Con Đường Đau Khổ - Tập III
Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976
Tập III - Buổi Sáng Ảm Đạm
Sống chiến thắng hay chết vinh quang...
(Xvyatoxlav)
1
Bên đống lửa có hai người ngồi - một người
đàn ông và một người đàn bà. Gió lạnh của thảo nguyên luồn qua một lũng đất hẹp
thổi hun hút vào lưng họ, vi vu trên những ngọn lúa mì đã rụng hết hạt từ lâu.
Người đàn bà thu hai chân dưới tấm váy, luồn hai bàn tay vào ống tay áo khoác bằng
dạ. Phía dưới tấm khăn len trùm xuống tận mắt chỉ có thể trông thấy cái mũi dọc
dừa thanh tú và đôi môi mím lại một cách bướng bỉnh.
Đống lửa bập bùng không cháy to lên được:
nó được nhóm lên bằng những mảnh phân súc vật khô đét mà người đàn ông đã lượm
được mấy ôm trong thung lũng, bên con khe nơi thỉnh thoảng vẫn có những bầy gia
súc đến uống nước. Gió mỗi lúc một thổi mạnh.
- Thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên quả là
một lạc thú tuyệt vời, nhưng chỉ khi ngồi buồn bên cửa sổ lắng nghe tiếng củi nổ
tí tách trong lò sưởi, chứ ngồi giữa cánh thảo nguyên cằn cỗi này thì... Ôi nỗi
buồn man mác vô tận của thảo nguyên!...
Người đàn ông nói khe khẽ, giọng chua chát
pha lẫn một âm sắc khoái chá. Người đàn bà nghiêng cằm về phía ông ta nhưng vẫn
không hé môi đáp lại một tiếng nào. Nàng đã mệt vì đường dài, vì đói, vì con
người kia nói quá nhiều và hình như lấy làm khoái chí trong khi nói ra vanh
vách những ý nghĩ thầm kín nhất của nàng. Đầu ngả về phía sau, nàng đưa đôi mắt
ẩn dưới bóng rợp của tấm khăn trùm nhìn về phía ánh tà dương mùa thu ảm đạm
đang tắt dần sau dãy đồi hiện lên mờ mờ ở chân trời: đó chỉ còn là một cái vệt
dài mỏng tanh không còn hắt một chút ánh sáng nào xuống cánh thảo nguyên vắng vẻ
và cô quạnh.
- Bây giờ ta sẽ nướng khoai tây ăn, Đarya
Đmitrievna ạ, để đem lại niềm vui cho linh hồn và thể xác... Trời ơi, giả sử
không có tôi thì cô biết xoay xở thế nào đây?
Ông ta cúi xuống chọn lấy mấy mảng phân bò
thật dày, trở đi lật lại một lát để chọn chiều rồi cẩn thận xếp lên đống than hồng.
Ông ta bươi một ít than lên và lần lượt moi từng củ khoai trong mấy cái túi áo bêkes sâu hoắm ra vùi xuống dưới lớp
than. Gương mặt đo đỏ của ông ta trông khôn ngoan lạ lùng, còn có thể nói là
tinh quái nữa, với cái mũi thô thô, phần dưới tẹt xuống, chòm râu mọc lơ thơ dưới
cằm, hàng ria xơ xác, đôi môi lúc nào cũng chóp chép.
- Tôi đang nghĩ về cô đấy, Đarya Đmilrievna
ạ. Cô thiếu tính chất hoang dã, thiếu sức chịu đựng dẻo dai, còn cái vốn văn
minh của cô thì rất hời hợt, cô bạn quý ạ... Cô là một quả táo đỏ đắn, ngọt
ngào, nhưng chưa chín hẳn...
Ông ta vừa nói vừa loay hoay nướng khoai -
ban nãy đi ngang một khu trại giữa thảo nguyên, ông ta đã bới trộm được một mớ.
Cái mũi thô thô của ông gặp hơi lửa bóng nhẫy lên, một cánh mũi may máy một cách
tinh quái. Tên ông ta là Kuzma Kuzmits Nêfêđôv. Ông ta đã làm cho Đasa phát ngấy,
phát khổ lên vì cái thói ba hoa tràng giang đại hải và cái trò đoán ý nghĩ của
kẻ khác.
Hai người làm quen với nhau cách đây mấy
hôm, trên chuyến tàu hỏa bò lê ra dọc đường theo những giờ giấc và những hành
trình hết sức quái đản, và rốt cục đã bị quân cô-dắc trắng cho lăn xuống vệ đường.
Toa của Đasa đi là toa cuối cho nên vẫn nằm
trên đường ray, nhưng người ta lại quét đại liên vào đấy, thành thử bao nhiêu
hành khách ngồi trên toa đều chạy ra thảo nguyên hết, vì theo tập quán thời bấy
giờ, thế nào hành khách đi tàu cũng bị cướp bóc, hành hạ và bắn giết.
Cái ông Kuzma Kuzmits này ngay khi còn ngồi
trên toa đã chú ý đến Đasa: nàng có một cái gì đấy làm cho ông ta vừa lòng, tuy
nàng tuyệt nhiên không có xu hướng gì muốn nói chuyện cởi mở với ông ta. Sáng sớm
hôm sau, trên cánh thảo nguyên hoang vắng, chính nàng đã phải bám lấy ông ta.
Tình hình lúc bấy giờ thật là tuyệt vọng: nơi mấy toa tàu đổ kềnh bên vệ đường
sắt có thể nghe thấy tiếng súng đì đọp và tiếng la hét, rồi một ngọn lửa bùng
lên, hắt từ những cây ngưu bàng già cỗi và những bụi ngải khô cằn phủ đầy sương
băng xuống mặt đất những cái bóng ảm đạm. Biết đi đâu giữa cánh thảo nguyên
mênh mông rộng hàng ngàn dặm này?
Kuzma Kuzmits bước bên cạnh Đasa đi về phía
có mùi khói bếp thoang thoảng đưa lại từ chân trời nhuốm màu ngọc thạch của
bình minh, vừa đi vừa vừa biện luận đại khái như sau:
“Theo như tôi nghĩ thì cô không phải chỉ bị
một phen khiếp vía đâu, cô còn có điều gì khổ tâm lắm nữa, cô bé xinh đẹp ạ.
Còn tôi đây tuy đã trải qua rất nhiều phen điêu đứng long đong, tôi vẫn chưa
bao giờ biết khổ là gì. Trước kia tôi làm linh mục, rồi sau vì tư tưởng quá
phóng túng cho nên bị truất phép rồi giam vào tu viện. Nhưng bây giờ thì tôi đi
lang thang khắp thiên hạ, bốn bể là nhà, như người ta thường nói. Hạng người nhất
thiết phải có một cái giường ấm áp, một cây đèn yên tĩnh, sau lưng lại phải có
một giá sách nữa, mới được hạnh phúc - hạng ấy đến trọn kiếp cũng sẽ không biết
hạnh phúc là gì... Đối với một người như thế thì hạnh phúc bao giờ cũng là ngày
mai, nhưng đến một ngày oan nghiệt nào đấy, ngày mai cũng mất mà cái giường
cũng chẳng còn... Đối với một người như thế, cuộc đời chỉ là một tiếng than hờ
bất tận... Còn như tôi đây - đang đi giữa thảo nguyên, mũi tôi ngửi thấy mùi
bánh mì mới nướng - như thế tức là đằng kia có một cái ấp, chỉ lát nữa ta sẽ
nghe tiếng chó sủa. Lạy Chúa! Xem kìa, ánh bình minh huy hoàng biết bao nhiêu!
Bên cạnh tôi là một người bạn đường dung mạo như thiên thần đang rên rỉ, đang
thiêu đốt lòng trắc ẩn của tôi, khiến cho tôi chỉ muốn vùng lên làm một việc gì
phi thường. Vậy tôi là ai? - Tôi là người hạnh phúc nhất. Trong túi áo tôi bao
giờ cũng có một cái túi đựng muối. Khoai tây bao giờ tôi cũng lấy trong nương của
người ta ra. Rồi có những gì nữa? - Có cả cái thế giới muôn màu muôn vẻ, đầy những
cuộc xung đột giữa các dục vọng. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về số phận của giới
trí thức ta, Đarya Đmitrievna ạ, suy nghĩ rất nhiều. Nó chẳng Nga tí nào, phải
nói như vậy... Một ngọn gió nổi lên, thế là than ôi! - chẳng còn gì nữa... Còn
như tôi đây, một anh thầy tu bị truất phép, tôi cứ đi, nhởn nhơ vui thú, và còn
định nhởn nhơ khá lâu nữa...”
Không có ông ta thì Đasa cũng đến khốn quẫn.
Còn ông ta thì chẳng bao giờ bối rối. Khi mặt trời đã lên cao, họ đi đến một
cái ấp đứng chơ vơ giữa thảo nguyên trơ trụi, không có lấy một bóng cây, bên cạnh
là một bãi chăn ngựa vắng tanh, cái mái lợp trên sân ấp nền đất sét nện đã cháy
xém... Họ đi ngang một cái giếng thì gặp một ông già cô-dắc tóc bạc, mặt hung ác,
đeo khẩu súng kíp trên vai. Đôi mắt nhạt màu quắc lên giận dữ dưới đôi mày nhíu
lại, ông già quát: “Đi đi!”. Kuzma Kuzmits vội vàng tìm cách xoa vuốt ông già “Chao
ôi, ở đây cơ mầu đến thế này sao hả cụ? Chao ôi, nhìn mà nẫu cả ruột gan, đất
đai quê quán mà thế này ư?... Chúng tôi chạy loạn suốt ngày đêm, chân nát nhừ,
khát nứt cả lưỡi, cụ làm phúc bắn cho chúng tôi một phát cho xong đời, chứ đằng
nào cũng chẳng biết đi đâu nữa”. Ông già té ra cũng chẳng hung dữ gì, lại còn
mau nước mắt nữa. Mấy cậu con trai của ông đều bị trưng binh vào lữ đoàn
Mamôntôv, hai cô con dâu đã bỏ ấp về làng. Hiện nay ông không cày nữa. Quân đỏ
đi qua thì trưng dụng mất con ngựa. Quân trắng đi qua thì trưng dụng mất đàn gà
vịt. Thế là ông cụ ở lại một mình trong ấp với một khoanh bánh mì đã mốc xanh
ra và mấy lạng thuốc lá cất từ năm ngoái...
Hai người nghỉ lại ấp ông già rồi đến đêm lại
nhằm hướng Txaritxyn mà đi: đến đấy dễ bề tìm đường đi về phía nam hơn. Họ đi
ban đêm, ban ngày thì ngủ, thường là nằm dưới những đụn rạ cắt từ năm ngoái.
Kuzma Kuzmits tránh những nơi đông dân cư. Có một lần đứng trên ngọn đồi đá vôi
nhìn xuống một thôn cô-dắc với những nếp nhà trắng xây rải rác hai bên một cái
cầu dài, ông ta nói:
- Thời buổi này, con người mà họp lại thành
đám thì có thể thành ra nguy hiểm, nhất là đối với những người không biết rõ bản
thân mình muốn gì! Cái chuyện ấy rất khó hiểu và khả nghi: ai đời lại không biết
mình muốn gì! Con người Nga ta nóng tính lắm, Đarya Đmitrievna ạ, quá tự tin,
không biết lượng sức mình. Cứ thử giao cho hắn một việc hình như quả sức, nhưng
đáng công, thì hắn cúi gập mình xuống cảm tạ ngay... Nhưng bây giờ mà cô vào
làng thì họ sẽ vặn hỏi đủ điều. Cô biết trả lời thế nào, cô gái trí thức? Cô phải
nhận là cô chưa giải quyết được một vấn đề gì hết, cô chưa đi đến một cái gì hết,
về mục nào cũng thế...
- Thôi ông để cho tôi yên, - Đasa nói khẽ.
Dù nàng có thoái thác bao nhiêu - vì tự ái
và vì không muốn nói chuyện - Kuzma Kuzmits rốt cục cũng biết được gần như đầy
đủ về thân thế nàng: về cha nàng, bác sĩ Bulavin, về chồng nàng, người chỉ huy
hồng quân Ivan Ilyits Têlêghin, về Katya chị nàng, người đàn bà “kiều diễm, dịu
hiền, cao quý”. Có một lần, vào một buổi chiều quang đãng, sau một giấc ngủ
ngon lành, Đasa đi ra sông rửa ráy, chải lại mái tóc đã bẹp dí dưới tấm khăn
trùm. Rồi ăn xong, nàng vui lên, và đột nhiên, tuy chẳng bị hỏi han gì, nàng
cũng kể:
- ...Ông ạ, đầu đuôi nó như thế này... Tôi
không thể sống với cha tôi ở Xamara nữa... Ông cứ cho tôi là hạng người ăn hại.
Ông không biết chứ tôi nghĩ về tôi còn tồi tệ hơn ông nhiều. Nhưng tôi không thể
chịu nổi khi cảm thấy mình là kẻ hèn hạ, là kẻ tồi tệ nhất trong tất cả loài
người...
- Tôi hiểu, - Kuzma Kuzmits chép miệng nói.
- Ông chẳng hiểu gì đâu... - Đasa nheo nheo
đôi mắt nhìn đống lửa. - Chồng tôi đã liều chết để gặp tôi, dù chỉ một phút
thôi cũng đành. Anh ấy khỏe mạnh, dũng cảm, có đủ nghị lực để quyết định mọi việc
một cách dứt khoát. Ấy, thế còn tôi thì sao? Vì một con ranh con õng ẹo như tôi
mà liều chết thì thử hỏi có đáng không? Sau lần gặp gỡ ấy tôi cứ đập đầu vào bậu
cửa sổ. Tôi đã căm ghét cha tôi... Vì chỉ tại cha tôi mà ra cả... Người đâu mà
lố bịch, ti tiện! Tôi quyết định đi Ekatêrinôxlav tìm Katya chị tôi. Giá có chị
ấy, chị ấy sẽ hiểu, sẽ giúp tôi: Katya của tôi thông minh, nhạy cảm như một sợi
dây đàn. Ông đừng cười nhé: tôi phải làm một việc gì bình thường, cao quý và hữu
ích, tôi muốn thế đấy. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Chỉ xin ông một
điều là bây giờ đừng có thuyết lý dài dòng về cách mạng với tôi...
- Nhưng tôi cũng không hề có ý định thuyết
lý gì cả, cô bạn quý ạ, tôi chăm chú nghe cô nói và chân thành thông cảm với
cô.
- Thôi đi, chân thành! ông đừng bao giờ nói
hai chữ ấy nữa... Lúc bấy giờ Hồng quân đang tiến về Xamara... Chính phủ bỏ chạy.
Bỉ ổi quá... Cha tôi bắt tôi phải đi theo. Thế là chúng tôi nói nhau một trận,
bộc lộ hết cả chân tướng ra, cha tôi cũng vậy, tội cũng vậy... Cha tôi cho người
đi gọi cảnh vệ: “Con sẽ chết treo, con gái rượu của ba ạ!”. Dĩ nhiên chẳng có
ai đến: chạy hết rồi còn đâu?... Cha tôi chỉ cầm mỗi cái cặp nhảy ra phố, còn
tôi thì chồm ra cửa sổ hét nốt những câu cuối cùng... Không có một người nào
tôi có thể căm ghét bằng cha tôi! Thế rồi sau đó là trùm khăn kín đầu, nằm vật
ra đi văng khóc rống lên! Đến đấy tôi đã đoạn tuyệt với tất cả cuộc sống cũ của
tôi.
Họ cứ thế đi trên thảo nguyên, vòng qua những
làng mạc đang sôi sục lên vì cuộc nội chiến, hầu như không gặp một con người
nào, và không hề hay biết rằng ở những nơi này đang diễn ra những biến cố đẫm
máu: các đơn vị của Đại quân đoàn Cô-dắc sông Đôn, sau những thất bại hồi tháng
tám đang tiến quân lần thứ hai đến bao vây Txarixtyn.
Tay trở củ khoai tây trong đống tro nóng,
Kuzma Kuzmits nói:
- Đarya Đmitrievna ạ, nếu cô mệt lắm thì
đêm nay nghỉ cũng được, chẳng đi đâu mà vội. Có điều là chọn chỗ này hỏng quá.
Gió trong thung lũng lùa ra thế này thì khó mà ngủ được. Tốt hơn hết là ta cứ
đi thong thả dưới trời sao. Chao, vũ trụ đẹp quá chừng. - Ông ta ngẩng cái mặt
đỏ tinh ranh lên như thể để kiểm tra xem thử trên cái cơ ngơi của ông trời mọi
việc có ổn không. - Chẳng phải là một điều kỳ diệu tuyệt vời đó sao, hở cô bạn
quý? Ở đây có hai sinh vật bé li ti đang bò đi trong vũ trụ, dùng cái trí tuệ
ham hiểu biết theo dõi các hiện tượng đang kế tiếp nhau diễn ra, hiện tượng nào
cũng kỳ lạ như hiện tượng nào, rồi rút ra những kết luận chẳng hề ràng buộc ta
vào cái gì hết, đói thì ăn, khát thì uống, mà không hề cưỡng bức lương tâm...
Không, không việc gì phải vội đi cho chóng kết thúc cuộc du ngoạn này.
Ông ta lấy túi muối trong áo ra, moi một củ
khoai lên, vừa hất hất trên lòng bàn tay cho đỡ nóng, và thổi vào mấy ngón tay,
rồi bẻ đôi ra đưa cho Đasa.
- Tôi đã đọc cả một đống sách to tướng, và
cái mớ nằm lộn bậy trong óc tôi, chẳng thành cái hệ thống gì hết. Cách mạng đã
giải phóng tôi ra khỏi nhà tù của tu viện và đã ném tôi vào cuộc đời một cách
chẳng lấy gì làm dịu dàng cho lắm. Trong tấm thẻ căn cước do ông chỉ huy dân vệ
ở Xaratox (một người tối thông minh) cấp cho tôi sau hai tuần giam giữ, ông ta
có tự tay viết như sau: nghề nghiệp: ăn bám; học thức: khoa học giả hiệu: chính
kiến: vô liêm sỉ. Ấy thế rồi khi tôi đã lên đường, trong người chỉ có một túi
muối, hoàn toàn tự do, tôi đã vỡ nhẽ ra được cái phép huyền diệu của cuộc sống.
Những tri thức vô dụng chồng chất trong trí nhớ của tôi bắt đầu được sàng sảy lại,
và có nhiều tri thức đã tỏ ra có ích ngay cả về phương diện giá trị đổi chác.
Chẳng hạn chỉ riêng cái môn xem tướng tay, hay là chưởng tuyến học, chỉ riêng
cái vốn tri thức ấy thôi cũng đã đủ cho tôi bổ sung thường xuyên chỗ muối dự trữ
của tôi.
Đasa không nghe ông ta nói. Có lẽ vì làn
gió vô gia cư cứ ngân mãi cái tiếng vi vu nhè nhẹ đượm mùi nhớ nhung trên các
ngọn lúa, nàng thấy muốn khóc quá chừng, và cứ ngoảnh mặt đi, nhìn về phía ánh
chiều sắp tắt. Nàng thấy ngợp trước khoảng không gian vô tận mà nàng còn phải
vượt qua trên đường đi tìm Ivan Ilyits, đi tìm Katya, đi tìm bản thân nàng. Giá
phải trước kia, chắc hẳn Đasa còn thấy thích thú nữa là khác trong khi xót xa
thương hại mình, yếu đuối, bé bỏng thế này mà phải bơ vơ giữa cánh thảo nguyên
lạnh lẽo... Nhưng không, bây giờ thì không! Cầm lấy củ khoai tây của Kuzmits
đưa cho, nàng nhai rồi nuốt cùng với nước mắt... Nàng nhớ lại mấy câu trong bức
thư của Katya gửi đến Pêtrôgrađ cho nàng dạo nọ “Dĩ vãng đã chết rồi, Đasa ạ, chết
vĩnh viễn rồi”.
- Ngoài cái tình trạng hoàn toàn xa rời cuộc
sống ra, giới trí thức ta còn có một cái tệ nữa là thói vội vàng một cách vô
ích, lúc nào cũng nhấp nhổm, lúc nào cũng nhặng xị lên... Đarya Đmitrievna ạ,
cô đã có bao giờ thử quan sát xem những người tự do họ đi đứng thế nào chưa? - Họ
cứ sốt ruột cuống cuồng giặm lia lịa đôi chân dê như thể đang đứng trên đống
than hồng... Đi đâu, để làm gì?
Cái con người không sao chịu nổi ấy cứ khua
môi nói mãi.
- Không, phải đi chứ, tất nhiên là phải đi.
Ta đi thôi... - Đasa vừa nói vừa thắt rõ chặt hai múi khăn ở dưới cằm.
Kuzma Kuzmits tò mò nhìn nàng. Vừa lúc ấy
trong lũng đất tối om lóe ra mấy tia lửa mảnh, và mấy tiếng súng nổ vang...
* * *
Cái khe hở hẹp trên chân trời phía tây để lọt
chút ánh sáng tàn lụi của hoàng hôn đã bị những đám mây ở cuối trời khép hẳn lại.
Những phát súng đầu tiên vừa nổ thì cánh thảo nguyên vắng vẻ bỗng sinh động hẳn
lên. Đasa, hai tay còn cầm hai múi khăn, cũng chẳng kịp đứng dậy nữa. Kuzma
Kuzmits hối hả giẫm tắt đống lửa, nhưng gió lại cuốn lấy đám tàn đỏ rực thổi ra
xa trông càng rõ hơn nữa. Những đốm lửa đỏ rực ấy soi lên mấy người cưỡi ngựa
đang phi qua. Mình cúi rạp trên bờm ngựa, họ quất roi vun vút, tránh cho xa những
phát súng từ trong lũng đất bắn ra.
Tiếng vó ngựa rầm rập phi qua, rồi tất cả lại
chìm trong im lặng. Chỉ còn tiếng trống ngực của Đasa đập dồn dập, từ trong
lũng có tiếng người quát tháo, rồi ngay sau đó có mấy người cầm súng lao ra. Ra
khỏi lũng, họ tiến rất thận trọng, rải ra thật xa nhau. Người đi gần nhất quay
về phía đống lửa quát lớn, cái giọng rất trẻ vỡ ra thành giọng kim “Ê, các người
là ai?”. Kuzma Kuzmits giơ hai tay lên trời, lại còn sốt sắng xòe rộng mười
ngón tay ra nữa. Một người trẻ tuổi mặc áo ca-pốt lại gần. “Các người làm gì ở
đây?”. Hắn quay mặt về phía hai người đứng bên đống lửa, một gương mặt có đôi
lông mày rậm, sẵn sàng quyết định trong nháy mắt bất cứ cách xử lý nào.
- Trinh sát hả? Bạch vệ hả? - rồi không đợi
trả lời, hắn lấy báng súng thúc Kuzma Kuzmits... - Đi đi dọc đường sẽ nói...
- À chúng tôi... nói cho đúng ra...
- Nói cho đúng ra cái con khỉ! Không thấy
là người ta đang chiến đấu à?
Kuzma Kuzmits không phân trần gì nữa, cắm cổ
bước cạnh Đasa, có đội áp giải kèm một bên. Họ phải đi rất nhanh, gần như chạy
mới kịp đội này. Trời đã tối hẳn đi khi họ tới gần mấy nếp nhà lợp rạ, bên bờ
ao có mấy con ngựa đang thở phì phò giữa những chiếc xe giàn đã tháo dây thắng.
Một người bước ra quát gọi đội lính mới về. Họ quây quần xúm quanh người ấy.
- Chúng tôi phải rút. Chẳng làm gì được hết.
Chúng nó thọc vào hai bên sườn. Cái quân khốn kiếp ấy... Cách đây không xa,
trong lũng chúng tôi vấp phải một đội kỵ binh tuần tiễu.
- Chuồn phỏng? Đẹp mặt nhỉ! - người kia
nói, giọng nhạo báng. - Chỉ huy của các anh đâu?
- Chỉ huy đâu ấy à? Ê, chỉ huy, Ivan!... Lại
đây nhanh lên, trung đoàn trưởng gọi, - mấy người trong đội gọi í ới.
Từ trong bóng tối hiện ra một người cao lớn,
vai hơi gù:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, ổn cả, không
có thương vong.
- Bố trí lính gác, đặt trạm tiền tiêu, cho
anh em ăn tối, không lên đèn. Sau đó sẽ vào chỗ tôi.
Họ giải tán. Khu trại vắng hẳn đi, chỉ còn
nghe thấy mấy tiếng hô khe khẽ và những tiếng “ai? đứng lại” của lính canh văng
vẳng trong đêm tối. Rồi những tiếng này cũng im ắng hẳn. Gió thổi xào xạc trên
mái rạ, vi vu trên mấy cành lệ liễu trụi lá bên bờ ao. Người lính hồng quân trẻ
tuổi ban nãy lại đến cạnh Đasa và Kuzma Kuzmits. Dưới ánh sao tỏa mờ mờ trên trại,
gương mặt hắn trông gầy gò, xanh xao, có đôi lông mày rậm thẫm màu. Nhìn kỹ,
Đasa cứ ngờ ngợ đó là một người con gái... “Đi theo tôi, - hắn nói, giọng
nghiêm khắc, rồi đưa họ vào một ngôi nhà - Đợi ở phòng ngoài này một lát, kiếm
cái gì mà ngồi”.
Hắn mở một cánh cửa, vào phòng trong rồi
đóng lại. Sau cánh cửa có thể nghe thấy cái giọng trầm thô thô của viên chỉ huy
đội ban nãy nói lầm rầm. Tiếng lầm rầm ấy kéo dài mãi và nghe đơn điệu đến nỗi
Đasa dần dần thiếp đi, đầu gục vào vai Kuzma Kuzmits. “Không sao, ta sẽ gỡ được
thôi” - ông ta thì thầm. Cánh cửa lại mở ra, người lính hồng quân giơ tay sờ soạng
tìm hai người đang ngồi ở phòng lót rồi nhắc lại “Đi theo tôi!”. Hắn đưa hai
người ra ngoài, nhìn quanh tìm xem có chỗ nào nhốt hai người tù không, rồi chỉ
một cái nhà kho thâm thấp bị cái mái rạ quá nặng đè trĩu xuống. Cánh cửa đã bị
giật đi đâu mất. Đasa và Kuzma Kuzmits đi vào trong, người lính ngồi trên cái bậu
cửa cao, tay vẫn cầm súng. Trong nhà kho sực mùi bột và mùi chuột. Đasa nói khẽ,
giọng tuyệt vọng:
- Cho tôi ngồi một bên có được không ạ? Tôi
sợ chuột lắm.
Người lính miễn cưỡng ngồi dịch ra, và Đasa
ngồi xuống một bên trên bậu cửa. Người lính hồng quân bỗng ngáp dài một cách
khoái chá, như trẻ con, rồi liếc nhìn Đasa:
- Thế các người là trinh sát đấy à?
- Đồng chí ạ, - Kuzma Kuzmits từ trong bóng
tối xê lại gần, - đồng chí cho phép chúng tôi được giãi bày ạ...
- Sau hẵng nói.
- Nhưng chúng tôi là những người dân yên
lành đang chạy loạn...
- Ô, yên lành... Yên lành là thế nào? Bây
giờ còn có ai yên lành nữa?
Đasa tựa đầu vào khung cửa ngồi nhìn gương
mặt khôi ngô của người lính với đôi lông mày thẫm màu, với những đường nét
thanh tú của cái mũi hơi hếch lên, của đôi môi nhỏ và mọng, của cái cầm tròn
trĩnh, rồi hỏi đột ngột:
- Anh tên là gì?
- Cái đó chẳng có liên quan gì đến công việc
cả.
- Anh là... chị là phụ nữ à?
- Phụ nữ hay không thì các người cũng chẳng
được cái gì.
Lẽ ra câu chuyện đến đây không thể tiếp tục
được nữa, nhưng Đasa không sao rời mắt ra khỏi gương mặt kỳ diệu này. Nàng hỏi
khẽ:
- Sao chị nói với tôi như nói với kẻ thù thế
Chị có biết tôi đâu. Tại sao lại cứ phải giả định trước đi rằng tôi là địch?
Tôi cũng là một người đàn bà Nga như chị. Có khác chăng, chỉ ở chỗ có lẽ tôi
đau khổ nhiều hơn chị mà thôi.
- Nga là thế nào nhỉ?... Chị mà Nga gì? Đồ
tư sản ấy mà! - người lính hồng quân nói, hơi ngập ngừng ở câu sau cùng, và cau
mặt khi nhận thấy mình ngập ngừng như vậy. Đôi môi của Đasa đã hé ra được. Cũng
một cách bồng bột như tất cả những việc nàng làm, Đasa nhích lại và hôn vào cái
má nóng bừng và phơn phớt lông tơ của người lính hồng quân. Người lính ngỡ
ngàng chớp chớp đôi mi nhìn Đasa. Hắn đứng dậy, cầm khẩu súng trường lên, và vừa
bước sang một bên vừa khoác quai súng lên vai.
- Không có cái lối thế đâu nhé. - người
lính nói, giọng hăm dọa. - Làm thế chẳng ăn thua gì đâu, cô ạ...
- Chị bảo ăn thua gì? - Đasa đáp, giọng nhiệt
thành. - Như chị thì chị đã biết được chị phải làm gì, còn tôi, tôi vẫn chưa biết...
Tôi đã hốt hoảng đoạn tuyệt với cuộc sống cũ. Tôi đã bỏ nó trốn đi để tìm hạnh
phúc... Và tôi ao ước được như chị... Ước gì tôi cũng được thít chặt chiếc nịt
da trên tấm áo khoác!
Nàng xúc động đến nỗi kéo tuột cả tấm khăn
trùm xuống xiết hết sức chặt hai múi khăn trong đôi nắm tay.
- Với chị, cái gì cũng giản đơn, cái gì
cũng dễ hiểu... Chị chiến đấu cho cái gì? Cho người đàn bà có thể nhìn lên những
vì sao kia mà không rưng rưng nước mắt... Tôi cũng muốn được hạnh phúc như vậy...
Nàng nói thiết tha, và người lính hồng quân
lắng nghe, không tìm cách ngăn nàng lại, bối rối trước sự nhiệt thành không sao
hiểu được ấy. Vừa lúc đó viên đại đội trưởng ở trong nhà đi ra, cất cái giọng
trầm trầm nói:
- Nào, Agrippina, đưa chúng nó vào đây.
Viên trung đoàn trưởng, có đôi mắt sáng
cách nhau rất xa, răng cắn ống điếu, và viên đại đội trưởng, giãi dầu gió nắng,
da sần như vỏ cây - cả hai đều mặc áo ca-pốt và đội mũ lưỡi trai - ngồi sau một
cái bàn đặt ở nhà trong, khuỷu tay chống xuống mặt bàn trước ngọn đèn nhựa
thông. Viên đại đội trưởng ra lệnh cho Đasa và Kuzma Kuzmits, lúc bấy giờ đã đứng
lại ở ngưỡng cửa, bước lại gần bàn hơn.
- Tại sao các người lại đứng giữa thảo
nguyên, trong khu vực bố trí của quân đội?
Mắt ông ta không nhìn đi đâu hết, nó dọi thẳng
vào mắt họ. Trước cái nhìn ấy, Đasa bỗng thấy chân tay rã rời ra. Nàng phều
phào qua đôi môi khô đét:
- Ông ấy sẽ nói rõ. Tôi ngồi một chút có được
không ạ?
Nàng vịn hai tay vào ghế dài ngồi xuống,
nhìn ngọn lửa chập chờn trong cái bát bằng đất sét. Kuzma Kuzmits chóp chép đôi
môi, hết đứng chân này lại chuyển sang chân kia, bắt đầu kể lại câu chuyện mình
với Đarya Đmitrievna đi vào thảo nguyên tìm đường về vùng sông Đôn, vừa đi vừa
suy luận, chủ yếu là về những vấn đề cao siêu. Về mặt này của cuộc hành trình
ông ta kể rất cặn kẽ, vội vàng cuống quít, chỉ sợ người ta ngắt lời. Nhưng hai
người chỉ huy vẫn ngồi yên sau bàn im lìm như hai tảng đá.
- Thưa hai vị chỉ huy, tư duy bằng những phạm
trù lớn quả là một việc cao cả. Tôi muốn nói gì? Tôi muốn cảm ơn cách mạng giải
phóng chúng tôi ra khỏi những chuyện vặt vãnh buồn tẻ. Con người, một sinh vật
ngang hàng với thượng đế, sinh để hoàn thành những sứ mệnh cao cả, - như Orphê
với mấy đường tơ của cây đàn lyra huyền
diệu đã làm cho đất đá sống dậy và thuần phục được sức mạnh hung hãn của thiên
nhiên hoang dại, - con người ấy lại phải ngồi trước ngọn đèn chong tù mù khói bốc
khét lẹt, thấm nước bọt vào mấy tờ ngân phiếu và cả vào trí óc mình nữa, để bày
mưu tính kế lừa phỉnh đồng loại cho thật khéo... Cảm ơn các ông đã đập tan cuộc
sống nghèo nàn ti tiện, đáng cho ký ức nhân loại ngàn đời nguyền rủa... Không
còn phải ngồi thấm nước bọt vào đâu nữa, dù muốn dù không cũng phải chuyển cung
bậc sang những đề tài cao cả hơn... Để chứng minh cho lòng thành thực của tôi -
đây... (ông ta rút cái túi muối ra). Đây là sở hữu duy nhất của tôi, ngoài ra
tôi không cần một thứ gì nữa: các thứ khác tôi đều đi xin hay lấy trộm. Nhưng
thưa các vị chỉ huy, tôi muốn được tranh luận với các vị... Các vị đấu tranh
giành hạnh phúc cho con người, nhưng các vị lại rất hay quên con người: ở các vị,
con người lọt thỏm đi đâu mất giữa các dòng chữ. Các vị đừng tách rời cách mạng
ra khỏi con người, đừng biến cách mạng thành một triết lý tư biện, vì chưng triết
học là một làn khói: nó có những hình thù rất kỳ diệu nhưng chỉ phút chốc đã
tan biến đi ngay... Chính đó là cái nguyên do khiến cho tôi tham dự vào số phận
của người thiếu phụ này: ở con người ấy tôi đang lần giở một thiên tiểu thuyết
hấp đẫn và chan chứa thi vị; vả chăng trong mỗi con người đều có một thiên tiểu
thuyết như vậy nếu đến với người ta với một thái độ tha thiết muốn tìm hiểu...
Vì chưng đó chính là cả một vũ trụ mặc áo bêkes
rách và đi dép cỏ đang bước đi trước mặt các vị.
- Nói nghe được đấy, khôn ngoan đáo để, - viên
trung đoàn trưởng nhả một hơi khói thuốc, nói:
- Thôi đưa giấy tờ đây xem, - viên đại đội
trưởng tiếp lời.
Cầm lấy hai tấm thẻ hộ chiếu của Kuzma
Kuzmits và của Đasa; ông kéo cây đèn nhựa thông lại và cúi sát xuống bàn, quệt
ngón tay lên lưỡi rồi thận trọng lần giở từng trang hộ chiếu. Viên trung đoàn
trưởng chốc chốc lại buông một tiếng thở dài nặng trĩu, rít rít cái ống điếu
cháy xém đã nhả khói vào bộ ria của ông trong suốt năm năm chiến tranh.
- Bố cô là ai? - viên đại đội trưởng hỏi
Đasa. [Vì Đasa có chồng, nên trong hộ chiếu
đề tên họ là “Têlêghina Đarya Đmitrievna”. Vì vậy viên đại đội trưởng mới hỏi họ
bố nàng. Nếu nàng là con gái chưa chồng thì tên họ trong hộ chiếu - “Bulavina
Đarya Đmitrievna” - sẽ cho biết bố nàng là ai]
- Bác sĩ Bulavin.
- À, có phải là Bulavin bộ trưởng trong
chính phủ Xamara không?
- Phải.
Viên đại đội trưởng đưa mắt sang viên trung
đoàn trưởng và trao tấm thẻ của Đasa cho ông ta. Đoạn cau mày hỏi Kuzma
Kuzmits:
- Còn ông thì sao, thuộc tầng lớp bờm dài
phải không? [Linh mục và tu sĩ ở Nga để tóc rất
dài]
Kuzma Kuzmits, như thể đã đợi câu hỏi này từ
lâu, hớn hở xoa đôi dép cỏ xuống sàn nhà soàn soạt:
- Tôi đã hai lần bị đuổi ra khỏi chủng viện
- một lần vì làm ô uế thức ăn, một lần vì làm những bài thơ có tư tưởng phóng
túng. Cha tôi là một ông cha xứ ở Xaratôv, đã hai lần bàn tay thắm tình phụ tử
của người đã dùng roi lột da lưng tôi ra. Phần lý lịch về sau của tôi có đính
kèm theo hộ chiếu...
Không nghe ông ta nói, viên đại đội trưởng
liếc mắt về phía Đasa.
- Trường hợp của cô gay đấy... Cô sẽ phải
nói hết sự thật. - Ông nhăn mặt, vừa ho húng hắng vừa giở hộ chiếu. - Như thế
may ra còn có thể đỡ cho cô. Phải, trường hợp của cô rất gay.
Đasa im lặng nhìn ông ta với đôi mắt mở rộng.
Bấy giờ Agrippina đứng ở bên cửa liền lên tiếng, giọng bướng bỉnh:
- Ivan ạ, có thể tin cô ấy được, tôi có nói
chuyện với cô ấy.
Viên đại đội trưởng nghển cái mũi to lên
nhìn Agrippina trừng trừng. Viên trung đoàn trưởng cười tủm tỉm. Kuzma Kuzmits
gật đầu lia lịa, cái mặt đỏ hớn hở lên. Viên đại đội trưởng hỏi chậm rãi:
- Sao nhỉ, chỗ này là chỗ ngồi tán gẫu chắc?
(Bộ ria loăn xoăn của viên trung đoàn trưởng nhích nhích, đôi mắt ông nheo
nheo). Đội viên Tsêbretx, quy chế nào cho phép đồng chí xen vào cuộc hỏi
cung?...
Agrippina uất lên đến nghẹt thở: giá không
có ông trung đoàn trưởng ở đây, hẳn chị đã chẳng ngần ngại gì mà không mắng cho
ông đại đội trưởng một mẻ như một bà nông dân đanh đá... Nhưng ông ta đã cất
cái giọng ồ ồ ra lệnh:
- Đội viên Tsêbretx, đồng chí ra ngoài đi.
Agrippina chỉ quắc đôi mắt tối sẫm lên, dằn
báng súng xuống sàn rồi mím môi bước ra khỏi căn nhà. Ông đại đội trưởng thở
phì phì, tay thò vào túi lấy thuốc lá.
- Thế ra ở đây cô cũng đã có đủ thì giờ
tuyên truyền kia à?
Đasa cúi đầu nói:
- Tôi xin các ông tin tôi. Nếu không tin
thì tôi còn nói làm gì nữa! Cha tôi, bác sĩ Bulavin, là kẻ thù của các ông, ông
ấy cũng là kẻ thù của tôi nữa... Ông ấy muốn xử tử tôi, tôi đã trốn khỏi
Xamara...
Viên đại đội trưởng dang rộng hai bàn tay hộ
pháp trước ngọn đèn.
- Làm sao có thể tin cô được: cô kể toàn
chuyện hoang đường.
Bấy giờ viên trung đoàn trưởng rút ống điếu
ra khỏi mồm, chùi chùi nó vào ống tay áo rồi nói, giọng oai vệ:
- Đừng nóng, Gôra ạ, có thể cô ấy nói thật
đấy... Họ cô là Têlêghin à? (Đasa nói rất khẽ: Vâng). Thế tên và phụ danh chồng
cô, cô có nhớ không?
- Ivan Ilyits ạ.
- Thượng úy trong quân đội cũ của Sa hoàng
phải không?
- Hình như phải ạ.
- Làm đại đội trưởng trong đạo Hồng quân thứ
Mười một phải không?
- Ông biết anh ấy à?
Đasa lao tới cạnh bàn, má nàng đỏ ửng lên;
mới vừa đây nàng ngồi rũ rượi, héo hon, thế mà bây giờ nàng như nở rộ ra.
- Tôi trông thấy Ivan lần cuối cùng là khi
anh ấy đang chạy trên mái nhà, dưới những phát súng bắn theo... Thế đấy ạ...
- Cô cứ ngồi xuống, bình tĩnh lại, - viên
trung đoàn trưởng nói - Tôi biết Ivan Ilyits, chúng tôi cùng tham gia chiến
tranh chống Đức với nhau, cùng ở một trại tù binh với nhau. Tôi là Melsin,
Piôtr Nikôlaiêvits, không biết anh ấy có nhắc đến cái tên này với cô lần nào
không? Trong Hồng quân cũng có nhiều người biết rõ anh ấy. - Ông quay sang viên
đại đội trưởng: - Jinka tinh hơn anh rồi đấy. - Rồi lại nói với Đasa: - Thôi,
đi nghỉ đi nhé, mai ta sẽ nói chuyện. Cô có thể thu xếp ngủ lại đây được. Ra
phòng lót rồi rẽ sang bên kia là gian bếp. Ngủ yên nhé.
Đasa, và theo sau là Kuzma Kuzmits - mà hai
viên chỉ huy dường như không hề để ý đến nữa - đi qua phòng lót và vào gian bên
không có người ở, đốt lò sưởi ấm áp. Kuzma Kuzmits khuyên Đasa nên leo lên lò
sưởi: “Lên đấy mà nằm cho nó ấm xương ấm cốt một chút. Ngủ lấy một đêm cho bõ cả
tuần. Nào, cô bạn quý, để tôi đỡ lên...”
Đasa khó nhọc leo lên lò sưởi, giở tấm khăn
trùm ra lót dưới má, lấy áo khoác đắp lên người, co hai chân lại. Ở đây rất
thích, không khí trong phòng sực mùi gạch nung ấm, mùi hơi bánh mì. Một con dế
trọ thường xuyên trong góc bếp cất tiếng gáy ri rỉ. Chính nó làm cho Đasa không
ngủ thiếp đi ngay được: giấc ngủ chỉ phủ lên nàng như một cái màng mỏng, tiếng
dế kêu rả rích vạch qua giấc ngủ của nàng một hàng chấm lửng mầu xám:
ri-ri-ri-ri-tri-tri-tri-trir-trir-trirrr...
Có lúc nàng mường tượng như bên cạnh có tiếng
máy đánh nhịp gõ cành cạch đều đều, còn nàng thì đang ngồi trước dương cầm, hai
tay bàng hoàng buông xuống. Tim nàng đập rộn rã vì hồi hộp: hình như ngoài kia
có tiếng bước của người mà nàng yêu dấu, người mà nàng vẫn tôn thờ... Nhưng
không, đó vẫn chỉ là tiếng ri rỉ kéo dài của con dế, điểm từng tràng dấu chấm lửng
hết dòng này đến dòng khác.
“Yên tĩnh quá, êm dịu quá, - một tiếng nói
nhắc đi nhắc lại trong lòng nàng. - Con Đasa tội nghiệp đã trở về quê hương...
Nhưng mày chưa bao giờ biết quê hương, Đasa ạ, Đasa, Đasa... Kìa, đừng quấy rầy
tôi nữa... à, đó dĩ nhiên là ông chỉ huy dàn nhạc đang gõ gõ cây đũa ngà, chỉ
vài giây nữa âm nhạc sẽ nổi lên...”. Rồi lại ri-ri-ri-trir-trir-trir...
Kuzma Kuzmits dọn chỗ ngủ trên chiếc ghế
dài ở bên dưới lò sưởi và cũng không ngủ thiếp đi ngay được. Ông ta chóp chép
đôi môi, nói lẩm bẩm:
- Họ tin rồi, họ tin kia chứ! Lòng dạ họ thật
thà, ngay thẳng cho nên họ đã tin... Tôi mà vào địa vị họ thì tôi chẳng chóng
tin thế đâu, - tại sao? Nào mình có biết được bản thân mình đâu, lòng con người
tối tăm lắm... Họ đã tin: những con người mạnh mẽ bao giờ cũng thật thà chất
phác... Sức mạnh của họ là ở chỗ ấy. Bây giờ thì chúng ta có hộ chiếu rồi: họ
đã tin. Phải rồi, mà các ông có cần một người biết suy nghĩ không?... Một người
như thế có cần cho cách mạng không? Cần chứ nhỉ?... Đây, đã có tôi; Đarya Đmitriêvna
ạ... tôi đang hỏi là một con người biết suy nghĩ có cần cho cách mạng không?
2
Ivan Ilyits Têlêghin, sau những cuộc hành
binh ở Xamara, đã nhận một nhiệm vụ mới.
Đạo Hồng quân thứ Mười trong những trận
đánh hồi tháng tám ở Txaritxyn đã tiêu hao gần hết số đạn dược vốn đã ít ỏi của
mình. Đáp lại những đơn yêu cầu cung cấp cho Txaritxin tất cả những trang bị cần
thiết trước khi nổ ra cuộc tấn công không sao tránh khỏi của Quân đoàn sông
Đôn, Hội đồng quân sự tối cao của nước cộng hòa đều trả lời một cách hết sức chậm
chạp và miễn cưỡng. Nhưng một người bạn chiến đấu của tư lệnh quân đoàn
Vôrôsilôv đã được cử đi Moxkva để trình bày và tìm cách khắc phục lối làm việc
lề mề không sao hiểu nổi và cái tác phong quan liêu giấy tờ của các cơ quan
cung cấp của Hội đồng quân sự tối cao. Ông ta đã xoay xở được ít nhiều vũ khí để
gửi cho mặt trận Txaritxyn.
Ivan Ilyits được giao nhiệm vụ bốc các
thùng đạn và hai khẩu đại bác lên một chiếc tàu kéo ở Nijini và chở nó về
Txaritxyn. Cũng như mùa hè vừa qua, cũng như mấy năm trước đây, chàng lại một lần
nữa lênh đênh trên con sông Volga vắng vẻ mênh mông, với dòng nước lờ đờ mà
dũng mãnh. Chiếc tàu kéo màu nâu mạn thấp vỗ guồng bánh trên mặt nước không gợn
một chút gió nào. Ở phía trước lúc nào cũng thấy một dải bờ, tưởng chừng như
sông đến đấy là hết, nhưng sau một khúc sông uốn thành vòng cung rộng lại mở ra
một chân trời mới, sâu thẳm và trong sáng dưới ánh nắng thu. Vào những tháng
này sông Volga đã không còn bóng quân bạch vệ nữa, nhưng chiếc tàu vẫn cố đi xa
bờ khi qua những nơi có một làng lớn với những nếp nhà gỗ đã đen xỉn lại hiện
ra trên vách bờ dốc đứng, hoặc trên một ngọn đồi trọc, sau khóm lá vàng thấp
thoáng một cái tháp chuông có thể đặt súng máy.
Mười anh thủy thủ Baltic đang ngồi tán dóc ở
sau lái, bên cạnh khẩu đại bác. Ivan Ilỵits cũng thường ra đấy nằm chống khuỷu
tay tựa má nghe họ kể chuyện, khi thì ồ, à lo lắng nín thở ở những đoạn hồi hộp,
khi thì cười ha hả chảy cả nước mắt ở những chỗ buồn cười. Chàng là một người
nghe chuyện thật thà, cả tin, mà người thủy thủ thì chỉ cần có thế: miễn là người
nghe chú mục vào mồm họ.
Mỗi ngày một lần, người thủy thủ trẻ nhất,
một thanh niên cộng sản tên là Saryghin, cao lớn và chững chạc, lại đến chuông
tàu đánh hiệu lệnh tập hợp tất cả đội trên boong. Các thủy thủ ngồi quây lại
thành vòng tròn, người thợ máy ở dưới hầm tàu cũng chui lên: đó là một ông già
bé loắt choắt, nghe đâu đã mất cho cách mạng khá nhiều tiền; người đốt lò cũng
nhô một nửa người từ cái cửa hầm tròn tròn lên - đó là một người lầm lì khó
tính, lúc nào cũng cáu bẳn, hậm hực; rồi đến chị đầu bếp từ trong căn kho đi
ra, tay chùi vào cái tạp dề. Saryghin ngồi lên cuộn dây chão, cất cái giọng tự
tin bắt đầu câu chuyện tu dưỡng. Vì tuổi đời còn trẻ, anh ta chưa đọc được bao
nhiêu, nhưng cũng đã có đủ thì giờ hiểu được cái cốt yếu. Anh có bộ tóc quăn thẫm
màu dưới cái mũ thủy quân, đôi mắt màu sáng rất đẹp, chỉ phải cái mũi làm cho mặt
anh xấu đi: nó bé quá, lại hếch ngược lên tưởng chừng như từ một cấu trúc nào
khác hẳn mọc nhầm sang mặt anh.
Nhiệm vụ của Saryghin chẳng phải là dễ. Các
thủy thủ hiểu cách mạng theo quan điểm của những con người đã từ lâu thoát ly
khỏi công việc làm ăn, khỏi mấy luống cày thấm đầy mồ hôi nước mắt, khỏi những
chiếc thuyền chài trên bờ biển phương bắc. Họ đã kinh qua một quãng đời tòng
ngũ gian khổ trong hải quân; khi thời cơ đã đến, họ đã ném bọn sĩ quan xuống biển
và giương cao lá cờ cách mạng toàn thế giới. Họ biết thế giới là gì: họ đã từng
đi vòng quanh nó. Đó là một cái gì rộng lớn bao la, dễ hiểu đối với tâm hồn người
thủy thủ. Trước kia tài sản của người thủy thủ nằm cả trong cái hòm con của họ.
Bây giờ thì đến cái hòm con cũng chẳng còn, cơ ngơi của người thủy thủ bây giờ
là khẩu súng trường, là băng đạn súng máy và cả thế giới... Giả thử bấy giờ là
thời Xtêpan Razin, thì mỗi người trong bọn họ, cái mũ chóp đỏ đội lệch sang một
hên tai, sẽ thỏa chí rong ruổi dọc ngang trên những khoảng rộng mênh mông để lại
sau lưng những đám cháy rừng rực lửa bốc lên đến tận trời xanh... “Bớ lũ cố
nông của Sa hoàng, của quý tộc, bớ lũ dân đen cực khổ lầm than, lũ khố rách say
rượu, hãy chia đất đi, hãy chia đất đi, hãy chia vàng đi, của các người đấy, hưởng
đi!...”. Cuộc cách mạng vô sản đòi hỏi ở họ một cương lĩnh phức tạp hơn, đòi hỏi
họ hạn chế bớt cái chí tang bồng quá phóng túng của họ.
- Các đồng chí ạ, cách mạng là một khoa học.
- Saraghin nói với họ, giọng đầy tự tin. - Dù anh có khôn ngoan đến mấy, anh
cũng không thể nào vượt nổi nó, và bao giờ anh cũng phạm sai lầm. Mà sai lầm là
thế nào? Thà anh giết bố giết mẹ còn hơn: cái sai lầm nó dẫn dắt anh đến quan
điểm tư sản như dẫn con chuột vào bẫy: anh lao vào đấy rồi chỉ còn có cách ngồi
gặm đuôi, bao nhiêu công lao của anh bị sổ toẹt hết anh trở thành kẻ thù...
Các thủy thủ không thể có gì phản bác lại
điều đó - không có khoa học thì chiếc tàu cũng không lái nổi chứ đừng nói gì dẹp
tan được một bọn phản cách mạng như thế. Họa hoằn lắm mới có một anh nào ngồi
nghe, hai cánh tay lực lưỡng xăm chàm ôm lấy hai đầu gối, cất tiếng hỏi.
- Được rồi, nhưng cậu thử trả lời câu này:
không có tài năng thì đốt cái lò hơi trong buồng tắm cũng chẳng xong, không có
tài năng thì tí bột nhào của đàn bà cũng không dậy lên được. Thế tài năng có cần
không nào?
Saryghin đáp:
- Các đồng chí đã thấy Latughin lái đi đâu
chưa? Tài năng là một cái gì bẩm sinh của ta, đó là một cái gì rất nguy hiểm.
Nó có thể đưa người ta đến chủ nghĩa vô chính phủ tư sản, đến chủ nghĩa cá nhân.
- Úi dào, ghê chưa, - Latughin sốt ruột
khoát tay về phía anh ta. - Lúc đầu hẵng nhai cho kỹ những danh từ ấy rồi nuốt
đi, đợi cho nó tiêu hóa đã, rồi hẵng dùng.
Người thợ đốt lò giận dữ phều phào trên cái
cửa hầm tròn:
- Tài năng, tài năng! Móng tay thì nhuộm,
quần thì rộng như cái bị, cổ thì đeo dây chuyền... Đây thừa biết hạng các anh rồi...
Tài năng!
Lúc bấy giờ trong đám thủy thủ có tiếng thì
thào phản đối. Sau khi phều phào thêm vài câu về nỗi “các anh cứ thử đổ mồ hôi
mươi năm bên lò máy mà xem”, hắn ta vội tụt xuống hầm máy để tránh mọi sự bất
trắc. Saryghin thản nhiên xoa dịu làn sóng giận dữ đang dâng lên. Anh ta nói: “Quả
nhiên trong đám chúng ta cũng có những đồng chí có thói nhuộm móng tay, nhưng
đó là những cặn bã. Họ sẽ chẳng ra gì đâu. Cũng có những đồng chí bị bọn xã hội
cách mạng nhồi sọ. Nhưng nhìn chung, tất cả giới thủy thủ đều một lòng hiến
thân cho cách mạng. Còn về tài năng thì phải quên đi. Phải thuần phục nó. Sau
này trong chúng ta ai còn sống thì sẽ tha hồ chơi. Riêng tôi thì tôi chẳng hy vọng
sống sót...”.
Saryghin lắc lắc mái tóc quăn tít. Trong mấy
phút có thể nghe nước vỗ róc rách dưới lái tàu Những lời lẽ nghiêm khắc ấy đã
có tác dụng tốt đối với người nghe. Người Nga làm gì cũng thích đưa lên đến tột
điểm: đã chơi thì phải chơi cho trời long đất lở ra; đã đánh nhau thì phải đánh
thục mạng, không còn sợ gì hết. Cái chết có đáng sợ là vào những ngày bình thường,
những khi trời mưa dầm dề không biết bao giờ mới ngớt, còn trong lửa chiến đấu
ác liệt, trong khi làm việc lớn, cái chết chỉ làm cho họ thêm cay cú, ở đây họ
không còn chút gì e dè nữa, miễn là được cảm thấy cuộc sống hừng hực lên như
ngày hội; và nếu một viên đạn bắn trúng anh, một mũi lê đâm suốt ngực anh, thì
như thế có nghĩa là anh đã vấp ngã, dang rộng chân tay nằm giữa thảo nguyên,
vĩnh viễn say khướt cò bợ vì đã nhấp thứ rượu mạnh nhất trên thế gian này.
Thủy thủ rất vừa lòng khi nghe Saryghin nói
là mình không tính chuyện sẽ còn sống đến ngày chiến thắng. Và họ tha thứ cho
anh cái giọng sách vở cũng như cái thái độ tự tin của tuổi trẻ, và ngay cả cái
mũi hếch của anh họ trông cũng có vẻ thích hợp. Saryghin nói về chính sách độc
quyền lúa mì, về cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn, về cách mạng thế giới. Người
thợ máy có bộ màu xám xanh lim dim đôi mắt, đan mấy ngón tay để lên bụng, gật
gù ra vẻ tán đồng, nhất là ở những chỗ Saryghin rối trí quay ra diễn đạt một
cách mù mờ. Anixya Nazarôva, mới được đưa xuống làm đầu bếp cho tàu trong chuyến
đi lần trước ở Axtrakhan, không bao giờ ngồi lẫn với nam giới, cứ đứng riêng ra
một bên nhìn lên hai bờ sông đang trôi dần về phía sau, gương mặt trẻ trung đã
héo hon đi vì đau khổ, với cái trán dô, mái tóc màu tro rất đẹp tết bím quấn
quanh đầu, trông bình thản và dửng dưng, duy thỉnh thoảng trong cổ chị lại có một
cái gì cuộn lên một cách khó nhọc.
Têlêghin cũng tham dự những buổi nói chuyện
này: chàng kể lại những trận đánh, lấy phấn vẽ lên boong cách bố trí của các
đơn vị tham chiến.
- Các đồng chí thấy đấy, mưu đồ phản cách mạng
được vạch ra theo một kế hoạch thống nhất: bao vây trung bộ nước Nga, cắt nó ra
khỏi vùng cung cấp lúa mì và nhiên liệu, rồi bóp nghẹt cho chết. Bọn phản cách
mạng nổi dậy ở các vùng ngoại cảnh, trên những đất đai trù phú, phì nhiêu. Ở
Kuban chẳng hạn có một triệu rưỡi dân cô-dắc và cũng ngần ấy nông dân tá điền.
Giữa hai bên có một mối thù không đội trời chung. Đênikin hiểu rất rõ điều đó,
và với một dúm sĩ quan tình nguyện, hắn xông vào giữa nơi xung yếu nhất, đánh
tan cả quân đoàn mười vạn người của tên khốn kiếp Xôrôkin mà lẽ ra phải xử bắn
ngay từ đầu vì cái tác phong vô chính phủ và cái tâm địa phản phúc, Hiện nay Đênikin
đang xây dựng một hậu phương vững mạnh, giúp quân cô-dắc chém giết những người
theo hồng quân ở vùng Kuban. Đênikin là một kẻ địch thông minh và nguy hiểm.
Các thủy thủ nhìn Têlêghin, cánh mũi phập
phồng, trên làn da rám nắng nổi lên những đường gân xanh. Còn ông thợ máy thì cứ
gật gù: “Đúng thế, đúng thế”.
- Tên thủ lĩnh Kraxnôv thì nhiệm vụ hẹp hơn
nhiều, vì dân cô-dắc ở biên giới vùng sông Đôn rất khó xúi bẩy. Các đồng chí
cũng biết câu tục ngữ: “Sở dĩ cô-dắc béo căng, là vì cô-dắc ăn xong nằm kềnh”.
Người cô-dắc rất dũng cảm khi họ chiến đấu để bảo vệ nhà cửa của họ. Nhưng mặt
khác bọn phản cách mạng Kraxnôv hiện nay đối với ta là nguy hiểm hơn cả. Nếu ta
bị lấn ra khỏi vùng sông Volga và mất Txaritxyn thì Kraxnôv và Đênikin sẽ hợp
nhất được với tất cả phong trào phản cách mạng ở Xibêri. Cũng may cho ta là giữa
Kraxnôv và Đênikin không có một sự thỏa thuận hoàn toàn với nhau. Quân cô-dắc
sông Đôn gọi quân tình nguyện là “bọn hát rong”, còn quân tình nguyện thì gọi
quân sông Đôn là “lũ gái đĩ của Đức”... Nhưng không phải cứ trông mong vào đấy
mà được. Đối lập với kế hoạch của phản cách mạng, ta phải có một kế hoạch lớn của
ta, và trước hết là phải tổ chức Hồng quân cho có quy củ, khắc phục tác phong
du kích...
Saryghin ném sang Têlêghin một khóe mắt
ghen tị rồi chen vào:
- Đúng thế đấy... Như vậy, các đồng chí ạ,
ta trở về với vấn đề ban nãy tôi đã đề ra... Thế nào là kỷ luật cách mạng?
Trong một buổi nói chuyện như vậy, Anixya
Nazarôva bỗng giơ cánh tay ra phía trước như người mù, rồi nói, giọng đều đều
nhưng hàm súc nhiều ý nghĩa đến nỗi ai nấy đều quay về phía chị và háo hức lắng
nghe:
- Xin lỗi các đồng chí nhé, cho tôi nói một
chút... Tôi xin kể để các đồng chí nghe câu chuyện này...
Một hôm vào lúc mới tờ mờ sáng, Anixya
Nazarôva ra vắt sữa bò. Nhưng chị vừa mở cửa chuồng bò, nơi con Nây căng sữa
đang kêu “mừ, mừ” trong bóng tối, thì từ phía thảo nguyên chợt có tiếng súng vẳng
lại. Anixya đặt cái xô xuống, sửa cái khăn bịt trên đầu. Tim chị đập mạnh, và
khi ra cổng, chân chị cứ khuỵu xuống. Tuy vậy chị vẫn mở hé cánh cổng - ngoài
đường làng có mấy người vừa chạy vừa leo lên một chiếc xe tatsanka. Những tiếng súng bây giờ nghe mỗi lúc một gần và dồn dập
hơn, từ phía thảo nguyên cũng như từ phía ao, ở đầu đường làng cũng như ở cuối
đường. Chiếc xe tatsanka của các đồng
chí trong xô viết thôn chưa kịp lánh đi thì đã bị một tốp người cưỡi ngựa vây
quanh. Chúng nó quay cuồng xung quanh chiếc xe như một bầy chó khi xông vào xé
xác một đồng loại, vừa bắn vừa chém mấy người trên xe.
Anixya đóng cổng lại, làm dấu thánh và toan
đi ra lấy cái xô, nhưng bỗng à lên một tiếng và chạy vào nhà, nơi Petrusa và
Anyuta, hai đứa con của chị đang ngủ. Chị xoa đầu, gọi thì thầm bên tai chúng để
thức chúng dậy, mặc áo quần cho chúng rồi dắt ra ngoài sân ở phía sau chuồng
bò, nơi có đống phân ngựa khô [dùng để đun bếp]
xếp thành một thứ tổ kiến lớn bên trong rỗng. Anixya giở mấy bánh phân ngựa khô
ra rồi bảo hai đứa bé chui vào trong và ngồi yên ở đấy, không được hé răng.
Bây giờ suốt con đường làng rầm rập tiếng
vó ngựa, loảng xoảng tiếng gươm súng. Cuối cùng có tiếng báng súng nện lên cánh
cổng: “Mở ra!”. Khi Anixya ra mở cổng, hai người cô-dắc sở tại, mặt bốc lửa bừng
bừng vì men rượu ngang, quát lớn: “Xenka Nazarôv đâu? Chồng mày đâu, nói đi
không chúng tao bắn chết tươi ngay bây giờ”. Chồng Anixya, vốn là dân tứ xứ chứ
không phải dân cô-dắc, hiện nay đang ở Hồng quân, và chị cũng chẳng biết anh ta
còn sống hay không nữa. Chị nói với họ rằng chị không biết chồng ở đâu: chỉ biết
là mùa hè vừa qua có mấy người đến đưa anh đi đâu không rõ. Bỏ Anixya ra, bọn
cô-dắc đi vào nhà, lục lọi phá phách tan hoang, và khi đi ra họ lại lôi Anixya
đến trụ sở xô-viết thôn, nơi trước kia là nhà ở của thủ lĩnh. Trước trụ sở, những
người cô-dắc cưỡi ngựa quay cuồng qua lại, chốc chốc lại có những tốp cô-dắc đi
bộ dắt về những người nông dân và cô-dắc bị trói, có người bị đánh hộc cả máu
mũi máu mồm. Về sau người ta được biết rằng họ cứ chiếu danh sách bắt tất cả những
ai dạo mùa xuân đã bỏ phiếu tán thành chính quyền Xô-viết.
Trong căn nhà của thủ lĩnh cô-dắc, Anixya
trông thấy một viên sĩ quan có gương mặt bơ phờ như người thiếu ngủ, trên ống
tay áo có thêu một cái đầu lâu và hai cái xương bắt chéo, ngồi cạnh viên trưởng
cơ Zmiev cách đây một năm đã bỏ làng trốn đi. Từ dạo ấy dân làng ai nấy đều đã
quên bẵng hắn đi, thế mà giờ đây hắn lại hiện ra, với bộ ria buông thỏng xuống
hai bên, khỏe mạnh, no say, da đỏ như đồng điếu. Khi toán cô-dắc đẩy Anixya vào
nhà, viên trưởng cơ quát bảo những người bị bắt - bấy giờ có đến hơn năm mươi
người bị lùa vào đây, xung quanh có lính đứng gác:
- Quân chó má đỏ ruột kia, chính quyền Xô-viết
cứu giúp chúng mày nhiều lắm phỏng? Nào, bây giờ thử kể ta nghe xem bọn chính ủy
Moxkva dạy chúng mày được những gì nào?...
Viên sĩ quan lần lượt nói với những người bị
đẩy đến trước bàn:
- Mày thừa nhận là tên họ của mày đúng như
vừa gọi chứ? Được. Mày có cảm tình với bọn bolsêvik phải không? Không à? Hồi
tháng năm mày bỏ phiếu cho chúng chứ? Không à? Thế tức là mày nói dối. Đánh cho
nó một trận. Tiếp theo: Rôđiônôv, dân cô-dắc. - Hắn ngước đôi mắt màu hạt dẻ nhạt
như mắt cừu, nói: - Đứng nghiêm, nhìn vào tao đây này! Mày có làm đại biểu ở đại
hội nông dân phải không? Không à? Mày tuyên truyền cho xô-viết phải không? Cũng
không à? Thế thì mày nói láo! Quay trái! Tiếp theo...
Lính cô-dắc chộp lấy những người vừa bị hỏi
cung, đẩy ra sân, xô ngã xuống đất, kéo tuột quần họ ra, lật áo họ lên. Một tên
ngồi lên đôi chân đang giãy giụa, một tên lấy hai đầu gối ép chặt lấy cái đầu,
hai tên khác rút que thông nòng ở súng ra ráng hết sức đánh vun vút vào lưng,
vào mông họ.
Viên sĩ quan còn phải hỏi cung rất to, vì
ngoài sân tiếng gào thét khủng khiếp của những người bị đánh vang lên ầm ĩ.
Xung quanh nơi hành hình xúm xít một đám đông gồm những kỵ binh và bộ binh cô dắc
trong đội quân mới xông vào làng, và những người cô-dắc địa phương đã chạy ra
đón họ, reo hò: “Chúa Cơ đốc đã phục sinh!”. Họ cũng gào thét và chửi bới: “Đánh
cho trần xương ra! Đánh cho chảy kiệt máu đi! Cho chúng nó biết thế nào là
chính quyền Xô-viết!”
Cuối cùng trong ngôi nhà của viên thủ lĩnh
chỉ còn lại Anixya và một cô giáo trẻ tuổi. Cô giáo này đã tự nguyện về làng dạy
trẻ, luôn luôn chịu khó tìm cách truyền bá học thức trong dân địa phương: cô tập
hợp phụ nữ lại, đọc cho họ nghe Puskin và Lev Tolxtôi, dẫn trẻ đi bắt bọ dừa - thời
buổi này mà cũng đi bắt bọ dừa kia chứ!
Trưởng cơ Zmiev quát cô giáo:
- Đứng dậy, con đĩ Do thái kia!
Cô giáo lặng lẽ đứng dậy, đôi môi run run.
- Tôi không phải là người Do thái, ông cũng
thừa biết như vậy, ông Zmiev ạ. Mà dù tôi có là người Do thái nữa, thì đó cũng
chẳng phải là một tội lỗi gì...
- Vào đảng Cộng sản đã lâu chưa? - Viên sĩ
quan hỏi.
- Tôi không phải là cộng sản. Tôi yêu trẻ,
và tự thấy có nhiệm vụ dạy cho chúng biết chữ!... trong làng có đến chín mươi
phần trăm người không biết đọc biết viết, ông cứ thử tưởng tượng mà xem...
- Tôi tưởng tượng rồi. - viên sĩ quan nói.
- Thế còn bây giờ thì chúng tôi sẽ dạy cho cô biết mùi đòn vọt.
Cô giáo tái mặt đi, lùi lại. Viên trưởng cơ
quát lớn: “Cởi áo ra!”. Gương mặt xinh xắn của cô run lên, cô bắt đầu cởi cúc
chiếc áo khoác carô, rồi bỏ áo ra, vẻ bàng hoàng như đang chiêm bao...
- Này ông, ông sĩ quan ạ! - Cô vừa nói vừa
giơ tay về phía viên sĩ quan. - Lẽ nào ông lại có thể...
Ngoài sân có ai rú lên một tiếng kéo dài,
ghê rợn. Viên trưởng cơ vẫn một mực nhắc lại:
- Cởi quần ra, con đĩ!
- Quân khốn nạn! - Cô giáo quát vào mặt hắn,
mắt nảy lửa, mặt đỏ bừng vì căm giận. - chúng mày bắn tao đi, đồ thú dữ, đồ
quái vật... Rồi chúng mày không thoát được hình phạt đâu!
Viên trưởng cơ liền chộp lấy cô, nhấc bổng
lên và ném mạnh xuống sàn nhà. Hai tên lính cô-dắc xé váy cô ra, giữ chặt lấy đầu
và hai chân cô. viên sĩ quan thong thả rời bàn đứng dậy, cầm lấy cây roi của một
tên lính cô-dắc, một nụ cười ngạo nghễ thoáng hiện trên gương mặt xám ngoét. Hắn
giơ roi đánh rất mạnh vào chỗ kín của người con gái. Viên trưởng cơ cúi gập người
trên ghế, đếm to: “Một!”. Viên sĩ quan thong thả quật mạnh từng roi, cô giáo
không hé môi kêu lên một tiếng nào... “Hai mươi lăm, phần mày thế là đủ”, -
viên sĩ quan nói đoạn bỏ roi xuống. - “Bây giờ thì đi mà kiện thủ lĩnh quận là
đã bị tao đánh oan”. Cô giáo nằm im, như đã chết.
Bọn lính cô dắc vực cô dậy, đưa ra phòng
ngoài. Bây giờ đến lượt Anixya. Viên sĩ quan thắt lại sợi dây lưng Kavkaz, chỉ
hất đầu ra phía cửa. Anixya điên dại vì căm thù, cố vùng vẫy lồng lộn. Khi bọn
cô dắc lôi chị vào, chị cố túm tóc chúng, cắn vào tay chúng, lấy đầu gối huých
vào chúng, cố giãy ra. Rốt cục chị vùng ra được. Tóc xõa tung, áo quần rách
nát, chị lao vào bọn cô dắc, và ngất đi khi bị chúng đánh vào đầu. Chúng lấy
que thông nòng đánh nát lưng chị ra rồi ném chị ở bên thềm, chắc nghĩ rằng mụ
đàn bà quái quỷ này đã chết.
Đội quân trừng phạt của thượng úy kỵ binh
Nêmêsaiev đã lập lại trật tự trong thôn, đặt một thủ lĩnh cai quản dân làng, chở
bánh mì, mỡ ướp và những thứ đồ đạc linh tinh đã trưng dụng được lên mấy chiếc
xe tải, rồi bỏ đi. Suốt ngày hôm ấy trong làng im phăng phắc. Không ai đốt lò
đun bếp, không ai thả gia súc đi ăn. Đến đêm, nhiều nhà dân tứ xứ bốc cháy,
trong đó có cả nhà chị Anixya.
Hàng xóm không dám sang dập đám cháy, vì
khi đốm lửa đầu tiên bốc lên ở đầu làng. có mấy tên lính cô dắc phi đến đấy, và
trong làng có thể nghe thấy mấy phát súng nổ. Nhà Anixya cháy ra tro. Mãi đến
sáng hôm sau mấy người hàng xóm mới giật mình nhớ ra: thế còn hai đứa con của
Anixya ở đâu? Hai đứa bé - Petrusa và Anyuta, ngồi trong đống phân khô cho đến
đêm, cũng như con bò cái, mấy con cừu, bầy gà, đều cháy sạch.
Mấy người tốt bụng trông thấy Anixya nằm
rên dưới thềm nhà thủ lĩnh, khiêng chị về nhà săn sóc, Lúc bấy giờ chị vẫn mê
man bất tỉnh. Mấy tuần sau, khi chị đã bắt đầu hồi tỉnh, họ kể chuyện hai đứa
trẻ cho chị biết. Anixya không còn ở lại trong làng làm gì nữa. - chị cũng nói
với mấy người đã săn sóc chị như vậy. Lúc bấy giờ đã sang thu. Chồng chị chẳng
hề có tin tức gì. Chị chẳng còn thiết sống làm gì nữa, chị ra đi, lang thang từ
làng này sang làng khác, khi nào đói quá thì đến dưới cửa sổ nhà người ta xin
ăn. Chị lê ra đến đường sắt và cuối cùng cũng đi được đến Axtrakhan. Ở đây chị
được đưa xuống tàu thủy làm đầu bếp, vì trong chuyến đi trước, người đầu bếp của
tàu đã lên bờ rồi trốn thẳng.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . .
Đó là câu chuyện đời mà Anixya Nazarôva đã
kể lại cho các thủy thủ nghe. Chị nói:
- Cảm ơn các đồng chí, các đồng chí đã biết
rõ nỗi khổ của tôi, cảm ơn các đồng chí...
Chị đưa vạt áo tạp dề lên lau nước mắt rồi
lui vào buồng kho. Các thủy thủ, đôi cánh tay nổi gân xanh bó quanh đầu gối,
cau mày im lặng hồi lâu. Ivan Ilyits đi ra nằm ở một góc boong. Cố nén những tiếng
thở dài, chàng nghĩ: “Mỗi khi gặp một con người, ta cứ thế lơ đãng đi qua một
bên, thế mà đó lại là cả một vương quốc bị phá đổ tan hoang, những đống gạch
hoang tàn hãy còn bốc khói...”.
Câu chuyện thương tâm của người đàn bà ấy
đã dần dần đưa chàng quay về với những nỗi đau buồn của bản thân, những nỗi niềm
mà chàng vẫn chôn sâu trong lòng, giấu mọi người và trước hết là giấu bản thân
chàng. Chàng chẳng còn hy vọng bao lăm được gặp lại Đasa một lần nữa. Quả con
người có sức sống rất bền bỉ, không có một loài thú nào có thể chịu đựng được
ngần ấy vết thương, ngần ấy tai họa. Nhưng cái không gian ngăn cách chàng với
Đasa nó mênh mông quá. Bây giờ biết tìm nàng ở đâu trong cái dòng người đông
hàng triệu đang trảy về phía đông? Cái ông bác sĩ Bulavin gàn dở kia không khéo
lại đem nàng trốn ra nước ngoài cũng nên.
Chàng lắc đầu thở dài, thương Đasa quá ham
chuộng sự ổn định về tinh thần, quá ưa thích sự trang nhã, chàng nhớ tới cái
tính bồng bột hơi lạnh lùng của nàng, nó giống như đám bọt sủi lên cuồn cuộn
trong một cốc rượu nho ướp lạnh. “Thật quá sức nàng, nàng chịu sao nổi... Nàng
đã lớn lên trong lồng kính, thế mà lại bị ném vào giữa trận cuồng phong đang
làm rung chuyển cả thế giới... Tội nghiệp quá, hồi ở Pêtrôgrađ, sau khi thằng
bé chết đi, nàng đã khước từ sự sống, nàng cứ tàn lụi dần trong bóng hoàng hôn
giá lạnh...”.
Những sự việc đã xảy ra với nàng sau dạo ấy,
Ivan Ilyits chỉ được biết qua bức thư đọc vội vàng. Không còn nghi ngờ gì nữa,
sau dạo ở Pêtrôgrađ. Đasa đã thể nghiệm nhiều, đã hiểu thêm được nhiều... Hôm cứu
chàng khỏi tay bọn phản gián, nàng đã thiết tha, nhiệt thành biết bao nhiêu khi
cố lôi chàng đến cạnh cửa sổ: “Em sẽ trung thành với anh cho đến chết. Chạy đi
anh, chạy đi anh!...”. Mùi hương của làn tóc mịn màng khi nàng nép vào người
chàng, Ivan Ilyits vẫn còn nhớ mãi, và sẽ không bao giờ quên được. Một người
đàn bà lạ lùng, kỳ diệu, đáng yêu vô cùng... “Thôi, thế cũng được rồi, xếp những
kỷ niệm lại đi thôi!...”
Trời bắt đầu trở xấu. Sông Volga tối sầm lại,
từ phía bắc ùn lên những đám mây lạnh lùng, buồn tẻ, Gió nổi lên, thổi hun hút
qua những sợi dây chằng cái cột tín hiệu thấp bé của chiếc tàu kéo. Không cặp bến,
tàu đi qua Kamysin, một thị trấn nhỏ nhà toàn bằng gỗ, với những mảnh vườn trụi
lá trên mấy ngọn đồi. Ngay phía dưới Kamysin là khu vực của mặt trận Txaritxyn.
3
Những đám mây thấm đầy khí lạnh trườn trên
Txaritxyn, gió tung bụi lên, cuốn thành từng vòng xoáy lông lốc thổi vào những
ngôi nhà gỗ chen chúc nhau lộn xộn trên những bờ dốc cát xốp, xen kẽ với những
xưởng máy và nhà xí, cái thì quay mặt cái thì quay lưng ra sông. Ivan Ilytis bước
lên con đường dốc, đá lát đường đã bị nước mưa xói bật lên. Cũng như trên bờ
xây, bên những bến thuyền ọp ẹp, trong thành phố không có lấy một bóng người
nào. Mãi khi đi đến quảng trường, nơi bóng dáng đồ sộ của tòa nhà thờ lớn màu
xám hiện lên sừng sững sau đám bụi, chàng mới gặp một đội vũ trang. Người trẻ
có, người già có, ăn mặc mỗi người một cách, họ vừa bước đi vừa ngoảnh mặt sang
một bên để tránh ngọn gió đang thổi ngược lại làm cho họ nhăn mặt khó chịu.
Người đi phía trước đội vũ trang là một bà
già gầy gò, cảu kỉnh, đội mũ lưỡi trai hồng quân, vai cũng khoác súng trường
như tất cả những người khác trong đội. Khi bà già đi ngang trước mặt, Ivan
Ilyits hỏi bà xem bộ tham mưu ở chỗ nào, Bà già lườm mắt nhìn chàng một cách giận
dữ, không đáp lấy nửa lời. Cả đội rảo bước kéo qua, bụi tung lên mù mịt.
Ivan Ilyits cần đến trình diện ở tham mưu
quân đoàn để báo cáo là tàu chở đạn đã cặp bến và giao phiếu chuyển hàng. Nhưng
biết tìm cái bộ tham mưu ấy ở đâu bây giờ kia chứ! Hai bên đường toàn những cửa
hàng đã đóng ván kín mít, những khung cửa sổ đóng im ỉm và những tấm biển hiệu
bằng tôn gỉ đung đưa kẽo kẹt trước gió, trông như chỉ chực tuột xuống vỉa hè. Đột
nhiên Ivan Ilyits đâm sầm vào một người mặc quân phục, tay quấn băng. Người này
đau quá, xuýt xoa qua kẽ răng và thì thầm văng tục. Ivan Ilyits xin lỗi, rồi lại
hỏi xem bộ tham mưu ở đâu. Và mãi đến bây giờ mới thấy rằng đứng trước mặt mình
là Xapôjkôv, Xerghêy Xerghêyêvits, trung đoàn trưởng cũ của chàng.
- Kìa, cậu đi đâu mà cứ nhắm mắt lao bừa
như thằng điên thế, - Xapôjkôv nói. - Nào, chào cậu!
Ivan Ilyits toan ôm chầm lấy bạn, nhưng
Xapôjkôv đã lùi lại:
- Kìa, khoan đã nào, đứng yên. Cậu ở đâu tới
thế?
- Tôi vừa áp tải một chuyến tàu thủy đến
đây.
- Lạ thật: vẫn sống kia chứ! Lại tràn đầy sức
khỏe, béo căng cả má ra! Cái nòi Nga-la-tư nó thế đấy! Cậu cần bộ tham mưu à?
Thì nó ở đây chứ còn đâu! Cậu trọ ở đâu? Dĩ nhiên là chưa có chỗ nào. Thôi được,
tớ sẽ đợi cậu.
Xapôjkôv đưa Têlêghìn vào cổng một tòa nhà
đã cũ của một thương nhân và chỉ cho chàng mấy căn phòng của bộ tham mưu ở tầng
hai.
- Vanka, tớ đợi cậu nhé, nhớ đấy...
Ivan Ilyils đã từng đến nhiều bộ tham mưu, ở
quân đoàn của Xôrôkin cũng như ở các quân đoàn khác của mặt trận miền nam:
không bao giờ có thể tìm ngay được cái cửa cần vào - ai nấy đều như thế đã thỏa
thuận với nhau từ trước để nói dối mình, đâu đâu cũng khói thuốc lá mù mịt, tiếng
máy chữ đánh cuống quít lên, đâu đâu cũng thấy những viên sĩ quan phụ tá mặc quần
ngựa ống rộng chạy từ cửa này sang cửa khác, vẻ quan trọng. Ở đây thì lại im
phăng phắc. Chàng tìm ngay ra được cánh cửa cần phải vào. Viên sĩ quan trực ban
ngồi bên cái cửa sổ bụi bậm chỉ để lọt một ánh sáng mờ mờ; anh ta ngẩng cái mặt
xương xẩu, vàng vọt vì sốt rét lên, và đôi mi đỏ không hề chớp, anh ta nhìn
Têlêghin chằm chặp.
- Không có ai ở đây cả, bộ tham mưu ra cả
ngoài trận tuyến - anh ta đáp.
- Cho phép tôi được gọi điện cho tư lệnh:
tôi phải giao gấp số hàng chở trên tàu thủy.
Viên sĩ quan trực ban, với cái dáng nhẹ
tênh của một người đã gầy xọp đi vì mất ngủ, đứng dậy và nhìn ra cửa sổ. Một
chiếc ô-tô chạy đến đỗ trước thềm nhà.
- Anh đợi một tí. - anh ta nói khẽ rồi tiếp
tục xếp thành mấy chồng những tờ báo cáo để trên bàn, trong đó có những tờ viết
bằng bút chì, nét chữ nguệch ngoạc đến nỗi nếu có đọc cũng chỉ hiểu ra được có
một điều: sự vĩ đại của một tâm hồn giản dị và dũng cảm.
Hai người bước vào phòng, một người mặc áo
khoác lông Axtrakhan, cổ đeo ống nhòm, bên sườn có một thanh gươm kỵ binh mắc
vào sợi dây nịt bằng da sần. Người kia mặc áo ca-pốt lính rất dài, đội mũ lông
có tai che hai bên như công nhân Pêtrôgrađ vẫn đội, không đeo vũ khí gì. Mặt cả
hai người đều bám bụi đen kịt. Người trực ban nói:
- Đường dây trực tiếp với Moxkva đã chữa
xong.
Người mặc áo lông Axtrakhan, có khuôn mặt
trẻ hơn tuổi, với đôi mắt tròn màu nâu nhạt tươi cười, đứng phắt lại: “Thế thì
hay tuyệt!”. Người mặc chiếc áo ca-pốt lấm đất rút khăn mùi-soa ra lau cái mặt
gầy gò, phủi bớt bụi trên bộ ria đen, và Têlêghin cảm thấy cái nhìn chăm chú của
đôi mắt sáng, có đôi mi dưới hơi cộm, đang đặt lên mình.
- Đồng chí này muốn gặp các đồng chí để báo
cáo, - người trực ban nói.
Ivan Ilyits gặp hai người ấy lần này là lần
đầu. Chàng chẳng biết họ là ai cả, cho nên hơi lúng túng. Người trực ban
nghiêng người về phía chàng nói:
- Đồng chí nói đi. Hội đồng quân sự của mặt
trận đấy.
Têlêghin xuất trình giấy tờ và báo cáo. Khi
nghe nói là chàng vừa cho tàu chở đạn dược cặp bến, hai người đưa mắt nhìn
nhau. Người mặc áo ca-pốt cầm lấy tờ giấy chuyển hàng, người kia nhìn qua vai bạn
háo hức đọc, đôi tròng đen chạy lia lịa theo mấy dòng chữ, cái miệng nho nhỏ mấp
máy nhẩm lại số lượng đạn súng trường, đạn đại bác, băng súng máy...
- Đội áp tải có bao nhiêu người? - người mặc
áo ca-pốt hỏi.
- Mười thủy thủ Baltic và hai khẩu đại bác.
Hai người lại đưa mắt nhìn nhau. Người mặc
ca-pốt lại nói:
- Đồng chí điền vào tờ mẫu đi. Đến mười bảy
giờ đồng chí đem cả đội đến nhận lệnh của tư lệnh mặt trận. - Bằng một động tác
đĩnh đạc, ông quay cái máy điện thoại khô dầu kêu kin kít, yêu cầu gặp một người
nào đấy, rồi nói khẽ mấy tiếng và đặt ống nghe xuống. - Đồng chí trực ban, đồng
chí đi huy động ngay một số xe tải, càng nhiều càng tốt. Điều công nhân ở xưởng
pháo đến dỡ hàng. Đồng chí kiểm tra việc thực hiện rồi nói lại cho tôi biết.
Hai người đi sang phòng bên. Người trực ban
đến quay máy điện thoại và bắt đầu nhắc đi nhắc lại trong ống máy, giọng đều đều:
“Ban giao thông vận tải, ban giao thông vận tải... cho tôi gặp đồng chí Ivanov
nhé... đồng chí Ivanov không có à? Chết rồi ư? Cho tôi gặp một đồng chí trực
ban khác vậy. Bộ tham mưu mặt trận đấy...”. Ivan Ilyits ngồi điền tờ mẫu. Công
việc đã rõ: đến trình diện với tư lệnh, như thế nghĩa là sẽ ra chiến hào luôn.
Qua mấy ngày nhàn hạ dưới tàu thủy, chàng đã đâm lười ra, nhưng bây giờ, trong
khi ngòi bút chàng chạy ken két trên tờ giấy nhám, chàng lại có cái cảm giác
quen thuộc đã bao nhiêu lần thể nghiệm trong mấy năm qua: chàng cảm thấy là
trong mình và xung quanh đang diễn ra một sự chuyển động khẩn trương của ý chí,
trong đó tất cả những cái gì bình lặng, ấm áp, thân thuộc trong con người, tắt
cả những cái gì hướng vào việc bảo tồn tính mạng và hạnh phúc riêng tây của con
người đều bị gạt vào hậu cảnh sau một tiếng thở dài luyến tiếc, để nhường chỗ
cho một Ivan Ilyits khác, đơn giản hẳn đi, cứng rắn, cương nghị.
Từ bây giờ đến năm giờ chiều hãy còn nhiều
thì giờ. Têlêghin giao tờ mẫu lại cho bộ tham mưu rồi ra hành lang. Xapôjkôv rời
chiếc đi-văng bằng gổ nhanh nhẹn đứng dậy.
- Xong việc rồi chứ? Ta tìm chổ nào ngồi
nói chuyện một tí.
Anh ta mỉm cười nhìn vẻ mặt ngơ ngác, bơ phờ
của Têlêghin. Xapôjkôv vẫn như xưa: bứt rứt, căng thẳng, như thể có biết một
cái gì mà người khác không biết. Chỉ có điều là anh đã tiều tụy đi nhiều; -
khuôn mặt hồng hào của anh nay bé choắt lại như mặt một ông già trẻ hơn tuổi.
Têlêghin phân trần là bây giờ còn phải chạy ra bến, tập họp đội thủy thủ lại
khiêng các thùng đạn lên - công chuyện nó như thế...
- Tức nhỉ. Thôi được, ta ra bến đi. Tớ đã
phải im lặng suốt ba tháng nay, Vanya ạ, đến cái nước là nằm trong nhà thương
suýt chút nữa tớ bắt tay vào viết “Bút ký của một cựu trí thức”... Và bây giờ tớ
không uống rượu nữa đâu cậu ạ, tớ quên rượu rồi...
Xapôjkôv vẫn đang xúc động rất mạnh vì cuộc
gặp gỡ bất ngờ này. Hai người ra ngoài. Gió xô từ sau lưng họ, như muốn lùa họ
xuống con sông Volga tối sẫm đang cuộn lên những đợt sóng dài sủi bọt.
- Trung đoàn giờ ở đâu hở Xerghêy
Xerghêyêvits? Sao cậu lại rời đơn vị?
- Trung đoàn của chúng mình bây giờ chỉ còn
xương với vẩy. Trong quân đoàn thứ Mười một không còn phiên hiệu trung đoàn
mình nữa rồi.
Têlêghin lặng lẽ nhìn anh, mắt mở rộng ra
vì kinh hoàng. Xapôjkôv bắt đầu kể, tay đưa lên che ngang mặt cho đỡ bụi.
- Chúng mình bị tiêu diệt ở khu trại
Bexpokôiny. Cậu đã biết rõ tấn bi kịch của quân đoàn Mười một chưa? Tổng tư lệnh
Xôrôkin đã làm những việc kinh khủng đến nỗi xử tử ba lần cũng chưa xứng ấy,
cái thằng chó đẻ ấy. Hắn đã giấu tiệt không cho quân đoàn biết lệnh của hội đồng
quân sự Txarixyn là phải chọc thủng chiến tuyến địch đến hội với quân đoàn thứ Mười.
Chỉ một mình sư đoàn của Jlôba thi hành mệnh lệnh này và hành quân về Txaitxyn,
mà sở dĩ như thế chẳng qua cũng chỉ vì Xôrôkin ra lệnh bắn Đmitri Jlôba và đặt
ông ta ra ngoài vòng pháp luật. Cậu thử tưởng tượng mà xem: chúng mình bị cắt
ra khỏi Minêralnyê Vôđy, ra khỏi Xtavropôl, nơi quân đoàn Taman đang bị tiêu diệt.
Đạn dự trữ thì Xôrôkin đã bỏ lại Tikhôretxkaia từ trước, trong lúc hoảng loạn...
Từ bên phải, chúng mình bị kỵ binh của Skurô đánh thốc vào, bên trái thì kỵ
binh của Vrangel. Thế là chúng mình rút về phía đông, đi vào cánh thảo nguyên
khô cằn không có lấy một giọt nước... Trung đoàn ta chỉ còn được một đại đội.
Chúng mình vừa đi vừa ngủ, chỉ mong sao bứt ra khỏi quân địch đang truy kích,
len lỏi qua những thung lũng nhỏ. Chẳng có gì ăn, nước uống cũng không có, gió
thì lạnh buốt. - Chao! cái cánh thảo nguyên đáng nguyền rủa ấy! Có những khi cả
người lẫn ngựa rét quá chết cóng tại chỗ, thế là chỉ một lúc cát đã vùi kín lại
như một ngôi mộ cổ của người Scyth!... Trung đoàn rút đến khu trại Bexpokôiny: ở
đấy không còn lấy một bóng người, một con gà nào, ngay đến chó bọn cô dắc cũng
đã bắt đi hết. Nhà nào cửa cũng bỏ ngỏ, mở toang ra... Thế là anh em chui vào,
còn bao nhiêu sữa uống cho hết Cậu có hiểu không? Họ bắt đầu lăn lộn giữa đất,
nhưng đã muộn rồi, chẳng còn biết chữa chạy cách nào nữa: chỉ còn được khoảng
ba mươi cậu sống sót... thế rồi đến tảng sáng, quả nhiên chúng nó đã đem súng
máy đến bao vây chúng mình và tiêu diệt sạch...
Nghe Xapôjkôv kể, Ivan Ilyits đi mỗi lúc một
nhanh, mãi đến khi vấp mạnh một cái mới sực nhớ ra.
- Thế còn cậu thì sao? Cậu làm thế nào...
- Có ma nó biết được. Chẳng qua cũng gặp
may. Mình bị thương ngay từ đầu, bị thương ở tay thôi, nhưng lại chạm phải dây
thần kinh thần kiếc gì đấy thành thử mình ngất đi... Từ dạo ấy mình đã bắt đầu
soát lại rất nhiều... Về sau mình mới biết là trong khi mình nằm lăn ra đấy,
anh em họ đã băng tay lại cho mình, khiêng mình đến một đống rơm rồi lấy rơm phủ
lên người mình... Trong một hoàn cảnh như thế mà họ còn tận tình với mình như vậy
đấy cậu ạ. Mình dám khẳng định rằng chúng mình không biết rõ dân ta, và chưa
bao giờ biết hết... Ivan Bunin có viết rằng đó là một loài dã thú, còn
Merejkôvxki thì cho họ là hạng đần độn thô lỗ, sẽ là một nguy cơ lớn sau này...
Cậu có nhớ cái đêm chúng mình nói chuyện trên toa tàu không? Hôm ấy tớ say,
nhưng tớ không quên chút gì đâu. Chúng mình sai là chưa hiểu nổi điều này: nếu
đường đạn khi bắn phải được điều chỉnh theo một mục tiêu có thể quan sát trực
tiếp, thì triết học hay lô-gích cũng vậy phải được chỉnh lý bằng việc tìm hiểu
sâu sắc những sự xung đột trong cuộc sống thực... Cách mạng không phải là triết
học Kant đâu cậu ạ!
- Xerghêy Xeghêyevits, thế rồi sao nữa?
- Rồi sao nữa ấy à?... Đến đêm tớ bò ra khỏi
đống rơm. Trong khu trại chúng nó đang hát nghêu ngao: như thế nghĩa là đoàn
quân chiến thắng đã say khướt. Tớ vấp phải một xác chết bị chém cụt chân tay, rồi
lại một cái xác nữa. Thôi rõ quá rồi... Tớ vớ một con ngựa trốn vào thảo
nguyên, sống ở đấy mấy ngày hết sức khổ sở. Một đội kỵ binh của Buđionny đã nhặt
được tớ - ở vùng thảo nguyên Xalxkye có một một viên chỉ huy kỵ binh tên như thế...
Họ đưa tớ đến ga Kuberlê, thế là tớ về thẳng đây. Tớ vào nhà thương nằm chán
chê cho đến hôm nay... Bao nhiêu giấy tờ lý lịch quân nhân đều để trong cái áo
vứt ở đống rơm... Cậu có nhớ cái áo khoác lông của tớ không? Bây giờ thì đừng
hòng tậu được một cái như thế...
- Này, thế Ghymza cũng chết trong trận ấy
à?
- Ghymza thì trung đoàn mình đã phải bỏ lại
từ lâu, cùng với đoàn xe tải; anh ta đang sốt rét nặng.
- Tội nghiệp Ghymza...
- Ai cũng tội nghiệp hết, tội nghiệp cả
trung đoàn, Ivan ạ... Vả lại tớ nói thế là nói bậy, đây không phải chuyện
thương hại, mà phải gọi là cái gì khác kia... Mình đã quen sống với trung đoàn,
bây giờ tự dưng lại sống sót một mình thế này, nó bất tiện thế nào ấy... Mình
không còn chỗ đứng nữa Ivan ạ... Mình đã mấy lần đến bộ tham mưu xin việc, chỉ
mong họ giao cho mình một đại đội cũng được... Mình hoàn toàn thông cảm với họ.
Đối với họ, mình là anh cha căng chú kiết nào chẳng ai biết, trong tay chỉ có một
tấm thẻ quân nhân... Cậu làm ơn chứng nhận cho mình một tiếng, để bộ tham mưu họ
tin...
- Chuyện ấy còn phải nói gì nữa? Dĩ nhiên
mình sẽ nói, Xerghêy Xerghêyêvits ạ.
- Nhưng tốt hơn cả là cậu cho mình vào đội
của cậu, thật đấy. Làm đội phó, hay làm liên lạc gì cũng được... Số phận đã cho
chúng mình gặp lại nhau. Cậu có nhớ hồi ở nhà cậu chúng mình làm thơ chửi bới dọa
nạt bọn tư sản không? Không có cái gì trôi qua rồi cứ thế mất suông đi đâu, cái
gì cũng có một hồi âm dội lại: mình quấy phá một dạo rồi quên bẵng đi, nhưng
chưa kịp ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy mình đứng trước một quang cảnh đồ sộ hùng
vĩ đến nỗi tóc cứ dựng ngược lên ấy. Thế cậu có nhớ cái hồi mình tìm thấy cậu
trong căn nhà kho của quân Đức không? Chà, tập kích như thế mới sướng chứ, chém
như thế mới đã chứ! Hôm ấy tớ chém gãy cả gươm... Chúng mình lại gặp nhau ở đây
thì thật hay quá!... Ivan ạ, cậu có một sức khỏe thật không gì làm suy suyển được...
Thật là số phận cứ gắn bó mình với cậu mãi.
Họ không nói chuyện tiếp được nữa. Một đoàn
xe tải đã vượt qua mặt họ, phóng nước kiệu xuống bến...
* * *
Sau các mái nhà trên phố, qua những đám bụi
xoáy lông lốc, vầng tà dương chìm dần xuống chân trời, to lớn và ảm đạm, hắt từng
mảng máu lên mấy đám mây đang trườn qua. Tuyết thưa thớt bay lất phất trên sông
Volga. Những chiếc xe giàn chở đầy hòm đạn, có những đội công nhân vũ trang đi
áp tải, đã kéo đi hết từ lâu. Bờ sông vắng ngắt. Chiếc tàu thủy đã rời bến xuống
bỏ neo ở một nơi nào phía dưới, không lên đèn.
Mấy người lính thủy, mặc áo va-rơi nịt chặt,
lưng đeo lựu đạn, túi đồ đạc, tay cầm súng, đang ngồi phía sau cái trạm giấy của
bến tàu cho khuất gió. Họ không hút thuốc, không nói chuyện. Qua những câu chuyện
của công nhân xuống dỡ hàng, họ đã biết khá rõ những việc đang diễn ra trong
cái thành phố vắng vẻ nhuộm ánh hoàng hôn màu máu đùng đục này. Tình hình thật
chẳng đáng vui một chút nào.
Ivan Ilyits đang chờ những cỗ xe ngựa kéo
pháo. Chốc chốc chàng lại lo lắng nhìn đồng hồ, và đã mấy lần gọi điện về bộ
tham mưu. Bộ tham mưu cho biết rằng xe kéo pháo đã được gửi tới, và ra lệnh cho
đội áp tải đi thẳng ra ga với hai khâu pháo. Đẩy mạnh cánh cửa bị gió ép chặt
vào khung cửa trạm, Ivan Ilyits ra cầu bến. Anixya Nazarôva đang đứng trước mặt
chàng.
- Chị đứng đây làm gì?
Anixya im lặng mím mím đôi môi. Dưới cái
nhìn nghiêm nghị của Têlêghin, chị cúi đầu. Trên vai chị quấn tấm khăn san cũ kỹ
đã vá nhiều chỗ, có lẽ là cái phương tiện chống rét duy nhất của chị. Sau lưng
chị mang một cái bị đựng đồ bằng vải bố.
- Không được đâu chị ạ, không được đâu, - Ivan
Ilyits nói, - chị xuống tàu đi thôi, đội chúng tôi chẳng có việc gì cần đến chị
đâu.
Trong khi họ bắt bánh lăn hai khẩu pháo lần
từng bậc một lên bãi cát và loay hoay lắp vào xe, ánh tà dương phản chiếu trên
mấy đám mây đã tắt hẳn, và mặt sông lẫn với đôi bờ tối sẫm. Họ lên đường vào
thành phố, vừa đi vừa giục mấy con ngựa bé nhỏ thắng vào xe kéo pháo. Saryghin
đến cạnh Ivan Ilyits nói khe khẽ:
- Bây giờ trường hợp chị Anixya nên giải
quyết thế nào hở đồng chí? Anh em cứ xin giữ chị ấy ở lại phân đội...
Từ phía bên kia, Latughin cũng lập tức
buông bánh xe ra, đến cạnh Têlêghin.
- Đồng chí chỉ huy ạ, chị ấy đối với anh em
chúng tôi như một bà mẹ ấy. Ở mặt trận thì cũng có những việc có thể nhờ chị ấy;
như chạy đi lấy cái gì, hay giặt hộ anh em cái áo... Mấy lại chị ấy trông củ mỉ
cù mì thế chứ gan dạ ra phết đấy. Chị ấy cứ lẽo đẽo đi theo năn nỉ mãi, như con
chó quấn chủ ấy, còn biết làm thế nào?
Anixya cũng đang đi ngay sau lưng Ivan
Ilyits, một mực theo phân đội, đầu vẫn cúi gằm. Saryghin nói:
- Ta sẽ phân công cho chị ấy làm hộ lý...
Việc ấy cũng hay hay...
Ivan Ilyits gật đầu: “Đúng, chính tôi cũng
muốn giữ chị ấy lại”. Latughin lại chạy ra bắt bánh xe kéo pháo, quát mấy con
ngựa, lấy hết hơi sức để đẩy xe lên dốc: “Nào, ngựa tốt ngựa lành! Kéo lên!”. Một
mảng cát lớn trên bờ dốc sụt lở đổ xuống ào ào, xô vào đội kéo pháo, quay cuồng
dữ dội dưới cơn gió. Cuối cùng pháo đã lăn bánh trên đường phố. Trong các dãy
nhà hiện lên mờ mờ ở hai bên phố, không có lấy một khung cửa sổ nào có ánh đèn:
tiếng gió rít trên dây điện và tiếng kẽo kẹt của các biển hiệu nghe thật âm u,
ghê rợn. Ivan Ilyits vừa đi vừa cười nhạt... “Thật là một bài học đích đáng, tống
thẳng vào mặt: này ông chỉ huy, ông chẳng biết quan tâm gì đến con người...
Đúng quá, chẳng còn cãi vào đâu được nữa... Từ Nijni đến Txaritxyn cứ nằm ườn
ra hóng chuyện, không hề muốn biết những anh chàng vui nhộn lém lỉnh ấy là người
như thế nào... Kia, họ đang xoạc cẳng bước đi, dải mũ bay lất phất sau gáy... Tại
sao, chẳng cần bảo nhau lấy một tiếng, họ lại tự dưng đem nỗi khổ của Anixya,
cái số phận thảm thương của chị, gắn bó với số phận của bản thân họ, mà lại
đúng vào lúc họ phải từ giã cảnh sinh hoạt nhàn nhã trên tàu, xông pha qua những
đám bụi cát giá lạnh đang quay cuồng trong gió rét, đi đến một nơi tối tăm nào
họ không hề biết, để chiến đấu, để đón lấy cái chết?... Họ là những bậc anh
hùng dũng cảm phi thường chăng? Không, hình như đó chỉ là những con người rất
binh thường thôi... Đúng, chỉ huy mà như mình thì chẳng ra gì thật... U mê chết
cha! Người chỉ huy giỏi là người mà trong những hoàn cảnh khó khăn nhất vẫn
luôn luôn nhớ rõ như in cái tâm hồn phức tạp của từng chiến sĩ được giao phó
cho mình...”.
Câu chuyện của Xerghêy Xerghêyêvits ban nãy
và cái việc có vẻ như vô nghĩa vừa xảy ra trong phân đội xung quanh vấn đề
Anixyn đã làm cho Ivan Ilyits xúc động rất mạnh. Trước hết chàng đã phát cáu
lên với bản thân, tự trách mình ích kỷ, dửng dưng, u mê và nhu nhược... Trong
lúc này mà chàng lại vỗ được đôi má phinh phính ra thế kia có chết người không
chứ! Ngay đến Xerghêy Xerghêyêvits mà cũng phải kêu lên. Trong khi suy nghĩ
miên man như vậy, lvan Ilyits lại bất chợt được một ý nghĩ nữa của mình - chàng
chợt thấy người nóng ran lên, và một đợt sóng hoan lạc trào dâng lên ngập cả
tim chàng trong chốc lát, - trong tất cả những ý tự trách cứ này hình như cũng ẩn
náu một ý nghĩ thầm kín: làm sao lấy lại được tình yêu của Đasa ngày nào...
Nhưng rồi chàng chỉ thở phào một cái vào đám bụi xoáy từ góc phố ào ra và xua
đuổi những ý nghĩ hoàn toàn không phải lúc ấy đi.
Ra đến ga, lvan Ilyits nhận được lệnh phải
lập tức bốc hai khẩu pháo lên tàu và ra chiếm lĩnh trận địa pháo ở khu vực ga
Vorôpônôvô. Người truyền lệnh này cho chàng là viên chỉ huy đội trấn thủ thành
phố, một anh chàng cao lớn có đôi mắt đen nhánh như đêm tháng ba trông rất dữ tợn,
râu mọc rậm rì hai bên má trông như cố ý để theo kiểu thế kỷ trước. Ivan Ilyits
hơi bối rối. Chàng bắt đầu phân trần rằng chàng không phải là pháo binh, mà là
bộ binh, cho nên không thể lĩnh lấy cái trách nhiệm chỉ huy một trận địa pháo.
Viên chỉ huy nói khe khẽ, giọng hăm dọa:
- Này đồng chí, đồng chí hiểu mệnh lệnh rồi
chứ?
- Tôi hiểu. Nhưng tôi phải phân trần để đồng
chí rõ là...
- Lúc này bộ tư lệnh không cần đến những lời
phân trần của đồng chí. Đồng chí có ý định thi hành mệnh lệnh không thì bảo!
“Chà, quỷ quái thật, ở đây họ hắc quá!” - Ivan
Ilyists nghĩ thầm rồi bất giác đưa tay lên vành lưỡi trai: “Xin tuân lệnh” - đoạn
quay ngoắt lại và bỏ đi trên đường tàu...
Tác phong lề lối ở thành phố này chẳng giống
với một nơi nào hết. Ở các thành phố khác, trong các nhà ga chẳng hạn, khi muốn
ra tàu thế nào cũng phải bước qua cả một đám trưởng giả cải trang, lính đào
ngũ, mu-gích, đàn ông có, đàn bà có, nằm la liệt ngổn ngang giữa thềm ga bên cạnh
những cái bị đựng đồ có cái đuôi gà thòi ra bên mép hay cái mõm lợn con đang thở
phì phò. Ở đây thì nhà ga vắng ngắt, sàn lại được quét tước cẩn thận, tuy bụi bị
gió lùa qua các cửa sổ vỡ mất kính bám dày đặc trên mấy tấm áp-phích dán trên
tường và trên cái quầy giải khát đã bị người bán hàng bỏ trống từ lâu. Ngay đến
cách nói năng ở đây cũng khác hẳn: họ nói rất ngắn, giọng xẵng như một lời cảnh
cáo, tưởng chừng người nói lúc nào cũng sẵn sàng bóp cò súng.
Ivan Ilyits chẳng phải hoài công chạy vạy,
quát tháo gì cả: chỉ một lát sau đã có ngay một cái đầu máy và một tờ lệnh bốc
hàng. Chàng gọi điện về bộ tham mưu xin cho Xapôjkôv cùng đi. Họ trả lời: “Được,
đồng chí chịu lấy trách nhiệm”. Phân đội đã bắt đầu đẩy hai khẩu pháo lên hai
toa đĩa, dưới ánh sáng của mấy cây đèn lồng lắc lư, Ivan Ilyits đứng nhìn gương
mặt các thủy thủ. Đây là Gaghin, một anh quê ở Novgôrôđ. gương mặt rắn rỏi có
những nếp nhăn sâu hoắm, một món tóc đen nhánh buột ra ngoài chiếc mũ lính thủy
thêu dòng chữ “Bexpostsađny” đội sụp xuống tận lông mày; đây là Baikôv, quê ở
miền duyên hải Baltic, với bộ râu cằm bám đầy hụi, xòe rộng ra hai bên như đính
vào khuôn mặt bé choắt; cái đầu tròn thu lu trông chắc như quả hồ đào - một anh
chàng lém lỉnh, rất thích đánh chén. Cả chín anh em đều bắt bánh cố đẩy khẩu đại
bác lên cái cầu ván dốc, còn Baikôv thì ngồi xổm xuống nghiêng nghiêng ngó ngó
bên này bên nọ: “Lên được đấy, chuyển rồi đấy các cậu ạ, nào dấn lên, mạnh tí nữa...”...
Đến nỗi một người đang đẩy pháo phải lấy đầu gối hích cho anh ta một cái: “Thì
cậu cũng hè vào một tay đi chứ! Rõ đồ cá heo chết tiệt!”.
Và đây là Latughin, quê ở vùng rừng núi
Kerjen tỉnh Nijni, với khuôn mặt to bề ngang, vẻ mặt xấc xược, cái mũi diều hâu
bị dập ở phía dưới - chắc là vết tích của một trận ẩu đả, - vóc người tầm thước,
khỏe như vâm, rất khôn ngoan, và rất đáng gờm trong những cuộc tranh cãi, lại
thêm cái tính mê gái “dữ dội” nữa... và đây là Zađuyviter...
- Ivan Ilyits ạ, - Saryghin đến cạnh chàng
nói, - đồng chí có biết Voropônôvô nó ở chỗ nào không?
- Ở đây tôi chẳng biết đâu vào với đâu cả.
- Ở ngay đây thôi, đồng chí ạ, sát sườn
Txaritxyn: mặt trận ở ngay đấy... Nghe nói bọn bạch vệ cay cú lắm... Chúng đưa
rất nhiều pháo đến, lại có cả xe tăng, cả máy bay nữa... Theo sau quân đội lại
có khoảng mười vạn tên cô-dắc đi đánh hôi nữa: chúng đi xe giàn để hôi của.
Saryghin nói khe khẽ, giọng khích động, đôi
mắt màu lam tươi cười, lấp lánh, đôi môi thanh tú run run. Ivan Ilyits cau mày.
- Anh chưa bao giờ dự trận nào lớn à,
Saryghin? - Saryghin đỏ mặt, cái mũi bé tí cũng đỏ ửng lên và cứ thế đỏ mãi. -
Tôi khuyên anh một câu nhé: anh nên tránh nghe những câu chuyện linh tinh ấy...
toàn những tin đồn do hốt hoảng mà ra... Anh đã thu xếp xong vấn đề lương thực
cho đội chưa?
- Tuân lệnh! - Saryghin đưa vút bàn tay lên
vành mũ, - một cử chỉ mà thường ngày không bao giờ thấy anh làm. Gương mặt anh
sáng bừng lên. Một anh chàng rất khá hơi quá nhạy cảm, - nhưng không sao, rồi sẽ
quen đi. Ivan Ilyits đi về phía cái toa chở hàng móc vào sau hai toa đĩa chở đại
bác. Trên sân ga, chàng chợt trông thấy Xapôjkôv chạy ra, vẻ khích động, lưng
đeo túi đồ đạc, nách cắp một thanh kiếm...
- Ivan ơi, cậu thu xếp xong rồi chứ?
- Ổn cả rồi, Xerghêy Xerghêyêvvits ạ... Lên
tàu đi.
Xapôjkôv leo lên toa chở hàng. Trong góc
toa, Anixya đã ngồi thu lu trên mớ hành lý của thủy thủ.
Voropônôvô là một nhà ga trên tuyến đường sắt
miền tây. Trời chưa sáng chuyến tàu đã đỗ lại ở một nơi cách đây không xa. Phân
đội của Têlêghin cho đại bác xuống đưa đến bố trí trên trận địa của một tiểu đoàn
pháo binh đóng ở đấy. Đến nơi, Têlêghin và phân đội của chàng được biết rằng
tình hình mặt trận rất nghiêm trọng. Trước mặt Voropônôvô người ta đang đào một
dãy công sự dài chạy vòng thành một nửa hình móng ngựa cách Txaritxyn chỉ độ
mươi dặm là cùng, bắt đầu từ vùng ngoại thành phía bắc Txaritxyn, gần ga
Gumrak, và kết thúc ở cạnh làng Xarepta ở phía nam thành phố. Dãy công sự này
là phòng tuyến cuối cùng. Sau lưng nó có một dãy đồi thâm thấp và sau nữa là một
cánh đồng dốc thoai thoải kéo dài đến tận thành phố. Ở đây chỉ có một đường rút
lui: lao xuống dòng nước giá lạnh của sông Volga.
Trận gió đêm qua đã xua hết các đám mây
đen, dồn nó lại ở cuối chân trời thảo nguyên chìm trong bóng tối dày dặc. Mặt
trời đã mọc, tỏa xuống một ánh sáng nguội lạnh. Trên cánh đồng bằng phẳng màu
hung lố nhố những tốp người đông đúc người thì xới đất, kẻ thì đóng cọc, người
thì căng dây thép gai, kẻ thì đặt bao cát. Từ phía Txaritxyn chốc chốc lại có
những đoàn tàu toàn toa đen chở người đến: họ lập tức xuống ga, đi tản ra, khuất
dưới các nếp đất. Có những tốp lại từ những chỗ ấy ngoi lên, thất thểu đi về
phía ga. Hình như người ta đã huy động ra đây - Không kể có tự nguyện hay không
- tất cả những người dân phố có đủ sức cầm cuốc xẻng...
Một trong những tốp dân công này, gồm khoảng
mươi lăm người cả nam lẫn nữ thuộc đủ các tầng lớp, đi về phía trận địa pháo của
Têlêghin. Người đi đầu là một kỹ sư công binh già, vóc người bé nhỏ.
- Thưa đồng bào! - ông ta cất cái giọng
khàn khàn nói thật lo, bộ ria bạc nhô ra ngoài tấm khăn choàng bằng lông lạc đà
dày cộp quấn quanh cổ. - Nhiệm vụ của đồng bào rất đơn giản: cần đắp quanh bờ
hào cao lên ba gang tay nữa, cứ lấy đất ở chỗ này đắp vào đây, cao ngang chỗ có
đánh dấu trên cọc là được... Đứng giãn ra, người này cách người kia một bước,
nào ta hè nhau cùng bắt tay vào làm!
Ông cụ vỗ vỗ hai bàn tay bé nhỏ tím bầm lại
vì rét và hăng hái bước lên khỏi chỗ đất trũng ông đang đứng. Tốp dân phố đưa mắt
nhìn theo ông, vẻ mặt phẫn uất đến cùng cực. Một người đàn bà nghiêng nghiêng
cái mặt tròn nói với theo ông:
- Ông không biết xấu hổ sao ông Grigôri
Grigôriêvits? Ông không thấy nhục à?
Những người còn lại vẫn đứng yên, tay cầm mấy
cái xẻng với cái dáng ngại ngần và ghê sợ như thể đó chính là những công cụ bỉ ổi
của nền chuyên chính vô sản. Chỉ có một thanh niên môi dày, cổ lộ hầu, rất lấy
làm thú vị vì được ra xem chiến tuyến, toan bắt tay vào xúc đất, nhưng lập tức
có tiếng người rít lên the thé:
- Xấu hổ quá Pêtya ạ, thôi ngay đi!
Và cả tốp nhao nhao lên cướp lời nhau nói với
một người có bộ mặt vàng võ và cáu kỉnh nãy giờ đứng nhắm mắt, người khẽ lắc
lư; quanh thân áo phẩm phục của sở giáo dục, ông ta thắt một sợi dây gai rất
thô, rõ ràng là với dụng ý bêu giếu.
- Kìa, sao ông cứ làm thinh thế ông Xtêpan
Alekxêyêvits? Chúng tôi đã bầu ông ra thì ông phải nói đi chứ.
Ông ta khó nhọc mở mi mắt ra, vẻ như người
tuẫn đạo, má ông giật giật lên từng đợt:
- Thưa các vị, tôi sẽ nói, nhưng không nói
với ông Grigôri Grigôriêvits đâu. Tất cả chúng ta đều phải để tang ông Grigôri
Grigôriêvits của chúng ta...
Vừa lúc ấy mấy mô đất trên miệng hào bắn ra
tung tóe, trên bờ khe hiện ra một cái mõm ngựa đang nhai nhai hàm thiết, và
trên nữa là một người kỵ mã vai rộng, mặt đỏ, râu xồm, đội mũ lông Kuban, đang
cúi xuống nhìn tốp dân công. Đôi mắt nheo nheo lại, người cưỡi ngựa hỏi, giọng
giễu cợt.
- Sao đấy, đồng bào chưa thỏa thuận được với
nhau là có nên làm hay không à?
Lúc bấy giờ Xtêpan Alekxêyêvits, con người
thắt dây gai quanh lưng áo phẩm phục, đứng nhích lên một chút, nghiêng đầu lên
nhìn người cưỡi ngựa và trả lời bằng một giọng dịu dàng đầy sức thuyết phục,
như giảng bài cho trẻ con trong lớp học:
- Thưa đồng chí, nếu tôi không nhầm thì ở
đây đồng chí là người chỉ huy cao cấp nhất?...
- Hừm! - Người cưỡi ngựa vui vẻ gật đầu rồi
đưa bàn tay đi găng vỗ vỗ con ngựa đang chú ý đứng thật im trên bờ dốc.
- Thưa đồng chí, thay mặt cho cả tốp, đêm
qua vừa bị cưỡng bức huy động ra đây căn cứ vào những bản danh sách nào đấy mà
chẳng ai biết lấy ở đâu ra, tôi xin kịch liệt phản kháng việc này.
- Hừm, - người cưỡi ngựa râu xồm nhắc lại,
lần này giọng đã có ý hăm dọa.
- Phải, chúng tôi phản kháng đấy! - giọng
Xtêpan Alekxêyêvits vỡ ra the thé. - Các ông cưỡng bức những người không có khả
năng lao động chân tay ra đào hào cho các ông... Như thế thì chẳng khác gì những
thời tàn tệ nhất của chế độ chuyên quyền độc đoán! - Như thế là dùng bạo lực để
ức hiếp người ta!...
Bây giờ cả hai bên má ông ta đều giật giật
liên hồi, mắt ông ta nhắm lại, vì đã nói quá nhiều, cái mặt võ vàng ngẩng lên,
lắc lắc... Người cưỡi ngựa nheo nheo đôi mắt nhìn ông ta, hai cánh mũi rộng
rung rung, cái miệng rắn rỏi mím lại thành một đường thẳng băng như một nét cắt.
Người ấy xuống ngựa, nhảy xuống chỗ đất trũng, giơ hai tay vỗ đánh đốp một cái
vào hai ống quần ngựa cho sạch bụi, rồi nói:
- Hoàn toàn đúng! Chúng tôi cưỡng bức các
người tham gia phòng thủ Txaritxyn nếu các người không tự nguyện làm việc đó. Tại
sao các người lại lấy thế làm công phẫn?... Nào, ai đưa cho tôi cái xẻng một
tí.
Không nhìn vào đâu hết, ông ta giơ bàn tay
to đi găng da nâu ra, và người đàn bà béo tốt, mặt tròn ban nãy vội vàng đưa xẻng
cho ông, và từ đấy trở đi đôi mắt ngạc nhiên của bà ta cứ nhìn ông ta đăm đăm
không rời ra nữa.
- Sao lại phải cãi nhau làm gì, đây là một
sự hiểu lầm từ đầu chí cuối. - Ông ta ấn lưỡi xẻng xuống xúc đất rồi hắt thật mạnh
lên bờ hào. - Chúng tôi thì chiến đấu, các ông các bà thì giúp chúng tôi một
tay, kẻ thù là kẻ thù chung của chúng ta... Bọn cô-dắc chẳng tha ai đâu: tôi
thì chúng nó lột da ra, còn các ông các bà thì chúng nó sẽ dùng que thông nòng
đánh tất, không trừ một ai, có người chúng còn chém đứt đầu ra nữa...
Như một cái lò sưởi tỏa ra hơi ấm, từ người
ông ta toát ra một sức khỏe tràn trề và một khí thế dũng mãnh phi thường. Xúc
được mấy xẻng đất, ông đưa mắt rất nhanh nhìn qua tốp dân công một lượt: “Nào -
ông vỗ vai người thanh niên lộ hầu rồi vỗ vai một thanh niên khác, dáng dấp
xinh xắn, vẻ hơi ngốc nghếch, có đôi hàng mi màu rơm - nào, làm thử cho bà con
thấy rõ cách thức tí!”. Hai người thanh niên mỉm cười ngượng nghịu, bắt đầu xúc
đất đổ lên bờ hào; mấy người nữa nhún vai cầm xẻng làm theo họ. Người đàn bà mặt
tròn nói: “Nào, tôi cũng xin phép giúp một tay” rồi vấp chân phải cái xẻng suýt
ngã. Người chỉ huy râu xồm lập tức đỡ lấy bà ta, và chắc bàn tay ông ta siết
khá mạnh: bà mặt tròn đỏ mặt và vui hẳn lên. Xtêpan Alekxêyêvits có nguy cơ lâm
vào thế cô lập.
- Xin phép ông, xin phép ông, - ông ta nói,
giọng the thé. - cách mạng mà lại phải dùng bạo lực ư, thưa các đồng chí? Cách
mạng trước tiên phải bãi bỏ mọi thứ bạo lực.
- Cách mạng dùng bạo lực đối với những kẻ
thù của nhân dân lao động, - người chỉ huy râu xồm nói giọng sang sảng - và bản
thân cách mạng được tiến hành chính là thông qua bạo lực đó... Hiểu chưa?
- Xin phép ông, xin phép ông. Như thế là phản
luân lý...
- Sở dĩ giai cấp vô sản dùng bạo lực để cưỡng
bức những người như ông, chẳng qua là để giải phóng toàn thế giới ra khỏi ách bạo
lực...
- Xin phép ông, xin phép ông...
- Không. - người chỉ huy nói, giọng rắn rỏi,
- tôi không cho phép, ông bắt đầu phá bĩnh rồi đấy, đó là một hành động phá hoại,
ông cầm xẻng lên... Thưa các bạn, thế là tôi có thể trông mong ở các bạn: đến
mười một giờ, bờ lũy sẽ đắp xong. Thôi các bạn làm việc vui vẻ nhé, chào các bạn...
Đội thủy thủ đứng đàng xa nghe cuộc đối thoại
này, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Khi người chỉ huy pháo binh của quân đoàn thứ mười
đã lên ngựa đi nơi khác, họ liền đến giúp tốp người “trí thức”, cốt giữ cho nhiệt
tình của họ đừng nguội lạnh đi.
4
Trung đoàn của Piôtr Nikôlaiêvits Melsin
cùng với cả sư đoàn rút đi dọc tả ngạn sông Đôn, đêm ngày phải đương đầu với những
đơn vị tiền phong của mũi tấn công thứ hai của quân đoàn sông Đôn, vốn được
trang bị đầy đủ và được tổ chức có quy củ như quân đội chính quy. Binh sĩ trong
trung đoàn của Melsin đều phờ phạc vì những trận đánh liên tiếp và những cuộc
hành quân đêm. Họ không được ăn nóng, không được ngủ, không được nghỉ ngơi.
Lính cô-đắc của Kraxnôv thuộc làu từng cái khe, từng vũng nước trên những cánh
thảo nguyên này, và luôn luôn lùa đối thủ vào những nơi dễ tấn công nhất. Cứ tờ
mờ sáng, các đơn vị xạ kích của họ bắt đầu nổ súng để đánh lạc hướng quân đỏ,
trong khi những đội bách cơ kỵ binh lần theo các lũng đất đến sát bên sườn địch
rồi đột ngột lao vào công kích dữ dội trong tiếng reo hò và huýt sáo ầm ĩ.
Melsin thường nói với các chiến sĩ: “Cái
chính là phải tự chủ, các đồng chí ạ. Đồng tâm nhất trí là sức mạnh của ta. Ta
không sợ những đòn cắn trộm ấy. Ta biết rõ mình chiến đấu vì cái gì, cái chết đối
với ta rất nhẹ nhõm. Còn lính cô-dắc thì gan dạ, nhưng lại tham lam: họ cần chiến
lợi phẩm, họ không muốn thiệt mạng, và họ xót nhất là con ngựa của họ”.
Đại đội của Ivan Gora đi ở hậu quân, án ngữ
cho đoàn xe tải chở thêm cả thương binh: xe nào cũng có mấy người nằm. Bỏ họ lại
thì không biết để họ nằm ở đâu, vả lại cũng không thể nào để họ lọt vào tay bọn
lính cô-dắc được: chúng không bao giờ bắt sống tù binh. Tất cả những ai đeo sao
đỏ còn sống sót sau trận đánh, chúng đều lột hết áo quần ra và đứa thì cưỡi ngựa,
đứa thì chạy bộ, lao vào chém xả họ ra. Chém hả hê rồi, chúng thúc ngựa bỏ đi,
vừa ngoáy lại nhìn những xác chết cụt đầu, cụt chân tay hay bị xả ra làm hai mảnh,
vừa chùi lưỡi gươm lên bờm ngựa.
Chưa có một thời đại nào trên vùng sông Đôn
lại trào lên một làn sóng căm thù điên dại như trong các thôn cô-dắc trù phú bấy
giờ: Vêsenxkaia, Kurmôiarxkaia, Exanlôvxkaia, Potyômkinxkaia, Nijne-Tsirxkaia,
Uxt-Međvêđinxkaia, v.v... Những cán bộ tuyên truyền của bạch vệ ở Nôvôtserkaxk
thường về đấy, và bản thân thủ lĩnh Kraxnôv cũng về một số thôn để hô hào, cổ động.
Người ta kéo chuông nhà thờ tập hợp “Hội cứu nguy vùng sông Đôn” lại, và các
cán bộ tuyên truyền, theo phong tục cổ, bỏ mũ, cúi rạp mình xuống chào dân
chúng và kêu gọi dân cô-dắc mài gươm cho sắc, sẵn sàng lên yên: “Giờ hoàng đạo
đã điểm, hãy đứng lên, hỡi sông Đôn tự do bất khuất... Như một đám mây giông dữ
dội, quân cô-dắc chúng ta sẽ tràn về Txaritxyn, phá tan cái sào huyệt đáng nguyền
rủa của cộng sản, quét sạch bệnh dịch đỏ ra khỏi vùng sông Đôn... Chúng nó
không muốn để cho vùng này sống sung túc và tươi vui! Chúng nó muốn cướp không
những đàn ngựa, cướp đàn bà của chúng ta, đem đất đai của chúng ta phát cho bọn
mu gích ở Tula và Orel kéo đến, chúng nó muốn bắt vợ chúng ta phải lăn lóc trên
giường của chúng, còn chúng ta, những chàng trai cô-dắc, những trang dũng sĩ
kiên cường, tinh hoa của đất sông Đôn, thì chúng muốn đày vĩnh viễn trong các hầm
mỏ... Ta quyết không để cho chúng cướp phá các thánh đường, ta quyết đứng lên bảo
vệ bàn thờ tổ quốc. Ta quyết không tiếc rẻ tính mạng. Thủ lĩnh Đại quân sông
Đôn sẽ giành lại cho ta thành Txaritxyn trong ba ngày ba đêm”.
* * *
Đại đội trưởng Ivan Gora, người cao lêu
đêu, vai hơi gù, mặt xạm đi vì mất ngủ, trong những ngày gần đây đã quen nhìn
những cái bóng cô-dắc cưỡi ngựa thấp thoáng ở cuối chân trời thảo nguyên, nhận
rõ được những ý định của chúng. Anh không cho binh sĩ chuẩn bị chiến đấu một
cách vô ích, cứ ra lệnh cho họ đi thẳng, không nhìn lại.
Ở phía trước, đoàn xe kéo đi san sát, trục
xe này chạm vào trục xe kia. Ở phía sau, đoàn quân lê bước nặng trịch - các chiến
sĩ đều rách rưới, hốc hác, mắt nhìn xuống đất. Đi sau cùng là Ivan Gora, lảo đảo
như người say rượu. Mới cách đây có nửa năm anh là một người lực lưỡng, cường
tráng, nhưng vết thương ở đầu đã làm cho anh suy sút nhiều: mùa hè năm ngoái,
trong khi đi thu thuế thóc, anh đã bị bổ một nhát rìu sượt qua đầu trong một
căn nhà kho. Chỗ bị dập xương trong trận Likhaia cũng làm cho anh nhức nhối khó
chịu. Anh bước đi, có những lúc rất tỉnh táo, nhưng cũng có những lúc vừa đi vừa
ngủ gật, trước đôi mắt đã mờ đi trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh chập chờn một
kỷ niệm êm ái nào đấy từ quãng đời dĩ vãng hiện về: mấy người ra ngồi trên súc
gỗ ngắm bóng hoàng hôn mùa hè đang xuống dần, trên đầu một con dơi bay chập choạng...
Hay là một thảm cỏ xanh rờn, trên cỏ là một chiếc gối bọc vải hoa, trên gối là
gương mặt tươi cười của Agrippina... Anh xua đuổi những giấc mơ này đi, dừng lại
sửa cây súng khoác trên vai, cố giương đôi mi nặng trĩu lên đưa mắt xung quanh
nhìn binh sĩ đang bước đi, nhìn mấy chiếc xe tải chở những thương binh đang lắc
lư theo nhịp xóc, nhìn cánh thảo nguyên bằng phẳng, cháy xém trơ trụi một màu
nâu chết, hiu quạnh, buồn bã, không có lấy một bóng cây, một cột dây thép, đang
nghiêng nghiêng ngả ngả ở xung quanh, trôi vào tận tâm hồn anh... Anh vấp một cái,
lắc đầu thật mạnh để xua giấc ngủ... Chà, giá được đi sau một cô xe giàn, vịn
tay vào thành xe, vừa đưa chân vừa ngủ lấy một phút thì sướng quá!
Lại bắt đầu rồi! Ở cuối thảo nguyên hiện ra
mấy bóng người cưỡi ngựa nhỏ li ti, và từ đấy có tiếng súng trường vẳng lại, rồi
mấy viên đạn bay trên đầu, tiếng chiu chíu nghe thật hiền lành vô tội...
- Tỉnh dậy các đồng chí ơi, chú ý đấy! Ê!
Trên xe, chớ ngủ đấy nhé!...
Trong đoàn xe tải có cả Agrippna, mới bị
thương ở tay. Cũng trong đoàn xe ấy, Đasa và Kuzma Kuzmits đi bộ sau một chiếc
xe giàn.
Trong đêm tối vang lên những tiếng hô kéo
dài. Đoàn xe dừng lại. Đasa lập tức tựa vào thành xe, gục đầu vào hai cánh tay.
Trong giấc mơ màng nàng nghe thấy tiếng Ivan Gora lại gần nói chuyện khe khẽ với
Agrippina đang nằm trong xe:
- Giá có tí thuốc mà hút thì hay quá, chân
đứng không vững rồi.
- Tại sao phải đứng lại thế?
- Nghỉ đến năm giờ.
- Ai bảo anh đấy?
- Có cậu liên lạc vừa phi ngựa qua.
- Anh ngả đầu xuống đây, Vanyusa ạ, ngủ đi
một chút.
- Ngủ ngáy gì. Nó để cho mà ngủ đấy! Anh em
họ đứng đâu cứ thế gục luôn xuống đấy. Còn em, sao không ngủ đi, Gapa? Tay đau
lắm à?
- Đau.
Chiếc xe giàn khẽ két lên một tiếng - Ivan
Gora vừa kéo Agrippina vào lòng. Anh thở dài một tiếng nặng trĩu, như một con
ngựa mệt lả.
- Anh liên lạc nói: ôi chao, chúng nó vượt
qua sông Đôn đông như kiến ở Kalats và ở Nijne Tsirkaia. Đi theo các trung đoàn
có cả những ông linh mục cầm cờ thêu, lại có những chiếc xe chở hàng thùng
vôtka. Mỗi khi xuất kích, bọn cô-dắc đều say khướt, thật là một lũ đồ tể!
- Anh ăn tí bánh mì, Vanyusa ạ.
Ivan bắt đầu nhai chầm chậm. Vừa nuốt bánh
một cách khó nhọc, anh vừa nói nhồm nhoàm:
- Chúng mình đã đến sát sông Đôn. Cách đây
không xa phải có một cái bến. Bọn cô-dắc đưa phà sang bờ bên kia rồi. Có lẽ
chính vì thế mà phải dừng lại.
Chiếc xe giàn lại lắc mạnh một cái: Ivan
Gora đã rời xe bỏ đi, bước chân nặng trịch. Mọi vật đều im ắng đi: cả người lẫn
ngựa. Đasa dúi mũi vào ống tay áo thở phều phào... Nàng sẵn sàng hy sinh tất cả,
tất cả để được hưởng một phút âu yếm khắc khổ như vậy của người yêu. Ôi, thật
là một trái tim hay ghen tị! Trước đây nàng mải nghĩ những gì thế nhỉ? Nàng chờ
mong những gì? Người nàng yêu dấu đã đứng bên cạnh nàng, thế mà nàng đã bỏ lỡ,
nàng đã vĩnh viễn mất hút chàng... Bây giờ thì tha hồ mà gọi, mà gào: Ivan
Ilyits, Vanya, Vanyusa...
... Kuzma Kuzmits đánh thức Đasa dậy. Nàng
đang nằm giữa đất, một nửa người chui dưới gầm xe. Quanh đây có tiếng súng đì
đùng. Ánh bình minh màu ngọc thạch đang rạng dần. Đasa rét quá, răng cứ đánh
vào nhau cầm cập. Nàng hà hơi vào tay cho đỡ cóng.
- Đarya Đmitrievna ạ, cô cầm lấy túi cứu
thương, ta đi nhanh lên: có mấy người bị thương đấy...
Những phát súng nổ ở phía xuôi vang vọng
trong cảnh tĩnh mịch của buổi bình minh. Đasa khó nhọc nhổm dậy. Người nàng mụ
hẳn đi vì giấc ngủ ngắn ngủi trên mặt đất giá lạnh. Kuzma Kuzmits sửa lại cái
túi cứu thương khoác qua vai nàng, chạy lên phía trước, rồi quay trở lại:
- Nào, cô bạn quý, ta đi nhanh lên. Quân ta
ở đằng kia, gần thôn. Cô có nghe thấy có ai rên ở đâu không? Không à?
Ông ta chạy lăng xăng, chốc chốc lại dừng lại,
nghển dài cái cổ ra nhìn nhìn. Đasa không chú ý đến cái vẻ lăng xăng ấy, nàng
chỉ thấy khó chịu sao ông ta dát thế...
- Cô cúi xuống chứ! Cô không nghe đạn bay
vèo vèo kia à?
Những chuyện ấy đều do ông ta tưởng tượng
ra hết - chẳng có thương binh nào rên la, chẳng có viên đạn nào bay vèo vèo cả.
Ánh bình minh đã sáng rực. Phía trước có một chất loãng và nhẹ màu trắng tràn
ra lênh láng, như thể sông Đôn đã dâng lên ngập cả bờ. Đó là làn sương mù mùa
thu dày đặc từ mặt sông dâng lên bay là là trên những cây liễu trụi lá mọc bên
bờ. Một nửa người Ivan Gora chìm trong sương mù, trông như đứng giữa một biển sữa.
Cách đấy một quãng có một chiến sĩ đội mũ chụp lông cao, rồi hai người nữa, đều
chỉ trông thấy nửa người phía trên thắt lưng. Họ đang nhìn sang hữu ngạn sông
Đôn - bên ấy bờ sông rất cao, sương mù không dâng tới nơi. Sau mấy bụi cây đen
ngòm, vô số những làn khói mảnh bay lên thẳng tắp trong bầu không khí yên tĩnh.
Kuzma Kuzmits cũng trông thấy những làn
khói ấy. Ông ta như thể nghẹn ngào vì vui sướng, mắt trợn tròn xoe:
- Xem kìa, xem kìa, Đarya Đmitrievna, xem
những gì đang diễn ra ở bên kia! Bọn cô-dắc đi theo quân đội để hôi của đấy -
mười vạn chiếc xe giàn. Y hệt như những bộ lạc du mục đời xưa kéo sang ta cướp
phá!... Cô thấy không, bao nhiêu là ngựa, bao nhiêu là xe giàn... Cô thấy
không, bên những đống lửa nằm la liệt những con người râu ria xồm xoàm, dao găm
giắt vào thân ủng... Kìa cô nhìn đi chứ, Đarya Đmitrievna, một dịp may ngàn năm
có một đấy.
Đasa không trông thấy xe, không trông thấy
ngựa, cũng chẳng trông thấy đám người cô-dắc nằm bên mấy đống lửa... Tuy vậy
nàng vẫn thấy rờn rợn... Ivan Gora ngoảnh lại vẫy tay ra hiệu cho hai người ngồi
thụp xuống trong sương mù. Kuzma Kuzmits, như thể đang mải mê đọc một trang
sách kỳ diệu, nói lẩm bẩm không ngớt miệng:
- Giá có cách gì cho giới trí thức ta trông
thấy cảnh này nhỉ? Đây quả là một giấc mơ chưa từng có sách nào kể lại... Thế mới
tuyệt: họ muốn có một hiến pháp! Họ muốn cai quản dân Nga... Ái chà chà... Họ đặt
đủ thứ chuyện ngụ ngôn láo lếu về dân Nga: nào là dân Nga nhẫn nhục, nào là dân
Nga lười biếng, nào là dân Nga mang thượng đế trong mình... Ái chà chà... Nhưng
người dân Nga nó thế kia cơ!... Anh ta đứng trong sương mù ngập ngang thắt
lưng, dữ dội và thông minh, anh ta hiểu hết được vận mệnh của mình, đôi mắt anh
ta nhìn đăm đăm vào lũ giặc du mục... ở đây là một con người khổng lồ dũng mãnh
đang thắt lại đai nịt, kéo găng sắt lên sẵn sàng chiến đấu - chưa có một pho sử
nào biết đến một sức mạnh như vậy...
Tiếng súng trường và súng máy ở xa xa đột
nhiên im bặt. Câu nói của Kuzma Kuzmits bị cắt cụt ở giữa chừng. Ivan Gora đứng
ở phía trước ngoái đầu lại. Dưới mé sông có hai tiếng nổ ầm ầm, và lập tức có một
cái ráng màu huyết dụ đùng đục bắt đầu tỏa dần trong làn sương mù. Xa xa có tiếng
quát tháo văng vẳng, và tiếng súng lại nổ dồn dập.
- Thôi đúng là quân ta đã đốt cái phà ở bên
kia sông rồi, - Kuzma Kuzmits nhô cái đầu lên khỏi màn sương mù, - chao ôi, bây
giờ ở bên ấy chém giết nhau phải biết, tha hồ mà tàn sát!
Ivan Gora và đội xa kích của anh chạy lom
khom ra bờ sông và mất hút trong các bụi rậm. Bây giờ ánh bình minh đã tỏa rộng
trên khắp cánh thảo nguyên. Làn sương mù loãng dần, dao động và rách ra ở giữa
mấy cành liễu trụi lá. Dưới bờ sông dốc, trong lớp sương mù phủ trên mặt nước bỗng
vang lên những tiếng gào khủng khiếp đến nỗi Đasa cuống quít giơ tay lên bịt chặt
lấy hai tai, còn Kuzma Kuzmits thì nằm úp mặt xuống đất.
Kế đến là một chuỗi dồn dập những tiếng đấm
đá huỳnh huỵch, những tiếng vũ khí chạm vào nhau chan chát, tiếng súng nổ, tiếng
gào thét, tiếng nước vỗ, tiếng lựu đạn nổ ầm ầm.
Rồi Ivan Gora từ trong đám bụi rậm bước ra.
Anh vừa đi vừa hớp không khí, thở hổn hển. Trên đầu anh ta không thấy đội mũ lưỡi
trai chóp nhọn của hồng quân nữa, nhưng tay anh lại cầm hai cái mũ lưỡi trai
vành đỏ của cô-dắc. Khi đến gần Đasa, anh nói:
- Tôi sẽ cho đem cáng ra, còn cô thì chạy
ra bờ sông đi, có hai đồng chí cần phải băng bó.
Anh ngắm hai cái mũ, vứt đi một cái, còn
cái kia thì đội chụp lên đầu.
- Chúng nó định đi thuyền đánh vòng ra sau
lưng ta, cái quân khốn kiếp ấy. Cô cứ đi đi, đừng sợ; chúng tôi diệt sạch cả lũ
rồi.
5
Giữa hai làng Kalats và Nijnê-Tsirxkaia,
sông Đôn rộn rịp hẳn lên: các trung đoàn kỵ binh và bộ binh của Đại quân sông
Đôn đang vượt qua sông bằng ba dãy cầu phao, bằng phà và bằng thuyền. Những đội
bách cơ kỵ binh kéo đi theo đội hình hành quân, quân phục mới tinh, mũ bình
thiên đội lệch, chỏm tóc dài hằng được ca ngợi trong các bài hát buông thõng
trước trán theo đúng phong tục cổ truyền. Những ngọn cờ đuôi nheo ngũ sắc bay
phất phới trên các ngọn dáo; nước sông xâm xấp giữa tấm ván cầu bắn lên tung
tóe dưới vó những con ngựa non đang sợ sệt liếc nhìn dòng sông Đôn xám ngắt.
Những chiếc thuyền dài chở đầy bộ binh toàn
những thanh niên trẻ măng râu chưa bén cằm - chèo qua sông. Mồm há hốc, những
người lính trẻ nhìn những đoàn người, ngựa xe tập trung đông nghịt: họ chưa bao
giờ trông thấy một cảnh tượng như thế này. Thuyền chưa kịp cặp bến họ đã nhảy
xuống nước, leo lên bờ sông dốc đứng, xếp thành đội ngũ, súng trường chống bên
chân, và bỏ mũ xuống. Những ông thầy lễ tóc rũ ngang vai rống lên như dã thú,
tay lắc lắc những bình trầm kêu leng keng: những ông linh mục mặc áo chùng thêu
hoa hồng kim tuyến, trông như những cái chuông lớn bằng vàng, đang ban phước
lành cho quân đội.
Trên một ngọn gò, phía trước một tốp sĩ
quan cấp tá và một đội vệ binh, tướng Mamôntôv, tư lệnh quân đoàn, đang đứng dưới
ngọn quân kỳ riêng quan sát cuộc vượt sông. Cả quân đoàn đều có thể trông thấy
ông rất rõ: mình mặc chiếc áo besmet
dã chiến màu nâu của lính cô-dắc, cưỡi con ngựa bạch lông óng ánh đang cuốc vó
xuống đất, trông ông ta như một pho tượng đúc bằng đồng. Các binh đoàn diễu qua
trong tiếng hát đệm nhịp bằng trống đồng. Những chùm mã vĩ trên các cờ hiệu bay
lòa xòa trước gió. Về phía đông cánh thảo nguyên màu hung chìm trong những đám
bụi bốc lên từ các binh đoàn đang bước tới, có tiếng đại bác nổ rền như sấm
chuyển.
Quan tư lệnh đưa bàn tay có móc chiếc roi
ngựa lủng lẳng lên ngang mày để che nắng, nhìn mấy chiếc phi cơ với đôi cánh
hơi chếch về phía sau đang từ từ bay qua, đếm thử xem có bao nhiêu chiếc và
nhìn theo mãi cho đến khi chúng như thấp dần xuống rồi khuất hẳn sau chân trời.
Những cỗ súng cối hạng nặng mới đưa từ tàu thủy lên, lá chắn và nòng sơn loang
lổ, lăn bánh diễu qua ngọn gò; thắng vào xe pháo là những con ngựa thấp lùn, bờm
dài, lông xù, mỗi con một màu lông, đang cất vó phi một nước đại nặng nề; những
người đánh xe kéo pháo, râu ria xồm xoàm, luôn tay quất roi vào ngựa cho chúng
phi hăng hơn nữa. Đám bụi do vó ngựa tung lên chưa kịp lắng xuống thì những chiếc
xe tăng khổng lồ bọc những tấm thép dày tán ri-vê đã kéo qua, bánh xe chuyển
xích phía trước nghển cao lên. Quan tư lệnh đếm được mười con quái vật bằng
thép sẵn sàng nghiến nát bọn đỏ trên các đường phố Txaritxyn. Ông cho ngựa chạy
nước kiệu xuống gò và phi dọc theo bờ sông, theo sau là tên lính cầm cờ phi
cách ông một thân ngựa, lá cờ màu xanh xám thẫm bay phất phới trên đầu ông.
Luôn luôn có thêm những đơn vị mới đến kéo
xuống thuyền. Mấy chiếc phà chở xe lương thảo và đồ quân dụng liên tiếp qua
sông. Bên cạnh các bến phà có những chiếc xe giàn, xe britska, những chiếc xe tải
lớn thường dùng để chở lúa mới gặt từ ngoài đồng về. Quanh đấy, mấy người cô-dắc
có tuổi bệ vệ đang điềm tĩnh chờ đến lượt mình qua sông, người thì đi đi lại lại,
cũng có người ngồi bên đống lửa giở thức ăn nguội ra ăn. Đó là những người cô-dắc
lái buôn do các thôn cô-dắc phái tới các đơn vị của họ: các đội bách cơ và các
binh đoàn. Họ lo việc quản trị, thu chiến lợi phẩm - dù là tiền bạc, gia súc,
lúa mì, lương thảo hay đồ gia dụng: áo quần, chăn màn, gối đệm, gương soi, vũ
khí; họ đem các thứ này đổi lấy lương thảo và thức ăn cung cấp cho các đơn vị của
họ, khi cần, họ cũng cung cấp cả áo quần và vũ khí nữa; còn tất cả các thứ còn
lại thì họ xếp lên xe giao cho thiếu niên hay phụ nữ đưa về làng.
Mamôntôv cưỡi ngựa đi qua xóm Tytskôv,
trong đó một nửa số nhà đã bị đốt và các vựa thóc đều bị tro tàn bám vào đen
sì, rồi đi men theo con đường sắt đợi đoàn tàu bọc thép từ hữu ngạn sông Đôn đến.
Quân đoàn sông Đôn gồm có mười hai sư đoàn
kỵ binh và tám sư đoàn bộ binh, tiến thành năm đạo.
Cả năm đạo này hành quân cấp tốc đến phòng
tuyến cuối cùng của thành Txaritxyn. Quân đoàn thứ Mười của hồng quân, bấy giờ
đã mất liên lạc với các đơn vị miền bắc và miền nam, phải rút lui, dồn dần lại
trên một mặt trận càng ngày càng hẹp. Năm sư đoàn của nó đã hao hụt rất nhiều,
đang bắn nốt những viên đạn cuối cùng và dốc nốt những sức lực cuối cùng.
Hội đồng quân sự tối cao của nước Cộng hòa
trong những ngày ấy lẽ ra phải cương quyết tăng viện cho Quân đoàn thứ Mười thì
lại bị tê liệt vì một sự phản bội ngấm ngầm được ngụy trang rất khéo. Sự phản bội
ấy thể hiện ở chỗ mọi hoạt động đều được tiến hành một cách cực kỳ chậm chạp và
chiến sự ở Txaritxyn được coi là thứ yếu, không có tác dụng quyết định gì hết,
còn hội đồng quân sự Txaritxyn thì được coi là đã rơi vào tâm trạng hoảng loạn.
Họ để mặc cho Txaritxyn tự lực chống chọi với
quân cô-dắc.
Trong những ngày ấy hội đồng quân sự của
quân đoàn thứ Mười ban hành hai mệnh lệnh: thứ nhất là đuổi ra khỏi Txarixyn và
đưa về phía bãi tất cả các tàu thủy, xà lan, thuyền và phà, để loại trừ dứt
khoát cái tư tưởng nghĩ đến việc cho quân rút lui sang tả ngạn sông Volga, và
thứ hai - một mệnh lệnh ban hành trong quân đội - là không được rút khỏi các vị
trí đã chiếm lĩnh trước khi có lệnh, ai rút lui sẽ bị xử bắn.
* * *
Trên trận địa pháo của Têlêghin, nửa ngày đầu
trôi qua một cách yên tĩnh. Đâu ở phía sau chân trời có tiếng đại bác vẳng lại,
nhưng cánh đồng bằng vẫn vắng tanh. Các thủy thủ đào một cái hầm trú ẩn.
Anixya, chẳng hỏi gì ai hết, bỏ ra ga và một tiếng sau vác hai cái bị đựng đầy
bánh mì và dưa hấu về, nặng đến nỗi tưởng chừng chị không sao lê về đến nơi được.
Chị lấy cả ra bày giữa hai khẩu pháo, cắt bánh mì ra từng khoanh, bổ mấy quả
dưa hấu ra làm bốn, mời anh em ăn. Còn chị thì đứng ra một bên, khiêm tốn, mãn
nguyện nhìn mấy người thủy thủ đói bụng xì xụp ngoạm dưa hấu, chẳng buồn quệt
nước dưa giàn giụa trên má nữa. Họ khen chị không tiếc lời:
- Hoan hô Anixya!
- Tìm được một người như chị thì mất gì
cũng đáng.
- Đi vòng quanh thế giới cũng chưa chắc đã
tìm được ấy...
Saryghin, con người nghiêm túc và bao giờ
cũng có ý kiến góp vào câu chuyện chung, nói:
- Chị ấy có tinh thần chủ động, có óc sáng
kiến: cái ấy mới quý. - Các thủy thủ đang ngoạm dưa hấu ngẩng mặt lên cười rộ.
Saryghin cau mày, đứng dậy cầm lấy cái xẻng. - Các đồng chí, tôi đề nghị đào
cho Anixya một căn hầm trú ẩn riêng. Những đồng chí như thế ta phải bảo vệ cẩn
thận mới được, các đồng chí ạ...
Các thủy thủ cười thỏa thuê rồi ra một cái
khe nhỏ ở phía sau trận địa đào một cái hầm xinh xinh cho Anixya ngồi trú khi
nào địch pháo kích vào trận địa. Lúc bấy giờ họ chẳng còn việc gì mà làm nữa.
Những thùng đạn đại bác dỡ trên tàu xuống đã được xếp thành từng hàng bên cạnh
hai khẩu pháo. Những khẩu súng trường đều đã được lau chùi sạch sẽ. Xapôjkôv đã
ổn định được dây liên lạc bằng điện thoại với chỉ huy sở của tiểu đoàn pháo.
Các thủy thủ nằm quanh chiến hào phơi nắng. Bây giờ thì ngài có thể quá bộ đến
thăm được rồi, tướng quân Mamôntôv ạ.
Ivan Ilyits ngồi trên giá súng, cầm một ngọn
cỏ gà khô vừa bẻ dần ra từng khúc vừa xoay xoay trên mấy đầu ngón tay. Chàng
không lao vào những suy tưởng cao xa. Chàng chỉ thấy quí mến cái thế giới tí
hon của chàng, gồm những người chẳng giống gì nhau từ khắp nẻo tụ tập lại đây để
cùng gắn bó số phận vào với nhau một cách khắng khít như vậy. Kia là Xerghêy
Xerghêyêvits, một con người tưởng chừng như chẳng có lấy một mối dây liên hệ
nào ràng buộc với bất cứ cái gì trên đời này, lúc nào đầu óc cũng rối tung lên
vì đủ các thứ ý nghĩ hỗn độn, ấy thế như đã lập tức trở thành cần thiết cho mọi
người, đã lập tức cảm thấy quen thuộc, thoải mái như ở nhà, đang nằm ngủ yên lành
bên bánh xe đại bác, hơi thở đều đều. Kia là Saryghin, một thanh niên nhiều
tham vọng, không lấy gì làm thông minh, nhưng kiên trì, tâm hồn sáng sủa không
có những chỗ tranh sáng tranh tối, đang nằm nghiêng gối đầu lên nắm tay mà ngủ.
Zađuyviter nằm dang rộng chân tay trên cát một cách đế vương, khuôn mặt đẹp
trai với những nét thô và sắc như đẽo bằng rìu, phơi trần ra giữa nắng: một anh
nông dân khôn ngoan, quả cảm, chín chắn: anh này mà sống sót thì sẽ trở về quê
với cái tư thế đường hoàng của một ông chủ. Ông hộ pháp của vùng rừng Kerjen -
Latughin - đang ngáy như sấm, chiếc mũ lính thủy úp lên mặt: anh này thì phức tạp
hơn nhiều, chẳng có mưu mẹo gì hết, vì anh chẳng cần gì đến mưu mẹo: anh ta
chưa biết mình sẽ đi đến tận đâu với khẩu mauser
và thủ quả lựu đạn trong tay...
Mười hai con người đã phó thác tính mệnh
mình cho Ivan Ilyits. Hội đồng quân sự đã giao phó cho chàng một trận địa pháo
trong giờ phút nghiêm trọng này. Quả tình chàng cũng có biết ít nhiều về toán học,
nhưng dù sao đáng lẽ chàng cũng phải tuyên bố dứt khoát rằng chàng không thể chỉ
huy một đội pháo được...
- Này, Gaghin ạ, trong các cậu có ai biết
tính góc bắn không? Là vì chúng mình không có viễn kế...
Gaghin đang đứng trên bậc chiến hào, nhìn
ra thảo nguyên qua bờ lũy. Anh ta ngoảnh lại:
- Viễn kế ấy à? - anh hỏi lại, vẻ lầm lì,
và đưa đôi mắt đen nhìn Têlêghin - Viễn kế để làm gì mới được chứ? Góc bắn, trắc
cự sẽ do chỉ huy sở báo bằng điện thoại.
- Ờ nhỉ, đúng đấy...
- Góc bắn, trắc cự, viễn kính - những cái
đó chúng tôi đều biết dùng cả, nhưng vấn đề không phải ở đấy, đồng chí Têlêghin
ạ... Trận đánh sẽ ác liệt vô cùng, không viễn kính viễn kiếc gì hết... Bắn cho
đến quả đạn cuối cùng, dù có phải quấn ruột vào nắm tay mà bắn. Đấy, có nghĩ
thì nghĩ đến chuyện ấy... Đồng chí lại đây mà xem...
Têlêghin đến cạnh Gaghin, trên bờ hào. Tiếng
đại bác của địch đã mạnh lên, nghe như gần lại, chân trời ở phía tây và phía
nam phủ một làn khói bay là là. Nhìn theo ngón tay trỏ của Gaghin, chàng nhận
ra những tốp người và những dãy xe giàn từ phía bắc kéo về đang bò chầm chậm
trên cánh đồng bằng.
- Đó là quân ta chạy về, - Gaghin nói, đoạn
hất hàm về phía đám khói to tướng bốc lên như một cây nấm khổng lồ ở phía nam,
miệt Xarepta - Tôi nhìn kỹ từ ban nãy: mạn này có đến hàng bao nhiêu ngàn quân
chạy về... Anh có trông thấy những chỗ tạc đạn nổ không? Lúc nãy không có. Nó
đang nã pháo hạng nặng vào đấy... Chỉ sáng mai là tướng Mamôntôv sẽ đến đây.
Ivan Ilyits xem xét lại trận địa pháo một lần
nữa. Chàng đếm lại số đạn đại bác, đạn súng trường: cả thảy chỉ đủ lắp hai
sác-giơ cho mỗi khẩu súng trường. Điều làm cho chàng lo lắng nhất là trận địa
pháo chẳng có lấy một đơn vị nào yểm hộ. Phía trước, cách trận địa khoảng bốn
trăm thước, thấy có những dãy chiến hào mới đào, nhưng trong chiến hào chẳng thấy
động tĩnh gì cả: các đơn vị hồng quân đi qua cách đấy khá xa. Chàng đến ngồi xổm
cạnh Xapôjkôv: gương mặt anh nhăn nhó, như thể giấc ngủ đối với anh cũng vất vả
khó khăn.
- Xerghêy Xerghêyêvits ạ, xin lỗi nhé, phiền
cậu một tí. Cậu gọi hộ đồng chí chỉ huy pháo binh ra máy cho mình gặp một tí...
Xapôjkôv mở đôi mắt đục ngầu:
- Gọi làm gì? Đã có chỉ thị: không bắn. Khi
nào cần bắn họ khắc bảo... Cậu lo lắng bứt rứt làm gì? - Anh vươn vai, nhích
sát vào bánh xe đại bác, rồi ngáp dài, nhưng rõ ràng là ngáp vờ. - Cứ nằm kềnh
ra mà đánh một giấc là trứ danh hơn cả.
Ivan Ilyits trở ra bờ hào và đặt tay lên
lũy đứng im hồi lâu. Vầng kim ô khổng lồ màu da cam thẫm đang chìm dần xuống lớp
bụi bốc lên mù mịt ở chân trời dưới vó ngựa của những binh đoàn cô-dắc đông hằng
hà sa số. Bóng đêm đang buông dần xuống cánh đồng bằng: không còn nhìn ra được
những đoàn quân đang di động trên thảo nguyên nữa. Phía dưới ngôi sao hôm sáng
quắc, vùng trời phía tây bắt đầu cải trang thành một xứ sở thần kỳ bên một bờ
biển màu ngọc bích; ở đấy dần dần mọc lên những tòa tháp Á đông - một tòa tách
rời ra rồi trôi lơ lửng trên không, phút chốc biến thành con tuấn mã hai đầu, rồi
lại biến thành một nàng tiên nữ đang vặn hai tay vào nhau...
Tưởng chừng như chỉ cần bước lên bờ hào rồi
nhún chân như trong giấc chiêm bao thì sẽ bay bổng lên đến tận cái xứ sở thần kỳ
ấy. Nó hiện lên như thế có mục đích gì chăng, nó có ý nghĩa gì chăng đối với
mình trong giờ phút chờ đợi trận chiến đấu quyết tử này?
- Lai tỉnh, lai tỉnh! - Xerghêy
Xerghêyêvits đặt tay lên lưng chàng, gọi to, - trố mắt ra mà nhìn tranh vân cẩu
thật là duy tâm thuần túy đấy Vanka ạ... Quấn điếu thuốc nhé? Tớ đánh thó được
một gói ỏ nhà thương... để dành hút trước khi chết đây...
Vẫn như mọi khi, Xapôjkôv nói giọng giễu cợt,
tuy trong những nếp nhăn chua chát ở quanh miệng và trong đôi mắt mệt mỏi thâm
quầng của anh che giấu một nỗi buồn tê tái. Hai người quấn thuốc lá hút:
Têlêghin chỉ ngậm khói trong mồm, không rít, Xapôjkôv thì mỗi khi thở khói ra,
trong ngực lại có tiếng khò khè.
- Cậu đã lên giọng hát điếu ca rồi kia à? -
Têlêghin hỏi khẽ.
- Mình bây giờ đâm ra sợ chết... Trúng một
phát đạn vào đầu thì gay quá. Trúng chỗ khác thì chẳng chết đâu, chứ trúng vào
đầu thì khiếp quá. Cái đầu có phải là cái bia đâu, nó sinh ra để làm việc khác.
Tớ tiếc những ý nghĩ trong đầu tớ quá...
- Chúng ta đều sợ chết cả, Xerghêy
Xerghêyêvits ạ! Chỉ có điều là không nên nghĩ đến chuyện ấy làm gì...
- Thế cậu có bao giờ quan tâm đến những ý
nghĩ của tớ không? Ừ, Xapôjkôv là một thằng vô chính phủ, Xapôjkôv nát rượu - đấy
cậu chỉ biết có thế... Còn cậu thì trong suốt như thủy tinh, tớ nhìn thấu đến tận
những uẩn khúc sâu nhất của cậu. Tớ có thể thay mặt cậu viết mấy chữ trối trăn
với người sống, chứ cậu thì chẳng biết gì mà trăn trối hộ tớ đâu... Và như thế
cũng thật đáng tiếc... Chao ôi, tớ ganh tị với cậu lắm, Vanka ạ.
- Mình có cái gì để cho cậu phải ganh tị?
- Cậu rõ mồn một như trên lòng bàn tay: một
con người của nghĩa vụ, của tình yêu thương tận tụy và của tinh thần tự phê. Một
quân nhân hết sức trung thực và một chàng trai hết sức tốt bụng. Vợ cậu sẽ quý
cậu hơn vàng, khi nào cô ấy bình tâm lại. Và sở dĩ cậu sống thoải mái nhẹ nhàng
cũng vì cậu là một thằng người kiểu cổ.
- Ấy đấy, cám ơn cậu về lời chứng nhận này.
- Vanka ạ, mình cứ tiếc mãi là dạo mùa hè
Ghymza sao không xử bắn quách mình đi... Chúng ta đã nóng lòng chờ mong cách mạng,
run rẩy lên vì sốt ruột... Chúng ta đã tung ra giữa nhân loại một đống tư tưởng:
nó đây rồi, thời đại hoàng kim của triết học, của quyền tự do tối cao! Thế rồi
tai họa đã xảy đến, một tai họa khủng khiếp nhất, thế là chúng ta cứ cuống quít
lên...
Anh
lấy lòng bàn tay vỗ lên hai mắt một cái, mạnh đến nỗi cái mũ lưỡi trai tuột ra
sau gáy.
- Về chuyện này tớ muốn gửi một bức thông
điệp cho nhân loại - phải cả nhân loại kia, không thể ít hơn - một bức thông điệp
đặc biệt tàn khốc và không phải để đem lại lợi ích cho ai đâu - lợi ích mà làm
quái gì? Chỉ cốt cho thật tàn khốc... Nhưng đáng tiếc là ở đây không có bản thảo:
tớ chưa viết... Tớ xin lỗi...
Trời đã tối. Dọc chân trời bùng lên những
đám cháy đỏ rực, nhất là ở phía nam, mạn Xarepta. Trại ấp, xóm làng lần lượt bốc
cháy, những vầng ráng màu huyết dụ đục ngầu những khói mỗi lúc một tỏa rộng ra,
soi đường cho quân địch đang tiến công. Têlêghin bây giờ chỉ nghe bằng một bên
tai: xa tít về phía chính tây, những quả pháo hiệu màu lục bắn lên ba lần trông
như một đàn rắn từ sau chân trời ngóc một loạt đầu lân tinh lên.
Xerghêy Xerghêyêvits một mực không thèm để
ý đến cuộc mở hội hoa đăng này, vẫn nói với cái giọng run run làm cho Ivan
Ilyits thỉnh thoảng lại thấy lạnh toát cả sống lưng.
- Hay là ta sống chỉ để mà ăn? Nếu thế thì
cứ cho một viên đạn nào bắn vỡ óc tớ ra, và bộ óc của tớ, mà tớ vẫn tưởng lầm
là ngang hàng với toàn vũ trụ, sẽ nổ tung ra như một cái bong bóng bọt xà
phòng... Cậu ạ, sự sống chẳng qua là một chu kỳ các-bon cộng với một chu kỳ khí
đạm, cộng thêm với một chất khí gì đấy nữa... Từ những phân tử giản đơn hình
thành những phân tử phức hợp, rồi rất phức hợp, rồi cực kỳ phức hợp... Rồi sau
đó đánh toác một cái! Các-bon, đạm và cái của khỉ gì nữa đó bắt đầu giải thể và
trở lại trạng thái giản đơn nhất. Thế là hết. Thế là hết đấy Vanka ạ... Thế thì
cách mạng dính dáng gì vào đây?
- Cậu nói lung tung những gì thế, Xerghêy
Xerghêyêvits nhỉ? Chính là cách mạng nâng cao con người lên khỏi mức tầm thường...
- Thôi xin cậu! Mà tớ nói cũng có phải cốt
để cậu nghe đâu, cậu thì hiểu cách mạng được bao lăm! Nó đã kết thúc rồi... nó
đã bị đè bẹp rồi: cậu cứ thử nhìn ngay trước mũi mà xem... Nước Nga xô viết
ngay từ bây giờ đã co lại trong phạm vi địa giới hồi trước Ivan Hung đế rồi...
Chẳng bao lâu nữa tất cả các nẻo đường đều sẽ trắng xóa những xương người... Và
những chu kỳ các-bon và a-zốt sẽ toàn thắng: chính cái bọn sáng mai sẽ cưỡi ngựa
đến đây ấy...
Têlêghin im lặng đứng thẳng, hai tay chắp
sau lưng. Trong bóng tối khó nhìn rõ gương mặt của chàng nhuộm cái ánh sáng đỏ
ngầu của những đám lửa xa xa.
- Ivan ạ... Cuộc sống có đáng giá cũng chỉ
khi nào ta sống vì một tương lai huyền hoặc nào đấy, vì một nền tự do vĩ đại và
vĩnh viễn, trong đó con người không có ai và không có gì ngăn cản, con người tự
ý thức mình ngang hàng với toàn vũ trụ... Đã bao nhiêu buổi tối tớ nói chuyện ấy
với anh em binh sĩ trong trung đoàn! Trên đầu chúng ta vẫn là những vì sao đã từng
lấp lánh trên đầu Hômer vĩ đại. Mấy đống lửa vẫn y hệt như những đống lửa đã
soi đường cho loài người qua các thiên niên kỷ. Anh em họ lắng nghe tớ nói chuyện
tương lai, và họ đã tin tớ, ánh sao long lanh trong mắt họ, và những lưỡi lê đã
kinh qua bao nhiêu chiến trận của họ phản chiếu ánh lửa hồng. Bây giờ họ đều đã
yên nghỉ trên các thảo nguyên... Tớ đã không đưa được trung đoàn đến thắng lợi
cuối cùng... Như thế tức là tớ đã lừa dối họ!
Bên phải, cách khoảng trăm rưỡi bước có tiếng
quát “Ai? đứng lại!” rồi tiếng nói chuyện khe khẽ. Têlêghin ngoảnh lại, cố nhìn
qua đêm tối. Chắc là có người nào bên phía quân ta gặp Gaghin đang đứng gác ở
mé tay phải trận địa.
- Ivan ạ, nếu cái tương lai ấy chỉ là một
chuyện thần tiên vẫn đem kể trên những cánh thảo nguyên Nga hoang vắng thì thế
nào? Nếu nó không trở thành hiện thực thì sao? Nếu thế thì cuộc sống sẽ khủng
khiếp vô cùng - Xapôjkôv nhích sát lại, nói thì thầm. - Nỗi kinh hoàng sẽ tràn
ngập thế giới, nhưng chưa có ai thực sự tin như thế cả. Nỗi kinh hoàng chỉ mới
ướm thử xem sức đề kháng ra sao. Bốn năm tương tàn của nhân loại chỉ là chuyện
nhỏ nhặt vô nghĩa so với những sự cố sắp diễn ra. Quá trình tiêu diệt cách mạng
ở nước ta và trên toàn thế giới: đó là sự kiện chủ yếu... và lúc đó sẽ là cuộc
tổng động viên bao trùm tất cả các cá thể trong nhân loại: đầu cạo trọc lóc,
tay đeo lập lắc số hiệu... Và trên đống tro tàn của thế giới sẽ là nỗi kinh
hoàng đã đắc thắng, bành trướng lên đến những quy mô quái đản... Thế thì tớ thà
chết ngay tức khắc dưới nhát gươm nóng hổi của quân cô-dắc còn hơn...
- Xerghêy Xerghêyêvits ạ, cậu cần nghỉ
ngơi, điều trị một thời gian, - Têlêghin nói.
- Biết thừa là cậu sẽ trả lời như thế
mà!...
Lúc bấy giờ thấy Gaghin và một quân nhân lạ
mặt, cao lớn, hơi gù, cùng bước xuống hào, Têlêghin mừng không thể tả được: thế
là chấm dứt được cuộc nói chuyện đang làm cho chàng khổ tâm không sao chịu nổi.
Người mới đến, áo quần lấm bùn bê bết, vạt áo khoác rách hẳn ra một nửa, không
hiểu tại sao lại đội mũ lưỡi trai cô-dắc, nói giọng ồ ồ rất trầm, như thể đã ngồi
dưới đầm nước lút đến cổ suốt một tuần.
- Chào đồng chí chỉ huy, công việc các đồng
chí ra sao, có đủ đạn chứ?
- Chào đồng chí, - Têlêghin đáp, - đồng chí
là ai?
- Tôi ở một đại đội của trung đoàn
Katsalinxki. Chúng tôi được lệnh chiếm lĩnh vị trí trước mặt các đồng chí. Tôi
là đại đội trưởng.
- Rất hân hạnh. Thế mà tôi cứ lo mãi: chiến
hào thì đào rồi, mà chẳng thấy đơn vị nào đến yểm hộ chúng tôi...
- Thì chúng tôi đến với các đồng chí rồi đấy.
Chúng tôi mang cả thương binh đến đây, để chờ lên tàu. Tôi muốn xin ít bánh mì
của đội trấn thủ thành phố, đồng chí đội trưởng bảo hết rồi, sáng mai mới có...
Nói sáng mai thì dễ quá, nhưng đại đội tôi nhịn đói đã ba ngày nay... Các đồng
chí cũng không có à? Một miếng thôi cũng được, cho anh em họ ngửi thấy mùi một
chút... Mai chúng tôi trả... Nếu không chúng tôi có thể tặng các đồng chí con
bò cái.
- Ivan Ilyits!... - Têlêghin ngoảnh lại!
Anixya, như một cái bóng, đã mon men đến nghe chuyện từ bao giờ. - Tôi đã để
dành bánh mì đủ ăn ba ngày, có thể cho họ một ít được... Mai tôi lại kiếm thêm.
Têlêghin cười xòa:
- Được, chị đưa cho đồng chí đại đội trưởng
bốn súc.
Viên đại đội trưởng không ngờ người ta có
thể cho một cách dễ dàng như vậy. “Sao? - anh ta hỏi, - ồ thế thì tốt quá”. Sau
khi cặp chặt vào nách mấy ổ bánh mì lớn do Anixya đưa đến cho - mỗi bên hai ổ -
anh ta đứng tần ngần một lát: lấy được bánh mì rồi bỏ về ngay thì anh ta thấy
ngượng quá. Mấy anh lính thủy, người xo ro vì ngái ngủ, xa xẩn lại gần nhìn con
người áo quần rách rưới và lấm be bét kia. Anh ta bắt đầu kể cho họ nghe những
kỳ công của trung đoàn mình suốt mười ngày len lỏi qua vòng vây của địch, mà
không để mất một khẩu súng, một cỗ xe chở thương binh nào. Nhưng anh ta kể một
cách rời rạc và lộn xộn khó hiểu đến nỗi trong số các thủy thủ đứng nghe có mấy
người khoát tay bỏ đi.
Latughin lạnh lùng nhìn anh, nói:
- Thôi về ngủ cho đẫy đi đã rồi hẵng kể...
À này, thế anh có biết tại sao đàng kia lại sáng rực lên như thế không? -
Latughin chỉ tay về phía Xarepta.
- Có, - Ivan Gora đáp - ngoài ga tôi có gặp
một người ở đấy về... Tướng Đênixôv đang đánh chiếm Xarepta. Nghe nói trong cuộc
chiến tranh đánh Đức cũng chưa bao giờ thấy có một hỏa lực dữ dội như thế: pháo
binh của chúng quét sạch mọi thứ. Bọn kỵ binh cô-dắc lao từng đợt từ các khe
ra. Ồ, khiếp lắm, râu chúng ướt đẫm mồ hôi, lao tới đâu chém tới đó, không bắt
sống một người nào. Sư đoàn Môrôzôv chỉ còn lại một nửa. Chúng nó đang ép quân
ta vào sát sông Vôlga, cố chọc thấu bờ sông giữa hai làng Xarepta và
Tsapurniki, và lúc bấy giờ thì a-men!
Anh gật đầu chào các thủy thủ rồi ra khỏi
hào. Têlêghin hỏi theo:
- Trung đoàn các anh ai chỉ huy nhỉ?
Ivan Gora từ trong bóng tối đáp vọng lại:
- Melsin, Piôtr Nikôlaiêvits...
6
Dưới sức ép của mũi tấn công thứ năm của
quân đoàn sông Đôn, suốt đêm hôm ấy và ngày hôm sau sư đoàn Morôzôv phải rút dần
về Xarepta và về Tsapurniki, một làng ở ven hồ. Hàng trăm xác chết nằm ngổn
ngang trên đồng bằng. Tướng Đenixôv không để cho quân đỏ kịp hoàn hồn. Hễ một đợt
tấn công bị đánh lui thì ngay tức khắc có một đợt khác tràn lên. Trên các chiến
hào, đạn bi nổ toang toác, bi và mảnh đạn rít lên nheo nhéo: mặt đất rung chuyển
dưới những phát tạc đạn, đất tung lên từng mảng lớn hắt vào đầy người các chiến
sĩ. Đại bác của quân cô-dắc ngừng bắn, các chiến sĩ lại nhô lên miệng hào, mặt
bê bết máu nhăn nhó vì đau và vì căm giận...
Từ sau mấy ngọn đồi, từ các khe rãnh hiện
ra những đội kỵ mã dày đặc tràn lên như những đợt phún thạch, dưới vó ngựa bụi
tung lên như những luồng khói... Tay hoa kiếm, chúng rít lên the thé theo tập
quán cũ của người Tatar. Chỉ cần một chiến sĩ run sợ bỏ chạy trước làn sóng
mãnh liệt của những con ngựa hung rộng ức và những kỵ binh đen ngòm đang vươn
người trên bờm ngựa lao tới như vũ bão, nóng lòng cho lưỡi gươm uống máu nóng,
- chỉ cần một người nao núng thôi là cả đội lập tức bị đánh tan, bị gươm chém xả
ra và bị vó ngựa xéo nát nhừ...
Hai cánh sườn của sư đoàn Môrôzôv bị ép vào
những khu vườn của làng Xarepta và những kho thóc của làng Tsapurniki đã kiên
cường giữ vững được vị trí, nhưng trung quân thì bị chùn hẳn về phía sông Volga
một cách không sao cưỡng nổi, cũng giống như các cơ thịt ở tay chùng lại khi gặp
phải một trọng lượng quá sức chịu đựng nén xuống. Sư đoàn trưởng, cùng với
chính ủy, sĩ quan phụ tá và mấy người liên lạc, đang ngồi xổm bên cạnh mấy con
ngựa phục dưới đất, ngay ở tiền tuyến của đạo trung quân. Để bổ sung cho những
đơn vị bị thương vong quá nhiều, ông điều động những đội viện binh ngày càng mỏng
rút từ hai cánh sườn. Nhưng ông không xin viện binh của tư lệnh quân đoàn: ở Txaritxyn
bây giờ chẳng còn biết lấy gì mà tăng viện được nữa.
Sáng hôm nay trên phòng tuyến chính của
Txaritxyn đã xảy ra một tai họa bất ngờ: hai trung đoàn nông dân - trung đoàn Một
và trung đoàn Hai - gồm những tân binh lấy ở các khu trại và làng mạc xung
quanh Txaritxyn, bỗng nhiên bỏ chiến hào, cầm súng giơ cao lên, chạy sang đầu
hàng quân bạch vệ. Ở ban tham mưu trung đoàn Một, một số sĩ quan tụ tập bên bếp
lưu động, vây quanh chính ủy trung đoàn đang đứng với các đảng viên cộng sản và
bắn họ chết ngay tại chỗ. Cũng vào lúc ấy, ở trung đoàn Hai, trung đoàn trưởng,
chính ủy và một số đảng viên cộng sản cũng bị bắn chết. Chỉ có hai đại đội
không bị lung lạc nổ súng bắn vào đám lính phản bội đang cầm cờ trắng chạy sang
hàng ngũ địch. Những đội tiền tiêu của quân đoàn Mamôntôv trông thấy đám người
đang từ phía xa chạy lại, tưởng đó là một đợt xung kích của hồng quân, liền nổ
súng bắn như trút đạn vào họ. Những người còn sống sót hoảng hốt vứt súng quay
trở lại. Hồng quân vây chặt lấy họ và giải họ đi. Mặt trận hổng một quãng dài gần
năm dặm.
Trong thành phố Txaritxyn, xưởng quân giới,
nhà máy cơ khí và tất cả các nhà máy cưa đều kéo còi báo động. Những cán bộ cộng
sản được hội đồng quân sự cử đến các nhà máy lần lượt đi quanh các xưởng nói:
- Các đồng chí hãy ngừng việc, cầm lấy vũ
khí ra cứu lấy mặt trận.
Ở các nhà máy lúc bấy giờ chỉ còn lại những
công nhân có tuổi, tàn tật hay vị thành niên. Tất cả đều ngừng việc, cất dụng cụ,
hãm máy, tắt lò và chạy vào kho lấy súng tự vệ ra. Họ xếp hàng ở trước cổng và đi
ra ga.
Từ các xóm thợ thuyền ở ngoại ô, những người
vợ, những người mẹ chạy ra dúi vào tay họ mấy gói thức ăn, có nhiều phụ nữ chạy
theo những đội công nhân đi không đều bước ấy ra đến ga, có những người còn tiễn
họ ra tận chiến hào nữa. Ra đến đây, những người mẹ và những người vợ còn đứng
hồi lâu trên mấy mô đất, mãi cho đến khi ông tư lệnh quân đoàn cưỡi ngựa đến tận
nơi, áp bàn tay lên tim, mếu máo van xin họ đi về cho, vì ở đây họ chẳng giúp
được gì mà lại còn làm phiền cho quân đội nữa, vì những tốp người đứng lố nhố
trên mấy gò đất làm thành một mục tiêu rất tiện lợi cho bọn quan trắc của pháo
binh địch.
Đến chiều đã có ba nghìn công nhân
Txaritxyn ra lấp cái lỗ hổng trên mặt trận. Lúc bấy giờ bạch quân đã bắt đầu thọc
mấy mũi vào khu này, và các đội công nhân đã phải chịu những tổn thất nặng nề mới
đánh lui được chúng.
Cũng vào những giờ ấy, sư đoàn Môrôzôv phải
chống chọi với những đợt xung kích ác liệt chưa từng thấy của kỵ binh và bộ
binh địch. Trung quân của sư đoàn bị dồn đến gần sát sông Volga. Đạn đại bác đã
nổ trên các đường làng Xarepta. Làng Tsapurniki bốc cháy, ngọn lửa truyền qua
các mái rạ, và bãi sậy trên bờ hồ thảo nguyên phẳng lì cũng bốc cháy ngùn ngụt.
Sư đoàn trưởng cầm ống nhòm nhìn qua cánh đồng
bằng. Mặt trời đã xế bóng. Những đội kỵ binh cô-dắc phóng ngựa trên thảo
nguyên, khi thì chụm lại, khi thì tản ra, ngang nhiên chỉnh đốn hàng ngũ trước
mặt hồng quân. Nhìn cái dáng dấp nhanh nhẹn của lũ ngựa, con mắt từng trải của
sư đoàn trưởng đã xác định được rằng đó là những đơn vị mới xuất trận đang chuẩn
bị tấn công đợt cuối cùng. Có thể dự kiến được rằng đến lúc mặt trời lặn toàn
thể sư đoàn Môrôzôv, đi đầu là sư đoàn trưởng, sẽ bắt đầu cuộc hành quân bi
tráng nhất, cuộc hành quân cuối cùng trên những cánh đồng của lịch sử.
Ông bỏ ống nhòm xuống, rút ra một cái tẩu
thuốc con con đã đen bóng lên, nạp một dúm thuốc mộc Xaratôv vào rồi giơ hai
tay vỗ vỗ lên mấy cái túi áo khoác tìm bao diêm. Diêm chẳng có. Ông nhìn hai
bên. Cách chỗ ông đứng mấy bước, các chiến sĩ đang nằm phục trước những mô đất
mới đắp. Trên chiếc sơ-mi dạ của một chiến sĩ, cạnh mình có một vệt đen cứ
loang rộng dần ra; một người khác cất tiếng kêu khàn khàn, chùi má vào báng
súng.
Sư đoàn trưởng thận trọng vứt cái tẩu con
xuống đất, nó lăn mấy vòng rồi mất hút trong một bụi ngải đắng. Ông lại đưa ống
nhòm lên. Và tay ông bất giác run run.
Phía tây nam có thể trông thấy những đám kỵ
binh tập trung đông nghịt... Chúng đã dồn lại đấy không biết từ đâu, trong khi
ông nạp thuốc vào điếu... Mấy nghìn kỵ binh từ sau dãy đồi lần lượt tiến đến, bụi
tung mù mịt vàng óng lên dưới ánh nắng chiếu chênh chếch. Một lực lượng dũng
mãnh như thế thì chỉ trong một nhoáng có thể lật nhào và xéo nát bất cứ sức
kháng cự nào!... Sư đoàn trưởng bỏ ống nhòm xuống. Trong các chiến hào tất cả đều
lặng đi, căng thẳng đến tột độ. Các chiến sĩ rướn thẳng người lên, tay siết chặt
mấy khẩu súng trường. Sư đoàn trưởng chưa kịp mở miệng nói với anh em một lời
khích lệ thì từ xa đã có một loạt tiếng đại bác nổ vang rền. Sư đoàn trưởng lại
nhìn vào ống nhòm. Cái quái quỷ gì thế này! Khoảng vài mươi cột khói của đạn đại
bác nổ tung trên cánh đồng ở gần chỗ các đội cô-dắc đang tụ tập... Bọn cô-dắc lập
tức thúc ngựa chạy nước kiệu dàn thành đội hình hướng về phía một đám kỵ binh
dày đặc từ bên kia dãy đồi tràn sang. Ở giữa các đội cô-dắc bay phấp phới lá cờ
của thủ lĩnh, xung quanh dáo chĩa lên tua tủa. Đám kỵ binh cô-dắc lui lại chỉnh
đốn hàng ngũ rồi đồng loạt cho ngựa phóng lên. Hai đoàn kỵ binh mỗi lúc một tiến
lại gần nhau, và cuối cùng nhập lại thành một đám hỗn độn... Từ chỗ ấy bốc lên
một đám bụi khổng lồ...
Sư đoàn trưởng quay ống nhòm sang một khu vực
gần hơn thì thấy những toán bộ binh cô-dắc đang phục giữa đất bỗng hoảng hốt chồm
dậy...
“À ra thế, - sư đoàn trưởng tự nhủ - chính
vì thế mà chủ tịch hội đồng quân sự cứ gọi điện nhấn mạnh mãi là mình phải giữ
vững cho đến giọt máu cuối cùng... Vì đây là sư đoàn Thép của Đmitri Jlôba đã
lao vào trận”.
Kế theo đoàn kỵ binh đã xông vào đánh quân
cô-dắc, từ sau dãy đồi nhô lên những đội xạ kích dày đặc của sư đoàn. Xa hơn nữa,
tít tận chân trời qua đám bụi đã có thể trông thấy loáng thoáng những con lạc
đà, những chiếc xe giàn, những đám người lúc nhúc. Đó là những đoàn xe tải khổng
lồ của sư đoàn chở theo hàng trăm tấn lúa mì, rất nhiều thùng đựng rượu mạnh và
hàng trăm dân lánh nạn, hàng đàn bò và cừu...
Quân
cô-dắc đã bị thương vong rất nhiều trong trận này. Kỵ binh trắng bị đánh tan
tác phải rút về phía bắc, còn bộ binh, bị ép giữa Sư đoàn Thép với sư đoàn
Môrôzôv, một phần bị tiêu diệt, phần còn lại thì đầu hàng. Trận đánh chỉ diễn
ra trong khoảng một tiếng đồng hồ. Khi mọi sự đã xong xuôi, sư đoàn trưởng lên
ngựa đi bước một trên cánh đồng bằng ngổn ngang những xác người ngựa. Đây đó mặt
đất hãy còn bốc khói, thỉnh thoảng lại nghe tiếng rên rỉ của những thương binh
chưa được khiêng đi. Trước mặt sư đoàn trưởng có một toán người cưỡi ngựa đi
ngược lại. Người đi trước ăn mặc kiểu Kuban, hai bên ngực đính hai hàng vỏ đạn
bằng bạc, trên bụng giắt một con dao găm lớn, mũ chụp áo khoác buông thõng sau
vai. Người ấy thúc ngựa phi về phía sư đoàn trưởng, dừng phắt lại rồi hỏi, giọng
xẵng và hách:
- Chào đồng chí, tôi đang nói chuyện với ai
đây?
- Đồng chí đang nói với sư đoàn trưởng sư
đoàn Môrôzôv. Chào đồng chí. Thế đồng chí là ai?
- Tôi là ai ấy à? - người kia cười nhạt
đáp. - Đồng chí nhìn cho kỹ. Tôi chính là người đã bị tổng tư lệnh quân đoàn Mười
một đặt ra ngoài vòng pháp luật và muốn bắn chết ở Nevinnômyxxkaia, nhưng đồng
chí thấy chưa: tôi đã đi đến tận Txaritxyn và hình như tôi đã đến rất đúng lúc.
Sư đoàn trưởng không lấy gì làm thích thú với
câu trả lời dài dòng và huênh hoang này. Ông cau mày nói:
- Thế ra đồng chí là Đmitri Jlôba...
- Từ hồi bé người ta vẫn gọi tôi như thế.
Nào, anh chỉ cho biết nơi có thể gọi điện cho hội đồng quân sự.
- Tôi nói rồi, hội đồng quân sự đã rõ cả.
- Anh nói thì việc gì đến tôi? Phải để cho
họ nghe tiếng nói của tôi! - Đmitri Jlôba kiêu hãnh trả lời, đoạn thúc con ngựa
ô mạnh đến nỗi nó chồm lên phóng nước đại như điên.
7
Cũng khuya hôm ấy Ivan Ilyits gửi cho đại
tá Melsin một bức thư viết mấy chữ: “Piôtr Nikôlaiêvits, tôi đang ở đây, rất muốn
gặp anh...”. Melsin viết luôn mấy chữ cho người đưa thư mang về: “Rất mừng, thu
xếp xong việc, tôi sẽ đến ngay, có nhiều chuyện đáng kể cho nhau nghe lắm...
Nhân thể cũng báo cho cậu biết là ở chỗ tôi hiện có cô...”
Nhưng không biết vì Melsin đánh gẫy mất bút
chì hay vì tối quá anh viết không ra chữ nữa: Ivan Ilyits không sao đoán được mấy
chữ cuối, tuy đã đốt mất mấy que diêm...
Rốt cục chẳng thấy Melsin đến. Quá nửa đêm,
cánh thảo nguyên bắt đầu sáng lên mờ mờ dưới những ánh pháo hiệu. Trận địa pháo
được lệnh chuẩn bị.
- Đấy, hình như bắt đầu rồi đấy các đồng
chí ạ. - Ivan Ilyits nói với đội pháo binh - Thế thì ta hãy cố sao cho đừng phí
một quả đạn nào... Hơn nữa, các đồng chí đều đã rõ lệnh của quân đoàn là không
lùi bước trước khi có lệnh riêng. Thế thì trong chiến đấu việc gì cũng có thể xảy
ra, thế thì... (“Quỷ thật - chàng tự nhủ - sao hôm nay mình sinh “thế thì” quá
thế không biết”) Năm một ngàn chín trăm mười lăm họ đặt súng máy sau lưng binh
sĩ: các tướng tá không tin rằng người mu-gích sẽ hy sinh hết xương máu cho Sa
hoàng... Tuy cũng phải nói rằng thật ra trong các chiến hào họ cũng chửi
Nikôlai ra trò, nhưng nước Nga dù sao cũng là tổ quốc của mình. Trong cuộc chiến
tranh ấy không có gì khủng khiếp hơn những cuộc xung phong đâm lê của lính Nga.
- Đồng chí chỉ huy kìa, đồng chí hát cho
anh em chúng tôi nghe những chuyện gì thế? - Latughin bỗng lên tiếng hỏi, giọng
khản đặc. - Đồng chí định đi đến đâu thế?
Ivan Ilyits như thể không nghe thấy, cứ nói
tiếp:
- Ngày nay sau lưng ta không ai đặt súng
máy cả... Đối với mỗi anh em chúng ta đều có một điều còn khủng khiếp hơn cả
cái chết: đó là bán rẻ cách mạng, chỉ cốt sao cho cái xác của mình đừng thủng lỗ
nào... Lệnh của quân đoàn phải hiểu như thế này: không được nao núng trong giờ
phút quyết liệt khi mặt đất sôi sục lên dưới chân ta. Người ta nói rằng có những
người không biết sợ là gì: đó chỉ là nói láo... Cái sợ nó sống trong mỗi chúng
ta, chỉ chực ngóc đầu lên: hễ nó ngóc lên, phải vặn đầu nó đi... Cái nhục còn mạnh
hơn cái sợ. Tôi nói như thế, đồng chí Latughin ạ, là vì ở đây có những đồng chí
chưa được thử thách trong những trận lớn... Cũng có những đồng chí đau thần
kinh... Có khi người từng trải nhất cũng bỗng dưng đâm ra hoang mang... Như tôi
đây chẳng hạn, người chỉ huy các đồng chí, nếu tôi nao núng hốt hoảng rồi bỏ trận
địa mà chạy, nói ví dụ thế, thì tôi ra lệnh hễ đến lúc nào tôi như thế, các đồng
chí phải bắn tôi chết ngay tại chỗ... Về phần tôi, tôi cũng sẽ bắn chết đồng
chí nào có thái độ như thế... Đấy, chỉ có thế... Từ bây giờ đến tảng sáng cấm
hút thuốc...
Chàng lại ho húng hắng rồi đi đi lại lại một
lát sau hai khẩu pháo. Chàng muốn nói nhiều, nhưng rồi không nói ra được.
- Nói chuyện thì tôi không cấm đâu, các đồng
chí ạ...
Latughin lại gọi:
- Đồng chí Têlêghin! - Ivan Ilyits chắp tay
sau lưng đi về phía Latughin. - Trước khi tòng quân, tôi đã đi khắp đó đây nhiều...
áo quần thì rách rưới, giày dép chẳng có, đi đâu cũng không sao ăn ý được với
người đời. Làm phu khuân vác ở bến tàu cũng có, đi bổ củi cho các gia đình nhà
buôn cũng có, đi dọn nhà xí cho người ta cũng có. Tôi cũng đã từng đi chăn ngựa
cho một ông giám mục, nhưng tôi lại cãi nhau với Đức cha về chuyện xúp bắp cải
cho nhiều nước quá... Có một dạo tôi còn đi với phường trộm cắp nữa... Tôi đã nếm
đủ mùi đời! Ôi, dạo ấy tôi ngốc quá, lại hay đánh nhau nữa; mấy lần uống rượu
say bét rồi bị người ta đánh cho nó có thể nói là nhừ tử...
- Vì gái mà ăn đòn chứ gì, - Baikôv nói, và
ánh sáng yếu ớt của một quả pháo sáng nổ xa xa soi sáng hàng răng nhỏ của anh
giữa bộ râu rậm.
- Vì gái cũng có... nhưng chuyện ấy chẳng
liên quan gì đến đây. Tôi muốn nói thế này cơ: đồng chí Têlêghin ạ, đồng chí
nói với chúng tôi như vừa rồi là chưa trúng đâu. Đồng chí cứ nói loanh quanh ở
ngoài, không đi vào cái cốt yếu nhất của vấn đề... Nghĩa vụ cách mạng ư? - Ờ
thì dúng thôi. Nhưng tại sao chúng ta lại tự nguyện gánh lấy cái nghĩa vụ ấy? Đấy
đồng chí thử trả lời đi! Đồng chí không trả lời được à? Vì ngày trước đồng chí
không ăn những món ăn của chúng tôi. Còn chúng tôi thì đã long đong cơ cực hết
chỗ nói - có lẽ chẳng có con vật nào chịu nổi một kiếp đọa đày như thế đâu...
Giá ở vào địa vị chúng tôi thì chắc đồng chí đã từ lâu vều môi ra như con ngựa
thiến mà kéo cày một cách ngoan ngoãn rồi. Đồng chí đừng giận vội, tôi nói chuyện
chân thành, như một con người nói chuyện với một con người. Tại sao mẹ tôi cứ
phải suốt đời đi cầu bơ cầu bất? Mẹ tôi có gì thua kém hoàng hậu Hy Lạp?
- Ối dào, đã ghê chưa! - Baikôv lại nói
chen vào. - Năm mười ba chúng tôi đã trông thấy hoàng hậu Hy lạp ở Athen rồi,
nhưng cậu nhắc đến bà ta làm gì?
- Tại sao ông bố tôi lại phải sống như con
lợn, lại bị bọn cảnh vệ đánh nhừ tử ở giữa đồng, mà lại còn nhổ nước bọt vào nữa?
Tại sao tôi lại bị gọi là đồ chó đẻ?
- Như thế không được, - Saryghin đang ngồi ở
vị trí của mình bên cạnh mấy hòm đạn, quỳ dậy, thốt lên. - Latughin ạ, cậu ăn
nói vô tổ chức quá. Tại sao lại đưa chuyện chó đẻ với hoàng hậu Hy Lạp vào đây?
Đó toàn là những chuyện thuộc thượng tầng kiến trúc cả. Nhưng thực chất nó lại ở
trong cuộc đấu tranh giai cấp kia. Cậu phải tự xác định xem mình là người vô sản
hay là một phần tử lưu manh đã...
- Thôi cậu tạnh đi cho được việc! Tớ là
chúa tể của thiên nhiên, - Latughin quát vào mặt Saryghin. - Cậu có hiểu được
không hay là còn bé quá chưa hiểu nổi đấy? Tớ có đọc một cuốn sách trong đó có
nói: con người là chúa tể của thiên nhiên. Chính vì thế mà tớ đứng bên cạnh khẩu
súng này. Trong mỗi chúng ta có một vị chúa tể của thiên nhiên đang sống. Nghĩa
vụ mấy chả sợ hãi gì! Hôm nay tớ sẽ cho một loạt vào Đức chúa Blời chứ đừng nói
gì tướng Mamôntôv nữa - thế mới là thượng tầng kiến trúc đấy cậu ạ! Tớ sẽ dùng
răng nhá hết xương sụn của chúng nó...
- Im lặng, các đồng chí! - Xerghêy
Xerghêyêvits ngồi trong hầm điện thoại quát ra. - Nghe thông báo đây: ở Xarepta
quân ta đã thắng lớn, đánh tan hai trung đoàn kỵ binh và một trung đoàn bộ binh
cô-dắc, diệt một nghìn rưởi tên, bắt tám trăm tù binh...
Tin đồn thắng lợi ở Xarepta bay khắp mặt trận.
Cùng lúc ấy, một đơn vị của quân đoàn thứ Mười bị cuộc tấn công của đạo quân
cô-dắc thứ năm cắt đứt với đại quân - đó là đại đoàn kỵ binh của Budionny - đã
từ vùng thảo nguyên Xalxkiê chọc thủng trận tuyến về Txaritxyn. Cuộc hành quân
rất gian khổ, người và ngựa đều mệt nhừ. Đến một nhà ga xép, đại đoàn đã bắt được
liên lạc điện thoại với bộ tham mưu sư đoàn Môrôzôv: trong ống nghe léo nhéo một
giọng vui vẻ dùng rất nhiều tục ngữ mặn mà. “Các anh ngủ hay sao mà không biết
là ở Xarepta ta đã băm nát như chả chó hai sư đoàn kỵ binh của lũ súc sinh ấy?
Đến mà đếm tù binh!...”. - nghe tin thắng trận lẫy lừng này, tuy là một tin được
phóng đại lên rất nhiều, đại đoàn giao xe tải lại cho một đội vệ binh canh giữ
rồi hành quân một trăm dặm về phía Bắc đón đường lũ súc sinh của tướng Đenixôv.
Nhưng thắng lợi ở Xarepta vẫn chỉ là một thắng
lợi cục bộ, và ở các vị trí chính của thành Txaritxyn tình hình không vì thế mà
khả quan hơn, thậm chí lại còn thêm khó khăn nữa là khác. Mamôntôv đã hết sức
nhanh trí lợi dụng cái sự biến may mắn đã xảy ra với hai trung đoàn nông dân của
quân đỏ, suốt đêm hôm ấy ông ta đã phiên chế lại các đạo quân xung kích và đến
tảng sáng thì tập trung hết xung lực đánh vào chỗ sơ hở ấy của mặt trận do các
đội dân binh công nhân án ngự một cách lỏng lẻo thưa thớt.
Cánh đồng bằng trên đó những đơn vị tinh
nhuệ của quân đoàn sông Đôn đang tiến quân bị hai lũng đất lớn xẻ dọc từ đông
sang tây, cắt ngang trận tuyến và kéo dài đến sát thành phố. Kỵ binh cô-dắc cứ
luồn vào hai lũng đất này tiến sát đến chiến hào của hồng quân. Khắp cánh đồng
đều phủ kín những mô đất nhấp nhô trông như những cái tổ kiến: đó là bộ binh trắng
đang trườn lên. Phía trước, những chiếc xe tăng khổng lồ bánh xích đang tiến tiến
lùi lùi để yểm hộ cho bộ binh. Những chiếc phi cơ lượn vòng trên các trận địa
pháo, trên các đoàn xe tải kéo thành hàng dài trên thảo nguyên đi từ Txarixyn
ra hay tiến vào Txaritxyn, chốc chốc lại ném xuống những quả bom nhỏ hình quả
lê, nổ rất dữ dội.
Đoàn xe lửa bọc thép của Mamôntôv đang nhả
khói ở chân trời. Bên phải và bên trái đoàn tàu, khắp thảo nguyên lố nhố những
đoàn xe tải của dân cô-dắc đang chen chúc nhau, trục xe này chạm vào trục xe
kia, kéo theo sát sau lưng quân đội. Bọn thương nhân cô-dắc đã trông thấy những
mái vòm, những óng khói nhà máy của thành Txaritxyn và những đám khói cháy nhà ở
quanh vùng ngoại ô. Những con người sực mùi khói, mùi mỡ lợn và mùi hắc ín ấy
nhìn hau háu về phía thành phố, dưới những đôi lông mày cau lại, mắt họ ánh lên
sáng quắc.
Những quả đạn đại bác xé không khí bay trên
thảo nguyên và rơi xuống nổ ầm ầm xung quanh các công sự đỏ, tung những cột đất
bay vút lên cao rồi rơi xuống lả tả. Từ hai lũng đất sâu, kỵ binh cô-dắc vừa
rít lên the thé vừa phi tới, xông bừa qua hàng rào dây thép gai lao vào các chiến
hào đỏ một cách hung hãn điên cuồng đến nỗi có những tên đã trúng đạn, tử khí
đã phủ mờ hai mắt mà vẫn vung tròn thanh gươm trên mình con ngựa đang phi, mãi
cho đến khi người nghiêng dần sang một bên, hai tay dang rộng, nhào lăn xuống
dưới chân ngựa như thể vì một trận cười điên dại, khiến cho con ngựa hốt hoảng
vụt né sang một bên.
Bò đến gần công sự đỏ, các đội xạ thủ bộ
binh lao lên. Bên các chiến hào đỏ, kỵ binh với bộ binh quần nhau loạn ẩu trong
một trận giáp lá cà dữ dội. Hôm ấy Mamôntôv đã ra lệnh cho toàn thể quân cô dắc
phải buộc những dải trắng trên vành mũ để khỏi chém nhầm vào nhau khi đã say
máu. Và trận đánh càng dai dẳng và kinh hoàng hơn nữa là vì cả hai bên đều là
người Nga... Một bên thì chiến đấu để giành lấy một cuộc sống mới mà họ chưa hề
biết là sẽ ra sao, một bên thì chiến đấu cho cái cũ mãi mãi đứng vững.
Và mỗi lần như vậy những đợt triều xung
kích lại rút về, bị những đoàn xe lửa “bay” của hồng quân đánh bạt đi. Đó là những
đoàn tàu bọc thép được thiết bị cấp tốc trong các xưởng quân giới Txaritxyn, gồm
có hai toa xi-téc hoặc hai toa trần lắp chen một đầu máy vào giữa, di chuyển
trên con đường sắt vành đai chạy qua ngoại ô, một phần ở phía trước mặt trận, một
phần ở phía sau. Được vũ trang bằng súng máy và đại bác, những chiếc xe lửa “bay”
ấy thọc sâu vào chính giữa những cuộc hỗn chiến. Với tất cả những tàn lực còn lại
của mấy chiếc đầu máy cổ lỗ đã xếp xó từ lâu, nó phóng trên những con đường sắt
ngoằn ngoèo, phủ trong làn hơi nước từ hai bên sườn toa máy bị bắn thủng xì ra,
xông bừa qua những chùm đại bác nổ tung tóe, đem nước, bánh mì, và đạn dược cho
các chiến hào đỏ.
- Nằm xuống!
Ngay bên cạnh, một loạt đạn đại bác nổ dữ dội
đến nỗi ánh sáng ban ngày lu hẳn đi và lồng ngực ép chặt lại, rồi lập tức một mớ
đất đá trút xuống như mưa, vỗ bình bịch trên lưng, trên đầu đội pháo thủ đang
phủ phục giữa đất.
- Về chỗ!... Về khẩu đội! - Têlêghin chồm
lên quát; qua đám bụi tung lên mù mịt chàng thoáng thấy một trong hai khẩu pháo
đổ kềnh ra, một bên bánh chổng lên trời và tốp người đang giận dữ lao về phía ấy...
“Còn sống cả: Lataghin, Baikôv, Gaghin, Zaduyviter... không thấy Sakyghin nhỉ...
A đây rồi... vẫn sống... khẩu thứ hai không việc gì; Pêtsenkin, Vlaxôv,
Ivanôv... sao đầu lắc lư thế kia...”
- Chỉnh sang trái, sáu tám mươi, trắc độ
sáu-không, cả hai khẩu đội, bắn! - Xapojkôv tay cầm ống nghe nhô ra ngoài căn hầm
điện thoại đã sụt lở, quác cái mồm ra hô, giọng khản đặc.
Têlêghin vừa ho sù sụ vì sặc bụi vừa nhắc lại
mệnh lệnh. Saryghin du một quả đạn cho Baikôv, Baikôv xem lại ngòi nổ rồi tung
sang cho Gaghin nạp, Zaduyviter mở quy-lát ra, Latughin định hướng lại rồi giơ
tay lên.
- Bắn!...
Hai nòng súng giật lùi, đạn bay vút đi...
những động tác vội vã của toán người đột ngột ngừng lại như trên một cuốn phim
điện ảnh bị tắc... Biết ngay mà: lại một bóng đen dữ dội nữa lao tới, một tiếng
sét đánh xuống đất ngay bên cạnh.
- Nằm xuống!
Và tất cả lại lặp lại: tiếng nổ ầm ầm, tức
ngực, đất đá đổ rào rào... Tâm trạng cay cú hằn học lên đến cực điểm, đến nỗi
tưởng chừng như bao nhiêu mạch máu đều sắp vỡ tung ra hết... Nhưng còn biết làm
thế nào được khi đối phương không hề tiếc đạn, còn ở đây thì số đạn lại có thể
đếm trên đầu ngón tay, mà cái thằng cha nào ngồi ở điểm quan trắc của tiểu đoàn
đúng là một con quỷ mù không làm sao mò ra được cái trận địa pháo hạng nặng của
chúng nó...
Lần này thì Latughin bị thương. Anh ta ngồi
nghiến răng ken két. Anixya xoắn xuýt bên anh ta, động tác dịu dàng và nhanh nhẹn.
Nãy giờ chị nấp ở đâu, chị ở đâu hiện ra? - không thể nào hiểu nổi. Chị nhanh
nhẹn cởi áo ngoài và áo lót cho người thủy thủ, băng vai lại cho anh, rồi ngồi
xổm trước mặt anh nói: “Anh ạ! Ta đi đi anh, tôi đưa anh về trạm cứu thương nhé”.
Latughin, mình trần, máu me bê bết, răng nghiến ken két như đang nhai xương thật,
ẩy Anixya ra và lao vào khẩu súng.
Cuối cùng đã xảy ra cái điều mà mọi người vẫn
hằn học mong chờ trong mấy tiếng nổ vừa qua, ngay từ khi bắt đầu trận đấu pháo
không ngang sức này. Xapôjkôv vừa báo cho tiểu đoàn trưởng pháo binh biết số đạn
còn lại, và đang chờ trả lời. Từ đôi mắt đỏ kè, hai giọt nước mắt bẩn từ từ lăn
trên mặt anh; chốc chốc anh lại bỏ ống nghe ra khỏi tai, thổi thổi vào ống. Ngay
trong không khí đã có một cái gì đột ngột xảy ra: xung quanh bỗng nhiên im
phăng phắc, im đến nỗi trong màng nhĩ cứ ong ong lên. Têlêghin lo lắng chồm một
nửa người lên trên bờ hào - và cũng vừa đúng lúc đợt tổng tấn công quyết liệt
đã bắt đầu. Nhìn bằng mắt thường cũng có thể phân biệt được đám ky binh và bộ
binh cô-dắc dày đặc, ở phía giữa lác đác có những bộ áo chùng thêu kim tuyến
óng ánh: đó là những ông linh mục được đưa ra trận tuyến bằng xe hơi, đang ban
phép lành cho quân đội giữa chiến trường lộ thiên, ngay trước mặt các trận địa
pháo đỏ...
Các thủy thủ cũng chồm lên bờ hào. Họ thở hổn
hển. Baikôv nói đùa:
- Chà, giá bắn thẳng vào mấy vị thiên thần ấy
nhỉ.
Không ai cười cả. Latughin nói, giọng xẵng
và hách:
- Đồng chí chỉ huy này, ta cho súng lên đất
bằng đi, chứ việc gì mà cứ chui rúc dưới hầm như lũ chuột cống thế này...
- Không có ngựa không kéo lên được đâu
Latughin ạ.
- Được mà...
- Không được! Trong chiến trận không được
cãi chỉ huy, như thế là vô chính phủ. - Saryghin quát lên, và câu nói của anh
ta bất ngờ, chướng tai và trẻ con đến nỗi các thủy thủ gườm gườm đưa mắt nhìn
anh. Anh giơ cả hai tay vốc cát lên, xát thật mạnh vào mặt. Rồi anh trở về vị
trí, đứng im không nhúc nhích, chỉ có hai hàng mi dài của anh rung rung trên
đôi má nhẵn bóng.
Têlêghin tụt xuống, đến cạnh khẩu pháo, sờ
vào bánh xe.
- Ý kiến của Latughin đúng đấy các đồng chí
ạ... Ta cứ thử bới đất chỗ này ra xem.
Các thủy thủ nãy giờ theo dõi từng cử chỉ của
chàng, im lặng chạy ra lấy xẻng và bắt đầu bới đất ở miệng hầm, chỗ thuận lợi
nhất có thể kéo pháo ra ngoài. Xapôjikôv, cái giọng khàn khàn vỡ hẳn ra, gọi:
- Têlêghin, Têlêghin, tiểu đoàn trưởng hỏi
liệu có thể tự lực kéo pháo ra chỗ đất thoáng được không?
- Trả lời đi: có thể được.
Têlêghin nói câu vừa rồi một cách điềm tĩnh
và quả quyết. Latughin cầm xẻng xúc tới tấp, tuy vết thương ở vai rát buốt
không sao chịu nổi. Anh lấy khuỷu tay huých Baikôv:
- Cừ đấy chứ nhỉ? Mình rất khoái dân trí thức.
Baikôv đáp:
- Họ còn phải học chán! Nhưng rồi cũng sẽ học
được của dân mu-gích ít nhiều.
Cảnh im lặng bỗng sụp đổ ầm ầm trong tiếng
súng nổ loạn xa. Têlêghin chồm lên bờ lũy. Cánh đồng bằng đông nghịt những đội
quân đang chuyển động. Từ bên phải - cắt ngang đường tiến của họ - đoàn xe lửa “bay”
của Alabiev, một vị chỉ huy nổi tiếng lúc bấy giờ, phóng dọc con đường sắt đắp
thấp rú còi giật giọng, nhả ra những đám khói màu gỉ sắt. Sức chú ý của Ivan
Ilyits tập trung vào dãy công sự gần nhất: đại đội của trung đoàn Katsalinxki bố
trí ngay sau hàng rào dây thép gai. Đó cũng chẳng phải là một dãy chiến hào nữa,
mà chỉ là những cái hố nhỏ. Người ta vừa chở đến cho họ một thùng nước uống.
Con ngựa lồng lên, quay lui, làm cho thùng nước đổ kềnh ra, rồi kéo phần trước
của chiếc xe bỏ chạy. Têlêghin trông thấy Ivan Gora, con người ngây ngô vụng về
đã đến xin bánh mì tối qua. Hai chân nhún nhẩy, anh ta chạy dọc các hào, hình
như đang phân phát đạn: mỗi xạ thủ một sác-giơ cuối cùng nữa...
Bên phải vị trí của đại đội (và vị trí pháo
của Têlêghin) cách không đến nửa dặm, là cái lũng đất cắt ngang trận tuyến chạy
đến tận thành phố. Suốt ngày hôm ấy lũng đất này nằm dưới vùng hỏa lực, và những
đoàn kỵ binh cô-dắc từ đấy tràn ra cách chỗ này rất xa. Bây giờ, theo dõi cái vẻ
lo lắng đặc biệt của đại đội xạ thủ của Ivan Gora, Ivan Ilyits hiểu rằng quân
cô-dắc thế nào cũng men theo lũng tiến sâu hơn nữa để tấn công chiến hào xạ thủ
từ sau lưng và đánh vào bên sườn trận địa pháo, gây ra rất nhiều phiền toái cho
quân ta. Quả đúng như vậy...
Từ lòng lũng, rất gần dãy công sự, một đoàn
kỵ binh phi tới, rồi tỏa rộng ra, một phần quay vòng lại phi về phía sau lưng
Ivan Gora, một phần xông về phía trận địa pháo. Têlêghin lao vào khẩu pháo. Các
thủy thủ vừa thở phì phò vừa văng tục, cố kéo khẩu pháo từ dưới hố lên. Bánh xe
của nó cứ lún sâu xuống cát.
- Quân cô-dắc đấy! - Têlêghin cố nói giọng
thật điềm tĩnh. - Nào, đẩy lên! - Đoạn chàng bắt bánh cố đẩy lên, mạnh đến nỗi
xương lưng kêu răng rắc. - Nhanh lên, nạp đạn ria!
Đã nghe rõ tiếng quân cô-dắc rít lên man dại
như thể đang bị lột da sống. Gaghin bò xuống dưới giá súng ghé vai nâng súng
lên: “Đều tay vào, dô-ta!”.
Khẩu pháo đã ra khỏi cát lăn lên khoảng đất
cao cao ở phía trước trận địa, nghiêng nghiêng sang một bên, nòng chĩa xuống dưới
lũng. Gaghin cầm quả đạn ria trong đôi tay lực lưỡng và dường như ung dung nạp
vào nòng súng. Có khoảng ba mươi kỵ binh cô dắc, mình cúi rạp xuống bờm ngựa,
tay khoa tròn những thanh gươm cong, đang phi tới. Khi từ khẩu pháo một ngọn lửa
dài phụt ra và đạn ria bay vèo vèo về phía chúng, mấy con ngựa lồng lên, mấy
con khác quay ngoắt trở lại, nhưng khoảng một chục kỵ binh không sao ghìm ngựa
lại được đã phi thẳng lên cái gò của pháo binh đỏ.
Đến đây nỗi hằn học nãy giờ vẫn sôi sục
trong lòng cả đội pháo mới được dịp phát tiết ra ngoài. Latughin mình trần quát
lên một tiếng khàn khàn, cầm con dao quắm cong lưỡi xông lên trước tiên và cắm
phập lưỡi dao vào bụng một tên cô-dắc mặc áo besmet đen, ở bên dưới dải thắt lưng giát bạc... Zađuyviter bị một
con ngựa phi qua, liền đâm dao vào bụng nó, rồi tên kỵ binh chưa kịp tụt xuống
đất đã ăn luôn một nhát dao nữa của anh. Gaghin vừa tránh kịp nhát gươm của một
tên thiếu úy kỵ binh to béo - đó là một gã cô-dắc vùng Novgôrôđ cưỡi con ngựa
sông Đôn - lôi hắn xuống đất, đè lên người hắn rồi cứ thế ghì lấy hắn. Các thủy
thủ khác nấp sau khẩu pháo bắn các-bin vào những tên cô-dắc đang lao vào trận địa.
Têlêghin, với những động tác chậm rãi điềm đạm mà chàng vẫn có trong những hoàn
cảnh như thế này (cảm xúc thì về sau chàng mới thể nghiệm, như một hồi âm), nhắm
kỹ từng tên kỵ binh bóp cò súng lục hết phát này đến phát khác. Cuộc giao chiến
rất ngắn ngủi. Bốn tên cô-dắc nằm sóng soài trên gò, hai tên đã xuống ngựa toan
bỏ chạy nhưng đều bị bắn chết.
Đợt tập kích cuối cùng cũng bị đánh bật lại
như những đợt khác trong ngày hôm ấy. Trận tuyến của hồng quân vẫn không sao chọc
thủng được. Chỉ có ở một nơi sơ hở nhất, xạ thủ cô-dắc đã đóng chốt rất sâu vào
giữa hai sư đoàn đỏ. Trời tối dần. Các nòng súng đại bác đều nóng đỏ lên, ngựa
đều mệt lử. Sát khí của kỵ binh đã lắng xuống, bộ binh ngày càng ngại rời công
sự xông lên. Trận đánh đã kết thúc, tiếng súng đã im ắng trên cánh đồng bằng vắng
vẻ: chỉ rải rác đó đây mới thấy những người cứu thương bò đi nhặt thương binh.
Mấy chiếc xe chở nước, bánh mì và dưa hấu
len lỏi tới các trận địa pháo và các chiến hào, rồi chở thương binh đưa về
thành phố. Tất cả các đơn vị của Quân đoàn thứ Mười đều chịu những tổn thất hết
sức nặng nề. Nhưng có một điều còn khủng khiếp hơn cả số thương vong nữa, là
ngày hôm ấy đã phải tung hết những dự trữ cuối cùng ra: thành phố không còn một
chút gì để cung cấp cho mặt trận nữa.
Viên tư lệnh quân đoàn quay trở về toa hành
khách dành cho ông ở phía sau nhà ga Voropônôvô. Ông chậm rãi xuống ngựa nhìn
hai người đang đi về phía ông: viên tư lệnh pháo binh quân đoàn - chính cái người
cao lớn, mặt đỏ đắn, râu xồm đã đến nói chuyện với “giới trí thức” ở trận địa
pháo của Têlêghin, và viên chỉ huy các đoàn tàu bọc thép là Alabiev, trông giống
như một anh sinh viên mới ở ụ chiến đấu ngoài phố trở về, hãy còn khích động mạnh
vì trận đánh vừa qua. Hai người mỉm cười đáp lại cái nhìn của viên tư lệnh quân
đoàn: họ rất mừng khi thấy ông đã từ tiền tuyến trở về sau một ngày ác chiến,
trong đó ông đã phải trực tiếp dự mấy trận xung phong đánh lưỡi lê. Chiếc áo bêkes của ông bị bắn thủng mấy chỗ, và
cái báng bằng gỗ của khẩu súng các-bin ông khoác trên vai đã vỡ tan ra.
Viên tư lệnh quân đoàn đi vào toa tiếp
khách xin nước uống. Ông nốc mấy ca nước liền rồi hỏi xin điếu thuốc lá. Ông
châm lửa hút thuốc, đôi mắt khô khan lim dim. Một lát sau, ông đặt điếu thuốc
xuống mép bàn, kéo xấp báo cáo lại và cúi xuống xem từng tờ một. Phải... Những
tổn thất hôm nay rất nặng nề, nặng nề quá mức, và số đạn dự trữ cho ngày mai
thì còn ít quá, ít đến phát khóc lên được. Ông trăng tấm bản đồ ra và cả ba người
cúi xuống. Viên tư lệnh quân đoàn từ từ đưa mẩu bút chì theo con đường giáp
ranh giữa hai đạo quân đối địch. Qua ngày hôm ấy nó chỉ lùi về phía Txaritxyn ở
một vài chỗ, nhưng nhìn chung cũng không lùi xa bao nhiêu, ở gần Xarepta nó lại
còn cong vòng về phía bạch quân nữa là khác; nhưng ở khu vực đã xảy ra vụ binh
biến của hai trung đoàn nông dân, trận tuyến lõm sâu về phía Txaritxyn. Mẩu bút
chì của tư lệnh quân đoàn mỗi lúc một đưa chậm lại. “Nào, - ông nói - ta kiểm
tra lại tí nữa xem...”. Các bản báo cáo đều chính xác. Mẩu bút chì dừng lại ở
cách Txaritxyn bảy dặm đúng vào giữa lòng khe, rồi rẽ ngoặt về phía tây cũng một
cách đột ngột như vậy, vạch thành một góc nhọn đâm sâu về phía thành phố. Tư lệnh
quân đoàn ném cây bút chì xuống tấm bản đồ và lấy bàn tay gõ gõ vào cái góc nhọn
ấy.
- Chỗ này sẽ quyết định tất cả.
Viên tư lệnh pháo binh cau mày nhìn đi chỗ
khác và nói, giọng bướng bỉnh:
- Tôi sẽ chịu trách nhiệm gọt bằng cái góc
này. Đêm nay xin tiếp đạn cho.
Viên chỉ huy xe lửa bọc sắt nói:
- Tinh thần chiến đấu trong các đơn vị đều
rất cao. Cứ để cho anh em họ ăn qua rồi ngủ một vài giờ: họ sẽ chống cự được.
- Chống cự chưa đủ, - tư lệnh quân đoàn đáp
- phải đánh tan quân địch; thế mà trận tuyến lại bất lợi cho ta. Này, toa máy
đã lắp xong chưa? Được, tôi đi đây... - Ông ngồi thêm một phút nữa, mệt quá
không nhấc người lên được, rồi đứng dậy và ôm chặt hai người đồng chí:
- Thôi, chúc các anh may mắn...
Viên tư lệnh pháo binh và viên chỉ huy xe lửa
bọc sắt trở về đài quan sát đặt trên một cái tháp chứa nước của sở hỏa xa đứng trơ
trọi giữa khoảng đất trống, suốt ngày đã bị phi pháo địch oanh tạc liên tiếp.
Leo lên đến chóp tháp nước, nơi có đặt máy điện thoại, họ thấy bữa ăn tối đã dọn
sẵn chờ họ: hai lát bánh mì thiu và nửa quả dưa hấu chưa kịp chín. Viên tư lệnh
pháo binh là một người tràn đầy sức khỏe và tinh thần yêu đời, cho nên suất ăn
quá thanh đạm này làm cho ông ta phiền lòng.
- Dưa này thì ra cái quái gì, - ông nói
trong khi đứng bên cạnh cái lỗ châu mai đục trong bức tường gạch. - dưa hấu mà
cắt bằng dao thì chẳng còn ra dưa hấu nữa, dưa hấu là phải bổ bằng nắm tay mới
được. - Ông vừa phun hạt dưa ra vừa nheo nheo đôi mắt nhìn ra cánh đồng bằng hiện
rõ như trong lòng bàn tay dưới ánh chiều tà. - giá có bát xúp bột nóng mà ăn mới
đã. Anh thấy thế nào hở Vaxili, tình hình này có lẽ đến đêm sẽ có lệnh rút lui
đấy nhỉ...
- Rút lui là thế nào? Bỏ đường xe hỏa vành
đai à? Anh không điên đấy chứ?
- Thế còn anh không điên sao lại để chúng
nó thọc sâu thế? Mấy chiếc xe lửa “bay” của anh đi ngủ đâu hết rồi?
Trong khi nói chuyện, viên tư lệnh pháo
binh chốc chốc chốc lại đưa hai ngón tay dang rộng lên ngang mắt hay lấy bao
diêm trong túi ra đưa thẳng tay về phía trước làm chuẩn để tính góc độ và cự
ly: dùng những cách ấy ông có thể tính đúng đến từng năm mươi bước một.
- Nhưng bên chúng nó có bọn công binh cứ đi
theo sát các đơn vị bộ binh để nổ mìn phá đường. Chúng nó đã phá được đến hàng
chục chỗ.
- Nhưng dù có thế cũng không được để cho
chúng nó thọc sâu như vậy, - tư lệnh pháo binh vẫn khăng khăng. - Này nhìn mà
xem, cậu có trông thấy gì không?
Chỉ có một con mắt rất tinh, rất có kinh
nghiệm mới có thể nhận thấy trên cánh đồng bằng màu hung nâu trải rộng về phía
tây không phải là một khoảng không vắng lặng. Tất cả những mô đất, những nấm gò
con con giống như hàng nghìn cái tổ kiến, đều hắt ra những cái bóng dài, trong
đó có những cái bóng đang từ từ di chuyển.
- Chúng nó đang thay thế bọn xạ thủ - viên
tư lệnh pháo binh. - Chúng nó đang bò lên, cái lũ công tử ấy... Thử lấy ống
nhòm mà xem... Cậu có thấy cái gì như thể những vệt nho nhỏ sáng lấp lánh
không?
- Tôi thấy rất rõ... Đó là những chiếc lon
vai sĩ quan...
- Rõ ràng là lon sĩ quan rồi còn gì... Chà,
xem chúng nó bò kìa, mẹ kiếp, như bầy nhện ấy!... sao nhiều lon sĩ quan thế
không biết? Chẳng thấy đứa nào không có lon...
- Lạ thật đấy...
- Hôm kia Xtalin đã báo trước là sẽ như thế...
Bây giờ thì đúng thật rồi...
Alabiev nhìn viên tư lệnh pháo binh. Anh bỏ
mũ, đưa móng tay cào bù bộ tóc dính bết mồ hôi, đôi mắt xám mờ hẳn đi, nhìn xuống
đất.
- Đúng, - anh nói, - giờ tôi mới hiểu tại
sao hôm nay chúng nó ngừng tấn công sớm thế... Lẽ ra phải dự tính điều này từ
trước... Sẽ gay go lắm đây...
Anh nhanh nhẹn ngồi xuống cạnh máy điện thoại
rối bắt đầu quay máy gọi tới tấp một lát. Đoạn ấn mũ lưỡi trai xuống tận mặt,
anh leo xuống cầu thang xoáy trôn ốc.
Viên tư lệnh pháo binh tranh thủ quan sát
cánh đồng bằng cho đến lúc mặt trời lặn hẳn. Rồi ông gọi điện cho hội đồng quân
sự nói khẽ nhưng tách bạch vào ống máy:
- Đại đoàn sĩ quan đang thế chân cho quân
cô-dắc trên trận tuyến đấy, đồng chí Xtalin ạ.
Bên kia đường dây có tiếng trả lời:
- Tôi biết rồi. Chốc nữa đồng chí sẽ nhận
được mệnh lệnh.
Quả nhiên một lát sau có tiếng máy mô-tô
phành phạch, rồi có tiếng chân bước kẽo kẹt trên cầu trang, và một người mặc
toàn da màu đen chật vật chui qua cái cửa tròn dẫn lên mái tháp. Viên tư lệnh
pháo binh vóc người đã to lớn như vậy mà người đi mô-tô đến còn cao hơn hẳn một
cái đầu:
- Ai là tư lệnh pháo binh của quân đoàn?
Sau khi nghe câu trả lời: “Chính tôi đây”,
người mới đến còn đòi xem giấy chứng minh, quẹt diêm đọc mãi đến khi lửa cháy đến
tận móng tay, rồi mới trao chiếc phong bì cho tư lệnh pháo binh, vẻ nghi kỵ ra
mặt, rồi bước xuống cầu thang.
Trong phong bì là một mẩu giấy vàng nhám mặt
hình chữ nhật, chỉ to bằng bao thuốc lá, với mấy dòng chữ của chủ tịch hội đồng
quân sự viết như sau:
“Tôi ra lệnh cho đồng chí nội đêm nay, trước
khi tảng sáng, phải tập trung tất cả (hai chữ “tất cả” này có gạch đáy) lực lượng
pháo binh và đạn dược hiện có trong khu vực rộng năm dặm giữa Voropônôvô và
Xađôvaia. Công việc di chuyển phải tiến hành thật kín đáo, không để cho quân địch
biết”.
Viên tư lệnh pháo binh đọc đi đọc lại mãi bản
mệnh lệnh đột ngột và khủng khiếp này. Lệnh này thật quá ư mạo hiểm, và việc
thi hành mệnh lệnh thật vô cùng khó khăn. Như thế có nghĩa là phải đem tập
trung vào một khu vực rất nhỏ hẹp (ở chỗ bị chọc sâu) cả hai mươi bảy đội pháo
gồm hai trăm khẩu... Và nếu quân địch không vui lòng dẫn xác đến đúng chỗ này,
mà lại đánh chếch sang bên phải hay sang bên trái một chút, hay nguy hiểm hơn nữa,
lại đánh vào sườn - miệt Xarepta hay Gumrak, thì cơ sự sẽ ra sao? Thì quân ta sẽ
bị bao vây và tiêu diệt!
Trong một tâm trạng hoang mang đến cực độ,
tư lệnh pháo binh ngồi vào máy điện thoại và bắt đầu gọi điện cho các chỉ huy
tiểu đoàn, ra lệnh cho họ phải di chuyển đến những chỗ nào và theo những con đường
nào: cả cái cơ ngơi to lớn cồng kềnh gồm hàng mấy nghìn người, ngựa, xe, pháo,
lều ấy bây giờ phải dựng dậy, thắng vào, chở lên, chuyển đi, rồi dỡ xuống, tháo
ra, bố trí, đào công sự cho pháo, mắc dây điện thoại, và tất cả những việc ấy
phải làm cho xong trong mấy tiếng đồng hồ trước khi trời sáng.
Không rời máy điện thoại, ông quát vọng xuống
phía dưới bảo đem một cây đèn lồng lên và bảo dặn tất cả các chiến sĩ liên lạc
viên chuẩn bị sẵn ngựa. Mở khuy cổ chiếc áo sơ mi dạ, tay vuốt vuốt lên cái đầu
cạo nhẵn thín, ông đọc cho liên lạc viên chép những bản mệnh lệnh ngắn. Chép
xong, các liên lạc viên xuống cầu thang ra khỏi cái tháp nước, nhảy lên yên ngựa
và phóng đi trong đêm tối. Tư lệnh pháo binh vốn là người mưu trí. Ông ra lệnh
đốt trên các trận địa pháo cũ - sau khi đã di chuyển hết - những đống lửa không
to lắm, trông sao cho thật tự nhiên, cốt cho quân địch tưởng rằng trong đêm giá
lạnh bọn pháo binh đỏ đang hơ ấm những đôi chân không giày của họ.
Sau khi đọc lại bản mệnh lệnh một lần nữa,
ông nghĩ bụng là dù sao cũng không nên bỏ trống hoàn toàn hai bên sườn, bèn quyết
định để lại ba mươi khẩu pháo ở miệt Xarepta và ở miệt Gumrak. Khi các tiểu
đoàn trưởng pháo binh đã báo cáo lại cho ông biết rằng pháo đã kéo đến vị trí mới.
Đạn dược và thuốc men đã được chở đến nơi và những đống lửa nghi binh đã được đốt
lên rải rác trên các trận địa cũ, tư lệnh pháo binh ngồi lên chiếc xe hơi cũ kỹ
chạy bằng dầu hỏa trộn rượu cồn, thùng xe kêu loảng xoảng như chiếc xe giàn của
dân Tzigan, đi về bộ tham mưu đóng ở nội thành Txaritxyn.
Xe ông nổ máy phành phạch chạy qua thành phố
tối tăm vắng vẻ, dừng lại bên tòa biệt thự nơi đóng trụ sở bộ tham mưu, chạy
theo dãy cầu thang tối om lên gác hai và bước vào một gian phòng lớn có những
khung cửa sổ Gô-tích và cái trần lát gỗ sồi, trong phòng chỉ thắp hai ngọn nến:
một ngọn đặt trên cái bàn dài bày đầy những giấy má, còn ngọn kia thì cầm trong
tay viên tư lệnh quân đoàn đang đứng trước tấm bản đồ treo trên tường. Bên cạnh,
ông chủ tịch hội đồng quân sự đang cầm bút chì màu đánh dấu cách bố trí các đơn
vị trong trận đánh ngày mai.
Tuy trong phòng chỉ có hai đồng chí thượng
cấp, lại vốn là chỗ bạn bè với nhau, viên tư lệnh pháo binh vẫn bước nghiêm
theo đúng quy chế nhà binh tới trước mặt họ, dừng phắt lại và báo cáo về những
bước đầu thi hành mệnh lệnh. Viên tư lệnh quân đoàn đặt cây nến xuống và quay về
phía ông. Chủ tịch Hội đồng quân sự rời bản đồ ra ngồi ở bàn giấy.
Tư lệnh pháo binh nói với ông:
- Trước rạng đông, hai mươi đội pháo sẽ được
chuyển đến khu vực trọng điểm. Còn bảy đội tôi để lại ở hai cạnh sườn, gần
Xarepta và Gumrak.
Chủ tịch Hội đồng quân sự châm tẩu thuốc
hút, giơ tay khoát làn khói lơ lửng trước mặt, rồi hỏi khe khẽ, giọng nghiêm khắc:
- Sườn nào? Xarepta và Gumarak có liên quan
gì đến đây? Trong bản mệnh lệnh không hề nói qua một chữ nào về hai bên sườn cả.
Đồng chí chưa hiểu mệnh lệnh.
- Không phải. Tôi đã hiểu rõ mệnh lệnh.
- Trong bản mệnh lệnh - (hai mi dưới của chủ
tịch hội đồng quân sự rung rung, và đôi mắt ông nheo lại). - Trong bản mệnh lệnh
đã nói rất rõ là phải tập trung toàn bộ pháo binh vào khu vực trọng điểm, không
trừ một khẩu nào.
Tư lệnh pháo binh đưa mắt nhìn sang tư lệnh
quân đoàn, nhưng cũng gặp một đôi mắt nghiêm nghị đầy ý cảnh cáo.
- Thưa hai đồng chí, - tư lệnh pháo binh
nói, giọng nhiệt thành, mệnh lệnh này đặt tính mệnh của toàn quân lên bàn cân.
- Đúng, - chủ tịch hội đồng quân sự xác nhận.
- Đúng thế, - tư lệnh quân đoàn nói.
- Thế thì sao lại có thể tập trung toàn lực
pháo binh vào khu trọng điểm mà lại để hở hai bên sườn? Căn cứ vào đâu mà tin
chắc rằng quân trắng nhất định sẽ đánh vào khu trọng điểm? Nếu chúng tiến công ở
một chỗ khác thì sao? Một mình bộ binh không đương nỗi đâu, qua ngày hôm nay họ
đã kiệt sức. Lúc bấy giờ mà chuyển pháo đi thì đã muộn mất rồi... Đó là điều
tôi sợ nhất... Xe lửa bọc thép không còn tác dụng nữa, đằng nào bộ binh cũng phải
rút khỏi con đường sắt vòng đai trong đêm nay... Đó là điều tôi vẫn sợ...
- Không sợ gì hết! - Chủ tịch hội đồng quân
sự gõ ngón tay xuống bàn hai lần. - Không sợ! Không được phân vân do dự! Chẳng
lẽ đồng chí lại không thấy rõ rằng quân trắng nhất định sẽ tập trung hết sức lực
đánh dốc vào khu vực trung tâm hay sao? Sau những cuộc tác chiến hôm qua, thế
trận bắt buộc chúng phải làm như vậy, không thể nào khác được. Bị thua to ở
Xarepta, chúng sẽ không nảy ra cái ý muốn thò đầu vào đấy một lần thứ hai nữa,
nhưng lại biết tin đại đoàn của Buđionny đang hành quân tiến đánh phía sau đạo
quân thứ năm. Thắng lợi hôm qua của chúng ở khu vực trung tâm là ở chỗ đã thọc
được một mũi nhọn vào trận tuyến của chúng ta. Cuối cùng, tất cả lợi thế của
cái bàn đạp ở Vorôpônơvô là dẫn tới Txaritxyn. Chính đồng chí đã báo cho tôi biết
việc chúng thay đội cô-dắc bộ binh bằng đại đoàn sĩ quan. Đồng chí hãy rút ra kết
luận đi. Đại đoàn sĩ quan là mười hai ngàn tên quân tình nguyện gồm toàn những
sĩ quan thiện chiến. Mamôntov tung ra một đơn vị như vậy không phải để thao diễn
cho vui mắt đâu... Ta có đủ cơ sở để đoán biết chắc chắn rằng chúng sẽ mở cuộc
tấn công vào khu trực diện.
- Các tin tức tình báo ban chiều đều xác nhận
điều đó, - tư lệnh quân đoàn nói, - quân bạch vệ đã điều từ phía bắc mười bốn
hay mười lăm trung đoàn và đang cho chúng di chuyển tới... Đó là chưa kể đại
đoàn sĩ quan...
- Như vậy, - chủ tịch hội đồng quân sự nói,
- địch quân đang tự tạo ra cho nó một tình huống mà nếu ta biết nắm lấy một
cách quả quyết, táo bạo, không phân vân, thì chính bản thân nó sẽ giơ những lực
lượng chủ yếu của nó ra cho ta tiêu diệt. Và nhiệm vụ của chúng ta ngày mai
không phải là đánh lui cuộc tấn công, mà là tiêu diệt nòng cốt của quân đoàn
sông Đôn...
Viên tư lệnh pháo binh nhoẻn rộng miệng cười,
ngồi xuống, rồi lấy nắm tay đấm một phát lên đùi mình:
- Táo bạo thật! - ông nói. - Táo bạo thật!
Chẳng có lý do gì bác lại. Thế này thì tôi cho nó một trận tơi bời chạy đến tận
sông Đôn cũng còn chưa hoàn hồn.
Chủ tịch hội đồng quân sự dịch ngọn đèn nến
lại gần tấm bản đồ 1/25.000, và viên tư lệnh pháo binh bắt đầu trình bày cách bố
trí pháo theo quan niệm của ông: đặt pháo kề sát vào nhau mấy dãy liền.
- Đừng đào công sự sâu xuống đất làm gì, -
tư lệnh quân đoàn nói - Cứ đặt pháo lộ thiên trên các gò đất. Sẽ điều bộ binh bố
trí sát các trận địa pháo. Gọi điện thoại cho các cấp chỉ huy đi.
Mấy phút sau trên khắp các trận tuyến dài bốn
mươi dặm bắt đầu diễn ra một cuộc di chuyển thầm lặng và vội vã. Trên cánh đồng
bằng tối sẫm, dưới bầu trời đầy sao với dải Ngân hà lấp lánh sáng hơn hẳn những
đêm thu thường lệ, những cỗ xe ngựa kéo đại bác và bức kích pháo lao đi, những
khẩu trọng pháo thắng tám đôi ngựa trườn tới, những cỗ xe giàn và xe ngựa hai
bánh phóng nước đại. Các đơn vị bộ binh kín đáo bỏ vị trí, lùi về phía sau, bố
trí dày đặc thành một phòng tuyến tập trung hình bán nguyệt.
* * *
Trên cánh đồng phủ sương băng trắng xóa
vang lên hiệu kèn báo thức giục giã các trung đoàn côdắc ra trận. Mặt trời lên
dần từ phía bên kia những cánh thảo nguyên vùng sông Volga. Xa xa đại bác cất
tiếng gầm, đại liên bắt đầu gõ từng tràng. Trận tuyến của hồng quân vẫn im lặng,
họ bố trí toàn lực trên cánh thảo nguyên, quay về phía mặt trời. Tất cả các đơn
vị pháo đều đã được lệnh đợi hiệu lệnh khai hỏa: bốn phát đạn bi nổ rất cao
trên trời.
Cuộc tấn công của bạch quân mở đầu bằng một
đợt pháo kích vũ bão bắn từ phía sau đường chân trời. Tất cả những gì có sinh mạng
đều nằm rạp xuống đất, thu mình lại. Mỗi mô đất, mỗi chỗ lõm nhỏ đều trở thành
những phương tiện tự vệ. Qua tiếng gầm thét của súng đạn thỉnh thoảng lại nghe
một tiếng thét man dại, rồi với những mô đất bị đạn xé tơi tả, một cái bánh xe
giàn hay một tấm áo khoác binh sĩ còn bốc khói bay tung lên trời. Trận pháo
kích mở đường kéo dài bốn mươi lăm phút. Khi binh sĩ đã có thể ngóc đầu lên thì
cả cánh đồng đã lố nhố những đơn vị bạch quân đang chuyển động. Các đơn vị sĩ
quan xích hầu súng cắm lưỡi lê, tiến thành mấy hàng ngang, bước thong thả,
không nấp né, rồi ở sau lưng họ là các tiểu đoàn sĩ quan tiến thành mười hai đạo,
hàng ngũ cách quãng đều đặn như đi duyệt binh. Hai lá quân kỳ của trung đoàn
giương cao lên, bay phất phới. Tiếng trống trận dồn dập, tiếng sáo của nhạc binh
réo rắt. Và ở phía sau bộ binh nhấp nhô những đội kỵ mã cô-dắc đông hằng hà sa
số...
- Ivan Ilyits ạ, đấy mới thật là kẻ thù
giai cấp! Thật là những tay dạn dày lửa đạn!
- Trang phục đến chỉnh tề... Bữa ăn nào
cũng có thịt...
- Chao ôi! Áo quần ấy mà đâm rách thì tiếc
thật...
- Các đồng chí đừng đùa nữa, phải chú ý chứ!
- À đấy là chúng tôi sợ quá đâm ba hoa đấy,
đồng chí Têlêghin ạ...
... Các hàng trước dồn bước tiến nhanh hơn,
chúng chỉ còn cách dăm trăm bước nữa... Đã có thể trông rõ mặt những tên đi đầu...
Mong sao đừng phải trông thấy những gương mặt ấy một lần thứ hai nữa - những
đôi mắt sâu hoắm, trắng dã ra vì căm thù, những đôi gò má căng thẳng, những cái
miệng mím chặt đang sẵn sàng quác ra hô: “ura!”.
Tư lệnh pháo binh, người chồm quá nửa ra
ngoài, ở chỗ tường tháp nước lở ra một khoảng, giơ tay ra phía sau để ra hiệu
cho điện thoại viên: bốn quả đạn bi! Ông đợi thêm một phút nữa: phải để cho những
đoàn quân dày đặc đang đi đều bước, nhấp nhô theo nhịp trống và sáo quân nhạc ấy
vượt qua đường xe lửa chạy quanh thành phố... Một phút nhỏ nữa thôi... Miễn sao
cái lũ quỷ sứ ấy đừng chuyển sang bước chạy...
- Đồng chí đại đội trưởng ơi - Tôi không nhịn
được nữa rồi... Thật đấy mà.
- Trở vào hào ngay! Rõ đồ...
- Buồn nôn quá... Tôi ra đằng này một chút
thôi...
- Tao bắn chết bây giờ, rõ đồ...
- Ấy đừng, đồng chí Ivan Gora! Đừng!
- Cầm lấy súng!
... Viên tư lệnh pháo binh trù tính: những
hàng đầu sắp đến chỗ cái cột trụ kia... Hàng đi trước đã cong lại, nhấp nhô,
đoàn người đã bắt đầu bước lộn xộn... Nheo đôi mắt lại, ông nhìn thấy rất rõ
cái cột trụ nghiêng nghiệng mắc đoạn dây điện... Chính nó quyết định số phận của
toàn thể trận tấn công, số phận của ngày hôm nay, số phận của Txaritxyn, số phận
của cách mạng nữa, mẹ kiếp!... Và đây tên sĩ quan đi ủng vàng kia trượt qua cái
cột trước tiên... Tư lệnh pháo binh xòe bàn tay ra, rụt người lại, quát bảo điện
thoại viên: “Hiệu lệnh!”.
Bốn quả đạn bi nổ rất cao trên đầu các đoàn
quân đang tiến, in lên nền trời trong vắt bốn đám mây nhỏ mịn như bông. Một tiếng
rền nặng nề chưa ai từng nghe thấy bao giờ làm cả bầu không khí rung chuyển dữ
dội. Điện thoại viên đánh rơi ống nghe và giơ hai tay lên bưng tai... Tư lệnh
pháo binh giẫm giẫm đôi chân như khiêu vũ, và đôi tay ông vung lên hạ xuống như
đánh nhịp cho một dàn nhạc...
Cánh đồng bằng vừa mới đây còn dày đặc những
tiểu đoàn hàng ngũ chỉnh tề mặc quân phục màu xanh xám đang tiến quân hùng
dũng, bỗng biến thành một cái miệng núi lửa khổng lồ đang phun lửa khói. Qua
làn bụi và khói có thể nhìn thấy rõ những hàng tiền quân hốt hoảng nằm phục xuống,
và những đội hậu quân hàng ngũ rối loạn hẳn đi. Từ phía bắc, trên quãng đường sắt
chạy quanh thành phố chưa bị chiếm, những đoàn “xe bay” bọc thép kéo thẳng tới
đánh úp sau lưng quân địch. Các đại đội đỏ lao ra khỏi chiến hào tiến lên phản
công. Viên tư lệnh pháo binh giật phắt ống nghe trong tay điện thoại viên: “Chuyển
sâu hỏa lực vào phía sau quân địch!”. Và khi một cơn bão lửa dữ đội đã chặn đứng
đường rút lui của bạch quân, những đoàn xe vận tải chở đại liên xông thẳng vào
những hàng ngũ chúng. Sự tan rã bắt đầu.
8
Đasa đang ngồi trong một cái sân nhỏ, trên
chiếc thùng gỗ có đề hai chữ “Dược liệu”, hai bàn tay đặt lên đùi, đỏ ửng vì mới
rửa nước lạnh. Hai mắt nhắm nghiền, nàng để mặc cho ánh nắng tháng mười mơn man
trên da mặt. Trên cây xiêm gai trụi lá, nơi cái bóng rợp hắt từ mái nhà xuống vạch
thành một đường thẳng, mấy con chim sẻ no căng cả diều đang xù lông ra, rỉa
cánh, chùi mõm, khoe khoang khoác lác với nhau. Chúng vừa ở ngoài phố bay vào
đây: ở ngoài ấy, trước ngôi biệt thự một tầng quét vôi trắng, mặt đường phủ đầy
những phân ngựa và thóc vung vãi khắp nơi, muốn ăn bao nhiêu cũng có. Mấy chiếc
xe giàn kéo đến, và bầy chim sẻ hoảng sợ bay lên đậu trên cây phong. Tiếng chim
hót ríu rít. Đasa nghe như một điệu nhạc dễ chịu vô cùng, mà chủ đề là: dù có
thế nào chăng nữa ta vẫn sống.
Nàng mặc một chiếc áo choàng trắng, dây máu
loang lổ, khăn bịt đầu thắt rất chặt xuống tận đôi mày. Trong thành phố, các cửa
kính không còn rung lên rè rè vì tiếng đại bác nữa, cũng không còn nghe tiếng
bom máy bay nổ ì ùng. Cơn kinh hoàng của hai ngày hôm ấy đã kết thúc bằng tiếng
ríu rít của bầy chim sẻ. Nghĩ cho sâu nữa, thì thậm chí còn thấy bực mình: cái
lũ chim no căng cả diều này tuồng như coi khinh con người hay sao ấy... Chíp
chiu, chíp chiu, chim sẻ bé mà bé hạt tiêu, nó mổ tí thóc, bươi chút phân ngựa,
nó nhảy qua nhảy lại từ cành này sang cành khác qua đầu con chim mái, hót với
theo vầng thái dương đang ngả dần về phía chân trời, rồi đi ngủ cho đến sáng -
đấy, tất cả sự khôn ngoan của cuộc đời chỉ có thế...
Đasa nghe thấy tiếng xe giàn lần lượt đỗ ở
ngoài cổng. Họ đã chở thêm thương binh về, khiêng vào biệt thự. Nàng mệt mỏi
quá rồi, không giương nổi đôi mi trong trong đang để lọt vào mắt nàng một ít nắng
màu hồng. Khi nào cần, bác sĩ khắc gọi... Cái ông bác sĩ ấy kể cũng dễ thương
thật: giọng quát tháo thì lỗ mãng, nhưng cái nhìn thì dịu dàng âu yếm. Vừa rồi
ông ấy nói: “Đarya Đmitrievna, ra sân ngay lập tức, cô chẳng còn làm được cái
trò trống gì nữa đâu, ra kiếm một xó nào mà ngồi ngủ gật, khi nào cần tôi sẽ
đánh thức...”. Nói chứ trên đời cũng có lắm người hay thật đấy! Đasa nghĩ bụng:
giá thử ông ấy ra sân hút thuốc một lát thì thích quá, nàng sẽ kể cho ông ta
nghe những điều nàng đã quan sát được ở loài chim sẻ: cái giống chim này nàng
thấy nó rất thâm thúy. Và nếu bác sĩ thích nàng, thì có gì là xấu nào?... Đasa
thở dài một tiếng, rồi lại một tiếng nữa, lần này tiếng thở dài của nàng nặng
trĩu. Người ta có thể chịu đựng được hết, cái gì cũng thế, dù cái đó có vượt ra
ngoài sức tưởng tượng chăng nữa, nếu người ta gặp một khóe mắt âu yếm dịu
dàng... Dù khóe mắt ấy chỉ thoáng qua trong khoảnh khắc, nó cũng làm dấy lên được
những sức mạnh tinh thần, làm bừng dậy niềm tự tin. Thế là con người sống lại...
Chao ôi! lũ chim sẻ kia, chúng mày chẳng hiểu được điều đó đâu!...
Bác sĩ chẳng thấy ra cho, mà chỉ thấy một
ông có bộ mặt vàng vọt, bứt rứt, với đôi mắt bi đát, từ dưới tầng nền dùng làm
nhà bếp chui lên. Ông ta mặc chiếc áo bành tô của sở quốc dân giáo dục, nhưng lần
này quanh lưng không thắt sợi thừng nữa. Bước lên được mấy bước trên cái bậc cấp
bằng gạch, ông ta vươn cái cổ khẳng kheo ra nghe ngóng một lát. Nhưng chẳng có
gì ngoài tiếng chim sẻ ríu rít.
- Khiếp quá. - ông ta nói: - Thật là một
cơn ác mộng! Một cơn mê sảng!
Ông ta giơ hai tay lên bịt tai rồi lại
buông xuống ngay. Mặt trời hãy còn thấp chiếu nghiêng một bên mặt ông ta, làm nổi
bật cái sống mũi mỏng trông như giòn tan, và đôi môi húp.
- Lạy Chúa, không biết đến bao giờ mới hết
cái nông nỗi này!... Cô đã bao giờ gặp một cơn mê sảng âm thanh không? - Ông ta
bỗng hỏi Đasa. - Xin lỗi cô, tôi chưa được làm quen với cô, nhưng tôi biết cô từ
lâu... Tôi gặp cô từ dạo trước chiến tranh, ở Pêterburg, trong những buổi “Dạ
đàm triết học”... Dạo ấy cô trẻ hơn, nhưng bây giờ cô đẹp hơn, chững chạc
hơn... Cơn mê sảng âm thanh khởi đầu bằng một tiếng ào ào xa xăm, nó hãy còn câm
lặng, nhưng nó tiến tới gần với một tốc độ khủng khiếp. Dần dần nổi lên một tiếng
gầm gào phức tạp không hề có trong thiên nhiên. Cái tiếng ấy tràn đầy cả tai, cả
óc người ta. Người ta biết rõ rằng thật ra không có gì hết, nhưng cái tiếng ấy
nó ở trong bản thân người ta ấy... Cả tâm hồn người ta căng thẳng lên, tưởng chừng
như chỉ thêm một chút nữa là người ta sẽ không tài nào chịu nổi những tiếng kèn
Jêrikô ấy nữa... Người ta ngất đi, và nhờ đó mà thoát nạn... Tôi xin hỏi cô:
bao giờ mới kết thúc?
Ông ta đứng trước mặt Đasa, quay lưng về
phía mặt trời bẻ mấy ngón tay xương xẩu kêu răng rắc.
- Tôi phải đi bới đất sét đem nhào cho mềm
để chữa bếp lò, người ta bắt chúng tôi chui vào tầng nền vì chúng tôi là “phần
tử không lao động”... Cha tôi suốt đời làm ông đốc trường trung học, đã lấy tiền
dành dụm được mà xây ngôi nhà này... Đấy, cô làm ơn nói rõ cho họ biết như thế...
Trong tầng nền la liệt những viên gạch cháy dở; chỉ có hai cái cửa sổ nhỏ trông
ra vỉa hè, bụi bám dày đến nỗi ánh sáng không lọt vào được. Sách của tôi bị chất
đống trong xó... Mẹ tôi đau tim, bà cụ đã năm mươi lăm tuổi rồi, em gái tôi bị
liệt chân vì bệnh sốt rét. Trời thì sắp sang đông rồi.. Ôi, trời ơi!
Đasa chợt nghĩ rằng ông này, cũng giống như
linh hồn Đường trong vở “Con chim xanh” diễn ở Nhà hát Nghệ thuật, sắp tự bẻ
gãy hết mười ngón tay của ông ta ngay bây giờ.
- Kẻ nào không làm thì không ăn!... Tốt
nghiệp khoa Văn - Sử, gần làm xong luận án... Đi dạy ba năm ở trường nữ học
trong cái thành phố tai hại này, trong cái xó vô hy vọng này, chân tay thì bị
trói chặt vì bệnh tình của mẹ và em gái... Thế rồi để kết luận cho cả quãng đời
ấy: kẻ nào không làm thì không ăn! Người ta dúi một cái xẻng vào tay tôi, dùng
vũ lực bắt tôi đi đào hào và dọa nạt tôi để tôi phải cúi mình trước cách mạng.
Cúi chào bạo lực cưỡng bức tự do!... Cúi chào sự toàn thắng của những vết
chai!... Cúi chào sự lăng mạ khoa học!... Tôi chẳng phải là quý tộc, cũng chẳng
phải là tư sản, cũng chẳng phải là Trăm Đen. Tôi còn mang một vết sẹo vì bị ném
đá trong cuộc biểu tình của sinh viên... Nhưng tôi không muốn cúi mình khuất phục
một cuộc cách mạng đã lùa tôi vào tầng nền... Tôi lao tâm mài giũa trí tuệ
trong bấy nhiêu năm không phải để đứng sau một khung cửa sổ bụi bặm nhìn chân
những kẻ đắc thắng đang giẫm trên vỉa hè... Và tôi cũng không có quyền dùng bạo
lực để kết liễu cuộc đời: tôi còn có mẹ và em... Ngay trong giấc chiêm bao tôi
cũng không biết trốn đi đâu, nấp vào đâu cho thoát... “Ta sẽ đem theo những ngọn
đuốc cháy rực!...”. Nhưng chẳng biết đem đi đâu cho ổn, trên quả đất này làm gì
còn những hang động hẻo lánh nữa!...
Ông ta nói liến thoắng, mắt đảo lia lịa.
Đasa nghe ông ta nói, trong lòng chẳng thấy ngạc nhiên mà cũng chẳng hề thương
xót, cứ như thể con người khích động từ trong bếp chui ra này cũng chỉ là một sự
kết thúc tất yếu của những ngày khủng khiếp này, của tiếng đại bác, của ánh lửa
cháy nhà, của tiếng thương binh rên rỉ.
- Vì lẽ gì cô đến với họ? - ông ta bỗng hỏi
với một giọng cáu kỉnh bất ngờ. - Vì nông nổi chăng? Hay vì sợ? Hay vì đói? Cô
nên biết rằng đã hai ngày nay tôi theo dõi cô, tôi nhớ lại hồi ở Pêterburg
trong những buổi “Dạ đàm triết học” tôi đã im lặng ngắm cô, không dám lại gần
mà làm quen... Cô gần như là cô thiếu nữ không quen biết của Blôk... (Đasa nghĩ
ngay: “Tại sao lại gần như?”). Một nàng công chúa đang thêu những tấm màn kim
tuyến mà lại mặc áo choàng bẩn, hai tay đỏ ửng lên, suốt ngày khiêng cáng
thương binh... Khủng khiếp quá, khủng khiếp quá!... Bộ mặt của cách mạng là thế
đấy...
Đasa bỗng nổi giận: môi mím chặt, không
thèm nói lấy một lời để đáp lại con người bủng beo mắc chứng suy nhược thần
kinh ấy, nàng đi vào nhà. Tương phản với làn không khí mát mẻ ngoài sân, cái
mùi nặng nề của chất iốt và của những thân thể bị thương phả vào mặt nàng.
Trong mỗi phòng đều có thương binh nằm trên
những chiếc giường con bằng ván kê sát vào nhau. Trong phòng mổ (căn phòng mà
trước đây ông giáo trường nữ học đã ngồi viết luận án) nàng tìm thấy bác sĩ.
Ông đang dùng khăn bông lau đôi cánh tay lông lá, ống tay áo xắn lên quá khuỷu.
Trông thấy Đasa, ông nháy cặp mắt nâu nhạt:
- Thế nào, đã có đủ thì giờ cho cái mũi
xinh xinh kia hít thở ít không khí trong lành rồi chứ? Tôi vừa mổ một ca khá lý
thú đây này: tôi cắt của một chàng trai năm tấc ruột non, và một tháng nữa, anh
ta sẽ uống vôtka với tôi cho mà xem! Lại có một người chỉ huy bị choáng nặng nữa...
Tiêm long não rồi, tim đã đập đều, nhưng chưa tỉnh lại... Cô theo dõi mạch nhé,
nếu mạch bắt đầu giảm thì tiêm phát nữa...
Vắt cái khăn bông qua vai, bác sĩ dẫn Đasa
đến một chiếc giường ván. Người nằm sóng sượt trên giường là Ivan Ilyits
Têlêghin. Mắt chàng nhắm nghiền lại như thể bị một ánh sáng gay gắt rọi vào.
Đôi môi mím chặt. Bàn tay trái của chàng đặt trên ngực. Bác sĩ cầm bàn tay ấy
lên, bắt mạch rồi khẽ lay lay:
- Cô thấy không, tay siết chặt như bị co giật...
Đôi khi có những ca choáng dạng rất lạ... Chứng này chưa được nghiên cứu mấy...
Ở đây cũng có một cơ chế giống như chứng co giật của trẻ sơ sinh... Hệ thần
kinh trung khu chưa kịp có biện pháp chống lại sức tấn công đột ngột...
Bác sĩ dừng lại ở giữa câu, vì bản thân ông
cũng choáng đi, tuy ở mức thấp hơn... Đarya Đmitrievna đã quỳ xuống bên giường
và úp mặt vào bàn tay của người chỉ huy mà bác sĩ vừa buông xuống.
9
Vađim Pêtrôvits Rôstsin thức dậy muộn trong
gian phòng trọ có khung cửa sổ bẩn thỉu dán tờ báo đã ngả sang màu vàng, trên
cái giường quá ngắn, dưới tấm chăn mỏng manh. Xe lửa đến khuya mới rời ga. Trước
mặt chàng có cả một ngày trống trải. Trong hộp thuốc lá còn mỗi một điếu. Chàng
vê điếu thuốc lá, châm lửa hút và lẩn thẩn nhìn bàn tay gầy guộc nổi đầy gân
xanh, da sần lên như da gà. Chàng đã đi tìm Katya mãi mà chẳng có kết quả gì...
Hạn nghỉ phép đã hết, phải trở về trung đoàn đang đóng ở Kuban.
Hai ngày nữa chàng sẽ xuống tàu, ngồi lên một
chiếc xe ngựa, đi qua thảo nguyên, không nói chuyện với người lính ngồi đánh
xe. Trong làng cô đắc, trên con đường làng rộng thênh thang bánh xe ngựa sẽ sỉa
xuống những đường rãnh đầy nước mưa - thứ nước mưa vô bổ của tháng một. Chàng sẽ
rời xe bước xuống mặt đất lầy lội, sẽ sai lính đưa va ly vào nhà và sẽ đi bộ đến
ban quản trị thôn, nơi đóng đại bản doanh của viên trung đoàn trưởng là thiếu
tướng Svêđê.
Chàng sẽ thấy cái lão ngốc bảnh chọe ấy
đang ngồi đọc thơ của phái tượng trưng: “Chiếc vòng lửa” của Xôlôgub hay “Hạt
ngọc” của Gumilev. Báo cáo xong xuôi, Vađim Pêtrôvits sẽ được nhận một trung đội.
Cũng có thể là một đại đội. Cuộc sống đơn điệu lại bắt đầu: ngày này qua ngày
khác, hết tập lính lại đến câu lạc bộ sĩ quan; ở đấy người ta sẽ hỏi chuyện
chàng về những cô em xinh đẹp, những buổi chè chén, sẽ châm biếm cái dạng người
gầy guộc, bộ tóc hoa râm và vẻ mặt lầm lì của chàng. Tối tối, chàng sẽ lại đi
đi lại lại từ góc này sang góc khác trong căn nhà cắt cho chàng. Đến mười giờ
người lính cần vụ lại lặng lẽ rút ủng ra cho chàng... Đó là một khả năng. Còn một
khả năng nữa, nếu trung đoàn đang ở mặt trận, đang tham chiến...
Chàng mường tượng thấy lại cánh thảo nguyên
cằn cỗi với những đám mây phương bắc nối tiếp nhau từng hàng, những cái ống lò
sưởi giữa đống tro tàn, những chiếc xe giàn chở thương binh bị sa bánh xuống
bùn, những xác ngựa và ở cuối thảo nguyên là dãy chiến hào với những binh sĩ nằm
lăn lóc cạnh những bãi cứt và những tấm giẻ rách đẫm máu... Chàng hình dung thấy
mình là một anh làm trò chuyên nghiệp, một gã định mệnh chủ nghĩa trứ danh đang
nêu một tấm gương căm thù lạnh lùng tuy mình không còn lòng căm thù ấy nữa, tuy
lòng căm thù ấy đã chết từ lâu. Nghĩ đến những con người, chàng chỉ thấy ghê tởm
và buồn nôn.
Chàng nhổm người dậy trên giường, cố cài
khuy áo lại, với tay nhặt cái quần rơi dưới sàn tìm thuốc lá, rồi lại nằm xuống
như cũ, hai tay chắp dưới gáy.
“Dù sao cũng không thể nào tiếp tục mãi với
cái tâm trạng này được” - chàng khẽ thốt lên, nhưng giọng chàng nói nghe như giọng
một người lạ, khiến chàng khó chịu, thậm chí ghê tởm... “Tại sao lại không thể
được? “Dù sao” là cái quái gì? Mọi thứ đều có thể được tất! Cho chí lấy nịt da
treo cổ lên cũng được là... Phải đấy, Rôstsin ạ, cho nó trung thực một chút...
Cứ làm bộ dè bỉu mãi... Chẳng qua mày cũng khốn nạn như những thằng khác thôi”.
Và chàng bắt đầu hồi tưởng lại một cách hằn
học, như để trả thù, hàng nghìn những cuộc gặp gỡ đã diễn ra ở đây, ở
Êkatêrinôxlav... Những người đàn bà mang dấu vết của cuộc tản cư trên mặt, với
những tàn dư thảm hại của sự đoan trang, chạy khắp các khách sạn gạ bán thứ này
thứ nọ, đều là những thứ “quý vì mang nhiều kỷ niệm”; những ông tướng mà người
ta vừa vỗ vỗ vào lưng vừa gọi là “ông bạn”, những tên đầu cơ cằm cạo xanh biếc,
má béo căng lên, suồng sã đến mức điên loạn, am hiểu tường tận việc mua bán giấy
chứng nhận vận chuyển các hàng hóa của nhà nước bằng đường sắt, những lão trang
chủ to mồm đã rời trang viên ra đây vì sợ cách mạng; họ chen chúc trong các
phòng trọ chật hẹp, với bà vợ ngu ngốc và mấy cô con gái người dài thườn thượt,
mặt đầy tàn hương và lòng đầy thất vọng, họ vay giật lung tung, ăn uống thỏa
thuê ở tiệm, lại bày cho bọn đầu bếp làm những món không tiền khoáng hậu, họ gọi
cách mạng là chuyện tầm bậy và nhìn chung họ tiêu dao ngày tháng trong những niềm
hy vọng diễm huyền nhất mà giới quý tộc Nga vẫn luôn luôn ấp ủ ngay trong những
thời kỳ khó khăn nhất. Chàng nhớ lại những con người thuộc đủ các hạng đã từng
gặp trong phòng mắc áo của khách sạn: đó là những người đã mất diện mạo xã hội
một cách cực kỳ nhanh chóng: phải căn cứ vào những bộ khuy mang tộc hiệu và những
cái mũ lưỡi trai của họ mới đoán được rằng người này là một công tố viên đang
bám riết lấy một thằng nhãi ranh trâng tráo nào đấy - một tên đầu cơ may mắn -
ra sức nài hắn mua cho một cái đồng hồ vỡ, còn người kia là một ông trưởng
phòng thuế trực thu, tóc bạc, tay chống gậy, lúc nào cũng ho hen; ông này hình
như đã phát mại hết đồ đạc, chỉ còn biết đưa đôi mắt ghen tị nhìn những cuộc
mua bán lắm tiền, những bàn tay thoăn thoắt xỉa đếm những tờ giấy bạc kêu sột
soạt...
Những tên đầu cơ tháo vát ăn mặc bảnh bao
bay vút qua những khung cửa lễ trưng, mấy ngón tay vung lên liến thoắng, đôi mắt
đảo lia lịa, xúm xít lại từng cụm nói thì thầm với nhau những gì có vẻ hồi hộp
lắm, rồi lại lao ra phố, như những Hermex có cánh - những ông thần của thương mại
và lợi nhuận. Trong phòng mắc áo có thể hỏi han về đường đi lối lại của các
chuyến vận tải hàng hóa nhà nước, về chuyện thùng chứa dầu máy bị đánh cắp, về
giá cả đồng đô la mỗi ngày lên xuống đến mấy lần, tùy theo những cuộc phản công
của Đức hay của Pháp trên mặt trận phía Tây, nhưng đây đã là những việc nghiêm
trang rồi... Bọn đầu cơ cỡ nhỏ trong phòng mắc áo tản ra hai bên, những đôi mắt
hấp háy vì hồi hộp dồn vào một con người “cỡ bự”...
Đĩnh đạc và ung dung, con người “cỡ bự” ấy
bước vào, mình mặc một chiếc áo bành tô rất dài, đầu đội mũ lưỡi trai kiểu nhỏ
hay mũ nhung hất ngược ra sau gáy, tay cầm ô, râu cằm vuốt ngược lên hai bên
má: đối với bộ râu bất khả xâm phạm này, mỗi khi muốn tập trung tư tưởng chỉ có
thể dùng mấy ngón tay tách ra một sợi mà vê thôi. Đôi mắt hắn phản ảnh một cuộc
sống tinh thần căng thẳng tách ra ngoài những chuyện vặt vãnh tầm thường, vì
chưng hắn là một nhà tư tưởng: hắn chuyên đối chiếu tìm tòi ra những phạm trù
quy định sự hưng suy của những vật kết tinh năng lượng thế giới, nghĩa là của
tiền tệ.
Ở đây, trong gian phòng mắc áo và trên các
phố gần khách sạn, đang diễn ra một trò chơi đặc biệt. Nó bị chính quyền Hetman
và bộ tư lệnh quân chiếm đóng của Đức chính thức ra lệnh cấm. Những người tham
cuộc luôn luôn di chuyển trên vỉa hè, từ cửa khách sạn đến ngã tư gần nhất. Bằng
những đôi mắt nhìn chằm chặp, bằng cử động của mấy ngón tay, họ giao dịch với
nhau, kẻ mua người bán. Không một ai trong bọn họ mang tiền bạc trong người: tiền
được giấu rất kỹ, và số tiền đang có trong thành phố không ai có thể biết được.
Họ đánh cá vào sự lên xuống của giá cả tiền tệ và thanh toán với nhau bằng giấy
bạc của chính quyền Hetman. Chỉ trong một phút có thể hình thành cả những cơ
nghiệp, chỉ trong một phút một gã đại phú có thể trở thành một thằng ăn mày. Kẻ
gặp may kéo bạn bè vào quán giải khát ăn bánh ngọt và uống cà phê hạt sồi, kẻ gặp
vận rủi tuyệt vọng đi lang thang trên đại lộ, và ngọn gió tháng một đang lùa những
mảnh giấy vụn và những chiếc lá úa bay trên mặt tường cũng hất tung những vạt
áo bành tô dài của hắn lên.
Những con người trọ trong khách sạn này tụ
họp lại trên các vỉa hè, trong các hiệu thuốc lá, trong các quán cà phê, trong
các quán saslyk, buôn bán và lừa đảo
của nhau. Họ là một bộ phận của cái bầy gia súc ồn ào, tạp ăn đang rống đang
gào trong tất cả các thành phố đã cướp được của cách mạng, nơi không có ai cản
trở họ nhậu nhẹt, sinh sống, giao cấu, lừa đảo và đầu cơ... Cái bầy gia súc ấy
phải được bảo vệ bằng lưỡi lê và đại bác, người ta phải chiếm thêm cho nó những
thành phố mới, phải khôi phục lại cho nó cái nước Nga vĩ đại, thống nhất, không
thể chia cắt được, sau khi đã quét sạch bọn bôlsêvik bẩn thỉu.
- Toàn những chuyện đê tiện và gian trá! - Vađim
Pêtrôvits lại nói to lên. - Chà, nếu đào ngũ quách thì sao nhỉ?
Và chàng bắt đầu suy nghĩ đến việc đó, lần
đầu tiên trong đời cởi bỏ những sợi dây cương luân lý, khoái chá phát hiện
trong bản thân mình những lớp quặng của sự đê hèn và tính ti tiện... Thậm chí
chàng còn cười phá lên, hai hàm răng nghiến chặt... Những ý nghĩ của chàng như
một sáng tạo bất ngờ, như tội lỗi đầu tiên...
“Vì những thánh tích thiêng liêng nào anh bạn
phải rong ruổi suốt đời với đôi dây cương căng thẳng như vậy? Anh vẫn tự coi là
người tử tế, anh thuộc một giới thượng lưu trong xã hội, thậm chí còn rời trung
đoàn vào trường đại học để mở rộng tầm mắt nữa... Hồi niên thiếu anh thấy mình
giống Anđrây Bolkônxki, - Tính bồng bột làm cho anh khoái chí, và như vậy cũng
đủ lắm rồi: anh cảm thấy mình trong sạch. Anh quay mặt đi trước tất cả những
cái gì ô trọc và đáng ngờ, như khi đứng trước một hố rác. Trong đời anh chỉ có
ba lần dan díu với những người đàn bà có chồng, và anh đã đoạn tuyệt với những
người đàn bà ấy đúng vào khi mối quan hệ lên đến cực điểm của sự tinh vi, khi sự
tò mò hồi hộp bắt đầu nhường chỗ cho những chiếc hôn đậm đà, những quen thuộc...
Và đây là bản tổng kết: cuộc đời trong sạch, ngẩng cao đầu lên mà sống đó đã
đưa anh đến đâu? Đến một đống tro tàn! Từ một con người, anh chỉ còn là một cái
ống lò sưởi cháy nham nhở!”
Trong khi tổng kết lại cuộc đời mình như vậy
Vađim Pêtrôvits bắt đầu suy tính một cách có phương pháp những khả năng đào
ngũ. Trốn ra nước ngoài chăng? Cả thế giới đang ngùn ngụt lửa chiến tranh. Đâu
đâu bọn mật thám cũng đi lùng bắt những người ngoại quốc khả nghi giam vào nhà
tù rồi đem treo cổ... Trên khắp thế giới những chuyến tàu đều chở đầy những gã
thanh niên tươi trẻ cường tráng... “Tru-la-la, - những gã thanh niên ấy gân cổ
lên hát, - ta hãy mau đánh tan lũ lợn Đức và trở về với các bạn gái tươi vui...”
- Trên các đại dương, ngư lôi phóng tới tấp vào tàu chở lính, và các gã thanh
niên tươi vui ấy bơi hì hụp trong nước biển giá lạnh xung quanh một vệt dầu... Ở
châu Âu những đoàn người trai trẻ mặc quân phục màu ngụy trang may như kiểu may
khăn liệm, kéo nhau từng hàng dài, tuyệt vọng và ngoan ngoãn phơi ngực ra trước
hỏa lực của súng máy, súng phóng bom, súng cối, súng phun lửa. Trước mặt cũng
có súng bắn, sau lưng cũng có súng bắn. Không thể nghĩ đến chuyện trốn ra nước
ngoài được... Có thể len lỏi về Ôđexxa, kiếm tờ hộ chiếu màu tím, và vào một hiệu
Saslyk làm hầu bàn... Nhưng nhỡ có ai
bỗng thốt lên: “Ủa! Có phải Rôtsin kia không, té ra anh đấy à, anh bạn?”. Hay
là đi buôn lậu những hàng lặt vặt, hay là đi ăn cắp? Muốn thế cần phải có một vốn
yêu đời rất lớn... Hay làm ma cô? Già quá mất rồi... “Thôi được, cứ cho là anh
có được một cách nào đó sống qua ngày cho đến khi thắng lợi hoàn toàn: bọn xã hội
chủ nghĩa sẽ bị treo cổ, bọn mu-gích sẽ bị một trận đòn chí tử, bọn Anh tha thứ
cho ta rồi, ta sẽ chuộc lỗi bằng cách trưng tập một đạo quân ở bên kia sông
Volga để đánh Đức. Sẽ phát vũ khí cho binh sĩ, và vào một ngày mưa gió sụt sùi
lính tráng sẽ nổi lên chém giết các sĩ quan, các vị anh hùng của “chiến dịch
băng giá”, và câu chuyện cổ tích lại sẽ bắt đầu từ đầu. Tội nghiệp Katya của
tôi, mãi vẫn không sao tìm được, biết đâu bây giờ chẳng đang nằm ở một nhà ga
nào đã mất hết cửa kính, giữa những đám người nằm lăn lóc khắp nơi, kẻ thì ngủ,
kẻ thì đang mê sảng, kẻ thì đã chết từ bao giờ, đang gọi mình lần cuối cùng: “Vađim,
Vađim...”. Như vậy hãy còn một khả năng nữa: thắt cổ, ngay lập tức... Sợ ư? Chẳng
sợ chút nào - chỉ thấy khó chịu khi phải tự hành hung như vậy...”.
Hai bàn tay chàng lạnh như băng, hơi lạnh
lan sang cả gáy chàng. Chàng không sao quyết định được một điều gì. Và cứ như
thể có những thằng người tí hon đang chạy trên người chàng như đàn ruồi, lôi ý
chí của chàng, linh hồn chàng đi đâu hết... Khi nào trời tối, chàng sẽ dậy, mặc
quần, đi bộ ra ga và chắc hẳn lại còn mua thuốc lá để hút dọc đường nữa... Và
chàng sẽ sống - một người như thế gươm cũng chẳng bén tới được, đạn cũng chẳng
bắn trúng, rận sốt phát ban cũng chẳng dám cắn vào...
Bên kia bức tường, nơi có đặt cái tủ ngăn
chắn ngang tấm cửa, nãy giờ có hai giọng đàn ông cáu kỉnh cãi nhau từ lâu. Một
trong hai người đang cãi nhau bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: “Này ông
Paprikaki, giá tôi là thượng đế...”. Nhưng người kia không để cho hắn nói hết: “Này,
Gabelx, anh chẳng phải là thượng đế, anh là một thằng ngu! Điên rồi hay sao mà
lại đi mua cổ phần của hãng thép Krupp nửa giờ trước khi báo ra...”. - “Này
ông, thì tôi có phải là thượng đế đâu!” - “Này Gabelx, anh có rút gan rút ruột
ra cũng không đủ bù vào những chỗ thua lỗ của tôi đâu, anh chỉ là một thây
ma...”.
Những câu này cứ như cố tình rót vào tai
Vađim Pêtrôvits. “Chà, quỷ thật - chàng nghĩ thầm, - giá bắn vào tấm cửa kia
thì thích quá...”. Một lát sau, bên kia cánh cửa ăn thông ra hành lang của
khách sạn bắt đầu có tiếng chân người chạy thình thịch và những tiếng nói xúc động:
“Phải đi mời bác sĩ chứ!...” - “Còn mời bác sĩ làm gì, người đã cứng ra rồi...”
- “Nhưng chuyện gì thế, đầu đuôi ra sao?” - “Ra sao thì ra, việc gì đến anh?”.
Những tiếng nói lao xao bỗng im bặt, có tiếng
cựa giày lẻng xẻng.
- Thưa ngài cảnh sát trưởng, xin ngài thứ lỗi
cho, có đúng anh ta là cháu hoàng đế Áo không ạ?
- Đúng, cái gì cũng đúng hết... Nào thôi,
xin mời các vị ra khỏi hành lang cho.
Rồi ngay sát cửa, có hai tiếng người nói khẽ:
- Tuyệt nhiên không phải là vụ tự sát, ông
ta bị chính viên sĩ quan hành dinh của ông ta bắn chết: viên sĩ quan này là một
tên bolsêvik.
- Thế là thế nào nhỉ: sĩ quan Áo mà lại là
bolvêvik à?
- Chứ gì nữa! Đâu đâu cũng có bọn ấy...
Không riêng gì ở Viên đâu. Kể từ hôm qua, Berlin đã lọt vào tay chúng...
- Trời ơi, trời ơi, tôi không thể nào hình
dung nổi...
- Vâng ạ, phải trốn đi thôi...
- Trốn đi đâu?
- Có trời biết, trốn đến một hoang đảo nào
đấy...
- Đúng... Hôm qua có người kể chuyện là bên
Nam dương thuộc Hà lan có những đảo mọc toàn những cây bánh mì. Ở đấy chẳng cần
mặc áo quần gì hết. Nhưng làm thế nào sang đến đấy được?
Rồi một thằng bé chạy vào phòng, chẳng gõ cửa
gì cả. Đó là thằng bé đánh giày ở khách sạn. Mũi nó hếch lên, mồm nó nhoẻn ra
cười rất tươi.
- Số đặc biệt đơi, cách mạng ở Đức... Xin mời quý khách trả cho ba hào...
Nó ném tờ báo lên ngực Rôstsin, không nhận
thấy đôi mắt đáng sợ của vị “quý khách” đang mở trừng trừng, cũng không để ý đến
gương mặt cứng đờ của chàng...
- Tiền tôi lấy trên bậu cửa sổ nhé. Xin mời
quý khách đọc báo.
Nó chạy đi. Tim Vađim Pêtrôvits đập điên loạn,
nhưng tờ báo in chữ dày đặc còn nằm yên trên ngực chàng hồi lâu... Cách mạng ở
Đức!... Những người lính ngồi trên nóc toa xe lửa, những nhà ga bị phá tan
hoang, những đám đông cất tiếng hát man dại, những diễn giả đứng trên bệ các
đài kỷ niệm rống tướng lên, quả đấm nện vào không khí, tự do, tự do! Làm như thể
tự do có thể thay được bánh mì, tổ quốc, ý thức bổn phận và thế ổn định điều
hòa của một nhà nước đã được bao nhiêu thế kỷ củng cố! Cách mạng có nghĩa là những
thành phố rác rưởi, những cô gái ăn mặc hở hang trên các đại lộ... Và là nỗi buồn,
nỗi buồn của một con người ngồi bên cửa sổ nhìn những mái nhà phai bạc của một
thành phố không còn giữ lại được một chút gì bí ẩn nữa... Ngay cả mặt trời cũng
như cao hẳn lên... Nỗi buồn của một con người đã dốc ra bao nhiêu tinh lực để
dìu dắt bản thân, dìu dắt sự độc lập của mình, niềm tự hào của mình, nỗi u hoài
của mình qua cuộc sống.
Hồi lâu Vađim Pêtrôvits mới biết rằng nãy
giờ mình đang nói to những ý nghĩ của mình lên. Như thể chàng đã mê sảng trong
khi mắt vẫn mở thao láo. Chàng giở tờ báo ra. Trên trang đầu chạy một dòng chữ
lớn báo tin cách mạng đã bùng nổ ở Đức. Nó đã bùng nổ trong khi đang diễn ra những
cuộc thương thuyết giảng hòa trong khu rừng Compienhơ, khi những người đại diện
toàn quyền của chính phủ Đức xuất hiện trên toa xe lửa của tướng Wêygăng đang đỗ
trên một đường ray cụt của một trạm pháo binh.
Họ hỏi xem những điều kiện hòa ước của Pháp
đề ra sẽ như thế nào. Tướng Wêygăng không mời họ ngồi, không chìa tay ra cho họ
bắt, trả lời với một nỗi căm phẫn lạnh lùng: “Tôi không đưa điều kiện gì hết -
Nước Đức phải quỳ gối đầu hàng”.
Ngay hôm ấy những kẻ cầm quyền đã đưa nước
Đức vào thế bại vong nhục nhã đều bị lật đổ. Ở Berlin thành lập Hội đồng đại biểu
công nhân và binh sĩ. Hoàng đế Vilhelm bí mật rời đại bản doanh trốn sang Hà-lan;
đến biên giới, ngài đã nộp thanh kiếm của ngài cho viên trung úy chỉ huy đội
biên phòng Hà-lan.
Mấy phút sau Vađim Pêtrôvits đã dậy mặc quần
áo, khoác capôt, thắt nịt rõ chặt, đội mũ lưỡi trai ra đứng bên cửa sổ đọc lại
tờ báo một lần nữa. Chàng đút vào túi mấy tờ giấy bạc nhàu nát rồi ra phố.
Lúc bấy giờ trước khách sạn có một người to
béo đi qua. Trông hắn như một người vừa ra khỏi bộ áo lặn sau khi từ dưới đáy
biển ngoi lên: khuôn mặt đỏ bầm và sưng húp, hai mắt lồi ra. Hắn mấp máy cặp
môi dày đóng vảy, nhắc đi nhắc lại: “Tôi bán khẩu phần hãng thép Krupp đây, tôi
bán đây, tôi bán đây...”. Hắn đảo mắt nhìn những người qua đường với một niềm
hy vọng điên rồ: may ra cũng tìm được một kẻ còn ngu ngốc hơn mình.
Mấy người lính Áo qua đường xô đẩy và ép hắn
vào tường: họ đi từng tốp chẳng có hàng lối gì cả, súng khoác sau lưng, nòng
chúc xuống dưới... Đó một trong những dấu hiệu của cách mạng, ngay từ ngày đầu
bùng nổ đã từ bỏ việc giết người... Đi bên cạnh đám đông ấy trên vỉa hè là một
viên sĩ quan gầy mảnh để bộ ria mép mềm như tơ - thứ ria của thiếu niên mới lớn.
Gương mặt tuấn tú của hắn căng thẳng đến mức đau đớn, nhưng vẫn vênh lên một
cách kiêu hãnh. Một dải lụa đỏ quấn quanh cấp hiệu đeo bên vai trái hắn. Chắc hẳn
chàng trai mới lớn này, bị sung vào trung đoàn trong thời chiến, chưa có dịp
nào diện bộ quân phục mới và kéo lê cái vỏ kiếm bằng kim loại trên những vỉa hè
của thành Viên tươi vui, nơi mà phụ nữ vô tư lự một cách đáng yêu. Số phận đã
run rủi cho hắn - vì hắn trẻ tuổi và thật thà - được bầu vào ủy ban binh sĩ, thế
là hắn dẫn đại đội của hắn ra ga để về nước, đi qua hỏa lực bắn cánh sẻ của những
đôi mắt hả hê nham hiểm và đầy ý chế nhạo... Trong khi đó ở Viên là cả một cõi
hỗn mang, là đói kém, thợ thuyền đổ ra đường dựng chướng ngại vật.
Rôstsin đứng hồi lâu nhìn theo những con
người Âu châu kiêu hãnh ấy. Trong lòng chàng cũng dấy lên một nỗi hả hê hiểm độc:
“Thế ra các chú làm vương làm tướng ở Ukrain, ăn thịt ngỗng và mỡ ướp chẳng được
bao lâu nhỉ... Rõ là cái hòa ước Brext cũng chẳng cho các chú hưởng được mấy đỗi...”.
Nhưng chàng lập tức thấy khó chịu với bản thân: “Còn mày thì thế nào? Chúng nó
đang khoan khoái xoa tay ở Moxkva, còn mày thì đi vào chiến hào hôi thối, đi về
với cái lũ phản cách mạng của mày...”. Và chàng lại khó chịu hơn nữa khi nghĩ rằng
đây là lần đầu tiên chàng đã thốt lên cái danh từ này, mà lại thốt lên một cách
điềm tĩnh, trơ tráo như vậy... Chính cái danh từ này chứa đựng tất cả nguyên
nhân của tình trạng giằng co xâu xé trong tâm hồn chàng. Katya đã sáng suốt hơn
chàng khi nàng nói trong buổi cãi cọ điên rồ của hai người ở Roxtôv: “Nếu anh
tin với tất cả sức mạnh của tâm hồn rằng việc mình làm là đúng, anh hãy đi mà
chém giết...”. Theo mọi khái niệm cổ truyền của một người trí thức trung thực
và biết tự trọng, phản cách mạng có nghĩa là đê hèn và khốn nạn... Đấy, cứ thử
sống với một ý nghĩ như thế đi xem...
Thọc hai tay vào túi áo khoác, chàng đi ngược
lên theo đại lộ Êkatêrinxki rộng thênh thang. Và dáng đi của chàng quả giống
như dáng đi của một kẻ đê hèn và khốn nạn: nó vật vờ, khệnh khạng thế nào ấy.
Đi ngang qua một hiệu cắt tóc, chàng bất giác nhìn vào bóng mình trong tấm
gương hẹp đặt bên cạnh cửa; cái gương mặt xám ngoét như mặt xác chết của chàng
đang nhìn chàng với một nụ cười hiểm độc và méo mó. Chàng ghé vào hiệu cắt tóc,
rồi chẳng buồn cởi áo khoác, chàng ngồi vào một chiếc ghế bành: “Cạo râu!”. Ở
đây cũng vậy, cái gì cũng làm cho chàng có một cảm giác ghê tởm: căn phòng thấp,
âm ẩm, tường dán những tấm giấy hoa rẻ tiền đã bong ra, và bản thân gã thợ cạo
cài chiếc lược trên mái tóc lấm tấm gầu, với đôi bàn tay mềm và bẩn sực một mùi
nước hoa ngòn ngọt ngửi mà lộn mửa.
Vừa thong thả bôi bọt xà phòng lên má Vađim
Pêtrôvits, gã thợ cạo vừa nói:
- Dân gian người ta nói chẳng sai: mụ chưa
đủ bận rộn, mụ lại còn rước thêm con lợn nái... Họ đi đánh nhau bốn năm, rốt cuộc
ở nhà lại sinh ra cách mạng. Họ nghĩ đi đâu thế nhỉ? Tại sao họ không hỏi tôi?
- Hắn mở con dao cạo ra và bắt đầu hì hục mài. - Chính trị thì lớn, công việc của
ta thì nhỏ, nó là công việc thầm lặng hằng ngày, tôi mong ông cũng thấy rõ sự
khác nhau. - Hắn bắt đầu phết bọt xà phòng nóng lên hai má Vađim Pêtrôvits. -
Ông là khách mở hàng của tôi hôm nay. Thiên hạ đang phát điên cả. Nếu hoàng đế
Vilhelm chạy sang Hà-lan, thì trong thành phố này không còn ai muốn cạo râu nữa!
Tôi sẽ nói cho ông rõ tại sao. Ai ai cũng sợ bọn bolsêvik, ai ai cũng sợ bọn
Makhnô, ai ai cũng muốn để râu dài cho giống vô sản. - Hắn đưa lưỡi dao sồn sột
trên má chàng. - Xin lỗi ông, ông không thích thợ cạo cầm lấy đầu mũi ông à? Có
những người lại yêu cầu thợ cầm lấy mũi đấy ạ. Hồi trước tôi học nghề ở Kenxk,
ông thợ dạy chúng tôi quen làm theo kiểu cũ: khi cạo râu ông ta đút ngón tay
vào mồm khách, còn đối với khách quý phái thì ông ta có để dành một lọ dưa chuột.
Dùng ngón tay thì một hào, còn dưa chuột thì hào hai. Hồi ấy tiền còn khá. Tôi
sẽ cạo cho ông lượt nữa: còn đủ thì giờ. Vừa rồi trước khi ông đến có một lão
điên ghé vào đây. Ông có biết Paprikaki chứ ạ? Một nhà tài chính cỡ lớn ở đây.
Thần kinh lão ta bị rối loạn, không sao cạo râu cho lão được, má lão ta lại đầy
mụn, chỉ chạm đầu chổi xà phòng vào thôi cũng đau điếng lên rồi. Hôm nay, đội
ơn Chúa, mụn đã lan ra khắp người rồi. Thế thì... lão ấy an ủi tôi: quân Đức
đang chuẩn bị rút khỏi Ukrain, quân bolsêvik đã bắt đầu tấn công ở Belgôrôđ,
còn ở Belaia Txerkôv vừa thành lập một chính phủ mới của xứ Ukrain, gọi là Viện
Chấp chính. Hội đồng Rađa, rồi Xô viết, rồi thống lĩnh, đều đã có cả, nhưng Viện
Chấp chính thì bây giờ mới có đấy. Đứng đầu là Petlyura và Vinnitsenkô. Hồi
ngàn chín trăm mười sáu ở Kiev, cả hai đều là khách hàng của tôi cả. Petlyura
làm kế toán ở Liên minh Nông phố. Vinnitsenkô là một nhà văn: chúng tôi vẫn thường
đi xem kịch của ông ta - cũng chẳng có gì đặc biệt: ông thử tưởng tượng, một
người đàn bà lừa dối một họa sĩ, họa sĩ bèn to tiếng với nàng, đến đây gã nhân
tình của nàng mò đến, thế là nàng thu xếp cùng ở với gã ta ngay cạnh phòng họa
sĩ. Họa sĩ không thể vào phòng họ được, ông cũng thừa hiểu đấy, còn như đuổi họ
đi và đoạn tuyệt với con mẹ này thì họa sĩ lại không muốn, thế là họa sĩ bèn cắt
đứt gân tay mình để trở thành người tàn tật, cốt trừng phạt người đàn bà ấy.
Tôi vẫn cạo râu cho Vinnitsenkô đấy, mặt ông ta rỗ hoa, da thủng lỗ chỗ...
Paprikaki nói: Viện Chấp chính đã ra một bản bố cáo kêu gọi dân cày lật đổ tên
thống lĩnh Xkorôpađxki... Phải, làm thống lĩnh cũng gay thật!... - Sau khi cạo
râu lần thứ hai cho Vađim Pêtrôvits, gã thợ cạo nheo nheo đôi mắt ngắm mái tóc
hoa râm của chàng đã mọc khá dài, ý chê bai ra mặt. - Ông cho phép tôi húi đầu
ông theo kiểu bôc-xơ nhé, hay nếu ông muốn, tôi còn một ít thuốc nhuộm ngoại,
tôi sẽ cắt kiểu cánh quạ nhé? Cứ để cái tổ quạ bạc phếch này thì ra cái gì?
(Rôstsin nói qua kẽ răng: “Cạo đầu cho tôi”) Xin vâng. - Đoạn hắn xắp xắp cái
kéo bên tai hắn, như thể để lấy đà tăng tốc lực. - Ông đại úy ạ, tôi có một ước
mơ: đâu đó trên thế gian này thế nào cũng có một thị trấn yên tĩnh, ấy, dù có hẻo
lánh đến đâu, đèn đường thắp dầu hỏa cũng được... Có cần gì nhiều đâu? Mười lăm
người khách. Công việc xong xuôi, châm tẩu thuốc ra ngồi bên cửa. Xung quanh yên
lặng, tĩnh mịch, mấy ông già hiền lành tản bộ qua, anh đứng dậy cúi chào họ, họ
gật đầu chào lại anh. Bây giờ chẳng ai nghĩ đến những con người nhỏ bé vô danh
đâu, ông đại úy ạ, họ bị gạt đi ra ngoài sổ rồi. Mà không có chúng tôi thì đầu
các ông thành tổ quạ hết. Ông thử nhìn xem, lúc ông vào đây thì thế nào, tôi đã
làm cho ông biến dạng đi như thế kia kìa: đẹp như tranh!
Rôstsin nhìn vào bóng mình trong gương. Cái
đầu cạo nhẵn bóng có một hình dáng đều đặn, khoáng đạt, có thể chứa đựng những
tư tưởng tôn quý, cao cả. Khuôn mặt hẹp, từ đôi gò má hơi cao có hai nét chuyển
tiếp thanh tú chạy xuống cái cằm không nhô ra một cách quá bướng bỉnh, nhưng
cũng không tụt vào một cách nhu nhược. Đôi lông mày thẫm màu gần giao nhau ở
trên tinh mũi, chạy lên phía thái dương thành hai nét phóng khoáng, làm dịu bớt
vẻ nghiêm khắc của đôi mắt không to nhưng tinh anh, trông như đen vì đôi đồng tử
mở rộng. Một gương mặt như thế này thì cũng chẳng đến nỗi phải lấy tay che lại
vì xấu hổ. Có lẽ chỉ có cái miệng nó làm hỏng hết đi. Có thể nói dối bằng mắt,
vì đôi mắt vốn xảo trá và biết che đậy, nhưng cái miệng thì không thể nào ngụy
trang được... Xem kìa, chẳng ra cái hình thù gì cả, luôn luôn cử động chẳng
khác nào con sên... Có ma nó biết như thế là thế nào! Không bắt kịp Fauxt rồi,
Vađim Pêtrôvits ạ... Chàng đứng dậy đội chiếc mũ lưỡi trai dã chiến lên - một
chiếc mũ bẩn thỉu, đã bị bắn thủng - đội hơi lệch sang một bên, đoạn trả tiền rất
hậu rồi đi ra - Chàng vẫn chưa có được một quyết định nào cả... Nhưng chàng
không còn thấy cái cảm giác bải hoải khó chịu ở hai chân, không còn vấp mũi
giày vào đá lát đường nữa. Ở hiệu thợ cạo ra là thế đấy! Một giọt tình yêu
thương bản thân đã thấm vào nỗi tuyệt vọng đục ngầu của tâm hồn chàng.
Các cửa sổ lần lượt lên đèn. Gió rít trên
những cây phong dương trụi lá, ngọn mất hút trong bóng hoàng hôn. Giữa các thân
cây - bên kia đường - một ngọn đèn sáng rực trâng tráo bật lên, soi sáng cánh cửa
sổ lòe loẹt của tiệm ăn kiêm tửu điếm “Bi-Ba-Bô”. Tiệm này có món saslyk tài tử nổi tiếng. Nghĩ đến nó, dạ
dày Vađim Pêtrôvits cồn cào lên: từ hôm qua chàng chưa ăn gì. Đó là một cảm
giác đói mãnh liệt, hùng tráng, một khi đã nổi lên, nó át hết những chuyện phức
tạp của tâm lý. Rôstsin quả quyết rẽ về phía cánh cửa có ngọn đèn sáng. Từ một
thân cây tách ra một bóng người mặc váy trắng, đang tìm cách chặn đường chàng.
Chàng làm ngơ bước thẳng, sau lưng còn nghe văng vẳng tiếng van lơn: “Anh sĩ
quan ơi, em sẽ làm anh vừa lòng...”.
Đó là một gian phòng dài, trần thấp, cách
đây không lâu đã được một họa sĩ phải tả nổi tiếng vừa trốn khỏi Pêtrôgrađ là
Valet trang trí. Trần nhà sơn đen, có đính những ngôi sao cắt bằng giấy bạc.
Trên những bức tường cũng màu đen, những hình đàn ông và đàn bà màu vàng, màu
da cam, màu gạch, nét gãy góc, chân tay dang rộng, trông như bị một cơn gió lốc
xua tán loạn. Đối với một tiệm rượu, bức tranh tường này quá ư nghiêm trang: nỗi
kinh hoàng, chứ tuyệt nhiên không phải là dục tình, đã xua bầy người trần truồng
này chạy tán loạn trên mấy bức tường. Nhà tư bản đã đầu tư vào xí nghiệp này -
cũng chính là Paprikaki - đã có lần nói: “Tôi mà hiểu được những hình vẽ này
thì xin các ngài cứ chặt chân tay tôi đi. Nhìn nó tôi cứ thấy buồn nôn, thế mà
khách lại thích...”
Rôstsin ăn tối và uống rượu vang. Xe lửa đến
bốn giờ sáng mới chạy. Chàng quyết định ngồi lại đây cho đến ba giờ, rồi sẽ
tính sau... Chàng thấy ấm áp, đầu hơi choáng váng.
Người hầu bàn, một người Tatar trước kia
làm trong tiệm Yat ở Moxkva (những tiệm ăn như thế không còn bao giờ mong thấy
lại nữa) và có quen Vađim Pêtrôvits, chốc chốc lại đến cạnh chàng, lấy chai rượu
trong xô ra rồi vừa cúi xuống rót rượu vừa nói:
- Xin lỗi ông, Vađim Pêtrôvits ạ, nếu tôi cứ
quấy rầy ông... Nhưng tôi nhớ Moxkva quá... Chao ở đây chúng tôi sống như thế
nào. Những hình vẽ kia đến khi ngủ cũng vẫn còn mơ thấy...
Bất chấp cái tâm trạng lo âu đang đè nặng
lên thành phố - ở ngoại ô và trong các ngõ tối thỉnh thoảng lại có tiếng súng lẻ
tẻ, và những đội tuần tra kỵ mã của chính quyền thống lĩnh trong khi đi ngược về
phía lâu đài quan tổng trấn đều cố tình không nghe thấy, - bất chấp cái tình trạng
hoảng loạn của thị trường chứng khoán bất hợp pháp ngày hôm nay, tiệm ăn vẫn đầy
ăm ắp. Buổi hòa nhạc chưa bắt đầu. Trên cái sân khấu nhỏ có một người trẻ cao
lênh khênh ngồi trước dương cầm, cái cổ mảnh khảnh vừa bằng cái cổ tay vươn ra
dài ngoẵng, bộ tóc xoăn như tóc người da đen mọc dựng đứng lên, xô cả về phía
ót. Hắn đang chơi một điệu nhạc ghép bằng những chủ đề lấy trong các vở ca kịch
nhẹ.
Xung quanh bàn của Rôstsin toàn những nhóm
khách say rượu cười nói ồn ào. Mấy lão trang chủ, không chịu nổi cái cảnh buồn
thiu trong phòng trọ bên cạnh mấy cô con gái chán chường của họ, đã đến đây uống
chén rượu giải sầu... Một trang chủ má cạo nhẵn bóng nói bô bô:
- Xin cam đoan với các ngài rằng bây giờ
thì quân Đức đã tận số! Đến tết đạo quân viễn chinh Anh sẽ vào Moxkva. Chúng ta
sẽ được uống Whisky Tô-cách-lan. Trong cái rủi nào cũng có cái may cả! - Lão ta
ngoác cái mồm ra cười ha hả, để lộ hai hàm răng thượng hảo hạng. - Thành thử ta
phải hoan hô cách mạng Đức!
Một lão khác, dáng gầy guộc mà kiểu cách,
đôi mắt màu tro long lanh giễu cợt trong hai hốc mắt sâu hoắm, giơ tay lên yêu
cầu chú ý:
- Như ai nấy đều biết, thủ tướng Anh khi đến
thượng nghị viện thì ngồi trên một cái bị đựng len... Còn giới quý tộc Ximbirxk
thì lấy làm tự hào là ngoài sân nhà hội đồng của họ có một cái cột trụ bằng cẩm
thạch - ý để khẳng định rằng các vị quý tộc rường cột của quốc gia vĩnh viễn sẽ
chẳng gặp phải điều gì bất trắc cả... Cho nên họ vẫn thanh thản ngủ thiu thiu
dưới bóng ngưu bàng... Lịch sử của giới quý tộc Nga đã cáo chung, - ta còn thiếu
cái bị len kia... Cũng đúng như lịch sử của nước Nga đã cáo chung, các ngài ạ...
Câu chuyện thành phố Glupôv đã đọc xong, cuốn sách liền bị vứt vào xó nhà. Và
điều đó xảy ra không phải trong giông bão như một con người tối thông minh có
nói, nó xảy vào một ngày thứ hai tầm thường: thượng đế nhổ một bãi nước bọt và
thổi tắt ngọn nến... Từ năm 1914 tôi đã bán hết đất đai, và từ đó tôi là một
công dân của vũ trụ... Như thế vững tâm hơn...
- Như ông thì còn nói làm gì, hở ông bạn,
ông đã tốt nghiệp trường đại học Oxford, còn như tôi đây thì tôi biết chui vào
đâu với ba đứa con gái lỡ thì? Chui vào đâu bây giờ? - Lão trang chủ có nước da
hồng hào thở phì một tiếng rồi giơ tay với lấy bình rượu. - Còn về sự cáo chung
của nước Nga thì tôi cũng không đồng ý nốt, ấy là ông nhai lại luận điệu của
người Anh đấy thôi... Tôi sẽ đi làm người chạy hàng, làm thầu khoán, tôi sẽ cày
lấy ba mẫu đất tôi ăn, nhưng tôi vẫn tin ở nước Nga. - Lão ta rót rượu rồi lập
tức xoay cái thân hình nặng nề sang người khách thứ ba: - Tôi biết đem chúng nó
đi đâu? Chúng nó đã lớn lên thành ba cây sào dài thườn thượt, tính lại hay
khóc, mặt thì đầy tàn hương, ngực thì phẳng như ván: toàn những tiểu thư kiểu
Turghênev, mà lại sống ở thời này có chết không chứ! Tại mẹ chúng nó cả, mà
cũng tại tôi nữa, xin thú thực như vậy. Con lớn muốn theo học Bextujev. Chúng
tôi đã can nó. Vả lại nó cũng lười lắm... Con bé thì rất ham kịch, lẽ ra có thể
trở thành một nữ diễn viên hạng nhất, xin nói như vậy... Chúng tôi đã dại dột
can ngăn nó, lại còn dọa nạt nó nữa... Nói tóm lại, một chế độ gia trưởng hủ lậu,
thời buổi này mà như thế có chết không chứ!... Chẳng qua cũng vì thiếu suy nghĩ
cả... Người Anh họ ngồi trên len, thấy trước hàng ba năm, đúng đấy... Còn ta
thì có thể nói là cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn theo sự xoay vần của bốn mùa xuân hạ
thu đông. - Lão ta nốc rượu, lắc lắc hai cái má, rồi đột nhiên nói thêm: -Còn
nói chung thì ta chẳng đến nỗi nào đâu...
Người khách thứ ba đã say đến nỗi chỉ ngồi
nghiến răng ken két, thỉnh thoảng lại bẻ mấy bông hoa sao cắm trong lọ bỏ vào mồm
nhai. Hắn không nghe gì hết, đôi mắt đục ngầu cứ nhìn chằm chặp sang bàn bên,
nơi một thiếu nữ rất xinh có bộ tóc màu tro cuộn lại thành một cái búi ngây thơ
đang ngồi với một gã thanh niên to lớn mặc áo va rơi bán quân sự. Má tì lên bàn
tay, gã ta im lặng khóc, không thèm để ý đến ai hết, cứ như thể xung quanh toàn
là những ảo ảnh. Cô thiếu nữ khổ sở nhăn nhó cái mặt tròn có đôi mắt xanh, vuốt
vuốt lên tay gã kia, cầm nó lên hôn; cúi sát vào người gã, cô ta hoảng hốt thì
thầm với gã mấy tiếng vội vã. Gã thanh niên lắc chầm chậm cái mặt nặng trịch.
Rôstsin nghe thấy tiếng nói đùng đục của gã, một giọng không còn sinh khí, giống
như giọng ú ớ của người nói mê:
- Thôi, thôi, Zina, để cho anh yên. Anh
không thiết gì nữa, chẳng thiết gì em đâu, mà cũng chẳng thiết bản thân mình nữa...
Dù hắn không nói gì thêm nữa, cũng có thể
thừa hiểu hắn sẽ kết thúc đêm nay như thế nào... Người con gái thì có một cái
gì nhắc nhở đến Katya. Không phải gương mặt, mà cái phong thái dịu dàng, kín
đáo trong từng cử chỉ... Cô này rồi cũng sẽ kết liễu cuộc đời ở một nhà ga nào
đó giữa đám người mắc bệnh sốt phát ban... Có hai thiếu niên mới lớn hấp tấp đến
ngồi vào một cái bàn vừa bỏ trống, che mất đôi trai gái kia, cả hai đều có bộ
tóc xén phía trước thành đường thẳng rủ ngang mày, đều có bộ răng xiết, và trên
mấy ngón tay bẩn thỉu đều có đeo nhẫn mặt kim cương. Một cậu huênh hoang nói với
bạn: “Tớ lấy gậy sắt quất vào người con Masa, rồi bắt đầu giẫm lên người con đĩ
rạc ấy, xương cứ gãy răng rắc lên”.
- Thưa ngài đại úy, ngài cho phép tôi ngồi
ghé bàn ngài, có được không ạ?
Rôstsin im lặng gật đầu. Người kia ngồi xuống,
đôi chân to nặng thu gọn dưới mặt ghế. Đó là một người đeo kính gọng kền, mình
mặc quân phục màu xanh xám của bộ binh Đức, thân may chật ních. Phát âm tiếng
Nga một cách khó nhọc, người ấy nói với người hầu bàn:
- Làm ơn cho tôi cái gì ăn, tôi không ăn đã
lâu, và bia, bia!
Hắn phồng đôi má gầy lên, ra hiệu nói là
mình sẽ uống bia như thế đấy, rồi cười phá lên. Đoạn, hơi ngạc nhiên, hắn đưa
đôi mắt màu thiên thanh trong suốt như mắt quạ nhìn gương mặt lầm lì của
Rostsin:
- Ngài đại úy nói được tiếng Đức ạ?
- Tôi nói được.
- Nếu tôi làm phiền ngài, tôi sẵn sàng đi
kiếm một bàn khác.
- Chẳng có gì phiền đâu.
Lần này Rôstsin trả lời ôn tồn hơn. Mặt người
lính này thuộc một trong những kiểu mặt của người Đức - hẹp khổ, có cái miệng
nhỏ và hơi móm, cái kiểu mặt mà cho đến tuổi già vẫn giữ được một vẻ trẻ thơ và
một nước da đỏ đắn mịn màng. Mũi của hắn hơi hếch lên, như thể vì một trí tò mò
đầy thiện ý đối với mọi người.
- Trước đây hạng lính tráng như tôi không
được phép vào các tiệm ăn, - hắn nói, - nhưng kể từ hôm qua kỷ luật Đức đã tỏ
ra biết điều hơn.
Rôstsin mỉm một nụ cười méo mó. Người lính
Đức vội nói rõ ý mình ra, ngón tay giơ thẳng lên như một giáo sư đang giảng
bài:
- Kỷ luật phải hợp lẽ phải chăng: được như
vậy nó sẽ là một hình thức của trật tự xã hội và là một điều kiện tất yếu của sự
phát triển. Một kỷ luật hợp lẽ như vậy nảy sinh ra từ những trào lưu xã hội sâu
xa. Nhưng nếu không phải như vậy, nếu kỷ luật chỉ là một trong những công cụ cưỡng
bức, thì chúng ta sẽ không gọi nó là kỷ luật nữa...
Hắn vui vẻ gật đầu trong khi kết thúc câu
nói hơi mù mờ này.
- Ông sắp rút về Đức à?
- Vâng. Đơn vị chúng tôi đã bầu ra một ủy
ban và ủy ban này sau khi giằng co chút ít đã đưa ra một nghị quyết: may thay,
nghị quyết này chỉ có tính chất nguyên tắc thuần túy.
- Thôi thì cũng xin chúc ông thuận buồm
xuôi gió, như người Nga thường nói.
- Tôi học tiếng Nga cũng đã biết được kha
khá, tôi hiểu rằng khi nói: “Chúc thuận buồm xuôi gió”, thì như vậy có nghĩa là
“cút thẳng về nhà mày đi”...
- Thì hiểu thế cũng được... Ông hình như là
người hiểu biết: vậy thì chúng ta vờ vịt mà làm gì? Chúng ta vốn là hai kẻ thù,
và khi chia tay chúng ta vẫn là hai kẻ thù...
- Thật thế, thật thế, - người lính Đức nghĩ
một lát, lắc đầu mấy cái rồi nói. - tôi có cố bác bỏ điều đó thì cũng vô ích,
thậm chí còn thiếu tế nhị nữa.
Và đôi môi mỏng của hắn lại mỉm cười trong
khi hắn kết thúc đề tài này. Người hầu bàn bưng thức ăn và bia đến cho hắn. Hắn
xin lỗi, rồi bắt đầu ăn món saslyk,
nhai những miếng thịt, những miếng bánh mì trắng, những lát cà chua rán một
cách thong thả, thậm chí còn có vẻ như sùng kính nữa.
- Ngon lắm, - hắn nói, cảm thấy rằng đôi mắt
tối sẫm và hung ác của Rôstsin vẫn không rời hắn. Hắn ăn hết sạch cả đĩa, lấy một
mẩu ruột bánh mì lau sạch rồi bỏ nốt vào mồm. Lim dim đôi mi mắt, hắn uống hết
một cốc bia lớn. - Người Đức có một thái độ rất nghiêm túc đối với việc ăn uống.
Dân Đức đã đói nhiều, và còn phải chịu đói nhiều nữa, trước khi vấn đề lương thực
được giải quyết hẳn hoi.
Và ngón tay trỏ dài của hắn lại giơ thẳng
lên.
- Vào buổi bình minh của lịch sử, khi loài
người từ lối kiếm ăn cổ sơ bằng cách hái lượm những hoa quả của thiên nhiên phú
cho chuyển sang lối dùng sức mạnh giành giật của thiên nhiên, lương thực đã trở
thành kết quả của một quá trình khai thác khó khăn và nguy hiểm. Ăn trở thành một
hành động thiêng liêng. Ăn có nghĩa là chiếm hữu sự sống của một vật khác, chiếm
hữu sức lực của một sinh vật khác. Chính do đó mà có những quan niệm cho rằng
có thể dùng phù chú để thuyết phục thiên nhiên, tức là dùng ma thuật... Nghi lễ
có tính chất ma thuật của việc ăn uống là cơ sở của tất cả các hình thức thờ phụng
thần bí. Người ta ăn thân thể của thượng đế... Tôi có ghi được một cuộc đàm thoại
thú vị với một nhà khoa học Nga về sự tích của bánh blin. Ngày hội maxlennilxa
là nghi lễ ăn mặt trời. Người ta phủ dụ mặt trời bằng những điệu nhảy quay
tròn, rồi người ta ăn hình mô phỏng mặt trời tức là bánh blin. Ngài thấy đấy, trong thế giới quan của họ, người Xlavơ bao giờ
cũng vươn lên rất cao...
Hắn cười. Mở chiếc khuy đồng trên áo quân
phục, hắn thọc tay vào áo trong lôi ra một cuốn sổ tay dày đóng bìa da đã sờn
nát - chính cuốn sổ tay mà hai tháng trước đây hắn đã lấy ra để đọc cho Katya
Rôstsina nghe một đoạn văn của Ammianux Marxelinux trên toa xe lửa. Hắn đặt cuốn
sổ lên bàn, thận trọng lật những trang giấy viết chi chít những đoạn ghi chép,
những đoạn trích văn, những địa chỉ.
- Đây rồi, - hắn để một ngón tay lên trang
vừa giở ra, nói. Nhưng Rostsin không nhìn vào những dòng chữ hắn đang chỉ, mà lại
nhìn lên phía trên, nơi bàn tay Katya ghi lại mấy chữ: “Êkatêrina Đmitrievna
Rôstsina Êkatêrinôxlav, hòm thư lưu”.
- Tại sao trong sổ của ông lại có mấy chữ
này? - Rôstsin hỏi, giọng khản đi. Máu dồn nhanh lên mặt chàng, chàng đưa tay
lên cổ áo. Người lính Đức ngỡ chừng như bàn tay kia của viên sĩ quan Nga sẽ rút
ngay một khẩu súng lục - thời buổi chinh chiến này, những chuyện như thế vẫn xảy
ra hàng ngày... Nhưng đôi mắt đáng sợ của viên sĩ quan chỉ biểu lộ một nỗi đau
khổ và một ý khẩn khoản tha thiết... Người lính Đức cố nói thật dịu dàng với
viên sĩ quan Nga:
- Chắc ngài có quen biết người thiếu phụ
này, thế thì tôi có thể kể lại ít nhiều về người đó.
- Có biết...
- Ồ, đây là một trong những câu chuyện
thương tâm...
- Sao lại thương tâm? Người ấy chết rồi ư?
- Điều đó thì tôi không thể nói chắc được...
Tôi cũng muốn hy vọng một kết thúc may mắn nhất... Qua cuộc chiến tranh tôi đã
nhận thấy rằng con người là một sinh vật có sức sống phi thường, tuy nó rất dễ
bị thương tổn và rất nhạy cảm đối với mọi nỗi đau đớn... Sở dĩ như vậy là vì...
Hắn lại toan giơ ngón tay lên. Rôstsin cuống
quít ngắt lời:
- Ông nói đi, ông gặp người ấy ở đâu, về
sau người ấy ra sao?
- Chúng tôi làm quen nhau trên toa xe lửa...
Êkatêrina Đmitrievna vừa mất người chồng mà bà yêu tha thiết...
- Đó là người ta lừa dối nhà tôi! Tôi còn sống
sờ sờ ra đây này.
Người lính Đức ngã hẳn người ra lưng ghế,
cái miệng nho nhỏ tròn xoe ra, đôi mắt quạ cũng thế. Hắn vỗ cả hai bàn tay lên
mặt bàn:
- Tôi ghé vào một quán ăn mà tôi chưa từng
vào bao giờ, tôi ngồi xuống chiếc bàn này, tôi rút sổ tay ra... Thế là người chết
bỗng sống dậy! Ông là chồng của người thiếu phụ ấy? Bà có kể chuyện về ông, và
ngay lúc bấy giờ tôi đã hình dung ông đúng như thế này, đúng như thế này... Ồ, Kamerad Rôstsin, không nên, không nên...
Líu lưỡi không sao nói được nữa, hắn mím
đôi môi mỏng, và qua vành trên đôi kính trắng, đôi mắt hắn nghiêm nghị và soi
mói nhìn thẳng vào đôi mắt rưng rưng của Rôstsin. Trên cái mũi hếch lên một
cách đầy thiện ý của người lính Đức nổi lấm tấm mấy giọt mồ hôi:
- Tôi xuống tàu trước khi tàu đến Êkatêrinôxlav,
phu nhân có ghi lại địa chỉ của tôi. Tôi đã khẩn khoản xin phu nhân ghi lại,
tôi không muốn mất hút bóng phu nhân như mất hút bóng một con chim trời tình cờ
bay qua. Trên chặng đường cùng đi tôi đã khích lệ được phu nhân ít nhiều. Phu
nhân rất thông minh. Cái trí tuệ sáng sủa nhưng ít được phát triển của phu nhân
rất khao khát những tư tưởng tốt lành và cao cả. Tôi có nói với phu nhân: “Đau
khổ là thân phận của hàng triệu phụ nữ thời đại ta, - đau khổ và tai họa phải
được biến thành một sức mạnh xã hội... Đau khổ phải làm cho phu nhân rắn rỏi
lên”. Phu nhân hỏi tôi: “Tôi biết dùng cái rắn rỏi ấy để làm gì? Tôi có muốn sống
tiếp nữa đâu?”. Tôi mới nói với phu nhân: “Không, phu nhân muốn sống. Không có
gì có ý nghĩa hơn là ý chí muốn sống. Nếu xung quanh ta chỉ thấy toàn chết
chóc, tai họa và đau khổ, thì ta phải hiểu rằng bản thân ta cũng phải chịu
trách nhiệm về tình trạng đó, vì cho đến nay ta vẫn chưa loại trừ được những
nguyên nhân của nó và chưa biến trái đất thành một chỗ ở thanh bình và hạnh
phúc cho con người, cái hiện tượng đặc sắc ấy của vũ trụ. Sau lưng là im lặng
vĩnh viễn, trước mặt cũng là im lặng vĩnh viễn, chỉ còn lại một khoảng thời
gian ngắn ngủi: ta phải sống sao cho hạnh
phúc của khoảng thời gian ấy bù đắp được cả cõi im lặng trống rỗng kéo dài vô tận
kia...”. Tôi nói như vậy là để an ủi phu nhân... Thế rồi tôi xuống tàu và
trở về đơn vị. Đêm hôm ấy chúng tôi được tin là chuyến tàu phu nhân đi bị một
toán quân của Makhnô chặn lại cướp bóc, và bao nhiêu hành khách đều bị chúng
đưa đi, không rõ về hướng nào. Đấy, tôi chỉ biết có thế thôi, Kamerađ Rôstsin ạ...
Trên sân khấu, buổi hòa nhạc đã bắt đầu.
Cây dương cầm và chàng nhạc sĩ có bộ tóc dựng ngược đều đã được đưa vào hậu trường.
Đôn Limanađô xuất hiện. Đó là một nhà diễn thuyết nổi tiếng ở Moxkva, dung mạo
khôi ngô, đôi mắt tô đậm, tuổi chẳng rõ là bao nhiêu, mình mặc smoking, đầu đội
mũ cói cứng chụp xuống sát lông mày.
- Thưa các vị, tôi xin chúc mừng các vị
nhân dịp cách mạng Đức bùng nổ! - Hắn ta tự siết chặt tay mình. - Vừa rồi tôi
có ra ga. “Chào ngài, - tôi nói với một viên thượng úy Đức, - Ngài có khỏe
không ạ?” - “Rất khỏe, còn ngài?” - “Cũng rất khỏe, - tôi nói, - trời đã sang
tiết tháng một, đội mũ cói lạnh lắm, nhưng mũ dạ tôi để quên ở Moxkva mất rồi,
bây giờ chẳng biết có dịp nào về lấy nữa không”. Ông ta nói: “Thế ông mua lấy một
cái mũ dạ đi”. Tôi nói: “Tôi đã để dành một nghìn mác để mua mũ, nhưng hôm nay
đem đổi chỉ được năm hào tiền giấy Hetman”. Ông ta nói: “Ái chà chà!”. Tôi nói:
“Ái chà chà”. Cứ như thế ông ta với tôi nói chuyện này chuyện nọ một lát, trong
khi đó thì lính của ông ta leo lên nóc các toa xe lửa. Tôi hỏi: “Các ông lên đường
đấy à?”. Ông ta nói: “Vâng, chúng tôi đi đây”. Tôi nói: “Đi hẳn à?”. Ông ta
nói: “Đi hẳn”. Tôi nói: “Rất tiếc”. Ông ta nói: “Chẳng còn biết làm thế nào được”.
Tôi hỏi: “Chẳng còn biết làm thế nào được nghĩa là thế nào?”. Ông ta nói: “Nghĩa
là chẳng có nghĩa là thế nào cả”. Tôi nói: “Ái chà chà chà, thế mà trước kia
chúng tôi cứ hy vọng rằng ở nước các ông sẽ không đến nỗi như thế”. Đến đây
quân lính trên các nóc toa cất tiếng hát bài “Quả táo nhỏ”. Thế là tôi bỏ đi...
Xung quanh tối như mực, gió rít từng hồi, trong các ngõ hẻm có tiếng súng nổ lẻ
tẻ, thế mà tôi lại phải mở đầu chương trình, tôi đến muộn mất. Thế là tôi hát
lên.
Sau hậu trường có tiếng dương cầm dạo. Nhà
diễn thuyết nhảy cẫng lên, hai chân đá lia lịa:
- “Chao
ôi, quả táo nhỏ.
Đêm
nay sao tối quá
Bây
giờ biết đi đâu?
Không
tài nào nhớ rõ...”
Ngồi quay lưng về phía sân khấu, nhìn thẳng
vào mắt người lính Đức kỳ dị kia, Rôstsin hỏi:
- Ông có thể cho biết hiện nay Makhnô đang
hoạt động ở vùng nào không?
- Theo những bản thông cáo gần đây của
chúng tôi thì Makhnô đã bắt đầu quấy rối khá dữ dội các đơn vị Áo đang rút, và ở
vài nơi lại quấy rối cả các đơn vị Đức nữa. Bộ tham mưu của Makhnô hiện nay lại
đóng ở Gulai-Polê.
10
Vào đầu tháng một, trung đoàn Katsalinxki
được đưa về trận tuyến để nghỉ ngơi và bổ sung quân số. Sau các trận chiến đấu
vừa qua, trung đoàn chỉ còn được non ba trăm quân. Piôtr Nikolaiêvits Melsin đột
nhiên được giao chỉ huy một đại đoàn. Theo đề nghị của ông ở hội đồng quân sự,
Têlêghin, lúc bấy giờ đang nằm ở bệnh viện, được cử làm trung đoàn trưởng trung
đoàn Katsalinxki, Xapôjkôv làm trung đoàn phó. Ivan Gora làm chính ủy. Đội pháo
trước đây của Têlêghin được sung vào đơn vị pháo binh của trung đoàn.
Mấy ngày hôm ấy trời u ám, không khí thoang
thoảng mùi khói bếp và mùi lông chó. Nước mưa nhỏ giọt từ các mái nhà đã đen xỉn
lại, mặt đất nhão nhoét ra, và các chiến sĩ đi tập về phải tha hàng yến bùn
dính bết vào ủng. Tâm trạng của mọi người đều hứng khởi như vào một ngày hội.
Những thử thách khủng khiếp đã qua: quân đoàn sông Đôn của bạch vệ đã bị đánh bật
ra rất xa bên kia hữu ngạn sông Đôn. Theo những tin đồn đại, thủ lĩnh Kraxnôv ở
Nôvôtserkaxxk đã đập đầu vào tường khi được tin quân mình đại bại lần thứ hai ở
Txaritxyn.
Chiều chiều, khi chương trình diễn tập, học
chính trị và thanh toán nạn mù chữ đã xong, các chiến sĩ co ro trong buổi hoàng
hôn rét mướt, đi tản vào làng, kẻ thì đến nhà người quen, kẻ thì đến nhà một bà
mẹ đỡ đầu mới nhận. Những chiến sĩ nào không có người quen mà cũng chẳng có mẹ
đỡ đầu thì cứ dạo chơi đây đó, mồm hát nghêu ngao, hoặc tụ tập nhau lại ở một
nơi khô ráo, thi nhau pha trò để thu hút các cô gái làng. Và có nhiều khi ban đầu
thì cười đùa vui vẻ, nhưng về sau lại quay ra cãi nhau, đôi lúc cãi nhau dữ dội,
vì ai nấy đều đang ở vào một tâm trạng phấn khích khác thường.
Trong số mười thủy thủ của đội pháo do
Têlêghin chỉ huy, có hai người bị thương nặng và ba người hy sinh. Còn lại năm
người. Họ đóng trong một nhà cô-dắc giàu có, chủ nhà đã trốn biệt. Ở với họ còn
có cả Anixya, lúc bấy giờ đã được sung vào một đại đội hậu cần cho có lệ. Cũng
như các chiến sĩ, chị thường xuyên đi diễn tập, bắn súng, học chính trị. Bây giờ
chị mặc một bộ quân phục hồng quân sạch sẽ gọn gàng, chỉ có điều chị nhất định
không chịu cắt mái tóc quăn rất đẹp của chị đi. Sau khi đã được chứng kiến bấy
nhiêu thống khổ và chết chóc, trong đợt thử thách dữ dội vừa rồi chị đã vượt
qua được nỗi đau thương tưởng chừng như không bao giờ nguôi được, như thể vượt
qua một chỗ lội sâu gần lút đầu. Những nếp nhăn đã bị xóa hẳn trên gương mặt chị,
nay trông chị trẻ và rắn rỏi hẳn ra. Những bữa ăn tươm tất của hậu phương đã đắp
đầy đôi má của chị, thân hình chị vươn thẳng lên, dáng đi của chị trở nên nhẹ
nhàng. Cả con người chị thanh thoát hẳn lên. Đêm đêm, khi các thủy thủ đã ngáy
như sấm trong ngôi nhà đốt lò sưởi ấm áp, chị rón rén đi lấy áo quần của họ ra
giặt giũ hay vá mạng. Có nhiều bận chị mê mải làm cho đến khi tiếng tù và báo
thức róng rả vang lên trong ánh bình minh màu xám.
Kuzma Kuzmits Nêfêđôv cũng ở lại trung đoàn
với tư cách một nhân viên văn thư ngoài biên chế. Trong những ngày gian khổ nhất
- ngày mười sáu và mười bảy - ông ta đã tỏ ra không những gan dạ mà còn liều
lĩnh nữa trong khi đi nhặt thương binh trên hỏa tuyến, mọi người đã được thấy
rõ điều đó. Về sau ông ta cũng tỏ ra không thua kém ai khi tàn quân của trung
đoàn Katsalinxki chuyển sang phản công cũng như khi trung đoàn vượt sông Đôn rồi
được thay thế và đưa về hậu phương.
Có một lần Ivan Gora gặp ông ta bên bếp dã
chiến - ướt như chuột lột, áo quần lấm bẩn bê bết, người hốc hác, tiều tụy
nhưng phấn khởi - liền vẫy ngón tay gọi ông ta lại:
- Nêfêđôv ạ, tôi biết xử trí, với bác như
thế nào đây?... Tôi không sao hiểu nổi bác là thứ người gì... Bác là một ông
linh mục phá giới, tuổi cũng đã khá cao, sao bác sứ lẽo đẽo đi theo chúng tôi
làm gì?
Kuzma Kuzmits khịt mũi một cái, vì mưa cứ hắt
từng giọt lên cái mũi đã tróc da nham nhở của ông ta, và đôi mắt màu hung vui vẻ
đưa lên nhìn người chính ủy:
- Tính tôi hay lẽo đẽo, Ivan Xtêpanôvits ạ,
tôi đã đâm quen gắn bó với mọi người... Tôi còn đi đâu nữa, tôi còn biết đi tìm
sự gần gũi với con người ở tận đâu nữa? Vì tôi là người biết suy nghĩ...
- Nhưng vấn đề không phải ở đấy, bác ạ...
- Còn như khẩu phần của trung đoàn (Kuzma
Kuzmits chỉ cái cà mèn đầy ắp) thì chỗ xúp bột nấu thịt mỡ này tôi đã bỏ công xứng
đáng mà có được, tôi dường như chẳng hề biết tiếc thân... Quần, ủng thì ông
cũng thấy đấy, tôi tự tay lấy của quân địch trên sa trường... Tôi chẳng xin xỏ
gì, tôi chẳng làm vướng chân ai. Và sau này nữa, tôi cũng hy vọng làm được những
việc có ích cho trung đoàn... Vì cách mạng cũng cần có người thông minh chứ ạ?
Cần chứ... Ở trung đoàn các ông không có người nào đọc thông viết thạo để làm
thư ký. Còn như tôi đây thì tôi còn viết được cả chữ La tinh lẫn chữ Hy lạp...
Ngoài ra tôi còn có thể giúp ích nhiều việc nữa...
Ivan Gora nghĩ bụng: “Thật đấy, tại sao lại
không sử dụng một con người có hiểu biết lại muốn làm việc?...”
- Nhưng có cái này, bác ạ, cái thành phần
xuất thân của bác nó phiền quá, chỉ sợ nhỡ ra bác lại gieo rắc những tư tưởng
tôn giáo trong đơn vị.
- Có, trước kia tôi có bị những hoang tưởng
nó cám dỗ, chẳng việc gì phải giấu điều đó -Kuzma Kuzmits nói, - tôi đã rúc đầu
vào bãi sa mạc của những hoang tưởng đó... Nhưng bây giờ thì ông đừng sợ tôi
tuyên truyền tôn giáo, tôi với Chúa đang xích mích với nhau dữ lắm...
- Xích mích à? - Ivan Gora hỏi. - Có thật
không? Thôi được, tối nay bác ghé vào nhà tôi ở, ta sẽ nói chuyện...
Đến chập tối Kuzma Kuzmits đến nhà chính ủy.
Lúc bấy giờ Ivan Gora mặc áo ca pốt và đội mũ lưỡi trai đang ngồi bên cửa sổ đọc
báo, miệng lắp bắp đánh vần. Trông thấy Kuzma Kuzmits, anh gấp tờ báo lại, đứng
dậy ra đóng cửa.
- Mời bác ngồi đây. Số là có một việc rất
phiền, nó thế này... Bác có giữ kín được không đấy? Vả chăng nếu mà bác ba hoa
để lộ chuyện này ra thì chỉ thiệt thân bác thôi: cái gì tôi cũng biết, chiến sĩ
nào khi ngủ nói mê những gì tôi còn biết tỏng nữa là...
Ivan Gora bắt đầu xé một miếng giấy trắng ở
bên lề tờ báo, rồi vừa thở phì phò vừa cuộn tròn nó lại trong mấy ngón tay vụng
về.
- Dân đã gặt hái xong xuôi, lúa mì đã chở về.
Mùa năm nay đập lúa hơi muộn vì có chiến sự. Nhưng dân họ tin chúng ta, đó là
cái chính, dân họ muốn tin rằng chính quyền Xô viết đã được xác lập vững
vàng... Rất tốt... Nhưng chỉ còn ít nữa đã đến tiết lễ Đức Bà hằng xin giúp...
Ivan Gora hơi ngước mắt lên nhìn trộm Kuzma
Kuzmits. Đôi cánh mũi rất thô của ông ta phập phồng lộ vẻ bối rối.
- Chỉ ít nữa là lễ Đức Bà... Dân hãy còn mê
tín... không phải chỉ là một sắc lệnh mà họ bỏ ngay được... Phải kiên trì giáo
dục, như người ta vẫn nói... Thôi được... Trong khi đó thì các cô gái làng thắc
mắc um lên: lễ Đức Bà sắp đến rồi mà chẳng có ai đến mai mối cả. Hôm qua tôi có
đến thôn Xpaxxkôiê. Các bà chặn xe tôi lại cứ thế khóc hu hu, cười ha hả, chửi
bới om sòm cả lên... không khí trong thôn thì hoàn toàn là không khí cách mạng,
nhưng cái lễ Đức Bà ấy không sao lờ đi được... Thôn xóm thì trù phú, lúa mì ê hề,
chưa trung thu... Phải đến với họ một cách khôn ngoan, để họ tự nguyện hiến lúa
mì... Nhưng còn biết tuyên truyền cổ động cách gì, khi đàn bà xô nhau ra giật
cương ngựa của tôi và gào lên: phải cho chúng tôi một ông pốp... Tôi mới cố làm cho họ phát ngượng: các bà cứ nhìn kỹ mà xem,
tôi bảo thế, các ông pốp của các bà
chỉ xông hương trầm cho tướng Mamôntôv là giỏi... “Nhưng đó là mấy lão pốp trắng, - họ nói thế, - chính chúng
tôi đã đuổi họ ra khỏi làng, còn ông, ông phải kiếm cho chúng tôi một ông pốp đỏ chứ... Chúng tôi phải làm đám cưới,
con gái chúng tôi chúng nó mốc meo cả ra kia kìa, lại còn trăm rưởi đứa bé nằm
khóc trong nôi mãi mà chẳng ai rửa tội tổ tông cho...”. Xào, thật đến khổ, thật
đấy, thậm chí tôi còn nhức đầu suốt cả ngày hôm sau... Các bà ấy làm tôi phát ớn
lên được ấy... Chẳng lẽ tôi lại đi kiếm linh mục về cho họ? Thế nhưng vấn đề
này vẫn phải giải quyết. Họ nghĩ mãi, nghĩ mãi, rốt cục họ cho người đi Novotserkaxxk
tìm ông pốp già ngày trước... Thế
nghĩa là sẽ có xung đột... Kuzma Kuzmits ạ, bác thông thạo những việc như thế
này. Bác giúp tôi với. Bác lấy cái xe ngựa của tôi, đi vào làng, nói chuyện với
các bà ấy một chút... Chỉ có điều là phải làm như thể tôi chẳng biết chút gì hết.
Mấy cô gái ấy tôi đã trông thấy rồi, khiếp thật, cứ như đá ấy. - Ivan Gora chỉ
tay vào ngực mình. - Cũng là chuyện rất người thôi... Ông đi hộ nhé?
Kuzma Kuzmits gật gật, rồi chúm môi lại
nói:
- Rất vui lòng.
* * *
- Saryghin ạ, cậu nói chán quá, nghe mà khô
cả óc, nói thế thì chúng tớ đến phải chạy ra cho thật nhanh...
Latughin cầm mũ lên đội nghiêng lưỡi trai
sang một bên tai rồi cựa quậy trên ghế dài, nhưng không đứng dậy mà chỉ liếc mắt
về phía Anixya.
Anixya đang ngồi nghe, mặt cau lại vì cố
chú ý, mắt nhìn đăm đăm vào cái đinh đóng trên tường: mỗi lần học chính trị chị
đều tìm một vật nào đấy để nhìn như vậy. Bộ óc chưa quen học hành của chị khó
nhọc hấp thụ những ý trừu tượng. Những ý đó như những từ ngữ của một thứ tiếng
ngoại quốc nào, chỉ thấm dần từng mảnh, từng tí một vào những cảm quan của chị.
Từ “xã hội chủ nghĩa” gợi lên trong trí chị một cái gì có tiếng sột soạt khô
khan, như một sợi ruy băng đỏ vướng vào một bàn tay xù xì. Chị nằm mơ thấy cái
dải ruy băng đó. “Chủ nghĩa đế quốc” thì giống như ông vua Nabukhôđônôzor trong
bức tranh dân gian ruồi bâu lỗ đỗ: đội mũ miện, mặc áo choàng tô màu đỏ thắm.
Nhà vua đánh rơi cây quyền trượng và quả địa cầu khi trông thấy bàn tay thần viết
lên tường mấy chữ: mene, tekel, farex...
Nhưng Anixya vốn cần cù. Chị kiên trì khắc
phục những cách hình dung sai lạc đó. Chị cảm thấy đôi mắt Latughin đang nhìn
chị chằm chằm, nhưng chị vẫn một mực không rời mắt ra khỏi cái đinh đóng trên
tường, chị từ từ khép cặp đùi lại.
- Tôi nói thế mà bảo là chán à, Latughin?
Bài báo chúng ta đang phân tích là bài đăng trên tờ “Izvextya”. Cậu không thích
sao? - Saryghin hỏi. - Đã là quân nhân cách mạng, thì khi nạp đạn vào súng cậu
phải có một khái niệm rõ ràng về tình hình và nhiệm vụ trước mắt chứ.
Nói xong, Saryghin đưa đôi mắt xanh rất đẹp
uể oải nhìn sang Anixya. Chị vẫn tiếp tục nhìn cái đinh. Baikôv nói, giọng
thanh thanh, không cười:
- Sói có mặc áo đẹp cũng làm rách ngay
trong khi lủi bụi chui bờ. Đối với kẻ chỉ biết phá quấy thì học hành thế nào chả
chán!
- Khéo nói đấy! - Latughin lập tức đập lại
và cũng không cười. - Nhưng không đúng lắm. Không phải, học hành không có gì là
chán. Tôi kính trọng khoa học, nếu nhờ nó người ta sinh con đẻ cái... Chán là
khi nào người ta chẳng biết chân voi mọc đằng nào, đầu voi mọc đằng nào... Thôi
các cậu đừng trêu tức tớ nữa. Một lời nói chân chính nó ôm ấp người ta như một người
đàn bà, nó thiêu đốt lòng người ta. Nghe được một lời như thế, có thể đi chân
không trên đống than hồng... Đấy, lẽ ra cậu phải nói với tớ những lời như thế
kia... Saryghin ạ... Đằng này cậu cứ lải nhải như nhai giẻ rách, nào giai cấp
vô sản thế giới, nào chủ nghĩa xã hội khoa học... Như tớ đây, tớ đã bỏ nhà đi
đánh nhau, sẵn sàng chết vì nó! Tớ muốn người ta nói với tớ về chủ nghĩa xã hội
như thế nào cho tớ có thể nghe mà tin được: phải bổ nhát rìu đầu tiên vào cây
nào, vào lúc nào, ở đâu, để dựng nên cái nhà ấy. Tớ sẽ được mặc áo lụa dạo chơi
trên những bãi cỏ nào... Xì, phải lấy quả địa cầu gõ vào đầu cậu, may ra cậu mới
học được cách nói chuyện về cách mạng thế giới.
Anixya nhìn khuôn mặt rộng, gân guốc của
Latughin, với đôi mắt cách xa nhau như mắt bò mộng, rồi buồn rầu nghĩ rằng thà
mắt mình bị mù đi còn hơn phải nhìn mãi khuôn mặt ấy.
Gaghin, Zađuyviter và Baikôv đều không một
ai tán thành thái độ của Latughin. Ngồi nói chuyện trong tiếng mưa khẽ rì rầm
trên mái rạ như thế này rất ấm cúng, rất thoải mái. Quả tình Saryghin, vì tuổi
còn ít, chưa thấm nhuần những điều đã học, đôi khi ăn nói cũng cầu kỳ, nghe rất
nặng nề; anh ta không dám dùng những từ ngữ giản dị, sợ nó làm mình sa vào cạm
bẫy gì chăng. Dùng những từ ngữ ngoại quốc đã được thử thách từ lâu, anh thấy
thoải mái hơn. Nhưng dù sao Latughin cũng không nên đưa một người bạn tốt bụng,
thực thà ra làm trò cười. Vả chăng anh ta lên gân, cãi bướng một cách cố ý như
vậy dĩ nhiên cũng còn vì một nguyên nhân khác - ai cũng hiểu điều này - và cả
cái nguyên nhân này nữa, họ cũng không tán thành.
- Chính ủy đang tập hợp một đội trưng
lương, cậu cứ đến gặp chính ủy mà xin đi, - Gaghin nói với Latughin - Ngồi
không cậu phát chán rồi xoay ra nghĩ xằng đấy, cậu ạ. Cậu sắp lên men rồi đấy...
Baikôv lắc lắc bộ râu cằm, cười xòa.
Zađuyviter cũng hiểu ngụ ý của Gaghin, nhoẻn rộng miệng ra cười ha hả để lộ hàm
răng chắc nịch. Anixya đỏ mặt tía tai, ứa cả nước mắt. Chị cầm chiếc áo khoác
lên, quay mặt đi để xỏ áo, thắt nịt lưng rõ chặt rồi bỏ ra ngoài. Không khí khó
chịu hẳn đi. Saryghin cười nhạt, từ từ gấp tờ báo lại.
- Ta ra ngoài này nói chuyện một chút đi - Anh
bảo Latughin.
Latughin nheo nheo đôi mắt:
- Nào thì đi.
Họ ra ngoài sân tối om, dưới làn mưa lâm
thâm hắt vào mặt buồn buồn. Saryghin cảm thấy Latughin đang cười nụ và chỉ đợi
anh nói để trả lời thật chua chát và thật trâng tráo... Saryghin cũng định hết
sức bình tĩnh đặt vấn đề vi phạm kỷ luật giữa bạn đồng ngũ với nhau, và nói với
Latughin về sự cần thiết phải khắc phục cái di sản tư sản thối nát còn sót lại
trong bản thân chúng ta... Nhưng rốt cục anh chỉ hít thật sâu không khí ẩm ướt
vào mũi rồi nói:
- Cậu để cho Anixya yên... Như thế là không
tốt đâu... Như thế là bẩn thỉu... Như thế là trai lơ...
Nói đến đấy anh ta im bặt, Latughin không mảy
may ngờ rằng câu chuyện sẽ xoay chiều như thế, cũng đứng đực ra trước mặt anh.
Không biết trả lời thế nào cho ổn. Trả lời là: “rõ đồ nhãi ranh, mặt búng ra sữa
mà cũng lên mặt đạo đức, tao không cần đứa nào làm vú em cho tao hết” cũng
không xong, mà trả lời là: “liệu hồn không tan xác bây giờ, đã có khối thằng ăn
đòn của tao” cũng không được nốt. Rốt cục, hóa ra anh ta, Latughin, là một con
người bẩn thỉu... Cứ như thời trước thì anh ta sẽ choảng vỡ mặt ngay...
Latughin nhắm mắt lại, nghiến răng ken két... không thể được!...
- Phải, phải, - anh nói, - cậu trách tớ như
thế, nghĩa là tớ đã đổ máu một cách vô ích, nghĩa là trước kia tớ là một thằng
cầu bơ cầu bất, một thằng kẻ cướp, một thằng chó đẻ, thế thì bây giờ tớ cũng vẫn
thế chứ gì? Thôi cũng cám ơn cậu, Kôxtya ạ...
Anh đi ra cổng và giận dữ nện quả đấm vào
cánh cổng bên.
* * *
Sự sống dần dần trở lại với Ivan Ilyits
Têlêghin. (Ngoài sự chấn động thần kinh ra, chàng còn bị thương nhiều chỗ vì những
mảnh thép vụn của một quả đạn đại bác nổ bên cạnh xuyên vào người).
Ban đầu là trạng thái mê man hoàn toàn. Rồi
trạng thái ấy nhường chỗ cho một giấc ngủ triền miên chỉ gián đoạn khi họ bón
thức ăn cho chàng. Rồi chàng bắt đầu cảm giác được một trạng thái yên tĩnh dễ
chịu. Mắt chàng bịt băng kín mít. Chàng nằm trong một căn phòng biệt lập, cửa sổ
buông rèm kín. Thỉnh thoảng chàng nghe thấy có tiếng bước rón rén, tiếng nói thầm
thì, - không to hơn tiếng lá cây xào xạc, - tiếng thìa lách cách, tiếng áo dài
sột soạt. Đâu đây gần đầu chàng có tiếng đồng hồ tích tắc liên tục, khi to lên,
khi nhỏ lại. Những cảm giác từ bên ngoài đến với chàng chỉ vẻn vẹn có thế, nếu
không kể sự có mặt vô hình của một sinh vật nào đó cử động rất thận trọng. Mỗi
khi chàng thở dài, lập tức không khí bao quanh chàng khẽ chuyển động, và “sinh
vật” đó cúi mình trên chàng, thậm chí chàng còn ngửi thấy mùi hương của nó, dịu
dàng và tươi mát.
Thỉnh thoảng lại có một sinh vật nữa, thô lỗ
hơn, sực mùi mồ hôi và nhất là mùi thuốc lá:
“Sao, mạch thế nào rồi?”
Sinh vật dịu dàng kia thì thầm trả lời. Còn
sinh vật thô lỗ thì nói bô bô:
“Rất tốt! Anh chàng khỏe lắm... chủ yếu phải
theo dõi sao cho yên tĩnh tuyệt đối, không có những kích thích tố ngoại lai tác
động vào...”.
Ivan Ilyits chậm rãi trả lời thầm trong
trí: “Chính mày là kích tố ngoại lai ấy... Đi đi, đừng làm ồn... Còn mày, sinh
vật dịu dàng kia, mày hãy cúi xuống đây sửa lại chăn gối gì một chút hay tốt
hơn nữa, hãy vuốt lên bàn tay... Đấy, thấy chưa: mình mới nghĩ thế, mà nó đã hiểu
rồi. “Nó” chắc là một chị y tá, chị y tá ấy là ai nhỉ, họ tìm đâu ra một người
dễ thương như vậy?”.
Họ cấm chàng nói. Nhưng nghĩ thì chẳng ai cấm
được. Đã bao nhiêu năm nay chàng chưa lần nào được đối diện một mình với bản
thân như thế này, không chút lo âu, không hề bị lương tâm cắn rứt. Đó là một phần
thưởng lớn lao đền bù lại tất cả những năm gian khổ tận tâm phục vụ. Chàng đã
không làm một việc gì không phải, và lương tâm chàng yên tĩnh ngủ thiu thiu như
con mèo đang thu mình bên cạnh lò sười trong một ngày mưa gió sụt sùi. Những ý
nghĩ của chàng lang thang trong một thế giới nửa hư nửa thực. Một kỷ niệm hay đến
với chàng nhất là hình ảnh mặt trời mùa hè phương bắc, vào một ngày hơi lạnh rọi
ánh sáng xuống mặt đường nhựa màu khói lam gió lùa hun hút... Chàng đã sống bao
nhiêu sự việc, đã nghĩ bao nhiêu điều ở Pêterburg... Và đây, trước đôi mi nhắm
nghiền của chàng hiện lên khung cửa sổ của một ngôi nhà gỗ, ánh nắng chiếu mờ mờ
trên mấy tấm kính đầy bọt hơi, rồi sau đó chàng lại thấy hiện lên... Nhưng những
hình ảnh ấy vụt tắt và trôi đi mất, chỉ còn một cảm giác buồn buồn do sự tiếp
xúc nhẹ nhàng của nó để lại.
Trong ký ức của chàng cứ lặp đi lặp lại mãi
những lời ca đã quên từ lâu của một bài hát nhỏ. Bài này chàng đã nghe đâu ở
Novaia Đêrovnya thì phải, bên kia sông Kraxtôvka, ở một ngôi biệt thự. Trong
ánh sáng mờ xanh của một đêm hè phương bắc, một cô gái Tzigan gầy gò và uể oải
đã hát khe khẽ, tay dạo trên phím đàn: “Anh sẽ rẽ sang phải, rồi rẽ sang trái,
rồi men theo dãy hành lang tối om anh sẽ đi quanh khắp nhà, bên phải sẽ có cánh
cửa, sau cánh cửa là gian gác xép: tất cả những gì anh tìm, anh sẽ không sao thấy
được...”
Cô gái Tzigan hát cho họ nghe - cho những
người đàn ông ngồi im lặng trên những chiếc ghế đặt trước mặt cô - hát về nỗi
nhớ nhung vĩnh viễn, mà nếu thiếu đi thì cả cuộc sống cũng chẳng còn là cuộc sống.
Tìm đi, tìm đi, thử nhìn vào các buồng xép - ở đấy có thấy không? Chao ôi, hơi
men vào, các người ngốc quá! Các người tìm ai? Các người đi trên đường dài về
phía mặt trời phương bắc lặn, dưới chân gió thổi bụi bay, các người tìm xem,
đâu là cái cửa sổ có những tấm kính đầy bọt hơi ấy? Phải chăng ngồi sau khung cửa
sổ ấy là người con gái đáng yêu nhất thế gian, mình mặc áo vải hoa, hai đầu gối
gấp cao lên, đang đọc cuốn sách nhỏ, trong sách có viết về anh, người đang đi
mãi, đang tìm. Tất cả những cái đó nhảm nhí hết, hãy tìm lấy bản thân đi...
Trong cõi tối tăm và tĩnh mịch, trong tiếng
tích tắc của chiếc đồng hồ con, Ivan Ilyits thiu thiu ngủ, nửa tỉnh, nửa chiêm
bao: cùng với quá trình trở về với cuộc sống, trong lòng chàng cũng bừng tỉnh
tình thương yêu đối với bản thân mà chàng vẫn giấu rất sâu, và vẫn lên án về
căn bản. Trong cái thế giới nửa hiện thực nửa hoang đường này chàng như cố thu thập
lại những kỷ niệm của mình, những kỷ niệm tốt lành nhất, vô tội nhất, đáng yêu
nhất - những cái gì mà con người đánh mất dọc đường đời, và nhiều khi mất không
còn mong tìm thấy lại nữa. Tình thương yêu đối với bản thân trở về với chàng
cùng một lúc với sức khỏe. Chàng ăn đã thấy ngon miệng, và những khi vắng mặt
cô y tá, chàng vươn vai rõ mạnh.
Có một hôm, sau một giấc ngủ ngon lành, dậy
ăn bát cháo kiều mạch, chàng nằm lại cho thoải mái trên gối rồi bỗng nhiên nói
to:
- Chị y tá ơi, nói chuyện phiếm với chị một
chút có được không?
Nàng vội vã cúi mình về phía chàng.
- Suỵt! - nàng hoảng hốt thì thầm rồi đưa
lòng bàn tay lên bịt miệng chàng - suỵt! - Nhưng khi nàng bỏ tay ra chàng lại
nói, lần này giọng tinh nghịch ra mặt:
- Thế thì chị kể chuyện gì đi... Bàn tay chị
dễ chịu quá, nhỏ nhắn thế kia. Chị bao nhiêu tuổi? Chị tên là gì?
Chị y tá mấy lần thở hắt ra những tiếng ấm ức,
không biết là khóc hay là thấy khó thở... Người đâu mà lạ. Nãy giờ chàng cứ muốn
nói với chị y tá “Tôi thức dậy, chợt nảy ra cái ý này... Nếu một con người
không thương yêu bản thân mình, thì người ấy không thể thương yêu ai hết, - như
thế thì còn làm được cái gì? Những kẻ vô liêm sỉ, những kẻ khốn nạn chẳng hạn,
họ không thương yêu bản thân... Họ ngủ không yên, toàn thân ngứa ngáy, bứt rứt,
khi thì nỗi hằn học dâng lên nghẹn cả cổ, khi thì nỗi lo sợ thiêu đốt tâm
can... Con người phải yêu bản thân, và yêu trong bản thân mình những gì mà một
người khác có thể yêu trong người mình... nhất là người đàn bà, người đàn bà của
mình...”.
Nhưng Ivan Ilyits không nói gì; chị y tá ra
khỏi phòng và một lát sau trở lại với ông bác sĩ, kẻ thù của những kích thích tố
ngoại lai. Bác sĩ bắt đầu gầm lên một cách hết sức trâng tráo:
- Làm sao lại vô kỷ luật thế hở anh bạn?
Không được, không được... Nói vài tiếng thôi, những chuyện cần thiết nhất ấy,
thì tôi còn cho phép được. Tôi có nhiệm vụ trả anh về trung đoàn ở trạng thái tối
ưu. Còn bổn phận của anh là phải cấp tốc trở lại làm một con người hoàn toàn
lành lặn, anh bạn đẹp trai ạ... Cô y tá, cô cho anh ta uống thuốc ngủ đi!
* * *
- Dừng lại đây thôi, anh bạn ạ, tôi sẽ xuống
đi bộ vào làng. - Kuzma Kuzmits nói.
- Sao lại đi bộ?
- Mặc xác tôi. Tôi sẽ vào làng như một người
lữ hành, anh hiểu ra chưa?
- Tùy ông đấy... - Latughin ghìm cương cho
con ngựa lang vạm vỡ của pháo binh dừng lại trên con đường lầy lội cạnh con đê
trồng hàng thùy dương khẳng khiu đã trụi lá. Làng Xapaxxkôiê ở bên bờ một cái đầm
cạn. Sát bờ có những vựa thóc lợp rạ mới. Xa hơn là những nếp nhà lợp mái sậy
thấp trông rất ấm cúng, khói bếp bay lên thành từng cột nhỏ.
- Cả làng nấu rượu lậu đấy. - Latughin nói
đoạn thở ra một tiếng rõ dài và quay lại ngắm đàn ngỗng trắng muốt, no căng
đang khệnh khạng kéo nhau đi trên mặt đê. Con ngỗng đực đầu đàn trông thấy cái
xe ngựa và hai con người đứng ở đường cái, bèn dừng lại ra vẻ bất bình, và năm
chục con ngỗng đi sau cũng dừng theo. Chúng nó kêu quang quác bàn gì với nhau một
lát, rồi thi nhau trượt trên sườn đê xuống nước, lướt trên mặt nước đen sẫm như
có một ngọn gió nhẹ lùa đi, bơi về phía đầm lầy.
- Mỗi con dễ đến bảy cân, cái lũ khốn nạn ấy
- Latughin nói - Cho vào nồi hầm thì phải biết!...
- Thôi anh đánh xe về đi anh bạn ạ. - Kuzma
Kuzmits hối hả chìa tay ra cho anh ta. - Và nhớ nói lại với ông chính ủy là tôi
phải loanh quanh ở đây ít lâu để thăm dò tình hình xem sao đã nhé. Thế rồi độ một
tuần nữa, cứ cho đội trưng lương đến đây. Sẽ xong xuôi tất.
- Ông ở đây đến ốm vì rượu mất, ông Kuzma ạ.
- Tôi sẽ không nếm lấy một giọt nào đâu,
anh bạn ạ. Thôi quay về đi, quay về đi không dân làng họ trông thấy hai chúng
mình đi với nhau bây giờ.
Latughin quay xe lại, giận dữ quất cái cành
khô vào mông con ngựa lực lưỡng và cứ thế đi thẳng, không ngoái cổ lại. Kuzma
Kuzmits thì leo qua con đê đi vào làng. Chiếc áo bêkes cũ kỹ của ông ta, vốn là một chiếc áo khoác thầy tu chữa lại,
đã ngả sang màu dưa ải, ngang lưng lại thắt một cái khăn vải hoa, sau lưng là một
cái đẫy bằng vải thô của lính hồng quân, trên đầu ông ta đội một chiếc mũ chụp
cao của lính Sa hoàng từ thời chiến tranh đế quốc để lại. Nói tóm lại, dáng vẻ
của ông ta rất thích hợp với công việc sắp làm.
Quang cảnh làng mạc vào tiết thu thật buồn
tẻ. Táo và anh đào đều đã rụng hết lá. Ướt đẫm sương đêm, mớ lá rụng phủ kín
lên những luống đất sụt lở đã nhổ hết rau. Những cây hoa hướng dương trước đây
vẫn thu hút ánh nắng vào mấy khung cửa sổ nhỏ nay chỉ còn để lại những cái gọng
đã rữa nát. Đâu đâu cũng lầy lội, bùn đất bê bết lên đến sát cửa ra vào. Những
cánh cửa sổ bạc màu kêu cót két và dập vào tường lách cách trước ngọn gió lạnh
buốt. Chẳng ai buồn nhìn ra cửa sổ: họa chăng chỉ trông thấy một con quạ đậu
trên bờ rào, lầm lì chờ bà chủ nhà ném ra sân một cái gì ăn được.
“Dân ở đây sống vật vờ như mê ngủ, chỉ biết
rên hừ hừ và gãi lưng sồn sột. Những dục vọng đều lắng xuống, những ham muốn đều
thiển cận... Ấy thế mà mỗi con người đều sinh ra để làm một Arixtôt hay một
Puskin cả. Các người đều có hai con mắt để nhìn những kỳ quan của trái đất, những
điều mà dù có nhìn bao nhiêu cũng không bao giờ thấy nhàm... Mỗi người đều mang
trên đôi vai một cái đầu - cái kỳ quan lạ lùng nhất trong các kỳ quan (Kuzma
Kuzmits lắc mạnh cái mũ chụp cao). Nếu đem so sánh với vũ trụ thì cái đầu chỉ
là một con số không. Ấy thế nhưng mặt khác, cả vũ trụ đều được chứa gọn trong
cái đầu ấy: nó hiểu thấu cả những điều bí ẩn sâu xa mà ông thượng đế của thánh
kinh chưa từng thò mũi vào... Thế thì việc gì phải ngồi nhìn con quạ qua khung
cửa sổ?”
Với những suy luận đại loại như vậy, chốc
chốc lại chép miệng vì khoái chá, Kuzma Kuzmits đi qua những dãy hàng rào thấp
và những ngôi nhà lợp mái cói nặng trình trịch. Ông ta gặp một cô gái đi ủng, mặc
áo khoác ngắn bằng da cừu, đang gánh hai thùng nước đầy... Vóc người cô ta vạm
vỡ, chắc nịch, chẳng có vẻ gì niềm nở.
- Cô tên là Nađejđa phải không? Đúng không
nào? Chào cô.
Cô gái đứng lại và từ từ ngoảnh khuôn mặt rộng
về phía ông ta.
- Ừ thì Nađejđa đấy. Sao ông biết?
- Tôi có linh nhỡn, thấy được tinh của người
đời.
- Bây giờ làm gì có thứ người ấy. Ông đi
đi.
- Ấy, cô đuổi tôi, - Kuzma Kuzmits nói, - thì
tôi lại ra thảo nguyên đếm gò đếm đụn. Chao ôi, khi người ta đi một mình, đường
cứ dài dằng dặc ra. Lạy chúa, sao xa thế?...
Cô con gái bĩu môi, Cô ta toan bước đi,
nhưng nghĩ sao lại đứng lại, nghi hoặc nhìn gương mặt tươi cười, tinh khôn dị
thường của người lạ mặt. Kuzma Kuzmits dang rộng hai tay trước mặt cô:
- Hễ muốn ngủ, tôi chui và đống rạ, hễ muốn
ăn, tôi lấy cắp một món gì... Tôi chẳng cần đâu, cô bạn quý ạ... Các bậc tiên
tri đi chân không trên đá nhọn để truyền bá những lời sấm. Các bậc thánh đứng
trên cột trụ, ăn toàn hoàng trùng khoa mà sống... Thế cô có biết hoàng trùng
khoa là gì không? Là con châu chấu ấy... Họ chịu khổ vì lẽ gì? Nào, thử trả lời
xem... À, cô bắt đầu suy nghĩ (ông ta nhích lại gần, môi vẩu ra). Vì họ yêu
thương con người... Mỗi con người là một kỳ quan, còn cô, Nađejđa ạ, cô là một
siêu kỳ quan. Nhưng tôi thấy gì? Ở đây các người đã đập lúa xong, đã nấu rượu
xong, sân các nhà đều sực mùi thịt lợn nướng. Cái gì các người cũng ê hề... Thế
nhưng niềm vui thì không... Các người không có ánh sáng.
- Thế ra ông đi bán dầu hỏa đấy à? - Cô con
gái vừa lấm lét nhìn quanh vừa hỏi, giọng đã có vẻ ngập ngừng.
- Tôi chẳng bán gì, cũng chẳng xin gì hết.
Tôi đến đây với các người để mua vui cho tôi và cho các người.
Cô gái im lặng một lát, rồi lại nhìn ông ta
với đôi mắt lá răm màu xám ngắt như mây giông. Cô ta nhún người xuống, đặt hai
thùng nước xuống đất rồi để cái đòn gánh lên trên:
- Làng chúng tôi buồn lắm, chẳng vui lên được
đâu... Thế ông định lấy gì mua vui cho chúng tôi?
- À, tôi đã nói thế tức là tôi có cách...
Tôi là ông pốp phá giới đây.
Cô gái há hốc miệng ra, cái miệng tươi tắn,
hàm răng đều và trắng đến nỗi Kuzma Kuzmits phải giẫm chân đánh chát một cái vì
thích thú. Vẻ thiếu niềm nở trên gương mặt cô ta đã không cánh mà bay đi từ bao
giờ.
- Ôi, - cô ta chắp hai tay lên ngực, nơi
hai vạt áo khoác ngắn để hở một khoảng, - ôi, - cô ta nhắc lại, bộ đùi to rộng
nhích lên nhích xuống vì cô cứ chuyển từ chân này sang chân kia, - thế thì mời
ông, ta vào nhà đi... Bố tôi sẽ nói chuyện với ông, bố tôi giữ chìa khóa nhà thờ
đấy...
- Không, - Kuzma Kuzmits nói, - tôi không
vào đâu... Các người đến tôi thì có... Thế đấy, cô gái mày đen ạ...
Ông ta nháy mắt với cô gái, vui vẻ nhích
nhích đôi vai rồi bước đi trên đường làng, đưa mắt tìm một nhà nào có vẻ nghèo
nghèo một chút.
* * *
Đã đến ngày Ivan Ilyits được tháo băng bịt
mắt. Ấy là một buổi hoàng hôn. Sau cánh cửa, chị y tá lo sợ nói thì thầm với
bác sĩ... “Chỉ vớ vẩn, - bác sĩ nhắc lại, - là một tráng đinh chớ có phải là một
bông hoa phong lan đâu mà! Cô cứ làm như tôi đã dặn đi”. Cô y tá trở về bên giường,
cúi xuống sát đến nỗi làn tóc mịn màng của cô rũ xuống mũi Ivan Ilyits buồn buồn,
rồi tháo băng ra, và lần đầu tiên, thay cho tiếng sột soạt và tiếng thì thầm,
chàng nghe thấy giọng nói của người nữ y tá, yếu ớt và ngắt quãng:
- Anh thương binh ơi, anh nằm yên nhé, tập
nhìn ánh sáng cho quen đi.
Sau thời gian dài dằng dặc sống trong bóng
tối, chàng mở mắt ra một cách hơi sợ sệt. Mọi vật đều hiện lên mờ mờ. Một ánh
sáng yếu ớt lọt vào phòng - trên cửa sổ, tấm chăn dùng làm rèm đã được vén một
góc lên. Ở chân giường, cô y tá đang ngồi cạnh cái bàn con, - chàng không nhìn
rõ được gương mặt của cô ta, - cặm cụi cuốn một cuộn băng.
Ivan Ilyits nằm yên và mỉm cười. Trên đầu
chàng là trần nhà nghiêng nghiêng: dĩ nhiên trên ấy có cái cầu thang dẫn lên
gác xép, còn đây chính là cái cửa kính đầy bọt hơi ấy. Không thể tìm được một
chỗ nào tốt hơn thế này... Rồi ngay sau đó, như thể bóc mạnh lớp vảy mới đóng lại
trên một vết thương, một kỷ niệm vui trỗi dậy: chàng chợt nhớ đến một nơi khác,
đầy khói lửa, đầy tiếng nổ ầm ầm, đầy những ánh chớp dữ dội, và trước mặt chàng
lóe lên một ánh lửa màu vàng chói chang... “Không nên, đừng” -Ivan Ilyits vội
xua cái kỷ niệm đang chớm bắt đầu xuyên qua óc chàng đau nhói... Lại nghe tiếng
đồng hồ tích tắc, dịu dàng và êm ái đang rút bớt dần dần, không chút đau đớn,
những quãng thời gian đều đặn của cuộc đời...
- Cô y tá ơi, - Ivan Ilyits gọi, - tôi chẳng
thấy rõ được cô.
Cô y tá lắc đầu. Cuộn băng đang đặt trên
đùi cô lăn xuống đất, xổ tung ra. Cô lại nhặt lên, cuộn lại. Cô có những động
tác thật nhẹ nhàng, - chắc cô còn trẻ lắm... Thế mà đã thành thạo quá! Ivan
Ilyits cố nhìn kỹ cô, nhưng bóng hoàng hôn mỗi lúc một dày đặc, và bây giờ chỉ
trông thấy mờ mờ tấm áo choàng vải trắng và chiếc khăn bịt đầu buông xuống hai
vai như tượng con Xphinx Ai cập.
“Hiểu rồi, hiểu rồi... Tội nghiệp, chắc cô
bé bị rỗ, hay là mặt mày xấu xí lắm. Dĩ nhiên cô ấy cũng thấy mình biết ơn cô ấy
biết nhường nào. - Ivan Ilyits thở dài. - Trên đời này phỏng có được bao nhiêu
người dịu dàng và tận tụy như thế - những người bạn chung thủy suốt đời. Và chắc
hẳn là rất thông minh, những người con gái xấu xí đều thông minh cả... Chính phải
lấy những người như thế, phải yêu những người như thế mới phải... Thế mà đàn ông
lại sẵn sàng hy sinh tất cả để bên gối có được một bộ mặt xinh đẹp có đôi hàng
mi búp bê, thầm thì nói với họ đủ các thứ chuyện tầm thường và ngu xuẩn... Đasa
thì khác, mình yêu nàng không phải vì sắc đẹp... - Ivan Ilyits nhắm mắt lại, luồn
nắm tay xuống lót dưới má. - Nói dối, nói dối... Chính là vì sắc đẹp phi thường
của nàng... Nhưng rốt cục nàng cũng có thiết gì đến mối tình ấy đâu...”.
Cô y tá lặng lẽ đứng dậy, tưởng chàng đã ngủ
thiếp đi, bỏ ra ngoài và rất lâu không thấy trở lại. Rồi cánh cửa khẽ đánh két
một tiếng. Một ánh sáng màu vàng mờ mờ hiện ra. Ivan Ilyits nằm yên không động
đậy, hé mở đôi mi. Chàng thấy Đasa bước vào, mình mặc áo choàng trắng, đầu bịt
khăn y tá. Nàng cầm một cây đèn nhỏ bằng sắt tây, bàn tay màu hồng trong trong
đưa lên che ánh đèn. Ivan Ilyits không lấy làm lạ khi trông thấy Đasa: chàng
không tin rằng đó là Đasa.
Nàng đặt cây đèn lên bàn, vặn nhỏ ngọn lại,
ngồi xuống cạnh bàn rồi bắt đầu nhìn Ivan Ilyits. Mặt nàng gầy như mặt một cô
bé vừa bị sốt phát ban. Ở khóe đôi môi mòng mọng có một nếp nhăn. Ánh đèn chỉ
soi sáng một bên má và một con mắt điềm đạm, mênh mông, trong đồng tử điểm một
chấm sáng nhỏ phản chiếu ngọn đèn. Với ý định ngồi lâu, nàng chống khuỷu tay
lên đùi và tựa cằm vào cái nắm tay xinh xắn. Chỉ có Đasa mới có kiểu ngồi như vậy.
... Tối hôm nào ở Pêterburg nàng đến “Trạm
trung tâm đấu tranh với sinh hoạt hàng ngày” ở nhà Têlêghin. Hôm ấy chàng trông
thấy nàng lần đầu: chàng thấy nàng kiều diễm như mùa xuân. Má nàng đỏ bừng:
nàng mặc chiếc áo nỉ đen rất ấm. Gian phòng họp, nơi các nhà thơ tham gia những
cuộc “báng bổ huy hoàng” đang ngồi trên những tấm ván kê trên những súc gỗ, bỗng
tràn đầy mùi nước hoa dìu dịu. Trong khi nghe những bài thơ rắc rối, nàng tựa cằm
lên nắm tay, và để ngón tay út lên đôi môi mọng, hơi nũng nịu... Về sau, chàng
đã đưa chiếc ghế nàng ngồi đặt vào phòng làm việc của mình...
Tất cả những hình ảnh đó sáng bừng trong ký
ức chàng giữa hai tiếng tim đập. Tim chàng đập mỗi lúc một to hơn, như tiếng trống
của người đi tuần trong đêm khuya: hãy thức dậy! Nhưng người đàn bà ngồi trên
chiếc ghế đẩu đặt ở chân giường kia không thể là Đasa được! Chàng nằm yên không
nhúc nhích, háo hức nhìn nàng qua hai khe hở hẹp hé mở dưới đôi mi... Hình như
nàng đã nhận thấy chàng nhìn như vậy, và rướn cả người về phía trước.
- Cô y tá ơi, - chàng gọi, - cô y tá!...
Rồi mở rộng đôi mắt ra, chàng nhổm dậy...
Đasa lao về phía chàng với một tiếng reo yếu ớt, đầy lo âu và hạnh phúc...
Chàng ôm lấy vai nàng, lưng nàng, như thể sợ hình ảnh này tiêu tan đi mất...
Đây chính là Đasa, gầy gò, mong manh, Đasa bằng xương bằng thịt! Chàng ôm chặt
lấy mặt nàng và cảm thấy đôi môi nàng run, và toàn thân nàng rung chuyển... Hai
tay chàng ôm lấy đầu nàng đưa ra xa một chút để ngắm gương mặt yêu dấu, gương mặt
bao giờ cũng mới mẻ, bao giờ cũng đẹp một cách bất ngờ ấy. Nàng nhắc đi nhắc lại,
mắt nhắm nghiền:
- Em đang ở bên anh, mọi sự đều tốt đẹp, mọi
sự đều tốt đẹp anh ạ.
Chàng hôn lên miệng, lên hai khóe môi mà những
nỗi đau khổ đã hằn lên hai sợi chỉ nhỏ, lên đôi mắt nàng đang nhắm nghiền.
- Bây giờ anh hãy bình tâm lại, Ivan, anh
yêu dấu - nàng thì thầm, - em sẽ không rời anh nữa, em sẽ ở bên anh mãi mãi,
vĩnh viễn ở bên anh.
* * *
Đến tối thì cả làng đều biết rằng ở nhà bà
Anna Triokhjilnaia, một bà góa không có tấc đất cắm dùi, hiện có một người lạ mặt
đã gặp Nađka Vlaxô trên đường làng và nói với cô ta là: “Tôi đến đây đem lại niềm
vui cho các người, tôi là một ông pốp bên
phe đỏ”. Đàn bà trong làng, già cũng như trẻ, ai nấy đều tin điều đó. Nađka phải
kể mãi đến đau cả miệng cái chuyện cô đi gánh nước như thế nào, chợt có linh cảm
ra sao rồi ông kia gọi cô là “Nađejđa!” như thế nào (các bà các cô hóng chuyện
vội kêu lên “Lạy Chúa, sao ông ta lại biết được nhỉ”). Thì đã bảo ông ta có
linh nhỡn mà lại! Mà bộ mặt ông ta thì Nga đặc, đỏ au lên như thể đã lột hết
da, tóc dài chấm vai, ăn mặc tồi tàn, nhưng không đói, ông ta vui tính lắm, nói
toàn ngạn ngữ với câu đố...
Đàn ông nghe họ bàn tán thì cười xòa... “Coi
khéo cái lão có linh nhỡn ấy nó đốt sạch cả làng đấy... Nếu là pốp thật thì đã vào nhà nào giàu nhất rồi...
Còn như nhà mụ Triokhjilnaia thì đến con gián cũng chẳng có gì mà ăn... Không,
các bà ạ, phải dẫn lão ấy ra ủy ban xem giấy tờ đã... Có thể lão ta là gián điệp
của quân ăn cướp cũng nên? Ấy thế...”
“Thôi đừng có đùa nhả nữa, người ta cười
cho, - vợ người vừa nói vặn lại, và bao nhiêu bà khác đều gật đầu tán thành. -
Hồi trước cách mạng chúng tôi phải nghe các ông mãi rồi. - Bà vợ nói lớn, hai mắt
long lên hùng dũng, - mà lệnh lạc của các ông có được cái việc quái gì ra hồn
đâu... - Bà ta chống hai quả đấm lên đôi hông lực lưỡng. - Trí óc của chúng tôi
chẳng thua kém gì các ông, mà chúng tôi lại biết nhiều hơn... Các cô các bà ạ,
cứ thử nhìn con Nađka nhà tôi mà xem, ngực áo nó căng nứt cả ra kia kìa... Ngày
ngày nó trông vào gương nó nói với tôi: mẹ ơi mẹ, tại sao con cứ phải thế này
mãi để rồi chết già? Thế bây giờ các bà bào nó phải thế nào, đợi đến lễ Đức Bà
năm tới hay sao? - Bà lại quay sang nói với chồng: Ấy, tại sao ông ấy không vào
nhà ông chén thịt lợn? Chúa Cơ đốc ngày xưa chỉ vào các nhà giàu thôi chắc? Sở
dĩ vào nhà bà Anna nghèo xơ xác ấy là vì ông ta là một ông pốp đỏ, ông ta chẳng màng đến thịt lợn nhà ông đâu, ông ta chỉ nghĩ
đến phước cả của mọi người”.
Ông chồng chỉ khoát tay một cái rồi bỏ đi
nơi khác. Đến tối các cô các bà tụ tập thành đám ở gần nhà bà Anna và phái mấy
đại biểu đến. Trước khi vào nhà, mấy bà đại biểu được một cô bé hàng xóm cho biết
rằng sáng nay bà Anna Triokhjilnaia đã đem nước cho ông pốp tắm hơi trong cái nhà tắm ọp ẹp ám khói đen thui dựng bên bờ đầm
ở sau nhà, và đã đưa cái áo sạch của mồ ma chồng bà cho ông ta thay. Hiện giờ,
ông pốp đang sắp sửa uống nước lá vằn
với bà Anna (trong làng này thứ nước ấy thường uống thay chè).
Ông pốp
mặc chiếc áo rubakha màu xanh da trời
đã bạc phếch ngồi trên ghế dài, hai tay để lên bàn, và - Nađka nói quả không
ngoa - mặt ông ta đỏ đến phát sợ lên được, môi ông ta mỏng mịn như môi gấu. Bà
góa đang rán trứng trên cái bếp đun củi vụn; từ cái ấm xamôvar, một ngọn lửa xanh lè kêu vù vù bốc qua cái ống móp lắp
trên cù lao bỏ than.
Ba bà đại biểu bước vào, cúi chào rồi nói: “Lạy
cha”, đoạn ngồi lên chiếc ghế dài đặt sát vách, gần cửa vào. Họ không nói,
nhưng không để lọt qua mắt một chi tiết nào.
- Các bà nói đi, các bà đến đây có việc gì?
- Kuzma Kuzmits bỗng cất tiếng hỏi rất to. Các bà đại biểu đảo mắt lia lịa. Một
trong ba bà, bà mẹ của Nađejđa, lấy giọng ngọt ngào đáp:
- Nghe nói người ta bãi bỏ các tập quán cũ
rồi phải không ạ? Nhưng thưa cha, chúng tôi thì lại ưng tập quán cũ. Cả đời chỉ
có một lần cưới xin có phải không ạ?
- Sống càng lâu hưởng phúc càng nhiều. - Kuzma
Kuzmits đáp. - Thế các bà có việc gì cần nữa nào?
- Cha đừng sợ, chúng tôi là dân Xô-viết
đây. Chúng tôi đã đi bầu xô-viết xã, chúng tôi đã biểu quyết tán thành chính
quyền Xô-viết. Chúng tôi đã niêm phong nhà thờ lại và quyết nghị bắt ông pốp giải lên công an huyện vì tội cất giấu
một khẩu đại liên.
- Ô hô! - Kuzma Kuzmits nói, - ông pốp của các bà khá nhỉ.
- Ấy cái ông pốp ấy còn dọa chúng tôi là: “Quân phản Chúa kia, tao sẽ quét Măcxim
vào buổi mít-tinh của chúng mày, tao đặt súng trên cửa sổ tao quét”. Ông ấy làm
chúng tôi sợ hết hồn... Các cô dâu ở làng chúng tôi dĩ nhiên cũng đi bầu với tất
cả bà con, nhưng sắp đến tiết lễ Đức Bà thì chúng tôi đều muốn làm lễ cưới ở
nhà thờ cả, không biết chúng nó đã bàn sẵn với nhau rồi hay sao ấy, chỉ biết
chúng nó họp lại thành đàn, không thể tách đứa nào ra hết... Đấy, thế bây giờ
cha thử mách bảo chúng tôi xem nên làm thế nào? Nghe nói cha bỏ áo tu hành rồi
phải không?
- Đúng thế, - Kuzma Kuzmits đáp.
- Sao thế ạ?
- Vì tôi có tư tưởng phóng túng, tôi đang
xích mích với Chúa đây.
Ba bà đại biểu lo lắng đưa mắt nhìn nhau.
Bà mẹ Nađejđa ghé sát tai hết bà bên phải đến bà bên trái nói thì thầm, hai bà
này cũng rỉ tai nói với bà ta những gì không rõ. Một bà nói, giọng đã hơi xẵng:
- Như thế nghĩa là lễ thành hôn sẽ không có
hiệu lực thật sự phải không ạ?
- Sao lại không? Miễn là cô dâu bằng
lòng... Tôi sẽ làm lễ và sẽ ghi vào sổ, dù có là hội đồng toàn giáo hội cũng
không hủy bỏ được ấy chứ. Tôi sẽ đội mũ lên đầu cô dâu như bà đầm rô ấy, tôi sẽ
dẫn cô ta đi quanh bàn thờ, sẽ hỏi những câu cần hỏi, sẽ nói những câu cần nói,
sau đó ta sẽ ăn mừng no nê thì thôi, chẳng có tội gì... Các bà còn cần cái gì nữa?
Một bà đại biểu khác nói:
- Ở làng chúng tôi còn có nhiều trẻ chưa rửa
tội, chưa được đặt tên gì cả.
- Bao nhiêu?
- Có thể đếm được. Nhiều lắm.
- Thế chưa rửa tội thì sao, khó bú à?
Ba bà đại biểu lại đưa mắt nhìn nhau, nhún
vai. Bà góa chủ nhà đặt cái cà mèn lên bàn, rồi lùi ra đứng bên lò sưởi, lầm lì
nhìn Kuzma Kuzmits lấy thìa xúc trứng ăn ngon lành, đôi mắt nheo nheo lại.
- Thế lễ đặt tên sẽ có hiệu lực chứ ạ? - bà
đại biểu thứ hai hỏi.
- Tối hiệu lực, như thời ông thánh Vlađimir
ấy.
- Thế không có thầy giúp lễ, không có người
hát thì cha làm lễ thế nào được?
- Tôi cần gì họ? Một mình tôi làm tất, tôi
sẽ thưa thay, hát thay cho tất cả.
Bấy giờ bà mẹ Nađejđa mới lại gần Kuzma
Kuzmits, ngồi xuống bên cạnh và vỗ vỗ sống bàn tay xuống mặt bàn hỏi:
- Cha lấy có nhiều tiền không?
Kuzma Kuzmits không trả lời ngay. Bà đại biểu
bắt đầu thở nặng nhọc, tay bà run lên, còn hai bà kia ở cạnh cửa cũng vươn dài
cổ ra.
- Tôi không lấy một đồng cô-pếch nào của
các bà đâu. Thế đấy. Tôi đến đây không phải để lấy tiền. Các bà chỉ ra ủy ban
xã trả tiền chứng chỉ mà thôi.
Xét về mặt nào đề nghị của cái ông này cũng
đều có vẻ hấp dẫn. Chỉ sợ một điều, là nhỡ ra, ông ta là một kẻ bịp bợm thì
sao?... Cách đây chừng tháng rưỡi, khi làng này còn ở dưới quyền thủ lĩnh
Mamôntôv, cũng đã có một người lạ mặt đến đây, chân đi mỗi đôi giày bọc ngoài,
râu mọc rậm rì đến tận sát mắt. Người ấy đến một ngôi nhà đang có đông người ngồi
nghỉ ngơi sau ngày làm lụng. Hắn đứng một lúc đợi cho mọi người quen đi không
tò mò nhìn hắn nữa, rồi ngồi xuống cạnh ông lão Akim. Chắc hắn nghĩ rằng người ta
sẽ cho hắn hút thuốc, nhưng chẳng ai cho cả. Hắn ngồi bắt chéo chân lại rồi ghé
sát tai ông lão Akim nói nhỏ. “Ông lính già ơi, ông có nhận ra tôi không?” - “Không,
không nhận ra ai cả”. Hắn nói tiếp, vẻ còn bí mật hơn nữa: “Thế thì nên biết rằng
ta là hoàng đế Nikôlai Đệ nhị, người bị xử tử ở Ekaterinburg không phải là ta
đâu, nay ta bí mật đi khắp đất nước cho đến lúc nào có thể xuất đầu lộ diện...”.
Ông lão Akim vốn nghễnh ngãng, nghe chẳng ra đầu ra đũa gì, lại hỏi ầm ĩ lên.
Nhân dân chẳng phải là một lũ ngốc: lập tức họ lôi cổ hoàng đế ra bờ đê dìm xuống
nước. Hắn thoát chết cũng chỉ nhờ hắn luôn mồm kêu van: “Ô kìa, anh em, làm gì
thế, tôi đùa đấy mà...”
- Cha chẳng giống người ngây dại đi hành
hương, vả chăng bây giờ không còn những người như thế nữa, - bà mẹ Nađejđa nói
đoạn mở khuy áo bêkes ra, vì bà thấy
người nóng ran lên. -Tại sao cha không lấy tiền? Ý cha muốn thế nào? Làm thế
nào tin cha được?
- Tôi rất thích muối. Nhà nào tôi đến làm lễ
cưới và lễ đặt tên, nhà ấy cứ cho tôi một dúm muối. - Kuzma Kuzmits đặt thìa xuống
và quay về phía bà góa: - Bà đun ấm lò lên tí bà! Đấy các bà thấy không. - ông
ta trỏ bà Anna, người gầy gò, vẻ mặt tiều tụy, ngực lép kẹp, mặc chiếc váy vá xắn
gấu, - bà ấy tin tôi, sẵn sàng đi theo tôi, bất kỳ đi đâu cũng được. Còn các bà
thì no đủ, trơn tru, các bà cứ cố tìm cho ra kẻ bịp bợm trong mỗi con người ta.
Các bà là hạng kulak, tôi chán các bà
lắm rồi. Tôi sẽ nổi giận cho mà xem. Đến mai hễ trời hửng sáng là tôi bỏ đi tìm
niềm vui ở nơi khác...
Bà Anna đặt ấm lò xamôvar lên bàn, và các bà đại biểu có thể thấy rõ bà ta đang mỉm
cười, gương mặt xấu xí và hốc hác trông hớn hở hẳn lên. Bà mẹ Nađejđa như một
con chim ưng nhắm mồi, gườm gườm nhìn bà ta.
- Được rồi! - Bà nói đoạn chìa bàn tay cứng
đét cho Kuzma Kuzmits - Cha đừng giận, chẳng việc gì phải đi đâu hết, ở đây cha
muốn gì cũng có.
Sáng sớm hôm ấy Kuzma Kuzmits leo lên gác
chuông và nện dùi vào cái chuông lớn. Một tiếng đồng ngân nga truyền đi khắp
xóm làng, các ông già bà lão đều dán mũi vào cửa sổ hóng ra. Kuzma Kuzmits nện
một dùi nữa, một dùi thứ ba, cầm lấy mấy sợi dây ăn vào các chuông nhỏ, bắt đầu
rung từng hồi rất mau, rồi lại boong! - nện dùi vào cái chuông ba trăm pút.
Chưa kịp đưa mấy ngón tay lên trán thì đã nghe leng-keng, leng-keng! - cứ thế
ông pốp phá giới gióng chuông nhà thờ
theo một điệu dân vũ.
Mấy ông già bệ vệ trong làng đi ra cổng
nhìn về phía gác chuông, vẻ bất bình...
- Lão pốp
giở trò gì thế không biết.
- Túm tóc lôi lão ấy xuống, đuổi quách...
- Đuổi đi đâu? Lão ấy đuổi ông đi thì có...
- Nhưng mà lão ấy gióng khéo thật đấy...
Thôi thì bọn con gái nó vui, các bà nhà ta cũng vui, cứ để cho lão ấy làm trò
mua vui cho dân làng.
Cả làng chuẩn bị vui chơi ngày lễ, cả những
người được mời lẫn những người không. Ngày hôm ấy mù cửi, cỏ bám đầy sương giá,
trong làng đâu đâu cũng thoang thoảng mùi bánh mì nướng, mùi thịt lợn hun khói.
Đây đó trong các nhà bắt đầu có tiếng người chạy ra chạy vào, tiếng gà qué kêu
quang quác, mấy con ngỗng hốt hoảng bay qua cổng... Trong một nhà kia, một chú
rể ăn mặc chỉnh tề, râu cạo nhẵn bóng, đang ngồi trên chiếc ghế dài đặt ở góc
thờ, chờ đợi thấp thỏm, chẳng buồn ăn uống, hút sách gì. Ở một nhà khác người
ta đang sắm sửa trang điểm cho cô dâu. Các bà già, đánh hơi thấy rằng trong dịp
như thế này không thể thiếu bàn tay mình được, ân cần dạy cho cô dâu hát những
câu than vãn cho đúng phép tắc.
Chẳng
phải chim le le cất tiếng gọi trên bờ;
Đấy
là cô gái mỹ miều đang khóc nỉ non trong phòng kín...- một bà già cất giọng hát thảm thiết, và một bà khác hòa giọng hát
theo, rầu rĩ tựa cái má nhăn nheo lên lòng bàn tay:
Vĩnh
biệt, vĩnh biệt vầng dương đỏ thắm,
Vĩnh
biệt cha dày công nuôi dưỡng,
Vĩnh
biệt mẹ rứt ruột đẻ ra.
Cha mẹ
đã gả con, cha mẹ đã bán con
Bán
con đi, lấy tiền uống rượu,
Bán
con đến nơi đất khách quê người, đến một xứ sở xa xôi...
Nhưng không có một cô dâu nào chịu hát những
câu than ấy, thậm chí họ còn phát bẳn lên:
- Ấy là thời bà người ta mới bán gả con gái
đến đất khách quê người với lại xứ sở xa xôi, chứ bây giờ chúng cháu chỉ có mỗi
một xứ sở xô-viết mà thôi.
Đâu đâu cũng nấu nướng rộn rịp, nhà nào
cũng thấy người cầm xô cầm chổi chạy đi chạy lại cuống quít. Các ông mối đi từ
nhà này sang nhà nọ, hơi rượu đã nồng nặc. Thanh niên trai gái tụ tập ở sân nhà
thờ, hai anh chơi phong cầm đang chạy gam liến thoắng...
Trong khí đó, Xtêpan Pêtrôvits Nêđôyeskasi,
chủ tịch ủy ban thôn, thương binh, bốn huân chương Ghêorghi, từ trạm bưu vụ trở
về. Không chú ý đến tiếng chuông nhà thờ đang gióng giả, cứ như thể không hề
nghe thấy, ông mở cửa trụ sở ủy ban bước vào, và một lát sau cầm cái búa và tờ
giấy bước ra thềm, lấy bốn cái đinh đóng tờ giấy lên cửa, rút ở trong túi ra một
con dấu gói trong tờ báo, hà hơi vào con dấu rồi đóng vào chữ ký của mình. Trên
tờ giấy có viết:
“Hỡi đồng bào thôn Xpaxxkojê, nhân dịp cách
mạng bùng nổ ở Đức, tôi ra lệnh triệu tập mít-tinh vào mười một giờ ngày hôm
nay”.
Dân làng đổ ra ủy ban. Kuzma Kuzmits đứng
trên gác chuông nhìn xuống thấy sân nhà thờ đã vãn hết người, liền thôi róng
chuông và leo xuống. Ông quản lý nhà thờ và bố Nađejđa, mặc áo kaftan xanh có lon viền, bực bội đóng sập
nắp rương đựng nến xuống nói:
- Cái lão chó đẻ Xtepka Nêđôyeskasi mùa hè
vừa qua lẽo đẽo theo tôi suốt một tuần hỏi vay hai trăm rúp để mua gỗ lợp lại
mái nhà. Tôi không cho, bây giờ hắn mới trả thù, cái con quỷ một chân ấy! Nó
phá đám cưới.
- Thế có chuyện gì?...
- Thì đâu ở bên Đức bên điếc gì có cách mạng...
Hắn triệu tập mít-tinh, không có chính trị thì một phút, hắn cũng không chịu nổi!
Rõ đồ ngu!
Trên thềm ủy ban, Xtêpan Pêtrôvits, hai quả
đấm vung lia lịa, chốc chốc lại nện cái nạng gỗ xuống sàng, đang nói chuyện với
dân làng. Mặt ông ta phương phi, miệng rộng hoác, ria đâm tua tủa.
- Tình hình quốc tế ngày càng thuận lợi cho
chính quyền xô-viết! - ông ta đang lớn tiếng giải thích khi Kuzma Kuzmits chen
đến gần thềm. - Nhân dân Đức đang chìa bàn tay lao động của họ ra cho chúng ta.
Đó là một sự viện trợ lớn lao đối với cách mạng ta, các đồng chí ạ. Tôi đã từng
gặp người dân Đức. Tôi đã từng ở trên đất Đức. Tôi chỉ xin nói một điều: họ sống
rất tằn tiện, mỗi miếng ăn họ đều phải tính toán, nhưng họ sống sung sướng hơn
dân ta. Việc này khiến ta phải suy nghĩ đấy các đồng chí ạ. Ở bên Đức một làng
như thể làng ta đây, thì thế nào cũng có ống dẫn nước, có cống đưa phân ra vườn
rau, có điện thoại, hơi đốt có ống đưa đến từng nhà, có phòng cắt tóc, phòng uống
bia có cả bi-a... Đó là chưa nói đến các trường học, đến chế độ giáo dục cưỡng
bức... Bên ấy nhà nào cũng có xe đạp, có máy hát.
Trong đám đông có tiếng xôn xao. Có ai vỗ
tay mấy tiếng, thế là mọi người vỗ theo.
- Tôi đã bị một quả đạn đại bác Đức làm cụt
một chân ở Đông phổ. Nhưng lúc này đây tôi đứng lên cao hơn những mối quan hệ
cá nhân...
- Nói cho nó dễ hiểu một chút! - một giọng
trẻ trung gào tướng lên.
- Về tình trạng tàn tật khốn khổ của tôi,
tôi không đổ tội cho nhân dân Đức: kẻ thủ phạm ở đây không phải là dân Đức, mà
là chủ nghĩa đế quốc quốc tế... Chính nó là đối tượng đấu tranh quyết liệt...
Người Nga chúng ta đã hiểu được điều đó sớm hơn, nhưng người Đức rốt cuộc cũng
đã hiểu được. Và thưa các đồng chí, trong cuộc mít-tinh hôm nay chúng ta nêu
lên khẩu hiệu sau đây cho cả hai dân tộc: cách mạng thế giới muôn năm...
- Ura! - một giọng trẻ trung hô lên, và
công chúng lại vỗ tay rào rào.
- Bây giờ tôi chuyển sang các công việc địa
phương... Nhà trường làng ta mái dột tong tong như cái sàng: ta đã có quyết nghị
về việc này. Vậy xin hỏi, tiền đã góp đủ chưa, gỗ lợp mái đã mua chưa? Chưa. Thế
mà bà con lại có tiền chè chén hội hè. Tiền thuê pốp thì bà con sẵn lắm. Nghe tiếng chuông, quanh đây đến hàng chục
dặm phải phát ớn lên... Liệu nhân dân Đức có chìa bàn tay lao động của họ ra
cho chúng ta làm những chuyện như thế không? Tôi đề nghị thông qua nghị quyết:
chừng nào chưa thu đủ số tiền chữa mái trường, số tiền thù lao cho cô giáo, và
cả số tiền mua vở, mua bút chì nữa, cả thảy là bốn nghìn chín trăm linh bảy rúp
lẻ bảy cô-pếch, thì chừng ấy chưa được làm đám cưới, chưa được gióng chuông nhà
thờ...
Bài diễn văn của ông chủ tịch gây được một ấn
tượng khá mạnh, - cái chính là bà con nghe nói thế, đâm ngượng. Sau ông ta có mấy
diễn giả nữa lên phát biểu, ai nấy đều nhắc lại những ý kiến của ông ta, chỉ
nói thêm rằng nay các đám cưới đã sắp xếp sẵn sàng cả rồi thì không thể nào trì
hoãn được nữa, phải đóng tiền ngay tức khắc, nhưng không phải bình quân, mà cứ
để cho mười sáu hộ nhà giàu có đám cưới đóng cả. Đến đây, hội nghị toàn dân
làng thông qua nghị quyết đó.
...
Nghe nghị quyết, các cô dâu làm toáng lên,
họ nói với bố mẹ những lời lẽ quyết liệt đến nỗi mấy ông bố vội liếm ngón tay đếm
tiền đem ra ủy ban nộp. Xtêpan Pêtrôvits phát biên lai và chỉ nói gọn: “Đi làm
lễ!”.
Trời đã xế chiều khi người ta đưa mấy cô
dâu ra nhà thờ. Dân làng cứ trầm trồ ngạc nhiên: áo quần đâu mà lắm thứ sang thế!
Nào áo khoác cổ lông, nào mạng che mặt giát bạc, treo tua vàng, nào giày gót
cao hai versok: các cô dâu cứ như
nhón chân mà đi. Và khi đến cửa nhà thờ họ cởi áo ngoài ra thì ôi lạy Chúa! Áo
cưới đâu mà lộng lẫy thế! Thật chưa từng nom thấy bao giờ! Đủ các màu sắc, lưng
thắt chặt đến nứt ra mất, phía dưới thì xòe ra như bó hoa, cổ để trần, riêng cô
Nađejđa Vlaxôva thì tay để trần đến tận nách.
“Xem kìa, xem kìa, có thật là Olga
Golôkhvaxtôva đấy không?” - “Thử nhìn Xteska mà xem!”. “Họ kiếm đâu ra thế nhỉ”?
“Biết thừa đi, hai bố con năm lần đánh xe bò chở bột, chở thịt mỡ ra
Nôvôtserkaxak đổi cho các tiểu thư ở đấy lấy áo đấy mà...”.
Nhiều người lịch lãm nói với nhau:
“Tôi đã được xem những buổi vũ hội ở dinh
ông tỉnh trưởng, thấm gì!”
“Vũ hội thì ăn thua gì... Lễ ăn mừng ba
trăm năm họ Romanôv ở Nôvôtserkaxak, các tiểu thư đi nhà thờ, từ trên xe tứ mã
bước xuống đi trên thảm nỉ, nhưng bì với món ấy thì còn xa...”
Kuzma Kuzmits bước ra, không mặc áo lễ bên
trong, chỉ khoát cái áo choàng lễ không tay, cái đầu hói trụi đội một chiếc mũ
lễ cáu ghét. (Lão pốp trước kia không
những đã trốn thoát được sau khi bị bắt, mà còn có đủ thì giờ cuỗm hết đồ lễ
đi). Kuzma Kuzmits nhìn qua các cô dâu một lượt - toàn là những cô gái đẹp, đẫy
đà phốp pháp cả! Mấy chú rể sợ sệt trông như bé hơn hẳn. Kuzma Kuzmits đằng hắng
một tiếng, vẻ hài lòng, xoa xoa đôi bàn tay cóng vào nhau và bắt đầu làm lễ.
Ông ta làm rất nhanh và rất vui vẻ, khi thì lẩm bẩm đọc kinh liến thoắng, khi
thì xướng ồm ồm thay cho ông thầy giúp lễ, khi thì hát đệm thay cho phường hát, nhưng mọi thứ bài bản kinh kệ đều rất đầy
đủ, từng câu, từng chữ một đều đúng nghi thức.
Làm lễ cưới xong, ông ta ra lệnh cho các cô
dâu chú rể hôn nhau rồi nói:
- Thời trước người ta kể chuyện ngụ ngôn
trong kinh thánh cho các cô các chú nghe, còn bây giờ tôi sẽ kể cho các cô các chú
một chuyện có thật. Mười lăm năm trước cách mạng tôi làm cha xứ ở một làng hẻo
lánh. Hồi ấy tôi đã hoang mang lắm rồi, đồng bào thân mến ạ. Tôi mang dòng máu
dân Nga ta trong người, tôi luôn luôn bứt rứt không yên, cái gì tôi cũng không
vừa ý, cái gì tôi cũng thấy không ổn, cái gì cũng làm cho tôi đau xót, cái gì
tôi cũng thấy có liên quan đến mình: tôi luôn luôn đi tìm công lý. Thế rồi có một
việc xảy ra làm cho những mối do dự của tôi chấm dứt. Một hôm có một ông lão
mù, già lụ khụ, đến gặp tôi, có một thằng bé dắt đi. Ông lão rút trong giẻ quấn
chân ra một tờ giấy bạc ba rúp, cũng cũ kỹ như bản thân ông, vân vê một lát rồi
đặt trước mặt tôi nói: “Lão xin cúng cha để cha cầu nguyện một cữ bốn mươi hôm
cho linh hồn bà già nhà lão được yên rỗi...”. Tôi mới bảo ông cụ: “Cụ ơi, cụ cầm
tờ giấy bạc về đi, tôi sẽ cầu nguyện cho cụ bà chẳng cần tiền bạc gì hết... Cụ ở
đâu đến có xa không?”. “Xa lắm, đi mất mười ngày đường” - “Cụ năm nay bao nhiêu
tuổi?” - “Lâu ngày cũng lẫn rồi, đâu hơn trăm thì phải” - “Cụ có con cái gì
không?” - “Chẳng còn đứa nào, chết hết rồi, chỉ có bà già, ở với nhau sáu mươi
năm, quen rồi, bà nó thương lão lắm, mà lão cũng rất quý bà nó, thế mà bây giờ
bà nó chết mất rồi...” -”Cụ đi ăn xin à?” - “Vâng... Cha làm phúc nhận cho tờ
giấy ba rúp, làm lễ giúp cho bà nó...” - “Thôi được rồi. Cụ cho biết tên cụ bà
đi” - “Tên ai cơ?”. “Tên bà nhà cụ ấy”. Ông lão giương đôi mắt mù lên nhìn tôi:
“Bà nó tên là gì ấy à? Tôi cũng quên mất rồi, chẳng nhớ nữa... Hồi trẻ gọi là
cô mình, đi lấy chồng rồi thì gọi bà nó, đến khi già rồi thì cứ gọi là bà lão mấy
lại bà già...” - “Không biết tên thì tôi làm thế nào mà cầu nguyện được?”. Ông
cụ chống cái gậy đi đường đứng lặng hồi lâu, rồi nói: “Phải, lão quên mất rồi.
Chẳng qua cũng vì nghèo khổ quá. Thôi được, để lão về lão hỏi, có lẽ người làng
hãy còn nhớ cũng nên...”. Đến mùa thu ông lão lại đến, lại rút trong giẻ quấn
chân ra đúng tờ giấy bạc hôm nào: “Lão hỏi rồi, - ông cụ nói, - trong làng có một
người hãy còn nhớ: bà ấy tên là Pêtrôvna”.
[Thật ra Pêtrôvna là
phụ danh chứ không phải tên. Nó có nghĩa là “con gái ông Piotr”. Như vậy rốt cục
ta vẫn không biết tên bà cụ là gì]
Cả mười sáu cô dâu đứng lặng đi, mặt nhìn
xuống đất, môi mím lại. Mấy chú rể, mặt và cổ đỏ gay gắt vì cổ áo quá chật.
cũng đứng im bên cạnh tân nhân, không nhúc nhích.
Và cả đám công chúng cũng lặng đi.
- Người dân Nga sống như cây cỏ dại, đến
tên mình cũng không nhớ nữa. Bọn chủ đất đè đầu cưỡi cổ, bọn lái buôn bòn mót
tiền bạc, tầng lớp chúng ta phải đốt hương trầm thờ chúng nó, và các cô gái mỹ
miều kia nếu sống vào cái thời đáng nguyền rủa ấy thì chẳng có được ngần ấy máu
chảy trong các huyết mạch cho nó hồng hào như thế kia đâu, mà chưa kịp nở đã
phai tàn như bông hoa giữa đám gai dại.
Kuzma Kuzmits ngừng nói, như thể trầm ngâm
suy nghĩ một lát, rồi bỏ mũ lễ gãi lên cái đầu hói. Nađejđa Vlaxôva hỏi khe khẽ:
- Bây giờ đã về được chưa ạ?
- Khoan đã... Tôi đây, vào lúc cuộc đời đã
xế chiều, đã được nhìn thấy thế nào là công lý. Nó không phải như Nêkraxôv đã từng
viết đâu. Các cô các chú đã đọc rồi chứ? Chưa à?... Mà cũng không giống như trước
đây tôi vẫn hằng mơ ước những buổi chiều hôm ngồi câu cá một mình bên bờ sông,
cạnh đống lửa, chốc chốc lại đánh mấy con muỗi đậu trên cổ. Công lý là chiến đấu,
nó dữ dội lắm, không thỏa hiệp... Chẳng việc gì phải giấu diếm, tôi cũng đã nhiều
lần sợ nó... Khi súng máy nổ từng tràng và kỵ binh địch xông tới, gươm tuốt trần,
thì chẳng còn hơi đâu mà triết lý nữa. (Trong đám đông có tiếng cười dè dặt
truyền đi). Công lý không thể tìm thấy ở trên không (ông ta chỉ lên mái vòm),
và cũng không thể tìm thấy ở xung quanh mình. Công lý là bản thân anh, một con
người bất khuất. Hãy ước muốn và dám làm... Các người sao cứ nhìn tôi thế? Hay
là tôi nói khó hiểu quá? Tôi đến đây là để bảo cho các người biết vui chơi tiệc
tùng... Hôm nay các cô (ông ta lần lượt chỉ từng cô một) Ôlya, Nađya, Xtêsa.
Katêrina, sẽ nhảy múa sao cho sàn nhà phải rên lên, sao cho mắt Nikôlai,
Fiôđor, Ivan phải cháy rực lên như mắt người hóa dại. Hết... Buổi truyền giảng
đã kết thúc.
Kuzma Kuzmits quay lưng lại đám đông và đi
vào hậu cung.
* * *
Chính ủy trung đoàn Ivan Gora vừa đi
Txaritxyn về. Ở đấy người ta có kể cho anh nghe là các đội trưng lương từ
Pêtrôgrad và Moxkva phái về không phải lúc nào cũng hoàn thành được nhiệm vụ.
Trong những đội ấy có những người ít kinh nghiệm, đói khổ quá đâm ra hằn học,
nóng nảy; thấy ở nông thôn dân cứ làm thịt ngỗng ăn lu bù, họ mất hẳn tự chủ. Một
trong những đội như thế đã bị mất tích, một đội khác thì tìm mãi mới thấy trong
một toa xe chở hàng niêm phong cẩn thận ở ga Vôrônej: trong toa có ba công nhân
Pêtrôgrad đã bị mổ bụng và nhét đầy thóc vào trong, một người trên trán có tấm
biển đề “Ăn cho no vào”.
Chính ủy có hứa giúp đỡ các đồng chí
Txaritxyn. Trở về trung đoàn, anh bắt đầu chọn người sung vào các đội, nói chuyện
với họ cho họ hiểu rõ nhiệm vụ. Latughin, Baikôv và Zađuyviter được chỉ định đi
trưng lương ở làng Xapaxxkôiê. Ivan Gora gọi họ đến. Nhà anh ở trước kia trơ trụi,
chẳng có lò sưởi, nhưng bây giờ Agrippina đã ra viện rồi, sàn được quét sạch sẽ,
ngoài ngưỡng cửa có thảm chùi chân, trên bàn có trải khăn thêu, và trong nhà
không còn có mùi thuốc lá chua nữa mà lúc nào cũng thơm phức mùi bánh mì nướng.
Ivan Gora yêu cầu các đồng chí chùi chân cho sạch trước khi vào nhà.
- Các đồng chí ngồi đi. Có ý gì hay không?
- Thế anh có ý gì? - Latughin đáp.
- Tôi có nghe nói là anh em phải trưng
lương không được vui lắm.
- Vui với chả vui gì? Cần thì đi, thế thôi.
Lại còn muốn vui nữa.
- Nhưng công việc này rất tế nhị.
Ivan Gora ngồi quay lưng ra cửa sổ, ngảnh về
phía Zađuyviter đang lầm lì gõ mấy ngón tay lên mặt bàn:
- Cậu là dân cày, cậu thấy thế nào?
- Anh cần lấy bao nhiêu lúa mì ở làng
Xapaxxkôiê?
- Cũng nhiều đấy. Một trăm sáu mươi hai hộ
phải trưng cho được bốn nghìn rưởi pút thóc, phân phối theo tiêu chuẩn giai cấp,
dĩ nhiên...
- Khó lòng thu được ngần ấy.
- Tôi cử các cậu đi là để thu cho đủ. Đi
tay không đấy, các đồng chí ạ.
- Có mang vũ khí thì cũng chẳng hơn gì, - Latughin
lầu bầu.
- Không có vũ khí thì có thể nói năng lém lỉnh
hơn, - Baikôv nháy mắt nói. - Có phải đi đến nhà địch đâu, đây là dân của ta
kia mà.
- Ta cũng có, địch cũng có, - Ivan Gora nói,
vẻ lầm lì.
- Đồng chí chính ủy ạ, - Zađuyviter nói -
tôi không chùn đâu, đồng chí lưu ý cho, nhưng dù sao thò mũi vào vựa thóc của
người ta cũng chẳng phải là việc của chúng mình. Tởm lắm.
- Thế cậu nghĩ thế nào hả Latughin?
- Anh đừng có soi mói vào óc tôi làm gì,
Ivan ạ... Sẽ có thóc đem về, thế là đủ.
- Còn cậu thì sao, Baikôv?
- Tôi là dân chài. Tôi là dân phường bạn.
- Các đồng chí ạ, mục đích của tôi khi mời
các đồng chí đến đây là thế này. - Ivan Gora đặt hai bàn tay to lên bàn và bắt
đầu nói khe khẽ, như ông bố nói chuyện với con trai. - Độc quyền lúa mì là tủy
sống của cách mạng. Bây giờ mà buông nó ra thì dù ta có đổ bao nhiêu mồ hôi,
bao nhiêu máu nữa, chủ nhân ông vẫn là thằng kulak. Không phải là gã chủ hiệu trước kia, với chiếc ấm xamôvar to bằng cái thùng gánh nước, mà
là một gã phú ông lọc lõi, chai sạn, từng trải...
- Nhưng kulak,
kulak là cái gì? - Zađuyviter thốt lên. - anh thử giảng rõ cho tôi nghe.
Nhà tôi có hai con bò cái. Thế tôi là hạng người gì?
- Vấn đề không phải ở chỗ có bò hay không
có bò. Vấn đề là ở chỗ chính quyền sẽ về tay ai. Gã kulak nông thôn đang ngày đêm nghĩ đến vấn đề đó. Hắn cho người làm
về, hắn thịt con bò đi, mùa thu hắn bỏ đất đấy không cày, hắn hò hét trong các
buổi mít-tinh, hắn bỏ phiếu cho Xô-viết. Hắn dai như đỉa ấy.
- Được rồi, anh Ivan ạ... Thế bây giờ tôi về
nhà, mua thêm con bò sữa hay hai con bò mọng nữa, thì thế nào?
- Cậu vào Hồng quân là tự nguyện hay không tự
nguyện?
- Ồ, tự nguyện chứ, - Zađuyviter xác nhận.
- Thế thì cậu đừng mua bò.
- Sao thế? Tôi không hiểu - tại sao tôi lại
phải đừng mua bò kia chứ?
- Tầm mắt của cậu phải rộng hơn. Cậu cầm
súng không phải vì hai con bò mộng ấy.
- Thôi thì cứ để cậu ấy mua bò, - Latughin
nói, - sao anh cứ làm khổ cậu ấy làm gì. Anh nói tiếp đi.
Ivan Gora lắc đầu cười nhạt:
- Tôi sẽ không tranh luận làm gì, tôi muốn
tin ở con người thôi... Thôi được... Yêu cầu của giai cấp ấy là thế nào? Yêu cầu
của kulak là nắm lấy ngành thương mại
lúa mì. Cách mạng đã mở mắt ra cho hắn, bây giờ hắn không nằm mơ thấy cái hiệu
tạp hóa ở nông thôn, cái quán rượu nữa: hắn nằm mơ thấy tháp chứa thóc và tàu
thủy kia. Nếu hắn thắng được yên cương cho cách mạng, thì cậu sẽ phải làm công
cho hắn, Zađuyviter ạ, đến ứa mồ hôi máu ra, và mấy con bò mộng của cậu sẽ là của
hắn. Ngay cả chuyện độc quyền lúa mì hắn cũng nghĩ cách xoay ngược lại để có lợi
cho hắn. Có lần tôi vào một làng, đi với một đội trưng lương; hao hơi tốn sức
bao nhiêu cũng chẳng ăn thua gì: một thái độ thù địch ra mặt, lời lẽ không có
tác dụng gì hết. Lão kulak uống máu
dân ở đấy là lão Babulin. Lão mặc chiếc áo tulup
rách, đi ủng dạ rách, cung cách hiền lành, niềm nở, chỉ có điều là lão lúc nào
cũng cắn cắn bộ râu... Tôi nghĩ bụng: thế này là thế nào nhỉ? Chúng tôi sục sạo
vào kho thóc của lão, không có lấy một hạt. Dĩ nhiên là chúng tôi đào đất lên
tìm, cũng không có. Ngoài sân gia súc chỉ có một con ngựa còm ghẻ lở và hai bộ
da bò phơi dưới mái. Hắn làm thế nào mà lại ra như vậy? Cái thằng chó đẻ ấy được
tin chúng tôi sắp tới, liền đi gặp bà con nông dân: “Chao ôi bọn cảnh sát của
Sa hoàng cũng không đến nỗi làm khổ các anh bằng chính quyền xô-viết. Như tôi
đây thì tôi có cần gì, tôi sẽ dọn lên ở với con gái tôi trên tỉnh. Nó lấy ông
chủ tịch ủy ban hành chính ở trên ấy, còn như các anh thì không biết rồi sẽ sống
qua năm nay như thế nào. Bọn bolsêvik sẽ lấy sạch, rạ lợp nhà chúng cũng lấy
cho Hồng quân... Chúa vẫn phù hộ cho những ai có lòng thương người, bà con cứ đến
nhà tôi, vào kho mà lấy thóc về, lấy cho kỳ hết: đời còn dài, hễ còn sống, ta sẽ
còn có dịp thanh toán với nhau sau...”. Hắn vẫn bắt bà con viết biên lai cho hắn,
nhưng dù sao hắn vẫn được tiếng làm ơn... Chúng tôi thì hắn chẳng cho lấy một hạt,
còn chỗ thóc cho vay kia thì hắn lấy về gấp đôi. Bọn kulak có vẻ nhỏ bé, nhưng chúng ở khắp nơi, và chúng đông lắm. Đối
phó với chúng không phải dễ. Từ hàng nghìn năm nay ngồi trên cổ nông dân, chúng
biết rõ người nào phải giật dây như thế nào. Đúng thế đấy các cậu ạ, độc quyền
lúa mì là một công cuộc cơ bản, có tầm xa. Đúng là rất khó khăn. Nhưng có việc
gì dễ đâu? Cày vỡ bao giờ cũng khó. Chỉ có ngồi đánh balalaika là dễ... nếu nông dân không hiểu được cái chính lớn lao
này thì người có lỗi trước tiên là mình. Mình đến một nhà nông dân khá giả, nói
với chủ nhà: “Mở vựa thóc ra”. Mỗi hạt thóc trong vựa như một giọt nước mắt.
Nhưng mỗi hạt thóc đều thiêng liêng, đều phải dành cho sự nghiệp thiêng liêng của
ta.
* * *
- Chìa khóa trụ sở đâu?
- Ở như ông chủ tịch ấy...
- Thế ông chủ tịch đâu?
- Cũng đang chè chén ngoài kia...
Latughin, Baikôv và Zađuyviter xuống xe rồi,
mà chẳng biết nên làm gì. Người họ vừa hỏi đã bỏ đi. Họ đứng hồi lâu nhìn hắn
bước loạng choạng trên đường làng, cứ như thể con đường tự nó cứ nâng lên thụt
xuống từng đợt đột ngột. Họ rủ nhau ngồi trên thềm trụ sở ủy ban, quấn thuốc
hút. Ngọn gió lạnh đang dồn mây về thổi vào mặt họ. Tuyết rơi dày như rây bột,
hạt sắc như mũi kim, lấp đầy các rãnh bánh xe trên con đường đất đen; đã chán lại
càng thấy chán hơn.
- Cứ nghe chính ủy nói thì chân tay ngứa
ngày cứ muốn rút dao ngay, - Zađuyviter nói -Nhưng bắt tay vào việc, thấy xóm
làng cũng yên lành như mọi xóm làng. Chúng nó ở đâu, những kẻ địch ấy? Có nghe
thấy không, tiếng đàn khá đấy chứ!
Xa xa, cách đấy chừng mươi nhà, loáng
thoáng có một đám người không đông lắm, chắc là những người không được mời vào
nhà ăn cưới hay chật quá không vào được. Từ đấy vẳng lại những tiếng đàn phong
cầm khoáng đạt do một đôi tay lực lưỡng và phóng khoáng kéo hết cỡ, chen lẫn với
tiếng chân giẫm thình thịch.
- Cậu chỉ muốn nhúng ngón chân vào, nhưng đằng
này lại phải hụp cả người xuống tận đáy kia, cậu ạ, - Latughin nói. - Cách mạng
đòi hỏi phải đi sâu, chính ủy cũng đã nói như vậy.
- Đi sâu với chả đi cạn! Cho đến bao giờ?
Chúng ta xáo lộn hết lên, thế nhưng còn phải sống, còn phải gieo lúa mì, còn phải
đẻ con nữa chứ. Thế thì đến bao giờ mới làm những việc ấy?
- Có ma nào biết đến bao giờ, sao lại đi hỏi
tớ?
Latughin đang cáu, miệng cứ cắn cái cọng
rơm. Zađuyviter cau trán nghĩ ngợi liên miên, không xao lãng - theo kiểu
mu-gích - về những lời lẽ của chính ủy hôm qua.
Baikôv nói:
- Cứ thế này thì công việc tiến sao được hở
các cậu? Hay ta đi tìm ông chủ tịch?
Anh ta nhổm dậy. Latughin nói.
- Đừng đi.
- Đừng đi là thế nào? Sao lại thế?
- Tại sao thì cậu chẳng cần biết. Chẳng thú
vị gì mà phải nói.
Bấy giờ Zađuyviter nói quả quyết:
- Đã đi thì đi cả. Nào, đi tìm ông chủ tịch
đi.
- Tớ không đi.
- Phải phục tòng chứ!
- Thôi đi, Latughin, - Baikôv nói, giọng
hòa giải, - ta sẽ không đến gần bàn ăn, không uống một giọt nào của họ. Ta sẽ đứng
ở phòng lót gọi ông chủ tịch ra ngoài.
Họ cùng đi tìm ông chủ tịch. Xtêpan
Pêtrôvits Nêđoyeskasi cố thủ hai ngày, rồi đến ngày thứ ba ông đâm lo: làng xóm
có thể tách hẳn ra khỏi ông. Ông gạt bùn trên nạng gỗ đi, mặc cái quần đen bỏ ống
ra ngoài, vê lại bộ ria và trịnh trọng dạo quanh làng một vòng.
“À, đội ơn Chúa! Xtêpan Pêtrôvits, mời
ông..”. Ông chủ nhà ôm lấy ông mà hôn, lại có ông chủ nhà vỗ đôm đốp vào tay ra
lệnh: “Dành chỗ danh dự cho ông chủ tịch!”. Họ đặt ông ngồi ở góc thờ. Bà mối
bưng ra một đĩa cháo bỏ muối rất mặn để ông trả tiền chuộc, ông bèn bỏ ra một
rúp (ông không quen cho nhiều), nhận một cốc rượu đầy, nhắm tí cá hun. Ông đã lầm
khi nghĩ rằng đến ngày thứ ba những cuộc hội hè, yến tiệc đã sắp tàn. Thật ra đến
ngày thứ ba mới bắt đầu vui thả cửa, nhảy múa, hát hò, hôn hít, nói chuyện tâm
tình, cãi nhau, làm lành với nhau.
Chao ôi, dân họ vững đến thế là cùng! Qua mấy
năm nay họ đã phải chịu đựng chẳng thiếu một tai ương nào: nào là những vụ
trưng binh của Sa hoàng, về cuối lấy cả những ông già năm tư tuổi, đến nỗi chỉ
còn lại toàn đàn bà ở lại cày cuốc; như ở miền bắc thì đàn bà dùng lưỡi cày một
ngựa kéo hãy còn được, chứ ở đây cày đất đen phải dùng thứ lưỡi nặng hai đôi bò
mộng kéo, đôi khi phải ba đôi mới kéo nổi, mãi cho đến nay các bà vẫn còn nhớ
cái mùa thu năm ấy. Nhiều người chết trong vụ dịch cúm Tây ban nha. Làng
Xpaxxkôiê cháy hai lần. Đàn ông đi đánh nhau trong cuộc chiến tranh thế giới
chưa kịp trở về thì đã bắt đầu có những cuộc trưng binh của thủ lĩnh Kraxnôv,
những khoản thuế nặng và những cuộc đóng quân của các đơn vị Cô-dắc. Ai cũng biết
rằng quân Cô-dắc rất tham. Bình thường thì tử tế lắm, ai chẳng bảo là người của
mình, là một anh bạn đáng yêu, nhưng một khi đã lên yên rồi thì gã cô-dắc sẽ
không còn là cô-dắc nữa nếu đang cưỡi ngựa trên đường làng thấy con lợn choai
chạy ngang mà không xiên luôn mũi dáo vào. Tất cả những chuyện ấy đều đã qua.
Bây giờ chính quyền là của mình rồi, các khoản địa tô đã bị bãi bỏ, các phần đất
đều được tăng lên, dân họ muốn vui chơi thật thỏa thích, không kiêng dè gì nữa.
Xtêpan Pêtrôvits ngồi vừa đủ để khỏi mếch
lòng chủ nhà, rồi đi sang một nhà có đám khác. Ngồi ở góc thờ, ông nói những lời
lẽ phải chăng với ông nhạc, bà nhạc, ông bố bà mẹ, về cuộc nội chiến đang sôi sục
ở vùng bắc sông Đôn, ở quanh Vôrônej và Kamysin, nơi Kraxnôv đang uy hiếp quân
đoàn thứ Tám và thứ Chín, - “... Thành thử, thưa ông chủ bà chủ, thưa hai ông
bà thông gia và các ông bà mối thân mến, ta không thể ngủ gật được, không khéo
e sẽ ngủ quên mất! Ta phải giúp đỡ chính quyền xô-viết”. Ông nói về những công
việc nhà, về chuyện này chuyện nọ, và các vị chủ nhà phải lấy làm lạ, không hiểu
sao cái gì Xtêpan Pêtrôvits cũng biết tường tận: nhà ai trong kho có những gì,
trong vựa có bao nhiêu, cất giấu những gì ở đâu ông đều nói vanh vách.
Phải chống nạng đi bằng chân gỗ từ nhà này
sang nhà khác để lại bắt đầu tất cả lại từ đầu: chào hỏi, ngồi xuống nói chuyện,
mỗi lúc việc đó đối với ông lại một thêm khó nhọc. Ở một nơi ông bỗng dưng cầm lấy
đĩa cháo mặn chát ăn hết sạch, rồi rút trong túi áo ca-pốt bộ đội ra mấy tờ giấy
bạc nhàu nát - tất cả số tiền ông còn được - giúi cả vào tay bà mối, nốc cạn một
cốc rượu ngang lớn và quát bảo cô dâu, đã ba hôm nay phải nhảy một điệu quadrille gồm mười đôi trong căn phòng
chật chội, ngột ngạt và nóng bức.
“Xtepaniđa nhảy hăng lên nào!”
Vừa lúc ấy có người cho ông biết rằng có ba
chiến sĩ hồng quân đến hỏi ông.
“Mời họ vào đây!” - “Chúng tôi mời rồi,
nhưng họ không chịu vào...”
Xtêpan Pêtrôvits chống hai tay lên bàn, gục
đầu xuống rồi cứ như thế đứng yên một lát. Ông ra khỏi bàn ăn, rẽ đám người đi
ra phòng lót. Quả nhiên ở đấy có ba người đang nghiêm trang đứng đợi ông.
- Các anh là người ở đâu? - ông hỏi, giọng
rắn rỏi.
- Đội trưng lương!
Latughin trả lời bằng một giọng rất dữ tợn,
chắc mẩm rằng ông chủ tịch ít nhất cũng phải giật mình. Nhưng Xtêpan Pêtrôvits
- ông ta tỏa ra một mùi đậm đà và dễ chịu đến nỗi Baikôv thậm chí còn nhích lại
gần hơn - không hề giật mình một chút nào:
- Các anh đến thật đúng lúc! Tôi đợi các
anh từ lâu. - Ê, các người trong kia! - Xtêpan Pêtrôvits quát chõ vào khung cửa
mở, từ đấy đưa ra tiếng cười nói ồn ào, tiếng chén đĩa lách tách, tiếng chân nhảy
thình thịch. - Hãy ngừng cử nhạc một lát đã nào. - Lần này ông ta lảo đảo đến nỗi
Baikov phải đỡ. - Các đồng chí, đây chẳng phải là một nơi ba vạ đâu, ra ủy ban
thôn Xpaxxkôiê thôi!
Rồi vịn vào khung cửa ông quát chõ vào nhà,
giọng còn quyết liệt hơn nữa:
- Toàn thể đồng bào hãy đi dự mít-tinh!
Ông bước ra sân, nơi có ba người nông dân đứng
tuổi đang đứng tựa vào cái xe giàn đã tháo ngựa hát một bài cô-dắc, mỗi người một
phách. Hai người khác đang ôm lấy nhau và chứng minh cho nhau nghe một điều gì
không rõ. Một người nữa cứ đi loanh quanh trong sân, muốn về nhà mà mãi không
tìm ra cái cổng.
Khi đã ra sân, cũng như khi đã ra đường,
Xtêpan Pêtrôvits cứ nhắc đi nhắc lại là phải ra trụ sở ủy ban ngay, không được
lần chần.
Giận dữ ấn cái nạng xuống mặt đất đóng
băng, ông vừa đi vừa nói:
- Vui chơi là vui chơi, mà công việc là
công việc... Danh sách đã lập xong, số dự trữ đã xác minh rồi... Hãy đánh điện
ngay về Taritxyn: lúa mì đã thu đủ.
Đáp lại những lời can ngăn của Baikôv và
Zađuyviter đề nghị hoãn mít-tinh lại ít nhất là đến ngày mai, vì dù sao cũng phải
để cho dân họ tỉnh rượu đã, ông lại nói:
- Say mà vẫn sáng suốt mới là người có chân
giá trị - Các anh không phải dạy tôi. Để đến mai thì hỏng bét, phải đừng để cho
ai kịp định thần lại mới được.
Trong khi dân làng lục tục kéo ra ủy ban,
Xtêpan Pêtrôvits đem các thứ giấy tờ và danh sách trải ra trước mặt các đồng
chí trong đội trưng lương, rồi bắt đầu thầm thì một cách hăng hái.
- Trong làng có ba hộ kulak: một là Krivôxutski, đó là một thằng kẻ cướp, năm linh bảy hắn
đã cướp xe bưu vụ, giết người chạy thư, rồi mười năm liền giấu biệt số tiền đã
cướp được. Đợi đến khi mọi người đã quên chuyện cũ, hắn xây một cái vựa thóc bằng
đá và mở một cửa hiệu. Trong chiến tranh hắn vơ được khá nhiều tiền nhờ buôn da
bò. Chỉ riêng trong làng Xpaxxkôiê thôi hắn đã giết một nửa số gia súc. Hiện
nay hắn đang xoay cách tổ chức một hợp tác xã để hắn chuyển giao cái cửa hiệu của
hắn: mưu mẹo này chỉ ít nữa tôi sẽ bóc trần ra cho mọi người rõ. Hắn thường
than thở là hắn ho lao và ban đêm hay mê sảng... Một thằng rất nguy hiểm. Một hộ
nữa là gia đình lão Milôviđôv. Trước kia lão làm thầu khoán ở một khu mỏ. Lão về
làng trước chiến tranh, mở một hiệu cầm đồ bí mật... Thật là một loài chấy rận,
một tên cho vay lãi khốn nạn đã hút máu của cả làng. Chúng tôi mới được biết rằng
chính lão đã cử đến đây một thằng tự xưng là hoàng đế Nikôlai Đệ nhị để thử dân
làng... Hộ thứ ba là Mikitenkô, đã ba đời nay làm lái buôn gia súc, trước kia
có cả xà lan chạy trên sông Đôn. Ngoài ba hộ ấy ra còn phải tính đến những họ
hàng thân thuộc dây mơ rễ má của nó nữa, cả thảy chừng một chục hộ. Lại có những
chú mu-gích thận trọng: “Không biết cơ sự này sẽ kết thúc ra sao, chính quyền sẽ
về tay ai, cho nên đừng sinh sự với ai cả là hơn”. Đó là chiến tuyến đối lập...
Còn thì đây toàn là phía ta, phía ta cả. - Xtêpan Pêtrôvits đưa ngón tay phốp
pháp lượn vòng qua các bản danh sách. - Tình hình trong làng rất gay go... Hoặc
là chúng nó sẽ giết tôi, hoặc là tôi sẽ cắt cụt cánh mấy thằng...
Dân làng đã kéo nhau ra trụ sở ủy ban, cả
người say lẫn người tỉnh. Đám đông chen chúc nhau, nhấp nhô như sóng, trò chuyện
ồn ào. Baikôv nhìn ra cửa sổ, khẽ hát một bài vè của lính thủy:
Mấy
con hải âu đi vật vờ trên cát
Khiến
lòng người thủy thủ lo âu,
Khi hải
âu chưa đậu xuống nước
Hãy
chờ đón một cơn bão sắp về đây...
Rồi nói to lên với các bạn:
- Ra thềm nhanh lên, không thì gay go đấy...
* * *
Con bé nhà hàng xóm, nhỏ loắt choắt, mặt đầy
tàn hương, mắt xanh ngăn ngắt, chuyện gì cũng biết, chạy biến sang nhà bà Anna
và vừa thở vừa nói liến thoắng:
- Lạy Chúa, ngoài ủy ban sắp có chuyện rồi,
các bác các chú đã nhổ cọc hàng rào cầm lăm lăm ở tay cả...
Nó giương đôi mắt hau háu nhìn không chớp,
và không bỏ qua một chi tiết nào: nó nhận thấy bà Anna mặc chiếc áo màu huyết dụ
mà cả đời bà chỉ mặc có một lần hồi chồng bà còn sống, đi đôi giầy tai bèo, bên
trong đi bít tất trắng; tóc buông xõa, bà ngồi ở mép giường; còn ông pốp phá giới thì nằm trên giường ấy, đầu
gối co lên; bà Anna đã đưa cho ông ta một chiếc áo sạch, có chấm đen, ông ta
đang cầm tay bà Anna.
- Đi đâu mà cứ xồng xộc vào nhà người ta thế!
- bà Anna luống cuống quát con bé, thế là nó chạy vụt ra khỏi nhà, sợ quá không
nói thêm được câu nào nữa. Nhưng bà vẫn đánh thức Kuzma Kuzmits dậy. Mấy hôm
nay ông ta mệt lử, - ông ta ăn uống rất nhiều, mà nói lại càng nhiều hơn. Nông
dân nghe ông truyền giảng không bỏ sót lấy một lời. Cũng có đôi chỗ họ không hiểu,
nhưng những chỗ tối nghĩa ấy chỉ làm cho lời lẽ của ông thêm phần thâm thúy mà
thôi. Đến nhà nào ông ta cũng phải nói nhiều nhất đến cái vấn đề có sức khích động
họ hơn cả: công lý. Khi bên bàn tiệc chỉ còn lại những người có tuổi đáng kính,
một ông khách nào đấy trí tuệ đã được hơi rượu cởi trói cho, liền lấy ống tay
áo gạt những mẩu xương và thức ăn rơi vãi trên bàn xuống, rồi mở đầu:
- Kuzma Kuzmits ạ, ông đã làm phật lòng
chúng tôi rồi đấy... Sao lại bảo không có công lý? Nếu thế thì quanh ta toàn rừng
rú hoang vu à?
Một người khác ngắt lời:
- Thanh niên ta, - ông hất hàm về phía cuối
phòng, nơi những chiếc váy, những bím tóc, những dải lụa, những gương mặt phấn
khởi đang thi nhau quay cuồng, - bây giờ không sao bảo được. Họ cứ nói là bây
giờ muốn làm gì thì làm; không có Chúa, không có vua, bố mẹ đều là những kẻ ngu
ngốc, thế mới tuyệt chứ... Bây giờ biết lấy gì răn đe con cái? Rường cột ở chỗ
nào? Thế mà ông lại còn nói: không có công lý...
Một người thứ ba, râu xồm, nói xen vào:
- Nếu công lý tùy ở như con người, thì kẻ
nào mạnh hơn, kẻ ấy sẽ thắng thế, kẻ ấy là công bằng, là chính nghĩa. Thế là
chúng ta lại như một bụi cây bị phạt gốc...
- Thế như ông, ông là kẻ mạnh đấy à? - Kuzma
Kuzmits hỏi.
- Tôi mạnh... Nhưng đồng rúp còn mạnh hơn
tôi. Suốt đời tôi đã bị lép vế vì đồng rúp.
- Thế ông đã than phiền với ai chưa?
- Tôi biết đi than phiền với ai được!
- Ông đã đi viếng các thánh tích ở tu viện
Kiev-Pêtserxk chưa?
- Chưa, tôi chưa đến đấy.
- Như thế nghĩa là không có công lý chứ gì?
- Sao lại không? Tôi cứ giận sôi lên. Tôi ở
mặt trận về, mang cả khẩu súng trường về theo, tôi ra đứng bên bờ ruộng nói: thế
nào, các người tưởng tôi chết trận rồi sao? Chia ngay cho tôi ba mẫu đất...
- Thế họ có chia không?
- Không mà được à?
- Công lý gì cái lối giơ súng ra dọa người
ta ấy? Không đâu, ông bạn ạ, tôi không động đến ai, nhưng cũng đừng ai động đến
tôi. Kìa như ông lão Akim một thân một mình, không nơi nương tựa... Làm thì chẳng
còn làm được nữa, phải ăn gửi ở nhờ nhà người ta, sống bằng miếng ăn bố thí
muôn vàn đắng cay. Bao nhiêu công sức nặng nhọc của ông cụ bỏ ra, bây giờ đi
đâu hết? Trước kia ông cụ còn có nếp nhà con con, Lão Miloviđôv đã lấy để trừ nợ
rồi... Thế còn công sức của tôi thì sẽ đi đâu? Năm mươi năm nay tôi đã làm lụng
cần cù, tưởng cũng đủ xây bốn cái nhà bằng đá, thế mà vẫn cứ rách rưới như thường...
những công lao của tôi cứ bỏ tôi bay đi mất, tuôn hết vào nhà ai ấy. Ông khéo
nói lắm: “Công lý là anh, con người bất khuất”. Kuzma Kuzmits ạ, tôi không sợ
chết, đến bây giờ tôi vẫn còn vác nổi hai mươi pút trên lưng nhưng công lý thì
tôi vẫn không thể nào giành được. Giá thế này, thì mới là công lý chứ: đánh giá
con người không phải cứ vào tiền bạc, mà cứ vào công sức. Làm sao có được như thế?
Đấy, được như thế thì thật cảm ơn chính quyền Xô-viết...
- Cái ông này gàn thật: luật pháp của chính
quyền xô viết chính là như thế chứ còn gì nữa?
- Ấy, nếu thế thì luật pháp ấy chưa thấu đến
chúng tôi.
Kuzma Kuzmits rất bực mình: khôn ngoan như
ông ta, mà vẫn không có lý lẽ gì để trả lời người ấy cả. Nói chuyện với trí thức
dễ hơn nói chuyện với nông dân nhiều. Trong tất cả những buổi nói chuyện bên
bàn ăn, ông nhận thấy dường như có cả hài lòng mà cũng có cả bất mãn, có hoang
mang mà cũng có hy vọng. Hình như những con người ấy đang chờ đợi ở cách mạng một
cái gì thật triệt để, và cố thúc giục cho cách mạng tiến nhanh hơn.
Đến ngày lễ thứ hai, vào lúc đêm đã khuya,
ông lần về nhà bà Anna, say mềm và mệt lử ra. Ông ngồi bệt xuống sàn nhà cạnh
chiếc ghế dài, đưa hai bàn tay tát đôm đốp lên mặt mình, úp mặt vào lòng bàn
tay, vừa cười khà khà vừa nhắc đi nhắc lại: “Tôi giờ yếu quá rồi, bà Anna ạ,
tôi già lắm rồi, Anuska ạ!”.
Không nói nửa lời, bà Anna đưa ông ta ra
túp nhà tắm bên bờ đầm. Tự tay bà rửa ráy kỳ cọ và xông hơi nóng cho ông. Kuzma
Kuzmits chỉ có cái mặt là già, còn người thì trắng trẻo, trơn tru, và bà Anna
thấy lòng dào dạt tình trìu mến khi ông ta giẫy đành đạch như con cá trên chiếc
bàn tắm, mồm lắp bắp: “Nào quất đi, quất mạnh không khí trên lưng tôi đi!”.
Tắm xong, ông bình tâm lại và ngủ thiếp đi,
hơi thở nhè nhẹ. Sáng hôm sau ông ta dậy muộn, ăn sữa, rồi nói: “Bà đừng giận
tôi bà Anna nhé, đầu tôi sao nhức quá” - đoạn lại lăn ra ngủ. Và khi con bé nhà
hàng xóm chạy xộc vào làm ông ta thức giấc, ông ta đã trở lại vui vẻ như cũ.
- Con bé chạy sang làm gì thế?
- Có cuộc họp. Lính hồng quân đến lấy lúa
mì, thế là họ làm ầm lên.
- Lạy chúa, quân ta đến rồi!
Kuzma Kuzmits hối hả dậy mặc áo. Bà Anna lặng
lẽ nhìn ông gườm gườm. Vừa lúc ấy lại có ai đẩy cửa, và con bé ban nãy thò mỗi
cái đầu vào:
- Đánh nhau to rồi, nhiều người bị đánh dữ
lắm! Bà Vlaxikha phải dìu chồng về nhà, người máu me bê bết... ông ấy quát
tháo, chửi bới ầm đường lên... Ông Mitrofan Krivoxutska định thắng ngựa, nhưng
họ không cho. Họ lôi ông ấy ra cổng đánh đấm túi bụi, lạy Chúa!
Nó lại chạy đi. Kuzma Kuzmits mới bước được
một bước về phía cửa, định đi theo con bé, thì bà Anna đã hét lên, giọng nghe
mà phát khiếp:
- Không đi đâu hết!
Bà ta đứng bên lò sưởi, cao lớn, gầy gò, hai
cái vai vạm vỡ như vai đàn ông nhô cao lên, người ngửa hẳn ra phía sau như bị
ai bẻ gãy xương sống. Kuzma Kuzmits xiết hai tay bà rõ mạnh:
- Anna, đừng vớ vẩn! Ấy, tôi sẽ cầm cái nạng
cặp nồi đi... Bà cứ yên tâm. Một lát là tôi về ngay... Đưa cả các bạn về đây ăn
trưa. Bà làm cho chúng tôi ít bánh blin
đi... Kìa, đã bảo là đừng vớ vẩn nữa kia mà!
Bà Anna khó nhọc trả lời qua hàm răng nghiến
chặt:
- Thưa cha vâng ạ...
Con bé nhà hàng xóm muốn được xem một cái
gì khủng khiếp hơn nhiều so với những việc nó đã trông thấy trong khi chạy ra ủy
ban rồi lại chạy về các nhà để loan báo tin tức. Nhưng buổi họp quả rất náo nhiệt.
Vấn đề đóng góp lúa mì không gây nên những cuộc tranh cãi gì lớn lao lắm: “Phải
đóng thì đóng thôi”. Bản danh sách phân phối theo lẽ công bằng do ông chủ tịch
đọc lên được mọi người im lặng nghe và yêu cầu nhắc lại. Trong đám đông bắt đầu
có những cuộc trao đổi ngắn, có đôi chỗ nhốn nháo lên: người ta bắt đầu chen đến
sát thềm ủy ban, lại có những người khác xô về bên trái, phía vườn rau nhà hàng
xóm, có hàng rào bao quanh.
“Như thế không đúng!” - giọng nói dõng dạc
của Mikitenkô, mà ai nấy đều quen thuộc, quát to lên. - “Đúng chứ đúng chứ!” -
Nhiều giọng nói bác lại. Một người râu ria xồm xoàm, tay áo rách tả tơi, nhảy
lên thềm, ném cái mũ xuống đất rồi bắt đầu thổ lộ những nỗi uất ức cũ:
- Công sức của tôi đi đâu cả? Tuồn hết vào
nhà lão kia chứ còn đi đâu! Sao, tôi phải lăn lộn dưới chân hắn để kiếm lấy miếng
ăn sao? Chính quyền Xô viết là như thế hẳn?
Một người khác, mặt xám xanh đi vì tức giận,
ẩy người kia ra và bắt đầu nói những lời lẽ còn dữ dội hơn nữa. Bấy giờ những
người đứng phía sau chạy đến nhổ các cọc rào lên và xông vào cuộc họp từ sau
lưng. Latughin, Zađuyviter và Baikôv từ trên thềm chạy xuống, chen vào đám
đông, gạt mấy người kia ra, giật phắt mấy cái cọc rào trong tay họ, quát: “Không
được hoảng hốt! Mọi việc đều ổn thỏa, mẹ kiếp! Cuộc họp vẫn tiếp tục...”
Cuộc xung đột chỉ xẩy ra trong khoảnh khắc.
Những kẻ gây sự chẳng lấy gì làm đông. Một số đã lủi đi đâu mất. Có mấy người đuổi
nhau chạy trên đường làng. Vài ba người còn nằm sóng soài mãi trên mặt đất rắc
những bông tuyết trắng.
Kuzma Kuzmits vượt rào đi tắt qua các vườn
rau, lạc mất lối, và đâm đầu vào sân một nhà nào không rõ. Ở đấy có mấy bà đang
đứng nghe một bà than thở kêu ca. Trông thấy Kuzma Kuzmits, họ nhao nhao lên cả
một lượt, và bà Varvara mẹ Nađejđa, giận dữ xắn hai ống tay áo lên xấn tới trước
mặt Kuzma Kuzmits; các bà khác ùa theo:
- Ra vì thế mà mày không lấy tiền đấy, lão pốp phá giới kia! - bà Varvara nói. - Thế
mà chúng tao lại dại dột đi tin mày... mày đã phỉnh cả làng này... Mày dò la hết
những của cải của chúng tao... Mày đã xúi giục bọn dân ngu làm bậy... Mày đã
bán chúng tao cho quân cộng sản... Sao còn đứng đực ra mà nhìn nó thế, đánh chết
tên xa-tăng ấy đi, đánh cho kỳ chết.
- Ấy đừng đánh tôi, - Kuzma Kuzmits vừa đáp
vừa lùi, - các bà sẽ hối không kịp đấy... chớ động vào tôi.
- Thế vừa rồi mày nể chúng tao lắm đấy chắc?
Mấy mụ đàn bà hăng tiết lên tháo hết khăn
trùm ra, cùng thét lên cả một lượt, đổ tội cho ông pốp phá giới đã dựng lên cái danh sách thu lúa mì chết tiệt kia, đã
gây ra cuộc ẩu đả trước ủy ban, đã làm cho người làm ăn khá giả từ nay không
còn chỗ đứng trong làng xóm nữa, đã bày chuyện ra khiến cho bấy nhiêu ngan ngỗng
và lợn sữa bị ngốn phăng đi trong mấy ngày vừa qua; bấy nhiêu tội họ đổ hết lên
đầu Kuzma Kuzmits. Lũ đàn bà dồn ông ta vào hàng rào. Kuzma Kuzmits hoài công
cười gượng để lấy lòng họ, miệng lẩm bẩm: “Thôi xin các bà nguôi giận, ta nói
chuyện tử tế nào...”. Varvara Vlaxôva xông vào trước tiên, túm lấy hai mớ tóc mọc
sát hai tai ông ta, rồi nện quả đấm lên cái lưng cúi gập xuống. Ông ta nghĩ bụng
tốt hơn cả là nằm bẹp xuống và giơ tay lên mà đỡ đòn. Xương sườn ông ta cứ kêu
răng rắc lên. “Ôi! Miễn sao họ đừng lấy cái gì cứng phang mình...”. Thế rồi ông
ta nghe một giọng nói man dại: “Lấy cọc rào mà phang chết cái thằng bịp bợm ấy
đi!”. Ông ta cố vùng dậy, nhưng mặt mũi cứ tối sầm lại. Rồi bỗng họ buông ông
ta ra. Lúc bấy giờ ông mới nghe thấy tiếng mình rên và cố nghiến răng im bặt.
Có ai đỡ ông ta dậy và đặt ông ta ngồi tựa vào hàng rào. Kuzma Kuzmits mở đôi mắt
bám đầy những tuyết và trấu ra thì trông thấy bà Anna, và sau váy bà ta, gương
mặt tàn nhang của con bé hàng xóm đang hân hoan nhìn ông ta. Bên cạnh là
Latughin, Zađuyviter, Baikôv.
- Còn sống đấy chứ? - Latughin hỏi. - Có ai
bưng cho cha cốc rượu nào. Chao ôi, ông Kuzma Kuzmits, ông ở đây làm đủ trò đủ
chuyện... Trong buổi họp có quyết định tuyên dương ông về thành tích tuyên truyền
chống tôn giáo đấy.
* * *
- Đasa ạ, em không thể hình dung được trong
suốt thời gian ấy, nghĩa là kể từ khi chúng mình chia tay nhau ở Pêtrôgrad, anh
đã là một người vô vị và đáng chán đến nhường nào... Đúng thế đấy Đasa ạ, vừa
qua anh đúng là một con người như thế đấy... Trong ta có một cuộc sống tiềm thức
gì đấy. Nó giống như một chứng bệnh khiến cho người ta mòn mỏi đi như thể bị
thiêu đốt dần dần... Điều đó rất dễ hiểu, dĩ nhiên... Em không còn yêu anh nữa,
và anh...
Đasa vụt ngoảnh mặt về phía chàng, và đôi mắt
xám ươn ướt, bao giờ cũng đáng sợ của nàng nói với chàng là chàng đã nhầm: nàng
chưa bao giờ thôi yêu chàng. Cái nhìn ấy làm cho Ivan Ilyts lặng người đi một
lát, trên miệng chàng dần dần nở một nụ cười, không lấy gì làm thông minh lắm,
nhưng dù sao cũng là một nụ cười hạnh phúc. Đasa tiếp tục bỏ vào cái giỏ con tất
cả những thứ đồ đạc mà Ivan Ilyts đã thu thập được sau khi đến hàng chục cơ
quan trong buổi sáng hôm nay.
Ở đây có những vật rất cần và rất có ích: mấy
đôi tất, mấy mảnh vải có thể dùng để may áo được; mấy thứ đồ lót bằng tơ nõn rất
đẹp, chỉ hiềm là may cỡ thiếu nữ mới lớn, nhưng Đasa vốn mảnh dẻ cho nên mặc
cũng tạm vừa; lại có cả một đôi giày da nữa: chiến lợi phẩm này Ivan Ilyts lấy
làm tự hào chẳng kém gì chiếm được một trận địa pháo của địch. Cũng có những đồ
vật khiến người ta phải băn khoăn, không biết rồi đây trong cuộc sống hành quân
liên miên nó có dùng được vào việc gì không. Đó là những thứ mà người ta đã lấy
trong kho đưa ra cho Ivan Ilyts thay cho tấm khăn trải giường mà chàng đã xin:
một con chó và một con mèo bằng sứ, mấy cái lõi quấn tóc bằng da, một tá bưu ảnh
chụp cảnh vùng Krym và một cái coóc-xê bằng hàng rất bền, có nẹp cứng bằng răng
cá voi, to đến nỗi Đasa có thể quấn hai vòng quanh người.
- Đasenka ạ, anh muốn nói đến buổi chia tay
của chúng mình ở sân ga... Hôm ấy em nói với anh cái gì đại loại như: “Vĩnh biệt...”
có thể chẳng qua anh mường tượng nghe thấy thế, nhưng anh cũng rất buồn... Hôm ấy
em xanh xao, nhợt nhạt, xa vời, hờ hững...
- Eo ơi khiếp quá, - Đasa nói, vẫn không
quay mặt lại. Nàng đang bọc con mèo sứ vào một chiếc tất dày để đi đường khỏi vỡ.
Đasa xưa nay vốn ít chú ý đến đồ đạc, nhưng hai thứ đồ chơi sứ này - con mèo
con xinh xắn và con chó nhỏ có đôi tai to đang nằm ngủ - không hiểu tại sao
nàng thấy thích quá: dường như thể chúng nó đã tự ý đến với nàng, để ở với nàng
trong cuộc sống lớn lao, dữ dội, tan tác này, dưới những đám mây giông tố của
những tư tưởng và những dục vọng đang vùn vụt kéo qua, để thu xếp cho nàng một
thế giới con con của những nụ cười vô tư lự...
- Dù sao thì khi rời Pêtrôgrad ra đi, anh
cũng đã mang theo một hình ảnh của em như vậy... Anh đã mang nó theo, sống với
nó... Em vẫn ở với anh như trái tim anh ở trong lồng ngực anh. Anh đã quyết định
như vậy: sẽ sống một mình, độc thân...
Chàng cố ý đi đi lại lại trong phòng như thế
nào để Đasa vẫn ở điểm trung tâm của những vòng chuyển động của chàng. Nàng đã
bỏ tấm khăn y tá, món tóc quăn màu tro của nàng buộc ra sau gáy bằng một sợi
ruy băng xa tanh (xin được ở kho ban quản trị pháo binh). Đasa khi thì lúi húi
trên cái giỏ đặt trên chiếc ghế đẩu, khi thì buông thõng hai tay nghĩ ngợi điều
gì. Nàng mặc chiếc áo choàng y tá, duyên dáng hơn bất cứ chiếc áo dài sang trọng
nào, thắt ngang lưng thật chặt (cũng như sợi ruy-băng kia, cái chi tiết này
cũng chẳng phải là không có dụng tâm)...
- Lạ thật đấy Đasenka ạ, trước đây nguy hiểm,
chết chóc đối với anh chẳng có nghĩa lý gì: chết thì thôi. Trong chiến trận,
như thế tuyệt nhiên không có nghĩa là mình dũng cảm, chẳng qua là mình chán đời
đấy thôi... Nhưng bây giờ nhớ lại đôi khi anh thấy sợ... Anh muốn sống một
nghìn năm nữa để có thể sờ vào em, để nhìn em...
- Một nghìn năm nữa thì em trông mỹ miều lắm
đấy!... Này, anh Ivan ạ, nói chứ cái này em biết dùng làm gì được? - Nàng lại
chăng cái coóc-xê ra ướm vào người. - Ba người chui vào cũng lọt ấy chứ. Thôi đừng
lấy nữa nhé?
- Nhỡ sau này em béo ra thì dùng được đấy.
- Em có bao giờ mặc áo coóc-xê đâu, anh
điên rồi à. Thế này nhé, nếu rút lớp dựng ra rồi cắt lại, có thể thành một chiếc
gi-lê xinh xắn đấy.
Ivan Ilyts thừa khi cả hai tay nàng đang bận,
đến sát sau lưng nàng và âu yếm kéo nàng vào lòng:
- Thế thì... có thật không? Em nói lại lần
nữa đi...
- Dĩ nhiên là thật... Anh là người duy nhất
trên đời, không có anh em chẳng còn là cái gì hết... Em đã đi tìm anh mãi đấy
chứ... Ivan ạ dù sao anh cũng phải cẩn thận một chút, - nàng rụt vai né ra, -
phải biết nhẹ tay một tí chứ, có ngày anh bóp vỡ cả em ra mất... Anh ạ, chúng
mình còn quên gì nữa không nhỉ? Nhưng bây giờ thì muộn quá rồi...
- Anh sẽ bay đi lấy ngay...
- Giá có cục bọt biển...
- Có ngay bọt biển...
Ivan Ilyts chạy tới lục túi áo ca-pốt và lấy
ra một cục bọt biển, lại thêm mấy thứ khác mà chàng miễn cưỡng phải nhận mang về.
- À có cái này, chẳng ai giải thích cho anh
hiểu được nó là cái gì, dùng làm gì, nhưng anh cứ nhận về.
- Ivan, cái này tuyệt quá, dùng để xát mặt
đấy, bằng cao su mà, anh tuyệt quá, em đang cần khiếp lên ấy...
Đasa đặt cái giỏ xuống, đến cạnh Ivan Ilyts
đang ngồi ở mép giường và đang từng phút một sẵn sàng nhảy tung lên. Nàng nâng
cằm Ivan Ilyts, chăm chú nhìn vào mắt chàng:
- Em đã thề với bản thân em một điều. Trong
cuộc sống mới của em, em sẽ không đợi chờ một cái gì hết, em không phải là nàng
Xolveig, em không muốn nhìn mãi vào làn sương mù giăng trên biển cả nữa. Chỉ muốn
yêu và muốn làm... Anh cứ để nguyên em như thế mà nhận lấy em... Dù tốt dù xấu,
em cũng là người vợ trung thành của anh. Chúng mình hãy bắt đầu lại từ đầu...
Vẫn không gõ cửa như mọi khi, ông bác sĩ xồng
xộc bước vào, tay cầm tờ báo mới, và bắt đầu lớn tiếng loan báo các tin tức chiến
sự:
- Đô đốc Koltsak, chính cái lão đã đuổi Hội
đồng Chấp chính ở Omxk và tàn sát thợ thuyền, chính lão ấy đã được phong làm
người cầm quyền tối cao của cả nước Nga đây, không hơn không kém!... Cả Pháp lẫn
Anh đều đã công nhận lão ta... Các bạn thấy thế nào? Lão có một đạo quân sáu
mươi vạn. Vùng viễn đông thì lão ấy có nhã ý nhường lại cho Nhật, xin các bạn
biết cho như vậy! Mời các bạn nghe tiếp: hạm đội Anh Pháp liên hợp đã xuất hiện
ở cảng Xêvaxtôpôl và Nôvôrôxxixk... Đồng minh mà thế đấy! Mẹ kiếp, ai đã đưa sườn
ra giúp cho chúng nó thắng trận? - Bác sĩ vều môi ra trông rất dữ tợn. - Đây là
một vụ can thiệp, mà lại can thiệp hết sức trắng trợn! Đarya Đmitrievna, cô đừng
nhìn tôi với đôi mắt dễ sợ như vậy.. Cô đưa anh chàng chung tình của cô sang phòng
tôi ăn xúp borsts thôi... Cô còn nhớ
chứ, hồi nọ có một anh nằm ở viện tôi, mình mang mấy vết thương lưỡi lê: ấy, giờ
anh ta gửi cho tôi một bị bắp cải, một con ngỗng và một con lợn sữa... Phải,
Ivan Ilyts ạ, rất tiếc, rất tiếc, tiếc đứt ruột ra ấy: ai lại một cô y tá như
thế mà anh cuỗm mất của tôi kia chứ... Thôi được, hôm nay ta uống vôtka với
nhau, mặc mẹ nó cả cái bọn can thiệp ấy.
11
Chỉ cần một nhân tố nhỏ thôi cũng đủ để chấm
dứt những mối phân vân của Vađim Pêtrôvits: cái nhân tố nhỏ đó chính là tăm
tích của Katya mà chàng vừa tìm được. Cũng tựa như khi vết chân không của một
người phụ nữ để lại trên bờ cát bên làn sóng biển vỗ vào bờ làm cho người ta dựng
lên trong trí tưởng tượng cả một thiên truyện về trang giai nhân đã từng nhẹ
gót qua đây trong tiếng sóng đại dương rì rào. Một niềm say mê đầy ghen tuông
và bứt rứt đã tràn vào lòng chàng, trấn áp những ý nghĩ vô hy vọng của chàng,
trấn áp cái trạng thái ủ ê nhu nhược của chàng, và mọi sự đối với chàng đều trở
nên đơn giản và hiển nhiên.
Ngay đêm ấy (sau buổi nói chuyện với người
lính Đức) chàng rời Êkatêrinôxlav. Chàng bỏ lại chiếc va-ly ở khách sạn, chỉ
đem theo mấy thứ đồ lót để thay và cái túi đi đường. Rồi dọc đường, chàng tháo
cấp hiệu sĩ quan, tháo phù hiệu đeo mũ, gỡ mấy cái huy hiệu thêu ở cánh tay áo
bên trái ném hết ra cửa sổ, và cùng với những thứ rác rưởi ấy cũng bay theo tất
cả những gì mà trước cái đêm ở “Bi-Ba-Bo” chàng vẫn tưởng là cần thiết cho niềm
tự trọng của mình. Hai chân chạng ra, hai tay đút vào thắt lưng, chàng ngồi
trên chiếc giường da con trên toa tàu tối om gần như vắng người, và một niềm
vui man dại tràn ngập lòng chàng. Đó là niềm vui của tự do! Đoàn tàu đang vùn vụt
đưa chàng đến với Katya. Dù nàng có gặp phải chuyện gì chăng nữa, chàng sẽ xông
xáo đến tận nàng; cả tấm thân chàng có bị xé tan ra thành từng mảnh cũng cam.
Ở Êkatêrinôxlav viên trưởng ga có cảnh cáo
rằng vào khoảng nữa đường từ đây đến Roxtôv bọn cướp lại hoành hành dự dội, và
đây là chuyến xe lửa cuối cùng đi về phía đông, thậm chí cũng chưa biết rõ nó sẽ
đi theo con đường dưới, qua Gulai-Pôlê hay đường trên, qua Yuxôvka. Cũng ngay ở
ga Êkatêrinôxlav, người xa trưởng có kể chuyện thổ phỉ cho đám hành khách đang
xúm quanh nghe: chúng đi xe giàn, xe britska
phi trên thảo nguyên tìm mồi; chúng đốt dinh thự của các trang chủ đã dại dột ở
lại; chúng cả gan đánh phá các kho quân giới, các nhà máy rượu, chúng lượn lờ
quanh các thành phố.
- Giá bọn thổ phỉ không có thủ lĩnh chung
thì cũng còn may, - người xa trưởng nói, giọng trầm trầm, - nhưng chúng đã có
được một thủ lĩnh, một tên tướng cướp chỉ huy tất cả những tên tướng cướp khác;
đó là Makhnô. Một nhân vật khá nổi tiếng. Quốc gia và thủ đô của hắn là Gulai
Pôlê. Tên này không thèm cướp vặt. Hắn để cho các chuyến xe lửa đi qua, dĩ
nhiên là sau khi lục soát, bắt một vài người xuống bắn ngay bên cột tín hiệu.
Chuyến trước chúng tôi đang vào ga thì thấy Makhnô đứng dưới cái chuông hiệu của
nhà ga hút xì gà. Tôi nhảy xuống sân ga, đến gần hắn đưa tay lên vành mũ chào.
Hắn xẵng giọng nói với tôi: “Bỏ tay xuống, ta có phải là vua chúa gì của mày
đâu... Trên tàu có cộng sản không?” - “Bẩm không ạ!” - Tôi đáp. “Có bạch vệ
không?...” - “Bẩm không ạ, toàn hành khách địa phương thôi ạ” - “Có chở tiền
không?”. Trong ngực tôi đánh thót một cái. Tôi nói: “Mời ngài thân hành lên tàu
kiểm tra cho: toa chở hàng và toa thư đều bỏ không” - “Thôi được, cho tàu đi tiếp”.
Khổ nhất là những lúc tàu dừng ở ga xép: tiếng
bánh xe im ắng, đoàn tàu đứng yên không nhúc nhích, những phút đợi chờ khắc khoải.
Vađim Pêtrôvits ra đầu toa: trên sân ga tối om cũng như trên các đường ray đều
không có lấy một bóng người. Chỉ riêng ở cửa sổ ga le lói một ánh đèn dầu vàng,
và bên trong hiện lên mờ mờ hai bóng người đang ngồi: người xa trưởng và người
điện báo viên. Họ chúi mũi vào cổ áo khoác ngồi im phăng phắc, và có vẻ sẵn
sàng ngồi như vậy suốt đêm. Đến gặp họ mà hỏi cũng chẳng ích gì: xe sẽ chuyển
bánh lên đường khi nào ga sau cho đường, mà ở ga sau thì rất có thể chẳng có
người nào còn sống.
Vađim Pêtrôvits hít thở làn không khí giá lạnh,
cả người chàng duỗi ra, căng thẳng ra... Trong đêm tháng một tối tăm và lộng
gió, trên cõi đất Nga mênh mông và vắng lặng, có một điểm sinh động, một thân
hình bé nhỏ - một ít xương thịt nóng hổi mà chàng yêu tha thiết... Làm sao
chàng lại có thể mê đi đến nỗi vì hằn học muốn trả thù, muốn phát điên mà chàng
đã hất đôi tay đang ôm lấy chàng trong phút tuyệt vọng cuối cùng, và tàn nhẫn bỏ
nàng ở lại một mình trong một thành phố xa lạ. Tại sao chàng lại có thể tin chắc
rằng sau khi đã tìm ra nàng, chàng sẽ lặng lẽ (chỉ có như thế, chỉ có cách ấy mới
được) sụp xuống hôn hai bàn chân nàng, hai bàn chân đi đôi bít tất chắc là
không có một chỗ nào không mạng, và sẽ được nàng tha thứ?... Những sự phản bội
như thế chẳng dễ gì tha thứ được!
Trong khi Vađim Pêtrôvits đứng mơ mộng một
mình như vậy ở đầu toa xe, miệng lẩm bẩm một cách cáu kỉnh, đôi lông mày cau lại,
người xa trưởng ra khỏi nhà ga đến đứng cạnh toa xe, dửng dưng đối với mọi ý đồ
thu gọn không gian... Vađim Pêtrôvits hỏi ông ta xem còn phải đợi lâu nữa không.
Người xa trưởng thậm chí cũng chẳng buồn so vai nữa. Chiếc đèn lồng ám khói ông
ta cầm trong tay đung đưa trước gió, soi sáng vạt áo khoác màu đen của ông ta
đang bay phần phật. Bỗng ngọn đèn le lói trong cửa sổ nhà ga vụt tắt, cánh cửa
mở đánh sầm một tiếng. Người điện báo viên đến đứng cạnh người xa trưởng, và cả
hai nhìn mãi về phía cột tín hiệu.
- Tắt đèn đi, - người điện báo viên nói thì
thầm.
Người xa trưởng giơ cây đèn lên ngang khuôn
mặt phương phi để lộ ria mép, thổi vào ngọn lửa bốc khói đen, rồi cả hai người
lập tức lên đầu toa và mở cánh cửa ăn thông ra phía bên kia đường tàu.
- Ông đi đi, - người xa trưởng nói với
Rôtsin, đoạn hấp tấp bước xuống và cắm cổ chạy đi.
Rôtsin nhảy xuống theo. Chân vấp vào các đường
ray, người xô vào một đống tà vẹt, chàng chạy ra đồng. Ở đây bóng đêm đỡ dày đặc
hơn, và ở phía trước chàng nhận ra hai bóng người đang bước đi. Chàng đuổi kịp
họ. Người điện báo viên nói:
- Đâu gần đây có mấy cái hố thì phải. Chà,
tối quá, mẹ kiếp! Hố của người ta đào lấy cát ấy mà. Bao giờ tôi cũng nấp ở đấy...
Một lát sau mới biết mấy cái hố ấy nằm chếch
về bên trái. Rôtsin bắt chước hai người bạn đường bò xuống một hố. Lập tức có
hai người nữa, người tài xế và người đốt than đến cạnh họ, chửi rủa vài câu rồi
cũng bò xuống hố. Người xa trưởng buông một tiếng thở dài nặng trĩu:
- Tôi sẽ xin thôi thôi. Chán quá rồi. Chuyển
vận thế này còn ra cái gì nữa?
- Im nào, - người điện báo viên nói, - có
tiếng xe ngựa, bọn quỷ ấy đấy.
Bây giờ họ đã nghe tiếng vó ngựa và tiếng
bánh xe lăn trên thảo nguyên.
- Tên nào đang hoành hành ở vùng này thế? -
Người xa trưởng hỏi người điện báo viên. - Có phải tên “Giô-kê của tử thần”
không?
- Không, thằng ấy ở Rừng Đribrivxki cơ. Kiểu
này may ra có thể là con mẹ Manxya. Nhưng cũng chẳng phải đâu, con mẹ ấy đi có
đuốc kia... Chắc là một thằng kẻ cướp địa phương nào thôi.
- Ồ không phải đâu, - người tài xế nói, giọng
khàn khàn, - thằng Makxyuta trong bọn Makhnô đấy, mẹ nó...
Người xa trưởng lại thở dài:
- Ở toa thứ ba có một lão Do thái với mấy
chiếc va-ly, mình quên bảo lão ấy mất, xào!...
Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, như trận gió
trước con giông. Bánh xe ngựa đã lăn lộc cộc trên con đường lát đá cạnh nhà ga.
Có tiếng quát tháo “Hoiđa! Hoiđa!”. Rồi tiếng kính vỡ, tiếng súng nổ, tiếng hét
ngắn, mấy tiếng gõ chan chát vào sắt... Người xa trưởng hà hơi vào đôi bàn tay
bụm lại:
- Thế nào chúng cũng phải đập vỡ hết cửa
kính trên các toa mới nghe, cái lũ say rượu ấy...
Những tiếng động hỗn tạp ấy không kéo dài
bao lâu. Có tiếng quát: “Ngồi lên!”. Rồi mấy chiếc xe giàn chuyển bánh cót két,
mấy con ngựa khịt mũi, bánh xe bắt đầu lăn ầm ầm, và toán cướp phóng xe ra thảo
nguyên. Bấy giờ mấy người ngồi dưới hố leo lên, thong thả trở về đoàn tàu tối
om và phân tán ai về vị trí nấy: người điện báo viên đốt ngọn bấc đèn dầu lên
và bắt đầu liên lạc với ga sau, người tài xế và người đốt lò xem xét lại đầu
tàu: nhỡ ra quân cướp có tháo mất bộ phận nào quan trọng chăng? Rôstsin lại leo
lên toa cũ; người xa trưởng, chân giẫm rào rạo trên những mảnh kính vỡ rơi xuống
sân ga, nói lầu bầu:
- Biết ngay mà, chúng nó bắn chết lão Do
thái ấy rồi, tội nghiệp... Giá chúng lấy mấy cái va-ly đi thì còn ra lẽ, đằng
này chúng nó nhất thiết phải bắt hồn một người nào phải lìa xác mới nghe.
Một thời gian khá dài nữa, chẳng rõ là bao
lâu, trôi qua. Cuối cùng người xa trưởng huýt một tiếng còi ngắn, chiếc đầu máy
bực dọc rúc lên một hồi dài trên thảo nguyên vắng lặng, và đoàn tàu chuyển bánh
đi về Gulai Pôlê.
Vađim Pêtrôvits, khuỷu tay chống lên chiếc
bàn con, mặt úp vào lòng bàn tay, đang cố dùng hết trí lực giải đáp một vấn đề
bí ẩn: Katya, sau khi nghe tên khốn nạn Onôli báo tin chàng chết, đã rời Roxtôv
ra đi ngay hôm sau. Thế tức là cuộc gặp gỡ giữa nàng với người lính Đức trên xe
lửa xẩy ra sau đó hai ngày... Hãy cứ cho rằng cái thằng cha người Đức này chỉ
muốn an ủi nàng, không hề có ý đồ gì nữa hết... Hãy cứ cho rằng lúc bấy giờ
nàng đang rất cần được an ủi. Nhưng mới được tin người yêu chết có hai hôm mà
đã có thể viết địa chỉ tên họ của mình vào sổ tay của một người khác một cách cẩn
thận như vậy, không quên cả những dấu chấm phẩy, thì thật lạ lùng! Trời vừa đổ
sập xuống đầu nàng kia mà? Người chồng yêu dấu đang nằm phơi xác một nơi nào đó
như con chó chết... Ít ra mấy ngày đầu, lẽ tự nhiên cũng phải lâm vào một tâm
trạng tuyệt vọng đến cùng cực chứ! Thế mà lại còn ghi được địa chỉ: hòm thư
lưu. Như vậy tức là nàng đã thấy lóe lên một niềm hy vọng mới... khó hiểu quá!
- Ông làm ơn cho xem giấy tờ. - Người xa
trưởng ngồi xuống trước mặt Rôstsin, đặt cây đèn lồng ám khói xuống một bên. -
Đi qua Gulai Pôlê rồi thì ông có thể ngủ yên được.
- Tôi xuống Gulai Pôlê.
- Thế à... Thế thì càng nên cho tôi xem giấy
tờ... Họ sẽ hỏi tôi trên xe có những ai...
- Tôi chẳng có giấy tờ gì hết.
- Sao lại thế ạ?
- Tôi xé đi, vứt hết rồi.
- Thế thì tôi phải đi báo...
- Thì cứ đi báo đi, rõ quỷ quái.
- Thời buổi này ông nói chuyện ma quỷ làm
gì... Ông là sĩ quan hẳn?
Trí óc Rôstsin đang làm việc khẩn trương.
Chàng trả lời qua kẽ răng:
- Vô chính phủ.
- Ra thế. Tôi hiểu... Tôi đã chở khá nhiều
người như ông từ Êkatêrinôxlav đi. - Người xa trưởng cầm lấy cây đèn, để vào giữa
hai bàn chân, rồi ngồi yên hồi lâu nhìn những đốm lửa than đầu máy đang bay
ngoài khung cửa sổ đen ngòm. - Ông hình như là người trí thức, - ông ta nói khẽ.
- Vậy xin ông bảo cho tôi biết nên làm gì bây giờ? Chuyến trước tôi có nói chuyện
với một ông cũng là vô chính phủ, người rất nghiêm trang chững chạc, tóc bạc bết
lại từng mớ. Ông ta nói; “Chúng tôi không cần đến những con đường sắt của anh,
chúng tôi sẽ phá sạch đi, để đừng ai còn nhắc nhở gì đến nữa. Đường sắt là cội
nguồn của nô dịch và của chủ nghĩa tư bản. Chúng tôi sẽ chia đều của cải cho mọi
người, con người phải sống tự do, không bị chính quyền cai trị, sống như loài vật...”.
Ấy, thế thì xin đa tạ!... Ba mươi năm nay tôi làm trên toa xe hỏa, tậu được
ngôi nhà nho nhỏ ở Taganrôg, bà già nhà tôi hiện đang ở đấy, với con dê nữa,
hai cây mận ngoài vườn rau: vốn liếng của tôi có thế thôi. Tôi cần cái tự do ấy
để làm gì, để cho dê ra ăn cỏ ngoài sườn đồi chăng? Ông thử nói cho tôi rõ: dưới
chế độ cũ có trật tự không? Bóc lột thì dĩ nhiên là có, tôi không phủ nhận. Cứ
thử lấy toa hạng nhất chẳng hạn - trên toa yên tĩnh, ngăn nắp, đường hoàng, ông
thì hút xì gà, ông thì ngủ gật một cách trang trọng. Mình cảm thấy đó là do bóc
lột mà có được, nhưng chửi vào mặt mình thì chẳng bao giờ họ chửi đâu, lạy
Chúa... Mình đặt tay lên lưỡi trai, rón rén đi qua toa xe. Ở toa hạng ba dĩ
nhiên là bọn mu-gích nằm chồng chất lên nhau, ở đấy chẳng việc gì phải giữ gìn
lễ phép... Tất cả những chuyện ấy đều có cả... Nhưng ở nhà tôi đến bữa ăn vẫn
có con gà rán, miếng giăm-bông, mấy quả trứng, còn bánh mì, bánh sữa thì... lạy
Chúa, chắc ông còn nhớ chứ? - Ông ta im lặng một lát, nhìn những tia lửa ngoài cửa
sổ. - Đấy là cái trục bánh xe ở toa chở hàng nó cháy đấy. Không có dầu mà cho
vào trục bánh nữa: dù không có các ông vô chính phủ thì ngành vận tải cũng phải
ngừng hoạt động thôi... Đấy ông thử nói cho tôi nghe, bây giờ sẽ thế nào đây?
Ta đã đổi Sa hoàng lấy hội đồng Rađa, đổi hội đồng Rađa lấy thống lĩnh Hetman,
đến đây ta sẽ đổi Hetman lấy cái gì nữa? Lấy Makhnô chăng? Ngày xưa có một thằng
ngu định rèn lưỡi cày, hắn đem sắt nung thật lực, nung cháy mất một nữa, đành
rèn rìu vậy, lại nung cháy một nửa nữa, chỉ còn rèn được cái dùi, hắn nện búa
vào chỉ còn được miếng sắt vụn... Thế đấy... Bây giờ trật tự chẳng có, chẳng sợ
ai, như nhà không có chủ. Ông đến Gulai Pôlê, ông thử xem họ sống theo “cơ cấu
vô chính phủ tự do” như thế nào. Tôi chỉ có thể nói được một điều, là họ sống
vui lắm, ăn chơi như họ thì từ khi cha sinh mẹ đẻ tôi chưa từng nghe nói bao giờ.
Cả khu vực được mệnh danh là “vườn nho”. Đã bao nhiêu gái điếm đi xe lửa của
tôi đến đấy! Phải... Tôi nói với ông thế này, ông bỏ qua cho người già cả, ông
đồng chí vô chính phủ ạ: nước Nga suy vong rồi.
* * *
Nhiều nông dân có đất trong mùa hè vừa qua
đã bỏ trốn theo các toán cướp, bây giờ đã bắt đầu nghĩ đến chuyện về nhà. Họ chất
lên xe giàn tất cả những của cải được chia sau những cuộc cướp phá thành công,
đổi các thứ tiền sở tại linh tinh lấy giấy bạc Nikolai, lấy vải dầu trùm lên
xe, cài thật kỹ, buộc một cái nồi vào trục bánh sau, và kẻ công khai, người bí
mật, họ đến gặp thủ lĩnh toán cướp nói: “Khveđôv ở lại mạnh khỏe nhé, tôi không
còn là chiến sĩ của ông nữa” - “Sao thế?” - “Nhớ nhà quá, chẳng ăn uống ngủ
nghê gì được nữa, khi nào cần, ông cứ gọi, chúng tôi sẽ đến”, - họ thắng ngựa tốt
vào xe rồi lên đường về những ấp, những làng đã thoát khỏi ách chiếm đóng của
quân Đức.
Alekxêy Kraxilnikôv cũng nghĩ đến chuyện
đó. Anh ta bàn bạc với Matriôna, cô em dâu, bàn cả với Katya Rôstsina nữa: bây
giờ mà về nhà có sớm quá không? Chỉ lo có chuyện gì lôi thôi. Về làng
Vlađimirxkôie thì khó xuôi lắm, còn có thể bị tra hỏi về vụ ám sát tên hạ sĩ
quan Đức. Người Đức họ không đùa với những chuyện như thế đâu. Mặt khác, nhà cửa
nay có còn đâu, chỉ còn một đống tro tàn: lại phải dựng nhà, dọn sân, mà phải
làm ngay giữa tiết thu này.
Năm con ngựa non lực lưỡng và ba chiếc xe tải
chở đồ đạc, vải vóc, và đầy đủ các thứ gia dụng, là phần riêng của Alekxêy
Kraxilnikôv trong đoàn xe tải của quân đội Makhnô. Những của cải này thu thập
được là nhờ công của Matriôna nhiều hơn, chứ Alekxêy chẳng lấy được bao nhiêu.
Matriôna mạnh dạn đi họp những khi toán trưởng hay đích thân Makhnô đứng ra
chia chiến lợi phẩm. Bao giờ chị ta cũng rất diện, rất hung hăng, và muốn lấy
gì là chị ta cứ lấy. Cũng có đôi anh mu-gích chực tranh chấp với chị, nhưng
xung quanh cứ cười ồ lên khi chị giật phắt một thứ gì đấy trong tay anh ta - một
chiếc khăn san, một chiếc áo khoác, một miếng dạ tốt: “Tôi là đàn bà, tôi cần
hơn, còn anh thì đằng nào anh chẳng đem đi bán lấy tiền uống rượu, rõ đồ kẻ cướp!
Không khéo lại đang đêm cầm đến nhà tôi gạ gẫm cũng nên...”. Chị ta đổi chác,
mua chuộc: mỗi lần đến lĩnh phần, trên xe của chị bao giờ cũng có một thùng rượu
để đổi lấy đồ đạc.
Alekxêy nghĩ mãi mà vẫn chưa dám quyết định,
mãi cho đến khi có một tin mừng là Xkôrôpađxki bị quân Đức và các đơn vị của bản
thân hắn bỏ rơi, đã ly khai chính quyền Hetman, quân xitsêvik của Petlyura đã
tiến vào Kiev, tuyên bố thành lập “Nước Cộng Hòa Dân chủ Ukraik”. Đồng thời đạo
Hồng quân Ukraik cũng từ biên giới Xô-viết tiến vào. Như thế thì chẳng còn gì
đáng lo ngại nữa.
Không hở ra cho ai biết chút gì, Alekxêy
đang đêm dắt mấy con ngựa ngoài thảo nguyên về, đánh thức Matriôna và Katya dậy,
sai dọn bữa ăn điểm tâm trong khi anh ta thắng ngựa: họ ăn thật no trước khi lên
đường trường, và trong khi trời hãy còn tối mịt, trong sương mù, họ đánh xe đi
về phía quê hương, về làng Vlađimirxkoiê.
Nhìn Katya Rôstsina ngồi trên chiếc xe tải,
mình mặc áo khoác da cừu ngắn, chân đi ủng da quang dầu, gió lạnh làm cho đôi
má đỏ ửng lên như quả đào chín, khó lòng có thể nhận ra người thiếu phụ mảnh khảnh
trước kia, trông như thể lúc nào cũng chỉ chực co rúm lại như con bọ rùa trước
mọi nỗi trắc trở nhỏ nhặt nhất của cuộc sống. Ngả người trên lớp rạ, chốc chốc
nàng lại quất ngựa cho kịp chiếc xe tam mã của Alekxêy: thỉnh thoảng anh ta cứ
cho ba con ngựa phi nước kiệu cho nó đỡ chán. Chiếc xe đi sau do Matriôna cầm
cương, chị ta không chịu giao nó cho ai hết.
Thảo nguyên không một bóng người. Lác đác
dưới các rãnh đất có những chỗ phủ một lớp tuyết mỏng trắng tinh do gió tháng
chạp thổi từ những cao nguyên đá vôi về đây. Đây đó từ sau chân trời nhô lên những
đống đất hình chóp màu gỉ sắt do các mỏ than tấp lên. Trên dải đất vừa được
quân chiếm đóng bỏ lại, cuộc sống chưa bắt đầu. Thợ thuyền ở các mỏ và các nhà
máy một phần lớn đã vào các chi đội hồng quân và hiện nay đang chiến đấu ở miệt
Txaritxyn. Nhiều người chạy lên phía Bắc, ở vùng biên giới Xô-viết, nơi đang
thành lập các đơn vị của đạo Hồng quân Ukrain. Các đường sá cỏ mọc xum xuê, đồng
ruộng bỏ hoang ngập ngụa những bụi bờ. Đây đó, dăm ba bộ sườn ngựa hiện lên
vàng vàng giữa đám cỏ dại. Ở những nơi này ít khi thấy có nhà ở.
Matriôna cứ nhắc đi nhắc lại với ông anh chồng:
“Tránh cho xa chỗ có người nhé, gặp người thì chẳng mong xảy ra điều gì tốt
lành đâu”. Alekxêy chỉ cười xòa: “Ôi chao, người đâu mà đa nghi thế, y như con
thú rừng... Trước kia thì hiền lành như con hươu, ngọt ngào như mật... Cô thành
con chim săn mồi rồi đấy, cô Matriôna thân mến ạ...”
Katya tha hồ có thì giờ nghĩ ngợi mông
lung. Người lắc lư trên xe, nàng nhấm nhấm một cọng rơm nhỏ. Nàng hiểu rất rõ
là người ta chở nàng về làng Vlađimirxkôie như một chiến lợi phẩm: đối với
Alekxêy Ivanôvits có lẽ đó là món quý nhất trong tất cả những thứ chở trên ba
chiếc xe giàn của anh ta. Nàng là cái gì khác nữa, nếu không phải là một nữ tỳ
cướp được trong một thế giới đã đổ vỡ tan hoang? Alekxêy Ivanôvits sẽ dựng lên
trên đống tro tàn một ngôi nhà mới quây xung quanh một dãy rào thật chắc để
ngăn cách với người đời, sẽ cất giấu của cải xuống hầm và sẽ nói, giọng rắn rỏi:
“Katerina Đmitrievna, bây giờ chỉ còn có mỗi một việc; cô nói rõ ý cô đi: ưng
hay không...”
Một thành phố bị chiến tranh thiêu hủy, những
đống tro tàn và những ống khói lò sưởi cháy đen - nàng hình dung cả cuộc đời
mình như thế đấy. Những người nàng yêu dấu đều đã chết, những người thân của
nàng đều đã mất tích. Cách đây ít lâu Matriôna có nhận được một bức thư của chồng
là Xêmiôn gửi từ Xamara, cho biết rằng anh ta có theo địa chỉ của nàng ghi đến
phố Đvorianxkaia cũ, nhưng ở đấy chẳng có ai là bác sĩ Bulavin cả, cũng chẳng
có ai biết ông ta đem con gái đi đâu. Katya chỉ còn lại hai người quý nàng và
thương nàng như thương một con mèo con bị lạc: Alekxêy và Matriôna. Nàng làm
sao có thể từ chối họ điều gì?
Lẽ ra, sau những năm trường đầy những biến
cố dồn dập như cả một thế kỷ, nàng đã từ lâu phải trở thành một bà già tiều tụy,
khóc mãi lòa cả mắt đi. Nhưng gió lạnh chỉ làm cho má nàng thêm thắm, và dưới lần
áo da cừu, nàng thấy ấm áp như hồi còn niên thiếu. Nàng thấy tuổi trẻ của mình
dường như không bao giờ phôi pha, và cái cảm giác ấy còn làm cho nàng buồn nữa,
vì phải chăng tâm hồn nàng đã già cỗi hơn nhiều? Hay ngay cả tâm hồn nàng nữa
cũng vẫn cứ thế?
Matriôna đã nhiều lần nói với Katya rằng “Chúa
đã ràng buộc chúng mình với nhau thì chỉ có Chúa mới cởi mối dây ấy ra được mà
thôi”. Alekxêy không bao giờ ép nàng phải nghe những chuyện ấy. Nhưng đã có mấy
lần anh ta liều lĩnh thực sự để cứu nàng khỏi một tai họa hiển nhiên: anh ta
hành động như một người đàn ông có thể hành động vì người đàn bà mà mình đã định
dành riêng cho mình, Có gì, Katya sẽ không thể từ chối anh ta được: nàng sẽ
không biết nói gì để biện hộ cho sự vô ân bạc nghĩa của mình. Nàng chỉ mong điều
đó sẽ xảy ra thật muộn. Alekxêy Ivanôvits là một người dễ ưa một gương mặt hơi
thô, cởi mở thẳng thắn, trông như lúc nào cũng có ánh nắng rọi vào; tính điềm đạm
và vóc người lực lưỡng, lưng thẳng, ngực rộng, tóc dày; quả cảm và tinh khôn
trong những phút nguy hiểm, đối với Katya anh ta hiền hậu và ăn nói dịu dàng,
có pha chút giễu cợt. Nhưng mỗi khi nghĩ rằng một ngày kia mình sẽ phải gần gũi
người ấy, Katya cứ nhắm mắt lại và cả người nàng cứ co rúm như muốn lún sâu xuống
lớp rạ trên xe.
Có một hôm họ rời đường cái rẽ ra bờ một
con sông nhỏ để ăn bữa chiều. Ở chỗ ấy con sông xói thành một cái vịnh nhỏ, với
những dấu tích còn lại của một cái cối xay nước, ven bờ mọc đầy lau sậy.
Matriôna đi kiếm củi đốt bếp, Katya ra sông rửa nồi. Một lát sau Alekxêy cũng
ra đấy. Anh ta bỏ mũ và bao tay ra, ngồi xuống bên cạnh Katya, rửa mặt và lấy vạt
áo khoác ngắn lau khô.
- Coi khéo cóng tay đấy...
Katya đặt cái nồi xuống cỏ, đứng dậy. Hai
tay nàng buốt đến tê dại đi. Nàng vẫy cho hết nước rồi cũng chùi tay vào vạt áo
lông cừu.
- Đôi tay ấy chắc hồi trước người ta vẫn cầm
lên hôn đấy nhỉ. - anh ta nói, giọng nghe có một cái gì căng thẳng, không ôn tồn,
có ý chờ đợi.
Nàng nhìn Alekxêy Kraxilnikôv, cái nhìn
trong sáng như muốn hỏi xem anh ta làm sao thế. Katya không hề biết rõ mãnh lực
của nhan sắc mình. Nàng chỉ thật thà cho mình là xinh, đôi khi rất xinh nữa là
khác, nàng thích được người khác thấy mình xinh, như con chim nhỏ đang rỉa lông
cánh (khi giọt sương mai bắt đầu long lanh dưới ánh mặt trời hồng đang mọc giữa
mấy thân cây) nhưng cái gì làm nên sắc đẹp của nàng, cái gì giờ đây đang làm
cho Alekxêy Ivanôvits phải quay đi nơi khác đôi mắt ánh lên một cách khô khan -
cái ấy thì nàng vẫn không hề hay biết.
- Cô phải xoa dầu vào tay đi, trên xe tôi
có lọ dầu quỳ đấy. Không nẻ hết cả tay bây giờ...
Dưới hàng ria cứng uốn cong, đôi môi tươi tắn
của anh ta vẫn giữ nụ cười giễu cợt trước kia. Katya thở dài nhẹ nhõm, tuy nàng
chưa hiểu thật rõ ràng cái điều mà nàng vẫn e sợ lần này đã đến rất gần. Vừa
qua không biết vì ngồi trên lớp rạ trải trên chiếc xe giàn lắc lư sinh ra buồn
ngủ, hay vì cảnh thảo nguyên về chiều trở nên quá tĩnh mịch, Matriôna vừa bỏ đi
kiếm củi là Alekxêy bắt đầu nhìn đăm đăm vào Katya đang ngồi ở bờ sông. Và anh
ta đã ra đấy như thằng bé con chợt nghe tiếng vỗ quần áo ướt ngoài cầu ao, nơi
một cô Prôxka nào đấy bên xóm đang vén váy lên ngồi giũ áo quần, để lộ cặp đùi
trắng nõn trắng nà, và lén lút lủi qua những bụi ngưu bàng và ké dại, đôi cánh
mũi háo hức hít lấy những mùi hương bỗng dưng đã trở nên nồng say ngây ngất.
Nhưng đến đây Alekxêy Ivanôvits đã ghìm mình lại, không phải vì anh ta sợ sệt,
vì khó lòng có một cái gì làm cho anh sợ, mà vì đôi mắt diễm lệ và điềm tĩnh của
Katya đã nói: như thế không tốt, như thế không được đâu.
Alekxêy Ivanôvits đã từng tự chủ được trong
những tình huống còn gay go hơn nhiều, nhưng lần này tay anh ta vẫn run như sau
khi cố lấy sức nhấc vật nặng. Anh ta cầm lấy cái nồi đặt trên cỏ:
- Thôi, ta về nấu cháo đi. - Hai người đi về
chỗ để xe. - Êkaterina Đmitrievna ạ, cô đã hai đời chồng rồi, sao không có con?
- Anh bảo thời buổi thế kia thì... Người chồng
trước kia không tỏ ý muốn có con, mà tôi thì dạo ấy tôi ngốc quá...
- Sinh thời Vađim Pêtrôvits cũng không muốn
à?
Katya cau mày, quay mặt đi không đáp.
- Đã lâu tôi muốn hỏi... Cô là người lịch
duyệt chắc cô biết rõ... Như ở trong giới cô, những chuyện nhân duyên ấy bắt đầu
như thế nào nhỉ? Có phải người chồng, nghĩa là người đi hỏi ấy, thường hôn tay
cô không? Nói chuyện bóng gió xa gần chứ gì? Giới thượng lưu người ta làm ăn
như thế nào?
Họ đã đến chỗ để xe: Alekxêy ném mạnh cả bộ
dây thắng ngựa trên xe xuống đất, lấy cái ách ngựa chống càng lên xe rồi buộc
cái nồi vào đầu càng.
- Cô xuất thân từ lớp thượng lưu thành thị,
còn tôi từ cái bếp lò mu-gích chui ra... Cô và tôi gặp nhau trên nẻo đường chật
hẹp. Cô không thể quay trở lại được nữa, a-men! Cuộc đời cũ còn những gì chưa
phá sạch, chỉ ngày mai chúng tôi sẽ phá nốt... Cô chẳng có con đường nào để mà
đi nữa, trừ phi đi theo một người chủ mới.
- Alekxêy Ivanôvits, tôi đã làm gì để anh
phải phật ý?
- Có gì đâu... Tôi muốn trêu tức cô, mà
không biết nói thế nào cho cô tức. Tôi là một thằng mu-gích, một thằng ngu...
Ôi, tôi ngu quá đi mất, mẹ kiếp... Tôi hiểu lắm, tôi hiểu lắm chứ: cô chỉ đợi hễ
có dịp là cao chạy xa bay... Ra nước ngoài: đó là nơi thích hợp nhất đối với
cô...
- Sao anh không biết ngượng hở Alekxêy
Ivanôvits, tôi có làm gì đâu mà anh nói tôi như vậy... Tôi nhờ có anh mà sống
được, và tôi sẽ không bao giờ quên...
- Cô sẽ quên... Cô đã thấy Matriôna sợ người
như thế nào rồi chứ? Tôi cũng không tin người. Từ năm chín trăm mười bốn cho đến
nay, tôi tắm trong máu người. Con người bây giờ đã thành con thú. Có lẽ trước
kia nó cũng là con thú mà ta không biết đấy thôi. Ai nấy chỉ chực hất cẳng nhau...
Tôi đây, tôi cũng là con thú, cô không thấy hay sao? Chà, cô thật!... Như con
chim xanh nhỏ ấy... Tôi muốn cho con cái tôi được ở nhà đá, nói tiếng Pháp giỏi
hơn cả cô: pacđông, mecxi...
Matriôna ôm một bó củi khô và gỗ vụn về, vứt
xuống cạnh cái nồi treo ở đầu càng xe, rồi chăm chú nhìn Alekxêy và Katya.
- Alekxêy ạ, anh làm cho chị ấy buồn thì được
cái gì? -c hị nói khẽ. - Đã cho ngựa uống nước chưa?
Alekxêy quay đi và ra chỗ buộc ngựa.
Matriôna bắt đầu xếp củi vụn dưới nồi:
- Anh ấy yêu chị đấy. Hồi trước đã làm mối
cho bao nhiêu cô, mà vẫn không ưng... Tôi cũng không biết rồi hai người có
thành được cái gì không - khó lắm...
Matriôna đợi Katya nói một câu gì. Nhưng
Katya chỉ im lặng lấy bột và mỡ ra, trải tấm vải bạt xuống đất rồi bắt đầu cắt
bánh mì.
- Sao chị cứ im thin thít thế?
Katya vẫn im lặng cắt bánh mì ra từng
khoanh, đầu cúi gằm xuống, trên má nước mắt chảy ròng ròng.
* * *
Những cánh thảo nguyên màu mỡ của vùng
Êkatêrinôxlav chạy dài xuống Hắc hải và biển Azôv, là một vùng đất mới. Đó chính
là vùng thảo nguyên Hoang dã, nơi xưa kia những người Xcyth lùn béo, tóc dài,
đã từng phi qua trên những con ngựa lông lá xù xì, cỏ lút ngang vai; nơi mà những
đoàn thương nhân Hy lạp có quân hộ tống đáng tin cậy đi theo đã từng rong ruổi
từ Olvya đến Tanaix; nơi những bộ lạc người Gôth du mục trên những chiếc xe tải
to tướng vẫn đi lại giữa hai biển, lùa theo từng đàn gia súc có sừng; từ biên
giới phía bắc Trung Hoa, như những đám mây châu chấu, những đoàn quân Hung-nô ô
hợp đã tràn sang đây, gieo rắc hãi hùng, làm cho những cánh thảo nguyên này
hoang vắng hẳn đi hàng mấy thế kỷ: nơi đây đã từng mọc lên nhan nhản những túp
lều vải kẻ sọc của các quân lữ Khozar từ Đerbent kéo tới chinh phục công quốc
Nga ở vùng Đniepr: nơi đây người Pôlôvetx mặc áo lụa Khorezm đã từng kéo qua với
những bầy ngựa và lạc đà đông hằng hằng sa số: họ kéo đến tận lũy Xvyatôxlav ở
cuối vùng thảo nguyên này; và về sau những toán người Tatar cưỡi trên lưng những
con ngựa nhẹ đã phóng qua đây, tụ tập nhau lại để đánh phá thành Moxkva.
Những đợt sóng người tràn qua rồi mất hút,
chỉ để lại những ngôi mộ chung đắp thành gò, đôi khi trên đó có dựng những thần
tượng mặt bẹt, đôi tay nhỏ bé chắp ngang bụng. Những cánh thảo nguyên
Êkatêrinôxlav dần dần trở thành nơi cư trú của những đám dân định canh: người
Ukrain, người Nga, những người dân cô dắc từ sông Đôn và sông Kuban kéo đến, những
người Đức di cư sang. Về sau mọc dần lên những làng mạc rất lớn và vô số ấp trại,
không có phong tục tổ tiên, không có dân ca cổ truyền, không có vườn tược xum
xuê và ao hồ để thả cá. Đây là xứ sở của lúa mì và của những trang chủ vô vị am
hiểu giá cả lúa mì ở nước ngoài. Gulai Pôlê cũng là một khu dân cư mới mọc. Đó
là một thứ thị trấn buồn tẻ kéo dài dọc con sông Gaitsur tù hãm, bùn lầy và hay
khô cạn.
Từ nhà ga về Gulai Pôlê phải đi qua bảy dặm
thảo nguyên. Rôstin thuê một chiếc xe ngựa đưa chàng đến khu chợ lớn họp trên một
bãi chăn gia súc. chàng lập tức hỏi mua con gà rán của một mụ đàn bà trâng tráo
đang ngồi chạng háng trên một chiếc xe ngựa chất ngổn ngang những món hàng thôn
dã chở đến bán. Mụ ta chẳng quen bán chác, cứ nổi nóng lên, khi thì dí hàng tận
mũi người mua, khi thì giật phắt ra khỏi tay người ta, mắng chửi the thé, chốc
chốc lại quay ngoắt lại nhìn phía sau xem có ai lấy cắp gì của mình không. Mặc
cả mãi mụ mới chịu bán con gà rán với giá năm quan tiền Hetman, nhưng lại lập tức
không chịu bán lấy tiền nữa, chỉ muốn đổi lấy cuộn chỉ thôi.
- Thì mụ cứ lấy tiền đi, rõ ngốc - Rôstsin
nói, - rồi ra kia mua chỉ: người ta bán chỉ đầy ra đằng kia kìa.
- Đây không có thì giờ, không bỏ xe mà đi
được. Cất tiền đi, đứng xa ra...
Bấy giờ Rôstsin len lỏi đến cạnh một quân
nhân để chòm tóc dài, trên người lủng lẳng đủ các thứ vũ khí, vừa đi lảo đảo giữa
chợ vừa lắc lắc trên lòng bàn tay hai cuộn chỉ. Giương đôi mắt đục ngầu nhìn
Rôstsin, hắn mấp máy đôi môi sưng mọng:
- Không. Đổi lấy rượu cơ.
Rốt cục Rôstsin vẫn không mua được con gà
rán. Trên chợ người ta chỉ đổi, chẳng mấy khi mua bán bằng tiền: một lối giao dịch
man rợ thuần túy, trong đó giá cả hoàn toàn do nhu cầu quy định: hai cái kim có
thể đổi lấy một con lợn sữa, lại còn được các thêm một cái gì nữa, còn một cái
quần dạ chưa vá miếng nào thì tha hồ người bán muốn hút hết máu của người mua
cũng được. Hàng trăm người đi lại mặc cả, quát tháo, chửi bới, quay cuồng xung
quanh những chiếc xe giàn đỗ ngổn ngang ngay ở đấy; trên một chiếc ghế đẩu hay
ngay trên một cái bánh xe, mấy anh thợ cạo bày những bộ sậu đồ nghề lưu động của
họ ra; mấy anh phó ảnh “chụp lấy ngay”, với cái hộp rửa ảnh lưu động ba chân,
chỉ năm phút là đưa ra cho khách hàng một tấm ảnh còn ướt; mấy nhạc công mù kéo
vĩ cầm thu hút một đám đông đứng vây quanh không từ bỏ dịp tốt thọc tay vào túi
một thính giả hớ hênh nào đó... Tất cả những con người ấy lúc nào cũng sẵn sàng
bỏ chỗ chạy tán loạn mỗi người nấp một xó nếu trong chợ có tiếng súng nổ từng
loạt, xem chừng có một vụ ẩu đả nghiêm trọng xảy ra; ở Gulai Pôlê không có
phiên chợ nào lại không xảy những vụ như thế.
Len lỏi qua mấy chiếc xe giàn, Vađim
Pêtrôvits gặp một đám đông người vô công rồi nghề đứng xem đu quay. Ngồi chễm
chệ trên mấy con ngựa gỗ đang chạy vòng quanh, cổ uốn cong lại một cách vô lý,
chân vươn dài ra một cách khó tưởng tượng nổi, là những người đàn ông râu ria mặc
áo chẽn phiêu kỵ, áo lính thủy, áo tulup
kỵ binh, quanh mình đeo lủng lẳng đủ các thứ gươm dao súng ống. “Nhanh nữa đi,
nhanh nữa đi!” - một người trong bọn nhắc đi nhắc lại bằng một giọng ồm ồm rất
dữ tợn. Hai gã ăn mặc rách rưới ra sức đẩy cho vòng ngựa gỗ quay thật nhanh.
Hai gã chơi thủ phong cầm kéo bài “Quả táo nhỏ”, kéo thật mạnh, kỳ hết cỡ tay
thì thôi, như thể muốn thu hết vào đàn cái tâm hồn rộng rãi phóng khoáng của
quân đội tự do của Makhnô. “Thôi xuống đi, đủ rồi!” - Những người đang chờ đến
lượt mình gào lên. “Nhanh nữa vào” những người đang cưỡi ngựa gỗ quát. Đã có
vài người bay mất mũ, vài người cao hứng tuốt gươm vung lia lịa và chém xuống một
“tên rắn rết” [tức một tên bạch vệ (trong
ngôn ngữ của thổ phỉ Makhnô)] tưởng tượng. Bấy giờ những người đứng
xung quanh xô vào lôi các kỵ sĩ đang dở đà xuống. Một cuộc xô xát hỗn độn bắt đầu,
những quả đấm nện thình thịch giữa tiếng huýt inh tai, rồi vòng ngựa lại quay
tít, và các kỵ sĩ mới lên ngựa gỗ chống tay cạnh sườn ngồi vênh váo, cánh mũi
phổng tướng và đỏ au lên.
Vađim Pêtrôvits chẳng thấy ở đây có ai là
người đứng đắn có thể hỏi chuyện được, bèn bỏ đi nơi khác. Chàng đến một hàng
rong mua miếng pa-tê, kem sữa rồi vừa ăn vừa bước trên con đường lát đá gồ ghề.
Phải kiếm chỗ nghỉ lại đêm nay. Tiền chàng còn có ít, nếu trừ cả số tiền mua
pa-tê vừa rồi đi thì không đủ ăn một tuần. Chàng lơ đãng đưa mắt nhìn lên những
ngôi nhà gạch hai tầng xây theo kiểu nhà lái buôn, những cửa hàng, những hiệu xay
bột và những cái biển cửa hàng sơn lòe loẹt, vừa nhai vừa nghĩ bâng quơ: sau bước
nhảy vọt từ thế giới cũ sang cuộc đời tự do man dại, những chuyện sinh hoạt vặt
vãnh không làm cho chàng bận tâm mấy đỗi.
Một người cưỡi xe đạp đi ngược phía chàng,
bánh trước ngoặt qua ngoặt lại lia lịa. Sau hắn ta là hai người cưỡi ngựa mặc
áo Tserkex, mũ chụp da cừu đội lệch. Người đi xe đạp là một người đàn ông bé nhỏ
và gầy gò mặc quần xám và áo vét của học sinh trung học: dưới cái mũ lưỡi trai
màu xanh vành trắng, cũng của học sinh trung học, bộ tóc dài và thẳng buông thõng
xuống đến tận vai. Khi họ đến ngang tầm, Vađim Pêtrôvits kinh ngạc nhìn bộ mặc
hốc hác, không có lông mày của hắn. Hắn cũng đưa đôi mắt nhìn chằm chằm như
xoáy vào Vađim Pêtrôvits. Bánh xe trước của hắn ngoặt một cái, hắn chật vật oằn
người ra cho khỏi ngã, cái mặt vàng vọt nhăn nhúm lại như cái bị rồi đạp xe đi
qua.
Một phút sau, một trong hai người cưỡi ngựa
quay lại, phi mấy bước ngăn ngắn về phía Rôstsin và cúi gập người trên yên nhìn
chàng với đôi đồng tử đảo đi đảo lại lia lịa.
- Việc gì thế? - Rôstsin hỏi.
- Anh là ai, ở đâu đến?
- Tôi là ai ấy à? - Rôstsin ngảnh mặt đi để
tránh cái mùi hành tây và mùi rượu nồng nặc từ người hắn tỏa ra. - Tôi là một
người tự do. Ở Êkatêrinôxlav đến.
- Ở Êkatêrinôxlav à? - người cưỡi ngựa hỏi,
giọng hăm dọa - Đến đây làm gì?
- Đến đây tìm vợ tôi.
- Tìm vợ à? Thế sao lại tháo lon đi?
Người run lên vì tức giận, Rôstsin cố trả lời
thật điềm tĩnh:
- Tôi muốn tháo thì tôi tháo. Lại phải hỏi
anh nữa chắc?
- Trả lời gan đấy nhỉ.
- Còn anh đừng hòng dọa nạt tôi. Tôi chẳng
phải hạng người dễ dọa đâu.
Người cưỡi ngựa cứ đảo mắt lia lịa nhìn khắp
mặt Rôstsin, tìm câu trả lời. Bỗng hắn thẳng người lên, cái mặt hẹp, không cân
đối của hắn càng méo xệch đi vì một nụ cười xấc xược. Hắn dùng cựa giày thúc ngựa
phi về phía người xe đạp. Rôstsin lại bước đi, chân hơi lảo đảo vì khích động.
Nhưng lập tức ba người kia đã đuổi theo
chàng. Người đi xe đạp, đội mũ học sinh quát, giọng kim the thé nhức cả tai:
- Không muốn nói với ta hả. Rồi sẽ phải nói
với Liôvka.
Hai người cưỡi ngựa cười hí lên một tràng, rồi
cho hai con ngựa ép Rôstsin vào giữa. Người cưỡi xe đạp đi lên trước lấy hết sức
nghỉn của một người đang say dấn mạnh hai bàn đạp. “Bước, bước”, - hai người cưỡi
ngựa nhắc đi nhắc lại, buộc Rôstsin đi nhanh gần như chạy giữa hai con ngựa.
Vùng ra, phản kháng đều chẳng ích gì. Họ dừng lại cũng trên con đường ấy, trước
một ngôi nhà gạch, trước mặt nhà có một cái sân bị dẫm nhoét ra. Các cửa sổ đều
vẽ phấn nhem nhuốc, trên cửa chính treo một lá cờ đen, và phía dưới có một tấm
biển đề “Trung tâm huấn luyện văn hóa quân đội nhân dân của thủ lĩnh Makhnô”.
Rôstsin tức giận đến nỗi không nhớ rõ họ đã
đẩy chàng vào nhà như thế nào; họ dẫn chàng qua những dãy hành lang tối om đến
một gian phòng bẩn thỉu đầy những rác rưởi và những bãi nước bọt, mùi chua bốc
lên nồng nặc đến nỗi chàng thấy nghẹt thở. Ngay lập tức, có một người bước vào
phòng, dáng đi khệnh khạng vì vóc người đẫy đà, mặt bóng nhẫy, miệng cười tươi
rói, mình mặc cái áo vét ngắn như kiểu mấy anh kép hát nổi tiếng ở tỉnh lẻ vẫn
thường mặc.
- Gì đấy? - hắn hỏi đoạn ngồi xuống bên cái
bàn con khập khiễng, sau khi gạt những mẩu thuốc lá vứt bừa bãi trên mặt bàn
đi.
- Thủ lĩnh ra lệnh tra hỏi thằng này xem thử
hắn có phải là loài “rắn rết” hay không. - người có khuôn mặt không cân đã áp
giải Rôstsin về nói.
- Nào đi ra ngoài đi, đồng chí Karetnik! - Khi
tên này đã ra ngoài, hắn nói với Rôstsin: - Nào, ngồi xuống đây.
Rôstsin hồi hộp nói với người đàn ông đẫy
đà mặc áo vét ngắn:
- Này ông, tôi hiểu rằng tôi đã lọt vào một
bộ phận phản gián. Tôi sẽ nói rõ tôi là ai, đến đây để làm gì, tôi chẳng có gì
phải giấu giếm hết... Tôi đến đây để...
- Khoan, hẵng ngắm tao một tí đã, - người
kia không thèm nghe, nói luôn, - tao là Liôva Zađôv, với tao không phải bịa đặt
lôi thôi, tao sẽ tra hỏi mày, mày sẽ trả lời...
Ở miền Nam tên tuổi Liôvka Zađôv cũng lừng
lẫy không kém gì tên tuổi của bản thân Makhnô. Liôvka là một tên đao phủ, một
con người tàn ác đến mức kỳ lạ, đến nỗi Makhnô đâu như có lần đã toan chém chết
hắn đi, nhưng rồi lại tha vì hắn rất tận tụy... Rôstsin cũng đã từng nghe tiếng
hắn. Lần đầu tiên chàng thấy ớn lạnh. Chàng đứng trước bàn. Ngồi trước bàn là
Liôvka Zađôv, bộ tóc rậm quăn tít, gương mắt hồng hào đang khoái chá hưởng cái
thú của quyền lực đối với người khác, của nỗi kinh hãi mà hắn gieo vào lòng những
kẻ lọt vào tay hắn.
- Nào, nói đi. Sĩ quan của Đênikin phỏng?
- Phải, cựu sĩ quan...
- Cựu à? Ái chà chà chà... Từ đâu đến?
- Từ Êkatêrinôxlav đến Gulai Pôlê, tôi đang
nói cho ông rõ đấy thôi...
- Ái chà chà chà... Sao mày lại nói với
Liôva là mày đi từ Êkatêrinôvlav, trong khi mày đi từ Roxtôv đến đây...
- Không tôi đi từ Êkatêrinôxlav.
Rôstsin bắt đầu hối hả lục túi tìm cái vé
tàu. Trong giây phút chàng lại lạnh toát người đi: nhỡ mình vứt đi đâu rồi thì
sao? Cái vé vẫn nằm trong túi áo sĩ quan, cùng với một tấm ảnh nhàu nát và bạc
màu của Katya. Chàng đưa cái vé cho Liôvka. Hắn lật đi lật lại cái vé tàu, soi
ra ánh sáng xem xét hồi lâu. Nói gì thì nói, chứ cái vé tàu này không thể hồ
nghi vào đâu được: điều ấy làm cho Liôvka hơi băn khoăn, vì trong đầu óc hắn đã
hình thành một kết luận chắc chắn, đến cả cách xử trí cuối cùng hắn cũng đã có
sẵn. Cái vé tàu làm cho tình hình thay đổi hẳn. Thậm chí Liôvka không cười nữa,
đôi môi dày của hắn bĩu lại, run run:
- Trong khi đi trinh sát cho bộ tham mưu của
Đênikin, mà lại xuống Gulai Pôlê, là có ý đồ gì?
- Tôi không làm trinh sát. Tôi đã ra khỏi
quân đội từ hai tháng nay. Tôi không còn là quân nhân nữa. Tôi đã xé thẻ quân
nhân. Tôi đến đây với tư cách một người tự do...
Hai con mắt đen của Liôvka không rời
Rôstsin một giây. Trước cái nhìn chẳng có chút gì là khôn ngoan và nhân tính ấy,
Rôstsin cố vận dụng hết tinh lực để trấn áp nỗi xúc động, trả lời thật thận trọng,
và chàng đã toan kể lại (một cách đơn giản, dễ hiểu) những nguyên nhân đã khiến
chàng đào ngũ. Nhưng Liôvka đã ngắt lời chàng ngay, hắn nói khe khẽ:
- Nếu mày còn nói dối tao, thì thằng khốn nạn
kia, tao sẽ cho mày biết tay. Mày sẽ nếm những cực hình chưa từng thấy.
Bằng một động tác cực kỳ nhanh nhẹn mà chỉ
có phường kẻ cắp mới có được, hắn giật cái ảnh của Katya trong tay Rôstsin. Cười
tủm tỉm ra chiều biết thưởng thức nhan sắc phụ nữ, hắn ngắm chiếc ảnh rồi búng
móng tay vào đấy một cái:
- Con chó cái này là thế nào?
- Đó là vợ tôi... Tôi đến đây là vì người ấy...
Trả tấm ảnh cho tôi...
- Người ta sẽ đặt nó lên cái xác vấy máu của
mày. - Liôvka lấy bàn tay mập mạp, bóng nhẫy úp lên tấm ảnh. - Nào bây giờ hãy
cung cấp tài liệu trinh sát cho tao.
- Tao không nói với mày một câu nào nữa
đâu! - Rôstsin quát lên.
- Mày sẽ nói. Với tao, đứa nào cũng phải
hót hết. - Liôvka nhẹ nhàng đứng dậy và vụt mạnh quả đấm vào mặt Rostsin, nhanh
như con mèo tát đối thủ. Chẳng may quả đấm trúng vào thái dương. Rôstsin ngã ra
bất tỉnh.
* * *
Những kẻ thù của nền cộng hòa Xô-viết hình
dung số phận của nó chỉ trong một thời gian ngắn nữa thế nào cũng phải ngã gục
dưới những đòn tấn công. Nhưng nền cộng hòa đó đã tổ chức tất cả những lực lượng
tinh thần và vật chất của nhân dân, huy động tất cả những tinh lực của trí tuệ
và của khoa học để tự mình chuyển sang phản công. Nội dung kế hoạch quân sự của
đảng bolsêvik là trong khi lấy việc phòng ngự làm trung tâm chỉ đạo mọi công
tác, không một giờ phút nào lơi tay trong việc tiến hành những cuộc cải tạo xã
hội sâu xa, mạnh dạn đưa vào cuộc sống những nguyên tắc mà việc thực hiện không
nằm trong phạm vi của hiện tại. Sau đó, xây dựng một đội Hồng quân gồm ba triệu
binh sĩ; án ngự phương bắc, tấn công vào vùng Xibêri và miền nam Ural, hướng những
cuộc tấn công chủ yếu vào những lực lượng cô-dắc của Kraxnôv ở vùng sông Đôn,
vào quân của Đênikin ở miền bắc Kavkaz.
Nước Cộng hòa Xô viết Nga, bị quân bạch vệ
lấn ép từ bốn phía, đã thành lập một chiến tuyến dài trên mười lăm nghìn cây số;
thêm vào đấy, trong thời kỳ gần đây lại hình thành một mặt trận mới, phức tạp
và rối ren; mặt trận Ukrain.
Trên đất Ukrain trù phú, cuộc nội chiến
bùng lên với một sức mạnh đặc biệt. Dân cư Ukrain vào lúc bấy giờ đã phân hóa
sâu sắc do chế độ chiếm đóng của quân Đức, do chính quyền Hetman và do cuộc phục
hồi có tính chất trả thù của bọn địa chủ. Thợ thuyền các hầm mỏ và nhà máy vùng
Đônbax, nông dân nghèo và cố nông đều hướng về chính quyền Xô viết; phú nông và
tư bản, vốn sợ các ủy ban cách mạng, ủy ban dân nghèo, ủy ban hành chính, các
chính ủy và các cuộc trưng thu lúa mì, đều hướng về Hội đồng chấp chính tự trị
và người đứng đầu nó là thủ lĩnh Petlyura. Trong những phần tử ủng hộ Petlyura
còn có một bộ phận của giới trí thức Ukrain mà thái độ đối với tất cả cái nội
dung lớn lao của cuộc cách mạng Xô viết được gói gọn trong câu trả lời: “Bọn cộng
sản Moxkva cút đi!”, còn cái thi vị cổ truyền của kiểu quần đũng rộng bằng cả Hắc
hải, của những chỏm tóc dài, những chiếc áo jupan
và những thanh gươm cong đã át hết trong trí óc họ những sự thật lịch sử đáng
buồn về những hy sinh đẫm máu của nhân dân Ukrain đã ba thế kỷ nay đấu tranh
giành độc lập.
Petlyura đã bỏ rơi thống lĩnh Hetman đến ngồi
với Viện chấp chính ở Kiev, tuyên bố thành lập nước cộng hòa tự trị và bắt đầu
một cuộc đấu tranh vô hy vọng với cách mạng vô sản. Y có mấy sư đoàn gồm những
binh sĩ Xitsêvik của thống lĩnh Hetman đã bỏ sang hàng ngũ y và những binh sĩ
Galitxya kiên cường và có kỷ luật, vốn tin rằng ước mơ cổ truyền hợp nhất với
nước Ukrain tự do đang trở thành sự thật, ngoài ra còn có đủ các hạng người liều
lĩnh chuyên kiếm ăn bằng cướp bóc trong thời chiến. Nhưng y không đủ thông minh
và mưu trí để hứa hẹn với nông dân Ukrain, đang phân hóa và đang sôi sục lên, một
cái gì thật cụ thể, ngoài những lời bá cáo khoa trương. Y không có lực lượng dự
trữ.
Đến tháng chạp, ở vùng Poltava, trong thị
trấn Xuđja, đã tổ chức được một chính phủ Xô viết Ukrain bí mật. Chủ tịch hội đồng
quân sự Txaritxyn phái tư lệnh Quân đoàn thứ Mười là Vôrôsilôv đến Xuđja để
tham gia chính phủ. Ở Xuđja được tổ chức một hội đồng quân sự cách mạng.
Vào thời kỳ này, Hồng quân Ukrain chính
quy, vốn đã thành lập ở Kurxk khá lâu trước khi xảy ra những biến cố này, chủ yếu
gồm những người nông dân Ukrain đã trốn khỏi tù đày hay án tử hình, quân số được
hai sư đoàn, mở cuộc tấn công về hướng tây, phía thành Kiev, và về hướng nam,
phía Kharkôv và Êkatêrinôxlav. Vì lực lượng hai sư đoàn rõ ràng là chưa đủ, họ
trông mong vào sự hỗ trợ của các đội du kích. Trong các đội du kích đó, mạnh nhất
là đội quân của thủ lĩnh Makhnô.
* * *
Makhnô đang mải chè chén. Mặc bộ y phục học
sinh trung học lấy được trong cuộc cướp phá Berđianxk, hắn cưỡi xe đạp đi rong
khắp thị trấn, hoặc cùng với viên phụ tá là Karetnik hát theo nhịp đàn phong cầm
chân bước lảo đảo trên phố, hoặc xuất hiện giữa chợ, hung ác và xanh xao, kiếm
chuyện cãi nhau, nhưng ai nấy đều tránh hắn thật xa, vì biết rõ khẩu súng lục
trong túi quần của hắn vẫn thường xuất đầu lộ diện một cách dễ dàng như thế
nào. Những tên cướp sừng sỏ của Makhnô, vốn chẳng sợ gì Thượng đế cũng như Quỷ
Xa tăng, hễ trông thấy hắn lân la đến gần vòng ngựa gỗ là chuồn ngay. Thủ lĩnh
đành cùng ngồi với Karetnik quay cho đến kỳ mụ mằn đi mới thôi.
Khắp Gulai Pôlê người ta kháo nhau rằng thủ
lĩnh Makhnô gần đây uống rượu rất nhiều, e có ngày bán cả quân đội đi mà uống
cũng nên. Nhưng chỉ có một số ít người đoán ra rằng hắn đang mưu mẹo. Hắn vốn
là người xảo quyệt, thâm hiểm, sống dai như một con dã thú đã từng ăn đạn.
Makhnô đang kiếm cách trì hoãn. Mấy hôm nay
hắn phải quyết định một vấn đề lớn. Ở vùng Êkatêrinôxlav không còn có quân Đức
hay quân của Hetman để mà đánh nhau với họ nữa. Các trang chủ đã bỏ đi hết. Các
thị trấn nhỏ đều đã bị cướp. Và từ ba phía, những kẻ thù mới đang tiến lại lấn
ép hắn ta: từ vùng Krym và vùng Kuban thì quân tình nguyện, phía Bắc thì hồng
quân, phía sông Đniepr thì quân của Petlyura vừa mới chiếm thành Êkatêrinôxlav.
Trong số này bọn nào nguy hiểm nhất? Nên quay xe chở đại liên về phía nào? Những
vấn đề đó phải giải quyết ngay không chần chừ. Quân đội thì hàng ngũ đang thưa
dần, bắt đầu có tình trạng dao động. Những chiến sĩ xuất thân từ dân cày bảo
nhau: “Đấy, may sao quân bolsêvik đã bắt đầu tiến vào Ukrain, bây giờ thì có thể
ai về nhà nấy rồi, còn ai chưa chán thì cứ đính vào trán một ngôi sao đỏ”. Nòng
cốt của quân đội Makhnô, “kỵ đội đen mang tên Krôpôtkin”, những tay anh chị đã
bỏ hết mọi công việc làm ăn để chọn lấy cuộc sống phóng khoáng trên mình ngựa,
hò hét:
“... Còn nếu thủ lĩnh Makhnô muốn bán chúng
ta cho bọn bolsêvik, chúng ta sẽ chém y trước hàng quân... Kìa xem Petlyura đã
chiếm Êktêrinôxlav, thế mà chúng ta vẫn khoanh tay ngồi đợi... Lương chén hết sạch,
áo quần giày dép chẳng còn, chẳng bao lâu mà phải ra thảo nguyên ở với sói...
Anh em ơi, hãy tiến đánh Êkatêrinôxlav!”
Đã ba hôm nay có một thủy thủ tên là
Tsugai, đại diện cho bộ tổng tư lệnh hồng quân Ukrain, kiên nhẫn ngồi chờ ở
Gulai-Pôlê: anh ta chờ cho Makhnô tỉnh rượu để nói chuyện. Cũng trong mấy ngày ấy
lại có một triết gia trứ danh ở Kharkôv đến, cũng để nói chuyện với thủ lĩnh.
Đó chính là bí thư của liên minh vô chính phủ mệnh danh là “Nabat” (“Tiếng
chuông báo động”). Các ủy viên của hội đồng quân chính Makhnô, những tay vô
chính phủ địa phương, những viên cố vấn thân cận nhất, thi nhau đi lùng Makhnô
cho kỳ được và nghiêm khắc cảnh cáo hắn chớ nghe một ai và giữ vững quyền tự do
tối cao của cá nhân.
Makhnô hiểu rõ rằng bây giờ mà không có được
một quyết định cứng rắn, được quân đội tán đồng, thì sự nghiệp và danh vọng của
hắn đều đi đời hết. Trước mắt hắn chỉ có hai con đường: một là phục tòng quân
bolsêvik, làm theo lệnh của bộ tổng tư lệnh Hồng quân, và đợi cho đến khi rốt cục
họ đem mình ra xử bắn vì tội tự thi lộng hành. Hai là sau khi đã chém chết đại
biểu Tsugai, hiệu triệu và tổ chức cho nông dân Ukrain đứng lên khởi nghĩa chống
lại mọi thứ chính quyền. Nhưng thời cơ đã đến chưa? Miễn sao đừng sai lầm...
Những ý nghĩ này bí mật đến nỗi dù chỉ nói
ra với hai con chó trung thành là Liôvka và Karetnik thôi cũng rất nguy hiểm.
Makhnô lúng túng mãi với những ý nghĩ đó. Quân đội đang chờ. Đại biểu Tsugai và
lão già vô chính phủ cỡ thế giới ở Kharkôv đến cũng đang chờ. Makhnô uống rượu
mạnh, nhưng không mất lý trí, hắn cố ý làm bộ say, giở những trò bậy bạ: mắt hắn
vẫn tinh, tai hắn vẫn thính, hắn biết hết, nhìn thấy hết. Nỗi hằn học sôi sục
trong lòng hắn.
Sau khi ra lệnh bắt người lạ mặt khoác áo
sĩ quan tự khai là Êkatêrinôxlav đến và sai giải về cho Liôvka tra hỏi, Makhnô
cũng thân hành đến ngay “trung tâm huấn luyện”, dắt luôn xe đạp vào phòng hỏi
cung. Liôvka Zađôv, sau miếng đòn không may mắn đã làm Rôstsin chết ngất đi,
đang ngồi ở bàn, nắm tay phải đặt lên nắm tay trái, cằm tựa lên đấy. Makhnô đưa
mắt nhìn qua người đang nằm sóng sượt giữa nền nhà, rồi dựng xe đạp vào tường:
- Mày đã làm gì nó thế?
- À, vuốt qua một chút, - Liôvka đáp.
- Đồ ngu... mày đánh nó chết rồi hẳn?
- Tôi có nhà phẫu thuật đâu mà tôi biết?...
- Mày vừa hỏi cung nó đấy à? (Liôvka nhún
vai). Nó nói thế nào! Gián điệp của Đênikin à?
Makhnô nhìn Liôvka chằm chặp, cái nhìn soi
mói không sao chịu được, đến nỗi mắt Liôvka mệt mỏi đảo tròng lên mi trên.
- Chắc hẳn phải có tài liệu... Thế tài liệu
đâu? Mày đang đùa với thần chết đấy, biết chưa?...
- Tôi đã kịp hỏi gì đâu, mới bắt đầu thôi,
Nextor Ivanôvits ạ... Tôi biết đâu thằng khốn kiếp này nó chịu đòn kém thế...
Vừa lúc ấy Rôtsin rên lên một tiếng và co đầu
gối lên. Liôvka mừng rỡ:
- À, hắn chỉ bị choáng thôi.
Makhnô lại cầm lấy xe đạp. Hắn chợt trông
thấy tấm ảnh Katya trên bàn, liền cầm lên xem xét:
- Lấy của nó hả? Ai đấy? Vợ nó à?
Cũng như phần đông những người cương nghị
có nhiều kinh nghiệm sống. Nextor Ivanôvits có một trí nhớ rất tốt. Hắn lập tức
nhớ lại buổi đầu hắn gặp Katya (hôm hắn bắt nàng sửa móng tay cho hắn), nhớ lại
sự can thiệp của Alekxêy Kraxilnikôv, cùng với tất cả những tài liệu mà người
ta đã cho hắn biết về người đàn bà đẹp này. Hắn đút tấm ảnh vào túi, dắt xe đạp
đi, nhưng rồi lại nán lại: gương mặt Rôtsin linh hoạt lên, miệng chàng hé mở.
- Đưa nó đến gặp ta, ta sẽ thân hành hỏi
cung nó...
Trong mấy ngày chè chén vừa qua, trong trí
óc Makhnô đã hình thành rõ rệt một ý nghĩ dứt khoát: nhất thiết phải đem quân
đánh vào Êkatêrinôxlav, dùng xung kích chiếm thành phố này và kéo là cờ vô
chính phủ lên viện Đuma thành phố. Một thành tích như vậy sẽ cổ vũ và củng cố
được hàng ngũ quân đội. Thành phố Êkatêrinôxlav rất giàu. Những thứ vải vóc và
đồ đạc của nó đủ dùng cho cả một tỉnh: hắn sẽ đem về các làng mạc, đứng trên
toa tàu hay trên xe ngựa ném xuống đám đông những súc dạ, xúc từng xẻng đường
tung ra đất, ném cho lũ con gái những dải ruybăng, những chiếc lon vàng, những
đôi bít tất và những đôi giày da: “Đây là quà của thủ lĩnh Makhnô tặng các bạn
dân cày! Đây là chế độ tự do của nền vô chính phủ, không có địa chủ, không có
tư bản, không có Xô viết và không có Tseka...”
Tất cả những vấn đề còn lại thì đều chưa được
giải quyết. Giờ đây nhìn bức ảnh Katya, hắn chợt tìm ra cách giải quyết các vần
đề ấy: giải pháp đó bỗng dưng hiện ra trong óc hắn như con lật đật có lò xo bật
tung ra khỏi hộp. Nhưng hắn không để lộ chút gì ra ngoài mặt, từng đường gân thớ
thịt của hắn đang nhảy cỡn lên vì hân hoan đắc ý... hắn lên xe đạp và đi qua đường
đến một ngôi nhà dài có những cửa sổ lớn, phía trước trồng những cây phong trụi
lá. Trước kia đó là một trường học, nay dùng làm trụ sở bộ tham mưu: bọn phụ tá
của hắn và bản thân hắn cùng ở một phòng.
Một giờ sau, họ dẫn Rôstsin đến cho hắn. Đi
trước chàng là Liôvka, đi sau chàng là một tên lính Makhnô đội mũ lông cắt bằng
ve áo linh mục, một dải lụa đen bắt chéo phía trước. Hắn dúi nòng súng lục vào
lưng rôstsin đẩy chàng đi. Makhnô đang ngồi trên một chiếc đi-văng con bọc vải
hoa rách thòi cả lò xo ra.
- Làm cái trò gì thế? - hắn quát lên, giọng
kim the thé. - Bắt chước cai ngục, hiến binh Sa hoàng đấy à? Bỏ súng xuống! Đi
ra! - Hắn hất hàm bảo tên lính. Mặt hắn vàng vọt, hốc hác (Tên kia lập tức chạy
ra, đôi ủng giẫm thình thịch) Makhnô rời đi-văng đứng dậy, siết chặt nắm tay
khô đét lại và đánh mấy quả vào mặt, vào mũi, vào môi Liôvka.
- Quân đao phủ, quân đồ tể! - Hắn rít lên -
Đồ say rượu! Đồ tim la! Mày bôi nhọ tư tưởng! Mày làm nhục ta!
Liôvka Zađôv, vốn biết rõ thủ lĩnh, không đợi
cho cơn thịnh nộ của hắn tiến triển thêm. Y rụt đầu vào đôi vai phì nộn, giơ
hai tay lên đỡ đòn, lùi ra ngoài và khép cửa lại.
Makhnô bỏ mũ ra. Trán hắn ướt đẫm. Hắn lại
ngồi xuống đi văng. Chỉ còn thiếu một chuỗi tràng hạt nữa là hắn hoàn toàn là
giống một tu sĩ cuồng tín.
- Mời ông ngồi, - hắn đưa cánh tay dài như
tay vượn chỉ cho Rôstsin một chiếc ghế tựa. -Dù sau này có phải đem bắn ông đi
nữa thì làm như vậy vẫn là một điều nhục nhã. Xúc phạm đến phẩm cách con người
là một điều nhục nhã. Ông hút điếu thuốc. Ông là gián điệp phải không?
- Không. - Rôstsin đáp khẽ, cười nhạt rồi cầm
lên một điếu thuốc lá.
- Sĩ quan của quân tình nguyện à?
- Tôi đã đào ngũ rồi. Tôi đã đoạn tuyệt với
họ. Còn ông thì đằng nào ông cũng không tin những điều tôi sẽ kể.
- Không ai dối nổi tôi đâu, - Makhnô nói, vẫn
cái giọng kim đặc biệt khó lòng có thể ghi lại bằng ký âm pháp. Rôtsin thấy nó
giống giọng con chim lợn. - Không ai dối nổi tôi, - hắn nhắc lại, và đôi mắt hắn,
một đôi mắt ráo hoảnh không nhấp nháy, biểu hiện nột ý chí mãnh liệt đến nỗi
khó lòng nhìn thẳng vào đấy. Chịu đựng cái nhìn ấy một lát, thế nào mắt mình
cũng ứa nước mắt ra. Tuy vậy Rôstsin vẫn chịu đựng được. Sau quả đấm của Liôvka
ban nãy, đầu chàng nhức nhối. Cố trấn áp cảm giác đau ấy, chàng tập trung hết
tinh lực cho trận đọ sức cuối cùng này.
- Nếu ông cần tài liệu về quân tình nguyện,
ông cứ hỏi. Nhưng tài liệu của tôi cũ rồi. Tôi giải ngũ từ ba tháng nay. Mùa
xuân này tôi đã đi sẩy một bước, giá phải trả là tính mạng của tôi... Ông định
bắn tôi... Không cách này thì cách khác, không chóng thì chầy, thế nào rồi tôi
cũng sẽ ăn đạn vì cái lỗi lầm tôi đã phạm phải.
Trong đôi mắt Makhnô ánh lên một tia trào
phúng. Nhưng vừa hiện ra, nó đã tắt ngay... “Hắn không tin”. Rôstsin rít một
hơi dài, đặt điếu thuốc lên mép bàn, đút bàn tay vào thắt lưng: “Cứ đợi đấy, rồi
sẽ biết ta...”.
- Trước hết, tại sao tôi lại gia nhập hàng
ngũ bạch vệ? Tôi đã lăn tới đó như quả táo lăn xuống dốc. Nó thế đấy... Chúng
tôi là những trí thức Nga, nghĩa là những hạt muối của đất nước, chúng tôi đọc
Mikhailôvxki, Kant, Krôpotkin và cả Bebel nữa, ngoài các thứ sách giải trí. Tôi
còn nhớ là tôi đã nói chuyện với Alekxêy Bôrôvôi suốt mấy đêm không ngủ, cũng
là những chuyện như tôi đang nói đây... (Đúng như chàng dự đoán, nghe nhắc đến
tên này mắt Makhnô lập tức lu mờ đi, như thể dại đi, nhưng chỉ trong khoảnh khắc,
không hơn). Lòng chúng tôi tràn đầy những kỳ vọng hân hoan. Thế rồi nổ ra cuộc
cách mạng tháng Hai! Mọi sự đều kết thúc một cách chua cay. Thay cho ngày hội
tưng bừng là những đại lộ vứt đầy hột quỳ, rồi thì thủy thủ, binh lính kéo nhau
đi nghênh ngang - một đám người xám xịt, vô nghĩa. Không phải là một quốc gia
vĩ đại, mà là một thứ bột sú nhão, một thứ cháo tiểu mạch không có muối...
Makhnô cựa quậy trên đi văng, rồi bỗng dưng
hắn bất giác ngồi lại, hai tay ôm lấy đôi đầu gối gầy guộc, như thể đang ngồi
trong một buổi hội tháng Năm. Ngay trong đôi mắt hắn cũng hiện lên vẻ chăm chú
ngây ngô, như một đôi mắt chó nhìn chủ.
- Giới trí thức đã bị gạt ra ngoài lề. Thế
rồi đến tháng Mười họ xách cổ chúng tôi như xách cổ mèo con, ném vào thùng
rác... Nói cho cùng, trước sau chỉ có thể... Quân đoàn tình nguyện là cái thùng
rác của cả nước Nga. Trong nó không có và không thể có một chút gì có tính chất
xây dựng, hay dù chỉ có tính chất phục hồi thôi cũng vậy. Nhưng nó lại có sức đập
phá, và đập phá khá nghiêm trọng... Đáng tiếc là tôi đã hiểu ra những điều đó
quá muộn... Nhưng tôi cũng mừng là đã hiểu ra... Thế đấy, Nextor Ivanôvits ạ...
(chàng cũng không hiểu tại sao mình tự dưng quay ra gọi hắn bằng tên và phụ
danh như vậy). Lẽ ra tôi không nên sống tiếp làm gì, vả lại tôi cũng không muốn
sống nữa... Nhưng có một người... Đối với tôi còn đáng quý hơn mọi thứ triết
lý, quý hơn cả lương tâm của tôi nữa... Chính điều đó đã ngăn tôi lại...
- Người này phải không? - Makhnô bỗng đưa tấm
ảnh ra hỏi.
- Phải, chính là người ấy.
- Ông cầm lấy, tôi giữ làm gì...
Rôstsin đút tấm ảnh của Katya vào túi áo.
Chàng cầm mẩu thuốc lá hút dở lên, châm lại. Tay chàng không run. Chàng đã
không lạc đề trong khi kể chuyện.
- Tôi xé tấm thẻ quân nhân đi, và tìm đến
đây, lần theo dấu vết của nàng. Và một khi đã lại bám lấy cuộc sống, thì lại cứ
phải lao vào triết học và tư tưởng: chúng tôi không phải là thợ thủ công... Điều
duy nhất mà tôi thấy có thể chấp nhận được... Dĩ nhiên, đây là nói một cách trừu
tượng, hoàn toàn trừu tượng... Đó là tự do tuyệt đối, tự do man dại... Cứ cho
như thế là điên rồ, là vô lý, nhưng thật ra... Cần phải chết cho một cái gì đó vượt
ra ngoài phạm vi của tưởng tượng.
- Dù sao ông cũng cứ đưa tài liệu trinh sát
của ông đây, ông giấu nó ở đâu? - Makhnô hỏi khẽ.
Rôstsin ắng cả người. Chàng quay mặt đi,
khoát tay một cách yếu ớt, vô hy vọng. Makhnô hồi lâu ngồi im trên đi văng,
không nhúc nhích. Bỗng hắn chồm dậy và bắt đầu lục lọi trong đống đồ đạc táp
nham vứt ở góc phòng: nào là vũ khí, nào là yên cương, nào là những gói giấy đủ
loại... Hắn tìm ra mấy hộp thức ăn, hai chai rượu mạnh, đặt cả lên bàn, rồi bắt
đầu vặn chìa khóa mở hộp cá trích.
- Tôi lấy ông vào bộ tham mưu, - hắn nói. -
Vợ ông ở đại đội sáu, ở trại Prokhlađny... Lát nữa đại biểu bolsêvik sẽ đến
đây. Cứ để cho hắn tưởng là tôi đang liên hệ với quân tình nguyện. Nhiệm vụ của
ông là làm rối thêm thế trận. Hiểu chưa? Ông biết đánh bài chứ?
Đến đây Vađim Petrôvits đâm hoang mang thực
sự. Chàng chỉ chớp mắt mấy cái, thậm chí cũng chẳng buồn tự hỏi xem làm sao cơ
sự lại xoay chuyển như vậy, và như vậy nghĩa là thế nào.
Makhnô đánh gẫy mất cái chìa khóa mở đồ hộp.
Hắn rút trong túi ra một con dao nhíp bịt xà cừ có đến dăm chục lưỡi và hì hục
mở tiếp những hộp dứa, hộp pa-tê gan mỡ của Pháp, hộp tôm hùm. Mùi đồ hộp tỏa
ra nồng nặc khắp phòng.
- Sau này muốn bắn ông cũng có đủ thì giờ
chán. Còn bây giờ thì tôi muốn sử dụng ông, hắn nói như để trả lời những ý nghĩ
hoang mang của Rôtsin - ông là sĩ quan tham mưu hay là sĩ quan dã chiến?
- Trong chiến tranh thế giới tôi ở bộ tham
mưu của tướng Evert...
- Bây giờ ông sẽ ở bộ tham mưu của thủ lĩnh
Makhnô... Ở trại khổ sai của Sa hoàng, họ đã nhấc bổng tôi lên, kẻ cầm cái đầu,
kẻ cầm đôi chân, rồi ném mạnh xuống nền nhà... Các lãnh tụ nhân dân được tôi
luyện như thế đấy, hiểu chưa?
Có tiếng chuông reo ở cái thùng điện thoại
đặt giữa đống đồ đạc linh tinh trên nền nhà. Makhnô ngồi xổm xuống, quát vào ống
điện thoại với cái giọng chim lợn:
- Tôi đang đợi đây, sẽ tiếp ngay!
Đại biểu Tsugai, một người chậm chạp, rất lực
lưỡng, mặc chiếc áo lính thủy đã sờn nhưng sạch sẽ, mũ lính thủy đội hất ra sau
gáy, ngồi bên bàn, tay xòe mấy con bài thành hình quạt khum khum cho người khác
khỏi trông thấy mặt bài, và đôi mắt sáng, hơi lồi của anh theo dõi từng cử chỉ
của Makhnô. Gương mặt im lìm có đôi gò má bạnh ra bộ ria mép đén nhánh, không hề
biểu lộ một cảm xúc nào. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy chiếc ghế tựa kêu lên răng rắc
dưới sức nặng của anh. Nhìn anh, người ta cứ có cảm giác là nếu bắt đôi chân đi
ủng thấp và rộng kia xếp bằng tròn lại rồi đem đặt lên đầu bảy con rắn hổ mang
bằng đồng đang phồng mang ra, người ta sẽ có được một thần tượng đủ tư cách để
được thờ cúng trong một ngôi đền đông phương.
Họ đánh bài “con dê” - một kiểu chơi bài đã
được phát minh ở các mặt trận để cười đùa cho quên những vết thương và những nỗi
lo sợ. Ban nãy, khi khách vừa bước vào phòng, Makhnô thậm chí cũng chẳng đứng dậy
bắt tay họ nữa, mà lập tức đề nghị đánh bài “chín” ăn tiền (làm như thế hắn mời
khách đến chỉ vì mục đích ấy) Hắn chia bài nhanh đến nỗi người ta không kịp
nhìn theo tay hắn nữa, ném lên tờ giấy nghìn quan tiền Hetman và đặt hộp tôm
hùm lên trên. Nhưng Tsugai cầm hai con bài hắn vừa chia cho mình đút luôn xuống
dưới hộp.
- Anh sợ à? - Makhnô hỏi.
Tsugai đáp:
- Bài “chín” thì tôi chả chơi. Đánh bài “con
dê” thôi.
Makhnô cầm bài ở dưới bàn, người ngả ra
phía sau, lưng quay về phía cửa ra vào, như để có một khoảng trống sau lưng
(Tsugai chú ý đến ngay điều đó). Ngồi bên tay trái hắn là Rôstin, bên tay phải
là Lêônk Tsorny, ủy viên ban bí thư liên minh “Nabat”, tóc tai bờm xờm, tuổi chẳng
rõ là bao nhiêu, người nhỏ bé và khô đét, ngực teo lại như ngực chim, trông như
không có phổi. Nhìn hắn, người ta phải nghĩ rằng hắn sống được hoàn toàn là nhờ
tinh thần. Cái áo vét-tông chật và nhàu nát của hắn phủ đầy những gầu và tóc bạc.
Hắn cầm bài một cách lơ đễnh, ai cũng trông rõ từng con một.
Đến đây, hắn đã chuẩn bị để đấu nhau một trận
ác liệt với Tsugai, kẻ có ý đồ tiếm vị Makhnô và quân đội của hắn, một hiện tượng
đầy những khả năng chưa được khai thác hết. Tư tưởng của Lêôn Tsorny tập trung
cao độ như chất nổ nhồi trong hộp thiếc. Lòng hơi băn khoăn vì thay cho một trận
quyết chiến với tên bolsêvik kia, lại phải đánh bài “con dê”, hắn luôn luôn
đánh nhầm hay đánh rơi bài xuống dưới bàn. Hắn đã thua bốn ván liền. “Be-be-be!
Thối hoắc!” - Makhnô quát vào mặt hắn, chỉ cười bằng phần dưới khuôn mặt.
Sau mỗi ván Makhnô lại giơ cánh tay vượn ra
với chai rượu rót vào từng chén một, cố rót sao cho thật đều nhau. Câu chuyện
quanh bàn ăn hết sức phù phiếm, cứ như thể đây là một nhóm bạn tụ tập lại để giết
thì giờ trong một buổi tối mưa gió sụt sùi, khi mưa gõ lách tách vào mấy tấm
kính cửa sổ đen ngòm, và gió lùa vào những cây phong trơ trụi trước nhà, xô cây
nghiêng ngả và rú lên từng đợt như một oan hồn.
Makhnô chờ đợi. Tsugai cũng điềm tĩnh đợi
chờ, sẵn sàng đối phó với mọi chuyện bất trắc, nhất là khi qua một vài câu bóng
gió của chủ nhân, anh ta hiểu rằng người thứ tư ngồi bên bàn, lẵng lẽ, chững chạc,
với đôi mắt thâm quầng, mái tóc hoa râm, chính là một sĩ quan của Đênikin. Cứ
xem tình thế lúc này, có thể đoán rằng người đầu tiên nổ bùng ra phải là Lêôn
Tsorny. Hắn đã rút chiếc khăn mùi-xoa bẩn ra, bứt rứt vo lại thành một cục và
sau mỗi chén rượu lại chấm lên mũi, lên mắt. Quả nhiên sự việc đã xảy ra đúng
như vậy.
- Từ hồi ở Pari tôi đã bắt đầu tranh luận với
bọn Bolsêvik các anh, - hắn nói, giọng gắt gỏng, tay vung mấy con bài xòe rộng
về phía Tsugai. - Cuộc tranh luận chưa xong, và chưa có ai chứng minh được rằng
Lê-nin đúng cả. Thay cho nhà nước phong kiến - tư sản, mà lại lập nên một nhà
nước công nông!... Nhà nước nào chả là nhà nước! Chẳng qua một chính quyền này
thay một chính quyền khác. Cởi áo ông lớn ra, mặc áo vải thô vào! thế mà lại
tính chuyện xây dựng xã hội không giai cấp kia!
Hắn cười khúc khích từng tiếng ngắn và mau,
chiếc mùi soa áp lên đôi môi khô nẻ. Gương mặt Tsugai không thấy phản ánh một cảm
xúc nào. Anh chỉ nhìn hộp tôm hùm, kéo nó lại và lấy nĩa xóc một miếng rõ to.
- Thế các ông đề nghị thế nào? Chế độ vô
chính phủ, mẹ của trật tự chứ gì?
- Phá hủy! - Lêôn Tsorny phều phào vào mặt
Tsugai, hơi rượu sặc sụa, và những chòm râu bạc bết lại thành cục của hắn dựng
tua tủa lên như chó lông xù. - Phá hủy toàn bộ xã hội tội lỗi! Phá hủy không
thương tiếc, kỳ bằng địa thì thôi, không để lại một phiến đá nào... sao cho
không còn lấy một mầm mống độc địa nào có thể mọc trở lại thành nhà nước, thành
chính quyền, thành tư bản, thành đô thị, thành nhà máy...
- Thế ai sẽ sống trên cái khoảng đất trống ấy?
- Nhân dân!
- Nhân dân! - Makhnô rướn cổ về phía Tsugai
quát lớn. - Nhân dân tự do!
- Ấy chết, khi bắt đầu mà đã quát tháo thì
khi kết thúc rồi phải nổ súng đấy. - Tsugai nói đoạn cầm chai rượu rót cho mọi
người (Lêôn đẩy chén ra, rượu đổ tung tóe) - Cứ thế mà phá sạch thì chẳng khó
gì. Có điều là sau đó các ông định sống như thế nào?
Lêôn Tsorny cướp lời nói trước Makhnô.
- Sự nghiệp của chúng ta là một cuộc phá hoại
khủng khiếp, triệt để và tàn nhẫn. Bao nhiêu tinh lực, bao nhiêu nhiệt tình của
thế hệ chúng ta đều sẽ dốc vào đấy hết. Anh thủy thủ ạ, anh đang bị cầm tù,
đang bị giam hãm trong một lối tư duy hèn hát, không bay bổng. Khi nhà nước đã
bị phá tan rồi, nhân dân sống như thế nào phỏng? Hê-hê, sống như thế nào ấy à?
Makhnô nói ngay:
- Ở đây chúng ta bất đồng rồi đấy, đồng chí
Tsorny ạ. Những xí nghiệp tiểu thủ công thì tôi không phá, các phường hội cũng
bậy, nền kinh tế nông dân tôi cũng không phá nốt...
- Thế thì anh cũng là một thằng hèn y như
tên bolsêvik này.
- Ô, sao lại thế, ông không trách được Nextor
Ivanôvits là hèn đâu, - Tsugai nói đoạn nháy mắt với Makhnô tỏ ý tán đồng (mặt
hắn đỏ bừng lên như thể hơ than). - Nextor Ivanôvits không hề tiếc mạng, điều
đó ai cũng biết... Chúng tôi sẽ không nhường ông ta cho các ông một cách dễ
dàng như thế đâu... Chúng ta sẽ phải đánh nhau để giành lấy Nextor Ivanôvits.
- Đánh nhau à? Các anh bắt đầu đi. Cứ thử
xem. - Lêôn Tsorny nói, giọng đột nhiên trở lại điềm tĩnh, và mấy chòm râu trên
má lại dẹp xuống. Hắn lơ đễnh xốc pa-tê gan ra ăn ngon lành. Tsugai liếc nhìn
sang Rôtsin: chàng đang hút thuốc vẻ dửng dưng, mắt nhìn lên trần. Makhnô nhe bộ
răng vàng khè ra cười không thành tiếng. “Bọn họ đã quy ước sẵn với nhau như thế”
-Tsugai nghĩ thầm. Chiếc ghế anh ngồi két lên một tiếng. Ngoài việc phải hoàn
thành nhiệm vụ của bộ tổng tư lệnh giao cho là phải lôi kéo Makhnô vào những
hành động phối hợp, trước hết là vào cuộc tấn công Êkatêrinôxlav, Tsugai còn có
đủ căn cứ để lo sợ về những kết luận nghiêm trọng của tổ chức đối với mình nếu
mình thất bại trong cuộc tranh luận với tên vô chính phủ kia, chắc hẳn là đã ngốn
hàng trăm cuốn sách dày cộp. Anh cũng thấy ngại tên sĩ quan bạch vệ kia nữa: cứ
nhìn mặt cũng biết ngay là hạng trí thức. Dĩ nhiên Tsugai không tin rằng hắn ở
trong bộ tham mưu của Makhnô.
Tsugai kéo chiếc mũ lính thủy ra sau gáy
cho chặt.
- Tôi xin hỏi các ông một câu.
Lêôn Tsorny nhồm nhoàm đáp:
- Xin mời.
- Đồng chí Lênin có nói: nửa năm nữa Hống
quân sẽ có ba triệu người. Thế ông, Lêôn Tsorny, ông có thể động viên ba triệu
người vô chính phủ trong một thời hạn như vậy không?
- Chắc chắn là được.
- Các ông có một bộ máy để thực hiện việc
đó chắc?
- Bộ máy của tôi đây. - Lêôn Tsorny đưa cái
nĩa chỉ vào Makhnô.
- Được lắm. Ta hãy hướng về nhân vật này.
Thế tức là ông sẽ cung cấp cho Nextor Ivanôvits một số vũ khí và đạn dược đủ
dùng cho ba triệu quân, dĩ nhiên là cả quân trang, quân dụng, quân lương, lương
thảo nữa. Chỉ riêng về ngựa thôi, với một quân đội như vậy cũng phải có nửa triệu
con. Những thứ đó các ông đều có sẵn cả rồi, chắc thế?
Lêôn Tsorny ẩy hộp pa-tê đã vét hết sang một
bên. Trên trán hắn hằn lên những nếp nhăn nhỏ li ti:
- Này anh lính thủy, anh đừng đưa những con
số ra mà dọa tôi. Phía sau những con số của anh là hư không, là những mưu toan
thảm hại muốn lấy chỉ mục mà vá víu lại cái nước Nga đã rách tả tơi ra từng mảnh.
Đó là một thứ chủ nghĩa quốc gia giấu mặt! Ba triệu lính trong Hồng quân! Ghê
nhỉ? Hãy cứ động viên lấy ba mươi triệu. Muốn thế nào thì cách mạng chân chính,
cách mạng thần thánh vẫn bỏ qua mấy triệu thằng mu-gích tư hữu mang sao đỏ của
các anh... Quân đội của chúng tôi - hắn đập bàn - là toàn nhân loại, đạn dược của
chúng tôi là sự phẫn nộ thiêng liêng của các dân tộc không còn muốn dung thứ bất
cứ thứ nhà nước nào, chủ nghĩa tư bản cũng không, chuyên chính vô sản cũng
không... Chỉ có mặt trời, trái đất và con người! Và bao nhiêu sách vở từ
Arixtôt đến Mác đều đem chất đống lên mà đốt hết! Quân đội! Năm mươi vạn con ngựa!
Trí tưởng tượng của các anh không vượt quá bộ ria của một tên đội xếp. Xin biếu
các ông cả. Chúng tôi sẽ vũ trang một nghìn năm trăm triệu con người. Dù chúng
tôi chỉ có răng, có móng và mấy hòn đá dưới chân, chúng tôi cũng sẽ đánh tan những
đạo quân của các anh, chúng tôi sẽ biến các nền văn minh thành một đống gạch vụn,
cùng với tất cả, tất cả những gì mà các anh đang cố sống cố chết bám lấy, anh
thủy thủ ạ.
“Chà, lão già này ba hoa tợn” - Tsugai nghĩ
bụng, trong khi đưa mắt theo dõi Makhnô, ban đầu cả người hắn căng thẳng lên vì
chú ý, nhưng về sau hai vai hắn xuôi xuống và đôi má hóp của hắn bắt đầu tái nhợt
đi: hắn không còn hiểu nữa. Ông thầy hắn đã đi quá xa lương tri bình thường của
con người. Bấy giờ Tsugai nói:
- Xin hỏi ông một câu nữa, Lêôn Tsorny ạ...
- Hỏi đi...
- Theo chỗ tôi hiểu thì cuộc tổng động viên
của các ông chưa được chuẩn bị. Nhưng làm việc gì cũng phải có khởi đầu: quả
bom cần có ngòi nổ, đống củi cần có que diêm. Các ông trông mong vào cách khởi
đầu nào? Nòng cốt của quân đội các ông ở đâu? Thủ lĩnh Makhnô ư? (Hai con ngươi
của Lêôn Tsorny đảo lia lịa, hắn cố tìm xem cái bẫy ở chỗ nào). Quân của ông ta
rất thiện chiến, điều đó có đúng, nhưng tỷ lệ những người vô chính phủ thấp
quá. Đó không phải là quân đội của các ông.
Anh liếc mắt sang phía Makhnô - tay hắn có
thò vào túi rút súng chăng? - nhưng hắn vẫn ngồi yên.
Lêôn Tsorny mỉm một nụ cười khinh bỉ:
- Cuộc nói chuyện hôm nay chung quy là tôi
phải dạy ABC cho anh, anh lính thủy ạ.
- Rất hoan nghênh.
- Thế giới kẻ cướp, đó chính là cái ngòi của
chúng tôi, nòng cốt cũa chúng tôi!... Cướp phá là sự thể hiện đáng kính nhất của
sinh hoạt nhân dân... Phải biết điều đó! Kẻ cướp là kẻ thù không đội trời chung
của mọi thứ nhà nước, kể cả nhà nước xã hội chủ nghĩa của các anh nữa, anh bạn
quý ạ!... Hành động cướp phá là bằng chứng của sinh lực nhân dân... Kẻ cướp là
người không khoan nhượng và bất khuất, họ phá hoại để mà phá hoại - và đó chính
là sức mạnh tự phát của quần chúng nhân dân. Anh hãy dụi mắt cho kỹ mà nhìn.
Trong khi Lêôn Tsorny say sưa tuôn ra một
tràng tư tưởng như vậy Makhnô rón rén ra mở hé cánh cửa, dòm ra hành lang, rồi
lại về ngồi vào bàn. Bây giờ Rôstsin bắt đầu tò mò nhìn kỹ lão già kỳ cục ấy,
băn khoăn không hiểu có phải là lão giả ngây giả dại không?
- Đấy, đấy: chưa chi anh đã chớp mắt lia lịa
rồi, anh thủy thủ ạ, anh ngỡ ngàng, đức hạnh của anh không chịu nổi! - Lêôn
Tsorny reo lên. - Vậy thì xin anh biết cho rằng chúng tôi đã bẻ gẫy bút, đổ hết
mực đi rồi. Máu hãy chảy! Thời cơ đã đến! Ngôn từ đang biến thành hành động. Và
giờ phút này kẻ nào không hiểu được tính tất yếu của hành động cướp phá với
tính cách là một phong trào tự phát, kẻ nào không hưởng ứng nó, thì kẻ ấy bị gạt
sang hàng ngũ của những kẻ thù của cách mạng...
Makhnô nheo nheo đôi mắt, ngồi gặm móng
tay. Rôstsin nghĩ bụng: “Không, lão già biết rất rõ mình đang nói gì”. Tsugai tựa
hẳn vào bàn chống khuỷu tay lên đấy và giơ một ngón tay lên để Lêôn Tsorny có một
cái gì mà tập trung vào.
- Xin hỏi một câu thứ ba nữa. Được, cứ cho
là các ông đã động viên được cái nòng cốt ấy. Họ đã làm xong việc của họ. Họ đã
phá phách tan hoang... Nhưng công cuộc phá hoại ấy cũng phải có lúc kết thúc chứ?
Nhất định là phải có. Theo quan niệm của chúng tôi, kẻ cướp là những tên đi cướp
của, là những con người hư hỏng, không làm việc được nữa. Những con người như
thế sẽ không làm việc gì hết. - vì làm làm gì? - Cái gì hớ hênh ra thì cứ lấy
thôi. Thế thì đến lúc ấy sẽ thế nào? Lại phải có ai làm cho họ chứ? Không à? Cướp
phá thì chẳng còn gì mà cướp phá nữa. Thế tức là các ông chỉ còn cách lừa lũ kẻ
cướp ra bờ vực mà hóa kiếp cho chúng chứ gì? Xin ông trả lời cho tôi câu hỏi
đó...
Trong phòng im lặng hẳn đi, dường như những
người đối thoại đều tập trung sức chú ý vào cái ngón tay của Tsugai giơ cao
lên, với cái móng cong cong. Lêôn Tsorny đứng dậy, bé nhỏ (khi ngồi, lão có vẻ
cao to hơn), nghiệt ngã như một tư tưởng triết học.
- Bắn chết nó đi! - lão quay về phía Makhnô
nói, tay chỉ vào Tsugai. - Bắn đi: đó là một tên khiêu khích...
Makhnô lập tức nhảy lùi về phía cửa. Tsugai
vội vàng cào cào móng tay lên nắp bao súng Mauser đeo dưới lần áo lính. Rostsin
rời bàn lùi dần về phía sau, vấp phải chiếc đi văng con và ngồi luôn xuống đấy.
Nhưng rốt cục không ai rút súng ra cả, mỗi người đều biết rằng súng đã rút ra rồi
thì phải bắn. Mắt Makhnô sáng quắc lên vì căng thẳng. Tsugai nói, giọng răn bảo:
- Như thế chẳng đẹp chút nào, bố ạ... Bố
dùng đến những thủ đoạn rẻ tiền như thế thì có còn tranh luận đâu nữa... Còn về
cái tội gọi tôi là tên khiêu khích thì lẽ ra phải cho bố nếm cái này... (anh ta
giơ ra một quả đấm lực lưỡng đến nỗi những thớ thịt trên mặt Lêôn Tsorny giật
giật lên như trúng phong). Vì chiếu cố cái ngực yếu của bố nên tôi không trả
đũa đấy thôi... Dùng từ ngữ phải cho chính xác một chút bố ạ...
Lần này Makhnô không bênh thầy nữa. Lêôn
Tsorny gục đầu xuống như thể muốn giấu mặt vào mấy chòm râu, cầm lấy cái áo
bành tô cổ sờn (trước kia cổ áo này làm bằng da hải ly), cái mũ nhung cũng cũ kỹ
không kém, mặc áo vào rồi bỏ ra về, can đảm mang theo nỗi buồn của kẻ chiến bại.
- Thôi, ta tiếp tục chứ? - Makhnô vừa nói vừa
trở về bàn cầm chai rượu lên. - Đồng chí Rôstsin, ra gặp trực nhật bảo nó chỉ một
cái giường bỏ không mà nằm nhé.
Rôstsin đưa tay lên lưỡi trai chào rồi ra
ngoài. Sau cánh cửa, chàng còn nghe tiếng Makhnô nói:
- Hết người này “thưa thủ lĩnh Makhnô”, lại
người kia “thưa thủ lĩnh Makhnô”, còn anh, anh sẽ nói gì với thủ lĩnh Makhnô
nào?
12
Khi đã về đến làng Vlađimirxkôiê, dạo bước
trên đống tro tàn phủ tuyết của ngôi nhà cũ, hít mùi khói bếp từ các nhà hàng
xóm thoảng tới, nhìn mấy con ngỗng đã béo căng tuy trời mới chớm giá, đang kiêu
hãnh trương cánh nửa chạy nửa bay trên bãi cỏ phủ sương giá một màu xám bạc,
Alekxêy Kraxilnikôv mới thấy rõ mình chán cuộc đời thổ phỉ đến chừng nào.
Phóng xe tatsanka qua thảo nguyên giữa những ấp trại đang bốc cháy ngùn ngụt
chẳng phải là việc của những người mu-gích. Việc của người mu-gích là suy nghĩ
chín chắn trên mảnh đất của mình và cày xới mảnh đất đó. Đất là mẹ hiền, miễn
mình đừng lười, đất sẽ rộng lượng vô cùng. Cái gì cũng làm cho Alekxêy
Ivanôvits hởi lòng: những ý nghĩ về cơ ngơi làm lụng mà anh ta đã quên dần
trong thời gian đi theo Makhnô, cũng như ánh bình minh một màu xam xám êm dịu
gieo những bông tuyết thưa thớt rơi thong thả xuống mặt đất, cũng như cảnh tĩnh
mịch của xóm làng, và mùi hương thân thuộc của khói bếp. Trong khi tha thẩn
quanh nền nhà cũ. Alekxêy Ivanôvits thỉnh thoảng lại nhặt lên một tấm tôn lợp
mái đã han gỉ, một cái đinh, một mẩu sắt bị thui cháy. Anh vứt tất cả những thứ
đó vào một chỗ. Đối với anh, cái đáng quý không phải là những của cải chở về
trên ba chiếc xe giàn. Cái đáng quý nhất đối với Alekxêy Ivanôvits là bây giờ
anh sẽ có thể xây dựng và quản lý cơ ngơi mà không phải lo tính từng rúp một nữa.
Từ cái cọc đầu tiên cắm lên mảnh đất cũ cho đến ngày Matriôna sẽ cho ra lò chiếc
bánh mì thơm phức làm bằng lúa mì của vụ vừa thu - chị sẽ nói “Lò mới mà nướng
tốt ra phết!” - còn phải dốc ra không biết bao nhiêu là công sức. Cả điều này nữa
cũng làm cho Alekxêy vui thích; không sao, từ giọt mồ hôi của người mu-gích sẽ
mọc lên tất cả...
Lấy mũi ủng bới lớp tro lên, anh tìm thấy một
cây rìu cán đã cháy đen thui. Anh cầm lên, xem đi xem lại mãi, mỉm cười lắc đầu:
chính cây rìu này đây! Dạo ấy cũng vì nó mà ra cả. Anh hồi tưởng lại cái hôm
Xêmiôn, em trai anh, nghe tiếng kêu thảm thiết của Matriôna, đã như điên như dại
chạy ra sân. Không hiểu tại sao hôm ấy Alekxêy lại bập cây rìu vào một súc gỗ để
ở phòng lót, ngay cạnh cửa ra vào. Giá thử hôm ấy nó không lọt vào mắt Xêmiôn
thì có lẽ chẳng có chuyện gì hết...
“Chao ôi, Xêmiôn, Xêmiôn, - Alekxêy nghĩ thầm
trong khi ném cây rìu vào chỗ ban nãy vứt mấy thứ nhặt được. - Giá có cả hai
anh em cùng bắt tay vào làm thì hăng biết mấy... Phải, chú mày ạ, anh thôi hẳn
rồi, anh thấy đủ lắm rồi...”
Anh nhìn xuống đất, suy nghĩ. Trong bức thư
của Xêmiôn gửi cho anh hồi còn ở Gulai Pôlê, có mấy câu sau đây: “Anh nói hộ với
Matriôna nhà tôi là nên tránh đua đòi ăn chơi đàng điếm: như thế không ích gì,
bây giờ không phải lúc... Đến khi nào tôi chết, lúc bấy giờ cô ấy sẽ tha hồ,
không còn gì ràng buộc nữa... Thời buổi bây giờ cần phải nghiến răng lại. Chỉ
khi chiêm bao tôi mới rảnh rang mà nhớ anh và nhà tôi. Đừng trông mong tôi về sớm:
cuộc nội chiến còn dài, chưa biết đến bao giờ mới kết thúc...”.
Alêkxêy lắc đầu thật mạnh như để xua đuổi một
ám ảnh. Thôi mặc mẹ nội chiến, dù sao cũng chẳng biết đâu mà lường trước. Anh lại
nhìn những làn khói yên lành dâng đây đó sau mấy hàng giậu, sau những khu vườn
trụi lá, trên những mái nhà ấm áp lợp rạ hay lợp cói giàn. Nông dân đã chuẩn bị
sống qua mùa đông một cách ấm cúng. Thế là phải. Hồng quân không phải chỉ trong
một vài tuần đã đến đây được. Sao thế nhỉ, cuộc nội chiến sao lại chưa biết đến
bao giờ mới kết thúc? Xêmiôn nói gì vớ vẩn thế nhỉ? Còn ai thò mũi vào đây nữa?
“Chao ôi, Xêmiôn, Xêmiôn... Chắc hẳn chú nó đang lênh đênh trên một chiếc khu
trục hạm ở biển Kaxpi, hăng máu quá đâm mờ cả mắt...”.
Tuy vậy Alekxêy vẫn thấy trong lòng băn
khoăn khó tả. Anh toan rút túi thuốc ra, - chán thật, không có giấy..., Mùa hè
vừa qua một ông y sĩ có kể lại rằng trong quân đội Makhnô có nhiều người suy
nhược thần kinh; trông bề ngoài thì vẫn lành mạnh, ngốn rất khỏe, nhưng dây thần
kinh thì lại căng như dây đàn vĩ cầm: “Chà, dây thần kinh! - Alekxêy lẩm bẩm, -
hồi trước chả bao giờ nghe nói đến cái của ấy”. Anh đến cạnh một cái ống lò sưởi
cháy dở nhô lên đơn độc, thử lay xem có còn vững không. Anh huých vai vào cái ống:
nó lung lay... “Chà, dây thần kinh...”
Alekxêy cùng với Katya và Matriôna đến ở nhờ
nhà một người bà con góa chồng. Nhà chật và thiếu tiện nghi. Matriôna đánh lại
cái lò sưởi, lấy đất sét xám trát lại cái nền đất, treo rèm đăng ten lên mấy khung
cửa sổ hẹp. Alekxêy mua bột, khoai tây và cỏ rơm đủ cho mấy con ngựa ăn: mua của
nhà này một xe, của nhà kia hai xe. Anh không mặc cả. Không xẻn tiền và nếu ai
khẩn khoản xin, anh lại còn cho thêm một ít muối, món này bấy giờ còn đắt hơn
vàng. Anh thừa biết rằng người làng coi đồng tiền của anh là thứ của đáng ngờ
và còn lâu mới hết khó chịu với ba xe của cải và năm con ngựa của anh.
Khó hơn nữa là nói sao cho dân làng tán
thành được kế hoạch xây nhà của anh. Anh dự tính dỡ cái nhà dọc trong trang
viên của lão công tước xưa kia xây trên ngọn đồi ở cuối khu vườn, bị bỏ hoang
lâu ngày nay đã long lở dột nát hết. Trong dinh thự của lão công tước nay chẳng
còn gì: chỉ có những khung cửa sổ mất cánh trống hoác giữa mấy cái cột đã tróc
vữa. Còn dãy nhà dọc trước kia giành cho lão quản lý ở thì nay vẫn còn nguyên vẹn.
Dỡ nó ra rồi chuyển đến chỗ nhà cũ chẳng có gì khó.
Nhưng bà con nộng dân vẫn còn sợ sệt một điều
gì không rõ. Trong làng không có một thứ chính quyền gì hết: chính quyền Hetman
thì đã bị đuổi đi, chính quyền Petlyura thì chỉ lay lắt ở các thành phố, chính
quyền cộng sản thì chưa thấy đến. Có lẽ cũng vì đã quen đi, cho nên không có
chính quyền dù sao cũng thấy sợ sợ: nhỡ về sau có ai hỏi thì sao? Họ quyết định
bầu một ông trưởng thôn. Nhưng chẳng ai muốn làm trưởng thôn cho cả: những người
giàu có và khôn ngoan chỉ khoát tay: “Thôi tôi xin ông, tôi làm cái chức ấy để
làm gì kia chứ”? Giao chức vụ này cho một anh khố rách áo ôm nào đấy, chẳng có
gì để mà mất cả, thì người ta lại không muốn. Nghe đồn là ở vùng Xô-viết những
hạng cùng dân này, trước kia hiền lành là thế, mà bây giờ, chao ôi, sao láu lỉnh,
ngang ngược quá chừng.
Cuối cùng, chính các bà nông dân nhà ta đã
tìm ra người người thích đáng. Bà này rỉ tai bàn bạc với bà kia, rồi ít lâu sau
cả làng đã đồn ầm lên là chính ý Chúa muốn cho ông lão Afanaxi phải được bầu
làm trưởng thôn. Ông lão này đang sống yên ổn với hai người con dâu (con trai
ông đều tử trận trong cuộc chiến tranh chống Đức), ông không đi làm đồng, chỉ ở
nhà trông coi gà vịt, vườn tược và sai bảo, quát nắng con dâu đôi chút. Ông lão
hay xét nét, quở trách những chuyện vụn vặt. Hồi xưa ông ta đã từng tòng ngũ dưới
quyền tướng Xkôbêlev.
Ông lão Afanaxi lập tức nhận lời làm trưởng
thôn: “Cám ơn bà con đã có lòng trọng nể lão, nhưng đã thế thì đừng có thoái
thác nhé, lão sẽ bắt mọi người vâng lời lão”. Với bộ râu bạc chải rẽ ra hai bên
theo kiểu Xkôbêlev, với chiếc áo lông cừu thắt nịt rất thấp, ông lão chống cái
gậy hồ đào dài đi nơi này nơi nọ trong thôn xem thử có chuyện gì có thể chê bai
bắt bẻ không. Alekxêy mỗi lần gặp ông lão lại bỏ mũ và kính cẩn cúi chào. Ông
lão Afanaxi cau đôi lông mày dữ tợn xuống sát mắt rồi hỏi:
- Nào, anh cần gì?
- Cảm ơn cụ, cháu không cần gì đâu cụ ạ,
cháu vẫn như cũ thôi, buồn lắm.
- Mãi vẫn chưa thỏa thuận được với bà con à?
- Chỉ còn biết mong vào cụ nữa thôi,
Afanaxi Afanaxiêvits ạ... Giá có lúc nào rỗi cụ ghé nhà chơi...
- Thế có vinh dự cho anh quá không hả?
Alekxêy rốt cục vẫn lôi kéo được ông lão:
anh cho Matriôna đến gặp hai người con dâu của ông hỏi mua con ngỗng thật béo,
nói là ngày mai nhà có lễ thánh đặt tên, nhà chật không dám mời ai cả, nhưng có
ai vui lòng ghé chơi cũng mừng. Ông lão Afanaxi lại có cái tính tò mò. Bóng
hoàng hôn mùa đông vừa phủ lên xóm làng thì ông đã đến, ngôi nhà đốt lò sưởi
nóng ran, trải thảm suốt từ cửa vào cho đến cái bàn ăn bày biện sang trọng. Hồi
ấy nhà nào cũng thắp đóm gỗ nhựa hay thắp đèn mỡ, đốt một ngọn bấc thả vào cái
hộp sắt tây đựng đầy mỡ bò. Thế mà ở đây trên bàn ăn lại đặt cả một ngọn đèn dầu
hỏa sáng trưng.
Ông lão Afanaxii bước vào, vẻ nghiêm nghị
ra dáng một chức sắc. Trong khi bỏ mũ ông lão trông thấy cô Matriôna xinh đẹp -
môi mím chặt, đôi mắt đen láy sắc như dao, và cả cô kia nữa - người được ăn mừng
lễ thánh, người đang làm cho dân làng phải bàn tán xôn xao - cũng là một người
đàn bà rất xinh đẹp. Cả hai đều mặc áo dài kiểu thành thị, Matriôna mặc áo đỏ,
Katya mặc áo đen. Ông lão Afanaxi tháo khăn quàng cổ, cởi áo lông cừu và nhanh
nhẹn rẽ bộ râu ra hai bên.
- Nào, - lão nói, giọng hể hả, - kính chào
cả nhà.
Bốn người ngồi vào bàn. Alekxêy lấy ở dưới
chiếc ghế dài kê sát tường ra một chai vôđka thời Sa hoàng. Họ bắt đầu nói chuyện
vui vẻ.
- Afanaxi Afanaxiêvits, xin giới thiệu với
cụ người được ăn mừng lễ thánh hôm nay, là vợ chưa cưới của cháu, xin cụ rủ
lòng yêu thương.
- Thế à? Thương chứ, đàn bà là cần thương
yêu lắm. Cô nàng thân thế ra sao?
- Cô ấy là vợ góa của một sĩ quan. Trước
kia cháu làm cần vụ cho chồng cô ta.
- Thế cơ à! - ông lão cứ tấm tắc tỏ ý ngạc
nhiên: sẽ có khối chuyện để sau này sẽ kể lại cho các bà nghe. Vả lại bản thân
ông lão cũng muốn khoe khang. - Hồi lão được thưởng huân chương Ghêorghi ở
Plevna, tướng quân Xkôbêlev đã chỉ định lão làm cần vụ cho ngài... Ngài thường
phái lão đi dưới làn đạn và trái phá... Ngài nói: “Phi nhanh đi Afonka...”.
Chao ôi, ngài quý lão lắm! Thế ra... vợ chưa cưới của anh là người quý phái. Rồi
đây làm lụng ở chốn thôn quê này cũng hơi vất vả đấy...
- Công việc đồng áng không họp với cô ấy
đâu cụ ạ. Nhờ trời, nhà cháu cũng có đủ tiền thuê nhân công...
- Đã đành... Nào ta nâng cốc chúc sức khỏe
cô nàng, lấy rượu nồng chúc cho duyên ngọt.- Nốc cạn rượu, ông lão khà một tiếng,
nhanh nhẹn đưa bàn tay vuốt ngược bộ ria vàng vàng lên. - Như hai đứa con dâu
nhà tôi thì bị nặng năm pút cũng vác như bỡn. Thế mà lúc đầu khi chồng mới bị bắt
lính, chúng nó phải đảm đương công việc của đàn ông, thôi thì tha hồ mà rên la:
“Ôi, đau lưng quá, đau tay quá, đau chân quá!”. Chết cười! - ông lão bỗng cười
phá lên một cách ngu xuẩn. - Nhưng lão đây khéo trị bọn đàn bà lắm... Tướng
quân Xkôbêlev mới mệnh danh lão là ông vua của đàn bà...
Matriôna đứng phắt dậy. Cố giấu nụ cười, chị
đi ra sau tấm màn lấy con ngỗng rán. Katya ngồi im, mắt nhìn xuống, lặng lẽ
khiêm nhường. Alekxêy vừa rót rượu vừa nói, giọng tâm tình:
- Không phải vì thế mà chúng cháu tủi phiền
đâu, cụ Afanaxiêvits ạ. Cháu thì chỉ muốn làm lễ cưới ngay, ngày mai cũng được,
nhưng chả nhẽ cháu lại bắt cô dâu mới ở trong một cái chuồng chật hẹp như thế
này? Hai chị em bấy lâu nay vẫn nằm chung với nhau cái giường con, chật lắm...
Cháu thì ngủ giữa sàn trơ trụi... Thật tủi thân: dân làng đối với chúng cháu
như người lạ... Sao họ cố chấp thế? Để cái nhà dọc kia nằm trơ ra đấy chẳng được
cái tích sự gì. Nó mà chưa bị đốt cũng là chuyện tình cờ. Để như thế thì được ích
gì cho ai? Họ đợi lão công quay trở về cảm tạ họ chắc?
- Cũng có người suy tính thế, - ông lão vừa
nói vừa bẻ cái chân ngỗng.
- Quỷ còn dám trở về, chứ trang chủ thì
không đâu... Thôi được... Cháu sẽ mua dãy nhà dọc ấy, nộp tiền cho làng xã,
cháu sẽ chịu hết trách nhiệm... (Matriôna lườm Alekxêy một cái, anh ta đập
bàn). Tôi sẽ mua cho mà xem! Tôi không kiên nhẫn mãi được đâu... Chao ôi, thôi
nói làm gì... À, có cái này gọi là để kỷ niệm buổi họp mặt hôm nay. Matriôna, lấy
cái gói bọc vải ở dưới gối kia ra đây nào (Matriôna cau mày lắc lắc cái đầu).
Nào, đưa ra đây, đừng có tiếc của. Đời còn không tiếc nữa là...
Matriôna đưa ra. Alekxêy tháo miếng vải bọc
ngoài lấy ra một cái đồng hồ bằng bạc hun đen có chuông và có sợi dây chuyền bằng
thép. Anh ta lắc lắc cái đồng hồ, đưa lên tai nghe.
- Cái này cháu tình cờ mua được, như thể đã
biết trước là mua cho ai. Xin cụ cầm cho cháu được nhờ, cụ Afanaxiêvits ạ.
- Sao, anh hối lộ lão đấy à? - Ông lão
Afanaxi hỏi, vẻ nghiêm khắc. Tuy vậy tay ông lão cũng run run khi Alekxêy đặt
chiếc đồng hồ lên lòng bàn tay ông.
- Xin cụ đừng làm chúng cháu tủi thân,
Afanaxa Afanaxiêvits ạ, chúng cháu thành tâm biếu cụ... Chuyện vặt ấy mà! Cháu
có đến hai chục cái như thế, Matriôna đem rượu đi đổi lấy cả. Nhưng cái này nó
quý ở như cái chuông ấy. Tảng sáng cụ chẳng việc gì phải nghe gà gáy. Đi ngủ, cụ
cứ ấn cái lò xo này, là đến sáng nó sẽ reo chuông; cụ cứ đi ủng vào mà ra xem
gia súc.
- Chà! - Ông lão Afanaxi nói, cái miệng há
hốc để lộ mấy cái răng thưa thớt còn sót lại, - chà phải đánh thức mấy con ranh
dậy chứ! Từ rày hai con mẹ bị thịt đừng hòng ngủ quên nữa!
Ông lão quấn khăn quàng vào cái cổ nổi gân
xanh, mặc áo da cừu vào và lảo đảo ra về. Matriôna vặn nhỏ đèn lại, ngồi rửa
bát đĩa với Katya sau tấm màn. Alekxêy ngồi ở bàn ăn.
- Không biết vì cái rượu cũ này nó mạnh quá
hay vì đã lâu mình không uống. - Anh ta nói khe khẽ. - Matriôna, có gì ra xem mấy
con ngựa một chút.
Matriôna không đáp, cứ như thể chẳng nghe
thấy gì. Một lát sau chị nhìn Katya cười tủm tỉm.
- Chịu thôi, tôi không tài nào hiểu nổi.
Không biết cô ghê sợ chúng tôi hay cô hoàn toàn ngây dại... - Alekxêy lại nói.
Matriôna quắc mắt ra hiệu cho Katya đừng trả
lời. Má nàng đỏ bừng bừng.
- Ít ra cô cũng phải khóc lên chứ, nhỉ...
Nói có trời đất, đây là lần đầu tiên tôi gặp những người như thế đấy. Người ta
giới thiệu mình, mà mình cũng chẳng buồn nhúc nhích, cứ ngồi im thin thít, mắt
nhìn xuống... Chả hiểu ra làm sao nữa... đúng là một cô gái thủy cung, thật đấy...
Matriôna! - anh ta cất tiếng gọi. - Cô ấy chẳng hiểu là trẻ con trong làng cứ
chỉ trỏ mình. “Ấy, chú Alekxêy chở cô ấy lên xe mang về, chú ấy đánh bài với
Makhnô mà được cô ấy đấy”... Cô ấy chẳng coi vào đâu... Nhưng tôi xót lắm chứ!
- Anh ta điên tiết quát lên. - Bây giờ họ phải biết đây là vợ chưa cưới của
tôi!
Katya tái mặt đi. Tay cầm cái khăn và cái
đĩa, nàng toan ra, thì Matriôna đã giữ lấy vai kéo nàng lại.
- Bây giờ chúng tôi đã biết xử xự với đời
sao cho phải lẽ rồi... Tôi giết người lần đầu là năm chín trăm mười bốn. -
Alekxêy cười gằn. - Tôi đang ngồi rình thì có một thằng Đức bò lại, ngỏng đầu
lên, tôi đoàng một phát, thế là hắn lăn nghiêng ra. Tôi cứ đợi xem hồn nó có
bay ra không? Tôi đã giết nhiều người mà chẳng thấy được linh hồn một người nào
cả... Thôi cũng xin đủ, cảm ơn công dạy dỗ... Trên đống tro tàn chúng tôi sẽ dựng
nhà: cái đầu tiên thì bằng gỗ, cái thứ hai bằng đá, cái thứ ba thì lợp vàng...
không được đâu, Êkatêrina Đmitrievna ạ, cô dùng cái chính sách ấy với tôi không
phải chút nào. Tôi có cưỡng ép cô ở lại đâu, nếu cô thấy tôi đáng ghét, đáng
ghê tởm, thì cô cứ bỏ đi quách cho xong. Vợ chưa cưới! Làm thằng chồng chưa cưới
như tôi thì chẳng mong lấy được chút gì vui sướng...
Matriôna đưa đôi môi lướt nhanh trên má
Katya và nói khẽ vào tai nàng: “Cái lão gàn ấy say đấy, đừng nghe!”.
Katya vắt cái khăn lên sợi dây chăng ngang nhà và ra ngoài tấm màn. Alekxêy ngồi
quay một bên sườn vào bàn, hai chân bắt chéo, một tay chống khuỷu lên bàn, tay
kia, to và trông như phù lên vì xuống máu, buông thõng trên đùi. Đôi mắt sâu hoắm
của anh ta nhìn thẳng vào Katya. Nàng ngồi xuống một chiếc ghế đẩu đặt trước mặt
Alekxêy. Đôi mắt đang nhìn nàng đăm đăm không phải là đôi mắt của một người
say. Nàng cụp mắt nhìn xuống đất.
- Alekxêy Ivanôvits ạ, đáng lẽ chúng ta phải
nói chuyện với nhau từ lâu... Tôi xưa nay vẫn coi anh là người rất tốt. Suốt thời
gian chúng ta sống cuộc đời nay trận mai mạc như vừa qua, tôi thấy anh bao giờ
cũng một lòng nhân hậu chân chính. Tôi đã đem lòng quý mến anh... Những điều
anh nói hôm nay chẳng có gì phải lấy làm lạ, tôi đã liệu trước từ lâu...
Alekxêy Ivanôvits ạ, khi về đến đây đã có một điều gì đó xảy ra... Về đây, anh
đã thành một con người khác...
Alekxêy thấy cổ khản đặc. Anh đằng hắng một
cái rồi hỏi:
- Khác là thế nào? Ba mươi năm trường tôi vẫn
thế, rồi bây giờ bỗng dưng nó khác đi ư?
- Alekxêy Ivanôvits ạ, đời tôi trước kia
như một giấc ngủ li bì không lúc nào thức tỉnh... Thế đấy... Trước kia tôi là một
con vật vô dụng nuôi trong nhà... Phải, người ta cũng yêu quý tôi - nhưng thế rồi
sao nữa! - một chút kinh tởm, một chút tuyệt vọng... khi quanh tôi chiến tranh
bùng nổ, tôi đã tỉnh dậy và trông thấy chết chóc, đổ vỡ, đau khổ, trốn tránh,
đói khát... Con vật vô dụng nuôi trong nhà chỉ còn một cách là kêu rên một chút
rồi chết mà thôi... Lẽ ra cơ sự nó đã diễn ra đúng như thế... Nhưng Vađim đã cứu
tôi... Nghe anh ấy nói, tôi đã tin rằng tình yêu của chúng tôi là tất cả ý
nghĩa của cuộc đời... Nhưng anh ấy chỉ đi tìm sự trả thù, sự hủy diệt... Thế mà
anh ấy lại là người trung hậu! Tôi không hiểu nổi... (Nàng ngẩng đầu lên nhìn
ngọn lửa vặn thấp trên cây đèn bằng sắt tây treo trên bàn) Vađim đã chết... và
anh đã nhặt tôi về...
- Nhặt về! - Alekxêy cười nhạt, mắt vẫn
không rời nàng. - Dễ cô là con mèo chắc...
- Đúng thế đấy, Alekxêy Ivanôvits ạ...
Nhưng bây giờ tôi không muốn thế nữa... Trước đây tôi cũng chẳng tốt mà cũng chẳng
xấu, chẳng ra người Nga mà cũng chẳng ra người ngoại quốc... Con gái thủy tề
mà. - Hai bên mép nàng nhích lên, ranh mãnh. Alekxêy cau mày. - Rốt cục té ra
tôi chỉ là một mụ đàn bà Nga tầm thường... Và bây giờ tôi sẽ mãi mãi như thế...
Ở với anh tôi đã được nhìn thấy nhiều điều khổ tâm, nhiều điều khủng khiếp...
Tôi đã qua được, tôi không kêu rên... Tôi còn nhớ một buổi tối... các xe giàn
đã tháo ngựa, các kỵ binh lục tục kéo về... Quanh nồi xúp đang sôi sùng sục
quây quần cả một tốp người ồn ào, khích động...
- Cô ấy vẫn nhớ đấy, Matriôna kìa...
- Quanh nồi xúp mỗi lúc một đông... Mỗi người
tả lại những nhát gươm đặc sắc của mình, nào là chém bay đầu tên địch ra sao,
nào đã lao thẳng vào lần nữa và giáp lá cà với địch như thế nào... Chắc họ cũng
bịa đặt ra nhiều - Nhưng trong đó có một cái gì mạnh mẽ và lớn lao.
- Matriôna ạ cô ấy nhớ lại chuyện gì có biết
không? Trận đánh quân Đức ở ấp Verkhni đấy... Trận ấy chúa thật...
- Tôi còn nhớ lúc anh ở trên xe tatsanka nhảy
xuống. Tôi sợ sệt không dám đến gần anh... - Katya im lặng một lát, đôi đồng tử
mở rộng như đang nhìn vào một nơi xa xăm lắm. - Đấy, trước kia nó là thế... khi
chúng ta về đây, tôi nghĩ bụng: trước mắt tôi là một cuộc sống rộng lớn...
Không phải trên một miếng đất nhỏ hẹp - đây chỉ có mấy con lợn con, mấy con gà,
một thửa vườn rau, bên ngoài là một dãy rào kín mít... và những ngày xám xịt
không có lấy một tia hy vọng... (Katya cau trán - cái trí tuệ nghèo nàn của
nàng muốn diễn đạt cái cảm giác lớn lao, hữu hình mà nàng đã từng thể nghiệm
trên thảo nguyên, nhưng không sao nói lên được) Khi chúng ta về dến đây, tôi cứ
có cảm giác như vừa tan hội về... Hôm nay anh tuyên bố tôi là vợ chưa cưới của
anh và nói như vậy một cách có suy tính. Đấy, thế là hết. Sau nữa sẽ thế nào? Đẻ
con. Anh sẽ xây nhà, chẳng bao lâu nữa sẽ khá giả, rồi sẽ giàu có... Những điều
đó tôi đều đã từng biết, những điều đó tôi đều đã bỏ lại bên kia... Nó đã diễn
ra ở Pêterburg, đã diễn ra ở Moxkva, đã diễn ra ở Pari, bây giờ nó lại bắt đầu
diễn ra một lần nữa ở làng Vlađimirxkôiê...
Trong đôi tay nàng buông thõng trên đầu gối,
trong mái đầu nghiêng nghiêng của nàng với đường ngôi rõ nét trên bộ tóc ấm áp
màu nâu đỏ như màu tro nóng, chứa chất một nỗi buồn da diết đến nỗi Alekxêy phải
nhắm nghiền mắt lại... Con chim lửa đã bay đi rồi, anh không biết cách nào nắm
giữ nó lại...
- Cô dại dột lắm Êkatêrina Đmitrievna ạ, - anh
nói khẽ. - Đầu óc cô cứ rối tung lên như mớ bòng bong... Chắc cũng như chú
Xêmiôn nhà tôi rồi. Cô muốn tắm trong máu hẳn?... Câu chuyện cô vừa nói tôi thấy
nó lạ quá... Không, dù sao thì tôi cũng không buông cô ra đâu...
-----------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét