trưng ấy thì không còn
biết lấy gì bác lại nữa: chẳng hạn, nếu một ông tướng nào đấy ra lệnh dùng que
thông nòng đánh chết cả một huyện (bấy giờ người ta nói tắt là “thông một huyện”)
thì có làm sao? Người đã làm việc đó là những bậc tuẫn đạo, những người thừa kế
của các thánh tuẫn đạo. Những người như thế không thể đưa ra xét xử bằng những
quy phạm thông thường.
Chiến dịch Kornilôv là đoạn mào đầu của tấn
bi kịch, lúc màn kéo lên sau lớp tự mộ, và những cảnh càng ngày càng khủng khiếp
và khốc liệt thi nhau diễn ra trước mắt, dồn dập đến mức đau đớn.
4
Alekxêy Kraxilnikôv nhảy từ trên bậc toa xuống,
hai tay bế xốc người em trai như bế một đứa bé, đặt đứng xuống thềm ga.
Matriôna đứng ở cửa ga, bên cạnh cái chuông báo hiệu. Xêmiôn không nhận ra vợ
ngay: chị ta mặc áo măng-tô kiểu thành thị, mái tóc đen nhánh và mượt mà của chị
phủ dưới một tấm khăn choàng trắng tinh khôi thắt theo mốt mới, mốt của thời đại
xô-viết. Khuôn mặt trẻ trung, tròn trĩnh, xinh đẹp của chị trông như hốt hoảng,
hai môi mím chặt.
Khi Xêmiôn, được ông anh dìu, yếu ớt nhấc từng
bước lê tới, đôi mắt màu nâu nhạt của Matriôna chớp chớp, mặt chị run lên...
- Lạy Chúa, - chị nói khẽ, - sao nhà hư
thân đi nhiều thế.
Xêmiôn thở dài đau đớn, đặt bàn tay lên vai
vợ, chạm môi lên cái má mịn màng, mát rợi. Alekxêy cầm lấy cái roi ngựa trong
tay Matriôna. Họ đứng im lặng một lát. Alekxêy nói:
- Thôi bây giờ có chồng một bên rồi đây
nhé. Chúng nó muốn giết mà không giết nổi. Không sao, ta sẽ vác hái đi cắt cỏ với
nhau. Nào, ta về đi, chú thím.
Matriôna trìu mến ôm chặt lưng chồng, dìu
ra xe giàn. Trên xe có trải một tấm thảm dệt ở nhà, trên đặt mấy chiếc gối
thêu. Chị đỡ chồng lên xe, ngồi xuống bên cạnh, ruỗi thẳng đôi chân đi giày mới
đóng theo kiểu thị thành. Alekxêy vừa sửa lại sợi dây thắng vừa vui vẻ nói:
- Hồi tháng hai có một gã kỵ binh bị lạc mất
đơn vị. Mình phục rượu ngang cho hắn uống hai ngày liền. Thế rồi lại dúi cho hắn
năm trăm rúp tiền Kêrenxki nữa, thế là có được con này, ngựa ra ngựa đấy chứ! -
Anh ta âu yếm vỗ vỗ lên mông con ngựa hồng lực lưỡng. Rồi anh ta nhảy lên xe, sửa
lại cái mũ chụp lông cừu và giật cương. Họ đi ra con đường cái chạy giữa cánh đồng
mới nhú cỏ xanh. Trên đồng, một chú sơn ca vừa rung đôi cánh bay vút lên trong
nắng vừa cất tiếng hót nhiệt thành. Trên gương mặt bủng beo, râu ria lởm chởm của
Xêmiôn hé nở một nụ cười. Matriôna vừa ôm chồng vào lòng vừa đưa mắt hỏi.
Xêmiôn đáp:
- Phải, ở đây các người tha hồ hưởng thụ...
Xêmiôn thấy dễ chịu hẳn đi khi bước vào
ngôi nhà rộng rãi, quét vôi trắng tinh khôi. Những cánh cửa chớp sơn xanh trên
các khung cửa sổ nhỏ, cái mái hiên mới bằng gỗ súc, và đây, sau khi bước qua
khung cửa thấp quen thuộc, là cái lò sưởi ấm áp trát bằng thạch cao trắng tinh,
cái bàn vững chắc phủ khăn thêu, rồi trên giá lại bày những đĩa, bát, bình, liễn
bằng sứ và bằng kền trông chẳng có vẻ thôn dã chút nào, bên trái là buồng ngủ của
Matriôna với cái giường sắt rộng phủ chăn viền đăng-ten, ở đầu giường có một chồng
gối độn lông xốp xộp, bên phải là buồng của Alekxêy (trước kia vốn là buồng của
mồ ma ông cụ), trên tường treo một bộ dây cương, một cái yên ngựa, một bộ hàm
thiết, một thanh gươm, một khẩu súng trường, một tấm ảnh, và cả ba phòng đều có
bày những chậu hoa, xương rồng, và cây cảnh, - tất cả cái vẻ phong lưu, sung
túc và sạch sẽ tinh tươm này khiến Xêmiôn kinh ngạc. Anh vắng nhà mới một năm
rưỡi, thế mà khi về đã thấy nào cây cảnh, nào giường đệm sang trọng như giường
công chúa, Matriôna thì ăn mặc như các bà trên tỉnh.
- Các người sống như quý tộc ấy nhỉ, - anh
vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế dài, tay lần cởi cái khăn quàng một cách khó
nhọc. Matriôna cất cái áo choàng kiểu tỉnh thành vào hòm, mặc chiếc tạp đề, lật
trái tấm khăn bàn lại và nhanh nhẹn bày thức ăn lên. Chị thò cái nạng cặp nồi
vào lò, người nhún xuống vì nặng, đôi cánh tay để trần đến khuỷu ửng hồng lên,
và lấy ra một nồi gang đầy xúp borsts.
Trên bàn đã bày nào thịt mỡ, nào ngỗng quay, nào cá ướp. Matriôna đưa mắt hỏi ý
Alekxêy, Alekxêy nháy mắt một cái, chị liền bưng ra một vò rượu ngang.
Khi hai anh em đã ngồi vào bàn, Alekxêy rót
cho em ly rượu đầu tiên. Matriôna cúi rạp xuống chào chồng. Và khi Xêmiôn uống
cạn chén rượu thứ nhất nồng như lửa, gần nghẹn thở đi, Matriôna và Alekxêy đều
quệt nước mắt. Thế nghĩa là cả hai đều hết sức lấy làm mừng rằng Xêmiôn vẫn sống
và ngồi cùng bàn với họ.
- Chú ạ, chúng tôi sống ở đây chẳng phải là
xa hoa gì, nhưng cũng khá đường hoàng, có cơ ngơi tử tế, - Alekxêy nói sau khi
mọi người đã húp hết món xúp borsts,
Matriôna dọn mấy cái đĩa chỉ còn xương đi và ngồi xuống cạnh chồng. - Chú nó
còn nhớ cái miếng đất chéo góc ven khóm rừng cạnh biệt thự của lão công tước
ngày xưa chứ? Thật là đất vàng đất bạc chứ không phải. Tôi đã hò hét khá nhiều
trong nông hội, tống cho bọn nông dân sáu thùng rượu ngang, thế là tậu được miếng
đất ấy. Bây giờ tôi với Matriôna đã cày xới kỹ nó rồi. Với lại mùa hè vừa qua mảnh
đất ở ven sông thu hoạch cũng khá. Tất cả những đồ đạc mà chú thấy đấy: cái giường,
tấm gương, mấy cái bình cà-phê, thìa nĩa và các thứ quần áo khăn giẻ kia đều sắm
được trong mùa đông vùa qua. Cái cô Matriôna của chú mày ham sắm sửa bày dọn lắm.
Không bỏ qua một phiên chợ nào. Tôi thì vẫn theo lối cũ: đem hàng đi bán lấy tiền
ra chợ, còn thím ấy thì không: thím ấy giết ngay con lợn, mấy con gà, chở mấy
bao bột, mấy sọt khoai tây lên xe, rồi xắn váy lên đi thẳng ra tỉnh... Nhưng
không ra chợ đâu nhé, cứ đến thẳng nhà các ông các bà lớn ngày xưa, đảo mắt tứ
phía rồi nói: “Cái giường này thì hai yến bột mì với hai cân rưỡi thịt mỡ... Tấm
chăn này thì ngần ấy khoai tây... Đến chết cười: rời phiên chợ về trông cứ như
một bọn Tzigan, trên xe cả một đống đồ tầm tầm.
Matriôna xiết tay chồng nói:
- Nhà còn nhớ chị Avdotya không, chị gái
tôi ấy mà? Hơn tôi có một tuổi. Đang làm mối cho anh Alekxêy đấy.
Alekxêy vừa cười vừa lục lọi trong túi:
- Các bà ấy đã quyết định trước cả tôi...
Mà kể ra thì cũng phải, chú nó ạ, ở vậy mãi cũng chán rồi. Rượu vào lại đi tìm
mụ trùm, rồi mãi về sau vẫn còn lợm giọng...
Anh ta rút ra một cái túi đựng thuốc lá mộc
và một cái tẩu gọt cạnh khế lủng lẳng những miếng đồng chạm trổ, nạo thuốc vào
tẩu rồi châm lửa hút, phà khói ra cuồn cuộn bay khắp nhà. Những câu chuyện và
hơi men làm cho Xêmiôn thấy choáng váng. Anh ngồi nghe, thầm lấy làm lạ.
Đến chập tối Matriôna đưa anh vào phòng tắm,
chăm chút, kỳ cọ, xông hơi, lấy chổi lá phong dập dập lên người, rồi trùm cho
anh một chiếc áo tu-lúp nhỏ. Và ba người lại ngồi vào bàn ăn tối, nốc nốt vò rượu,
không còn lấy giọt nào. Tuy hãy còn yếu, Xêmiôn vẫn nằm với vợ, rồi ngủ thiếp
đi, cánh tay nóng hổi của Matriôna quàng qua cổ. Sáng hôm sau mở mắt ra đã thấy
trong nhà gọn gàng sạch sẽ, ấm áp. Matriôna mặt sáng bừng lên vì đôi mắt long
lanh và vì nụ cười để lộ hàng răng trắng, đang nhào bột. Chỉ lát nữa Alekxêy sẽ
từ ngoài đồng về ăn bữa sáng. Nắng xuân tuôn vào mấy khung cửa sổ sạch bóng,
chiếu lấp lánh trên lá mấy cây cảnh. Xêmiôn ngồi dậy vươn vai trên giường. Sau
ngày hôm qua, sau một đêm ngủ với Matriôna, sức lực anh đã tăng lên gấp đôi.
Anh mặc quần áo, rửa mặt, hỏi xem con dao cạo của ông anh để đâu rồi; rồi đứng
cạo râu trước mảnh gương vỡ treo cạnh cửa sổ trong phòng Alekxêy. Anh ra đường
đứng bên cổng và chào cụ già cổ kính đã sống qua bốn triều vua, đang ngồi trong
vườn nhà hàng xóm. Cụ già cất mũ, trịnh trọng đáp lễ rồi lại ngồi yên, đôi chân
đi ủng dạ đặt ngay ngắn, hai bàn tay nổi gân xanh cũng xếp ngay ngắn trên đầu gậy.
Con đường làng quen thuộc vào giờ này vắng
tanh. Giữa mấy ngôi nhà có thể nhìn rõ những đám ruộng xanh tốt chạy mãi ra xa
tắp. Trên mấy ngọn đồi ở tít chân trời có những cỗ xe giàn đã tháo ngựa đỗ rải
rác. Xêmiôn nhìn sang bên trái: trên một ngọn đồi đá vôi, hai cái chòi xay gió
đang uể oải quay cánh. Thấp hơn một chút trên sườn dốc, giữa những khu vườn và
những mái rạ, nổi lên một cái tháp chuông trăng trắng. Sau khóm rừng hãy còn
thưa lá, những khung cửa sổ của tòa nhà lão công tước ngày xưa lấp loáng trong
nắng. Mấy con quạ bay trên tổ kêu quang quác. Khóm rừng và mặt trước tòa nhà
tráng lệ in bóng xuống hồ nước lũ. Bên mé hồ có mấy con bò nằm nhai cỏ, mấy đứa
trẻ chạy tung tăng.
Xêmiôn cúi mặt đứng nhìn gườm gườm cái cảnh
thôn dã ấy, hai tay đút vào hai cái túi rộng thùng thình của chiếc áo choàng mượn
của ông anh. Anh nhìn mà thấy lòng buồn rười rượi, và dần dần, qua những làn
hơi nóng trong suốt đang lượn sóng bốc lên cao trên xóm làng, trên những khu vườn
màu tím và những đám đất cày, anh đã nhìn ra một cái gì khác xa với cái cảnh
thanh bình và tĩnh mịch này.
Alekxêy ngồi trên chiếc xe giàn đang đi lại.
Từ xa anh đã vui vẻ cất tiếng gọi Xêmiôn. Trong khi mở rộng cổng cho xe vào,
anh ta chăm chú nhìn em. Anh tháo con ngựa hồng và ra góc sân rửa tay dưới cái
bồn nước có vòi treo trên cây.
- Không sao, chú nó ạ, rồi sẽ qua thôi, -
anh ta nói, giọng ôn tồn. - Anh cũng thế, dạo ở mặt trận Đức về, anh không buồn
nhìn ngắm gì nữa mắt chỉ nhìn thấy máu, lòng chỉ buồn rười rượi... Chao ôi, cuộc
chiến tranh đáng nguyền rủa ấy... Thôi ta đi ăn đi.
Xêmiôn lặng thinh. Nhưng rồi cả Matriôna
cũng nhận thấy chồng không vui. Sau buổi ăn sáng Alekxêy lại ra đồng. Matriôna,
chân đi đất, váy xắn lên, đi thắng con ngựa thứ hai, rồi đánh xe đi chở phân.
Xêmiôn nằm trên giường của Alekxêy. Anh cứ trăn trở, không sao ngủ được Nỗi buồn
cứ âm ỷ trong tim anh. Anh nghiến răng nghĩ thầm: “Họ không hiểu được đâu, nói
chỉ thêm phiền”. Nhưng đến tối, khi cả ba người ra ngồi trên súc gỗ đặt bên cổng
nhà, Xêmiôn không dằn lòng được, nói:
- Alekxêy ạ, dù sao anh cũng nên lau sạch
khẩu súng đi.
- Thôi súng với ống gì... Chú ạ, một trăm
năm nữa chúng mình cũng chẳng đi đánh nhau đâu.
- Anh mừng sớm quá đấy. Chơi cây cảnh sớm
quá đấy.
- Còn chú thì chưa nên nổi giận vội. -
Alekxêy rít tẩu thuốc, nhổ nước bọt xuống đất. - Ta cứ nói chuyện mộc mạc như
chỗ hai thằng mu-gích nói chuyện với nhau. Đây không phải như ở mít-tinh. Những
chuyện thường nói ở mít-tinh, anh cũng biết hết rồi, chính anh cũng đã từng hò
hét ra trò. Chỉ có điều là chú chỉ nên nghe cái gì cần cho chú, Xêmiôn ạ, còn
cái gì vô ích thì chú bỏ qua đi. Như chuyện người cày có ruộng chẳng hạn. Chuyện
ấy thì hoàn toàn đúng. Bây giờ đến chuyện các ủy ban dân nghèo. Ở đây bọn anh
đã xỏ mũi được mấy thằng ranh con trong các ủy ban ấy rồi. Còn ở bên Xôxnôvka
thì ủy ban dân nghèo muốn gì làm nấy, nay tịch thu mai trưng dụng, bậy bạ hết sức.
Trang viên của bá tước Bôbrinxki sung hết vào xôvkhôz, còn nông dân thì họ chẳng cắt cho một tấc đất nào. Thử hỏi
ủy ban có những ai? Có hai thằng kiết xác ở địa phương, ngựa chẳng có lấy một
con, còn lại là những thằng ở đâu đâu đến ấy chẳng ma nào nó biết, hình như tù
khổ sai khổ siếc gì ấy... Chú hiểu chưa?
- Chà, nhưng tôi có nghĩ đến những chuyện ấy
đâu... - Xêmiôn quay mặt đi.
- Ấy, chú thì không, nhưng anh thì chính những
chuyện ấy anh lại thấy cần nói đến. Năm 1917 ở mặt trận anh cũng hò hét ầm ỹ về
giai cấp tư sản. Thế rồi đoành một phát. - Chúa phù hộ cho cái thằng nào đã bắn
đoành một phát vào chân mình, - thế là được đưa ngay về nhà. Anh thấy thế này:
dù có ăn bao nhiêu, đến hôm sau lại muốn ăn nữa. Phải nai lưng ra thôi...
Xêmiôn gõ gõ móng tay lên súc gỗ:
- Đất ở dưới chân đang bốc cháy, thế mà lại
đi ngủ.
- Có lẽ ở hải quân các chú, - Alekxêy nói,
giọng rắn rỏi, - hay ở các thành thị cách mạng chưa kết thúc thật. Chứ ở ta thì
nó đã kết thúc ngay từ khi chia ruộng đất. Bây giờ sẽ như thế này đây: gieo hạt
xong một cái là chúng tôi bắt tay vào trị bọn ủy ban. Đến ngày lễ thánh Piôtr sẽ
không còn để một ủy ban dân nghèo nào sống sót nữa. Sẽ chôn sống chúng nó đi chứ.
Chúng tôi không sợ một thằng nào, dù là quỷ cũng vậy, chú nhớ lấy...
- Thôi đừng nói nữa anh Alekxêy Ivanôvits,
anh thử nhìn xem: anh ấy đang run bắn lên kia kìa, - Matriôna nói khẽ. - Anh ấy
đang ốm kia mà!
- Tôi không ốm... Ở đây tôi là người lạ! - Xêmiôn
quát lên, đứng phắt dậy và bỏ ra phía hàng rào.
Câu chuyện đến đấy là chấm dứt.
Trong cái ánh sáng mờ mờ còn vương lại trên
chân trời phía tây, hai con giơi bay chập chờn như hai chú quỷ con. Đây đó có
ánh đèn lấp ló ở vài khung cửa sổ: các nhà đang ăn nốt bữa cơm tối. Từ xa xa có
tiếng hát của mấy thiếu nữ hòa vào nhau vẳng lại. Rồi tiếng hát bỗng im bặt, và
trên con đường làng rộng chìm trong bóng hoàng hôn có tiếng vó ngựa gõ dồn dập.
Người phi ngựa dừng lại quát lên mấy tiếng gì không rõ, rồi lại phóng ngựa đi.
Alekxêy bỏ tẩu thuốc ra nghe ngóng, rồi rời súc gỗ đứng dậy.
- Có chuyện chẳng lành à? - Matriôna nói, giọng
run run.
Một lát sau người cưỡi ngựa phi tới. Đó là
một người thanh niên không đội mũ, hai bàn chân để trần đu đưa hai bên sườn ngựa.
- Quân Đức! - Hắn kêu lên. - Ở Xôxnôvka
chúng nó giết mất bốn người rồi đấy!...
* *
*
Sau khi hòa ước được ký kết, vào khoảng giữa
tháng ba tính theo lịch mới, quân Đức trên khắp chiến tuyến từ Riga cho đến Hắc
hải bắt đầu tiến đánh vùng Ukrain và vùng Đonbax.
Theo các điều khoản trong hòa ước ký kết với
hội đồng Rađa trung ương, quân đội Đức được cấp 75 triệu pút lúa mì, 11 triệu
gia súc sống, 2 triệu ngỗng và gà, 4 nghìn pút mỡ lợn, ngoài ra còn có cả bơ,
da, lông cừu, gỗ, v.v...
Quân Đức tiến vào Ukrain theo đúng mọi quy
tắc hành quân: từng đoàn quân đội mũ sắt, mặc quân phục màu xanh xám, rầm rộ
kéo đi. Những đội án ngự yếu ớt của hồng quân bị trọng pháo Đức quét sạch.
Những đơn vị bộ binh, những đoàn xe hơi vận
tải, những đoàn pháo binh khổng lồ với những khẩu đại bác sơn nhiều màu loang lổ,
những đoàn xe tăng và xe bọc thép lăn bánh ầm ầm, nườm nượp kéo đi trên các đường
cái. Có những đơn vị công binh chở những phao cầu và cả những nhịp cầu lớn để
vượt qua các sông ngòi. Trên trời từng đàn phi cơ ầm ì bay qua.
Đó là một cuộc tiến công của kỹ thuật đánh
vào một đám dân hầu như không có vũ khí. Các đơn vị hồng quân gồm những binh
sĩ, nông dân,, thợ mỏ và công nhân thành thị, vốn ô hợp và số lượng kém quân Đức
bội phần, vừa đánh vừa rút về phía Bắc và phía Đông.
Ở Kiev một ông tướng tên là Xkôrôxpađxki
lên thay chân cho hội đồng Rađa trung ương đã bán xứ Ukrain cho quân Đức. Mặc y
phục dân tộc màu xanh lơ mà phe quốc gia Ukrain hằng yêu mến, hai tay chống cạnh
sườn, cầm cây quyền trượng thống lĩnh, ông ta hô to:
“Xứ Ukrain tự chủ vạn tuế. Từ hôm nay và
muôn kiếp về sau là hòa bình, trật tự và phồn vinh. Thợ thuyền hãy đứng vào
máy, nông dân hãy cầm lấy cày! Con ma đỏ hãy biến đi!”.
* * *
Cái tin khủng khiếp do người cưỡi ngựa phi
qua báo cho dân làng Vlađimirxkôiê biết vừa đến được một tuần, thì vào một buồi
sáng sớm, trên ngọn đồi đá vôi, bên cạnh hai cái chòi xay gió xuất hiện một đội
trinh sát kỵ mã gồm hai mươi người cưỡi những con ngựa ô cao lớn. Đó toàn là những
người lực lưỡng, trông dáng dấp cũng biết ngay là người ngoại quốc, mặc quân phục
ngắn màu xanh xám, đội mũ u-lan có
tua. Họ nhìn xuống phía làng, và xuống ngựa.
Trong làng hãy còn đông: hôm nay rất nhiều
người không ra đồng. Thế là mấy đứa trẻ con chạy từ cổng nhà này sang cổng nhà
khác báo tin, các bà các chị gọi nhau í ới qua dãy hàng rào, và chỉ một lát sau
đã có một đám đông tu tập trước sân nhà thờ. Họ nhìn lên phía hai cái chòi xay
và trông rõ bọn kỵ binh u-lan đang đặt
hai khẩu súng máy.
Một lát sau, từ một phía khác, có tiếng
bánh xe vành sắt lăn ầm ầm trên đường làng và tiếng roi quất ngựa đen đét, rồi
một đôi ngựa ướt đẫm mồ hôi kéo chiếc xe giàn nhà binh phóng nước kiệu vào sân
nhà thờ. Người ngồi ở ghế xà ích là một người lính dáng dấp vụng về mặc bộ quân
phục chật ních, đội mũ bình thiên không có lưỡi trai, đôi mắt trắng dã, hàm dưới
dài nghêu ra. Sau lưng hắn là một viên sĩ quan Đức ngồi khuỳnh hai cánh tay,
trông nghiêm khắc và kỳ quặc, một miếng kính nhỏ nhét vào hốc mắt, đội chiếc mũ
lưỡi trai mới tinh, trông như mũ giả. Ngồi so ro bên trái hắn là một người quen
cũ của dân làng này: viên quản lý của lão công tước, mùa thu năm ngoái đã phải
trốn đi, trên mình chỉ mặc vẻn vẹn có cái quần vệ sinh.
Bây giờ hắn ngồi trên xe, vẻ mặt cau có,
mình mặc chiếc áo bành tô sang trọng, đầu đội mũ ấm, mặt tròn vành vạnh, râu cạo
nhẵn, mắt đeo kính gọng vàng. Chao ôi, đám mu-gích đã gãi đầu gãi tai đến khổ
khi họ nhận ra Grigori Karliôvits Mil.
- Bỏ mũ xuống! - Viên sĩ quan kỳ quặc đột
ngột quát lên bằng tiếng Nga.
Mấy người đứng gần miễn cưỡng cất mũ. Trên
sân nhà thờ im phăng phắc, viên sĩ quan vẫn ngồi chống tay lên đùi, miếng kính
đeo mắt lấp la lấp lánh, bắt đầu nói một cách khó nhọc, dằn từng tiếng một,
nhưng phát âm rất đúng:
- Hỡi dân cày làng Vlađimirxkôiê, các người
đã trông thấy hai khẩu súng máy Đức đặt trên đồi kia, nó bắn rất tốt... Các người
dĩ nhiên đều là hạng dân cày biết điều. Ta đây chẳng muốn gây thiệt hại cho các
người làm gì. Ta phải nói để các người biết rằng quân đội của Đức hoàng Vilhem
đến đây là để khôi phục lại sinh hoạt của những người lương thiện. Người Đức rất
bất bình khi thấy người ta trộm cướp tài sản của kẻ khác, và tội đó sẽ bị người
Đức trừng trị hết sức thẳng tay. Bọn bolsêvik dạy các người khác kia, phải
không? Chính vì thế mà người Đức đánh đuổi bọn chúng, bọn chúng sẽ không bao giờ
còn trở lại đây nữa. Ta khuyên các người hãy suy nghĩ cho kỹ về những hành vi xấu
xa của mình, và cũng tính chuyện trả ngay tức khắc cho vị chủ nhân của trang viện
này tất cả những gì mà các người đã lấy trộm của ngài...
Đến đây, trong đám đông nổi lên những tiếng
lầm rầm ấm ức. Suốt nãy giờ Grigôri Karlôvits, mũ lưỡi trai sụp xuống tận mắt,
ngồi quan sát đám nông dân. Có một lần trên gương mặt phì nộn của hắn thoáng hiện
lên một nụ cười đắc thắng - hình như hắn đã thấy được một điều gì... Viên sĩ
quan đã diễn thuyết xong. Đám nông dân yên lặng.
- Tôi đã làm tròn bổn phận. Bây giờ ông nói
đi, ông Mil ạ.- Viên sĩ quan Đức nói với Grigôri Karlôvits.
Grigôri Karlôvits dùng những lời lẽ rất
cung kính để thoái thác:
- Thưa ngài trung úy, tôi không có gì phải
nói với họ cả. Cứ thế họ cũng hiểu hết rồi.
- Được, - viên sĩ quan nói: hắn cũng chẳng
cần quái gì. - Avguxt, đi thôi!
Người lính đội mũ bình thiên quất roi đánh
đét một tiếng, và cổ xe ngựa chạy qua đám đông đang rẽ dần ra hai bên, phóng về
phía tòa nhà công tước, nơi mà mới cách đây ba hôm còn đặt trụ sở ủy ban hành
chính tổng. Đám mu-gích đứng nhìn theo.
- Thằng Đức chống nạnh trông láo thật, - trong
đám đông có tiếng ai nói.
- Còn lão Grigôri Karlôvits thì cứ làm
thinh các cậu ạ.
- Cứ yên trí, lão ấy còn có dịp nói.
- Khổ thật, lạy Chúa, nào chúng ta có tội
tình gì?...
- Bây giờ thì sắp có cảnh sát trưởng đến
nơi rồi.
- Bên Xôxnôvka đã có rồi đấy. Hắn gọi dân
làng đến chửi bới om sòm: nào là các người là đồ này đồ nọ, các người là phường
trộm cướp, các người quên năm 1905 rồi hẳn? Hắn quát tháo ba giờ liền, luôn mồm
chửi bới thậm tệ. Hắn giải thích đủ các thứ chuyện chính trị.
- Thế bây giờ rồi sẽ ra sao đây?
- Sẽ ăn roi thôi.
- Khoan, thế còn mùa màng? Bây giờ thì của
ai?
- Chia đôi. Họ sẽ để cho mình gặt về, rồi nộp
một nửa cho công tước.
- Quỷ quái thật, tôi bỏ đi thôi...
- Đi đâu, hở mụ ngốc?
Đám nông dân bàn tán một lúc rồi giải tán về
nhà. Đến chập tối họ khiêng đến nhà lão công tước nào đi-văng, nào ghế bành,
nào giường, nào rèm, nào gương soi và tranh ảnh đóng khung thiếp vàng...
* * *
Nhà Kraxilnikôv ăn buổi tối không thắp đèn.
Alekxêy chốc lại đặt thìa xuống, nhìn ra cửa sổ thở dài. Matriôna qua qua lại lại
giữa cái lò bếp và bàn ăn, bước lặng lẽ như con chuột. Xêmiôn ngồi gù lưng lên,
mái tóc quăn thẫm màu rũ xuống trán. Mỗi khi đến dọn xương xẩu đi hay đặt liễn
thức ăn khác, Matriôna đều khẽ chạm vào anh, khi thì chạm tay, khi thì chạm ngực.
Nhưng anh vẫn không ngẩng đầu lên, cứ một mực lặng thinh.
Bỗng Alekxêy chồm ra phía cửa sổ, lấy móng
tay gõ vào kính, và nhìn ra ngoài. Bây giờ trong buổi tối yên lặng đã nghe rõ một
tiếng kêu man dại, kéo dài, từ xa vẳng tới. Matriôna lập tức ngồi xuống chiếc
ghế dài ở sát tường, hai bàn tay kẹp chặt giữa hai bắp đùi.
- Chúng nó đánh Vatxka Đêmentyev, - Alekxêy
nói khe khẽ, - lúc nảy thấy họ dẫn hắn đến sân nhà công tước.
- Người thứ ba rồi đấy, - Matriôna thều
thào.
Họ im lặng, lắng tai nghe ngóng. Tiếng người
kêu gào vẫn treo lơ lửng trên làng Vlađimirxkôiê chìm trong bóng tối, âm sắc vẫn
tuyệt vọng và khủng khiếp như cũ.
Xêmiôn đứng bật dậy. Với một động tác gọn
ghẽ, anh thắt lại nịt quần và đi vào phòng Alekxêy, Matriôna cũng lặng lẽ chạy
theo vào. Anh lấy khẩu súng trên tường xuống, Matriôna ôm chầm lấy cổ anh, đu cả
người lên, đầu ngả ra phía sau, hai hàm răng trắng muốt nghiến chặt, thân hình
rũ rượi. Xêmiôn cố ẩy vợ ra nhưng không sao ẩy được. Khẩu súng rơi xuống nền đất
sét. Anh đành nằm vật xuống giường, mặt úp vào gối. Matriôna ngồi ghé bên mép
giường, cuống quít vuốt mái tóc cứng của chồng.
Không dám tin vào lực lượng cảnh vệ và quân
đội mới của thống lĩnh, (lính “haiđamak”), viên quản lý Grirori Karlovits Mil
phải chạy chọt xin điều một đội trấn thủ về làng Vlađimirxkôiê. Trong những trường
hợp như thế quân Đức rất sẵn lòng chấp thuận, và hai trung đội có súng máy kéo
về đóng ở Vlađimirxkôkiê.
Bọn lính được thu xếp chỗ ở trong các nhà
dân. Nghe nói đâu hình như chính lão Grigôri Karlôvits chỉ định những nhà phải
cho lính ở. Dù thực hư ra sao, thì tất cả những nhà nông dân đã tham gia vào vụ
cướp phá trang viên của công tước hồi năm ngoái, và tất cả những người ngoài đảng
có chân trong ủy ban hành chính tổng (có khoảng mười người thanh niên đã trốn
khỏi làng từ trước khi quân Đức xuất hiện) đều phải nhận mỗi nhà một tên lính
và một con ngựa.
Alekxêy Kraxilnikôv cũng vậy. Hôm ấy một
tên lính Đức rất hách, trang bị đầy đủ lệ bộ, khoác súng trường, đội mũ sắt, đến
gõ vào cổng nhà anh. Vừa nói xi xồ những tiếng gì không sao hiểu được, hắn vừa
đưa tờ lệnh cho Alekxêy xem, tay vỗ vỗ lên vai anh:
- Tốt lắm! Pạn...
Họ dọn cho tên lính Đức căn buồng của
Alekxêy, chỉ cất bộ yên cương và khẩu súng trường đi. Tên lính lập tức soạn buồng:
hắn trải ra một tấm chăn rất tốt, treo lên tường một bức ảnh vua Vilhelm, ra lệnh
quét nền nhà cho thật sạch.
Trong khi Matriôna quét nhà, hắn góp áo bẩn
lại rồi bảo giặt hộ: Schmutzig, pfui!
- hắn nói - bitte, zat chiô thôi [Mệt quá, làm ơn giặt cho tôi]. Sau đó, hắn
rất hài lòng về đủ mọi thứ; hắn để nguyên cả ủng nằm kềnh ra giường và châm một
điếu xì gà lên hút.
Tên lính Đức rất béo, có bộ ria dẹt hai đầu
mút uốn cong lên. Quần áo của hắn đều tốt lành và may rất đẹp. Hắn ăn khỏe như
con lợn lòi. Matriôna dọn vào buồng cho hắn món gì, hắn đều ngốn hết sạch; hắn
thích nhất món thịt mỡ lợn ướp muối. Dọn thịt mỡ cho tên lính Đức ăn, Matriôna
tiếc đứt ruột đi, nhưng Alekxêy nói: “Thôi, cứ cho hắn ăn no căng ra rồi hắn ngủ,
miễn hắn đừng chõ mũi vào đâu là tốt rồi”.
Những khi không có việc gì làm, tên lính
hát ư ử một mình những bài hành khúc nhà binh hay viết thư về nhà trên những tấm
bưu ảnh có in phong cảnh thành Kiev. Hắn không quấy phá gì, chỉ phải cái tội hắn
đi rất ồn, nện mạnh gót ủng như ông chủ.
Gia đình Kraxilnikôv như có người chết
trong nhà: ngồi vào bàn ăn, hay ăn xong đứng dậy, họ đều im thin thít. Alekxêy
suốt ngày lầm lỳ, trán cứ nhăn lại, Matriôna thì ủ rũ, suốt ngày thở dài, thỉnh
thoảng lại cầm góc tạp dề lên lau nước mắt. Chị lo lắng nhiều hơn cả là cho
Xêmiôn, chỉ sợ anh nóng tính phát khùng lên. Nhưng ít lâu nay anh như thể lặng
đi, rụt sâu vào bên trong.
Bây giờ ngày nào ở phòng giấy của tổng và
trên cổng các nhà dân cũng thấy dán những sắc lệnh của quan thống lĩnh về việc
trả ruộng đất và gia súc lại cho địa chủ, về những khoản trưng dụng và tịch
thu, về việc thu mua lúa mì, về những biện pháp trừng trị tàn khốc đối với những
ai mưu toan nổi loạn, che giấu cộng sản v.v...
Đọc sắc lệnh, nông dân chỉ làm thinh. Thế rồi
có những tin đồn đáng lo ngại truyền đến, nói rằng ở một làng nào đấy có một bọn
đi thu mua có kỵ binh Đức hộ tống lấy cả lúa mì chưa đập, trả tiền bằng những
thứ bạc giấy gì của nước ngoài mà các nông dân không chịu lấy, rồi ở một làng
khác chúng lại lùa một nửa số gia súc đi, ở một làng nào nữa họ bảo chúng vét sạch
đến nỗi một hạt thóc cho chim sẻ ăn cũng chẳng còn.
Đêm đêm ở những nơi khuất vắng nông dân tụ
tập thành từng tốp nhỏ, nghe kể những tin đồn, thở dài than vắn. Bây giờ biết
làm gì đây? Có cách gì cứu thoát không? Cái uy lực đè lên đầu họ nó to lớn đến
nỗi họ đành chịu chết không dám hé răng.
Xêmiôn bắt đầu lui tới những nơi tụ họp như
vậy - mé sau làng, bên bờ suối, dưới cây liễu. Chiếc áo vết tông khoác lên vai,
anh ngồi giữa hút thuốc và lắng nghe họ nói. Có những lần 178 anh muốn đứng dậy,
bỏ áo vét tông xuống, vươn rộng hai vai ra nói: “Các đồng chí...”. Nhưng làm
như thế chẳng được ích gì, chỉ làm cho họ hoảng sợ. Họ sẽ co cẳng bỏ chạy hết.
Vào một buổi hoàng hôn, trên bãi chăn gia
súc Xêmiôn gặp một người đàn ông đứng nhìn anh, cười cười. Xêmiôn toan đi thẳng
thì người ấy gọi khe khẽ:
- Cậu ơi!
Xêmiôn giật mình: người của ta chăng? Anh
liếc nhìn người kia, hỏi:
- Anh cần hỏi gì?
- Cậu là em trai Alekxêy phải không?
- Cứ cho là như thế.
- Không thèm nhận người của mình à... Đội
thủy thủ tàu “Kerts” cậu còn nhớ không?
- Kôjin! Cậu đấy à? - Xêmiôn vồ lấy tay người
kia xiết thật chặt.
Hai người đứng nhìn nhau, Kôjin đưa nhanh
đôi mắt nhìn quanh rồi nói:
- Đã cưa nòng súng chưa?
- Chưa, ở đây hãy còn yên.
- Có cậu nào gan dạ nữa không?
- Biết đâu đấy, hiện nay thì chưa thấy.
Chúng mình đang đợi xem sao đã.
- Thế các cậu làm cái gì? - Kôjin nói, mắt
luôn luôn đảo quanh, cố nhìn cho rõ những vật hiện lên lờ mờ trong bóng hoàng
hôn. - Các cậu còn đợi cái gì nữa? Các cậu cứ thế đợi cho chúng nó vặt lông như
vặt lông ngỗng, rồi lại còn vươn cổ ra cho chúng nó cắt tiết nữa chắc? Thế các
cậu có biết ở chỗ chúng tôi cả làng Uxpenkôiê đã bị chúng nó bắn đại bác vào
cháy sạch không? Đàn bà, trẻ con chạy mỗi người một ngã, còn đàn ông thì vào rừng.
Ở Nôvôxpaxxki, ở Fiôđôrôvks, ở Gulai-Pôlê dân chạy hết về với chúng tôi...
- Với các anh tức là với ai thế?
- Cậu biết khu rừng Đubrôvxki rồi chứ gì? Tụ
tập về đấy đấy... Thôi được... Cậu cứ rỉ tai anh em thế này: làng Vlađimirôvka
các cậu phải có bốn mươi khẩu súng cưa nòng, súng trường có cả đạn mươi khẩu, lựu
đạn có bao nhiêu hay bấy nhiêu, đem giấu hết vào các đụn rạ, chôn ngoài đồng...
Cậu hiểu chưa? Ở Xôxnôvka họ đã bắt đầu giấu súng, chỉ còn đợi tôi đến nữa là
hành động. Ở Gunđaievka có ba mươi nông dân đang cưỡi ngựa đợi. Phải bỏ đi
thôi.
- Nhưng đi đâu? Đến với ai?
- Đến với thủ lĩnh... Tên là Stsux. Hiện
nay bọn tôi đang tập hợp những chi đội trong khắp Êkarinôxlav... Tuần trước
chúng tôi đã đánh bọn Haiđamak, đốt cháy một trang viên... - Hôm ấy vui lắm cậu
ạ: nào rượu, nào đường, chúng tôi đem phát không cho nông dân hết... Thế cậu nhớ
nhé - một tuần nữa tôi sẽ đến...
Anh ta nháy mắt chào Xêmiôn, nhảy qua một
dãy hàng rào và chạy lom khom vào đám cói, nơi ếch nhái đang ra sức kêu ì ộp.
Những tin đồn về các thủ lĩnh, về những trận
đột kích có truyền đến Vlađimirôvka, nhưng Xêmiôn không tin. Thế mà bây giờ lại
gặp ngay được một người đã chứng kiến tận mắt. Ngay tối hôm ấy Xêmiôn đem chuyện
này kể với Alekxêy. Alekxêy nghiêm trang lắng nghe.
- Cái tay thủ lĩnh ấy tên là gì?
- Stsux, họ nói thế.
- Chưa nghe nói bao giờ. Về Makhnô, thì có
những tin đồn là toán của hắn ta, có những hai mươi lăm tay anh chị vong mạng,
thường cướp phá các trang trại. Còn về Stsux thì chưa nghe nói tới. Đều có thể
có cả: bây giờ anh mu-gích có khả năng làm tất. Thôi thì Stsux cũng được, công
việc trọng đại cả... Nhưng Xêmiôn ạ, có điều là chưa nên nói với nông dân vội.
Khi nào cần, anh khắc nói với họ.
Xêmiôn cười nhạt, nhún vai:
- Anh cứ đợi cho đến khi nào chúng nó vặt
trụi lông đi rồi nói.
Tối hôm ấy chắc Kôjin không phải chỉ gặp một
mình Xêmiôn. Trong làng bắt đầu rỉ tai nhau những chuyện súng cưa nòng, lựu đạn,
quân của các thủ lĩnh. Đêm đêm nếu lắng tai nghe kỹ, sẽ thấy đây đó có tiếng
cưa sắt xoèn xoẹt. Nhưng tạm thời xung quanh vẫn yên tĩnh. Quân Đức lại còn củng
cố trật tự, bày ra cái lệ cứ đến thứ bảy thì quét đường để chuẩn bị cho ngày chủ
nhật. Không sao, muốn quét đường thì dân làng cứ quét.
Rồi tai ương cũng đến với dân làng
Vlađimirôvxkôiê vào một buổi sáng sớm, dân làng chưa kịp lùa gia súc đi uống nước
thì trên con đường làng quét sạch đã có một toán cảnh vệ và đội cơ đeo thẻ sắt
trước ngực kéo đi. Họ ghé vào từng nhà gõ lên cửa sổ:
- Đi ra!
Nông dân hối hả vừa cài cúc áo vừa đi chân
không ra cổng, và lập tức nhận được một tờ sức: nhà này phải đem ngần này lúa
mì, lông cừu, thịt mỡ và trứng nộp cho phòng quân nhu Đức, và sẽ được trả ngần
này tiền mark. Trên sân nhà thờ đã có xe tải nhà binh đợi sẵn. Bên cổng các nhà
dân, những ông khách trọ người Đức, đầu đội mũ sắt, tay cầm súng, đứng cười
khinh khỉnh.
Nông dân bắt đầu gãi đầu gãi tai. Người thì
thề có trời chứng giám là mình chẳng có gì. Người thì vứt mũ xuống đất:
- Nhà tôi làm gì có lúa mì hở trời! Có chọc
tiết tôi đi cũng chẳng lấy đâu ra được ấy chứ!...
Lúc bấy giờ lão quản lý đi xe đrôjki qua làng. Nông dân không sợ lính
Đức và cảnh vệ bằng sợ cặp kính gọng vàng của lão, bởi vì cái gì lão cũng biết,
cái gì lão cũng thấy hết.
Lão cho con ngựa giống dừng lại. Viên cảnh
sát trưởng đến cạnh xe. Hai người nói chuyện gì với nhau một lát. Viên cảnh sát
trưởng quát gọi bọn cảnh vệ, bọn này xông vào sân nhà đầu tiên hắn chỉ và lập tức
tìm ra chỗ lúa giấu dưới đống phân. Khi lão Grigôri Karlôvits nghe tiếng người
mu-gích bị phát giác gào lên, người ta chỉ thấy cặp kính của lão lóe lên một
cái.
Alekxêy đang đi đi lại lại trong sân nhà
mình. Anh ta bối rối đến nỗi ai trông cũng phải ái ngại. Matriôna úp mùi xoa
lên mắt ngồi khóc trên thềm.
- Cầm mấy đồng mark này thì làm được cái gì? Thử hỏi: làm được cái gì kia chứ? -
Alekxêy vừa nói vừa lẩn thẩn nhặt lên khi thì một khúc gỗ, khi thì cái bánh xe
gẫy, ném ra đám ngải đắng mọc ở hàng rào. Trông thấy con gà trống, anh ta giẫm
chân quát nó: - Đồ chết tiệt! - Rồi lại cầm lấy cái ổ khóa trên cửa nhà kho: -
Rồi sẽ lấy gì mà hốc đây? Nhai mấy đồng mark
này chắc? Thế ra chúng nó muốn mình đi ăn mày à? Chúng nó bắt mình phá sản hoàn
toàn à? Lại chui vào ách nô lệ suốt đời à?
Xêmiôn ngồi cạnh Matriôna nói:
- Rồi còn tệ hơn nữa. Chúng nó sẽ lấy cả
con ngựa của anh cho mà xem.
- Ồ không thể được! Đến lúc ấy thì tao cho
chúng nó một nhát rìu!
- Anh tỉnh ngộ muộn quá.
- Ôi trời ôi, - Matriôna gào lên, - tôi sẽ
cắn cổ chúng nó!
Có tiếng báng súng nện đánh sầm một phát
vào cổng. Ông khách trọ người Đức béo tốt bước vào, điềm nhiên, vui vẻ như vào
nhà mình. Theo sau là sáu tên cảnh vệ và một người mặc thường phục, đội mũ lưỡi
trai của công chức có đính phù hiệu hình đinh ba của thống lĩnh, tay cầm một cuốn
sổ dày.
Tên lính Đức hất hàm về phía căn nhà kho
nói:
- Ổ tây kó nhều thứ lắm: mỡ, pénh mì.
Alekxêy căm giận nhìn hắn, lùi lại và lấy hết
sức ném cái chìa khóa rỉ to tướng xuống chân viên công chức của tòa thống lĩnh.
- A, a, đồ khốn nạn! - hắn thét lên. - Muốn
chết đòn phỏng, thằng súc sinh?
Xêmiôn lấy khuỷu tay gạt Matriôna ra, lao từ
trên thềm xuống, nhưng ngay tức khắc cái lưỡi lê rộng bản đã dí vào ngực anh.
- Halt! - tên lính Đức quát, giọng rất
đanh, rất hách. - Thằng Nga kia, fề chiỗ!
* * *
Suốt ngày hôm ấy lính tráng bốc hàng lên
chiếc xe giàn nhà binh và đến khuya đoàn xe lên đường. Làng Vlađimirka đã bị
vét sạch. Không một nhà nào buồn thắp đèn ăn bữa tối. Trong mấy túp nhà tối
tăm, những người đàn bà ngồi khóc rống lên, tay vò nát nắm tiền giấy của Đức...
Nếu có hai vợ chồng nông dân nào cầm những
đồng mark này lên tỉnh, ghé vào các cửa hiệu, thì cũng chẳng có một thứ gì mà
mua: một thước vải, một mảnh dạ, một cái đinh cũng không có. Các nhà máy đều
đóng cửa, lúa mì, đường, xà phòng, nguyên liệu đều theo từng chuyến tàu tuồn
sang Đức hết. Chẳng lẽ lại chở về làng một cây đàn dương cầm, một bức tranh cổ
Hà-lan hay một bộ đồ trà Trung quốc? Chỉ còn biết đứng nhìn mấy tên lính
haiđamak cạo trọc đầu để chỏm đuôi gà, với bộ ria mép buông thõng xuống hai
bên, mặc bộ đồ xanh, đội mũ lông chóp đỏ. Chỉ còn biết đi lang thang bên dãy phố
chính, chen chúc giữa bọn buôn bạc và buôn nước bọt mặt cạo xanh biếc, đầu đội
mũ quả dưa. Chỉ còn biết thở dài cay đắng mà đi về không. Lên tàu đi được vài
mươi dặm thì thấy đứng sững lại: trục bánh xe cháy hết rồi, không có mỡ, không
có dầu máy: quân Đức lấy hết rồi. Họ lấy cát rắc lên, tàu lại chuyển bánh, rồi
một lát sau trục lại cháy.
Chính vì thế mà đàn bà vò nát đám tiền mark trong nắm tay mà khóc, còn đàn ông
thì đem gia súc vào giấu trong các khe rừng, tránh xa tai vạ: có trời biết đến
mai người ta còn yết thứ sắc lệnh gì nữa?
Trong làng chẳng ai đốt đèn lên, nhà nào
cũng tối mịt. Chỉ có những khung cửa sổ tòa nhà lão công tước soi bóng xuống mặt
hồ ở sau khóm rừng là thắp đèn sáng trưng. Ở đấy, lão quản lý đang dọn tiệc thết
các sĩ quan Đức. Một dàn nhạc binh giúp vui cho bữa tiệc. Âm thanh của những điệu
valse Đức văng vẳng trên xóm làng tối tăm nghe rùng rợn lạ thường. Một quả pháo
hoa bay vút lên cao, vẽ thành một sợi dây lửa, để tiêu khiển cho mấy tên lính Đức
đang đứng ngoài sân dinh thự (người ta cũng đã lăn ra cho họ một thùng bia). Quả
pháo nổ tung ra. Và những mái rạ, những mảnh vườn, những cây liễu, cái tháp chuông
quét vôi trắng, những dãy hàng rào, đều sáng lên dưới ánh những chùm sao từ từ
rơi xuống. Nhiều gương mặt rầu rĩ đã ngước lên nhìn những chùm sao này. Ánh
sáng rực rỡ đến nỗi mỗi nếp nhăn chua chát đều hiện rõ lên. Đáng tiếc là giây
phút ấy không có một chiếc máy ảnh vô hình nào chụp lại được những nếp nhăn
này. Những bức ảnh như vậy sẽ cung cấp được một tài liệu quí báu để cho bộ tổng
tham mưu Đức suy nghĩ.
Ngay giữa đồng không cách làng hàng dặm
cũng sáng rực lên như ban ngày. Mấy người đang đi về phía một đụn rạ chơ vơ giữa
đồng vội vã nằm rạp xuống. Chỉ có một người ở bên đụn rạ vẫn đứng yên. Ngẩng đầu
lên nhìn những đốm lửa nho nhỏ từ trên trời rơi xuống, hắn cười khẩy:
- Xem kìa, khoái chưa!
Những đốm lửa chưa rơi xuống đất đã tắt ngấm.
Xung quanh tối sập lại. Toán người xúm xít bên đống rạ, súng ống ném xuống đất
lịch kịch.
- Cả thảy được bao nhiêu?
- Mười súng cưa nòng, bốn súng trường, đồng
chí Kôjin ạ.
- Ít quá...
- Chưa góp kịp, tối mai sẽ đưa nữa.
- Thế đạn đâu?
- Đấy, trong túi áo cả... Đạn thì nhiều lắm.
- Thôi được rồi, các cậu cứ giấu dưới đống
rạ... Lựu đạn, nhớ đem theo lựu đạn nhé... Súng cưa nòng là vũ khí của ông già;
cứ ngồi dưới rãnh, nấp sau một bụi cây, bắn xong cho vào ống quần, thế là gọn lỏn.
Còn cánh trẻ thì phải súng trường, và nhất là lựu đạn. Hiểu chưa? Vả lại ai có
được thì nên đeo cả gươm nữa. Nó là vũ khí đệ nhất đẳng đấy.
- Đồng chí Kôjin ạ, giá làm ngay đêm nay
thì hay quá.
- Thật đấy, cả làng chúng tôi sẽ nổi dậy...
Đang căm lắm: chúng nó lột da sống rồi còn gì... Cầm hái, cầm đinh ba, có thể
nói là chúng tôi sẽ dùng hết các thứ công cụ lao động... Chúng nó ngủ say, dễ
thịt lắm...
- Ai là chỉ huy ở đây, anh hẳn! - Kôjin
nói, giọng như bổ rìu. Anh ta ngừng một lát rồi nói tiếp, lúc đầu còn khe khẽ,
rồi mỗi lúc một to giọng lên: - Ai là chỉ huy ở đây? Thử hỏi như vậy... Hay tôi
đang nói chuyện với một lũ ngốc? Hay để tôi bỏ đi ngay, mặc cho bọn Đức, bọn
haiđamak tha hồ đánh đập, cướp giật của các anh?... (Một câu chửi tục thì thầm).
Các anh không biết kỷ luật là gì à? Số đầu tôi đã chém vì tội ấy có ít đâu? Đã
đi theo đội là phải thề hoàn toàn tuyệt đối phục tùng thủ lĩnh... Nếu không thì
đừng đi. Với chúng tôi thì tha hồ nhậu nhẹt, chơi bời, nhưng khi thủ lĩnh đã
hô: “lên yên!” thì anh không còn là của anh nữa. Hiểu chưa? (Kôjin im lặng một
lát, rồi nói tiếp, giọng làm lành, nhưng vẫn nghiêm nghị). Hôm nay hay ngày mai
đều chưa thể động đến quân Đức được. Muốn thế phải có lực lượng thật hùng hậu.
- Đồng chí Kôjin ạ, ít ra cũng để chúng tôi
mò tới lão Grigori Karlôvits một chút: dù sao lão ấy cũng chẳng cho chúng tôi sống.
- Về lão quản lý thì có thể được, nhưng ít
nhất là phải đợi sang tuần sau, nếu không, tôi không lo xuể được đâu. Hôm trước
ở Ôxipôvka có thằng lính Đức hiếp một chị trong làng. Chị ta cho hắn ăn bánh chả
có bỏ cây kim vào. Hắn ăn xong đứng dậy chạy ra sân ngã lăn quay ra, một lát
sau thì hồn lìa khỏi xác. Quân Đức thịt ngay chị kia. Thế là mu-gích trong làng
vớ lấy rìu... Đến đây quân Đức làm những gì, cũng chẳng muốn nhớ đến nữa... Bây
giờ muốn tìm cái chỗ ngày trước là làng Ôxipôvka cũng không tìm ra được... Làm
ăn cái kiểu tự phát, liều mạng thì nó thế đấy... Một hai ba, thế là đi tong! Hiểu
chưa?
* * *
Matriôna trằn trọc trên giường, chốc chốc lại
thở dài. Trời đã hửng sáng, gà bắt đầu cất tiếng gáy râm ran. Sương đêm phủ
trên bậu cửa sổ mở rộng. Một con muỗi bay vo ve. Con mèo ngủ trên lò sưởi thức
dậy, mềm mại nhảy xuống đất và đến ngửi ngửi nắm rác ở góc phòng.
Hai anh em ngồi nói chuyện khe khẽ bên cái
bàn không trải khăn, Xêmiôn chống khuỷu tay ôm đầu, Alekxêy ghé sát Xêmiôn nhìn
vào mặt em nói:
- Anh không thể đi được, Xêmiôn ạ, chú phải
hiểu cho anh. Một mình Matriôna không lo xuể được việc nhà đâu. Chẳng lẽ ky cóp
bao nhiêu năm nay, bây giờ lại bỏ hết sao? Chúng nó sẽ phá sạch. Lúc về chỉ còn
trơ ra một khoảng đất trống.
- Không bỏ được à? - Xêmiôn nói. - Cơ ngơi
của anh sẽ mất ư? Cũng chưa có làm sao cả. Thắng rồi ta sẽ xây nhà gạch hẳn hoi
(anh cười nhạt). Đang cần chiến tranh du kích, thế mà anh chỉ lo nghĩ đến cơ
ngơi!
- Nhưng ai sẽ nuôi cho các chú ăn?
- Còn anh thì dù sao cũng có nuôi chúng tôi
đâu, anh nuôi quân Đức, anh nuôi lão thống lĩnh, nuôi đủ thứ dòi bọ như thế...
Anh làm nô lệ cho chúng nó...
- Gượm đã. Năm mười bảy anh không chiến đấu
vì cách mạng chắc? Anh không được bầu vào ủy ban binh sĩ chắc? Anh không góp phần
vào làm tan rã chiến tuyến của chủ nghĩa đế quốc chắc? Ấy thế... Khoan hẵng mạt
sát anh vội, Xêmiôn ạ... Còn bây giờ thì... ấy, hễ Hồng quân tiến về, anh sẽ là
người đầu tiên cầm lấy súng. Chứ bây giờ đi vào rừng làm gì, theo một anh thủ
lĩnh nào đấy để làm gì?
- Bây giờ thì mấy anh thủ lĩnh ấy vẫn được
việc như thường.
- Đã đành.
- Cái vết thương chết tiệt này nó trói chân
trói tay tôi, - Xêmiôn duỗi hai cánh tay lên mặt bàn, - Cái khổ của tôi là ở chỗ
ấy... Trong khi đó thì dân Hắc hải chúng tôi theo các chi đội ấy rất đông...
Chúng tôi sẽ đốt cháy xứ Ukrain này từ khắp bốn phía, rồi anh xem...
- Chú có gặp lại Kôjin lần nào nữa không?
- Có.
- Hắn nói thế nào?
- Chúng tôi nói với nhau là chỉ ít nữa sẽ
có hội hoa đăng ở làng này.
Alekxêy đưa mắt nhìn em, tái mặt đi rồi cúi
đầu.
- Phải, dĩ nhiên cũng nên... Cái tòa dinh
thự chết tiệt ấy cứ như cái gai trước mắt... Cái lão Grigôri Karlôvits mà còn sống
ngày nào thì lão còn chẹn lấy cổ mình ngày ấy...
Matriôna nhảy trên giường xuống. Mình mặc mỗi
chiếc áo ngủ, chỉ khoác vội thêm tấm khăn san thêu hoa hồng, chị bước ra, gõ gõ
khớp ngón tay xuống bàn mấy tiếng rồi nói:
- Chúng nó cướp hết của tôi, tôi không để
yên như thế được đâu! Bọn đàn bà chúng tôi sẽ trị cái lũ quỷ ấy trước các ông
cho mà xem.
Xêmiôn nhìn vợ, ánh mắt vui lên một cách đột
ngột:
- Sao? Các bà sẽ đánh nhau với chúng nó bằng
cách gì thế không biết?
- Chúng tôi sẽ đánh theo cái lối đàn bà của
chúng tôi. Hắn ngồi ăn cứ thế cho thuốc chuột vào... Chúng tôi sẽ xoay được thuốc.
Cũng có thể nhử hắn vào nhà kho hay vào nhà tắm: chỉ cần chiếc que đan đâm vào
chỗ này này, thế là hắn chết không kêu được nữa. Chúng tôi sẽ khai mào, sau đó
các ông cứ dạn dĩ lên là được... Mà nếu cần thì chúng tôi cũng sẽ cầm súng, chẳng
thua gì các ông...
Xêmiôn giẫm chân cười ha hả:
- Thế mới là đàn bà cừ khôi chứ, quỷ thật!
- Xê ra! - Hất tấm khăn san ra sau vai,
Matriôna đi ra cửa, xỏ hai bàn chân không vào đôi giày rồi nện gót bỏ đi, chắc
là ra thăm gia súc. Xêmiôn và Alekxêy ngồi lại, hồi lâu còn lắc đầu cười với
nhau: “Ghê thật, đàn bà như thế thì làm thủ lĩnh cũng được ấy chứ”.
Một làn gió sớm hiu hiu lùa vào khung cửa sổ,
lá mấy bụi cây cảnh chạm vào nhau sột soạt, và từ ngoài sân đưa vào những tiếng
lẩm bẩm và những câu hát đứt đoạn, âm điệu chẳng Nga một chút nào. Đó là tên
lính Đức ở trọ vừa ở dinh thự về say khướt, ủng lê xền xệt trên sân. Alekxêy bực
dọc đóng sập cửa sổ lại.
- Về buồng mà nằm đi Xêmiôn ạ.
- Anh sợ à?
- Thằng quỷ say ấy thế nào cũng kiếm chuyện...
Hắn còn nhớ hôm chú xông vào hắn!
- Tôi sẽ xông vào nữa! - Xêmiôn đứng dậy,
toan đi về buồng. - Chao ôi, Aliôsa ạ, cách mạng có thất bại cũng chỉ vì lay
các anh khó lắm... Kornilôv chưa đủ ư? Các anh còn muốn gì nữa? (Anh bỗng im bặt).
Khoan...
Ngoài sân có tiếng lầu bầu và tiếng để ủng
nặng nề, loạng choạng. Một tiếng phụ nữ thét lên giận dữ: “Buông ra!...” Rồi có
tiếng xô đẩy, tiếng thở hì hục, và tiếng Matriôna thét to hơn nữa, như thể bị
đánh đau: “Xêmiôn, Xêmiôn!...”
Xêmiôn như điên như dại nhảy xổ ra sân,
Alekxêy chỉ chống tay vào chiếc ghế dài, ngồi yên. Đằng nào cũng thế thôi. Anh
biết thừa là thường sẽ xảy ra những gì khi một con người nhảy xổ ra với một tư
thế như vậy. Anh nghĩ bụng: “Ban nãy mình để cái rìu ngoài phòng lót, thế thì
chắc là...”. Ngoài sân, Xêmiôn hét lên một tiếng man dại. Có cái gì phang đánh
rắc một cái, rồi có tiếng phì phì xen với một tiếng gì òng ọc như nước chảy, rồi
tiếng một vật gì nặng nề rơi phịch xuống đất.
Matriôna bước vào, mặt trắng bợt ra như tờ
giấy, tay kéo lê tấm khăn san. Chị cúi xuống cái lò sưởi, bộ ngực nở nang thở
phập phồng. Bỗng chị khoát tay về phía Alekxêy, xua xua bàn tay trước mặt anh.
Xêmiôn hiện ra ở ngưỡng cửa, diềm tĩnh,
xanh xao...
- Anh giúp cho một tay: phải khiêng đi vùi
thôi...
5
Quân Đức tiến đến sông Đôn và biển Azôv thì
dừng lại. Họ đã chiếm lĩnh được một vùng hết sức trù phú rộng hơn cả nước Đức. Ở
đây, trên sông Đôn, cũng như ở Ukrain, tổng hành dinh Đức lập tức can thiệp vào
nội chính và củng cố thế lực của bọn đại địa chủ ở các làng cô-dắc - chính những
kẻ mới cách đây bốn năm còn huênh hoang là sẽ tiến thẳng một mạch đến chiếm
Berlin như trở bàn tay. Những gã cô-dắc mặt bạnh mặc quần nẹp đỏ ấy bây giờ đã
thành ra ngoan ngoãn như bầy cừu.
Quân Đức chưa tiến tới gần Rôxtôv thì một đạo
quân cô-dắc gồm một vạn người do thủ lĩnh quân sự Popôv chỉ huy đã lao vào
Nôvôtserkaxxk, thủ phủ vùng sông Đôn. Trong một trận huyết chiến diễn ra trên một
cao nguyên ven bờ sông Đôn, lính cô-dắc đỏ của đội quân trấn thủ Nôvôtserkaxxk
và lực lượng bolsêvik từ Rôxtôv kéo đến tiếp viện đã bắt đầu át giọng quân cô-dắc
của Popôv, nhưng một sự tình cờ quái đản đã quyết định kết quả của trận này
theo một hướng ngược hẳn.
Từ Rumani có một đội quân tình nguyện của đại
tá Đrôzđôvxki hành quân bộ về. Ngày 22 tháng tư nó đột ngột đánh vào Rôxtôv, giữ
thành phố cho đến tối, rồi bị đánh bật trở ra. Quân Đrôzđôvxki đi theo thảo
nguyên, cố tìm quân đoàn Kornilôv. Giữa đường đi, ngày 25 tháng tư họ nghe tiếng
súng nổ rền ở miệt Nôvôtserkaxxk. Không cần biết ai đánh ai, tại sao, để làm
gì, họ quay ngoắt về phía thành phố, đưa xe bọc thép tiến thẳng vào đội dự bị của
hồng quân và gây nên một tình trạng hỗn loạn ghê gớm trong cánh quân này. Thấy
có quân cứu viện từ trên trời rơi xuống, Popôv chuyển sang phản công, đánh tan
quân đỏ, buộc họ phải rút chạy. Nôvôtserkaxxk đã bị chiếm. Chính quyền của ủy
ban cách mạng chuyển vào tay “Hội cứu vong vùng sông Đôn”. Sau đó là quân Đức
tiến vào.
Dưới sự bảo trợ của quân Đức, Hội cô-dắc ở
Nôvôtserkaxxk (quân Đức khôn ngoan đã không đặt quân trấn thủ ở thành phố này)
đã trao quyền trượng thủ lĩnh cho tướng Karxnôv, người vẫn tự xưng là “chơi với
hoàng đế Vilhelm”. Những quả chuông màu mận chín trong nhà thờ lớn cất tiếng
ngân nga. Trên cái quảng trường lát đá rộng mênh mông ở trước mặt nhà thờ lớn,
quân cô-dắc tung hô: “Ura!”. Và những cụ già cô-dắc đầu bạc lên tiếng chúc mừng
vận may của xứ sở.
Quân Đức không vượt quá Rôxtôv để tiến sâu
vào vùng sông Đôn và sông Kuban. Họ cũng đã mưu toan bình định Bataixk, một
làng cô-dắc nằm trên tả ngạn sông Đôn đối diện với Rôxtôv, dân cư gồm có thợ
thuyền ở các xưởng thủ công, các nhà máy ở Roxtôv và dân nghèo ở ngoại ô thành
phố này. Nhưng sau một trận pháo kích vũ bão và nhiều cuộc xung phong đẫm máu,
họ vẫn không chiếm được làng này. Làng Bataixk, gần như ngập hết dưới làn nước
lũ, đã chống cự đến cùng và giữ được quyền độc lập.
Quân Đức dừng lại ở cái mốc này. Họ quay
sang củng cố chính quyền thủ lĩnh và chở những vũ khí đã chiếm được ở các kho
quân giới của Nga ở Ukrain đến. Một vấn đề khác, rất tế nhị, là mối quan hệ với
hai nhóm quân tình nguyện: quân đoàn Đênikin và đội quân của Đrozđôvxki, cũng
được họ giải quyết một cách thận trọng như thế. Quân tình nguyện có hai chủ
trương thiêng liêng; tiêu diệt bọn bolsêvik, và tiến hành chiến tranh trở lại với
quân Đức, nghĩa là trung thành với đồng minh đến hơi thở cuối cùng. Chủ trương
thứ nhất thì quân Đức cho là hợp lý và hay ho, còn chủ trương thứ hai thì họ
coi như một sự ngu xuẩn không lấy gì làm nguy hiểm cho lắm. Vì vậy họ làm ra vẻ
như không hề biết rằng trên đời này có một thứ lực lượng gọi là quân tình nguyện.
Quân Đrôzđovxki và quân Đênikin cũng làm ra vẻ như không để ý đến sự có mặt của
quân Đức trên đất Nga này.
Chẳng hạn, như trong cuộc hành quân từ
Kisinev đến Rôxtôv, đội quân của Đrôzđôvxki có lần phải vượt qua một con sông.
Một bên sông, phía Bôrixlavl, có quân Đức đóng, còn bên kia, phía Kakhôvka, thì
có quân bolsêvik.
Lúc bấy giờ quân Đức vẫn không sao xông lên
được cái cầu bắc qua sông. Thế là quân Đrôzđôvxki xông luôn lên chiếm lĩnh cầu,
vượt qua sông đánh bật quân đỏ ra khỏi Kakhôvka, và không đợi nghe lời cảm tạ của
quân Đức, họ tiếp tục cuộc hành quân.
Đênikin cũng vấp phải một mối mâu thuẫn như
thế, nhưng ở quy mô lớn hơn. Vào cuối tháng tư những đám tàn quân của Quân đoàn
tình nguyện bị đánh liểng xiểng ở Êkatêrinôđar đã chật vật lê đến khu vực hai
làng cô-dắc Êgorlytxkaia và Mêtsêtinxkaia, cách Nôvôtserkaxxk khoảng năm mươi dặm.
Đến đây đột nhiên có một tin cho biết là họ đã thoát nạn: Roxtôv đã bị quân Đức
chiếm, Nôvôtserkaxxk đã lọt vào tay quân cô-dắc của Popôv. Thế là hồng quân
thôi truy kích quân tình nguyện và quay sang đối phó với kẻ địch mới - quân Đức.
Quân tình nguyện được nghỉ ngơi, điều trị
thương binh, tập trung lực lượng. Trước hết là phải bổ sung vũ khí và đạn dược
cho quân đội.
Tất cả các ga xe lửa từ Tikhôretxkaia cho đến
Bataixk đều chất đầy những vũ khí dự trữ nhiều vô số chuẩn bị cho cuộc phản
công của hồng quân vào Roxtôv. Markôv, Bôgaievxki và Êrđii dẫn ba đạo quân đột
nhập vào hậu phương gần nhất của hồng quân - ba nhà ga Krylôvxkaia, Xôxyka và
Novo-Lêuskovxkaia, đánh tan các đoàn quân chuyển theo đường hỏa xa, giật mìn nổ
tung một đoàn tàu bọc thép và mang một số chiến lợi phẩm khổng lồ về căn cứ, về
thảo nguyên. Cuộc tấn công vào quân Đức chưa kịp tiến hành đã bị chặn đứng lại.
Vai Rôstsin đã liền khớp, những vết xước nhẹ
trong các trận vừa qua đã khỏi. Rôstsin khỏe ra, đen đi và mấy ngày gần đây,
đóng quân trong một làng cô-dắc yên tĩnh, chàng đã ăn uống thỏa sức.
Cái nhiệm vụ vẫn ám ảnh và giày vò chàng
như một bệnh tâm thần ngay từ hồi còn ở Moxkva - trả thù bọn bolsêvik để rửa sạch
nỗi ô nhục của chàng - nay đã được thực hiện. Chàng đang được trả thù. Dù sao,
cũng có một chút ghi sâu vào ký ức của chàng... Hôm ấy chàng vừa chạy đến một
con đường sắt đắp lên cao... Trận đánh đã kết thúc thắng lợi... Đầu gối chàng
run run, mạch máu trên thái dương chàng rần rật. Chàng bỏ chiếc mũ lưỡi trai dạ
mềm xuống lau qua lưỡi lê. Chàng làm việc đó một cách bất giác, như một người
lính lâu năm quen giữ sạch vũ khí. Chàng không còn thể nghiệm nỗi căm thù điên
dại trước kia đã từng khiến cho chàng có cảm giác như đầu bị thắt chặt trong những
vòng đai bằng chì, máu xông lên hoa cả mắt. Vừa rồi chẳng qua chàng đuổi kịp
quân thù, đâm lê vào người nó rồi lau lưỡi lê đi: như thế nghĩa là chàng đúng.
Đúng ư? Trí óc của chàng đã minh mẫn trở lại, cố hiểu cho ra: - chàng có đúng
không? Đúng ư? Đúng thật ư? Thế thì tại sao chàng lại tự hỏi như vậy?
Hôm nay là ngày chủ nhật. Trong ngôi nhà thờ
của làng cô-dắc đang làm lễ. Rôstsin đến muộn. Chàng len lỏi một lát sau mấy
cái gáy mới cạo đang chen chúc đứng xem lễ trước sân, rồi đi vòng ra khu nghĩa
địa cũ sau nhà thờ. Chàng tha thẩn bước đi trên thảm cỏ điểm lơ thơ những đóa
hoa bồ công anh đang nở, ngắt một ngọn cỏ gà đưa lên nhấm và ngồi xuống một gò
đất nhỏ. Vađim Pêtrôvits là một người trung thực và như Katya vẫn nói - là một
người nhân hậu.
Từ khung cửa sổ hé mở bám đầy mạng nhện vẳng
ra những giọng trẻ con đang hát thánh ca, và những câu đệm ồ ồ của ông thầy lễ
nghe giận dữ và tàn bạo đến nỗi người nghe có cảm giác như chỉ một chút nữa là
những giọng trẻ con kia sẽ hoảng sợ vỗ cánh bay đi mất. Tâm tư Vađim Pêtrôvits
bất giác ngược dòng thời gian lần về dĩ vãng, như thể muốn đi tìm một cái gì thật
trong sáng, ngây thơ...
Cậu bé Vađim mừng rỡ thức giấc. Ngoài khung
cửa sổ cao và sạch bóng là bầu trời mùa xuân xanh thẫm: kể từ dạo ấy cậu không còn
trông thấy một bầu trời như vậy nữa. Ngoài vườn có tiếng lá cây xào xạc. Trên
chiếc ghế tựa đặt cạnh cái giường con bằng gỗ có để một chiếc áo sơ-mi mới tinh
bằng xa-ti-nét màu xanh da trời có chấm
trắng. Từ chiếc áo nhỏ tỏa ra mùi hương của ngày chủ nhật. Cậu bé nghĩ xem mình
sẽ làm những gì suốt cả một ngày vui dài như hôm nay, sẽ gặp những ai. Nghĩ như
thế cũng đã là một công việc hấp dẫn và vui thú đến nỗi cứ muốn nằm rốn lại mà
nghĩ nữa... Cậu nhìn lên giây hoa dán tường, trên đó cứ lập đi lập lại mãi khắp
bốn bức tường một mẩu trang trí: một ngôi nhà Trung quốc mái cong, một nhịp cầu
uốn vồng và hai chú người Tàu đi ô, rồi một chú thứ ba nữa đội cái mũ giống như
cái chao đèn đang ngồi trên cầu câu cá. Ôi, mấy chú người Tàu hiền lành, ngộ
nghĩnh ấy, được ở cái nhà mái cong bên dòng suối chắc họ thích lắm nhỉ... Từ
ngoài hành lang có tiếng mẹ gọi: “Vađim ơi, sắp xong chưa con? Mẹ sửa soạn xong
cả rồi đấy...”. Và tiếng nói thân yêu, hiền dịu ấy vẫn vang vọng mãi suốt đời
chàng như một phước lành, như một nguồn hạnh phúc. Bé Vađim trong chiếc áo xanh
chấm trắng đứng cạnh mẹ. Mẹ cậu mặc chiếc áo lụa dài rất đẹp. Bà hôn cậu, lấy
cái lược cài trên tóc chải đầu cho cậu: “Đấy, bây giờ được rồi, ta đi thôi...”.
Bước xuống dãy cầu thang rộng, bà mở chiếc dù ra. Trên khoảng sân quét sạch hãy
còn vết chổi trên mặt đất có một cỗ ngựa hồng ba con đang sốt ruột dẫm chân như
không thể đứng yên lâu hơn được nữa: con ngựa lề bên trái giở quẻ nghịch ngợm,
con ngựa trục oai vệ gõ móng xuống đất bới thành cái hốc. Bác xà ích no nê và
mãn nguyện, hai ống tay áo màu mận chín thò ra ngoài chiếc áo trấn thủ bằng
nhung, để bộ râu y hệt như Pugatsôv, cất tiếng chúc hai mẹ con ngày lễ tốt
lành. Mẹ Vađim lựa thế ngồi cho thoải mái trong chiếc xe kiệu tràn ngập ánh nắng
ấm. Vađim nép vào mẹ, lòng bồi hồi sung sướng, cảm thấy trước rằng chỉ lát nữa
gió sẽ vun vút bên tai, rặng cây sẽ bay loang loáng về phía sau. Cỗ ngựa phi
vòng qua dinh thự. Và đây là con đường làng rộng thênh thang, bên lề có mấy bác
mu-gích trịnh trọng cúi chào, và mấy con gà vừa kêu quang quác và vừa cuống
quít chạy từ dưới bánh xe ra. Dãy hàng rào sơn trắng của ngôi nhà thờ, bãi cỏ
xanh rờn, những cây bạch dương non lá mới nhú lăn tăn, hắt bóng lên những nấm mộ
tròn tròn cắm những cây thánh giá xiêu vẹo... Sân nhà thờ với những người ăn
xin... Mùi hương trầm quen thuộc...
Ngôi nhà thờ ấy, và những cây bạch dương ấy
đến ngày nay vẫn còn nguyên ở chỗ cũ. Vađim Pêtrôvits mường tượng như đang
trông thấy những đường ren xanh rờn của rặng cây in trên nền trời... Dưới bóng
cây bạch dương thứ năm tính từ góc nhà thờ, mẹ chàng đã yên nghỉ từ lâu. Quanh
nấm mộ có quây một dãy rào sắt. Cách đây ba năm ông bõ già ở nhà thờ có viết
thư cho Vađim Pêtrôvits nói rằng dãy rào đã gẫy hết, cây thập tự bằng gỗ đã mục...
Và mãi đến bây giờ, với một niềm hối hận da diết, chàng mới sực nhớ ra rằng rốt
cục chàng đã không trả lời bức thư ấy.
Gương mặt đáng yêu, đôi bàn tay hiền hậu,
giọng nói sáng sáng vẫn đánh thức chàng và làm cho lòng chàng tràn trề hạnh
phúc suốt cả ngày hôm ấy... Tình yêu thương đằm thắm đối với từng sợi lông tơ
nhỏ, từng vết xước cỏn con trên thân thể chàng... Trời ơi, dù nỗi buồn của
chàng có lớn đến đâu chăng nữa, chàng cũng biết rằng thế nào rồi nó cũng sẽ
chìm ngập, sẽ tiêu tan đi trong tình thương yêu đằm thắm của mẹ chàng. Tất cả
những cái đó đều nằm xuống, vĩnh viễn câm lặng, dưới nắm đất rợp bóng bạch
dương, đều đã hòa tan vào bụi đất.
Vađim Pêtrôvits chống khuỷu tay lên đùi,
hai bàn tay bưng mặt.
Những năm tháng dài đằng đẵng đã trôi qua.
Chàng cứ có cảm giác là chỉ cần cố vượt qua một trở ngại gì đấy nữa, là mình lại
sẽ vui mừng thức dậy trong một buổi sáng xanh như hồi nào. Hai chú người Tàu
xinh xinh sẽ dẫn chàng qua nhịp cầu uốn, đưa chàng vào ngôi nhà mái cong. Ở
đây, người mẹ mà chàng thương yêu không lấy gì tả xiết, người đàn bà ruột thịt,
gần gủi nhất đối với chàng, đang đợi chàng...
“Tổ quốc của ta, - Vađim Petrôvits nghĩ thầm,
và trong ký ức chàng lại hiện lên cỗ xe tam mã đang phóng nhanh qua làng. - Đó
chính là nước Nga... Cái mà trước kia từng là nước Nga... Bây giờ không còn có
một cái gì như thế nữa và sẽ không bao giờ có lại nữa... Cậu bé mặc chiếc áo
màu thiên thanh đã trở thành tên sát nhân”.
Chàng đứng bật dậy, đi đi lại lại trên cỏ,
tay chắp sau lưng bẻ ngón kêu rắng rắc. Dòng suy tư cứ tự nó đưa chàng trở về
cái chốn mà chàng tưởng chừng như mình đã đóng sập cửa lại từ lâu. Vì từ khi ra
đi chàng vẫn tin rằng mình đi vào cõi chết... Ấy thế mà chàng đã không chết. Nếu
bây giờ xác chàng nằm sóng sượt dưới một cái khe nước xói nào trên thảo nguyên,
thì mọi sự sẽ đơn giản biết chừng nào.
“Thôi biết thế nào bây giờ, - chàng nghĩ,
chết thì dễ, sống mới khó... Công lao giá trị của mỗi chúng ta chính là ở chỗ
hiến dâng cho tổ quốc không phải chỉ một tấm thân bằng xương bằng thịt, mà tất
cả ba mươi lăm năm mình đã sống qua, cả những tình trìu mến, cả những niềm hy vọng,
cả ngôi nhà nhỏ mái cong, cả sự trong sạch của mình...”.
Chàng rên lên một tiếng và đưa mắt nhìn
quanh - không biết có ai nghe thấy những ý nghĩ của chàng không? Nhưng những giọng
trẻ con vẫn hát như cũ. Mấy con bồ câu gù trên dãy gờ tường han rỉ... Vội vã
như làm một việc gì thầm lén, chàng hồi tưởng lại một phút xót xa không sao chịu
nổi (chàng chưa bao giờ nhắc nhở chuyện này với Katya). Chuyện xảy ra cách đây
một năm. Ngay khi xuống ga Rôstsin đã được biết rằng hôm ấy vừa làm lễ an táng
chồng Êkatêrina Đmitrievna, và bây giờ nàng hoàn toàn cô độc. Chàng đến nhà
nàng vào lúc chập tối. Người đầy tớ gái nói rằng nàng đang ngủ. Chàng bèn ngồi
lại trong phòng khách để đợi nàng. Người đầy tớ gái thì thầm kể rằng Êkatêrina
Đmitrievna cứ khóc suốt: “Bà nằm quay mặt vào tường và cứ thế khóc như đứa trẻ.
Chúng tôi chốt cánh cửa bếp lại”. Chàng quyết định ở lại đợi, đợi suốt đêm cũng
được. Chàng ngồi trên chiếc đi-văng lắng nghe tiếng tích tắc của một chiếc đồng
hồ quả lắc từ đâu vẳng lại, đang dẫn dắt thời gian đi, trừ dần từng giây của cuộc
đời, hằn những nếp nhăn lên gương mặt thương yêu, điểm sương lên mái tóc nàng một
cách tàn nhẫn, khắc nghiệt... Rôstsin có cảm tưởng là nếu Katya không ngủ, nàng
cũng nghĩ đúng như vậy trong khi nghe tiếng đồng hồ tích tắc. Rồi chàng nghe thấy
tiếng chân nàng bước yếu ớt ngập ngừng như thể giày nàng bị sụt gót. Nàng đi đi
lại lại trong phòng ngủ và hình như đang nói thì thầm. Rồi nàng dừng lại, một hồi
lâu không thấy động tĩnh gì nữa. Rôstsin đâm lo, như thể chàng đã hiểu được những
ý nghĩ của Katya bên kia bức tường. Có tiếng cửa mở đánh két một cái. Nàng đi
sang phòng ăn, có tiếng pha lê lách cách trong tủ chè. Rôstsin đứng thẳng người
lên, sẵn sàng lao sang. Nàng mở hé cửa ra. “Liza đấy à?”. Nàng mặc chiếc áo
khoác ngủ bằng lông lạc đà, một tay nàng cầm cái cốc nhỏ, tay kia cầm một cái lọ
gì con con trông thật thảm hại... Nàng muốn dùng những thứ đó để thoát khỏi nỗi
buồn da diết, thoát khỏi nổi cô đơn, thoát khỏi thời gian khắc nghiệt, thoát ly
tất cả... gương mặt tiều tụy với đôi mắt xám của nàng trông như mặt một đứa trẻ
bị mọi người hắt hủi. Ước gì có thể đưa nàng về ngôi nhà nhỏ mái cong! Lúc bấy
giờ Vađim Pêtrôvits đã nói với nàng: “Xin bà coi tôi, coi cả cuộc đời của tôi
như thuộc quyền sử dụng của bà...”, và nàng đã tin rằng tất cả nỗi cô đơn của
nàng, tất cả những năm tháng còn lại của nàng có thể chìm ngập trong tấm lòng
thương xót của chàng... trong tình yêu của chàng.
Trời ơi, sự thật nào có thế! Dĩ nhiên,
chàng bao giờ cũng biết rõ rằng không có một giây phút nào Katya rời chàng, dù
những khi nỗi căm thù như những vòng đai bằng chì xiết chặt lấy chàng dù là
trong cái tháng chém giết kinh hoàng vừa qua. Như một cái bóng vô hình, giang rộng
hai cánh tay, van lơn chàng lặng lẽ, nàng luôn luôn ngăn chàng lại, còn chàng,
giọng khản đặc vì gào thét điên cuồng, đã đâm sâu lưỡi lê vào tấm áo khoác hồng
quân, đâm xuyên qua cái bóng không lúc nào chịu rời chàng, rồi tháo mũ lau máu
trên lưỡi lê...
Buổi lễ đã xong. Từ trong nhà thờ đổ ra một
đám đông junker và sĩ quan. Thong thả
bước ra những vị tướng lừng lẫy với đôi mắt đã quen nghiêm khắc, mặc quân phục
sạch sẽ đính huân chương và chữ thập: vị tướng cao dong dỏng, dung mạo tuấn tú
như một nhân vật trong tranh cái bộ râu chẻ đôi và chiếc mũ lưỡi trai đội lệch
một bên tai, là Erđêli; người có bộ tóc rối bù, đội chiếc mũ lông bẩn, là tướng
Markôv, con người sắc cạnh; người thấp lùn, mũi hếch, to ngang, có đôi mắt gấu
là tướng Kutêpôv; gã cô-dắc để bộ ria uốn quăn là tướng Bôgaievxki. Kế theo
sau, Đênikin và Rômanôvxki con người lạnh lùng, “bí ẩn” như trong quân đội vẫn
gọi, vừa bước ra vừa nói chuyện với nhau. Trông thấy tổng tư lệnh, ai nấy đều đứng
nghiêm, mấy người đang hút thuốc lá dưới rặng bạch dương vứt thuốc đi.
Đênikin bây giờ không còn là “ông già” khốn
khổ mắc bệnh viêm phế quản kinh niên, mặc thường phục và đi ủng sờn đế ngồi
trong đoàn xe vận tải đi theo sau quân đội, chẳng có chút hành lý nào. Ông ta
đã thẳng người lên, lại còn ăn mặc rất diện nữa là khác, chòm râu bạc của ông
gieo vào lòng mọi người niềm tôn kính của một người con, đôi mắt ông tròn ra,
tráng thêm một lớp thủy nghiêm khắc như mắt phượng hoàng. Dĩ nhiên ông còn xa mới
bì kịp Kornilôv, nhưng dù sao trong tất cả các tướng ông vẫn là người từng trải
và chín chắn nhất. Đưa hai ngón tay lên lưỡi trai, ông trịnh trọng bước qua cổng
nhà thờ và cùng ngồi lên xe kiệu với Rômanôvxki.
Gã Têplôv lêu đêu đến cạnh Rôstsin; cánh
tay trái của hắn treo băng, trên vai hắn khoác hờ một tấm áo ca-pốt kỵ binh nhàu
nát. Nhân dịp lễ hắn cạo râu nhẵn nhụi, và bây giờ đang rất cao hứng.
- Đã nghe tin gì chưa hả Rôstsin? Chỉ nay
mai quân Đức và quân Phần lan sẽ chiếm Pêterburg. Người chỉ huy là Mannerheim,
cậu còn nhớ không? Một vị tướng tham mưu, một người rất tốt, choảng nhau rất cừ...
Ở Phần lan ông ta đã quét sạch bọn xã hội, không để sống sót một mống nào. Còn
bọn bolsêvik thì đã cuốn gói chuồn khỏi Moxkva qua Arkhanghelxk. Sự thật mười
mươi đấy... Trung úy Xêđelnikôv vừa ở Nôvôtserkaxxk đến kể chuyện lại đấy... Mà
ở Nôvôtserkaxxk thì cha mẹ ơi, các ả ở đấy thật tuyệt vời! Xêđelnikôv bảo là mỗi
thằng phải vớ đến mười ả như thế...(Hắn giạng đôi chân gầy guộc khuỳnh khuỳnh ở
đầu gối và cười to đến nỗi cái cuống họng thòi cả ra ngoài cổ áo).
Thấy Rôstsin không hưởng ứng câu chuyện “các
ả tuyệt vời”, Têplôv lại quay trở về các tin tức chính trị vốn làm thành món ăn
hàng ngày của quân đội trong những xó xỉnh hẻo lánh này của thảo nguyên.
- Té ra hiện nay khắp Moxkva đều gài mìn cả
rồi: thành Kremlin, các nhà thờ, các nhà hát, các dinh thự đẹp nhất, cả những
khu phố liền nữa, dây điện châm ngòi mìn đều châu đầu vào Xokôlniki: ở đấy có một
ngôi biệt thự gì rất bí ẩn, có những đội Tseka canh gát suốt ngày đêm... Cậu thử
tưởng tượng, hễ quân ta tiến vào là Moxkva sẽ nổ tung lên trời... (Hắn cúi thấp
xuống, hạ giọng nói khẽ lại). Sự thật mười mươi đấy, tớ cam đoan như vậy. Tổng
tư lệnh đã cho thi hành những biện pháp cần thiết để đối phó: một số trinh sát
viên đặc vụ đã được phái về Moxkva để tìm cho ra những đường dây châm ngòi ấy,
và khi nào quân ta tiến vào Moxkva thì đừng để cho chúng nổ mìn... Rồi sau đó sẽ
tha hồ treo cổ chúng nó lên nhé Treo giữa Hồng trường ấy! Mẹ kiếp! Trước mặt
công chúng, trong tiếng trống trận!
Rôstsin nhăn mặt đứng dậy:
- Thôi cậu kể chuyện các ả đi thì hơn.
Têplôv ạ.
- Sao, cậu không ưa à?
- Phải, tôi không ưa. - Rôstsin nhìn thẳng
vào đôi mắt hung hung ngu độn của Têplôv. Đôi môi dày của hắn méo xệch sang một
bên.
- Ra thế đấy, rõ ràng là cậu không quên được
khẩu phần của quân đỏ...
- Cái gì? - Rôstsin cau mày xấn tới. - Mày
nói gì?
- Tao nói cho mày biết cái điều mà cả trung
đoàn đều nói... Đã đến lúc mày nên báo cáo về công việc của mày trong Hồng quân
rồi đấy, Rôstsin ạ...
- Đồ khốn nạn!
May mà Têplôv còn phải băng tay và vẫn được
coi là thương binh: đó là điều duy nhất đã cứu hắn thoát khỏi một cái tát.
Rôstsin dằn lòng lại, không đánh hắn. Chàng giấu bàn tay ra sau lưng, quay ngoắt
đi, rồi hai vai so cao lên, người đờ ra, chàng len qua mấy nấm mộ, bỏ đi.
Têplôv xốc lại tấm áo ca-pốt đã tuột khỏi
vai, mỉm cười hằn học nhìn tấm lưng thẳng đuột của chàng. Có hai người lại gần
hắn. Đó là chuẩn úy Fon Mecke và một thanh niên mặt đầy tàn hương có đôi mắt to
nhạt màu, mơ mộng, mặc một cái áo khoác của sinh viên cũ kỹ loang lổ những vết
nâu nâu, có đính lon hạ sĩ quan. Tên hắn là Valêrian Ônôli. Hắn là con một lão
chủ nhà máy thuốc lá ở Ximfêrôpôl. Lúc nào cũng thấy hắn kè kè một bên Fon
Mecke.
Fon Mecke hỏi Têplôv, với cái giọng đanh
đanh thường thấy có ở những người nghễnh ngãng:
- Có việc gì thế? Các anh vừa cãi nhau đấy
à?
Têplôv, tay vân vê bộ ria quặp, mặt vẫn còn
ngơ ngác, kể lại cho hắn nghe hết cuộc nói chuyện vừa qua với thượng tá
Rôstsin.
- Bây giờ mà ông còn lấy làm ngạc nhiên thì
lạ thật đấy, ông thượng úy ạ, - Ônôli nói, giọng chán chường, đôi mắt mơ mộng.
- Tôi thì ngay từ ngày đầu tôi đã thấy rõ ngay thượng tá Rôstsin là một tên
gián điệp.
- Thôi đi Valka, - Fon Mecka nói, cả một nửa
mặt bên trái máy máy (một cái tật từ khi bị giập xương ở hàm bên trái). Cái gay
là ở chỗ tướng Markôv có quen riêng hắn. Việc này phải cẩn thận mới được...
Nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng Rôstsin là một thằng bolsêvik, một thằng khốn
nạn, một đống cứt...
* * *
Kể cho đến cuối tháng ba, ở miền Bắc Kavkaz
tình hình tương đối yên tĩnh. Cả hai bên đều đã chuẩn bị xong xuôi để bước vào
cuộc đấu tranh quyết liệt. Quân tình nguyện muốn chiếm những điểm nút chủ yếu
trên các đường sắt, cô lập vùng Kavkaz và hiệp lực với bọn cô-dắc trắng quét sạch
cộng sản ra khỏi vùng này. Ban Chấp hành Trung ương của nước Cộng hòa Kuban - Hắc
hải thì quyết định đấu tranh trên ba mặt trận: chống quân Đức, chống bọn cô-dắc
trắng và “những toán giặc của Đênikin” đã ngóc đầu dậy.
Đạo Hồng Quân Kavkaz, tuyệt đại đa số gồm
những binh sĩ của quân đoàn Zakavkaz cũ của Sa hoàng, những thanh niên cô-dắc
ít ruộng đất và những người dân tứ xứ, có cả thảy đến mười vạn quân. Tổng chỉ
huy của nó là Avtomônôv bị Ban chấp hành Kuban - Hắc hải nghi ngờ là có khuynh
hướng độc tài, và luôn luôn xung đột với chính phủ địa phương. Trong một cuộc
mít-tinh khổng lồ ở Tikhôretxkaia ông ta gọi Ban chấp hành là một ổ gián điệp của
Đức và là một bọn khiêu khích. Đáp lại, Ban chấp hành “lên án” Avtomônôv và
Xôrôkin, vốn ăn cánh với ông ta, là những tên kẻ cướp, là những kẻ thù của nhân
dân, và lên tiếng nguyền rủa họ, buộc cho họ một nỗi ô nhục muôn đời.
Tất cả những chuyện “lục đục” này đã làm
cho quân đội tê liệt. Đáng lẽ phải mở một cuộc tấn công tập trung bằng ba mũi
vào Quân đoàn tình nguyện đang nằm ở giữa ba quân đoàn của mình thì Hồng quân lại
xáo động, họp hết cuộc mít tinh này đến cuộc mít tinh khác, lật đổ các cấp chỉ
huy, cho nên may lắm họ cũng chỉ có đủ khả năng để bị tiêu diệt một cách bi thảm.
Cuối cùng các sắc lệnh của Moxkva đã trấn
áp được sự ngoan cố của chính quyền địa phương, Avtonômôv được cử làm thanh tra
mặt trận, quyền chỉ huy quân đoàn vùng bắc được giao cho thượng tá Kalnin, một
người Latvia lầm lì. Xôrôkin vẫn giữ quyền chỉ huy quân đoàn miền tây.
Đúng
vào lúc ấy đại tá Đrozđôvxki đã sáp nhập Quân đoàn tình nguyện với một phân đội
gồm ba nghìn sĩ quan tinh nhuệ và hung hãn, trong chiến đấu mỗi người tương
đương với mười người lính thường. Kỵ binh cô-dắc ở các thôn ấp cũng được thu
hút vào quân đoàn. Từ Pêtrôgrad, từ Moxkva, những sĩ quan được nghe kể những
chuyện thần kỳ trong “chiến dịch băng giá” cũng lên đường riêng rẽ hay từng tốp
tìm đến quân đoàn. Thủ lĩnh Kraxnôv cung cấp vũ khí và tiền nong cho quân đoàn
- tuy một cách hơi keo kiệt, nhưng dù sao cũng có cung cấp. Quân đoàn tình nguyện
mỗi ngày một thêm vững mạnh, tinh thần quân sĩ phấn chấn lên nhờ cách tuyên
truyền khôn khéo của các tướng tá và các chính khách, nhờ những hành động vụng
dại của chính quyền xô-viết địa phương và nhờ những câu chuyện tai nghe mắt thấy
của những người từ miền bắc tới kể lại.
Đến cuối tháng năm thì lực lượng hồng quân ở
địa phương không còn đủ sức đè bẹp nó nữa rồi. Chính nó chuyển sang tấn công và
giáng một đòn khủng khiếp vào lữ đoàn hồng quân miền bắc của Kalnin ở ga
Torgôvaia.
* * *
- Sao, các cậu không hát nữa à?
- Khản giọng rồi.
- Ngồi dịch tí, tôi lấy hòn than nào. - Ivan
Ilyits Têtêghin ngồi ghé lên đống lửa trong đó có một thanh tà vẹt đang cháy
bùng bùng, rồi châm xong điếu thuốc, chàng ngồi lại nghe binh sĩ nói chuyện.
Đêm đã khuya. Hầu hết những đống lửa dọc đường
sắt đều đã tắt ngấm. Trời đêm mát lạnh, chi chít những vì sao lấp lánh. Ánh lửa
hắt lên con đường sắt đắp cao, soi sáng những đoàn toa chở hàng màu đỏ gạch, ọp
ẹp và thủng nát. Có những toa đến đây từ bờ biển Thái bình dương, từ các đầm lầy
băng đới, từ những bãi sa mạc Turkextan, từ sông Volga, từ Pôlêxiê. Trên mỗi
toa đều có đề: “Trả về đúng thời hạn” nhưng tất cả các thời hạn đều đã qua từ
lâu. Vốn được thiết kế cho thời bình, những toa tàu đã trải qua trăm ngàn nỗi
gian truân ấy, trục không có mỡ, sườn thì vỡ tung, giờ đây đang nằm nghỉ dưới
ánh sao để chuẩn bị dấn thân vào một hoạt động hết sức huyễn hoặc hoang đường.
Người ta sẽ đẩy từng dãy toa như thế xuống vực với tất cả các thứ hàng đựng ở
bên trong; người ta sẽ lùa tù binh hồng quân lên những toa như thế, xếp chật
ních như cá mắm xếp trong thùng, bao nhiêu cửa lớn, cửa sổ đều đóng kín lại, rồi
cho đi hàng nghìn dặm với dòng chữ phấn để trên mỗi toa: “hàng không hư hỏng,
tiểu tốc”. Những toa tàu ấy sẽ biến thành những cỗ quan tài tập thể đựng những
người chết dịch thương hàn, thành những cái tủ lạnh để vận chuyển những xác chết
ướp đá. Những toa tàu ấy sẽ được những quả mìn hất tung lên tận trời xanh... Ở
những vùng hoang vu của xứ Xibiri, cửa toa và thành toa sẽ được tháo ra và tha
về làm hàng rào và làm chuồng gia súc... Những toa còn lại, cháy xém, thủng
nát, cũng còn lâu, rất lâu mới lục tục trở về nơi xuất phát để nằm trên những
dãy đường ray han rỉ chờ đại tu.
- Thế nào hở đồng chí Têlêghin, báo ở
Moxkva họ nói thế nào? Sắp kết thúc nội chiến chưa?
- Khi nào chúng mình đánh thắng thì sẽ kết
thúc.
- Thấy chưa... Như thế tức là họ đang trông
mong vào chúng mình...
Mấy người lính râu ria, đen đủi nằm dài ra
bên đống lửa... ngủ thì họ không buồn ngủ, mà nói chuyện rôm rả họ cũng chẳng
muốn. Một người xin Têlêghin dúm thuốc lá mộc.
- Đồng chí Têlêghin ạ, thế những cái người
Tiệp khắc ấy là người thế nào hả đồng chí? Họ ở đâu mà lại đến đây? Trước kia
có thấy đâu nhỉ...
Ivan Ilyits giảng giải rằng người Tiệp khắc
đây là những binh sĩ của quân đội Áo bị bắt làm tù binh, chính phủ Sa hoàng đã
bắt đầu tổ chức họ lại thành một lữ đoàn để gửi sang tiếp viện cho người Pháp,
nhưng không kịp...
- Còn bây giờ thì chính quyền xô-viết không
thể thả họ ra được, vì họ muốn tham gia chiến tranh đế quốc... Ta đòi họ phải hạ
vũ khí. Thế là họ nổi loạn...
- Đồng chí Têlêghin ạ, thế liệu rồi đây đơn
vị ta có đánh nhau với bọn ấy không?
- Bây giờ thì chẳng ai biết gì đâu... Tin tức
rất mơ hồ... Theo tôi thì ít có khả năng như thế... Họ chỉ có khoảng bốn vạn...
- À, thế thì đánh được thôi...
Quanh đống lửa lại im lặng. Người xin thuốc
lá của Têlêghin ban nãy liếc mắt nhìn chàng rồi nói, hình như chỉ cốt cho có
nói, vì nể người chỉ huy:
- Hồi còn Sa hoàng họ điều chúng tôi đến
Xarakamys. Họ chẳng giải thích gì cho chúng tôi cả: tại sao chúng tôi lại phải
đánh người Thổ, chúng tôi chết vì cái gì. Mà núi ở đây thì ghê thật. Nhìn mà
nghĩ bụng: thôi mẹ mình đẻ ra mình phải giờ xúi quẩy rồi... Còn bây giờ thì
không phải thế: cuộc chiến tranh này là vì mình, nó quyết liệt lắm... Mà cái gì
cũng rõ: ai đánh ai, vì cái gì...
- Như tôi đây chẳng hạn, biệt hiệu là
Tsertôgônôv [Người trừ tà] - một người
lính khác chống khuỷu tay nhổm dậy nói, giọng ồ ồ, rồi ngồi sát vào đống lửa,
sát đến nỗi người ta phải lấy làm lạ không hiểu tại sao lửa không bén vào râu
anh ta. Dung mạo anh ta trông rất dễ sợ, mấy chòm tóc đen rũ xuống trán, trên
gương mặt như đã thuộc da, đôi mắt tròn xoe sáng quắc lên. - Đã hai lần tôi đến
vùng Viễn Đông, đã từng ngồi tù vô kỳ hạn vì tội đi cầu bơ cầu bất.. Ấy thế mà
người ta vẫn đưa tôi vào trại lính, cấp cho tôi một cái thẻ quân nhân, rồi cứ
thế tống ra tàu... Sáu lần bị thương... Đây này. - Anh ta thò ngón tay vào miệng
vạch mép sang một bên cho mọi người xem một loạt chân răng gẫy. - Tôi xoay sở
thế nào về được Moxkva, vào bệnh xá, thế là gặp luôn mấy tay bolsêvik... Từ đấy
mới hết đọa đày. Họ hỏi: “Thành phần giai cấp”? Tôi bảo: “Thôi đừng có điều tra
mà mệt, tôi đây cố nông chính cống đã bảy đời rồi, không có họ hàng thân thích
gì hết”. Họ cười lăn ra. Họ đưa cho tôi khẩu súng trường với lại tờ trát. Chúng
tôi bắt đầu đi ngang dọc trong thành phố lùng bọn tư sản... Mình vào một căn
nhà sang trọng nào đó là chủ nhà sợ lắm, tất nhiên rồi... Mình nhìn xem nó cất
các thứ ở đâu, bột, đường... Cái quân đểu giả thật, nó sợ, nó run, nhưng một mực
không thèm nói gì với mình cả... Có lần tôi phát khùng lên - này, chúng tao
không phải là người hay sao hở đồ mặt thịt? Nói đi chứ, chửi đi chứ, van đi chứ...
Tôi chửi cho một thôi một hồi, nhưng nó vẫn không nói... Sao thế nhỉ? Tôi tức
quá: cả đời mình im lặng, cặm cụi làm cho cái bọn mặt nhẵn ấy ăn, đổ máu cho
chúng nó... Thế mà chúng nó không coi mình là người nữa.. Tôi nghĩ bụng: ra tư
sản là thế đấy! Thế là lòng căm thù giai cấp của tôi bắt đầu sôi sục lên. Thôi
được... Lại có hôm phải đến trưng dụng dinh thự của lão nhà buôn Ryabinkin.
Chúng tôi đi bốn người, mang theo cả một khẩu đại liên, để khủng bố tinh thần.
Chúng tôi gõ cửa trước. Một lát sau một cô hầu gái gọn gàng sạch sẽ ra mở cửa;
tội nghiệp cô bé, cứ tái xanh tái xám đi, đứng kiễng chân lên kêu: ôi, ôi!
Chúng tôi gạt cô bé ra, đi thẳng vào phòng ăn - một gian phòng rộng thênh thang
có cột, giữa phòng bày một cái bàn lớn, xung quanh có Ryabinkin và khách khứa
đang ngồi ăn bánh blin. Dạo ấy là vào
tiết lễ maxlenitxa [Lễ cổ truyền của người Slave. Trong tiết này người
ta thường dọn tiệc bánh và tổ chức vui chơi. Blins là một thứ bánh làm bằng bột
loãng tráng vàng bằng bơ], cho nên dĩ nhiên là cả bọn đều say khướt...Chúng
nó chè chén đúng vào lúc giai cấp vô sản đang chết đói!... Tôi mới nện báng
súng xuống sàn nhà ầm ầm và chửi bới om sòm lên một trận! Ấy thế mà chúng nó vẫn
ngồi cười nụ... Ryabinkin chạy ra chỗ chúng tôi đứng, mặt đỏ gay, mắt lồi ra,
nói hết sức vui vẻ: “Các đồng chí thân mến - hắn nói thế. -tôi đã biết từ lâu
là các đồng chí sẽ trưng dụng nhà tôi cùng với toàn bộ tài sản! Các đồng chí
cho phép chúng tôi ăn bánh đã, nhân thể mời các đồng chí cùng ngồi vào bàn với
chúng tôi... Không có gì đáng xấu hổ đâu, vì tất cả các thứ này đều là tài sản
của nhân dân”. - hắn giơ tay chỉ vào bàn... Chúng tôi lúng túng giẫm chân tại
chỗ một lát nhưng rồi cũng ngồi vào bàn, tay vẫn cầm súng, mặt mày cau có...
Ryabinkin thì đon đả rót rượu, đưa bánh và thức nhắm cho chúng tôi, cười cười
nói nói luôn mồm. Hắn kể đủ thứ chuyện, kể chuyện nào cũng lắm ý xỏ lá... Khách
khứa cười ha hả, rồi chúng tôi cũng cười theo. Hai bên thi nhau kể chuyện buồn
cười về bọn tư sản, rồi bắt đầu tranh luận, nhưng hễ trong bọn có vẻ hơi cáu một
chút là chủ nhân chuốc vôđka ngay: toàn uống bằng cốc trà to tướng... Họ bắt đầu
mở nút sâm banh, còn bọn chúng tôi thì đem súng đặt hết vào một góc phòng...
Tôi nghĩ loáng thoáng: “Tsertôgônôv! có phải chính mày đang loạng choạng bám
vào từng cái cột một đi trong phòng đấy không? “Hai bên bắt đầu đồng thanh hát
bài này bài nọ. Đến tối bọn tôi đem khẩu đại liên đặt ở trước thềm để đừng có
người ngoài nào mò vào... Cả bọn chén suốt đêm, rồi cả ngày hôm sau nữa. Tôi đã
đền bù được thật bõ cả cuộc đời câm lặng của tôi. Nhưng thằng Ryabinkin vẫn lừa
bọn tôi, chà, cái thằng lái buôn chết tiệt!... Trong khi bọn tôi đánh chén, hắn
với cô hầu gái đã có đủ thì giờ đem bao nhiêu kim cương, vàng bạc, những thứ
đáng tiền tuồn hết đến một nơi an toàn. Rốt cục chỉ trưng dụng được mấy bức tường
với lại bàn ghế... Chao ôi cái thằng cha Ryabinkin tiễn đưa chúng tôi ra về mới
cảm động chứ! Hắn nói, dĩ nhiên là vẫn đang say khướt: “Các đồng chí thân mến,
các đồng chí cứ lấy đi, lấy hết đi, tôi không tiếc thứ gì đâu, tôi xuất thân từ
nhân dân, thì tôi cũng sẽ trở về với nhân dân...”. Và ngay hôm ấy hắn chuồn ra
nước ngoài. Còn tôi thì bị giải vào Tseka. Tôi nói với họ: “Tôi có tội, đem bắn
tôi đi”. Chỉ vì xét thấy tôi vô ý thức mà họ không xử bắn. Tôi thì mãi cho đến
bây giờ vẫn còn mừng là được bữa chén ra trò... Có cái để mà nhớ thật...!
- Trong bọn tư sản có lắm kẻ gian ác, nhưng
trong bọn ta cũng chẳng ít ỏi gì, - một người ngồi bên kia đám khói nói. Mọi
người đều nhìn về phía hắn. Người ban nãy xin thuốc của Têlêghin nói:
- Họ đã đổ máu của dân ra như năm mười bốn
thì bây giờ chẳng có cách gì ngăn chặn lại được đâu...
- Tôi không nói chuyện ấy, - người ngồi bên
kia đống lửa lại nói. - Kẻ thù là kẻ thù, máu là máu... Đàng này tôi nói những
kẻ gian ác kia.
- Thế còn anh, anh là ai?
- Tôi đấy à? Tôi chính là một kẻ gian ác
đây, - người kia đáp khẽ.
Mọi người im bặt, ngồi nhìn những hòn than
đang lụi dần trong đống lửa. Têlêghin thấy lạnh toát cả sống lưng. Trời về
khuya khá lạnh. Mấy người nằm bên đống lửa trở mình nằm nghiêng lại, mũ lông
lót dưới má.
Têlêghin đứng dậy vươn vai, xốc lại quân phục.
Bây giờ khói đã tan đi, bên kia đống lửa có thể nhìn thấy người ban nãy tự gọi
mình là kẻ gian ác đang ngồi xếp bằng tròn giữa đất, miệng nhấm một ngọn cỏ ngải
đắng. Đống than hồng hắt ánh sáng lên khuôn mặt dài dài, xương xương phủ một lớp
lông tơ thưa màu nhạt, một gương mặt dịu dàng như mặt đàn bà. Hắn đội một chiếc
mũ lưỡi trai hất ra sau gáy, đôi vai hẹp khoác hờ một cái áo ca-pốt, bên trong
chẳng thấy mặc áo gì. Chiếc sơ mi, mà hình như hắn đã cởi ra để bắt rận, đặt ở
bên cạnh. Thấy có người nhìn mình, hắn từ từ ngẩng đầu lên và từ từ nhếch mép
mĩm cười như trẻ con.
Têlêghin nhận ra đó là một chiến sĩ trong đại
đội của chàng, Miska Xôlômin, người vùng Eltx, con nhà nông ở ngoại thành, tình
nguyện nhập ngũ từ thời kỳ xích vệ và từ quân đoàn Xiverx chuyển về Bắc Kavkaz.
Hắn mới bắt gặp đôi mắt của Têlêghin có một
giây đã cụp mắt xuống ngay, như thể thẹn thùng, và đến đây Ivan Ilyits mới sực
nhớ ra rằng Miska Xôlômin nổi tiếng trong đại đội là một tay hay làm thơ và rất
nát rượu, tuy rất ít khi thấy hắn say. Hắn uể oải gẩy một bên vai cho chiếc áo
khoác tụt xuống và bắt đầu mặc sơ-mi vào.
Ivan Ilyits leo lên đường sắt đi về phía một
toa hành khách. Trên toa, ở cửa sổ buồng trung đoàn trưởng Xerghêy Xerghêyêvits
Xapôjkôv có một ngọn đèn dầu hỏa chong leo lét. Đứng trên con đường sắt đắp cao
có thể nom rõ các vì sao hơn và nhìn về phía dưới cũng thấy rõ hơn những đống lửa
đang lụi dần điểm thành những chấm đo đỏ trong đêm tối.
- Lên đây Têlêghin, có nước sôi đấy, -
Xapôjkôv nói, đầu ló ra cửa sổ, miệng ngậm cái tẩu cong.
Ngọn đèn dầu đóng vào thành căn buồng toa hạng
nhì giột nát tỏa một ánh sáng mờ đục lên mấy thứ vũ khí treo trên nóc, mấy quyển
sách vứt lăn lóc khắp nơi, mấy tấm bản đồ quân sự. Xerghêy Xerghêyêvits
Xapôjkôv, mình mặc chiếc áo sơ-mi vải phin bẩn, quần có dải đeo, quay lại hỏi
Têlêghin đang bước vào buồng:
- Uống tí rượu cồn nhé?
Ivan Ilyits ngồi xuống cái giường con. Qua
khung cửa sổ mở khí lạnh ban đêm lùa vào, và xa xa có tiếng cuốc kêu vẳng lại.
Bên ngoài có tiếng bước loạng choạng của một anh lính hồng quân ngái ngủ nào đấy
từ một toa chở hàng tụt xuống đất để đi ngoài. Một cây đàn balalaika khe khẽ
gieo ra những tiếng thánh thót. Đâu đây có tiếng gà gáy rất gần - đã mười hai
giờ khuya.
- Sao lại có gà nhỉ? - Xapôjkôv vừa hỏi vừa
loay hoay bưng cái ấm trà ra. Mắt anh ta đỏ kè, trên gương mặt gầy gò của anh nổi
lên những đám đo đỏ... Anh thò tay ra sau lưng quờ quạng trên giường một lát,
tìm ra cái kính cặp mũi, đeo vào và giương mắt nhìn Têlêghin:
- Làm thế nào mà ở vị trí đóng quân của
trung đoàn lại có một con gà đang sống?
- Vừa rồi lại có một đoàn dân lánh nạn chạy
về đây. Tôi đã báo cáo với đồng chí chính ủy rồi. Hai mươi chiếc xe chở toàn
đàn bà, trẻ con... Có ma nó biết như thế là thế nào. - Têlêghin vừa nói vừa
khuây khuấy trong ca nước chè.
- Ở đâu đến?
- Ở làng Privolnaia. Họ kéo đi một đoàn rất
đông, nhưng dọc đường họ bị bọn cô-dắc chặn lại, giết mất một số. Vẫn là dân tứ
xứ, nghèo khổ cả. Ở làng có hai thằng sĩ quan cô-dắc tập hợp được một đội, đang
đêm đột nhập vào làng, giải tán ủy ban và treo cổ mất mấy người.
- Nói tóm lại vẫn là câu chuyện thường lệ,
- Xapôjkôv nói, phát âm rõ từng chữ một. Hình như anh ta say lắm rồi, và gọi
Têlêghin vào là để nói cho hả... Ivan Ilyits thì mõi mệt đến nỗi cả thân thể
chàng như kêu ong ong lên, nhưng được ngồi trên đệm êm và nhấp nước chè nóng,
chàng thấy dễ chịu đến nỗi không muốn bỏ đi, tuy ngồi với Xapôjkôv bây giờ cũng
khó lòng nói được chuyện gì cho ra hồn.
- Vợ cậu đâu rồi hả Têlêghin?
- Ở Pêtrôgrađ.
- Cậu này kỳ quặc thật. Giá phải thời bình
thì cậu đã trở thành một anh trưởng giả tối ư chính thống rồi. Một bà vợ đức hạnh,
hai đứa con đức hạnh và một cái máy hát... Thế quái nào cậu lại vào Hồng quân
nhỉ? Thế nào rồi cậu cũng sẽ mất mạng...
- Thì tôi đã nói cho cậu nghe rồi...
- Hay là cậu định kiếm lấy cái thẻ đảng
viên đấy?
- Nếu cần cho công việc chung, tôi cũng sẽ
vào đảng.
- Còn tớ ấy à, -Xapôjkôv nheo nheo đôi mắt
sau cặp kính đã mờ đi vì hơi người, - tớ thì dù có bỏ vào nồi ninh ba lượt nước
cũng không thành cộng sản được...
- Ấy đấy, nếu có ai kỳ quặc ở đây thì chính
là cậu đấy, Xerghêy Xêgyêvits ạ...
- Chẳng kỳ quặc chút nào hết. Óc của tớ nó
không nuốt nổi biện chứng pháp... Tớ là cái nòi hoang dã, lúc nào cũng có một mắt
liếc vào rừng. Hừm! Cậu nói là tớ kỷ quặc phỏng? (Anh ta cười nhạt hình như lấy
làm khoái lắm) Từ tháng mười tớ đã chiến đấu cho chính quyền xô-viết. Hừm! Thế
cậu đã đọc Krôpôtkin chưa?
- Chưa, chưa đọc.
- Rõ... chán lắm cậu ạ... Thế giới tư sản
hèn hạ và tẻ nhạt đến ghê cả người. Rồi sau này nếu ta thắng, thế giới cộng sản
cũng sẽ tẻ nhạt và xám ngắt, nó rất đức hạnh và rất buồn... Cái lão già
Krôpôtkin hay lắm đấy cậu ạ: nào thi vị, nào không tưởng, nào xã hội không giai
cấp. Một lão già rất có giáo dục: “Hãy cho loài người quyền tự do vô chính phủ,
hãy phá tan những sự trói buộc của cái ác trên thế giới, tức các thành phố lớn,
và xã hội không giai cấp sẽ xây dựng một thiên đường thôn dã trên trái đất, vì
động lực chủ yếu của con người là tình thương yêu đồng loại...”. Hi-hi...
Như thể muốn trêu gan một người nào,
Xapôjkôv cười lên the thé, cái kính nhảy bần bật trên sống mũi xương xẩu. Anh
ta vừa rúc vào gậm giường lôi ra một chiếc bi đông nhỏ bằng sắt tây đựng rượu cồn,
rót ra chén, nốc cạn rồi cắn miếng đường đánh cốp một tiếng giòn tan.
- Anh bạn thân mến ạ, tấn bi kịch của chúng
ta là ở chỗ giới trí thức Nga ta đã lớn lên trong lòng chế độ nông nô thanh
bình, cho nên đến khi gặp phải cách mạng chúng ta phát hoảng lên, không phải chỉ
đến chết được, mà thậm chí đến mức sinh ra chứng nôn mửa trong óc ấy... Ai lại
đi làm cho những con người dịu dàng thanh cảnh ấy hoảng sợ đến thế bao giờ? Hả?
Chúng ta ngồi trong cõi tĩnh mịch của một ngôi nhà bát giác ở thôn quê, suy
nghĩ giữa tiếng chim hót líu lo. “Quả tình thu xếp được cho mọi người đều có hạnh
phúc cũng hay...”. Chúng ta xuất phát chính là từ chỗ ấy đấy... Ở phương tây giới
trí thức là bộ phận đầu não, là tinh hoa của giai cấp tư sản; họ thực hiện một
sứ mệnh gang thép: đẩy cho khoa học, kỹ thuật, công nghiệp tiến lên, truyền bá
những ảo ảnh đầy sức an ủi của chủ nghĩa lý tưởng... Ở đấy giới trí thức biết
rõ mình sống để làm gì... Còn ở ta thì ôi thôi!... Chúng ta phục vụ ai? Nhiệm vụ
của chúng ta là gì? Một mặt chúng ta là con đẻ của phái Xlavôphil [phái Xlavôphil
là một trào lưu tư tưởng ở Nga vào khoảng giữa thế kỷ 19, chủ trương tập hợp
các dân tộc Slave lại dưới quyền lãnh đạo của nước Nga, trái với phái Tây học,
họ khẳng định rằng dân Nga có một phương hướng phát triển riêng khác hẳn các
dân tộc phương Tây], là những kẻ thừa kế tinh thần của họ. Mà chủ
nghĩa Xlavôphil thì cậu có biết nó là
cái gì không? - nó chính là chủ nghĩa lý tưởng của tầng lớp trang chủ vậy. Mặt
khác, ta lĩnh tiền của giai cấp tư sản Nga, ta bám vào đấy mà sống... Ấy thế mà
ta lại chỉ muốn phục vụ nhân dân thôi... Gàn thật: lại đòi phục vụ nhân dân kia
chứ!... Thật là một tấn bi hài kịch! Đứng trước nỗi đau khổ của nhân dân, ta
khóc sướt mướt, đến nỗi không biết lấy đâu ra cho đủ nước mắt nữa. Và đến khi bị
tước mất những giọt nước mắt ấy, chúng ta chẳng còn biết sống bằng cái gì nữa...
Chúng ta cứ ước mơ: rồi đây mấy chú mu-gích của ta sẽ đến Txagrêgrad, sẽ treo
lên mái vòm cắm cái giá chữ thập chính giáo lên nóc nhà thờ bà Thánh Xofya...
Chúng ta mơ ước hiến quả địa cầu cho nông dân làm quà. Ấy thế mà họ lại xiên
chúng ta, những con người nhiệt thành, mơ mộng, giàu nước mắt, họ lại xiên
chúng ta bằng cái nạng chĩa của họ... Thật là kỳ cục, bậy bạ hết sức! Thật là
kinh hoàng, khủng khiếp... Thế là cuộc phá bĩnh bắt đầu, anh bạn thân mến ạ...
Giới trí thức chùn lại, bỏ càng xe xuống: “Tôi chịu thôi, các anh cứ thử làm lấy,
không có chúng tôi cũng chẳng chết ai”. Ấy là vào lúc nước Nga đang đứng ngay
trên bờ vực thẳm ghê rợn... Một sai lầm hết sức trọng đại, một sai lầm không
sao chuộc lại được. Thế mà tất cả chúng ta lại rất dịu dàng thanh cảnh giáo dục
kiểu quý tộc mà! Chúng ta không thể nào tìm hiểu cách mạng ở ngoài sách vở:
trong sách họ viết về cách mạng hấp dẩn lắm cơ... Trong khi đó thì nhân dân bỏ
mặt trận Đức trốn về, dìm chết các sĩ quan, xé xác tổng tư lệnh ra từng mảnh, đốt
phá các trang viên, tóm cổ vợ các ông lái buôn trên đường hỏa xa, moi những đôi
hoa tai kim cương ra từ những chỗ kín nhất trên người họ... Ấy chết, chịu thôi,
chúng tôi chả chơi với một thứ nhân dân như thế đâu, trong các sách chẳng thấy
viết gì về cái thứ nhân dân ấy. Biết làm thế nào bây giờ? Ngồi trong buồng tuôn
ra một đại dương nước mắt chăng? Nhưng khốn nỗi, khóc chúng ta cũng không còn
biết khóc nữa rồi, thế mới chết!... Những giấc mơ đẹp đẽ vỡ tan tành, không còn
biết lấy gì mà sống nữa... Thế là chúng ta rúc đầu xuống dưới gối vì sợ hãi và
kinh tởm, một số khác chuồn ra nước ngoài, một số hung hãn hơn vớ lấy khẩu
súng. Thế là sinh ra một chuyện điếm nhục trong cái gia đình cao quý của chúng
ta... trong khi đó thì nhân dân, bảy mươi phần trăm mù chữ, không biết dùng cái
lòng căm thù của mình vào việc gì, họ quay ra vùng vẫy trong máu, trong những
hành động khủng khiếp: “Chúng nó đã bán chúng ta lấy tiền uống rượu hết rồi!
Hãy đập vỡ hết đi, hãy phá tận gốc!”. Thế rồi trong giới trí thức chúng ta chỉ
có được một dúm nhỏ đứng lên: bọn cộng sản. Khi một chiếc tàu sắp đắm, người ta
làm gì? Người ta vứt tất cả những thứ gì thừa xuống biển... Việc đầu tiên mà bọn
cộng sản đã làm là vứt xuống biển những cái thùng cũ đựng chủ nghĩa lý tưởng
Nga... Tất cả những thứ đó đều do “ông già” bày ra: một con người rất Nga-la-tư
đấy anh bạn ạ... Và nhân dân đã đánh hơi thấy ngay, bằng một thứ bản năng của
loài thú: đây là những con người của mình, không phải những ông lớn; những con
người này thì chẳng khóc lóc đâu, họ xử lý rất gọn... Đây, chính vì thế mà tớ
đi với họ đấy cậu ạ, tuy tớ được ươm trong lồng kính của Krôpôkin, trong những
mộng tưởng... Và những người như tớ không phải là ít... Ồ-ồ! Cậu đừng nhe răng
ra làm gì Têlêghin ạ, cậu thì chỉ là một cái bào thai, một con người nguyên thủy
vui đời... Lại có những kẻ đã đi đến nước lộn trái mình ra một cách vô ý thức,
như lộn con đỉa, ruột ra ngoài, cho nên chạm phải bất cứ cái gì cũng chỉ khẳng
định thêm một tinh lực duy nhất: lòng căm thù... Không có nó thì không thể đánh
nhau được, chúng ta đặt ra ở phía trước một cái đích, để cho nhân dân cứ nhằm
vào đấy mà đi. Nhưng chúng ta chỉ được một dúm... Mà kẻ thù thì nhan nhản khắp
nơi... Cậu đã nghe nói đến bọn Tiệp chưa? Khi nào chính ủy đến đây, ông ta sẽ kể
cho mà nghe... Cậu có biết tớ sợ cái gì không? Tớ sợ rằng chúng ta chỉ đi đến
chỗ tự sát. Tớ không tin đâu: may ra chỉ được một tháng, vài tháng, nửa năm là
cùng... Số phận chúng mình đã được định đoạt rồi, không thoát được đâu cậu ạ...
Mọi sự sẽ kết thúc bằng một chính quyền độc tài: một ông tướng nào đấy... Và
xin nói rằng cơ sự này là do bọn Xlavôphil
gây ra tất. Khi bắt đầu cuộc giải phóng nông nô, lẽ ra phải hô hoán lên: “Nguy
to rồi, chúng ta chết đến nơi rồi, chúng ta cần một nền nông nghiệp phải phát
triển với một tốc độ điên cuồng, phải có một nền giáo dục cưỡng bức... Phải có
một Pugatsôv mới, hay một Xtêfan Razin gì đấy cũng được, miễn là phá cho tan
tành cái chế độ nông nô đi...”. Lẽ ra bấy giờ phải gieo vào quần chúng một luân
lý như vậy, phải giáo dục trí thức theo một tinh thần như vậy mới đúng... Thế
mà chúng ta lại tuôn ra những dòng thác nước mắt cảm động, hân hoan: “Trời ơi,
nước Nga mới mênh mông làm sao, độc đáo biết nhường nào! Người Mu-gích bây giờ
tự do như không khí, mà những tòa dinh thự trang chủ với những cô tiểu thư của
Turghênev cũng vẫn nguyên lành, và cái tâm hồn bí ẩn của nhân dân ta nó không
phải như ở phương Tây biển lận”. Cho nên bây giờ tớ nhổ toẹt vào mọi thứ mộng
tưởng!
Xapôjkôv không nói tiếp được nữa. Mặt anh
ta cứ bừng bừng lên. Nhưng hình như cái chủ yếu nhất thì anh ta vẫn chưa nói ra
được. Têlêghin, choáng váng trước những lời lẽ tuôn ra như thác của anh ta, cứ
ngồi đờ ra, miệng há hốc, cái ca nước chè đã nguội đặt trên đùi. Ngoài hành
lang của toa tàu có tiếng chân bước thình thình như thể người đang đi nặng đến
hàng tấn. Cánh cửa buồng toa mở hé ra, và một người vóc tầm thước, to ngang, một
món tóc thẫm màu dính bết trên cái trán rộng, bước vào. Người mới vào ngồi xuống
cạnh cây đèn, hai bàn tay to đặt trên đùi. Trên gương mặt thô thô, dãi dầu mưa
gió, những vết nhăn thưa thớt trông như những vết sẹo, đôi mắt lấp hẳn trong
bóng tối của hốc mắt và của đôi lông mày chổi xể. Đó là trưởng ban đặc vụ của
trung đoàn, đồng chí Ghymza.
- Lại kiếm đâu được rượu uống đấy à? - Ông
ta hỏi khe khẽ, giọng nghiêm trang. - Liệu liệu đấy, đồng chí ạ...
- Rượu nào? Anh này lạ thật. Anh không thấy
à, chúng tôi đang uống nước chè đây thôi, - Xapôjkôv nói.
Ghymza, vẫn ngồi yên không nhúc nhích, nói
giọng trầm trầm:
- Cậu nói dối nữa thì lại càng tệ hơn. Hơi
rượu cứ bốc ngùn ngụt ra cửa sổ, bên mấy toa kia đã bắt đầu nhốn nháo: binh sĩ
họ cứ ngửi hít nhặng xị lên... Ở trung đoàn còn ít chuyện rầy rà lắm đấy! Điều
thứ hai là cậu lại bắt đầu triết lý, lại dở cái điệu kèn ngu xuẩn ấy ra rồi: do
đó tôi kết luận rằng cậu say.
- Ừ thì say: anh cứ đem bắn tôi đi.
- Bắn cậu thì chóng thôi, cậu cũng biết thừa
như thế; nhưng sở dĩ tôi còn bỏ quá cho cậu là vì chiếu cố năng lực chiến đấu của
cậu...
Ghymza trịnh trọng lấy trong túi áo một cái
túi thuốc lá bằng vải, rồi quay sang Têlêghin nói tiếp, giọng chậm rãi như tiếng
cối xay thóc:
- Lần nào cũng lại cái trò khả ố ấy: tuần
trước xử bắn ba thằng đốn mạt, chính tôi hỏi cung - đúng là một đống thối tha,
chúng nó nhận hết. Thế mà cậu ta lập tức đi xoay rượu uống... Hôm nay vừa bắn một
thằng khốn kiếp sừng sỏ, một thằng phản gián của Đênikin, chính cậu ta tóm cổ
được hắn trong đám sậy... Ấy thế là cậu ta lại nốc rượu vào và giở triết lý ra.
Thật là một mớ hổ lốn! Vừa rồi tôi đứng dưới đường tàu nghe cậu ta nói mà cứ lộn
mửa lên như ngửi phải mùi thịt thối... Tôi chứ phải người khác thì đã tống cậu
ta lên ban đặc vụ từ lâu, vì cậu ta rõ ràng là đang thối ruỗng ra... Sau đó cậu
ta lăn ra ốm hai ngày liền, không chỉ huy trung đoàn được nữa...
- Nhưng nếu thằng vừa bị anh xử bắn là bạn
học của tôi thì sao? - Xapôjkôv nheo nheo đôi mắt, hai cánh mũi phập phồng.
Ghymza làm thinh, như thể không nghe thấy
câu hỏi này. Têlêghin cúi đầu... Xapôjkôv lại nói, cái mũi lấm tấm mồ hôi dầu
dí sát vào Ghymza:
- Một tên phản gián của Đênikin, đúng thế đấy.
Nhưng ngày trước tôi với hắn vẫn rủ nhau đi dự những buổi “Dạ đàm triết học”.
Có ma nó biết tại sao hắn lại chui vào bạch vệ làm gì... Có lẽ vì tuyệt vọng...
Chính tôi đã giải hắn về cho anh... Tôi đã làm tròn nhiệm vụ - anh vẫn chưa bằng
lòng sao? Hay anh còn muốn tôi phải nhảy múa reo hò khi các anh dẫn hắn ra khe
núi?...Lúc ấy tôi đi theo sau, tôi có trông thấy. - Xapôjkôv nhìn trừng trừng
vào hai cái hốc mắt tối sẫm của Ghymza. - Tôi có được phép có những tình cảm của
con người không, hay là phải đốt sạch mọi thứ tình cảm đi?
Ghymza trả lời thong thả:
- Không, cậu không được có những tình cảm ấy...
Người khác thì thế nào tôi không biết, chứ cậu thì phải đốt hết. Một cái ổ ô
nhiễm như cậu đang mang trong người, chính là nơi khởi đầu của phản cách mạng đấy.
Họ im lặng một hồi lâu. Không khí rất nặng.
Bên ngoài khung cửa sổ tối om, mọi âm thanh đều đã im ắng. Ghymza rót nước chè,
bẻ một miếng bánh mì xám to, bắt đầu ăn chậm chậm, như một người đang đói lắm.
Rồi bằng một giọng trầm trầm ông ta bắt đầu nói về quân Tiệp Khắc. Những tin tức
nhận được rất đáng lo ngại. Quân Tiệp Khắc đã nổi loạn trên khắp các đoàn tàu rải
rác từ Penza cho đến Vlađivoxtôk. Các cơ quan chính quyền xô-viết chưa kịp định
thần lại thì những tuyến đường sắt, những thị trấn đã lọt vào tầm công kích của
quân Tiệp. Những đơn vị ở miền Tây đã quét sạch thành Penza, khai triển về phía
Xyzran, chiếm lấy thị trấn này và từ đấy tiến về Xamara. Họ rất có kỷ luật, được
vũ trang đầy đủ và chiến đấu rất liều lĩnh, với một kỹ thuật rất cao. Hiện nay
thì khó nói rõ đây chỉ là một cuộc binh biến thường, hay có những lực lượng nào
từ bên ngoài chỉ đạo họ. Hình như có cả hai. Chỉ biết là từ Thái bình dương cho
đến sông Volga đã bùng ra một mặt trận mới, tuyến lửa lan đi rất nhanh như một
sợi dây ngòi thuốc súng, có thể đưa đến những tai họa không thể lường trước được.
Bên ngoài có ai đi lại gần cửa sổ. Ghymza
im bặt, cau mày, ngoái cổ lại. Ngoài cửa sổ có tiếng gọi.
- Đồng chí Ghymza ra đây tí.
- Có việc gì thế? Nói đi!
- Việc mật.
Đôi mày rậm buông xuống lấp cả hốc mắt,
Ghymza tì hai tay lên giường, ngồi yên như thế một giây, rồi lấy sức đứng dậy,
dáng như miễn cưởng, và bước ra, hai vai chạm vào thành cửa. Ra khỏi toa, ông
ta ngồi xuống bậc toa, người chồm ra phía trước. Từ trong đêm tối một bóng người
cao lênh khênh mặc ca-pốt kỵ binh tiến lại, cựa giày kêu lách cách. Người mới đến
ghé sát vào tai Ghymza, thì thầm mấy tiếng vội vã...
Ghymza vừa ra khỏi, Xapôjkôv lập tức châm tẩu
hút, mấy lần nhổ nước bọt ra ngoài cửa sổ một cách bực bội. Anh ta tháo kính vứt
lên giường rồi bỗng cười phá lên.
- Đây, tất cả các bí quyết của họ chung quy
là thế này: trả lời thẳng và dứt khoát vào câu hỏi đặt ra... Có thượng đế
không? - Không! Có thể giết người được không, - Được. Mục đích gần nhất là gì? -
Cách mạng thế giới... Ở đây không được có những xúc cảm lôi thôi của trí thức...
Anh ta bỗng im bặt, rướn người lên nghe
ngóng. Cả toa xe rung lên - Ghymza vừa nện quả đấm vào thành toa. Cái giọng
khàn khàn của ông gầm lên dữ dội:
- Này, nếu nói sai thì liệu cái thần hồn đấy,
thằng chó đẻ...
Xerghêy Xerghêyêvits nắm lấy cánh tay
Têlêghin.
- Cậu có nghe thấy không? Thế cậu có biết
chuyện gì đấy không? Có những tin đồn chẳng lành về tổng chỉ huy Xôrôkin nhà
ta... Ngoài kia là một đồng chí ở ban đặc vụ vừa mới ở chỗ ông ta về đấy. Bây
giờ cậu hiểu tại sao Ghymza lại hầm hầm như quỷ sứ rồi chứ?
Các vì sao đã mờ dần trước buổi bình minh.
Con gà trống lại cất tiếng gáy giữa mấy cỗ xe tải. Sương sớm phủ trên doanh trại
đang yên giấc. Têlêghin trở về buồng toa của mình, tháo ủng ra rồi thở dài nằm
xuống giường, làm mấy cái lò xo kêu lên ken két. Đôi khi Têlêghin có cảm giác
là cái quãng đời hạnh phúc ngắn ngủi của chàng chỉ là một giấc chiêm bao mà
chàng đã nằm mơ thấy ở một nơi nào đó trên thảo nguyên, trong tiếng gõ đều đều
của bánh xe lửa trên đường sắt...
Chàng từng sống một quãng đời ổn thỏa và
bình lặng; thời sinh viên, thành Pêterburg thăm thẳm vô tận, thời kỳ đi làm,
cái nhóm người vô tư lự và gàn dở trọ ở nhà chàng trên đảo Vaxilievxki. Lúc bấy
giờ chàng thấy tương lai rõ ràng như hiện trên lòng bàn tay. Chàng cũng chẳng
nghĩ ngợi gì về tương lai nữa: nhịp điệu của năm tháng đang trôi qua trên mái
nhà chàng thong dong và nhẹ nhõm. Ivan Ilyits biết rằng chàng sẽ trung thực làm
tròn bổn phận, và đến khi mái đầu đã điểm bạc, chàng sẽ nhìn lại quãng đời đã
qua, và sẽ thấy mình đã vượt một chặng đường rất dài, mà không lạc bước vào những
ngõ hẻm nguy hiểm như hàng nghìn Ivan Ilyits khác cũng giống như chàng. Rồi
Đasa đã uy nghi bước vào nếp sống giản dị của chàng, và đôi mắt xám của nàng đã
rọi vào lòng chàng một hạnh phúc đáng sợ. Quả tình, trong lòng chàng thỉnh thoảng
vẫn nẩy ra, rất thầm kín, một mối hoài nghi ngắn ngủi: hạnh phúc không phải
dành cho chàng! Nhưng chàng đã xua đuổi mối hoài nghi ấy đi, chàng nuôi nấng một
dự định: hễ những ngày chinh chiến qua đi, chàng sẽ xây cho Đasa một ngôi nhà
nhỏ tràn đầy hạnh phúc. Và ngay cả khi những bức tường chính của nền đế chế đã
sụp đổ, mọi sự đều rối tung lên, và một trăm năm mươi triệu dân Nga cất tiếng gầm
thét giận dữ và đau đớn, Ivan Ilyits cũng vẫn nghĩ rằng mưa bão sẽ qua đi và
vũng nước mưa đọng trước nếp nhà xinh xẻo của Đasa sẽ ánh lên thanh bình trong
nắng mới.
Thế rồi chàng lại nằm trên chiếc giường con
này, trên đoàn tàu quân sự. Hôm qua một trận đánh, ngày mai lại một trận đánh.
Bây giờ chàng đã rõ rồi: đường về dĩ vãng không bao giờ còn nữa. Chàng thấy xấu
hổ khi nhớ lại rằng cách đây một năm chàng đã lăng xăng bày biện cái căn nhà ở
phố Kamenny Ôxtrôv: chàng đã sắm cái giường gỗ hồng tâm để cho Đasa sinh ra một
đứa bé mới lọt lòng đã chết.
Đasa đã bị xoáy nước dìm xuống đáy trước
chàng. Những tên “cướp nhảy” đã xông vào nàng bên Vườn mùa hạ, mấy sợi tóc nhỏ
dựng đứng lên trên đầu đứa bé đã chết, cảnh đói rét, tối tăm, những tờ sắc lệnh
trong đó mỗi từ ngữ đều hừng hực phẫn nộ và căm thù, - cách mạng đã hiện lên
trước mắt nàng như thế đó. Đêm đêm, cách mạng thổi hun hút trên mái nhà, lùa
tuyết vào mấy cánh cửa sổ phủ băng, và rít lên bên tai Đasa qua tiếng gào của
bão tuyết: “Mày ở đâu lạc vào đây?”. Khi mùa xuân xám của Pêterburg lùa gió xám
về, tuyết tan trên các mái nhà chảy xuống đường rả rích và những hạt băng rơi
lanh canh trong các ống máng thủng giột. Đasa nói với Ivan Ilyits (hôm ấy chàng
về nhà, vẻ hồ hởi, áo khoác phanh ngực và nhìn Đasa với đôi mắt sáng hơn mọi
hôm, còn nàng thì co ro lại, khăn quàng quấn lên kín cả cằm):
- Ivan ạ, giá có thể được, em chỉ muốn đập
vở đầu em ra, vĩnh viễn quên hết... Giá được như thế thì em còn có thể là bạn
anh được... Chứ cứ như thế này - nằm vào cái giường khủng khiếp ấy, lại bắt đầu
một ngày ghê tởm - anh hiểu cho em: em không thể sống như thế được, không thể
được. Anh đừng nghĩ sai cho em, em không cần phong lưu sung túc gì đâu, em
không cần một thứ gì hết... Em chỉ cần sống, sống cho nó trọn vẹn... Còn những
mẩu vụn thì em không cần... Em không còn yêu anh nữa... Anh tha thứ cho em...
Nói xong, nàng quay mặt đi.
Xưa nay Đasa vẫn nghiêm khắc trong tình cảm.
Bây giờ nàng đã trở thành độc ác. Ivan Ilyits hỏi nàng:
- Đasa ạ, có lẽ chúng mình nên chia tay
nhau một thời gian chăng?...
Và lần đầu tiên trong suốt cả mùa đông
chàng thấy đôi mày nàng mừng rỡ giương cao lên, đôi mắt nàng sáng long lanh vì
một niềm hy vọng kỳ dị, khuôn mặt gầy gò của nàng run lên một cách thương
tâm...
- Em thấy như thế tốt hơn, Ivan ạ.
Ngay sau đó chàng bắt đầu cương quyết nhờ
Rublyov can thiệp cho chàng được đăng vào Hồng quân, và đêm cuối tháng ba chàng
lên đường với đơn vị đi về miền Nam. Đasa tiễn chàng ra sân ga Tháng Mười rồi đến
khi cửa sổ toa tàu đã từ từ trôi qua mặt nàng, nàng úp tấm khăn len lên mặt khóc
nức nở.
Từ dạo ấy Ivan Ilyits đã vượt qua hàng bao
nhiêu trăm dặm trên đoàn tàu quân sự, nhưng những trận chiến đấu, tình trạng mệt
mỏi hay cảnh thiếu thốn đều không thể làm cho chàng quên được gương mặt yêu dấu
đầm đìa nước mắt trong đám phụ nữ đứng bên bức tường ám khói đen kịt của nhà
ga. Đasa từ biệt chàng như thể hai người không bao giờ còn gặp lại nhau nữa.
Chàng cố hiểu cho ra mình đã làm gì để nàng phật lòng như vậy? Xét cho cùng, dĩ
nhiên cái nguyên nhân đã làm cho nàng nguội lạnh đi chỉ có thể ở nơi chàng mà
thôi! Có phải mình nàng chết con đâu? Dù sao cũng không phải cách mạng đã rứt đứt
tim nàng... Chàng đã lần điểm lại trong ký ức biết bao nhiêu đôi vợ chồng đã gắn
bó với nhau khăng khít hơn nữa trong những ngày dữ dội, rối ren này... Thế thì
chàng có lỗi ở chỗ nào?
Đôi khi trong lòng chàng dấy lên một làn
sóng phẫn uất: thôi được, cô cứ việc đi tìm một người nào có thể săn sóc quanh
mình cô từng li từng tí như tôi đi... Thế giới đang day dứt, rung chuyển lên,
thế mà cô ta chỉ lo nâng niu những cảm xúc của mình hơn cả... Chẳng qua là thói
buông xuôi, quen ăn bánh mì ngọt quá rồi; cứ thử gặm miếng bánh mì đen trộn cám
mà xem!
Tất cả những chuyện ấy đều đúng cả, nhưng từ
đấy lại phải rút ra một kết luận nữa: Ivan Ilyits là người tốt tuyệt trần và
không yêu chàng ta là một tội lỗi. Cứ mỗi lần Ivan lại vấp phải cái kết luận lố
bịch ấy... “Quả thật, thử hỏi mình có cái gì đặc biệt đến thế không? Thể chất
khỏe mạnh là một này. Thông minh và thú vị tuyệt vời chăng? - không, chỉ bình
thường như cỡ giày số 10... Là một bậc anh hùng, một người lỗi lạc chăng? Một
gã đàn ông hấp dẫn chăng? Không không... Chỉ là một anh thị dân lương thiện, tầm
thường như hàng triệu người khác... Chẳng qua vớ được cái vé xổ số trúng độc đắc:
tình yêu của một người con gái đầy sức quyến rũ, còn nhiệt tình, thông minh,
cao hơn mình hàng nghìn lần, rồi mối tình ấy đã phai nhạt đi cũng một cách khó
hiểu như vậy...”.
Cứ thế, chàng nhìn lại bản thân và nghĩ phải
chăng nguyên nhân là ở chỗ chàng quá bé nhỏ so với tầm cỡ của thời đại, đến nỗi
chiến đấu mà chàng cũng chiến đấu theo kiểu tiểu tư sản, như thể làm việc ở sở?
Bây giờ chàng có nhiều dịp gặp những con người đáng sợ trong việc ác cũng như
trong điều thiện, bước đi những bước khổng lồ trên chiến trường đẫm máu... “Ivan
Ilyits, ít ra cũng phải căm thù địch với tất cả tâm lực của mình, cũng phải biết
sợ chết cho nó ra sợ chứ...”.
Những điều đó làm cho Ivan Ilyits rất phiền
lòng. Tuy bản thân chàng cũng không nhận thấy, chàng dần dần trở thành một
trong những cán bộ đáng tin cậy nhất, chín chắn nhất và can đảm nhất của trung
đoàn. Họ thường giao cho chàng phụ trách những cuộc hành binh nguy hiểm, và
chàng bao giờ cũng làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Cuộc nói chuyện với Xerghêy Xerghêyêvits đã
khiến chàng suy nghĩ rất lung. Viên chỉ huy chuếnh choáng hơi men ấy hình như
cũng dằn vặt quằn quại - Mà quằn quại khủng khiếp chứ chẳng phải vừa... Thế còn
Miska Xôlômin? Còn Tsertogônôv? Còn hàng nghìn người khác mà chàng chẳng bao giờ
tìm hiểu? Tất cả những con người ấy đều cao ngang tầm thời đại, họ to lớn, xù
xì, họ biến dạng đi trong đau khổ quằn quại. Trong số họ có nhiều người còn
không có đủ từ ngữ để mà nói nữa, chỉ có khẩu súng trường trong tay, lại có những
người lao vào phóng đãng một cách điên rồ rồi quay ra hối hận... Nước Nga là thế
đấy, cách mạng là thế đấy.
* * *
- Đồng chí đại đội trưởng... Dậy đi...
Têlêghin ngồi dậy. Ngoài cửa sổ toa tàu, mặt
trời như một quả cầu óng ánh treo ở cuối cánh thảo nguyên vàng nhạt như màu
lông gà con. Người lính có bộ râu màu hung, khuôn mặt rộng và đỏ như mặt trời mới
mọc, lay Ivan Ilyits một lần nữa.
- Đồng chí khẩn trương cho, trung đoàn trưởng
có lệnh gọi. Trong buồng toa của Xapôjkôv, ngọn đèn dầu hôi hám vẫn cháy leo
lét. Ngồi trong buồng có Ghymza, chính ủy trung đoàn Xôkôlôvxki - một người hom
hem có bộ tóc đen và đôi mắt đen mất ngủ nổi đầy những tia máu - hai viên tiểu
đoàn trưởng, mấy viên đại đội trưởng và người đại biểu của ủy ban binh sĩ, vẻ mặt
bướng bỉnh, thậm chí bực tức... Tất cả đều hút thuốc lá. Xerghêy Xerghêyêvits,
đã mặc áo ngoài và đeo súng lục, cầm một băng giấy điện báo trong bàn tay run
run. Khi Ivan Ilyits đứng lại ở cửa buồng, Xapôjkôv đang đọc giọng khàn khàn:
- “... như vậy, việc quân địch chiếm nhà ga
một cách bất ngờ đã cắt đứt các đơn vị của chúng ta và đặt nó vào giữa hai mũi
tấn công. Vì cách mạng, vì số dân cư bất hạnh sẽ không sao tránh khỏi bị hành hạ
và tàn sát nếu ta để họ lọt vào tay quân bạch vệ, các đồng chí hãy phái ngay
quân tiếp viện đến...”.
- Không có lệnh của tổng chỉ huy thì chúng
mình làm quái gì được? - Xôkôlôvxki kêu lên. -Để tôi thử bắt liên lạc một lần nữa
với tổng chỉ huy qua máy Hugues xem sao...
- Cứ đi mà thử, - Ghymza nói, giọng ảm đạm.
(Mọi người đều nhìn vào ông ta) - Còn tôi, tôi thấy thế này: anh đi đi, lấy
thêm bốn chiến sĩ, lấy Têlêghin đây nữa rồi phóng goòng máy lên bộ tham mưu...
Và chưa lấy được lệnh thì đừng trở về... Xapôjkôv, viết giấy cho tổng chỉ huy
Xôrôkin đi...
Trên một nắm gò cỏ mọc rậm rạp, một người
cưỡi ngựa đang giơ tay lên che mắt nhìn về phía con đường sắt: trên ray có một
đám bụi đang tiến lại gần rất nhanh.
Khi đám bụi khuất trong một hẻm núi, người
cưỡi ngựa khẽ chạm cựa giày vào sườn ngựa. Con ngựa hồng gầy gò vươn dài cái
mõm hung ác ra, quay lại và đi xuống gò. Hai bên sườn gò, trước những đống đất
nhỏ mới đào lên, có một trung đội sĩ quan của quân tình nguyện đang nằm chờ.
- Có goòng - Fon Mecke vừa nói vừa xuống ngựa,
đoạn lấy roi đập khe khẽ vào đầu gối con ngựa giống - Nằm xuống.
Con ngựa bướng bỉnh co hết chân này đến
chân kia, vẫy vẫy hai tai, nhưng rồi cũng đành phục tòng, thở hắt ra một hơi
dài nằm xuống, mõm chạm đất. Lồng ngực nổi xương sườn của nó phồng lên một lượt
rồi nằm yên.
Fon Mecke ngồi xổm trên đỉnh gò bên cạnh
Rôstin. Lúc bấy giờ chiếc goòng đã từ hẽm núi ló ra: đã có thể nhìn thấy rõ sáu
người mặc áo ca-pốt ngồi trên goòng.
- Đúng thế: quân đỏ! - Fon Mecke ngoảnh
sang bên trái hô: - Toàn đội! - rồi ngoảnh sang bên phải hô tiếp: - Chuẩn bị! Hỏa
lực dồn nhanh trên mục tiêu di động... Bắn!
Không khí trên gò bị xé toạc ra như một tấm
vải trúc bâu hồ cứng. Qua đám bụi có thể nom rõ một người trên goòng ngã xuống,
lộn đi mấy vòng rồi lăn xuống dốc, hai tay cố túm lấy cỏ. Họ bắn vào chiếc
goòng đang đi xa dần - ba người bắn súng trường, hai người bắn súng lục. Chỉ một
phút nữa chiếc goòng sẽ đi vào hẽm núi thứ hai sau cái chòi của người bẻ ghi.
Fon Mecke quất ngọn roi đánh vút một cái trong không khí, tức giận điên cuồng.
- Nó thoát mất, nó thoát mất! Bắn như thế
à! Thật xấu hổ!
Rôstsin vốn được coi là người bắn giỏi. Điềm
tĩnh nhích đầu ruồi ra trước chiếc goòng một thước, chàng nhắm vào một người
cao lớn, rộng vai, mặt nhẵn, có lẽ là một cấp chỉ huy. “giống Têlêghin lạ lùng!
- chàng bất giác nghĩ thầm. - Nếu thế thì kinh khủng quá”. Rôstsin bóp cò, cái
mũ lưỡi trai của người kia văng đi và vừa lúc ấy chiếc goòng đi vào hẽm núi thứ
hai! Fon Mecke quẳng roi xuống.
- Bắn như cứt! như cứt cả một lũ. Chẳng còn
ra lính tráng gì nữa, các ngài sĩ quan ạ, chỉ là một đống cứt.
Hắn quắc đôi mắt lồi của kẻ sát nhân bẩm
sinh lên, cứ thế chửi bới mãi cho đến khi các sĩ quan phủi ống quần nhổm dậy và
bắt đầu phản kháng:
- Này ông đại úy, ông vừa vừa cái mồm chứ, ở
đây có cả những người cao cấp hơn ông đấy.
Lắp một sac-giơ mới vào súng, Rôstsin cảm
thấy tay mình vẫn còn run. Tại sao thế nhỉ? Chẳng lẽ chỉ vì thấy người kia giống
Ivan Têlêghin quá? Thật là nhảm nhí - Têlêghin ở Pêtrôgrađ kia mà...
Chính ủy Xôkôlôvxki và Têlêghin đầu quấn
băng bước lên thềm tòa nhà gạch hai tầng - trụ sở của ban quản trị thôn, cũng
xây đối diện với nhà thờ như thường lệ, trên một khoảng đất không lát đá, trước
kia vốn là nơi họp chợ phiên. Bây giờ thì các gian hàng cửa lớn đều đóng đinh,
cửa sổ vỡ nát, hàng rào bị nhổ đi đâu hết. Trong ngôi nhà thờ có đặt một bệnh
xá, ngoài sân có mấy thứ quần áo rách của bộ đội bay phần phật trên đây phơi.
Trong trụ sở, nơi đặt đại bản doanh của tổng
chỉ huy quân đoàn Xôrôkin, ở gian phòng ngoài nền vứt bừa bãi những đầu mẩu thuốc
lá và giấy vụn, bên cạnh cái cầu thang dẫn lên tầng trên, một người lính hồng
quân ngồi trên một chiếc ghế tựa bằng gỗ uốn, khẩu súng trường chống xuống đất ở
giữa hai chân. Mắt nhắm lại, hắn hát ư hử trong mồm một bài ca thảo nguyên. Đó
là một thanh niên có đôi gò má cao nhô ra hai bên, cái mũ lưỡi trai vành đỏ đội
hất ra sau gáy, trước trán bồng ra một món tóc quăn tít dấu hiệu của sự ngang
tàng của kẻ thiện chiến. Xôkôlôvxki hỏi vội:
- Chúng tôi cần gặp đồng chí Xôrôkin... Đi
lối nào đây?
Người lính mở đôi mắt đục ngầu vì chán và
buồn ngủ. Mũi hắn mềm nhẽo, trông chẳng ra cái thớ gì. Hắn đưa mắt nhìn khắp
người Xôkôlôvxki - hết nhìn mặt lại nhìn quần áo, nhìn xuống đôi ủng rồi lại
quay sang nhìn Têlêghin cũng y như trước. Viên chính ủy sốt ruột bước tới:
- Kìa tôi hỏi đồng chí... Chúng tôi có việc
khẩn cấp cần gặp tổng chỉ huy.
- Cấm nói chuyện với lính gác, - người lính
có món tóc xoắn nói.
- Chà, khỉ thật. Ở các bộ tham mưu bao giờ
cũng đầy cái bọn hình thức đốn mạt này! -Xôkôlôvxki quát lên - Tôi yêu cầu đồng
chí trả lời ngay: Xôrôkin có nhà hay không?
- Biết đâu đấy...
- Thế tham mưu trưởng ở đâu? Trong văn
phòng chứ?
- Ờ, trong văn phòng ấy.
Xôkôlôvxki kéo tay áo Ivan Ilyits, toan leo
lên thang gác. Bấy giờ người lính gác làm một động tác ngã chúi xuống, nhưng vẫn
ngồi nguyên trên ghế, chỉ có khẩu súng được cầm lên tay chứ không chống giữa
hai chân nữa.
- Các ông đi đâu thế?
- Đi đâu là thế nào? Đến gặp tham mưu trưởng
chứ còn đi đâu.
- Thế có giấy vào cửa không?
Chính ủy sủi cả bọt mép ra khi ông bắt đầu
giảng giải cho người lính gác rõ họ phóng xe goòng đến đây có việc gì. Hắn ngồi
nghe, mắt nhìn hết khẩu đại liên đặt trước cửa lại nhìn những sắc lệnh, nhật lệnh,
chỉ thị, thông cáo dán kín cả bốn bức tường gian phòng ngoài. Nghe xong, hắn lắc
đầu:
- Đồng chí phải hiểu chứ, nhất là đồng chí
lại có trình độ giác ngộ. - hắn nói, giọng rầu rĩ. - Có giấy thì đi; không có
giấy thì tôi sẽ bắn, không chút nể nang.
Đành phải phục tòng thôi, mặc dầu giấy vào
cửa cấp đâu mãi ở bên kia khoảng đất trống và phòng cấp giấy chắc đã đóng cửa rồi:
hẳn họ sẽ bảo là ông trưởng phòng đi vắng đến mai mới về. Xôkôlôvxki đột nhiên
thấy mệt lả ra... Vừa lúc ấy từ ngoài sân có một người thấp bé mặc chiếc áo sơ
mi rách đến tận rốn, nện ủng thình thịch chạy xộc vào, gọi.
- Mitka, họ phát xà phòng kia kìa...
Người lính gác như bị một luồng gió thổi
bay ra khỏi ghế. Hắn lao vút ra ngoài thềm. Xôkôlôvxki và Têlêghin liền đi lên
tầng hai, chẳng hề gặp chướng ngại nào nữa. Mấy cô nhân viên xinh xắn có những
đôi mi hum húp, mặc áo dài lụa, chỉ lối cho họ, khi thì sang phải, khi thì rẽ
sang trái, và cuối cùng họ đã tìm được căn phòng của ông tham mưu trưởng.
Ở đây, trên một chiếc ghế đi-văng thủng
rách, một quân nhân ăn mặc bảnh bao đang nằm ngắm nghía mấy cái móng tay, hai
chân để cả lên mặt ghế. Hắn ta tiếp hai người mới đến một cách hết sức lễ phép,
với một thái độ ân cần vô sản đã được nghiên cứu cẩn thận, luôn luôn dùng hai
chữ “đồng chí”, và trong cách nói của hắn ta, hai chữ đó nghe hệt như thể “bá
tước Xôkôlôvxki”, “công tước Têlêghin”. Hắn hỏi han về thực chất của vấn đề,
xin lỗi hai vị khách rồi đi ra ngoài, đôi ghệt da vàng xâu dây lên đến tận đầu
gối kêu ken két. Bên kia tường bắt đầu có tiếng thầm thì, xa xa có một cánh cửa
đóng sập lại, và xung quanh lại lặng ngắt.
Xơkôlôvxki đưa đôi mắt đỏ kè nhìn Têlêghin:
- Cậu có hiểu được chút gì không? Chúng
mình đến đâu thế này? Đây là đâu, đại bản doanh bạch vệ hẳn?
Ông so đôi vai gầy, và hai tay cứ giang ra
hai bên như thế một lát, vẻ cực kỳ sửng sốt. Bên kia tường lại có tiếng thầm
thì. Cánh cửa mở rộng ra và viên tham mưu trưởng bước vào. Đó là một người
trung niên phốp pháp, trán hói rất cao, vẻ mặt cau có, mình mặc một chiếc áo
sơ-mi binh sĩ vải thô, một dải nịt Kavkaz thắt quanh cái bụng phệ. Ông ta nhìn
kỹ Têlêghin một thoáng, gật đầu chào Xôkôlôvxki và ngồi vào bàn, hai bàn tay
lông lá để ra trước mặt với một điệu bộ quen thuộc. Trán ông ta âm ẩm như trán
một người vừa được ăn uống no say. Cảm thấy người ta đang quan sát mình, ông ta
cau đôi mày một cách cương nghị hơn nữa trên gương mặt tròn trĩnh khá đẹp của
ông.
- Đồng chí trực ban có cho tôi biết là các
đồng chí đến đây có việc khẩn cấp, - ông ta nói, giọng trịnh trọng và lạnh lùng
- Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao đồng chí trung đoàn trưởng hay đồng chí
chính ủy không dùng đường dây điện báo trực tiếp..
- Tôi cố gắng bắt liên lạc bằng đường dây
này đến ba lần. - Xôkôlôvxki đứng bật dậy rút trong túi ra dải băng điện đưa
cho viên tham mưu trưởng. - Làm sao chúng tôi có thể yên tâm ngồi chờ trong khi
các đồng chí ấy đang lâm nguy? Ở bộ tham mưu quân đoàn không thấy có lệnh gì gửi
xuống... Họ đang van xin chúng tôi đến cứu viện. Trung đoàn “Tự do vô sản” đang
bị tiêu diệt, bên cạnh lại có một đoàn xe hai nghìn dân lánh nạn.
Viên tham mưu trưởng nhìn qua băng điện báo
một thoáng rồi vứt nó xuống bàn. Dải băng vương vào cái lọ mực đồ sộ.
- Các đồng chí ạ, chúng tôi có biết là ở vị
trí của trung đoàn “Tự do vô sản” đang diễn ra chiến sự... Tôi xin có lời khen
ngợi lòng hăng hái và nhiệt tình cách mạng của các đồng chí, - ông ta như thể
đang tìm từ ngữ - Nhưng từ nay về sau tôi yêu cầu các đồng chí đừng hoảng hốt
lên như vậy... Hơn nữa, những cuộc hành binh của địch đều có tính chất ngẫu
nhiên... Nói tóm lại, mọi biện pháp cần thiết đều đã được thi hành, các đồng
chí có thể yên tâm về lo làm tròn bổn phận ở đơn vị mình.
Ông ta ngẩng đầu lên. Mắt ông ta nhìn
nghiêm khắc và trong sáng. Hiểu rằng câu chuyện đã chấm dứt, Têlêghin đứng dậy.
Xôkôlôvxki ngồi thừ ra như thể vừa bị đánh một vố choáng người đi.
- Tôi không thể trở về trung đoàn với một
câu trả lời như thế được, - ông nói. - Ngay hôm nay các chiến sĩ sẽ họp
mít-tinh, ngay hôm nay cả trung đoàn sẽ tự động kéo đi cứu viện các đồng chí
bên “Tự do vô sản”... Tôi xin báo trước cho đồng chí biết rằng trong buổi
mít-tinh tôi sẽ phát biểu ý kiến ủng hộ việc xuất quân...
Viên tham mưu trưởng dần dần đỏ mặt tía tai
lên, cái trán rộng của ông ánh lên loang loáng. Xô ghế bành đánh rầm một tiếng,
ông ta đứng dậy, cái quần bộ đội như chỉ chực tụt xuống, hai tay đút vào thắt
lưng.
- Đồng chí sẽ ra tòa án cách mạng của quân
đoàn đấy, đồng chí ạ! Đồng chí chớ quên rằng bây giờ không phải như năm mười bảy
nữa đâu.
- Đồng chí đừng dọa, vô ích!
- Im ngay!
Vừa lúc ấy cánh cửa vụt mở, và một người
cao lớn, dáng thanh tú lạ lùng, mình khoác áo Tserkex bằng dạ mịn màu xanh, bước
vào phòng. Gương mặt tuấn tú và u ám của ông ta, với những món tóc thẫm màu rũ
xuống trán, với bộ ria chúc, có một nước da màu hồng mịn thường thấy ở những
người nghiện rượu và những người tàn ác. Môi ông ta ướt và đỏ, đôi mắt đen mở rộng.
Ống tay trái của chiếc áo Tserkex đung đưa, ông ta đến sát Xôkôlôvxki và
Têlêghin, ném vào mắt họ một cái nhìn man dại. Đoạn ông ta quay về phía viên
tham mưu trưởng. Hai cánh mũi giận dữ rung lên:
- Lại những lề thói của chế độ cũ! “Im ngay”
là cái quái gì? Nếu họ có lỗi, họ sẽ bị xử bắn... Nhưng không có cái lối nạt nộ
người ta như ông tướng ngày xưa thế!
Viên tham mưu trưởng cúi đầu lặng thinh
nghe lời quở trách. Ông ta không còn có thể đối đáp gì nữa: đó chính là tổng chỉ
huy Xôrôkin.
- Ngồi xuống đấy các đồng chí, tôi nghe
đây. - Xôrôkin nói, giọng điềm tĩnh, rồi ghé đít ngồi lên bậu cửa sổ.
Xôkôlôvxki lại bắt tay vào trình bày mục
đích của chuyến đi: xin lệnh chuẩn y cho trung đoàn Varnavxki lập tức xuất quân
đến cứu viện cho trung đoàn láng giềng “Tự do vô sản”; ngoài nghĩa vụ cách mạng
ra, một sự suy tính đơn giản cũng đòi hỏi phải làm như vậy: nếu bên “Tự do vô sản”
bị đánh tan, thì trung đoàn Varnavxki sẽ bị cắt ra khỏi căn cứ của nó.
Xôrôkin chỉ ngồi trên bậu bên cửa sổ một
giây, rồi đứng dậy đi đi lại lại rất nhanh, vừa đi vừa hỏi những câu ngắn gọn.
Mái tóc rất đẹp của ông ta bay tung lên mỗi khi ông ta quay phắt lại.
Binh sĩ yêu mến Xôrôkin vì tính hăng hái bồng
bột và lòng dũng cảm. Ông biết cách nói trong những buổi mít-tinh. Vào thời kỳ ấy,
hai đức tính này nhiều khi có thể thay thế được trí thức quân sự. Xôrôkin vốn
là sĩ quan cô-dắc, mang quân hàm phó vệ trưởng, đã từng chiến đấu trong quân
đoàn Yuđênits ở vùng Zakavkaz. Sau cuộc biến động tháng Mười ông trở về Kuban
và tổ chức ở quê hương ông, làng Pêtrôpavlôvxkaia, một đội du kích gồm những
trai tráng trong làng. Đội của ông đã lập được nhiều thành tích trong những
ngày Êkatêrinôđar bị vây hãm. Ngôi sao của ông lên rất nhanh. Vinh quang làm
cho ông ngây ngất. Vốn tràn trề sinh lực, ông có đủ thì giờ vừa chiến đấu vừa
chơi bời phóng đãng. Thêm vào đấy viên tham mưu trưởng của ông lại đặc biệt
chăm chút lo cho sao vị tổng chỉ huy lúc nào cũng có những người đàn bà xinh đẹp
ở xung quanh, và tạo ra quanh ông một khung cảnh thật thích hợp với một tâm hồn
đang cần phát tiết ra một cách hết sức phóng túng.
- Ở bộ tham mưu của tôi họ trả lời các anh
thế nào? - ông ta hỏi khi Xôkôlôvxki đã báo cáo xong và lập cập đưa cái khăn
mùi xoa bẩn vò thành một cục lên trán lau mồ hôi.
Viên tham mưu trưởng hấp tấp đỡ lời:
- Tôi trả lời là quân đoàn đã thi hành mọi
biện pháp cần thiết để cứu trung đoàn “Tự do vô sản”. Tôi trả lời là ban tham
mưu của trung đoàn Varnavxki can thiệp vào công việc chỉ đạo của bộ tham mưu
quân đoàn - một điều không thể dung thứ được, và ngoài ra lại đang gieo rắc một
tình trạng hốt hoảng vô căn cứ.
- Chà, đồng chí xử lý như thế là không đúng
rồi, đồng chí ạ! - Xôrôkin nói, đột ngột chuyển sang giọng làm lành. - Kỷ luật
dĩ nhiên phải tôn trọng... Nhưng có những cái còn quan trọng gấp nghìn cái kỷ
luật của đồng chí... Ý chí của quần chúng! Nhiệt tình cách mạng cần phải được
khuyến khích, dù nó có mâu thuẫn với khoa học quân sự của đồng chí chăng nữa...
Cuộc hành binh của trung đoàn Varnavxki có thể vô ích, có thể có hại, thì cũng
mặc mẹ nó! Ta đang sống giữa thời buổi cách mạng... Bây giờ mà cấm đoán họ, thì
họ sẽ chạy đi họp mít-tinh - tôi còn lạ gì cái lũ to mồm ấy, rồi chúng nó lại
gào tướng lên là tôi say mèm, quân đoàn có sống chết ra sao cũng mặc...
Ông ta bước nhanh về phía lò sưởi và hầm hầm
nhìn Xôkôlôvxki:
- Báo cáo đâu!
Têlêghin lập tức rút tờ giấy của Xapôjkôv
ra đặt lên bàn. Viên tổng chỉ huy cầm lên, đôi đồng tử giần giật chạy qua mấy
dòng chữ, rồi lấy bút viết:
“Tôi hạ lệnh cho trung đoàn Varnavxki lập tức
xuất quân và làm tròn nghĩa vụ cách mạng của mình”.
Ngòi bút chạy ken két trên giấy, mực bắn ra
tung tóe. Viên tham mưu trưởng ngạo nghễ đứng nhìn Xôrôkin viết, rồi khi vị tổng
chỉ huy đưa tờ giấy cho ông ta, ông ta chắp hai tay ra sau lưng lùi lại.
- Muốn đưa tôi ra tòa cũng được, nhưng tôi
không xác nhận lệnh này đâu...
Ivan Ilyits lập tức nhảy chồm tới nắm chặt
lấy cổ tay Xôrôkin, không cho ông ta giơ súng lên. Xôkôlôvxki đứng ra trước mặt
viên tham mưu trưởng để che cho ông ta. Cả bốn người đều thở hổn hển. Xôrôkin
vùng ra, đút khẩu súng vào túi rồi bỏ ra ngoài, đóng sập cửa lại. Cánh cửa bị
xô mạnh đến nỗi vữa trát tường lở ra một mảng...
Mấy cánh cửa lần lượt đóng lại ầm ầm, rồi
những tiếng bước giận dữ của viên tổng chỉ huy im hẳn. Viên tham mưu trưởng nói
trầm trầm, giọng hòa giải:
- Tôi có thể cam đoan với các đồng chí rằng
nếu tôi mà ký vào bản mệnh lệnh thì tai họa có thể lên đến những quy mô rất lớn.
- Tai họa gì! - Xôkôlôvxki ho húng hắng rồi
nói, giọng khàn khàn.
Viên tham mưu trưởng ném vào ông ta một cái
nhìn kỳ dị.
- Ông không đoán ra được tôi nói chuyện gì
à?
- Không, - khóe mắt Xôkôlôvxki máy máy.
- Tôi nói đến quân đoàn của tôi.
- Chuyện gì thế?
- Tôi không có quyền tiết lộ bí mật quân sự
với một chính ủy trung đoàn. Có đúng không đồng chí? Nếu tôi làm như vậy, đồng
chí là người đầu tiên phải bắn tôi. Nhưng chúng ta đã đi xa quá rồi đấy. Thôi
được... Đồng chí hãy nhận lấy trách nhiệm của đồng chí về tất cả những chuyện
này...
Ông ta đến trước một tấm bản đồ cắm chi
chít những lá cờ con con, Xôkôlôvxki và Têlêghin đứng sau lưng ông ta. Hình như
hơi thở nóng ran của hai cái miệng gần ghé sát vào người làm cho viên tham mưu
trưởng hơi khó chịu: dưới lần áo sơ-mi, hai cái xương bả vai của ông ta cứ
nhích nhích. Nhưng ông vẫn điềm nhiên rút ra một cái tăm bẩn, và cái đầu tăm đã
nhấm nát bắt đầu di chuyển trên tấm bản đồ, từ vùng cắm cờ ba sắc đi dần về
phía nam, đến khu vực đóng quân dày đặc của hồng quân.
- Quân bạch vệ đóng ở chỗ này đây, - viên
tham mưu trưởng nói.
- Đâu, đâu? - Xôkôlôvxki nhích vào sát bản
đồ, đôi mắt đã quáng lòa đưa đi đưa lại trên mặt giấy. - Nhưng đó là Torgôvaia
kia mà...
- Phải rồi, đó là Torgôvaia. Hễ nó thất thủ,
đường tiến của bạch quân sẽ được khai thông một nửa.
- Tôi không hiểu đấy... Chúng ta vẫn cho rằng
bạch quân đang ở mãi phía bắc kia, cách chỗ ấy ít nhất là...
- Ta cho là như thế, chứ bạch quân có cho
là như thế đâu. Hiện nay Torgôvaia đang chịu một cuộc công kích tập trung. Quân
trắng có cả phi cơ và xe tăng. Đây không phải như lũ quân của Kornilôv trước
kia đâu. Chúng hành quân theo những tuyến đường bên trong, muốn đánh chỗ nào
thì đánh. Quyền chủ động đang nằm trong tay chúng.
- Ở phía bắc Torgôvaia có Sư đoàn thép của
Đmitri Jlôba, - Têlêghin nói.
- Bị đánh tan rồi...
- Thế còn đại đoàn kỵ binh?
- Cũng bị đánh tan rồi...
Xôkôlôvxki rướn cổ ra, nhích sát vào bản đồ:
- Đồng chí là người điềm đạm có thừa đấy đồng
chí ạ. Cứ như thể đồng chí đã đành lòng với việc thất thủ Torgôvaia... Đơn vị
này bị đánh tan, đơn vị kia bị đánh tan - Ông quay hẳn về phía tham mưu trưởng.
- Thế còn quân đoàn ta thì sao?
- Chúng tôi đang đợi lệnh của bộ tư lệnh tối
cao. Đồng chí Kalnin đã có dự án riêng. Bộ tham mưu quân đoàn không thể đập bàn
đòi đại bản doanh bộ tư lệnh phải cho lệnh tấn công được. Theo đồng chí thì thế
nào? Chiến tranh không phải là mít-tinh.
Viên tham mưu trưởng mỉm cười một nụ cười
tinh tế. Xôkôlôvxki nín thở nhìn gương mặt phương phi, bình thản của ông ta.
Viên tham mưu trưởng điềm nhiên nhìn lại.
- Tình hình như thế đấy các đồng chí ạ. -
ông ta vừa trở về bàn giấy vừa nói. - Cho nên tôi không có quyền điều động một
đơn vị nào ra khỏi vị trí, mặc dầu làm như vậy có thể tưởng chừng như hoàn toàn
hợp lý và cần thiết... Tình thế của chúng ta khá gay go. Vậy các đồng chí về
ngay đơn vị đi. Tất cả những điều tôi vừa nói với các đồng chí hiện nay đều
chưa phổ biến ra được. Cần giữ một trạng thái hoàn toàn điềm tĩnh trong quân đội.
Còn về phần trung đoàn “Tự do vô sản”, thì các đồng chí có thể yên tâm về số phận
của họ, tôi đã nhận được những tin tức khá lạc quan...
Đôi lông mày của viên tham mưu trưởng nhíu
lại trên cái mũi khoằm khoằm, ông ta gật đầu từ biệt khách. Xôkôlôvxki và
Têlêghin ra khỏi phòng làm việc. Ở phòng bên người trực ban đang đứng ở cửa sổ
giũa móng tay. Hắn lễ phép cúi đầu chào hai người...
- Quân đốn mạt! - Xôkôlôvxki thì thầm.
Khi hai người đã ra đường, ông nắm lấy ống
tay áo Têlêghin:
- Sao hả? Cậu thấy thế nào?
- Xét về hình thức thì hắn ta đúng. Còn xét
về thực chất thì đây là một vụ phá hoại, dĩ nhiên.
- Phá hoại à? Không phải đâu... Ở đây có một
cái gì còn nghiêm trọng hơn nhiều... Tôi quay trở lại tôi bắn chết thằng ấy
đây...
- Kìa Xôkôlôvxki, đừng xuẩn động.
- Chúng nó làm phản, tôi nói cho cậu biết, ở
đây có chuyện phản trắc hẳn hoi, - Xôkôlovxki lẩm bẩm. - Ngày nào cũng có người
về báo cáo với Ghymza: ở bộ tham mưu chúng nó chè chén say sưa suốt ngày đêm.
Xôrôkin đã đuổi hết các chính ủy. Nhưng cứ thử đụng vào mà xem. Xôrôkin xưng vương
xưng bá trong quân đội, có ma nó biết đầu đuôi ra sao. Người ta quý mến hắn vì
hắn dũng cảm, người ta coi hắn là người “của mình”. Còn cái thằng tham mưu trưởng
ấy, cậu có biết hắn là ai không? Bêlyakôv, đại tá của quân đội Sa hoàng đấy...
Cậu ddã hiểu đây là thứ nút thắt gì chưa? Thôi ta lên xe thôi... Không biết có
đi được trót lọt không đây, cậu thấy thế nào?
Viên tham mưu trưởng khẽ lắc chuông. Trên
ngưỡng cửa hiện lên bóng dáng viên trực ban đứng nghiêm.
- Thử tìm hiểu xem hiện trạng tổng chỉ huy
ra sao, - Bêlyakôv nói, mặt nghiêm nghị nhìn chăm chú những thứ giấy tờ đặt trước
mặt.
- Đồng chí Xôrôkin đang ở phòng ăn. Trạng
thái: nồng độ hơi cao.
Viên trực ban đợi cho tham mưu trưởng cười
nhạt một tiếng miễn cưỡng, rồi mới mĩm một nụ cười đầy ý nghĩa:
- Có Zinka trong ấy.
- Được, đi đi.
Bêlyakôv đi sang phòng thông tin liên lạc,
xem mấy bản tin điện thoại, ký vào mấy tờ công văn bằng nét chữ nhỏ lăn tăn của
ông ta, rồi đi ra hành lang. Trước cánh cửa ngoài cùng, ông dừng lại phân vân một
giây. Từ sau cánh cửa đưa ra tiếng đàn ghi-ta gẩy khe khẽ. Viên tham mưu trưởng
rút khăn mùi xoa ra lau cái cổ phốp pháp đỏ gay, gõ cửa, rồi không đợi trả lời,
bước thẳng vào.
Giữa phòng, bên cạnh cái bàn trải giấy báo
bày la liệt những đĩa bẩn và cốc chén, Xôrôkin đang ngồi, hai ống tay rộng của
chiếc áo Tserkex xắn cao lên. Gương mặt tuấn tú của ông ta vẫn u ám như ban
nãy. Một món tóc thẫm màu rũ trên cái trán ươn ướt. Hai đồng tử giãn rộng nhìn
trừng trừng vào Bêlyakôv. Trên một chiếc ghế đẩu đặt sát cạnh Xôrôkin, Zinka ngồi
bắt chéo chân lên, thành thử có thể nhìn thấy những chiếc dây nịt bít tất và những
đường viền đăng ten, mấy ngón tay thong thả gảy lên dây đàn. Đó là một thiếu phụ
trẻ măng, có đôi mắt xanh và đôi môi ướt, đều rất đậm màu, cái mũi thanh tú và
cương nghị, mái tóc rối màu hung đỏ vuốt cao lên, duy chỉ có mấy nếp nhăn đau đớn
ở bên mép - thật ra cũng rất mờ nhạt - làm cho gương mặt dịu dàng của cô ta có
cái thần sắc của một con thú nhỏ biết cắn. Theo giấy tờ thì cô ta người đâu ở
Ômxk, là con gái một công nhân đường sắt - dĩ nhiên điều đó chẳng ai tin, cũng
như không ai tin rằng cô ta năm nay mười tám tuổi, họ là Kanavina, tên là
Zinaiđa. Nhưng cô ta đánh máy chữ rất giỏi, biết uống vodka, biết đánh đàn
ghi-ta và hát những bài tình ca hấp dẫn. Xôrôkin đã hứa là hễ có một dấu hiệu
gì tỏ ra cô có ý đồ đem truyền bá trong đại bản doanh những nếp sống thối nát
và sa đọa của bạch vệ thì sẽ đem bắn ngay. Thế là mọi người bèn yên tâm.
- Anh tốt quá nhỉ, chả còn biết nói gì nữa,
- Bêlyakôv lắc đầu nói, rồi cứ đứng ở cạnh cửa phòng để đề phòng bất trắc. -
Anh đã đặt tôi vào một tình thế như thế nào anh có biết không? Có hai thằng dẫn
xác đến, rõ ràng là người của Chấp ủy, đưa chuyện mít tinh ra dọa dẫm, thế là
anh nhảy tót về phía chúng nó... Còn gì đơn giản hơn? Anh cứ ra máy, điện về
Êkatêrinôđar, họ sẽ phái ngay đến cho anh một thằng chính ủy Do thái, hắn sẽ lập
tức cho anh một bộ tham mưu, hắn sẽ ngủ cùng giường với anh, cùng đi ngoài với
anh, sẽ kiểm tra từng ý nghĩ một của anh. Thật là khủng khiếp, tổng chỉ huy
Xôrôkin có khuynh hướng độc tài! Đấy! anh cứ nhận lấy chế độ kiểm tra ấy... còn
tôi thì anh cứ thải hồi đi. Anh muốn bắn tôi cũng được... Nhưng trước mặt cấp
dưới mà rút súng ra dọa tôi thì không được, tôi không cho phép đâu... Làm như
thế thì về sau còn giữ kỷ luật làm sao được nữa!... Quỷ tha ma bắt anh đi, thật
đấy.
Mắt vẫn nhìn viên tham mưu trưởng, Xôrôkin
chìa bàn tay to và khỏe về phía bàn, với một chai rượu nhưng với hụt, bàn tay nắm
lại giữa khoảng trống. Một đợt co giật ngắn làm cho miệng ông ta méo mó đi, bộ
ria vểnh ngược lên. Rốt cục ông ta cũng lấy được chai rượu rót ra hai ly nhỏ:
- Ngồi xuống đây uống đi.
Bêlyakôv liếc nhìn đường viền đăng ten trên
gấu quần của Zinka rồi đến cạnh bàn. Xôrôkin nói:
- Anh mà không thông minh thì tôi thanh
toán anh rồi... Kỷ luật... Kỷ luật của tôi là chiến đấu. Đấy trong bọn các anh,
có ai muốn thì cứ thử ra mà cổ vũ quần chúng lên xem. Thì tôi có thể lôi họ đi
đâu cũng được, và cứ để cho tôi một thời gian mà xem: không ai làm được việc
này đâu, chứ tôi sẽ một mình đè bẹp cả lũ bạch vệ khốn kiếp kia. Cả thế giới sẽ
rung chuyển...
Hai cánh mũi Xôrôkin phập phồng hớp lấy
không khí, mấy đường gân đỏ tía giần giật trên thái dương.
- Không cần đến bọn Chấp ủy tôi cũng sẽ
quét sạch cả vùng Kuban, vùng sông Đôn, vùng Têrek... Mấy thằng chấp ủy ấy chỉ
giỏi ngồi hót ở Êkatêrinôđar... Một lũ hèn nhát, đểu cáng... Thế đấy... trên
mình ngựa, trong chiến trận, tao là kẻ độc tài đấy... Tao sẽ dắt dẫn quân đội!
Xôrôkin đưa tay về phía cái cốc đựng rượu mạnh,
nhưng Bêlyakôv nhanh nhẹn hất đổ cốc đi:
- Thôi uống thế đủ rồi.
- À, ra lệnh đấy hẳn?
- Chỉ xin thôi, với tư cách một người bạn.
Xôrôkin ngả người ra lưng ghế, thở dài mấy
tiếng khe khẽ, rồi bắt đầu đưa mắt nhìn quanh, cho đến khi đôi đồng tử dừng lại
trên Zinka. Zinka đang khua mấy móng tay xinh xẻo trên dây đàn. Đôi mày uể oải
giương cao lên, cô ta cất tiếng hát:
- “Đêm khuya nồng đượm hương ân ái...”
Xôrôkin lắng nghe, và trên thái dương ông
ta mấy đường gân phập phồng mạnh hơn. Ông ta đứng dậy, ấn ngửa đầu Zinka ra và
háo hức hôn lên môi cô ta. Zinka vẫn gẩy lên dây đàn một lát, rồi cây đàn trên
đùi cô ta tuột xuống đất.
- Ấy, cái này lại là chuyện khác, -
Bêlyakôv nói, giọng xuề xòa. - Chao ôi, Xôrôkin, tôi mến anh quá; cũng chẳng biết
vì sao nữa, - mến lắm ấy.
Cuối cùng Zinka ẩy Xôrôkin ra, rồi mặt đỏ bừng,
cô ta cúi xuống nhặt cây đàn lên. Đôi mắt màu xanh đậm của cô sáng long lanh dưới
làn tóc rối. Cái đầu lưỡi xinh xinh liếm lên đôi môi sưng mọng:
- Xà, đau chết người...
- Này các bạn ạ! Có biết gì không: tôi có để
dành được một be thượng hảo hạng...
Bêlyakôv ngừng bặt như mắc nghẹn. Bàn tay với
năm ngón chõe rộng vẫn giơ ra giữa khoảng không. Ngoài cửa sổ có một tiếng súng
nổ và tiếng người quát tháo, Zinka cầm cây đàn chạy vụt ra khỏi phòng như bị thổi
bay đi. Xôrôkin cau mày đi ra cửa sổ...
- Đừng ra nhé, để tôi đi xem thử có chuyện
gì đã.
Những vụ gây gổ và bắn nhau ầm ĩ ở đại bản
doanh quân đoàn là những hiện tượng thông thường. Thành phần quân đoàn Xôrôkin
gồm có hai phân đoàn chủ yếu: phân đoàn Kuban, là một phân đoàn cô-dắc mà hạt
nhân đã được Xôrôkin gây dựng từ năm ngoái, và phân đoàn Ukrain, tập hợp những
đám tàn quân của các đơn vị hồng quân Ukrain đã phải rút lui trước sức ép của
quân Đức. Giữa các chiến sĩ hai phân đoàn này có một mối quan hệ cừu địch kéo
dài. Đóng trên đất lạ các đơn vị Ukrain giữ trận địa không vững và những khi có
dịp đi ngang các làng cô-dắc thì khá tự tiện về khoản lương thực và cỏ ngựa.
Những vụ ẩu đả và sinh sự ầm ĩ cứ xảy ra
hàng ngày. Nhưng cái vụ khởi đầu hôm nay đã tỏ ra nghiêm trọng hơn. Kỵ binh
cô-dắc vừa quát tháo vừa phóng ngựa qua. Từ những dãy hàng rào và những khu vườn,
những tốp hồng quân hoảng hốt chạy ra. Phía ga có tiếng súng trường bắn rất
rát. Trên khoảng đất trống trước mặt các cửa sổ của bộ tham mưu, một người cô-dắc
bị thương vừa bò giữa đất vừa cất tiếng gào man dại.
Trong hành lang quân đoàn bắt đầu nhốn nháo
lên. Từ sáng sớm hôm nay tuyến điện báo đã không thấy trả lời, nhưng bây giờ từ
đấy lại tuôn ra từng tràn những tin cấp báo quái gở. Điều duy nhất có thể hiểu
ra được qua những bức điện điên loạn ấy là bạch quân tiến rất nhanh về phía
Xoxyk-Umanxkaia, đuổi những đoàn hồng quân đang hoảng hốt chạy tháo thân. Những
đám hồng quân chạy trước, về đến khu vực của bộ tham mưu quân đoàn, đã bắt đầu
cướp phá ở nhà ga và trong làng. Lính Kuban xả súng vào họ. Thế là trận hỗn chiến
nổ ra.
Xôrôkin cưỡi con ngựa cái hồng cao lớn và
hung dữ, phi qua cổng chính đại bản doanh. Theo sau ông ta là năm mươi người hộ
tống mặc áo Tserkex, mũ chụp đính kèm vào áo phần phật sau lưng, sườn đeo gươm
cong. Xôrôkin như đúc liền vào yên ngựa. Ông ta không đội mũ, để cho ai nấy có
thể nhận mặt được ông ta ngay. Mái đầu rất đẹp của ông hơi ngửa lên, gió thổi
tung bộ tóc, hai ống tay và vạt áo Tserkex bay phất phới. Ông ta vẫn còn say, mặt
tái xanh, rất cương nghị. Đôi mắt nhìn thấu suốt, tia mắt rất đáng sợ. Bụi tung
lên từng đám dưới những bộ vó đang phi nước đại.
Đến nhà ga, từ phía sau một dãy hàng rào
cây bỗng có mấy tiếng súng nổ. Trong đoàn hộ tống có mấy người quát to lên, một
người lăn xuống chân ngựa. Nhưng Xôrôkin thậm chí cũng không hề ngoái lại nữa.
Ông ta nhìn về phía có một đám binh sĩ đông nghịt đang chen chúc giữa mấy dãy
toa chở hàng, mồm quát tháo ầm ĩ.
Họ nhận ra Xôrôkin từ xa. Nhiều người trèo
lên nóc toa. Trong đám đông súng huơ lên tua tủa, tiếng gào thét đinh tai.
Xôrôkin, không ghìm bớt tốc lực, thúc ngựa nhảy qua hàng rào sân ga phóng thẳng
ra đường tàu, xen vào giữa đám lính dày dặc. Có mấy người nắm lấy dây cương sát
hàm thiếc con ngựa. Ông ta giơ cao hai tay lên và thét lớn:
- Các đồng chí, các bạn chiến đấu, các chiến
sĩ! Đã có chuyện gì xảy ra thế? Tại sao lại bắn nhau? Tại sao mà hoảng hốt? kẻ
nào đã gieo rắc hoang mang vào hàng ngủ các đồng chí? Kẻ khốn nạn nào?
- Họ phản bội chúng tôi! - một giọng hoảng
loạn tru lên.
- Bọn chỉ huy đã bán rẻ chúng tôi. Chúng nó
đã để vỡ mặt trận! - có những tiếng nhao nhao... Và cả đám binh sĩ có đến mấy
nghìn người đứng trên các đường ray, trên cánh đồng bắt đầu gào lên:
- Các người đã bán rẻ chúng tôi... Cả quân
đoàn đã tan rã... Đả đảo tổng chỉ huy! Đánh chết thằng tổng chỉ huy đi!
Tiếng huýt sáo và tiếng reo hò nổi lên, như
thể có một luồng gió ma quái từ địa ngục thổi qua đám đông. Ngựa của đoàn hộ tống
cất tiếng hí, tung vó đứng dựng lên. Đã có những bộ mặt rúm ró đi vì căm thù,
những bàn tay đen đủi dấn sát vào Xôrôkin. Xôrôkin liền quát mạnh đến nỗi cái cổ
lực lưỡng của ông ta căng phồng lên:
- Im ngay! Chúng bay không phải là bộ đội
cách mạng... Chúng bay chỉ là một bầy kẻ cướp và vô lại... Hãy nộp cho ta những
kẻ hèn nhát và những kẻ gieo rắc hoang mang... Hãy nộp cho ta những tên khiêu
khích của bạch vệ!
Xôrôkin bỗng thúc ngựa, và ức con ngựa sấn
tới len sâu hơn nữa vào đám đông. Xôrôkin chồm về phía trước, giơ ngón tay ra
chỉ:
- Nó đây rồi!
Đám đông bất giác ngoảnh về phía người bị
chỉ mặt. Đó là một người lính cao, gầy, mũi to. Hắn tái mặt đi, khuỳnh hai khuỷu
tay ra, lùi lại. Xôrôkin có biết người ấy thật không, hay chỉ chọn hú họa lấy một
vật hy sinh để cứu vãn tình thế? Điều đó không ai biết được... Đám đông đang cần
máu. Xôrôkin rút thanh gươm cong ra vung lên chém đánh vút một cái vào cái cổ
khẳng kheo của người lính. Máu phụt mạnh ra bắn vào mõm con ngựa.
- Cách mạng trừng trị những kẻ thù của nhân
dân như thế đấy.
Xôrôkin lại thúc ngựa, và tay vung thanh
gươm đẫm máu, gương mặt nhợt nhạt và hung ác, ông ta quay cuồng giữa đám đông,
chửi bới, đe dọa, an ủi:
- Quân ta không hề bại trận... Bọn gián điệp
và đặc vụ của bạch vệ đã cố ý gây tâm trạng hoảng hốt... Chính chúng xúi giục
các anh đi cướp bóc, chính chúng phá hoại kỷ luật... Ai bảo quân ta bị đánh
tan? Ai trông thấy chúng nó đánh tan quân ta? Mày trông thấy hẳn, thằng súc
sinh kia? Các đồng chí, tôi đã dẫn các đồng chí đi chiến đấu, các đồng chí đều
biết rõ tôi... Trên mình tôi có hai mươi sáu vết thương! Tôi yêu cầu chấm dứt
ngay việc cướp phá! Tất cả về hàng ngũ! Hôm nay tôi sẽ dẫn các đồng chí tiến
lên công phá địch... Còn những kẻ hèn nhát, những kẻ bảo mạng sẽ bị lòng phẫn nộ
của nhân dân trừng trị đích đáng...
Đám đông lắng nghe. Họ kinh ngạc, họ thán
phục, họ trèo lên vai nhau để nhìn vị tổng chỉ huy của họ. Giọng họ còn càu
nhàu, nhưng lòng họ đã bốc lửa. Đây đó có những lời bàn tán: “Chứ gì nữa, ông ấy
nói đúng đấy... Ông ấy cứ việc dẫn ta đi. Và ta sẽ đi...”. Các đại đội trưởng
ban nãy toan trốn đi đâu hết bây giờ đã xuất đầu lộ diện, và các đơn vị dần dần
trở về với đoàn của mình. Chiếc áo Tserkex của Xôrôkin rách toạc ra một mảng ở
ngực: ban nãy ông ta đã xé nó ra cho binh sĩ trông thấy những vết thương cũ của
ông... Gương mặt ông hung hãn, da tái mét... Tình trạng hốt hoảng đã chấm dứt,
những trạm gác có đặt đại liên được điều ra về phía trước để đón những đoàn
quân đang lục tục kéo về, trên khắp tuyến quân tới tấp bay đi những bức điện có
nội dung hết sức cương quyết.
Tuy vậy quân đoàn không thể nào tránh khỏi
việc rút lui. Mãi đến mấy hôm sau trong khu vực ga Timasevxki mới ổn định lại
được trật tự trong quân đội và mở đầu cuộc phản kích. Hồng quân chia làm hai đạo
tiến vào Vyxelki và Korênnôvka. Hễ khi nào có tình trạng bất phân thắng phụ,
binh sĩ hồng quân lập tức thấy Xôrôkin cưỡi con ngựa hồng xuất hiện ở khắp nơi.
Hình như chỉ bằng cái ý chí nhiệt thành của mình, ông ta đã xoay ngược hẳn thế
thắng bại của cuộc chiến tranh, cứu nguy cho vùng Hắc hải. Ban chấp hành trung
ương của nước cộng hòa Bắc Kavkaz đành phải chính thức thừa nhận quyền tư lệnh
của ông ta trong các cuộc hành binh.
6
Cũng vào những ngày cuối tháng năm ấy, khi
quân đoàn Đênikin mở “chiến dịch Kuban thứ hai”, trên vùng trời nước Cộng hòa
xô viết Nga lại nổi lên một cơn dông bão mới. Ba sư đoàn Tiệp Khắc đang từ mặt
trận Ukrain chuyển về phía đông, đã nổi loạn gần như cùng một lúc trong tất cả
các đoàn tàu đang đi trên đường từ Penza đến Omxk.
Cuộc binh biến này là vố đầu tiên, đã được
chuẩn bị từ trước, của các lực lượng can thiệp đánh vào Liên xô. Các sư đoàn Tiệp,
bắt đầu thành lập từ năm 1014, tuyển mộ những kiều dân Tiệp ở Nga, rồi về sau
là những tù binh Tiệp, - sau Tháng Mười đã trở thành một vật thể dị chất nằm
trong lòng đất nước, luôn luôn dùng vũ lực can thiệp vào những công việc nội bộ
của nước Nga.
Xúi giục họ vũ trang chống lại cách mạng
Nga không phải là dễ. Người Tiệp vẫn còn coi nước Nga là nước sau này sẽ giải
phóng nhân dân Tiệp khỏi quyền thống trị của đế quốc Áo. Nông dân Tiệp trong
khi vỗ béo đàn ngỗng để chuẩn bị cho lễ Giáng sinh, vẫn theo một truyền thống
cũ mà nói: “Jednego gusa dlja Rusa” (“Nhớ dành một con ngỗng cho người Nga”).
Các sư đoàn Tiệp vừa đánh vừa rút lui trước quân Đức đang tiến vào Ukrain, là
chuẩn bị chuyển sang Pháp: ở đấy, trên trận tuyến, họ sẽ biểu dương trước toàn
thế giới cuộc đấu tranh dành tự do của nhân dân Tiệp, và nêu rõ phần đóng góp của
tổ quốc họ vào sự nghiệp chiến thắng quân Đức-Áo.
Đi ngược lại những đoàn tàu của quân Tiệp
hướng về Vlađivôxtôk, là những đoàn tù binh Đức và Hung - những người Hung mà họ
đặc biệt căm ghét. Ở những ga có hai đoàn tàu ngược chiều gặp nhau, ngọn lửa
thù hằn được dịp bốc lên ngùn ngụt. Bọn đặc vụ Bạch vệ rỉ tai binh sĩ Tiệp nói
về những mưu mô xảo quyệt của bolsêvik, phao lên rằng họ có ý đồ tước khí giới
các đoàn quân Tiệp và bắt các đoàn quân này nộp cho Đức.
Ngày mười bốn tháng năm ở ga Tsêlyabinxk xảy
ra một cuộc ẩu đả kịch liệt giữa người Tiệp và người Hung. Xô-viết đại biểu
Tsêlyabinxk bắt giam một số lính Tiệp đặc biệt hung hăng. Cả đoàn tàu liền nắm
lấy vũ khí. Xô-viết đại biểu ở Tsêlyabinxk, cũng như ở bất cứ điểm nào trên tuyến
đường, chỉ có những đơn vị hồng quân vũ trang thiếu thốn, cho nên đành phải nhượng
bộ. Tin về vụ Tsêlyabinxk bay đến khắp các đoàn tàu chở quân Tiệp. Và cuộc binh
biến bùng nổ khi chủ tịch Hội đồng quân sự tối cao của nước Cộng hòa, để đáp lại
các biến cố này, đã ban bố bản mệnh lệnh có tính chất khiêu khích và phản bội
sau đây:
“Tất cả các Xô-viết đại biểu đều có trách
nhiệm tước vũ khí của quân Tiệp; bất cứ người Tiệp nào đi trên tuyến đường này
mà bị bắt gặp có mang vũ khí trong người đều phải xử bắn ngay tại chỗ, bất cứ
đơn vị nào đi trên tàu mà thấy có người mang vũ khí, dù chỉ là một người thôi
cũng vậy, đều phải giải xuống tàu và giam vào trại tù binh”.
Vì quân Tiệp có kỹ luật rất chặt chẽ, có
tinh thần đoàn kết và có kinh nghiệm chiến đấu, lại có sẵn một số lớn súng máy
và đại bác, trong khi các xô viết đại biểu chỉ có những đội xích vệ thiếu vũ
khí, không có người chỉ huy từng trải, cho nên rốt cục không phải các xô viết đại
biểu tước vũ khí quân Tiệp, mà chính là quân Tiệp đã tước vũ khí các xô viết đại
biểu, và làm chủ toàn bộ tuyến đường từ Penza đến Ômxk.
Cuộc binh biến khởi đầu ở Penza là nơi xô
viết đại biểu cho năm trăm xích vệ ra chặn đánh mười bốn nghìn quân Tiệp. Đội
xích vệ đã mở cuộc tấn công vào ga xe lửa và đã bị tiêu diệt hầu hết. Quân Tiệp
lấy bàn máy in giấy bạc của nhà nước ở Penza mang đi, đánh tan quân đỏ trong một
trận lớn ở gần Bêzentsuk và Lipyaghi, rồi chiếm thị xã Xamara.
* * *
Bác sĩ Đmitri Xtêpanôvits Bulavin chồm hẳn
một nửa người ra ngoài cửa sổ, lắng nghe những loạt đạn đại bác nổ rền ở xa xa.
Ngoài phố vắng tanh. Một ánh nắng trắng lóa nung đốt những bức tường của mấy
dãy nhà thâm thấp, những cửa sổ bụi bặm của những cửa hàng trống rỗng, những tấm
biển hiệu vô dụng và dãy phố rải nhựa phủ bụi vôi trắng xóa.
Bên phải, phía bác sĩ đang nhìn, trên quảng
trường nhô lên một cái tháp đóng bằng gỗ chụp kín lên bức tượng Alekxanđr đệ Nhị,
những lá cờ cắm trên tháp đã bạc màu và rách tơi tả. Bên cạnh có đặt một khẩu đại
bác. Một tốp dân phố đang khuân đá lát đường, đào đất lên với một mục đích gì
đó rõ ràng là vô nghĩa lý. Trong tốp này có cả ông chủ lễ Xlôvôkhôtôv, có cả
ông trước bạ Misin - món trang điểm và niềm tự hào của giới trí thức Xamara, có
cả ông chủ hiệu thực phẩm Rômanôv, có cả ông cựu ủy viên hội đồng tự quản nông
phố Xtrambôv, có cả ông trang chủ Kurôievđôv, rất đẹp lão, xưa kia đã từng là một
ông lớn oai vệ. Tất cả những người đó đều là khách chữa bệnh của Đmitri
Xtêpanôvits, và là bạn đánh bài của ông... Một người lính hồng quân ngồi trên một
súc gỗ hút thuốc, hai chân đặt hai bên, khẩu súng trường chống ở giữa.
Bên kia sông Xamarka, đại bác vẫn nổ rền.
Kính cửa sổ khẽ rung lên rè rè. Nghe những âm thanh ấy, bác sĩ nhếch mép mỉm một
nụ cười hiểm độc, một bên mũi thở phì phì vào bộ ria bạc. Mạch ông ta đập một
trăm linh năm. Như thế nghĩa là chất men của xã hội cũ vẫn còn sống trong ông.
Nhưng hiện nay biểu lộ tình cảm ra bằng những dấu hiệu rõ hơn nữa thì nguy hiểm
lắm. Ngay trước mặt, bên kia đường trên những tấm ván bịt lên cái quầy kính đã
vỡ của hiệu kim hoàn Leđer có dán một tờ lệnh của Ủy ban cách mạng dọa xử bắn
các phần tử phản cách mạng: tờ giấy trăng trắng ấy trông vướng mắt như một cái
nhài quạt.
Trên dãy phố vắng tanh hiện ra cái bóng
dáng kỳ quặc của một người sợ sệt, đầu đội một cái mũ kiểu “trước che sau đậy”
bằng thớ vỏ dừa, mình mặc chiếc áo vét-tông bằng tuýt-xo may theo kiểu tiền chiến.
Người ấy đi mon men dọc bờ tường, phút phút lại giật mình nhìn quanh, như có ai
vừa nổ súng bên tai hắn. Những món tóc màu hung của hắn rũ xuống tận vai, bộ
râu đỏ trông như dán vào khuôn mặt dài xanh lướt.
Đó là Gôvyađin, làm thống kê ở hội đồng tự
quản nông phố, trước kia đã từng cố gắng thức tỉnh trong Đasa một “con thú xinh
đẹp” mà không được. Hắn đến tìm Đmitri Xtêpanôvits, và hẳn là muốn nói với ông
một chuyện gì quan trọng lắm mới phải cố khắc phục cái cảm giác hãi hùng của
dãy phố vắng và của những tiếng đại bác vang rền mà đến đây tìm ông.
Trông thấy bác sĩ đứng ở cửa sổ, Gôvyađin
cuống quít xua tay ra hiệu: “Tôi van bác, bác đừng nhìn vào tôi, người ta đang
theo dõi tôi đấy”. Hắn đưa mắt nhìn quanh, đứng sát vào tường ở phía dưới tờ
thông cáo của ủy ban cách mạng, rồi chạy vụt qua phố và chui tọt vào cổng. Một
phút sau, hắn gõ cánh cửa sau nhà bác sĩ.
- Trời ôi, bác đóng cửa sổ lại chứ, họ đang
theo dõi chúng ta đấy, - Gôvyađin thì thào rất to khi bước vào phòng ăn. -
Buông rèm xuống... thôi, đừng buông thì hơn... Bác Đmitri Xtêpanôvits ạ, tôi được
cử đến gặp bác...
- Tôi có thể giúp được gì? - bác sĩ hỏi, giọng
ngạo nghễ, trong khi ngồi xuống cạnh cái bàn trải tấm vải sơn bẩn thỉu và thủng
cháy nhiều chỗ - Mời ông ngồi xuống đây, ông cứ nói đi...
Gôvyađin với lấy chiếc ghế, ngồi phịch xuống,
một chân gấp lại lót dưới đít, rồi ghé sát vào tai bác sĩ nói thì thầm rất to,
nước bọt bắn tung tóe:
- Đmitri Xtêpanôvits... Vừa rồi trong buổi
họp bí mật của ủy ban Lập hiến, chúng tôi đã biểu quyết đề nghị bác nhận ghế thứ
trưởng bộ y tế vệ sinh.
- Thứ trưởng à? - bác sĩ hỏi lại, hai bên
mép trĩu xuống khiến cái cằm nhăn lại. - Ra thế, ra thế. Cho nước Cộng hòa nào?
- Không phải là nước Cộng hòa, mà là chính
phủ... Chúng tôi đã nắm lấy quyền chủ động trong cuộc đấu tranh... Chúng tôi
đang thành lập mặt trận. Chúng tôi sắp nhận được máy in giấy bạc... Với một lữ
đoàn Tiệp Khắc đi tiền đạo, chúng tôi sẽ tiến về Moxkva... Chúng tôi sẽ triệu tập
quốc hội lập hiến. Chính chúng tôi, bác hiểu không, chính chúng tôi đây này...
Hôm nay tranh chấp dữ dội quá. Bọn xã hội cách mạng và bọn mensêvik đòi giữ hết
các ghế. Nhưng chúng tôi, hội đồng nông phố, đã bênh vực bác, đã thông qua được
chức thứ trưởng của bác... Tôi rất lấy làm tự hào. Bác đồng ý chứ?
Vừa lúc ấy có một tiếng nổ dữ dội ở bên kia
sông Xamarka - mấy cái cốc để trên bàn run lên lách cách, - dữ dội đến nỗi
Gôvyađin đứng bật dậy, tay ôm lấy ngực:
- Quân Tiệp đấy...
Lại một tiếng nổ nữa, rồi một khẩu đại
liên, nghe như ngay sát cạnh nhà, bắt đầu gõ từng tràng. Gôvyađin, mặt trắng bệch,
lại ngồi xuống, chân gập lại.
- Còn đấy là bọn đỏ. Chúng nó đặt súng máy
trên kho thóc... Nhưng không thể hồ nghi gì nữa: quân Tiệp đang đánh chiếm
thành phố... Họ sẽ chiếm thành phố.
- Có lẽ tôi đồng ý, - Đmitri Xtêpanôvits
nói, giọng trầm trầm. - Ông uống tí nước chè nhé, chỉ phải cái hơi nguội.
Gôvyađin từ chối, rồi nói thì thầm, như mê
sảng:
- Đứng đầu chính phủ là những nhà ái quốc,
những con người hết sức trung thực, những nhân cách hết sức cao quý. Vôlxki,
bác có biết đấy, một trạng sư ở Tver, một con người tuyệt vời... Thượng úy
Fortunatôv... Klimuskin - người Xamara ta đấy, cũng là một con người hết sức
cao quý... Tất cả đều là đảng viên xã hội cách mạng, đều là những chiến sĩ đấu
tranh không khoan nhượng... Người ta đang chờ cả đích thân Tsernov nữa, nhưng
đây là chuyện tối mật... Ông ấy đang đấu tranh với bọn bolsêvik ở miền bắc...
Các giới sĩ quan đều gắn bó hết sức khắng khít với chúng ta. Trong đám quân
nhân có tiến cử đại tá Galkin... Nghe nói đó là một Đăngtông tái thế... Nói tóm
lại mọi việc đã xong xuôi. Chỉ còn đợi trận xung kích nữa mà thôi... Theo những
tin tức nhận được, quân Tiệp đã ấn định là đêm nay sẽ tấn công vào thành phố...
Tôi có chân trong đội dân vệ. Công việc nguy hiểm và phiền phức kinh khủng...
Nhưng biết làm thế nào được? Phải chiến đấu chứ, phải hy sinh bản thân chứ!...
Ngoài cửa sổ vang lên những tiếng kèn đồng
nhà binh thổi rất to và không đều nhịp, cử bài “Quốc tế ca”. Gôvyađin gập người
xuống, đặt đầu lên bụng Đmitri Xtêpanôvits; mái tóc màu rơm của hắn trông không
có chút sinh khí nào, như tóc búp bê...
* * *
Mặt trời đã lặn sau một đám mây dông. Đêm
đã xuống mà trời vẫn không mát đi được chút nào. Sương mù che kín hết các vì
sao. Tiếng đại bác ở bên kia sông mỗi lúc một to và dồn dập. Tiếng súng nổ rung
chuyển cả nhà cửa. Trận địa đại bác trăm linh hai li của bolsêvik đặt sau kho
thóc bắn trả trong đêm tối. Những khẩu súng máy đặt trên các mái nhà nhả đạn từng
tràn dòn dã. Bên kia sông Xamarka, trong khu ngoại ô ở đầu cầu gỗ, những tiếng
súng trường của các đội vệ binh hồng quân nổ yếu ớt.
Đám mây dông trườn lên, tiếng sấm chuyển ì ầm
như càu nhàu bực tức. Trời tối sập lại, đen như mực. Trong thị xã cũng như trên
mặt sông không có lấy một ánh đèn. Chỉ có những tia lửa từ các nòng đại bác phụt
ra lóe lên như chớp giật.
Trong thị xã không một ai chợp mắt. Ở một
nơi nào đó, dưới một căn hầm rất bí mật, Ủy ban lập hiến họp liên tục không nghỉ.
Những người tình nguyện trong các tổ chức sĩ quan bứt rứt đứng ngồi không yên
trong nhà riêng của họ, y phục chỉnh tề, vũ trang đầy đủ. Dân phố ra đứng ở cửa
sổ, cố nhìn vào bóng đêm rùng rợn. Trên các phố, những đội tuần tiểu quát gọi
nhau. Trong những khoảng im lặng có thể nghe thấy tiếng còi hoang dại, buồn man
mác, của những chuyến xe lửa đi về phía đông.
Những người đứng nhìn ra cửa sổ trông thấy
một tia chớp ngoằn ngoèo chạy suốt nền trời. Dòng nước đục ngầu của sông Volga
hiện lên mờ mờ trong một ánh sáng ảm đạm. Những đường viền của những chiếc
xà-lan và những chiếc tàu thủy đậu ở các bến sông nổi bật lên. Rất cao trên mặt
sông, vượt hẳn các mái nhà lợp tôn, hiện lên sừng sững cái khối đồ sộ của kho
thóc, cái tháp chuông trắng của nhà dòng tu nữ mà truyền thuyết nói là xây bằng
tiền hành khất của bà phước lữ hành Xuxanna. Ánh chớp tắt ngấm. Đêm lại tối như
bưng.
Bỗng bầu trời nứt toác ra. Gió nổi lên, cất
tiếng rú hãi hùng trong các ống lò sưởi. Quân Tiệp bắt đầu tiến quân vào thị
xã.
Họ tiến thành từng hàng thưa thớt từ phía
ga Kryaj, vượt qua cầu xe lửa, men theo các xưởng ướp mỡ, đi về phía khu ngoại
ô ở tả ngạn. Địa hình gồ ghề, con đê, những bụi cói cản trở bước tiến của họ.
Chìa khóa mở vào thị xã là hai cái cầu - cầu
gỗ và cầu xe lửa. Pháo bolsêvik đặt trên khoảng đất trống ở phía sau kho thóc,
khống chế các lối vào thị xã. Những tiếng nổ nặng nề và những ánh chớp của nó cổ
vũ tinh thần dũng cảm của các đơn vị đó, vốn không tin tưởng lắm vào kinh nghiệm
quân sự của các cấp chỉ huy.
Đến cuối đêm quân Tiệp quay ra dùng mưu mẹo.
Gần kho thóc có những đám người tị nạn Ba-lan còn sót lại, ở trong mấy cái lán
với vợ con. Quân Tiệp biết rõ điều đó. Khi đại bác của họ bắt đầu nổ ở bên trên
kho thóc, những người Ba-lan kia rời các nhà lán chạy tản ra xung quanh hớt hải
tìm nơi ẩn nấp. Các pháo thủ hồng quân khua gậy thông nòng và chửi bới om sòm để
đuổi họ ra khỏi trận địa pháo. Khi mấy khẩu pháo trăm linh hai gầm lên, những
người chạy loạn choáng tai, lóa mắt vội tháo chạy cho xa... nhưng từ dãy nhà
kho lại có một đám phụ nữ khác chạy ra. Họ hét lên:
- Đừng bắn, xin các pan đừng bắn, chúng tôi van các pan,
đừng giết hại chúng tôi, lũ người khốn khổ.
Từ khắp bốn phía họ vây chặt lấy mấy khẩu
pháo. Những người đàn bà Ba-lan kỳ dị ấy vồ lấy gậy thông nòng, nắm lấy bánh xe
đại bác, níu tay, bá cổ các pháo thủ đã choáng đầu váng óc vì tiếng súng nổ,
bám chặt lấy râu họ, lăn kềnh ra giữa đất... Dưới lớp áo dài, những mụ đàn bà
này mặc áo lính, và dưới lớp váy của họ là những ống quần ngựa...
- Anh em ơi, quân Tiệp đấy! - có người kêu
lên, và đầu anh ta vỡ toang ra vì một phát súng lục... Người thì vật nhau với
quân Tiệp, người thì bỏ chạy... Trong khi đó quân Tiệp đã có đủ thì giờ tháo hết
quy-lát ra khỏi mấy khẩu pháo, họ vừa bắn vừa rút lui, rồi len lỏi qua những
khe hở giữa các nhà kho đi mất hút.
Trận địa pháo đã bị loại ra ngoài vòng chiến
đấu. Các ổ súng máy đều bị diệt. Quân Tiệp tiếp tục tấn công, tràn ra khắp khu
ngoại ô bên kia sông mãi cho đến sông Volga.
* * *
Đến sáng mây đã tan. Ánh nắng khô khan xói
vào những khung cửa sổ bụi bặm của căn nhà bác sĩ Đmitri Xtêpanôvits. Bác sĩ ngồi
bên bàn, y phục rất chỉnh tề. Mắt ông trũng sâu: đêm qua ông không đi ngủ. Cái
chậu rửa chén, cái khay và mấy cái đĩa trà đều đầy những đầu mẩu thuốc lá. Chốc
chốc ông lại rút cái lược gãy ra chải món tóc bạc quăn quít ra trước trán. Từ
giờ trở đi, bất cứ phút nào cũng có thể có người đến gọi ông đi nhận nhiệm vụ của
bộ. Té ra ông cũng là người hám danh ghê gớm.
Trên phố Đvoryanxkaia, những tốp thương
binh kéo qua cửa sổ nhà ông. Họ đi như trong một thành phố đã chết. Có những
người ngồi bệt xuống vỉa hè, lưng tựa vào tường, vết thương băng bó qua loa bằng
những miếng giẻ đẫm máu. Họ nhìn lên những khung cửa sổ trống trải, nhưng chẳng
còn ai để mà xin hớp nước hay miếng bánh mì.
Ánh nắng nung đốt mặt đường mà cơn dông đêm
qua không làm nguội bớt đi được. Bên kia sông, tiếng đại bác, tiếng liên thanh
vẫn vang rền không ngớt. Một chiếc xe hơi phóng qua, tung bụi vôi lên mù mịt khắp
phố Đvoryanxkaia, sau cửa xe có thể thấy loáng thoáng gương mặt hốc hác của ông
ủy viên quân sự, miệng đen sì. Chiếc xe hơi đi về phía dưới qua cầu gỗ; sau này
người ta có kể lại rằng nó đã trúng đạn đại bác vỡ tan tành cùng với những người
ngồi trong xe. Thời gian đang ngừng lại, trận đánh có vẻ như sẽ khõng bao giờ kết
thúc. Thành phố im lìm nín thở. Những người phụ nữ thuộc giới xã giao, trên
mình đã mặc sẵn những chiếc áo dài trắng, nằm đợi trên đi-văng, gối úp kín đầu.
Ủy ban lập hiến đang dùng trà buổi sáng do bà chủ nhà máy xay bột dọn. Dưới căn
hầm, mặt các bộ trưởng trông như mặt xác chết. Bên kia sông, tiếng đại bác, tiếng
liên thanh vẫn vang rền không ngớt...
Đến giữa trưa Đmitri Xtêpanôvits thở ì ạch
ra mở cửa sổ, vì không sao ngồi được lâu hơn nữa trong đám khói thuốc lá xanh
dày đặc trong phòng. Ngoài phố không còn thấy một thương binh nào nữa. Đã có
nhiều nhà mở cửa sổ, và sau tấm rèm có một con mắt dòm ra hay một gương mặt lo
âu thấp thoáng. Ở các cửa ra vào thỉnh thoảng có một cái đầu ló ra, rồi biến mất.
Có vẻ như thể bọn bolsêvik đi hết rồi thì phải... Thế nhưng tiếng súng dồn dập
bên kia sông là thế nào?.. Chao ôi, nóng ruột quá chừng!
Bỗng kỳ diệu thay, từ sau góc phố hiện ra một
viên sĩ quan chân dài mặc một chiếc áo xẻ tà lưng trắng phau như tuyết: hắn dừng
lại một giây rồi bước đi giữa lòng phố, thanh kiếm dài va lách cách vào thân ủng.
Trên vai hắn, đôi lon vàng lấp lánh dưới nắng ban trưa như ánh hào quang diễm
phúc của chế độ cũ...
Có một cái gì đã bị quên lãng từ lâu chợt
ngoi ngoi lên trong lòng Đmitri Xtêpanôvits. Ông có cảm giác như vừa sực nhớ ra
điều gì, phẫn uất lên vì một chuyện gì không rõ. Với một động tác nhanh nhẹn
không ngờ, ông nhô hẳn người ra ngoài cửa sổ và chồm về phía viên sĩ quan hô
to:
- Quốc hội lập hiến vạn tuế!
Viên chuẩn úy lập tức nháy mắt về phía cái
mặt phương phi của bác sĩ và trả lời, vẻ bí hiểm:
- Rồi hẵng hay...
Từ khắp các khung cửa sổ đều có người chồm
ra gọi í ới, hỏi tới tấp:
- Ngài sĩ quan ơi... Thế nào rồi? Thành phố
chúng tôi đã được chiếm lĩnh chưa? Bọn bolsêvik đã đi hết chưa?
Đmitri Xtêpanôvits đội chiếc mũ lưỡi trai
trắng vào, cầm lấy chiếc can, ngắm mình trong gương rồi ra phố. Ngoài phố người
đổ ra tuồn tuồn như đi xem lễ về. Và vừa hợp cảnh, đâu đấy có những quả chuông
nhà thờ cất tiếng đồng ngân nga... Đám đông ồn ào mừng rỡ dồn lại ở ngã tư. Một
bà khách chữa bệnh của bác sĩ, có cái cằm dày ba ngấn, nắm lấy tay áo ông. Chùm
hoa giả trên cái mũ đồ sộ của bà sực mùi băng phiến.
- Bác sĩ trông kìa: lính Tiệp đấy!
Ở ngã tư, giữa đám phụ nữ đang vây kín xung
quanh, có hai người lính Tiệp đứng cầm súng trường chĩa ra phía trước: một người
râu cạo xanh biếc, người kia để bộ ria đen láy: miệng mỉm cười gượng gạo, họ
đưa mắt rất nhanh nhìn lên các mái nhà, các khung cửa sổ, lên gương mặt những
người đứng xung quanh.
Hai cái mũ vải bảnh bao của họ, hai chiếc
áo cài cúc da, bên ống tay trái có khâu một tấm phù hiệu hình tộc huy, hai cái
xắc cứng cáp và mấy cái bao đạn nịt chặt, vẻ mặt cương nghị của họ - cái gì
cũng làm cho đám người ấy thán phục, kinh ngạc và kính trọng.
- Ura! - trong đám đông có mấy người công
chức reo lên. - Người Tiệp muôn năm! Tung họ lên!
Đmitri Xtêpanôvits, vừa thở hì hục vừa chen
lên trước, toan lên tiếng nói mấy câu chào mừng thật xứng đáng, nhưng ông xúc động
quá, cổ ông cứ se lại, nghẹn ngào. Ông đành rảo bước đến trụ sở bí mật, nơi những
công vụ cao cả đang chờ ông.
Căn hầm ở nhà bà chủ máy xay trống hoác, chỉ
ngửi thấy mùi thuốc lá tắt khét lẹt bốc lên từ mấy cái gạt tàn tua tủa những đầu
mẩu. Ở cuối bàn có một người tóc vàng đang ngồi ngủ, đầu gục vào những mảnh giấy
vẽ đầy những mặt người, mũi vẽ rõ to. Đmitri Xtêpanôvits vỗ nhẹ vào vai hắn.
Người tóc vàng thở hắt ra một hơi dài, ngẩng cái mặt râu ria lên, đôi mắt xanh
nhạt nhìn ngơ ngác vì hãy còn ngái ngủ.
- Có việc gì thế?
- Chính phủ ở đâu? - Đmitri Xtêpanôvits hỏi,
giọng nghiêm khắc. - Tôi là thứ trưởng bộ Y tế vệ sinh đây.
- À, bác sĩ Bulavin, - người tóc vàng nói.
- Xì, khỉ thật, thế mà mình... Sao trong phố thế nào?
- Chưa phải đã thanh toán hết. Nhưng thế là
xong. Trên phố Đvoryanxkaia đã xuất hiện những đội tuần tiễu của quân Tiệp.
Người tóc vàng mở rộng cái miệng đầy những
răng là răng, cười ha hả:
- Chúa thật! Mẹ kiếp, tài thật! Thế thì
chính phủ sẽ họp ở đây vào lúc ba giờ đúng. Nếu mọi việc đều trôi chảy, đến tối
ta sẽ chuyển sang một trụ sở tốt hơn.
- Xin lỗi... - Trong trí Đmitri Xtêpanôvits
vụt thoáng qua một điều phỏng đoán ghê rợn. -Ông có phải là ủy viên Trung ương
Đảng không ạ? Ông là ông Avkxentyev phải không ạ?
Người tóc vàng đáp lại bằng một cử chỉ mơ hồ,
như muốn nói: “Biết làm thế nào”... Chuông điện thoại réo lên. Hắn cầm lấy ống
nghe ở trên bàn.
- Bác sĩ đi đi, bác sĩ ạ, bây giờ chỗ của
bác là ở ngoài phố... Bác nhớ là chúng ta không nên để xảy ra những vụ quá
khích... Bác là một đại diện của giới trí thức tư sản, bác nên kìm bớt cái nhiệt
tình bồng bột của họ... nếu không, hắn nháy bác sĩ một cái - sau này phiền lắm
đấy.
Bác sĩ ra ngoài. Bây giờ cả thành phố đã đổ
ra đường. Họ chào mừng nhau như trong ngày lễ phục sinh. Họ chúc tụng nhau. Họ
báo tin cho nhau...
- Bọn bolsêvik nhảy xuống sông Xamarka hàng
nghìn, cố bơi sang bên này sông.
- Họ bắn chúng chết mới ghê chứ...
- Chết đuối mất bao nhiêu...
- Đúng thế: ở mạn dưới thị xã xác chết đầy
cả sông Volga.
- Cũng đội ơn Chúa... Tôi không cho đó là một
tội lỗi.
- Đúng, chó thì phải chết như chó...
- Các ngài có nghe nói không? Ông thầy lễ bị
ném từ trên gác chuông xuống đấy.
- Ai ném? Bọn bolsêvik à?
- Để cho ông ấy khỏi kéo chuông... Như thế
gọi là “ra đi đóng sầm cửa lại” đấy. Giết ai thì còn hiểu được, chứ ông thầy lễ
thì có tội tình gì?
- Đi đâu thế bố già, đi đâu?
- Xuống dưới kia. Muốn xem cái nhà kho một
chút. Xem có còn nguyên không.
- Bố điên rồi à. Ngoài bến đang còn bọn
bolsêvik kia mà.
- Đmitri Xtêpanôvits! Thế là ta đã sống được
đến ngày hôm nay!... Bác đi đâu mà có vẻ ưu tư thế?
- Ờ, số là họ bầu tôi làm thứ trưởng...
- Xin chúc mừng quan lớn...
- Ấy, bây giờ chưa có gì đâu mà chúc... Chừng
nào chưa chiếm được Moxkva...
- Chao ôi, bác sĩ ạ, giá được thở ít không
khí trong lành cũng đã phúc lắm rồi...
Trong đám đông, những chiếc lon vàng qua lại
một cách hùng dũng. Đó là hình ảnh tượng trưng của tất cả những gì xưa cũ, ấm
cúng, đáng tin cậy. Một đội sĩ quan diễu qua, bước đi cương quyết, theo sau là
một lũ trẻ con đang làm đủ bộ tịch. Mấy người phụ nữ ăn diện cười khanh khách.
Đám đông từ phố Xađôvaia rẽ sang phố Đvoryanxkaia, đi qua nhà bà Kurlinaia, một
tòa dinh thự sang trọng đến mức kỳ quặc, mặt nhà lát gạch tráng men màu lục. Một
người chạy xô vào đám đông.
- Cái gì thế? Có chuyện gì thế?
- Thưa ngài sĩ quan, trong sân này có hai
tên bolsêvik trốn sau đống củi.
- Thế à.. Mời các ông đi đi cho, mời các
ông...
- Các sĩ quan ấy chạy đi đâu thế?
- Các ông bà chớ hoảng sợ...
- Họ đã tìm được mấy tên Tseka!
- Đmitri Xtêpanôvits, dù sao cũng nên tránh
đi thôi, nhỡ ra một cái.... Có mấy tiếng súng nổ. Đám đông dạt ra. Nhiều người
bỏ chạy, đánh rơi cả mũ. Đmitri Xtêpanôvits lại thấy mình đứng trên phố
Đvoryanxkaia, thở hổn hển. Ông cảm thấy mình có trách nhiệm đối với tất cả những
việc đang diễn ra. Đi đến quảng trường, ông nheo nheo đôi mắt nhìn cái tháp bằng
gỗ chụp lên pho tượng Alekxanđr đệ Nhị. Ông dang cánh tay ra phía trước nói
dõng dạc, giọng giận dữ.
- Bọn bolsêvik sẵn sàng tiêu diệt tất cả những
cái gì thuộc về dân tộc Nga. Chúng cố tìm cách làm sao cho nhân dân Nga quên lịch
sử của mình đi. Chúng ta đang đứng trước pho tượng của một bậc Sa hoàng có công
lao giải phóng dân tộc ta, một pho tượng không hề gây hại cho ai cả. Vậy các
ngài hãy cắt bỏ những tấm ván ngu xuẩn và những mảnh giẻ rách bỉ ổi kia khỏi
pho tượng đáng quý này.
Đó là bài diễn văn đầu tiên của ông đọc trước
dân chúng. Lập tức có mấy gã thanh niên láu lỉnh đội mũ lưỡi trai, trông dáng dấp
như những anh chạy hàng, hô lên:
- Đập vỡ đi!
Những tấm ván bị giật ra kêu răng rắc.
Đmitri Xtrêpanôvits đi tiếp. Đám đông đã thưa dần. Ở đây, những tiếng súng từ
bên kia sông lên to hơn. Từ phía bờ sông Xamarka bỗng có một người chỉ mặc cái
quần lót ướt sũng chạy ngược lại phía bác sĩ.. Những món tóc đen rủ xuống mặt hắn.
Cái ngực rộng có xăm hình. Mấy người đàn bà vừa hét thất thanh vừa tránh xa người
kia chạy về phía sông Volga. Sau lưng hắn còn có ba người, rồi mấy người nữa, rồi
lại thêm mấy người nữa chạy theo, người ướt sũng, gần như trần truồng, vừa chạy
vừa thở dốc ra... Trên phố có tiếng quát:
- Bolsêvik cả đấy! Đánh chết đi!
Cả tốp người, như một đàn chim mỏ nhát nghe
thấy tiếng súng nổ, chạy dạt sang một bên nhằm phía bến lao xuống, Đmitri
Xtêpanôvits cuống quít lên, cũng co cẳng chạy, rồi túm lấy một người gầy gò hom
hem, mắt không có lông mi, sống mũi ngoằn ngoèo.
- Tôi là bộ trưởng của chính phủ mới... Cần
đưa ngay đến đây một khẩu đại liên! Ông chạy đi gọi ngay, tôi ra lệnh cho ông đấy...
- Kông piết tiếng Nga, - người hom hem khó
nhọc uốn lưỡi trả lời miễn cưỡng.
Bác sĩ ẩy hắn ra. Cần phải khẩn trương thực
sự... Ông bèn thân hành đi tìm một đội lính Tiệp nào có súng máy... Và bên một
tấm cửa ngang ở phía trên có treo một ngôi sao đỏ đã bị đập vỡ mất một nửa, ông
ta lại trông thấy một tên bolsêvik nữa - một người nước da rám nắng đen thui, đầu
cạo trọc, để bộ râu cằm như người Tatar. Chiếc áo lính hắn mặc trên người rách
toạc ra, từ cái vệt thâm thẫm trên vai hắn máu từ từ rỉ xuống. Hàng răng nhe
ra, hắn quay đầu sang bên này rồi sang bên nọ, như một con chó bị lọt tròng: có
thể thấy rõ hắn sợ hãi trước cái chết sắp đến.
Đám đông xấn vào hắn. Những tiếng la ó điên
cuồng nổi lên, nhất là trong đám phụ nữ. Nhiều người vung ô, huơ gậy, giơ quả đấm
lên... Trên mấy bậc thềm ngay trước mặt, một ông tướng về hưu gân cổ lên hò
hét, cố át hết mọi người xung quanh, hai bàn tay đỏ tía khua khua về phía người
bolsêvik, cái mũ lưỡi trai to tướng cứ tuột dần trên cái đầu hói; một tấm huân
chương lủng lẳng trên cái cổ nhăn nheo.
- Phải trừng trị thật cương quyết, thưa các
ngài... Đó là một tên chính úy... Không thương xót gì hết... Chính tôi đây cũng
có một thằng con theo cộng sản... Thật là đau đớn... Tôi xin các ngài, hãy tìm
cho ra thằng con tôi, dẫn nó lại đây... Tôi sẽ giết nó chết ngay trước mặt mọi
người. Tôi sẽ giết đứa con đẻ của tôi... Đối với thằng này cũng vậy, không
thương xót gì hết.
“Trong trường hợp này can thiệp chẳng ích
gì”, - Đmitri Xtêpanôvits nghĩ bụng, lòng bồi hồi lo lắng. Ông vừa bỏ đi vừa
ngoái lại nhìn... Những tiếng la ó đã im dần... Nơi lúc nãy viên chính ủy bị
thương còn đứng bây giờ chỉ thấy gậy và ô vung lia lịa... Trong đám đông im
phăng phắc, chỉ còn nghe thấy tiếng đòn nện thình thịch. Viên tướng về hưu đứng
trên thềm nhìn xuống, cánh tay giơ cao trên cái mũ lưỡi trai đã tụt xuống tận
mũi, bàn tay nâng lên hạ xuống khe khẽ như người đánh nhịp.
Đmitri Xtêpanôvits chợt trông thấy ông trước
bạ Misin đuổi theo kịp ông. Misin mặc một chiếc áo đuôi tôm bẩn thỉu cài khuy đến
tận cổ, mặt ông ta sưng híp, cái kính cặp mũi chỉ còn một mắt.
- Họ đánh chết rồi... Họ lấy ô đánh túi bụi.
- Cái lối xét xử tự tiện ấy thật là khủng khiếp... Bác sĩ ơi, nghe nói ở bờ
sông Xamarka cũng đang xảy ra những chuyện rất kinh khủng...
- Thế thì ta ra đấy đi... Chắc ông cũng biết:
tôi có chân trong chính phủ...
- Vâng, tôi có biết, và rất mừng...
Nhân danh chính phủ, Đmitri Xtêpanôvits chặn
một tốp sĩ quan có sáu người lại và yêu cầu họ cùng đi với ông ta ra bờ sông,
nơi đang diễn ra những hành động quá khích không có lợi. Bây giờ trên các ngã
tư đường, đâu đâu cũng có những đội tuần tiểu Tiệp. Những người phụ nữ ăn mặc
sang trọng cài hoa vào quân phục họ, dạy luôn tại chỗ cho họ học tiếng Nga, cười
khanh khách, cố làm sao cho những người ngoại quốc ấy có cảm tình với nữ giới ở
đây, với thành phố này, cũng như với nước Nga, mà qua mấy năm giam cầm họ đã
chán ngấy đến tận cổ.
Trên bờ sông Xamarka lầy lội quân tình nguyện
đang diệt nốt những tàn dư của các đơn vị hồng quân đã chạy ra khỏi khu ngoại
ô. Đmitri Xtêpanôvits đến quá chậm. Những binh sĩ hồng quân đã kịp chạy qua cầu
gỗ, bơi chéo qua sông Xmarka, lên xà lan hoặc lên tàu thủy đi ra sông Volga và
cứ ngược dòng sông này mất hút. Bên bãi sông chỉ còn mấy xác chết chập chờn
trên làn sóng đang uể oải thổi vào bờ. Hàng mấy trăm xác chết khác đã trôi ra
sông Volga.
Đmitri Xtêpanôvits chợt trông thấy Gôvyađin
ngồi trên một chiếc thuyền mục nát úp sấp trên bờ sông, ống tay áo đeo băng ba
sắc. Mái tóc màu rơm của hắn ướt đẫm mồ hôi. Trong đôi mắt trắng dã, hai cái chấm
đen của đồng tử nhìn lên mặt sông loáng dưới nắng. Đmitri Xtêpanôvits lại gần hắn
cất tiếng gọi nghiêm khắc:
- Ông phó tư lệnh dân vệ! Tôi được biết là ở
đây đang diễn ra những hành động quá khích không có lợi... Chủ trương của chính
phủ là phải...
Bác sĩ câm bặt giữa câu khi thấy hai tay
Gôvyađin cầm cái cọc nhọn bằng gỗ sồi bê bết máu có dính cả những sợi tóc.
Gôvyađin thều thào, giọng khản đặc:
- Kìa còn có một thằng nổi trên mặt nước
kìa...
Hắn uể oải rời cái thuyền đứng xuống đất và
ra sát mé nước nhìn cái đầu trọc đang từ từ trôi thành một đường chéo so với
dòng nước. Khoảng năm gã thanh niên cầm gậy nhọn lại gần Gôvyađin. Đmitri
Xtêpanôvits bèn quay trở lại tìm mấy viên sĩ quan cùng đi với ông ra đây, lúc bấy
giờ đang uống nước kvax Bavari của một
anh bán rong láu lỉnh mặc chiếc tạp dề sạch sẽ - không hiểu anh ta khéo xoay xở
ra sao mà đã kịp đẩy xe kvax ra đây.
Bác sĩ lên tiếng giảng giải cho các sĩ quan hiểu chủ trương của chính phủ là chấm
dứt những hành động tàn ác vô ích. Ông giơ tay chỉ Gôvyađin và cái đầu đang
trôi lềnh bềnh. Viên sĩ quan kỵ binh ban nãy, có đôi chân dài và chiếc áo đuôi
én trắng như tuyết, liền nhích nhích hàng ria còn dính bọt kvax trắng xóa, giơ súng lên và bóp cò. Cái đầu chìm nghỉm.
Bấy giờ Đmitri Xtêpanôvits, cảm thấy rằng
dù sao mình cũng đã làm tròn tất cả những việc thuộc quyền hạn của mình, bèn trở
về thị xã. Không thể nào lại đến muộn trong buổi họp đầu tiên của chính phủ.
Bác sĩ hì hục leo lên dốc, đôi giày tung bụi lên mù mịt. Mạch của ông ít ra phải
lên đến trăm hai mươi. Trước mắt ông hiện ra những triển vọng huy hoàng đến
chóng cả mặt: cuộc tiến quân vào Moxkva, tiếng chuông đồng vang dội của một
nghìn sáu trăm tòa nhà thờ trong thành phố, - và biết đâu, cả cái ghế tổng thống
nữa... Vì chưng cách mạng là một trò rất ngộ nghĩnh: hễ nó đã giật lùi lại, thì
chưa kịp định thần đã thấy bao nhiêu những thứ xã hội cách mạng, xã hội dân chủ
đều đổ lăn kềnh ra dưới bánh xe của cách mạng, ruột gan phòi ra hết... Thôi,
thôi, đủ lắm rồi, xin miễn lặp lại những cuộc thí nghiệm tả khuynh.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét