Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2019

Con Đường Đau Khổ - Tập III (tiếp)

Con Đường Đau Khổ - Tập III

Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976

Tập III - Buổi Sáng Ảm Đạm

Sống chiến thắng hay chết vinh quang...
(Xvyatoxlav)       

13

Ivan Ilyits và Đasa đã về trung đoàn, ở một ngôi nhà nhỏ vách đất trong một khu trại. Phòng tiếp khách của Têlêghin, có mấy cái máy điện thoại, một thùng đựng tiền và một lá cờ bọc trong bao; kề bên phòng ngủ, chỉ cách một gian lót nhỏ. Gian phòng ngủ này là giang sơn của Đasa: một cái lò sưởi, không dùng để nấu nướng gì, mà để Đasa tắm theo cái kiểu mà mấy cô gái cô-dắc đã dạy cho nàng: nàng chui vào trong, ngồi trên lớp rạ trải ở đáy lò mà tắm; một cái giường có hai chiếc gối cứng và một tấm chăn mỏng (Ivan Ilyits đắp áo khoác) một cái bàn trải tấm vải sạch, dùng làm bàn ăn; một tấm gương treo trên vách; một cái chổi đặt ở ngưỡng cửa, và trong một cái ô lõm ở thành lò sưởi trát vữa, Đasa đặt con mèo và con chó bằng sứ.
Hai năm về trước, Đasa và Ivan Ilyits cũng đã từng dọn nhà ở chung như thế này trong khi đang yêu nhau tha thiết, say mê. Đasa không bao giờ quên được buổi tối đầu tiên trong căn nhà trẻ trung của họ với những khung cửa sổ trông ra đại lộ Kamenny-Oxtrôv ướt đẫm sau cơn mưa: nàng đang ở trong cái tâm trạng thanh thản và xán lạn của một thiếu nữ. Ivan Ilyits ngồi bên cửa sổ trong bóng hoàng hôn. Nàng thấy rõ chàng bối rối đến mức khổ sở, và nàng đã chủ động nói trước: biết rằng mình sẽ làm cho người yêu vui sướng vô cùng, nàng bảo chàng: “Anh Ivan, vào với em đi”. Họ cùng đi vào buồng ngủ, trên sàn có đặt một cái bình cắm cả một bó lớn những bông hoa trinh nữ tỏa ra một mùi hương dịu ngọt. Đasa mở cửa tủ ra, nấp sau cánh cửa tủ cởi quần áo, chân không chạy qua phòng, chui vào chăn và hỏi nhanh: “Ivan, anh có yêu em không?”.
Đasa chẳng có chút hiểu biết gì về những chuyện yêu đương, tuy nàng quan tâm đến những chuyện ấy nhiều hơn mức cần thiết. Những điều diễn ra tối hôm ấy, giữa nàng và Ivan Ilyits đã làm cho Đasa thất vọng. Té ra nó không giống như cái mà người ta đã viết ra biết bao nhiêu là thơ, văn và nhạc để miêu tả và ca ngợi - cái sức mạnh huyền diệu đã gây nên những niềm hân hoan và những giọt nước mắt những khi Đasa ngồi trong căn nhà trống trải của Katya trước cây dương cầm “Steinway” đen nhánh và bỗng ngừng bặt cung đàn, đứng dậy, lồng mười ngón tay vào nhau: giả thử trong những phút ấy toàn thân nàng không mát lạnh và trong suốt như thủy tinh, thì những cái gì đang cuộn lên và sôi sục trong người nàng sẽ làm cho nàng chết ngạt mất.
Dạo ấy, chỉ lấy nhau được ít lâu Đasa đã có mang. Nàng yêu Ivan Ilyits lắm, nhưng vẫn xua đuổi chàng. Sau đó bắt đầu những tháng khủng khiếp - cảnh đói khổ và tối tăm của mùa thu Pêtrôgrađ, cái sự biến kỳ quặc ở Kênh Lêbyajya đã làm cho nàng đẻ non, cái chết của đứa con và ý nguyện duy nhất của nàng: đừng sống nữa. Rồi sau đó là cuộc chia ly.
Bây giờ tất cả lại bắt đầu từ đầu. Tình cảm của họ phức tạp hơn và sâu hơn cái trạng thái si mê hồi ấy, trong đó cái gì cũng có vẻ như những câu đố và những mật hiệu, giống như trong một cái hộp thần kỳ sơn màu rực rỡ đựng những quà tặng mà chẳng ai đoán được là quà gì. Cả hai người đã cảm xúc và thể nghiệm rất nhiều, và chưa có thì giờ kể lại cho nhau nghe chút gì trong những cảm xúc ấy. Bây giờ, đặc biệt là đối với Đasa, tình yêu của họ trọn vẹn và hữu hình như không khí tiết đầu đông, khi những cơn bão tháng một đã tan đi và trong cõi im lặng giá lạnh và nhẹ lâng lâng, tuyết đầu mùa tỏa ra một mùi dưa hấu mới bổ. Ivan Ilyits cái gì cũng biết, cái gì cũng làm được, cái gì cũng giải đáp trôi chảy, mối nghi hoặc nào cũng giải quyết xong xuôi. Và cái hộp thần kỳ sơn màu rực rỡ lại hiện lên trước mắt Đasa, nhưng bây giờ trong hộp không phải là những cảm giác bất kham, tự tồn tự mãn, không phải là những câu đố và những ám hiệu nữa: những món quà đựng trong chiếc hộp thần kỳ này là những niềm vui và nỗi buồn của cuộc sống khắc khổ, gian truân.
Trong Ivan Ilyits có một điều nà Đasa không hiểu được thật rõ và thậm chí còn lấy làm buồn phiền nữa: đó là sự dè dặt của chàng. Tối tối, mỗi khi đi ngủ Ivan Ilyits lại trở nên đăm chiêu tư lự: chàng bắt đầu tránh nhìn Đasa, trong khi cởi ủng chàng ho húng hắng, và đôi khi cởi ủng xong, chàng nói: “Đasa, em của anh, em ngủ đi nhé” - và đi chân không qua phòng lót để sang phòng làm việc; khi trở về chàng đi rón rén và thận trọng nằm xuống mép ngoài giường, cố sao cho giường đừng két lên, rồi kéo chiếc áo khoác lên trùm kín đầu và ngủ thiếp đi ngay.
Nhưng ban ngày thì chàng vui vẻ, yêu đời, hoạt bát, hồng hào; chàng chạy đi chạy về, hôn vào má, vào mái tóc màu tro ấm áp, dễ thương của nàng.
- Chào em lần nữa, Đasa, bà chỉ huy yêu dấu... Thế nào - ổn cả chứ?
Chàng hỏi han như thế mỗi ngày đến ba chục lần. Dạo ấy chính ủy Ivan Gora có giao cho nàng tổ chức một đội kịch tự túc của trung đoàn.
Đasa hoảng quá, toan từ chối: “Lạy chúa, tôi có hiểu gì về việc này đâu!”. Ivan Gora vỗ vỗ lên tay nàng:
- Cô sẽ làm được, cô bạn ạ, có sai sót thì rút kinh nghiệm dần dần. Những việc khó hơn nhiều cô còn làm được nữa là. Chỉ cốt sao lôi anh em ra khỏi cảnh sống hàng ngày đơn điệu này. Cô hãy tìm một cái gì thật cách mạng, thật tâm tình, sao cho mắt các chiến sĩ phải nẩy lửa lên.
Chính ủy rất nóng lòng tổ chức đội kịch này. Trung đoàn Katsalinxki, sau khi đã được bổ sung quân số và đã được trang phục lại bằng những vật tư nghèo nàn của kho quân trang Txaritxyn, đang chuẩn bị gấp rút để ra chiến tuyến. Tuy hàng ngày phải thao luyện rất mệt, lại phải học chính trị mỗi ngày hai tiếng, các chiến sĩ quá sung sức vì được ăn uống đầy đủ ở cái khu ấp trại trù phú này, vẫn giở trò quấy phá. Một cuộc mít tinh liền được triệu tập.
Trong buổi mít tinh, Xerghêy Xerghêyêvits Xapôjkôv đã lên tiếng phát biểu ý kiến. Sau bấy nhiêu năm im lặng, anh rất nóng lòng chờ đợi có dịp bộc lộ trước quần chúng, ném ra giữa thế giới cái mớ tư tưởng đang chứa chất trong tâm can. Anh nói về phương hướng cách mạng của sân khấu, chủ trương thủ tiêu mọi ranh giới giữa người diễn và người xem, anh nói về kịch tương lai sẽ diễn ra ngoài trời hay trong những diễn trường vòng tròn khổng lồ chứa được năm vạn khán giả, trong đó sẽ có hàng trung đoàn tham gia diễn xuất, sẽ bắn đại bác, thả khinh khí cầu, thiết bị những thác nước đổ ầm ầm như thật, và nhân vật không còn là những vai đơn độc nữa, mà là quần chúng.
- Các người ở đâu, hỡi các nhà soạn kịch của tương lai? - Xapôjkôv hỏi đám chiến sĩ hồng quân, hai tay vung mạnh như muốn bay lên tận mấy thanh xà của cái lán. Các chiến sĩ vui vẻ lắng nghe anh nói, tuy lời lẽ của anh có nhiều chỗ mờ mịt, và anh xâu ý này vào ý khác một cách quá mau lẹ. - Các người ở đâu, hỡi các kịch tác gia của thời đại vĩ đại vô song của chúng ta? Hỡi những Sêkxpir mới, những Xôfôclơ đã rời bệ cẩm thạch bước xuống để chia xẻ với chúng ta bữa tiệc lớn của nghệ thuật, của sáng tạo! Đã có bao giờ con người được bộc lộ trọn vẹn trước mắt các người bây giờ chưa? Đã có bao giờ lịch sử làm nẩy sinh ra những tư tưởng phong phú như bây giờ chưa?
Dĩ nhiên sau những lời phát biểu như vậy Đasa đâm hoảng thực sự. Nhưng chẳng có cách gì thoái thác được nữa rồi.
Nàng đi với Xapojkôv lên Txaritxyn để xin vở, xin vải, xin thuốc vẽ, rốt cục cũng kiếm được ít nhiều. Xapôjkôv khuyên bảo, chỉ vẻ cho nàng nhiều điều bổ ích, và còn nhiều hơn nữa là những lời khuyên bảo điên rồ. Họ quyết định chọn ngay diễn viên và lập tức bắt đầu tập vở “Những người đạo tặc” của Siller, không cần chuẩn bị lôi thôi gì nữa.
Têlêghin mừng quýnh lên, chủ yếu không phải vì sắp dựng “Những người đạo tặc”, mà là vì Đasa bây giờ đã tìm được một việc để mà làm, say sưa với công việc đó, lăng xăng chạy đi chạy lại, nói chuyện với anh em chiến sĩ, thỉnh thoảng nổi khùng, đôi khi phát khóc lên vì bực mình và cứ cái đà này thì sẽ không còn quay trở về (như chàng vẫn nghĩ một cách thật thà) cái trạng thái tập trung căng thẳng vào những cảm nghĩ riêng tư của bản thân nữa.
Chiểu theo một tờ lệnh của trung đoàn, một đội kịch được thành lập, gồm có Agrippina, Anixya, Latughin (anh ta đã đến gặp chính ủy để xin được tham gia công việc này), Kuzma Kuzmits Baikôv và mấy chiến sĩ hồng quân nữa, biết kéo phong cầm, biết đánh balalaika và biết hát.
Một tối nọ, trong căn nhà lán, Đasa đã đọc vở cho các diễn viên nghe dưới ánh sáng tù mù của mẩu nến, mặt các diễn viên hiện lên mờ mờ trong làn hơi thở tỏa ra như sương mù quanh họ. Gió nổi lên, lùa tuyết vào các khe hở trên cánh cửa. Đasa đọc bằng một giọng trong trẻo, sáng sủa, cố nhớ lại cách đọc của Bexxônôv ngày xưa để bắt chước: dạo ấy mỗi khi đọc Bexxônôv lại luồn một bàn tay vào ức chiếc áo đuôi én màu đen, giọng đọc cách vời thoát ra ngoài cuộc sống, và những từ ngữ, như những hòn băng, được các nữ sĩ ngồi trên những chiếc ghế bành đặt xung quanh vừa thở hổn hển vừa khát khao nuốt lấy.
Mới đọc được nửa vở Đasa đã hiểu ngay rằng vở kịch không được ưa thích, tuy nàng đã bớt đi từng đoạn dài. Gần đến cuối, Đasa hối hả đọc thật nhanh. Vở kịch đọc xong, nàng nói sau một phút im lặng nặng nề:
- Đấy, vừa rồi là vở “Đạo tặc” của Siller mà ta sẽ dựng...
Mấy người đàn ông châm thuốc hút. Latughin nói khe khẽ:
- Có vẻ trí tuệ nhỉ.
Lúc bấy giờ Kuzma Kuzmits lấy trong túi ra một mẩu nến mới, thắp lên và đến ngồi cạnh Đasa.
- Các đồng chí ạ. Đarya Đmitrievna vừa giới thiệu tác phẩm với các đồng chí, còn bây giờ tôi xin đọc nó lên.
Cầm lấy cuốn sách trong tay Đasa, ông ta bắt đầu đọc to, dùng giọng nói và vẻ mặt khi thì mô tả nỗi đau khổ của lão bá tước Moor trước tội ác của con, khi thì rít lên phè phè như rắn độc, mũi ông ta rúm ró lại, hai tròng đen đưa hẳn sang một bên:
“... Ta sẽ là một kẻ nhu nhược thảm hại, nếu ta không rứt được đứa con trai yêu dấu ra khỏi tấm lòng cha này, dù cho có những sợi xích sắt buộc nó vào tim ta... Ôi, lương tâm! Chẳng qua là thằng bù nhìn dọa chim sẻ... Khôn sống mống chết, kẻ nào nổi được thì cứ nổi, kẻ nào nặng thì cứ chìm...”
Và người nghe được trông thấy tận mắt con rắn độc Frantx Moor. Nhưng rồi giọng Kuzma Kuzmits mạnh lên, ông lấy tay xoa bù mái tóc cho lấp chỗ hói đi, đôi môi vều ra một cách dễ sợ, đôi mắt sáng quắc lên vì một niềm phẫn nộ cao quý:
“Ôi, người đời, người đời! Ôi, những đứa con xảo trá, nham hiểm của loài cá sấu! Miệng thì hôn mà tay cầm dao găm... Địa ngục và trăm ngàn quỷ sứ! Hãy bùng lên thành ngọn lửa, hỡi lòng kiên nhẫn của trang nam nhi cao quý, hãy biến thành con hổ dữ, hỡi con cừu non hiền lành...”
Anixya Nazarôva chốc chốc lại khẽ ồ lên một tiếng: Latughin chồm hẳn người vào ngọn nến đang soi sáng cuốn sách diệu kỳ trên đó cái móng tay của Kuzma Kuzmits đang lần theo từng dòng chữ. Đích thân Karl Moor đang gầm thét trong căn nhà lán - một con người nổi loạn, được những người nghe xúc động thông cảm sâu sắc. Mà anh ta đã tìm được những lời lẽ thống thiết biết bao để kể lại những nỗi tủi hờn của mình. Kịch như thế mới là kịch chứ, nó đi thẳng vào cội gốc của vấn đề!
Khi mẩu nến đã cháy hết và Kuzma Kuzmits lấy một giọng trầm trầm, ảm đạm, nói những lời cuối cùng của Karl trong khi đi ra pháp trường chịu nhục hình khủng khiếp và nhớ tới người cố nông nghèo khổ, Anixya và Agrippina đưa cánh tay áo ca-pốt lên quệt nước mắt. Latughin nói: “Vở kịch chân thực quá!”. Rồi mọi người đều đồng tình nhận rằng Karl giết nàng Amalya mà anh yêu dấu trong một lúc nóng nẩy như vậy là không phải, lẽ ra phải đưa nàng vào đảng cướp, phải rèn luyện, cải tạo nàng. Ở chỗ này phải chữa lại Siller, nếu không thì chỉ vì một chi tiết nhỏ nhặt như vậy mà một vở kịch hay sẽ không được anh em chiến sĩ tán thưởng, thậm chí còn có thể có những hậu quả có hại đối với họ. Ngay tại chỗ, họ quyết định là không để cho Amalya bị đâm chết, trái lại, Karl sẽ nói với nàng: “Về đi, con người khốn khổ kia!”, và nàng sẽ vừa bước đi vừa khóc nức nở.
Anixya được giao đóng vai Amalya, vai Karl thì Latughin xung phong nhận. Họ định để Baikôv đóng tên Frantx đê hèn và độc ác, nhưng rồi lại sợ anh ta không tự chủ được quay ra làm trò hề, các chiến sĩ mà trông thấy bộ râu của anh ta thì thế nào cũng cười ồ lên mất. Họ bàn quyết định là vai này sẽ do Kuzma Kuzmits đóng, và để cho ông ta trẻ thêm, họ buộc ông ta phải cạo nhẵn râu đi. Vai lão bá tước Măcximilian fon Moor thì phân cho Vanin, một chiến sĩ có giọng trầm dõng dạc, các vai khác thì chia cho Agrippina và mấy chiến sĩ trẻ. Có ai đem một bó xơ gai và dầu hỏa đến. Trong lán sáng hẳn lên vì khói thuốc. Họ bắt đầu tập luôn tại chỗ.
Mãi đến gần sáng Đasa mới về nhà, và còn kể mãi hồi lâu cho Ivan Ilyits nghe. Hai chân đã tháo bít tất, mình khoác chiếc áo ca-pốt, chàng ngồi trên giường cười ha hả, đến chảy cả nước mắt...
- Latughin đóng Karl Moor à? (chàng phì ra một tiếng và cứ thế ôm bụng cười ngất) Ôi, không thể chịu được... Thế em có biết tại sao anh ta xung phong nhận vai Karl Moor không? Chả là anh ta đang theo đuổi Anixya mà... Trong khi đó thì Saryghin đã phát nguyện moi gan anh ta ra đấy... Thế còn Kuzma Kuzmits? Đóng Frantx à? Ông ấy thì đóng được đấy...Thế họ sẽ trang phục như thế nào, chả nhẽ mặc quân phục mà đóng à? Anh sẽ bảo anh trưởng ban quản trị đi tìm. Ở trại bên kia vừa có một anh trạng sư nào đấy ở Petrôgrad xách mấy cái va ly về... Sẽ đến mượn anh ta mấy cái áo đuôi tôm và áo lễ phục...
- Anh thì cứ cười suốt làm người ta chả buồn kể gì nữa. Buông ra nào, - Đasa chui vào chăn nằm nép sát vào vách, quay lưng ra ngoài. Khi chàng thận trọng nhém chăn lại cho nàng và đắp thêm cái áo khoác lên chân nàng, vì lò sưởi đã nguội lạnh và trong nhà hơi rét, Đasa nói, giọng buồn ngủ:
- Sẽ ổn hết.
Trong trung đoàn bây giờ chỉ thấy bàn toàn chuyện kịch cọt. Xapôjkôv có báo cáo cho chiến sĩ nghe một buổi về văn học Đức thời kỳ “Bão tố và xung kích”, anh so sánh các bậc thiên tài sôi nổi thời ấy - Siller, Gơtơ, Klinger - với những con đại bàng non được những ánh chớp giật của cuộc cách mạng Pháp vĩ đại thức tỉnh. Xapôjkôv bị cử tọa hỏi dồn dập đến nỗi anh phải hứa báo cáo thêm một loạt buổi nữa về lịch sử hậu kỳ thế kỷ XVIII. Anh ngồi suốt đêm dưới ngọn đèn dầu khói bốc nghi ngút, cây bút chì ngoáy lia lịa, cố nặn ký ức ra mà ghi, vì sách vở chẳng có, anh đành phải lấy nguồn cảm hứng trong khói thuốc lá mộc. Trong các buổi báo cáo của anh, những câu hỏi tới tấp dội vào đầu anh như đất đá lở đồi: cái gì anh em cũng muốn biết. Hễ nhắc đến cái gì là họ đòi phải nói cặn kẽ. Anh lỡ lời nói hở phong trào Tháng Chạp ra, thế là rốt cục phải kể lại cuộc khởi nghĩa này từ đầu chí cuối.
Các chiến sĩ hồng quân ngồi nghe Xapôjkôv nói suốt mấy giờ liền, quên cả mệt mỏi. Có người ngủ gà ngủ vịt một lát rồi lại choàng dậy nghe... Họ mê mải với câu chuyện thời xưa nói về cái đất nước xa xôi kia, nơi có những con người cũng giống như họ đây, đã chụp lên ngọn dáo chiếc mũ đỏ Phrygi biểu trưng của cách mạng, một mình đứng lên chống lại cả thế giới cũ. Bụng đói meo, chân chẳng có giày dép, họ đã nghĩ ra một chiến thuật mới để giành lấy thắng lợi.
Và sau thắng lợi, họ lại bị những con người mà họ đã không biết chém đầu ngay từ trước phản bội và trói chân trói tay lại.
- Ôi, Măcximiliêng Rôbexpier, Măcximiliêng Rôbexpier! - Xapôjkôv kêu lên, giọng vỡ và khản đặc. - Lẽ ra người có thể thắng, có thể cứu được cách mạng. Cái ngày oan nghiệt của ngươi là cái ngày ngươi đã giật lá cờ đen của Công xã trên tòa thị chính Pari xuống.
Gà đã gáy eo óc trong các sân nhà. Chính ủy Ivan Gora đến, nói ồm ồm:
- Các đồng chí, chỉ còn ba tiếng nữa là kèn báo thức.
Đang nhắc vở, Đasa cắt ngang:
- Xtốp! Đồng chí Vanin, vai của đồng chí như người chết rồi ấy. Không nên cố ý ho thế, sao lại tự nhiên chủ nghĩa một cách khó chịu như vậy nhỉ? Phải nhiệt tình hơn, chân thành hơn... Nào. lại từ đầu.
Trong số sách báo đưa từ Txaritxyn về, Đasa vớ được một tờ tạp chí sân khấu có bài: “Vì không có giấy ấn, phải viết giấy thường”, đầy những lời nhiếc móc Nhà hát nghệ thuật. Tác giả nhắc nhở các nhà bi kịch Nga vĩ đại đã làm rung chuyển khối óc và con tim của khán giả với một thiên tài hầu như man dại. Lúc bấy giờ sân khấu là một ngôi đền đa thần, tấm màn giống như tấm mạng huyền bí của Tanita. Than ôi, nòi giống khổng lồ của giới bi kịch đã tuyệt diệu và hậu duệ cuối cùng của nó, Mamônt Đalxki, đã đổi đôi hài của kịch trường lấy một bộ bài xì. Những con người vĩ đại có sức lay chuyển lòng người đã nhường chỗ cho nhà đạo diễn, một tiên sinh thông thái, trình bày cho công chúng xem không phải là một tâm hồn người được phanh phui ra trước mặt họ, mà là một tâm trạng riêng tây, mấy tấm rèm rung rinh, những cánh cửa thật và tiếng muỗi vo ve... “Không! - tác giả kêu lên như vậy, - kịch chân chính là con quái vật lông lá của những dục vọng và những cảm xúc điên cuồng!”. Trong bài báo này Đasa cũng gạch đáy mấy nhận xét có tính chất thực tiễn, có thể giúp nàng hướng dẫn các buổi diễn tập.
Latughin và Anixya ngồi trong xó đợi đến lượt mình ra. Qua mấy ngày nay mặt Anixya xọp hẳn đi. Còn phải nói! Đặt hẳn mình vào cuộc đời của một người khác có phải dễ gì đâu? Anixya ăn chẳng thấy ngon nữa, thậm chí trông thấy thức ăn là sợ. Chị cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi: làm thế nào để đóng Amalya cho thật? - và cuối cùng chị đã tìm ra một lối thoát khi trông thấy một bức minh họa trong sách vẽ tiểu thư Amalya mặc chiếc áo dài rộng (nàng đang buồn, má tì lên bàn tay). Anixya ngắm nghía bức tranh rất lâu, chốc chốc lại thở dài, thốt lên: đấy, hồi nào, trong một nỗi buồn còn cay cực hơn nhiều, mình cất bước lảo đảo đi vật vờ từ làng này sang làng khác, mắt lòa đi vì nước mắt, ngã tay ra xin từng mẩu bánh mì thiu... Không, họ vẽ thế này chẳng đúng... Ví thử nàng Amalya, dù sống trong nhung lụa đi nữa, mà phải chịu nông nổi của Anixya, nàng phải vặn đôi tay trong chiếc bao tay ngắn viền đăng ten như thế này chứ, mắt nàng phải ngước lên như thế này chứ! Cứ như thế Amalya phon Êfđelraif, người yêu của Karl Moor, dần dần chuyển thành Anixya. Hôm qua, trong buổi diễn tập, mọi người thậm chí đã lặng người đi khi chị bỏ cái mũ chụp có đính ngôi sao bằng vải đỏ ra và đưa tay lên vuốt mái tóc xõa tung, rồi ngồi lên chiếc ghế đẩu, nói như thổ lộ tâm tình:
“Ôi, vì Chúa! Vì tất cả những tấm lòng từ ái! Tôi không cần tình yêu nữa... Tôi chỉ cầu xin được chết mà thôi... Tôi đã bị hắt hủi, tôi đã bị ruồng bỏ rồi. Anh có hiểu hết chăng mấy tiếng “bị ruồng bỏ” khủng khiếp ấy?”
Sáng nay ở thao trường Anixya đã bị trung đội trưởng phạt, bắt phải làm thêm một loạt thao tác ngoài chương trình, vì tội đã hoàn toàn không chú ý gì đến buổi luyện tập; chính ủy phải can thiệp mới xin miễn cho chị hình phạt ấy, chỉ đưa ra phê bình nghiêm khắc mà thôi. Giờ đây chị ngồi khép nép bên cạnh Latughin, đôi mắt to màu xanh mơ màng nhìn đi mãi tận đâu, đôi môi khi cười nụ, khi thì run rẩy, mấp máy thì thầm.
- Hồi trước ở quê tôi có chị Xaxa, một cô gái có đôi mắt trong vắt, - Latughin nói khẽ với chị - hồi ấy tôi mười bốn tuổi, Xaxa mười bảy. Không biết có phải vì chị ấy có một dáng đi đặc biệt không, nhưng mỗi khi chị ấy ra đồng trở về với mấy cô gái làng, vai khoác chiếc khăn vuông, mình mặc chiếc áo cộc màu hoàng yến, vai vác cái cào, tôi cứ có cảm giác như chị ấy sắp đến nép sát vào người mình... Họ đã bán gả Xaxa cho một lão già khụ, Xaxa của tôi đã chết héo chết mòn đi! (Nghe anh ta nói, má Anixya hơi ửng hồng, như thể có ai đang vuốt ve chị). Chúng tôi đi tìm một cuộc sống chưa từng có, chưa từng được nếm thử bao gì, Anixya ạ. Chúng tôi cứ nghĩ mãi đến mỗi một hình ảnh, một người con gái mà dù trong giấc mơ cũng không thể nào gặp được...
- Trên đời làm gì có những người như thế!
- Chị thì biết gì? Ở Thái bình dương, trên các đảo san hô có những người như thế đấy.
Anxya nhìn khuôn mặt bò mộng của anh ta, với hai con mắt cách xa nhau, và trong người chị lại có một cái gì rung lên, và một niềm thương mến dạt dào truyền khắp người chị. Nhưng bây giờ đó không phải là một cảm giác đê mê nhẫn nhục của đàn bà xưa kia nữa, - không, bây giờ thì cái đó chẳng còn được nữa đâu, xin đủ cái thời ấy! - bây giờ chị thấy vui hẳn lên. Chị cười:
- Thế anh đã sang đấy chưa?
- Đã sang đâu... Ấy là trong hải ký người ta viết thế.
- Trong hải ký là trong cái gì?
- Trong cuốn sách hàng hải nói về các chuyện lạ ở các nơi ấy.
- Anh chỉ nói phét thôi, Latughin ạ, nghe anh nói chán quá.
- Cô cứ nghe, còn tôi cứ nói phét. Còn cái này là tôi nói chuyện thật với cô đây: Anixya ạ, có dạo tôi nẩy ra một ý định xấu đối với cô, nhưng rồi có một người nói chuyện với tôi. Người ta đã chỉnh cho tôi một trận nên thân... Thôi thế là ổn... Con người là chúa tể của thiên nhiên. Cảm ơn bài học ấy.
Anixya lại nhìn anh ta, nhưng lần này đó là một cái nhìn kinh ngạc. Latughin bất giác nói to lên đến nỗi Đasa phải gõ bút chì nói: “Các đồng chí trật tự tí nào!”
- Ở vùng Kerjênetx chúng tôi có một giáo phái có lệ tự hoạn, - anh ta thì thầm nói tiếp, họ tự hoạn là vì họ không đủ sức tự kiềm chế. Một người trong bọn họ kể: “Tôi nằm mơ thấy con chim lửa, mở mắt ra thì chỉ thấy một nỗi buồn xám ngắt...”. Họ làm nhiều việc bậy bạ và đánh vợ nhừ tử... Người kia đến tìm ông lang ngựa van vỉ: “Hãy cứu vớt linh hồn tôi”, thế là ông lang ngựa thiến béng hắn đi... “Thôi về sống cho yên ổn, anh cụt ạ, Chúa phù hộ anh...”. Không, Anixya ạ, chúng ta sẽ tắm bằng máu, sẽ nhúng trong kiềm ba lần, nhưng chúng ta sẽ bắt được con chim sáng rực ấy, dù nó có bay đến cùng trời cuối đất...
Đasa gõ bút chì nói:
- Các đồng chí, Karl, Amalya, lớp cuối cùng, chuyển cảnh nhé...
Khi ánh bình minh màu huyết dụ của một buổi sáng băng giá bắt đầu hửng lên sau những làn khói bếp của khu trại, một kỵ binh xuống ngựa trước ngôi nhà được dùng làm đại bản doanh trung đoàn, bỏ mặc con ngựa bám đầy sương giá đứng đấy và chạy đến đấm thình thình vào cánh cửa. Ivan Ilyits ra mở. Người chiến sĩ hồng quân chuyển cho chàng một phong thư. Ngay hôm ấy, xe tải ở các khu trại lân cận đều bị trưng dụng, và trung đoàn lên đường hành quân.
Quân đoàn sông Đôn bắt đầu vây hãm Txaritxyn - lần này là lần thứ ba kể từ tháng tám. Lần này tướng Mamontôv tiến đến Txaritxyn bằng hai gọng kìm đánh thốc vào hai bên sườn. Khoảng năm mươi dặm từ phía bắc thành phố ba trung đoàn kỵ binh của tướng Tatarkin sau một trận đột kích bất ngờ đã chọc thủng chiến tuyến và lao ra sông Volga về miệt xóm Đubôvka.
Hôm sau, ở phía nam, miệt Xarepta, kỵ binh của tướng Poxtôvxki bắt đầu tiến quân. Lúc ấy giờ Xarepta đang được những đơn vị thuộc Sư đoàn Thép của Đmitri Jlôba án ngự. Bản thân Jlôba bấy giờ đang vắng mặt: ông cãi nhau to tiếng với hội đồng quân sự, và sợ bị bắt, ông vội vã về Moxka khiếu nại. Trong Sư đoàn Thép đang có tình trạng hoang mang. Người thì bảo là thủ lĩnh Jlôba sẽ trở về làm tư lệnh quân đoàn, người thì lại nói thủ lĩnh đã bị bắt và đòi phải kéo cả đại quân đến Txaritxyn giải thoát ông ta, nhưng phần đông tin lời đồn đại rằng thủ lĩnh đã trốn về Axtrakhan và đang chiêu tập một đạo quân tự do ở đấy. Khoảng một nghìn rưởi chiến sĩ kỵ binh bỏ mặt trận vượt qua sông Volga và men theo tả ngạn đi về Axtrakhan. Sư đoàn Thép bị đánh tan tác, tướng Poxtôvxki chiếm Xarepta và uy hiếp Txaritxyn từ phía sau.
Để ngăn ngừa những cuộc tấn công vào hai bên sườn, hội đồng quân sự của Quân đoàn thứ Mười trước đấy một tuần đã bắt đầu tập trung một tập đoàn xung kích gồm hai đại đoàn kỵ binh: đại đoàn Đôn-Xtavropôl và đại đoàn của Xêmiôn Budionny. Nhưng họ chưa kịp hội lại với nhau thì mặt trận đã bị chọc chủng, và đại đoàn Đôn-Xtavropôl phải chịu đựng một mình tất cả sức mạnh của cuộc tấn công. Buđionny hối hả ngày đêm thúc ngựa đến cứu viện cho họ.
Trung đoàn Katsalinxky được điều đến nơi tập trung tập đoàn xung kích. Suốt phần còn lại của ngày hôm ấy và suốt đêm hôm ấy, chỉ dừng lại nghỉ một lần, trung đoàn hành quân về phía cái ráng đỏ đùng đục hiện lên mờ mờ trong làn sương giá. Cái ráng ấy át cả ánh bình minh: mặt trời mọc ở bên phải nó, và chỉ ló ra một lát giữa những đám mây xếp lớp màu đồng đỏ.
Têlêghin, Ivan Gora và Xapôjkôv cưỡi ngựa đi trước trung đoàn, theo sau là những xe giàn chở bộ binh, những khẩu đại bác và những đoàn xe tải đi thành nhiều hàng rải dài trên cánh thảo nguyên phủ tuyết. Xa xa thấp thoáng mấy chiến sĩ trinh sát cưỡi ngựa. Cả ba người chỉ huy ngạc nhiên lắng tai nghe những tiếng thở dài giận dữ của đại bác vẳng tới từ một nơi nào không lấy gì làm xa lắm nữa. Họ thúc ngựa phóng nước kiệu vượt lên trước đoàn quân một quãng, họp nhau lại, rồi dừng ngựa lấy bản đồ trong xà-cột ra xem xét. Địa điểm mà trung đoàn đã được lệnh hành quân đến hãy còn cách xa, nhưng tiếng đại bác vẳng lại cho thấy rằng mặt trận đã nhích gần tới. Trung đoàn không có liên lạc với mặt trận: đường điện báo cũng không mà đường dây kỵ binh thông tin cũng không. Tình trạng mập mờ này có thể chuyển rất nhanh thành một nguy cơ diệt vong.
- Cái thảo nguyên đáng nguyền rủa này! - Ivan Gora nói, - chúng mình cứ bò như bọ hung bò trên thảm. Nếu bọn cô-dắc chưa phát hiện ra chúng mình thì cũng còn may.
- Gì mà chưa phát hiện ra, - Têlêghin nói, - chúng nó có bưu vụ riêng: ngay từ khi mình còn đóng ở khu trại chúng nó đã bắt đầu theo dõi rồi đấy.
Xapôjkôv ấn mũ lông xuống tận mày rồi phi về phía các chiến sĩ trinh sát.
Những chiếc xe đi đầu đã đến gần, mấy con ngựa kéo xe thở nặng nhọc, mồ hôi đóng băng lại từng sợi dài, trông như ngựa xù. Ivan Ilyits ra lệnh cho các chiến sĩ vừa nhảy xuống đất chạy trở lại ra hiệu và quát bảo những người đi phía sau dồn lên và xiết chặt hàng ngũ lại. Len lỏi giữa các xe giàn, chàng trông thấy Kuzma Kuzmits, một tấm giẻ trùm kín hai tai, đang cầm cương ngựa; Đasa ngồi trên một đống đồ trang trí sân khấu, đầu đội mũ áo khoác, mình mặc áo lông cừu trắng, mặt đỏ gay đỏ gắt và ngái ngủ, trông như mặt trẻ con. Mắt nheo lại vì chói ánh tuyết, nàng quát bảo chàng một câu gì, nhưng vì tiếng xe cót két và tiếng nói chuyện râm ran, chàng chẳng nghe ra cái gì hết. Rồi chàng trông thấy Agrippina ngồi cùng xe với ba chiến sĩ - chị ta cũng bắt đầu quát tháo những gì không rõ, giơ cái bao tay chỉ lên trời. Chị ta cần cái gì thế nhỉ?
Ivan Ilyits ngửa người trên yên: trên trời hiện rõ một chiếc máy bay, trông như một con chim đen, bay dưới một đám mây xếp lớp, ở phía dưới có mấy tia nắng nhạt tỏa ra thành hình rẻ quạt.
Bây giờ thì mọi người đã trông thấy chiếc máy bay. Ivan Ilyits quất ngựa len vào giữa mấy chiếc xe tải. “Tản ra!”. Ivan Gora đứng thẳng trên bàn đạp, người trông càng to lớn dị thường, cất cái giọng đê cầm lên quát: “Bắn lên máy bay!”. Một chiếc xe giàn phóng qua một bên Ivan Ilyits: Đasa với đôi mắt long lên dữ dội và Kuzma Kuzmits đang dùng đầu dây cương quất ngựa. Các chiến sĩ bắt đầu nổ súng loạn xạ. Chiếc máy bay, đôi cánh cong cong, rú lên dữ tợn, tách ra khỏi đám mây, và từ dưới bụng nó, mấy quả trứng rơi xuống vun vút, nổ toang trên lớp tuyết trắng phau thành những bụi cây đen ngòm.
Nhiều chiến sĩ hồng quân trông thấy cái cảnh kỳ lạ này lần đầu: có mấy chiếc xe giàn phóng thẳng ra thảo nguyên. Tiếng kèn đồng kéo dài thổi hiệu thu quân để tập hợp hàng ngũ bị phân tán. Mấy chiến sĩ trẻ hồi lâu vẫn còn sợ sệt nhìn lên mây.
Bây giờ rất có thể đích thân quân cô-dắc sẽ đến. Các xe giàn đi sát lại thành từng hàng dày, trục xe này chạm trục xe kia. Những khẩu đại bác đang bò đi ở phía trong hình tứ giác dài đã cởi hết những tấm bạt bọc nòng. Đến lúc mặt trời lặn, ở phía trước thấy hiện lên tim tím những đường viền của một thôn ổ. Xapôjkôv từ phía ấy phi nước kiệu về với hai người trinh sát. Phấn chấn và tươi cười, anh cưỡi ngựa đến gần Têlêghin và Ivan Gora, bỏ mũ, hất tung mái tóc ướt đẫm lên:
- Ổn cả, trong ấp kia không có ai ngoài đàn bà và trẻ con. Xa hơn, cách khoảng năm dặm, là một làng lớn: ở đấy dân cô-dắc,...
- Dân cô-dắc, dân cô-dắc... thế thì hay hớm lắm đấy! - Ivan Gora bực tức cắt ngang. - Thế còn quân ta ở đâu?
- Tôi biết được... Quân ta ở trong làng ấy đã rút đi, còn trong khu ấp thì không có.
- Phải chiếm lĩnh khu ấp, - Ivan Ilyits nói, - hễ chưa bắt liên lạc được với mặt trận thì tôi không tiến quá khu ấp ấy một bước nào.
Đến chập tối trung đoàn chiếm lĩnh khu ấp chạy dọc một cái ao sâu, trước kia là một cái rãnh đất. Các chiến sĩ đập thình thịch vào các cửa sổ, quát dọa: “Chủ nhà đâu, ra đi!”. Họ bước vào những ngôi nhà lửa còn ấm, nhưng tối mịt. Chỉ thấy ở một đôi nhà có một người đàn bà bế con nấp sau lò sưởi, hay một bà già mồm lẩm bẩm liên hồi vì sợ. Bao nhiêu đàn ông đều chạy sang làng cô-dắc bên kia cả. Têlêghin ra lệnh đào công sự. Hai đầu đường dẫn vào làng đều được chắn lại bằng những chiếc xe tải xếp sát vào nhau. Từ lúc trời hãy còn sáng, Têlêghin đã cho Xapôjkôv đem theo mấy chiến sĩ biệt động đi trinh sát thật sâu vào trận địa, cố sao nội đêm nay phải bắt được liên lạc với mặt trận.
Đêm ấy trôi qua trong một tình trạng căng thẳng. Tuy quân cô-dắc không thích đánh đêm, vẫn phải đề phòng chúng giở trò đáng ghét. Ivan Ilyits và Ivan Gora cứ đi đi lại lại từ đầu ấp đến cuối ấp, bước trên lớp băng hãy còn xốp đi sang bên kia ao. Trời tối như mực, tiếng pháo phía đông bắc đã im vắng. Gió nổi lên, ẩm ướt. Cơn giá đã dịu đi, và tuyết không còn sào sạo dưới chân nữa.
- Chúng mình rơi vào bẫy chuột rồi, thật là một cái bẫy chuột chính cống! - Ivan Gora càu nhàu trong khi lầm lì bước bên cạnh Têlêghin, - chúng mình đã không đưa được trung đoàn đến nơi quy định... Thật là nhục nhã! Người ta tìm chúng mình, chúng mình lại đi tìm mặt trận, chả ra cái mã gì! Ai là người có lỗi, tại ai?
- Thôi đi, được rồi. Chẳng ai có lỗi hết.
- Ai sẽ chịu trách nhiệm trước tiên? Tôi chứ ai. Mà như thế là đúng. Chính ủy đi với trung đoàn giữa thảo nguyên mà lại lạc quách, chà, chả ra cái thá gì!
Một tiếng súng đơn độc nổ vang. Ivan Gora đứng phắt lại. Có thể nghe rõ tiếng tim đập thình thình. Và lập tức một loạt súng dồn dập nổi lên như một trận cuồng phong, rồi im bặt, cũng một cách đột ngột như thế. Trong đêm tối chỉ còn nghe tiếng nói chuyện rì rầm của mấy người ngái ngủ vừa ở trong nhà chạy ra nghe ngóng.
- Anh em bị căng thẳng thần kinh quá mức, đâm ra mất bình tĩnh đấy, - Ivan Ilyits nói, - Lớp lính trẻ này chưa dạn súng. Ta hút điếu thuốc đi.
Gần đến sáng, chàng ghé về nhà một phút, thận trọng bước qua chân các chiến sĩ đang ngủ giữa sàn, sờ soàng lần đến lò sưởi. Bàn tay của Đasa tìm ra chàng trong bóng tối và vuốt lên mặt chàng. Chàng áp môi vào lòng tay ấm áp của nàng.
- Sao em không ngủ?
- Anh Ivan ạ, em đang lo vấn đề này: nếu ta đóng lại ở khu ấp này lâu lâu, rốt cục có thể diễn “Đạo tặc” ngoài trời, thậm chí có thể mặc quân phục mà đóng cũng được, cái chính không phải ở chỗ ấy.
- Dĩ nhiên rồi, Đasenka ạ.
- Đang hăng, tiếc thật, nếu họ quên vở hết thì gay...
- Đúng đấy... Mai anh sẽ tìm xem, may ra có cái lán nào... Thôi ngủ đi, em bé.
Chàng lại ra đường hít sâu hơi gió ẩm vào lồng ngực. Sau bấy nhiêu năm chờ mong hạnh phúc, Ivan Ilyits không thể nào quen được với cái hiện thực kỳ lạ mà chàng đang được sống: hạnh phúc chỉ cách chàng có hai bước, - trong nền nhà thấp, trên cái lò sưởi ấm áp, dưới tấm áo da cừu...
“Không ngủ... Cứ lo lắng... Thế mà chẳng hé ra một câu nào... Chỉ mừng rỡ giơ tay ra đón mình... Thật là một người đàn bà kỳ lạ!...”
Nàng đã tìm ra chàng trong bóng tối, vuốt ve chàng, áp lòng bàn tay vào môi chàng: điều đó làm cho Ivan Ilyits xúc động đến nỗi đứng giữa gió mà mặt chàng vẫn nóng bừng bừng... Chả nhẽ chàng vẫn lầm như thường? “Không đâu, anh bạn thân mến ạ, gạt xa những chuyện vớ vẩn ấy đi... Một người bạn đời, phải... phải... Trung thành... phải, phải... Anh hãy cứ hưởng cái hạnh phúc ấy đi đã...”.
Chàng không bao giờ quên được những buổi chiều ảm đạm ở Pêtrôgrad. Những khi chàng chạy về nhà với chiếc bánh ngọt hay chiếc kẹo vừa kiếm được cho Đasa, mà chỉ làm cho nàng ghê tởm và hoảng sợ... Như thế tức là ở trong chàng hồi ấy có một cái gì đáng ghê sợ như thế, và cái đó chưa hề biến đi đâu hết. Nhưng trời ơi, chàng yêu người đàn bà ấy biết chừng nào, chàng ước muốn nàng tha thiết biết bao nhiêu!
Ivan Gora từ trong bóng tối bước lại, hai tay thọc sâu vào túi áo bêkes.
- Nếu chúng nó bắt được Xapôjkôv của ta thì sao?
- Rất có thể. Tảng sáng tôi sẽ phái một đội trinh sát thứ hai đi.
- Lẽ ra phải làm việc đó sớm hơn, sớm hơn nhiều ấy!... - Ivan Gora rút tay ra khỏi túi và đấm lên trán mình. - làm đảng viên mà phụ lòng tin của đoàn thể! Dù bọn ta có tai qua nạn khỏi chuyến này, tôi vẫn không thể nào tha thứ cho mình được... Giá một thằng chính ủy như thế này mà gặp phải tay tôi thì tôi dắt ngay ra sau cái nhà kho kia: vĩnh biệt đồng chí!
- Ivan Xtepanovits, đã thế thì phần lỗi của tôi cũng chẳng kém gì...
- Thôi dẹp đi! Nào, ta hút điếu thuốc...
* * *
Suốt đêm hôm ấy Xerghêy Xerghêyêvits Xapôjkôv cùng với năm người trinh sát tình nguyện phi ngựa trên thảo nguyên, hy vọng phát hiện ra một vài dấu hiệu của mặt trận. Nhưng thảo nguyên vẫn tĩnh mịch và tối như bưng. Họ đánh diêm, dùng địa bàn định hướng lại. Mấy con ngựa không được ăn đã mệt lử, và con ngựa chở súng máy đã bắt đầu chạy khập khiễng, kéo căng sợi dây dắt về phía sau. Xapôjkôv ra lệnh xuống ngựa, tháo cương, bỏ dây thắng. Họ lấy thóc ở mấy cái đẫy đeo sau yên ra, đổ thóc vào mũ chụp cho ngựa đứng quay lưng về phía gió mà ăn.
- Đồng chí chỉ huy ạ, tôi đã tìm ra được nguyên do tại sao chúng ta không tiếp cận được với mặt trận rồi, - Saryghin nói, vẫn so đo cân nhắc từng chữ như mọi khi. - Mặt trận đã thu gọn lại... (Anh bị cóng, môi anh cử động rất khó nhọc). Quân ta đã dồn hai cánh sườn vào khu vực chiến sự, và vị trí quân cô-dắc đã thu gọn lại... Có thể có một sự kiện như thế được không?
- Ôi, quân cô-dắc, quân cô-dắc, những đứa con xảo trá và nham hiểm của loài cá sấu! Địa ngục và hàng nghìn quỷ sứ! - Latughin lẩy theo Siller, giọng nghiêm trang. Ba chiến sĩ trẻ tuổi (được trưng tập ở những khu trại cô-dắc) cười phá lên. Saryghin lập tức trả lời:
- Đùa cũng phải có lúc, đồng chí Latughin ạ. Khi đang có việc nghiêm trọng phải ghìm bớt cái tính hay đùa nhả lại.
Xapôjkôv nói khẽ:
- Thôi đủ rồi, các cậu, đừng cãi nhau nữa.
Mấy con ngựa nhai thóc rau ráu, hàm thiếc kêu lách cách. Sau vai các chiến sĩ, gió huýt sáo trên các nòng súng trường.
- Ăn đi, đừng quấy, đồ thổ tả! - Latughin quát con ngựa, vì nó đã rút mõm ra khỏi cái mũ đựng thóc. quay đầu vào anh gật lia lịa.
Ban nãy, ở khu ấp, bên cái giếng có một đám chiến sĩ hồng quân tụ tập xung quanh, khi Xerghêy Xerghêyêvits Xapôjkôv đã rao lên hỏi ai muốn xung phong đi trinh sát, Saryghin đã đến gặp anh trước tiên: “Tôi xin đi với đồng chí”, rồi không ghìm được, anh xúc động nói thêm: “Đồng chí chỉ huy ạ, đồng chí đừng nghĩ rằng tôi xung phong vì huênh hoang. Đây là với tư cách một thanh niên cộng sản, tôi xin đi một cách tự giác, có thể nói như vậy...”.
Latughin, lúc bấy giờ vừa dắt một cỗ ngựa kéo pháo đến cạnh giếng và đang cười đùa với các chiến sĩ, nghe thấy mấy câu đó, và trông thấy gương mặt đỏ bừng vì khích động của Saryghin... “Chà, thằng quỷ mũi hếch. - anh nghĩ bụng - chỉ láo, đừng hòng vượt tớ...”. Đoạn nhún vai rồi đến gặp Xapôjkôv:
- Tôi đi với đồng chí có thừa không Xerghêy Xerghêyêvits? Nếu không tôi chạy về đội pháo xin đi nhé?
Suốt dọc đường anh cứ bám riết lấy Saryghin mà bỡn cợt làm cho mấy cậu kia cười ha hả. Vừa rồi người ta lại bảo anh là hay đùa nhả, và đồng chí chỉ huy đã phải quở trách. Được! Latughin đổ mấy hạt thóc còn lại trong mũ ra tay rồi hất vào mồm.
- Phải bắt cho được một cái “lưỡi” chứ cứ quanh quẩn giữa thảo nguyên thế này thì được cái gì... Bấy giờ ta sẽ biết mặt trận thu lại ở chỗ nào...
- Đúng, - Saryghin xác nhận - đó là một đề nghị hợp lý.
- Nào các đồng chí, lên yên! - Xapôjkôv đội mũ lên, lắp cương vào cho ngựa, hì hục thắt lại dây bụng và nhảy lên yên.
Gần về sáng không khí giá buốt hơn lên, và trời không tối mịt như trước nữa. Một dải ánh sáng mờ mờ xanh tô rõ những đường viền đùng đục của những đám mây. Mấy chiến sĩ trinh sát, cổ rụt vào vai, cho ngựa phóng nước kiệu.
- Đứng lại! Nó kia kìa! - Latughin với khẩu các-bin sau lưng, đánh rơi cả mũ. - Sáu thằng, bảy thằng! - Trong bóng tối mờ mờ xanh chỉ có đôi mắt quen đi biển của anh phân biệt được những vật mà người khác không hề trông thấy. - Ồ không phải phía ấy. - anh thì thào với các bạn trinh sát vừa tập hợp lại. - khỉ thật, các cậu nhìn đi đâu thế, nó đằng này kia mà, đang loáng thoáng kia kìa...
Trong khi họ hối hả tháo khẩu súng máy trên lưng ngựa xuống có tiếng vó ngựa lóc cóc phi tới và trong bóng tối hiện lên mờ mờ những bóng kỵ binh được phóng đại lên trông to lớn lạ thường.
- Quân mạt kiếp kia, hạ vũ khí xuống, hàng đi! - Latughin quát lớn, giọng man dại. Anh lấy nòng súng quất ngựa - một cử chỉ chẳng kỵ binh chút nào - và phi tới. Saryghin thúc ngựa đuổi kịp anh. “Quay lại, quay lại!” - Xapôjkôv hét vỡ cả giọng. Mấy tên cô-dắc - chắc hẳn cũng đang đi trinh sát - ghìm ngựa, quay lại và phóng đi. Latughin ngồi trên mình ngựa bắn theo mấy phát. Ngựa của tên đi sau (những tên kia đã hầu như không còn thấy được nữa) nhảy dạt sang một bên và khụy xuống. Latughin và Saryghin chờn vờn quanh tên cô-dắc vừa rời ngựa đứng dậy. “Lại đây, các đồng chí!” - Latughin vừa quần nhau với hắn vừa gọi. Khi các chiến sĩ khác chạy lại, anh đã cưỡi lên tên cô-dắc vừa vặn hai tay hắn ra sau lưng: “Nhỏ người mà khỏe gớm!...”. Tên cô-dắc nằm sấp thở khò khè, má áp xuống tuyết, mắt nhắm chặt lại nhăn nhúm cả hai bên khóe.
Họ ra lệnh cho hắn đứng dậy, huých vào người hắn, lật ngửa hắn ra. Tên cô-dắc liền tuôn ra một tràng những tiếng chửi rủa tục tằn, như thể cố lăng mạ cho các đối thủ điên tiết lên mà giết quách hắn đi cho nhanh. Xapôjkôv tái mặt đi, lấy vỏ gươm đánh cho hắn một phát rồi quát: “Đứng dậy!”. Tên cô-dắc nhấc đầu lên nhìn anh một cách man dại rồi lảo đảo đứng dậy. Người hắn thấp bé, vai xuôi, bộ râu xòe rộng bám đầy tuyết trông như một áng hào quang bọc quanh quai hàm.
- Mày liệu hồn, con cầy khốn nạn kia! - Xapôjkôv quát. - Trước mặt mày là một cấp chỉ huy trung đoàn. Liệu mà trả lời cho tử tế.
Tên cô-dắc vặn đôi tay bị trói chặt ra sau lưng bằng sợi dây da. Hắn đưa qua đưa lại bộ râu, đôi mắt vàng tròn xoe nhìn lần lượt những người đứng trước mặt. Bỗng hắn liếm môi rồi nói với một anh lính hồng quân trẻ tuổi, hồng hào và vui tính:
- Tao biết mày, mày là cháu ruột của Rurkin, mày không biết xấu à?
- Xì! Tao cũng biết mày, Yakôv Vaxilyêvits...
- Chào Yakôv Vaxilyêvits, rất hân hạnh! - Latughin nói, và anh lính hồng quân vui tính lại cười phá lên. - Anh bạn râu ria kỳ diệu của tôi ơi, chúng tôi đã tìm anh suốt đêm. Trung đoàn nào? Thuộc lữ đoàn nào?
Xapôjkôv gạt anh ta ra, lấy tấm bản đồ và bắt đầu cuộc hỏi cung. Tên cô-dắc trả lời miễn cưỡng, nhưng về sau, hình như hắn nghĩ lại, thấy rằng cuộc vấn đáp này có thể giúp hắn kéo dài thời gian, bọn “rốn đỏ” sẽ nguôi bớt, và sẽ có cơ thoát thân, thế là hắn bắt đầu nói như sáo. Qua những lời hắn nói, các chiến sĩ trinh sát mới biết tướng Tatarkin đã chọc thủng mặt trận, nhưng quá trình khuếch trương chiến quả đã bị đại đoàn Đôn-Xtavropôl chặn lại, và hiện nay đang diễn ra một trận huyết chiến ở miệt Đubôvka, nơi mà hồng quân cũng như bạch quân đều đang kéo đến.
Đầu mối đã lần ra được. Họ quyết định cử một người đưa tên cô-dắc về trung đoàn, còn những người kia thì đi đến Đubôvka ngay, không nương sức ngựa, để báo cáo với tư lệnh mặt trận là trung đoàn Katsalinxki đang hành quân đến. Và mãi đến đây họ mới sực nhớ ra: Saryghin đâu?
- Miska, - Latughin gọi, - ngủ rồi hay sao thế?
Con ngựa của Latughin bị bỏ quên đứng dẫm chân lên dây cương. Phía dưới bụng một con ngựa khác đang chúc cái cổ gầy xuống đất, có thể trông thấy loáng thoáng đôi chân của Saryghin gập lại một cách kỳ quặc. Hai tay anh ta ôm lấy cái gối yên, mặt úp vào đấy.
- Miska! - Latughin lo lắng nắm lấy hai vai bạn kéo về phía mình, - Cậu ơi, cậu giở cái trò gì thế?
Ngửa người ra, Saryghin nặng nề ngã vào lòng bạn. Mặt anh xám ngoét như màu đất. Chiếc áo ca-pốt từ ngực xuống đến nịt đeo bao đạn xâm xấp máu. Latughin đặt anh nằm xuống tuyết, mở khuy áo vạch bụng anh ra, áp lòng bàn tay vào vết đâm đang ứa máu.
- Mày đâm đấy à? Chà, Yakôv, Yakôv! - Latughin cởi phăng chiếc áo ca-pốt và áo ngoài, xé toạc áo sơ-mi từ cổ trở xuống, cuộn lại, và với những động tác nhanh nhẹn và khéo léo, anh bắt đầu băng bụng cho Saryghin.
- Xêrghêy Xerghêyêvits ạ, phải chở cậu ấy về gấp.
- Ồ, thế thì làm sao...
- Làm sao thế nào! Một mình tôi vừa chở cậu ấy về vừa áp giải thằng kia cũng được.
Trên gương mặt Saryghin nhợt nhạt như mặt xác chết, mồ hôi bắt đầu toát ra lấm tấm. Đôi mắt đã trợn ngược lên phía mi trên dần dần bớt dại đi, có lại được chút tinh thần, và để lộ một nỗi ngạc nhiên xen lẫn sợ hãi: không biết cái gì đã xảy ra với mình mà một thân thể trẻ trung, tráng kiện, chưa bao giờ đau ốm, bây giờ lại gẫy gục thế này?
- Các đồng chí ơi, bây giờ tôi biết làm thế nào?
- Mút đi, mút lấy một ít tuyết, ngốc ạ! - Latughin vốc một ít tuyết để lên môi bạn.
Trong khi họ lúi húi quanh Saryghin và chở khẩu súng máy lên con ngựa khập khểnh thì trời đã sáng hẳn, gió xua những đám mây rách tơi tả bay là là, rắc xuống những hạt mưa lạnh buốt. Vì mải lo đủ chuyện, họ không nhận thấy là từ phía nam, cùng với những đám sương mù cuồn cuộn, đang rầm rập kéo về những đoàn kỵ binh đông nghịt.
Cả thảo nguyên vang rền tiếng vó ngựa của họ. Những đoàn người ngựa, những cỗ xe kéo pháo, những chiếc xe tứ mã chở súng máy kéo qua thành từng đợt nhấp nhô như sóng. Đội trinh sát của Xapôjkôv giữ cương ngựa đứng nhìn. Muốn rút cũng không kịp nữa rồi.
Họ thấy có khoảng hai mươi kỵ binh tách ra khỏi hàng đầu đoàn quân đang kéo qua và phi nước đại về phía họ. Đưa mắt nhìn quanh, Xapôjkôv thấy Latughin, gương mặt nghiêm trang và tái nhợt hẳn đi, từ từ rút gươm ra; anh lính hay cười lên đạn lách cách mà hình như chẳng hiểu mình đang làm gì, mặt nhăn nhúm lại như thể vì đau...
Người phi ngựa phía trước, mũ lông cừu đội lệch, mình khoác áo burka rộng vai phủ suốt cả lưng con ngựa, quát lên một câu gì không rõ, tay chỉ về phía đội trinh sát. Xapôjkôv nổ một phát súng, và lập tức Latughin từ trên yên ngựa lao xuống giữ lấy tay anh:
- Kìa đừng bắn! Quân ta đấy mà!
Đội kỵ binh đã đến gần. Những người đi hai bên cúi rạp trên mình ngựa phi vòng lên để vây lấy đội trinh sát. Người cao lớn mặc áo burka cho ngựa xông thẳng vào Xapôjkôv và xô vào ngực anh mạnh đến nỗi cả hai chân anh tuột ra khỏi bàn đạp.
- Mù à?... Người ở đâu, đơn vị nào?
Cặp mắt đen láy của ông ta long lên sòng sọc, bộ ria dựng ngược lên, tuồng như ông ta phải tự kiềm chế hết sức mới khỏi phang đốc gươm vào Xapôjkôv đang kinh hãi ngồi đờ người ra trên mình ngựa.
- Chúng tôi ở trung đoàn xạ thủ Katsalinski. Đang tìm liên lạc với mặt trận.
- Tìm như thế mà cũng đòi đi tìm: mặt trận ở ngay trước mũi các anh đấy, - người để ria nguôi giận đáp và tra mạnh thanh gươm vào vỏ nghe đánh soạt một tiếng. - Lên ngựa đi, đi với chúng tôi.
- Chúng tôi có một người bị thương, thế mới gay...
- Ồ, trời ơi, cả trung đoàn các anh đều ngốc nghếch như thế sao? Vực người bị thương lên ngựa đi, kìa, cho cái anh to khỏe này đèo. - ông ta chỉ Latughin. - Thế còn vị anh hùng nào kia?
- Cái “lưỡi” chúng tôi vừa bắt được đấy.
- Lưỡi thì đem nộp cho chúng tôi (Xapôjkôv lắp bắp toan nói là phải đưa về trung đoàn). Ồ, nói chuyện với các anh khó thật. Tham mưu trưởng đại đoàn sẽ nói chuyện với các anh, phải hiểu lấy chút gì chứ? - Ông ta so vai xốc lại áo burka và cho ngựa phóng nước kiệu rất nhanh, con ngựa trông như nhảy múa dưới mình ông, mấy cái móng sáng loáng tung tuyết lên từng vốc. Mọi người thúc ngựa phi theo: cả Latughin đèo thêm Saryghin đang ngả người vào anh, cả tên tù binh cô-dắc, tay đã được cởi trói, hổ thẹn và buồn bã gục đầu vào bộ râu xòe rộng.
Mấy người kỵ binh vô cùng kinh ngạc khi nghe Xapôjkov hỏi: quân kỵ mã nào phi từng đoàn theo đội hình hành quân như vậy? (Bây giờ chỉ còn trông thấy họ thấp thoáng sau màn mưa pha lẫn sương mù).
- Quân kỵ mã nào à? Thì chính là đại đoàn kỵ binh của Xemiôn Mikhailôvits Buđionny chứ còn quân nào nữa!
* * *
- Đỡ mệt tí chút rồi chứ, cô Đarya Đmitrievna? Sao mặt mày có vẻ tư lự thế? Từ sáng chưa ăn gì à? Thế đấy, thế đấy... Tôi đã vắt được một xô sữa đầy, cũng định mang về cho cô một ít, thật đấy, nhưng anh em họ uống hết mất. Chúng tôi bẻ vụn bánh mì ra bỏ vào sữa, và ba người cứ thế nốc hết. Trướng cả bụng lên thế này này...
Kuzma Kuzmits như chỉ chực nổ tung ra vì quá tràn trề sức sống. Đasa không dám nhìn cái mặt cạo nhẵn thín của ông ta nữa: trông nó chướng mắt quá thể! Cái cằm nhọn hoắt luôn luôn nhích lên nhích xuống, cái miệng thì trơ toen hoẻn ra, hễ nhìn vào là người ta bất giác muốn lấy cái gì che nó đi cho đỡ lõa lồ... Đasa dậy muộn: lúc bấy giờ trong nhà cũng như ngoài sân đều đã vắng tanh. Không khí thoang thoảng cái mùi ẩm ướt của tiết tan giá xen lẫn mùi chuồng gà, trên các mái nhà lợp cói còn vương vấn từng mảng sương mù. Kuzma Kuzmits đứng ở sân nhà láng giềng trông thấy nàng liền nhanh nhẹn trèo qua hàng rào và cứ thế lúp xúp chạy lại, giẫm giẫm đôi chân xoay tròn quanh nàng, hai bàn tay nhỏ bé và bẩn thỉu xoa lia lịa vào nhau.
- Trước hết xin báo là mọi việc đều ổn cả, Đarya Đmitrievna ạ... Chồng cô đang ở bên kia bờ ao. Cô có nhã ý ngủ say cho nên không nghe thấy, chứ đêm qua đã có một trận đọ súng. Mấy chú cô-dắc muốn sờ sẫm quân ta một chút xem sao, nhưng quân ta đã cho chúng nó một chầu nên thân, phải lăn lông lốc về làng. Hiện nay ta đang đào công sự... Tôi có chạy ra đội pháo: Carl Moor đi trinh sát vẫn chưa về. Anixya có đánh xe chở một cái thùng con đi qua, mặt phờ phạc, môi mím chặt, mũi nhọn hoắt ra, không thèm nói chuyện với tôi. Đấy, điểm qua tình hình bên ngoài là như vậy. Về phần cô thì xin mời cô lấy cái xô kia, rót ít nước nóng trong thùng gang ra cái soong, rồi ta đi vắt sữa bò. Không có gì có sức xoa dịu tâm hồn và thể xác cho bằng sự tiếp xúc với mấy cái nuốm vú của loài bò, nhất là đối với giới trí thức mơ mộng.
Đasa cười lên khanh khách. Nhưng ông ta vẫn nằn nì.
- Siller thì mặc Siller, chứ ở nhà cô, chủ nhà đã chuồn hết, để lũ gia súc lại chẳng ai cho uống, chẳng ai cho ăn, chẳng ai vắt sữa. Như thế không hợp lẽ. Cô đi lấy xô đi.
- Nhưng tôi có biết vắt sữa đâu?
- Một câu trả lời điển hình! cô thì chẳng biết làm gì hết, Đarya Đmitrievna ạ: cô không biết cầm kim này, rồi thì cũng vì không biết cách mà suýt mất chồng vĩnh viễn. Nhưng bây giờ ta sẽ cùng đi vắt sữa bò, rồi tôi sẽ dạy cho mà làm bánh rán sữa, mà đổ chả trứng trên bếp củi. Chốc nữa Ivan Ilyits về, bụng đói như cào. Và cô vợ xinh đẹp sẽ bưng ra cho chàng một cái chảo mỡ đang sôi xèo xèo như điên như dại. Chàng sẽ vồ lấy, ăn ngon lành, thế rồi cô lại dọn cả bánh rán sữa ra nữa! Cô sẽ ngồi xuống trước mặt và sẽ nhìn chàng với một nụ cười hiền hậu, nhưng chàng sẽ có cảm giác đó là một nụ cười bí ẩn như nụ cười của nàng La Gioconda. Vợ của một vị chỉ huy Hồng quân là như thế chứ!
Kazma Kuzmits cứ một mực thuyết phục Đasa. Một khi ông ta đã nảy ra một ý gì thì cứ như đóng đinh vào óc, thôi thà ưng thuận quách là hơn. Trong cái chuồng bò tranh tối tranh sáng, Đasa xắn váy lên ngồi xổm dưới bụng con bò sữa. Con bò chẳng húc mà cũng chẳng đá nàng. Đasa lấy nước nóng rửa vú cho nó rồi bắt đầu kéo căng mấy cái nuốm vú xù xì theo lời chỉ dẫn của Kuzma Kuzmits đang ngồi xổm sau lưng. Nàng cứ sợ kéo đứt mất vú bò, ông ta cứ phải nhắc đi nhắc lại “Mạnh nữa vào, đừng sợ”. Con bò to lớn vạm vỡ ngoảnh đầu lại và thở phào một tiếng rõ to, hơi thở nóng hổi và hiền từ phả mạnh vào khắp người nàng. Những dòng sữa mảnh thơm phức mùi hương của ấu thời phun mạnh xuống đáy xô kêu lanh canh. Đây là cái thế giới không lời, cái thế giới “mộc mạc”, “tốt lành” mà trước đây Đasa không hề hay biết. Nàng thì thầm thú thật với Kuzma Kuzmits như vậy. Ông ta cũng thì thầm trả lời sau lưng nàng.
- Nhưng cô đừng nói với ai đấy nhé, họ sẽ cười cho đấy: Đarya Đmitrievna đã khám phá ra một thế giới chưa từng biết trong cái chuồng bò! Mỏi ngón tay chưa?
- Mỏi kinh khủng.
- Thế thì buông ra... (ông ta ngồi vào chỗ của nàng). Phải thế này này, thế này mới được... Chao ôi là chao ôi, giới trí thức Nga nó như thế đấy! Đi tìm chân lý vĩnh cửu rồi rốt cục tìm ra một con bò...
- Ờ, thế ông thì dễ thường...
- Tôi ấy à? - Ông ta phẫn uất đến nỗi quên cả vắt sữa.
- Ông ngồi dưới bụng bò mà triết lý đấy thôi.
- Cô bạn nhỏ ạ, với một cựu giáo sĩ, cô đừng dại dột đi tranh luận thì hơn, không cãi nổi đâu.
Ông ta cầm lấy cái xô và cùng Đasa ra khỏi chuồng bò, đi vào nhà. Rồi ông ta lấy củi ra, ngồi chẻ.
- Triết lý là sự rong chơi vô bổ của tư duy. Yôhann Ghêorg Haman, được mệnh danh là nhà pháp sư phương Bắc, có khẳng định rằng: “Sự tồn tại của bản thân ta và của các sự ở ngoài ta không thể nào chứng minh được, chỉ có cách là tin hay không tin mà thôi...”. Thế nếu không tin, thì thế giới không tồn tại hay sao? Chẳng có cô, mà cũng chẳng có tôi? Và đây không phải là thanh củi, mà là con số không? Ta sẽ rán trứng bằng con số không hay sao?
Ông xếp mấy thanh củi chẻ nhỏ trên miệng lò, moi mấy cục than hồng trong lò ra và bắt đầu thổi phù phù cho nó bốc lửa lên.
- Triết lý của cuộc sống thì lại là chuyện khác, Đarya Đmitrievna ạ. Hãy nghiên cứu cuộc sống, tìm hiểu nó và làm chủ nó... Không có sự can thiệp của trí tuệ cao cả thì cuộc sống đi theo những con đường sai trái. Sự tồn tại của tôi là một sự kiện chắc chắn nhất và riêng đối với tôi là một sự kiện tối quan trọng. Và vì tôi cởi mở và tôi ham biết, cho nên cái gì tôi cũng muốn thấy, cái gì tôi cũng muốn hiểu. Và chẳng bao lâu nữa tôi sẽ hiểu được một phần lớn trong những điều đang diễn ra quanh tôi và đang xảy đến với bản thân tôi, vì đó không phải là những hiện tượng tự phát, mà được lý tính của con người chỉ đạo. Tôi chưa có dịp nói chuyện với chính ủy của ta lần nào. Mà nói chuyện với anh ta tôi cũng chưa thích, tôi thích nói chuyện với người mặc thường phục, đầu to như thế này này... Giá được ngồi một buổi với một người như thế... Đarya Đmitrievna, cô chạy ra phía cuối sân, có cái nhà kho con con ở đấy, lúc nãy tôi đã để ý, hơn nữa đã bẻ cái khóa cửa ra rồi. Cô vào mà lấy ít bột, ấy, độ hai vốc...
Bữa ăn sáng đã dọn lên. Đasa cứ chắc mẩm là Ivan Ilyits sắp về ngay bây giờ, nhưng mãi chẳng thấy. Thay cho chàng là một chiến sĩ khoác khẩu súng trường và đeo cái túi dết đầy căng ra, chạy xồng xộc vào nhà:
- Đồng chí chỉ huy ra lệnh thắng xe, bao nhiêu đồ đạc chở hết lên! - Anh ta nghếch nghếch cái mũi, hất cái mũ chụp ra sau gáy, tay giữ khẩu súng đến cạnh bếp lò bốc trong chảo ra mấy chiếc bánh rán rìa nóng hổi, khịt mũi một tiếng ngượng ngùng rồi bỏ đi.
- Đồng chí! - Đasa quát với theo, - đồng chí ơi có chuyện gì thế?
- Có chuyện gì là thế nào? Nhìn ra đường mà xem...
Ngay đâu đây, có lẽ ngoài sân cũng nên, có một tiếng nổ dữ dội đến nỗi kính trên hai cái cửa sổ con vỡ tan ra từng mảnh.
* * *
Kế hoạch tấn công Txaritxyn vào tháng chạp đã được các chuyên gia quân sự trong bộ tham mưu của Đênikin soạn ra. Một trong những viên tướng trẻ nhất đã nêu rõ tầm quan trọng cực kỳ lớn lao của việc chiếm lĩnh thành phố này. Viên tướng đó là nam tước Vranghel. Thủ lĩnh Kraxnôv chấp thuận bản kế hoạch. Để tăng viện cho quân đoàn sông Đôn, họ điều sư đoàn Mai-Maievxki tới. Sư đoàn này đã rảnh tay sau khi đánh tan quân đỏ ở Bắc Kavkaz, và đã được tăng cường bằng những đơn vị ứng chiến ưu tú của các sư đoàn Kornilôv, Markôv và Đrozđôv. Mai-Maievxki kéo quân qua vùng Đônbaxx để án ngự hậu phương của quân đoàn sông Đôn đang để hở phía tây, phía Ukrain, và chỉ bố trí mấy đơn vị án ngự mạnh ở các đường biên giới phía bắc của mình. Năm vạn quân tinh nhuệ của quân đoàn sông Đôn đang hành quân gấp về Txaritxyn.
Cũng trong thời gian ấy tổng hành dinh của bộ tổng tư lệnh các quân đoàn hồng quân của nước cộng hòa soạn ra một kế hoạch phản công. Hai quân đoàn thứ Tám và thứ Chín của hồng quân đang đóng ở biên giới vùng sông Đôn sẽ đột nhập vào vùng này ở cả hai bên sông, dồn bọn cô-dắc trắng của Kraxnôv vào mũi lê của quân đoàn thứ Mười, đồng thời cùng làm tiêu hao dần lực lượng của quân đoàn sông Đôn trên các thảo nguyên vùng Txaritxyn. Sau khi đã đánh tan quân đoàn này, các quân đoàn đỏ sẽ quay ngược trở lại và tiến về phía tây, về miệt sông Đniepr để quét sạch quân Petlyura ra khỏi Ukrain.
Trong kế hoạch này người ta đã bỏ qua điều quan trọng nhất, là ở phía dưới những đường kẻ và những cái vòng nhỏ trên bản đồ quân sự, ở bên dưới những ký hiệu và những con số chi chít ấy là cả một cuộc đấu tranh giai cấp đang sôi sục, với những quy luật và những khả năng đặc biệt của nó. Những cái chấm và những cái vạch trên bản đồ vốn khác nhau về chất: cái thì có thể rót thêm những sức lực mới vào các trung đoàn, đại đoàn và sư đoàn, cái thì có thể làm cho nó suy yếu đi.
Kế hoạch của bộ tổng tư lệnh hồng quân ở vùng này điều động các quân đoàn không theo những phương hướng do chiến lược tối cao của cuộc nội chiến quy định. Cuộc chuyển quân của họ từ phía bắc đến vùng đông nam, dọc theo sông Đôn, sông Khôpr và sông Međvêđitxa, qua những làng cô-dắc có thái độ thù địch, đã làm suy yếu sức tấn công, kéo dài thời gian chiến dịch ra, tạo điều kiện cho địch điều quân và bố trí lại.
Đó chính là những bước lén lút tiếp theo của vụ phản bội ngấm ngầm trong lòng Hội đồng quân sự tối cao của nước cộng hòa, đã cho thi hành cái kế hoạch sai trái của bộ tổng tư lệnh. Sự sai trái này thoạt tiên có vẻ như khó lòng có thể nhận ra được, nhưng nửa năm sau nó đã phát triển thành một nguy cơ ghê gớm.
Cuộc phản công tháng chạp của các quân đoàn đỏ đã bắt đầu ở một vùng cách Đônbaxx khá xa về phía đông, nơi mà dân cư ở các khu mỏ và nhà máy đang nóng lòng chờ Hồng quân đến để khởi nghĩa. Nhưng sư đoàn của Mai-Maievxki đã tràn vào vùng này từ phía nam với những cái giá treo cổ và những chiếc que thông nòng súng làm công cụ hành hình. Sườn bên phải của hồng quân bị uy hiếp. Cuộc tấn công bị hãm lại. Lần thứ ba kể từ tháng tám. Quân đoàn thứ Mười lại phải chịu đựng một mình tất cả sức mạnh của đợt tấn công.
Quân địch đông hơn, được vũ trang đầy đủ hơn và được tiếp tế dồi dào hơn. Lực lượng hai bên tỏ ra quá chênh lệch. Txarixyn gửi ra mặt trận lực lượng tăng viện cuối cùng - tất cả những gì còn có thể huy động được: năm nghìn công nhân. Sức sáng tạo của cách mạng đã cứu vãn tình thế.
Nhân dân Pháp năm 1792, đói khát, đi chân không, vũ trang bằng những ngọn dáo tự làm lấy, muốn chiến thắng những đạo quân chính quy thiện chiến của liên minh châu Âu, đã nghĩ ra cách dùng hỏa lực vũ bão của pháo binh bắn tập trung, và ngược lại với mọi quy chế quân sự, đã nghĩ ra cách dùng một khối bộ binh dày đặc đánh dồn dập vào các phương trận nổi tiếng của vua Friđrich.
Nhân dân Nga đã sáng tạo ra những hình thức tổ chức mới dùng cho các đơn vị kỵ binh. Đại đoàn của Xêmiôn Buđionny xuất thân từ các thảo nguyên vùng Xaixk là một đơn vị được tổ chức như vậy. Sức mạnh của nó không phải chỉ riêng ở lòng dũng cảm. Quân cô-dắc trắng cũng biết cách chém bổ đôi kỵ binh địch, kiếm ngập đến tận yên ngựa. Từ người lính già râu xồm ngồi đánh xe tải cho đến người lính cầm cờ để bộ ria dữ tợn, toàn thể đại đoàn kỵ binh Buđionny đều gắn bó chặt chẽ thành một khối nhờ lòng trung thành và tinh thần kỷ luật. Các đại đội và các trung đội kỵ binh của đại đoàn đều gồm những người cùng làng. Các chiến sĩ, thuở bé vẫn cùng nhau đi bắt châu chấu trên thảo nguyên, nay lại sánh vai nhau hành quân trên lưng ngựa. Con cháu đi trong đội ngũ, cha chú ngồi trên xe súng máy hay đi với đoàn xe tải. Kể từ ngày đầu, khi Xemiôn Buđionny từ làng cô dắc Platôvkaia dẫn ra một kỵ đội gồm khoảng ba trăm lưỡi kiếm, cho đến ngày hôm nay, trong đại đoàn chưa có lấy một trường hợp đào ngũ nào... Vả lại một chiến sĩ đã ở trong một đơn vị như vậy thì bỏ đi đâu? Chẳng lẽ lại về làng, về trại để nhận lấy nỗi ô nhục và bị đem ra xử tội?
Theo một phong tục không được ghi vào điều lệnh, trong đại đoàn có hai tòa án: tòa án chính thức của quân pháp và tòa án không chính thức của đồng đội xử nhau. Người chiến sĩ phạm tội - hoặc vì đã có lúc tỏ ra hèn nhát trong chiến trận, hoặc vì đã không tuân thủ lệnh trên, hoặc vì đã táy máy tham của người, - được đưa ra xử ở tòa án binh. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt, ngoài tòa án binh ra các chiến sĩ còn tự xử lấy những kẻ phạm tội. Vào lúc hoàng hôn họ họp nhau lại ở một nơi kín đáo, xa cách, và bắt đầu xét xử người bạn đồng đội. Và có những khi tòa án binh xét thấy hoàn cảnh này hoàn cảnh nọ, tha bổng cho bị cáo nhưng tòa án đồng đội thì lại nghiêm khắc hơn, tuyên án rất nặng, thế là người kia mất tăm, và không thể tìm ai mà hỏi cho biết số phận của hắn ra sao nữa?
Theo một quy tắc mới, cũng chưa hề được ghi trong một bản điều lệnh tác chiến nào, mỗi đại đội kỵ binh khi xung phong đều tiến thành hai hàng. Hàng trước gồm có những tay kiếm lão luyện có nhát chém rất nặng, thường là những kỵ binh kỳ cựu đã chiến đấu trong quân đội cũ. Họ có những đường gươm ác liệt đến nỗi nhiều khi trên mình con ngựa của địch quân đang bỏ chạy chỉ còn nửa dưới của thân hình chủ nó. Phi sau lưng họ là những tay thiện xạ cầm súng lục cỡ lớn và súng các-bin, khi lâm trận mỗi người có nhiệm vụ bảo vệ người phi trước mặt mình. Được hỏa lực chính xác của đồng đội yểm hộ, những kỵ binh đi đầu mạnh dạn vung gươm xông vào quân địch không cần nhìn trước ngó sau, và chưa có trường họp nào kỵ binh địch, dù có đông gấp đôi hay gấp ba, lại chịu đựng nổi một đợt xung phong tập trung của một đoàn kỵ binh Buđionny gồm nhiều khâu độc lập và có ý thức như vậy.
* * *
Khu trại bốc cháy ở nhiều nơi. Khói dâng cuồn cuộn giữa những mái nhà san sát, ngọn lửa bùng lên, từng chùm tàn rạ đỏ rực bay về phía những đoàn mây thấp. Mấy con chim bồ câu quay lông lốc rơi vào đống lửa. Gia súc rống lên thảm thiết trong chuồng. Một con bò mộng húc đổ hàng rào đi ra ngoài, vừa rống lên vừa chạy thục mạng trên đường làng. Những người đàn bà bồng con bế cái chạy ra khỏi mấy cái nhà đang cháy ngùn ngụt, nhớn nhác tìm nơi trú ẩn. Từ cái làng bên kia dãy đồi, pháo của quân cô-dắc bắn sang tới tấp.
Đến giữa trưa từ phía ấy bắt đầu xuất hiện những đội xích hầu đầu tiên của bộ binh cô-dắc điểm những chấm đen thưa thớt trên một khoảng đất rất rộng, với ý định đi vòng ra bốn phía vây kín lấy khu trại đang bốc cháy và lùa trung đoàn Katsalinxki vào đống lửa. Lúc bấy giờ trung đoàn đang phục dưới những chiến hào vừa đào gấp, chạy từ cái lò rèn ở bên rìa khu trại cho đến bờ ao (băng đóng trên mặt ao đã bị đạn đại bác bắn vỡ hết) rồi rẽ về phía cái chòi xay gió dựng trên gò.
Têlêghin và Ivan Gora cưỡi ngựa đi dọc các chiến hào, theo sau là Agrippina, chiến sĩ cần vụ của chính ủy, mũ chụp lông cừu đội lệch hẳn sang một bên theo kiểu cô-dắc. Thỉnh thoảng họ dừng lại bên một trung đội đang đứng co ro trong một rãnh đất hẹp, bờ rãnh lên ngang thắt lưng, hoặc bên một tiểu đội súng máy. Ivan Ilyits thì da dẻ hồng hào, ánh mắt vui vẻ. Ivan Gora thì mặt mày hốc hác, da xạm đi vì những mối lo nghĩ đêm qua, nhưng bây giờ đã bình tâm lại khi tình hình không còn có gì mập mờ nữa. Têlêghin ngồi lại cho ngay ngắn trên yên, bàn tay đi găng đưa lên miệng như để xóa cái nụ cười cứ tự nhiên nở ra trên đôi môi. Lựa những lúc im ắng giữa hai loạt đạn đại bác rơi nổ ầm ầm, chàng nói:
- Các đồng chí, lần này các đồng chí đã có được một cơ hội giáng lên đầu quân địch một đòn đẫm máu. Các đồng chí không được nổ súng loạn xạ, cứ bình tĩnh, chọn từng mục tiêu mà bắn. Mỗi viên đạn phải hạ một tên địch: đó là kết quả mà chính ủy và tôi mong đợi ở các bạn. Khi chuyển sang phản kích bằng lưỡi lê phải xông lên đồng loạt, thật ăn ý, thật dữ dội... Tôi ra lệnh giữ vững trận địa, không lùi một bước, dù trong hoàn cảnh nào cũng vậy.
Chính ủy Ivan Gora ngẩng đầu lên, hô lớn:
- Đồng chí Lênin muôn năm! Đánh đổ và tiêu diệt chủ nghĩa tư bản thế giới!
Đoạn họ lại thúc ngựa đến một đơn vị khác. Sau khi đã đi suốt chiến tuyến, họ xuống ngựa bên cái chòi xay gió. Trong khoảng thời gian ấy trinh sát đã xác định được rằng đêm qua đã có những đơn vị cô-dắc đông đảo đi vào làng bên kia. Cứ trông cái khí thế tấn công hung hãn của địch có thể đoán ra rằng sự xuất hiện của trung đoàn Katsalinxki ở khu ấp này là một chuyện rất bất ngờ, gây nhiều phiền phức cho chúng trong khi chúng đang thi hành một nhiệm vụ khác nào đấy, và chắc hẳn chúng đã quyết định quét sạch quân đỏ ra khỏi đường đi của chúng trong một trận duy nhất.
Dưới mái chòi xay gió, gió rít lên từng hồi, những trục cối bằng gỗ kêu lên kẽo kẹt, mùi bột và mùi chuột gợi lên cái không khí ấm cúng của gia đình. Ivan Gora, chốc chốc lại thở dài một tiếng, thò đầu qua mấy tấm ván xiêu vẹo, nhìn xem bóng dáng của Xapôjkôv có hiện lên trên cánh thảo nguyên màu nâu đỏ ở miệt đông không. Têlêghin sau khi quát tháo một lát vào cái máy điện thoại đặt ở phía dưới, lại men theo cái thang dốc đứng chạy lên.
- Ta sẽ lặp lại trận Txaritxyn! - chàng nói giọng kích động, tay nâng ống nhòm lên mắt.
- Trận mạc gì, chúng mình bị vây kín như bầy cừu rồi còn gì... Tôi dám chắc với anh là cậu ấy bị chúng nó giết rồi: gần hai giờ rồi còn gì!
- Chẳng dễ gì giết được Xerghêy Xerghêyêvits đâu...
- Thế còn anh sao vui quá lắm thế?
- Đã đánh nhau thì phải đánh nhau một cách vui vẻ chứ, Ivan Xtêpanôvits.
Khói từ những đống rạ đang bốc cháy trên các kho bay là là sát đất về phía quân tấn công. Bây giờ đã có thể phân biệt từng bóng người đang chạy lên từng quãng ngắn. Các đội cảnh giới tiền tiêu của trung đoàn Katsalinxki vừa bắn tỉa vừa rút về các chiến hào. Toàn bộ chiến tuyến của trung đoàn, bao quanh khu trại đang cháy thành một hình móng ngựa không đều, phục sẵn, chờ lệnh.
- A ha! Chúng đang nằm rạp xuống! - Têlêghin reo lên, - Dây thần kinh không chịu nổi hẳn, quân nhãi ranh: xem kìa, xem kìa, các đội xích hầu đang nằm rạp cả xuống... Ivan Xtêpanôvits, anh chạy đi dặn kỹ anh em là tuyệt đối không bắn nhé, chưa có lệnh của tôi là không được nổ một phát nào.
- Chính ủy đến! - Baikôv quát lên, giọng cố ý hoảng hốt - Tất cả về chỗ!
Khẩu đội một, gồm có Baikôv, Zađuyviter, Gaghin và Anixya (chị là đội viên tiếp đạn) đứng dậy và đến đứng ở vị trí chiến đấu của mình. Từ sau bức tường đất sét của một ngôi nhà đã cháy rụi, Ivan Gora hiện ra, và đi sau anh cách một bước là Agrippina. Họ đi về phía trung đội yểm hộ trận địa pháo. Ivan Gora bắt đầu nói với các chiến sĩ. Agrippina đứng bên cạnh anh, người thẳng băng, bàn tay ép sát bên hông cầm một khẩu súng lục cỡ lớn.
- ... Chưa có lệnh riêng thì tuyệt đối không được nổ một phát súng nào, - giọng nói sang sảng của Ivan Gora vọng lại. - Tôi báo trước cho các đồng chí biết: hễ vi phạm lệnh này, sẽ xử bắn ngay tại chỗ...
Baikôv rũ bộ râu mưa bám trông như bạc:
- Anh em phải biết gờm cô gái cầm súng lục kia: cô ta sẽ bóp cò không thương tiếc.
Anixya bẻ lại:
- Sao lại giễu chị ấy? Agrippina là một đồng chí rất tốt...
Ivan Gora quay trở lại khẩu đội pháo, dáng nghiêm trang đến nỗi họ bất giác đứng nghiêm lại, Agrippina bám sát theo từng bước một, như thể đã được xích vào chồng. Khẩu pháo thứ nhất được đặt trên một thứ giàn kỳ lạ chưa từng thấy, ghép bằng những tấm ván đóng vào nhau và những cái bánh xe giàn, xung quanh ngổn ngang những cưa, rìu, gỗ vụn, Ivan Gora nhìn cái kỳ quan này, chớp mắt liền mấy cái rồi hỏi:
- Cái gì thế này?
- Phát minh của chúng tôi đấy, đồng chí chính ủy ạ, - Baikôv đáp. - Đại loại cũng như cái tháp pháo quay được ở trên chiến hạm ấy...
- Bánh xe giàn để làm gì?
- Để quay súng cho nhanh. Cái này đắc dụng lắm...
- Được, được. - Ivan Gora lại đi tiếp.
Agippina bám sát gót chồng. Baikôv đưa mắt chỉ theo:
- Tôi cùng ở đội kịch với chị ta. Thế nhưng chính ủy thì tôi không sợ mà chỉ sợ chị ta thôi... Mắt tròn như mắt chuột, không biết thương xót là gì... Chao ôi, đàn bà, đàn bà... Chúng ta đánh nhau vì cái gì?...

14

- Đarya Đmitrievna ạ, tôi đã mang bánh ra cho anh ấy rồi... họ không cho tôi vào chòi xay... Anh ấy đứng trên chòi gật đầu với tôi: “Đasenka làm lấy thật à?”. Tôi nói: “Chính tay chị ấy làm, chỉ tiếc là nguội mất rồi...”. Anh ấy nói: “Tôi lại thích bánh rán nguội hơn... Nhờ ông chuyển hộ tới Đasa một nghìn cái hôn nhé”.
- Toàn do ông bịa ra cả chứ gì?
- Không phải đâu, thật đấy mà... Cô đã nghe chuyện gì chưa? Cái cậu Ivanôv nhà ta, cậu bác sĩ ấy mà, vừa rồi sợ cuống lên đến nỗi sinh chứng đau bụng và nôn mửa lung tung... Chính ủy điên tiết lên: “Sửa lại gân cho hắn!”. Ông ta ra lệnh lột hết áo quần mang ra giếng dội nước... Cô có nghe thấy cậu ấy kêu không? Đang dội xô thứ ba đấy... Chết cười! Tôi cũng nhát gan lắm, Đarya Đmitrievna ạ...
Đasa đi đi lại lại từ cửa sổ đến cửa lớn: trong căn nhà đã bày sẵn những đồ dùng băng bó và không khí đã sực mùi thuốc carbôlic và iôđôform. Kuzma Kuzmits chạy lăng xăng quanh nàng.
- Có một giấc chiêm bao cứ ám ảnh tôi mãi, hầu như không đêm nào là không nằm mơ thấy: tay tôi cầm khẩu súng trường, trống ngực đập thình thình; tôi bắn, tôi lấy hết sức bình sinh bóp cò, như thể trút hết cả sức lực vào cái súng chết tiệt ấy... Nhưng nó lại không chịu nổ cho; cái kim hỏa cứ uể oải hạ xuống từ từ, một làn khói uể oải bò ra khỏi nòng súng, trong khi đó thì thằng kia - cái thằng tôi đang muốn bắn - một thằng không có mặt mũi gì cả (tôi không bao giờ trông thấy mặt người khi chiêm bao), cứ xấn tới, rộng dần ra... Eo ôi, khiếp quá!
- Sao yên tĩnh thế nhỉ? - Đasa hỏi, bẻ ngón tay kêu răng rắc và dừng lại bên cửa sổ... Trời đã về chiều... những đám cháy đã tàn lụi. Không còn nghe thấy tiếng rít xé tai và tiếng nổ ầm ầm của đạn đại bác nữa. Tiếng súng trường cũng đã im vắng. Các đội xạ thủ cô-dắc đã bò đến rất gần. Chúng đã vây gần kín hết khu trại. Đasa rời cửa sổ, tiếp tục đi đi lại lại. - Sẽ có rất nhiều thương binh. Không biết làm có xuể không?
- Chính ủy sẽ cho Agrippina đến. Sẽ đỡ được cho ta rất nhiều. Đarya Đmitrievna ạ, tôi đã xin được cả Anixya nữa, chính ủy cho rồi: “Trận địa pháo chẳng phải chỗ của cô ấy, - tôi nói thế, - cô ấy thích đứng cạnh khẩu pháo chẳng qua vì lãng mạn đấy thôi...”. Ấy, thế giấc chiêm bao của tôi, nó là cái gì nhỉ?
- Ông nói thật đi: Ivan Ilyits vẫn khỏe chứ? Mọi việc đều ổn chứ?
- Anh ấy thò đầu qua cái lỗ trên mái chòi xay nói với tôi, miệng nhoẻn rộng đến tận mang tai. Anh ấy hoàn toàn tin chắc là ta sẽ thắng trận này...
- Ôi! - Đasa lắc đầu mấy cái thật mạnh. Cần phải buộc mình đừng nghĩ đến mấy tên lính kia đang bò tới như một bầy thú dữ. Dù sao cũng không thể hiểu được... Giống như con quái trong truyện cổ tích kéo sợi dây, nàng lấy hết sức kéo trí tưởng tượng của mình về đây, với những đồ dùng lặt vặt bày trên bàn: những cuộn băng, những lọ thuốc, những khí cụ giải phẫu... Thuốc iôđ ít quá, gay thật! Trí tưởng tượng ngoan ngoãn tuân theo nàng, rồi không biết từ lúc nào, bằng những con đường ngoắt nghéo không thể nào lần ra được, nó lại có mặt ở ngoài ấy, mắt mở rộng như hai cái hồ... Tại sao, tại sao những con người ấy lại nhất thiết cần phải giết tất cả những người vô tội, tất cả những người tốt lành mà mình yêu mến? Lòng căm thù: trong con người còn có một cái gì khủng khiếp hơn nữa? Lòng căm thù đang vây quanh Đasa, nó đang tiến lại gần, tàn nhẫn không gì lay chuyển được, đang rình chờ thời cơ để đâm sâu lưỡi lê vào ngực mình, trong khi những ngón tay co quắp, run lẩy bẩy của mình bám chặt lấy cái lưỡi lê ấy...
- Không, như thế thì thật là xấu hổ. - Đasa nói, và cái nhìn man dại của đôi mắt nàng mở trừng trừng làm cho Kuzma Kuzmits hoảng sợ. - Ông nhìn gì tôi thế? Tôi thấy buồn nôn, giống như ông bác sĩ của ta ấy, ông hiểu không... Tôi không chịu nổi lòng căm thù... Tôi đã chịu một lối giáo dục quá ủy mị phải không? Đấy, ông tha hồ mà cười đi...
Nàng xếp đi xếp lại các chai lọ và các gói nhỏ đựng băng, đựng thuốc, một cách chẳng có chủ đích gì.
- Tôi cũng chẳng hiểu tại sao ông lại đi kể cho tôi nghe một giấc chiêm bao như thế.
- A ha, Đarya Đmitrievna ạ, giấc chiêm bao đã thành sự thật rồi... Có một thứ căm thù nó làm cho người ta trong sạch lên, cũng giống như tình yêu thương... Lòng căm thù ấy như một ngôi sao mai trên vầng trán cao cả. Có một lòng căm thù thú vật, sinh lý, sắt đá: cô hãy sợ thứ căm thù ấy... Tôi còn nhớ năm chín trăm mười bốn, tôi cũng được một phen kinh hoảng... Tôi nghe họ kể lại, hồi ấy lệnh động viên của chính phủ Đức đã đến với kiều dân Nga một cách đột ngột trong khi họ chưa kịp về nước. Họ đổ xô lên chuyến tàu cuối cùng... Nhân viên hỏa xa Đức đã đóng sập cửa toa lại trong khi hàng đám trẻ con đang cố bám vào để leo lên. Thế là hàng loạt bàn tay bé nhỏ đứt lìa ra...Còn giấc chiêm bao thì ý tôi là thế này. Giấc chiêm bao ấy thì tôi sẽ không đời nào đi kể với chính ủy đâu, tôi sẽ không kể cho ai nghe hết, trừ cô ra, mà cũng chỉ trong một lúc như thế này thôi. Tôi bất lực rồi, cuộc hành trình của tôi trên trái đất đã kết thúc. - Ông ta đột nhiên nấc lên một tiếng. - Súng của tôi không nổ được nữa, chỉ phun xì xì...
- Tôi căm thù! - Đasa bỗng hét lên, khớp mấy ngón tay đấm thình thịch lên ngực. - Tôi đã trông thấy, tôi đã từng biết mặt chúng: những cặp mắt của hạng sát nhân chưa gặp thời, những cái má nổi mụn lên vì dục vọng, những cái cằm lẹm sâu vào... Lũ khốn nạn? Đần độn, tối tăm! Trên trái đất này không có chỗ đứng cho chúng nó!...
- Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào, Đarya Đmitrievna. Tốt hơn là ta hãy xem nước trong nồi đã sôi chưa?
Đasa bước nhanh tới cửa sổ. Trong ánh hoàng hôn màu lam xám, từng tốp chiến sĩ hồng quân chạy lom khom, súng cầm lăm lăm như thể đang xuất kích. Nàng trông rõ cả mặt họ, căng thẳng đến nỗi gân guốc hằn rõ lên. Một người vấp ngã, vùng dậy chạy qua, rồi vung hai tay lên, vươn thẳng dậy cố giữ thăng bằng, người quay lại, nhe răng ra.
* * *
Một phát pháo hiệu bay vút lên trên thảo nguyên, bắn ra tung tóe những tia lửa màu xanh lục như màu thuốc độc. Nó rơi xuống từ từ, soi sáng những cái lưng cúi lom khom trong chiến hào và những bóng dáng lính cô-dắc đang trỗi dậy rất gần, chỉ cách chừng dăm chục thước. Giữa đám lính ấy có một người vừa chạy vừa vung gươm quay tít trên đầu. Trong bóng tối dày đặc đã trở lại trong khoảnh khắc nổi lên một tiếng reo hò to dần lên như cơn gió giông: “Urrra-a!”.
Têlêghin bỏ mũ ra, vuốt lòng bàn tay lên mái tóc ướt đẫm. Tất cả những việc gì có thể dự kiến, cân nhắc và thực hiện, đều đã làm xong. Bây giờ tâm lý của chiến trận bắt đầu phát huy tác dụng. Quân địch chắc hẳn phải đông gấp bốn, nếu kể cả những đơn vị hậu bị đã tập trung ở phía xa, nhìn bằng ống nhòm chỉ thấy loáng thoáng.
Mải nhìn, chàng thò đầu hẳn đến tận vai ra ngoài cái lỗ hổng trên mái chòi xay. Bỗng quanh khu trại lóe lên một loạt những đốm lửa của những phát súng trường. Mắt Ivan Ilyits hoa lên... Đây đó trong chiến hào, từng đám người đổ dồn lại... Chàng toan tìm cái mũ: “Quỷ quái, cái mũ như thế mà đánh rơi mất!”. Rồi chàng xuống thang gác lao xuống gò chạy đến chiến hào.
Đợt công kích đầu tiên của quân cô-dắc bị đẩy lùi hầu như trên khắp chiến tuyến, chỉ riêng ở gần lò rèn, cũng như Ivan Ilyits đã dự đoán, cuộc giao chiến bùng lên ác liệt. Ở đây hai bên xông vào nhau đánh giáp lá cà - giữa cảnh hỗn chiến nổi lên những tiếng thét man dại, tiếng lựu đạn nổ ầm ầm. Chàng chạy đến bức vách đất của một túp nhà kho, nơi bố trí quân dự bị, nhưng đơn vị dự bị không còn ở đây nữa: các chiến sĩ không ghìm nổi đã tự ý xông về phía lò rèn cứu viện cho đồng đội. Ivan Gora cũng chạy về phía ấy, lưng còng đi dưới sức nặng của cái túi đựng đầy lựu đạn.
- Chính ủy! - Ivan Ilyits quát! - Làm sao thế này! thật là mất trật tự! Không thể thế được!
Ivan Gora chỉ ngoảnh mặt lại dữ tợn nhìn chàng dưới túi lựu đạn. Bước thêm hai bước nữa, chàng trông thấy Đasa: nàng đang dìu một chiến sĩ đi lò cò một chân vào cổng. Ivan Ilyits dừng lại... Chàng giơ bàn tay lên, ngón xòe ra. “Ra thế đấy - chàng nói - mình đến đây chỉ vì thế...”. Chàng quay ngoắt lại và đi ngược về phía trận địa pháo.
- Ở trận địa pháo ổn cả chứ?
- Ổn như ở nhà Đức Chúa trời vào ngày lễ ấy... Chào đồng chí Têlêghin.
- Các đồng chí! Nạp đạn đi, bắn vào quân dự bị!...
Leo lên một mái nhà gần đấy, Ivan Ilyits dán mắt vào ống nhòm. Quân dự bị của địch, mà ban nãy đứng trên chòi xay chàng đã nhìn thấy, bây giờ đang tiến lại thành từng khối dày đặc. Chàng ngồi trên mái nhà quát xuống:
- Bắn dồn hàng loạt!
Trong bóng hoàng hôn màu chì, ánh lửa của những quả đạn bi lần lượt nổ phụt ra. Những hàng quân tấn công chuệch choạc hẳn đi nhưng vẫn tiến. Đạn bi nổ mỗi lúc một thấp hơn sát đầu chúng. Các hàng quân cô-dắc vẫn tiến. Một phát pháo hiệu vút lên rồi lững lờ rơi xuống như một con rắn lửa bò ngoằn ngoèo tung ra những đốm lửa nho nhỏ trên các hàng quân trông như lũ lính chì, soi sáng cái chiến công anh chị của họ: hôm nay anh em hãy dạo chơi trên đống xương của bọn bolsêvik!... Phát pháo hiệu ấy vừa tắt, thì ở phía đông lại lần lượt vút lên ba phát pháo hiệu liên tiếp, rơi xuống thành những đốm lửa một màu đỏ đục ngầu ghê rợn tỏa khắp bầu trời. Têlêghin hô lớn:
- Trả lời bằng pháo hiệu: ba phát đỏ liên tiếp!
* * *
Quân của Buđionny vào lúc nhá nhem tối đã tiến dọc theo một lũng đất phẳng đáy và lao vào cánh trái của quân cô-dắc đang tấn công khu ấp. Họ xông tới một cách đột ngột và hung hãn đến nỗi chỉ trong một phút các hàng ngũ cô-dắc đã bị đè bẹp và đánh vỡ ra tan tác. Thế là bắt đầu cái thảm họa ghê gớm của bộ binh những khi gặp kỵ binh, một thảm họa không tài nào thoát nổi: cuộc chém giết những kẻ chạy trốn. Ánh lửa của ba quả pháo hiệu từ khu ấp bắn lên soi sáng cảnh tàn sát đang diễn ra khắp cánh thảo nguyên, trong tiếng gươm chém vun vút. Quân lính vứt súng mà chạy, hai tay ôm lấy đầu: một bóng người ngựa đen ngòm trườn tới, và người kỵ binh của Buđionny chân nhún như lò xo trên bàn đạp, nghiêng người sang bên trái, dang hết cỡ tay chém vèo một nhát, thế là một cái xác cô-dắc đứt đôi lăn lông lốc dưới vó ngựa.
Khi đã thấy rằng trên khắp chiến trường các khối quân cô-dắc đều bị đánh tan và bỏ chạy, Buđionny ghìm ngựa lại và giơ cao thanh kiếm lên: “Tập hợp quanh tôi!”. Cùng với nửa đại đội kỵ binh vừa tập hợp lại, ông quay ngựa phi về phía khu ấp. Con ngựa ông cưỡi rất hăng. Xêmiôn Mikhailôvits phi ngựa, người hơi ngả ra phía sau, gươm cầm chúc thẳng xuống bàn đạp cho đỡ mỏi tay, cái mũ lông cừu óng ánh bạc đội hất ra sau gáy để cho gió quạt mát khuôn mặt đổ mồ hôi và tự do thổi vào bộ ria mép. Các chiến sĩ kỵ binh phải luôn chân thúc ngựa mới theo kịp được vị chỉ huy của họ. Họ phi qua bờ ao. Những vũng nước phản chiếu những đốm lửa pháo hiệu đang rụng dần như sao băng. Có mấy người nào không rõ, trông thấy đoàn người ngựa thì cắm đầu bỏ chạy và nằm rạp xuống đất. Không chú ý gì đến họ, Xêmiôn Mikhailôvits giơ gươm chỉ khoảng đất gần cái lò rèn, nơi đang có mấy dơn vị bộ binh cô-dắc quần nhau với trung đoàn Katsalinxki, bất phân thắng phụ; đã mấy lần hết bên này đến bên kia xông lên đâm lê, nhưng rồi lại phải rút về và nằm rạp xuống.
Đơn vị kỵ binh gồm nửa đại đội của Buđionny dàn rộng ra rồi buông cương ngựa hướng theo chiếc mũ lông cừu óng ánh bạc đang nhấp nhô ở phía trước, rời bờ ao rồi lao xuống dốc xông thẳng vào quân cô-dắc. Loạt súng máy và súng trường bắn rất rát cũng như hàng lưỡi lê đâm ra tua tủa đều không chặn được những con ngựa đang thở hồng hộc phi tới. Tất cả những gì lọt vào tầm gươm đều bị chém sạch.
Vào đến đường làng Xemiôn Mikhailôvits mới kìm ngựa lại.
Têlêghin vội vàng ra đón, Xemiôn Mikhailôvits không trả lời ngay. Ông lấy khăn tay lau lưỡi kiếm, vứt khăn đi, tra thanh kiếm đốc bằng đồng vào vỏ, và đưa bàn tay vươn thẳng lên thái dương nói:
- Chào đồng chí. Tôi đang nói chuyện với ai đây? Trung đoàn trưởng à?... Người đang nói chuyện với đồng chí là người chỉ huy đội kỵ binh này, đại đoàn trưởng Buđionny. Tôi ra lệnh cho đồng chí: để lại một đại đội bảo vệ đoàn xe tải và thương binh, những lực lượng còn lại và pháo binh thì lập tức cho tiến công vào làng cô-dắc, chiếm lĩnh làng này và quét sạch bọn cô-dắc trắng.
- Xin tuân lệnh.
- Gượm tí đã đồng chí...
Ông nhảy xuống ngựa, luồn bàn tay dưới dây ràng hàm thiếc, lấy mấy ngón tay đánh vào mồm con ngựa đang cố đớp lấy ống tay áo ông, và chìa tay ra cho Ivan Ilyits bắt:
- Thương vong có nhiều không?
- Báo cáo không.
- Tốt lắm. Thế nào, vừa rồi nếu không có chúng tôi, các đồng chí có tự lực cố thủ được không.
- Được chứ ạ, đạn còn đủ.
- Tốt lắm. Đồng chí đi đi.
* * *
 - Những cơn đau ở bụng đã qua hẳn rồi, Anixya Kônxtantinôvna ạ. Thậm chí tôi không cảm thấy bụng tôi ở chỗ nào nữa... Cơ thể con người thiết bị chẳng hợp lý chút nào: bộ máy trọng yếu nhất mà chẳng có gì bảo vệ cả... Lưỡi gươm vào không sâu quá dăm phân mà đã phá hoại đến nước này... Phá hoại nặng quá... Xin chị tí nước...
Anixya ngồi cạnh Saryghin, mệt mỏi, trầm lặng. Quân y xá bây giờ đặt trong làng cô-dắc, trong một ngôi nhà gạch hai tầng. Trong y xá chỉ còn lại những người bị thương nhẹ và những người không thể chở đi xa được, còn lại đều đã đưa về Txaritxyn từ mấy hôm trước. Saryghin đang hấp hối. Anh không muốn chết chút nào, anh tiếc đời đến nỗi Anixya khổ tâm vô cùng. Chị không còn an ủi anh nữa - chị chỉ ngồi bên giường lắng nghe anh nói.
Anixya đứng dậy để lấy ca múc nước trong xô cho anh uống. Mặt anh bừng bừng như lửa. Đôi mắt xanh và to như mắt trẻ con nhìn theo Anixya không chớp. Chị mặc một chiếc áo choàng trắng của phụ nữ, bộ tóc vàng mà anh thường trông thấy trong giấc mơ được tết lại thành bím quấn quanh đầu. Anh rất sợ chị bỏ đi: những khi ấy chỉ còn biết ngả đầu trên gối, nghiến răng lại và nghe những đợt máu chảy không đều dội lên hai thái dương. Anh nói không ngớt miệng. Những ý nghĩ của anh bừng bừng lên như một ngọn nến sắp tàn lụi - có khi nó liếm quanh rìa cây nến và sáng rực lên, có khi nó lại thấp dần xuống và lắt lay chực tắt.
- Hồi ấy trông chị xấu lắm, Anixya Kônxtantinôvna ạ, già gấp đôi tuổi ấy... Chị cứ tì má vào tay nhìn trân trân mà trước mắt chẳng trông thấy gì, - mắt chị tối sầm lại vì buồn tủi... Nhưng tôi không phải là người hay thương xót: tôi đã xua đuổi được thương xót ra khỏi lòng tôi... Những người hay thương xót là những người chai sạn nhất. Trong đời chỉ nên thương xót một lần thôi... Và sau đó thì thôi, vặn tắt ngay đi... Hãy đưa trái tim lên đe, rồi lại tôi nó vào than hồng, rồi quai búa một lần nữa... Những người thanh niên cộng sản phải như thế... Hồi ấy trên tàu thủy tôi có triệu tập một cuộc họp kín và giải thích cho các đồng chí hiểu rằng động đến chị là không xứng đáng đối với một chiến sĩ cách mạng... Chao ôi, Latughin, Latughin!... Cái đó tuyệt nhiên không cần thiết đối với chị, Anixya Kônxtantinôvna ạ... Cách mạng đã thu nhận chị. Chị đã xinh đẹp hẳn lên: cái đó tuyệt nhiên không phải để dành cho cậu ấy... Vì đi vào đấy là bế tắc... Vấn đề này phải đặt ra, phải đấu tranh cho nó.
Ngọn lửa của đời anh liếm quanh rìa sự sống, ước lượng trước bóng tối đang tiến đến gần, và hạ thấp xuống. Saryghin đưa cái lưỡi khô liếm lên môi. Anixya đưa ca nước lại cho anh. Anh lại nói tiếp:
- Tôi biết là tôi đang hấp hối, điều đó tôi không còn hồ nghi chút nào nữa. - Tôi muốn các đồng chí nhớ đến tôi. Tôi người Pêtrôgrad, ở đảo Vaxilievxki. Bố tôi làm thợ mộc, tôi đi học trường thủ công, rồi về làm với ông cụ... Ông cụ bào, tôi bào, ông cụ bào, tôi bào... Cả hai cứ lặng thinh mà làm, lặng thinh suốt ngày... Rồi tôi đi làm xưởng đóng tàu Baltic... Ở đấy tôi đã phát hiện ra điều chủ yếu nhất: tôi sống để làm gì... Bắt đầu cơn sốt của trí óc, tâm trạng sốt ruột. Những lý tưởng cao cả thu hút tôi, tôi không thể nào chịu nổi tình trạng thấp hèn được nữa, dù chỉ một giờ... Rồi chiến tranh bùng nổ, tôi bị sung vào hải quân: tôi căm giận đến nỗi răng cứ muốn nghiến vỡ ra... Anixya Kônxtantinôvna ạ, sao chị lại không hiểu rằng tôi đã được nhìn thấy con người thật mà chính chúng tôi đã tưởng tượng ra, đã giành được trong chiến đấu, đã tự tay mình làm ra?... Chả nhẽ chúng tôi lại để cho chị ra đi, lang thang vô định, đầu cúi gầm?... Nếu thế thì cách mạng để làm gì? Như thế không được... Chị phải trở thành diễn viên... Tối nào tôi cũng quanh quẩn bên cái nhà lán ấy, tôi đã được nhìn, tôi đã được nghe... “Ôi, vì Chúa, vì tất cả những tấm lòng từ ái... Tôi đã bị hắt hủi, tôi đã bị ruồng bỏ rồi...”. Chị sẽ làm cho những hàng quân rung chuyển vì xúc động... Hết nội chiến, chị sẽ trở thành một diễn viên cỡ thế giới. Chị phải đi theo con đường ấy... Những tình cảm ủy mị chẳng có ích gì cho chị đâu. Cậu ấy sẽ hót bên tai chị, nhưng chị đừng có nghe, Anixya Kônxtantinôvna ạ, tôi muốn chứng minh để chị hiểu rằng chị không có quyền có một đời tư... Sao chị quay mặt đi?... Để tôi nghỉ một tí, lấy lại sức, rồi tôi sẽ nói nữa cho chị nghe... Tôi có bỏ qua mất một điều gì, một luận chứng quan trọng...
Đầu anh vật vã trên gối. Rồi anh lặng đi và hồi lâu chẳng nói gì. Anixya cúi sát xuống nhìn anh: qua hai mi mắt hé mở không còn trông thấy đôi đồng tử của anh nữa. Không phải những lời lẽ của anh, mà chính đôi mắt lờ đờ buồn thảm của anh đã xáo động tâm can chị. Và chị đã hiểu ra tất cả những điều mà anh muốn thổ lộ qua những lời lẽ tối nghĩa như lời mê sảng của anh.Chắc hai đứa con nhỏ của chị hồi nào cũng đã hoảng sợ gọi chị như thế khi lửa réo vù vù quanh đống phân ngựa phơi khô, nơi chúng nép vào nhau ngồi im theo lời chị dặn. Từ dạo ấy Anixya không một lần nào hồi tưởng lại hai khuôn mặt ngây thơ ấy: chị sợ cái kỷ niệm ấy lắm. Bây giờ chúng nó hiện ra rõ mồn một trước mắt chị: thằng Petruska lên bốn và con bé Anyuta em nó, hai đứa trẻ tóc quăn, má phính, hay cười, mũi bé tẹo... Và bây giờ đứa thứ ba đang gọi chị. Chị đang từ biệt nó, chị đang tiễn nó đi.
Anixya vuốt nhè nhẹ mái tóc rối của Saryghin. Hai hàng mi anh run run, và chị thấy những vệt màu chàm lan rộng dần trên hai thái dương anh.
* * *
Tối thứ sáu nào tổng tư lệnh Đênikin cũng đến đánh bài vint ở nhà bà Êkatêrina Alekxêyevna Kvasina, một người bà con xa bên họ ngoại. Những ván bài này bắt đầu từ những năm 1890, hồi Antôn Ivanôvits Đênikin còn đi học ở học viện quân sự và thuê một phòng trong căn nhà sạch sẽ, tinh tươm theo kiểu Pêterburg của bà Êkatêrina Alekxêyevna dọn ở tầng dưới một tòa nhà gác ở đại lộ số 5 trên đảo Vaxilievxki. Từ dạo ấy trong số bốn người vẫn thường xuyên ngồi quanh cỗ bài chỉ còn hai người ở lại thế gian này: Antôn Ivanôvits và Êkatêrina Alekxêyevna. Những biến cố tàn nhẫn của thời đại đã xua họ về Êkatêrinôđar. Vì ý Chúa, Antôn Ivanôvits đã trở thành người đứng đầu các lực lượng vũ trang bạch quân, còn Êkatêrina Alekxêyevna, đã bỏ Pêterburg trốn về đây từ đầu năm 1918, sống một cách thanh đạm với cô con gái út, cũng tên là Êkatêrina Alekxêyevna.
Quan tổng tư lệnh đã mấy lần lấy cớ này cớ nọ đề nghị Êkatêrina Alekxêyevna nhận để mình giúp đỡ nhiều, nhưng lần nào bà cũng trả lời: “Giữa ông và tôi đừng thế thì hơn, Antôn Ivanôvits ạ: đồng tiền làm hỏng mất tình bạn”. Bà nhận những bản in thử của Sở Thông tin về nhà chữa, và ngoài ra, hai mẹ con bà cũng còn ít tư trang lặt vặt để phòng khi túng quẫn.
Tối thứ sáu là một tối bất khả xâm phạm. Kể cả quan tham mưu trưởng là tướng Rômanôvxki, không ai dám đến quấy rầy quan tổng tư lệnh trong khi ngài đang đánh bài vint đã trở thành truyền thống thiêng liêng. Đúng tám giờ tối, một chiếc xe độc mã bỏ mui đỗ trước cổng ngôi nhà gỗ thanh bạch ở một khu phố cách biệt bên rìa thảo nguyên. Quan tổng tư lệnh dặn người đánh xe - một lão râu ria ngực đeo đầy huân chương Ghêorghi - đến đón ngài lúc mười hai giờ đêm, rồi từ tốn bước vào cổng và đi lên thềm. Đến đấy, cánh cửa trước tức khắc mở ra trước mặt ngài.
Những tên mật thám do ông trưởng ban phản gián phái đến đây vào những buổi tối thứ sáu cố sao đừng lọt vào mắt quan tổng tư lệnh. Một tên ngồi trên mái, thu mình nấp sau cái ống khói lò sưởi, một tên khác nấp sau cây phong dương hình chóp ở bên kia đường, hai tên nữa nấp trong sân, sau cái thùng rác. Là một quân nhân chân chính, Đênikin rất ghét bọn mật thám. Một hôm tay cầm bài, nhân nói đến sự cần thiết đáng buồn này, ngài có kể một câu chuyện về cố Sa hoàng. Nikôlai đệ Nhị sinh thời vẫn thích đi dạo một mình trong khu vườn ở Txarxkôiê Xêlô. Từ sáng sớm người ta đã cho mật thám nấp sau những bụi bờ dọc những con đường mòn mà hoàng thượng có thể đi qua. Vào mùa đông, họ bị tuyết phủ trắng xóa, chẳng ai trông thấy được. Có một lần đang đi dạo như vậy thì hoàng thượng chợt nghe thấy một tiếng nói thều thào từ một bụi cây ở sau lưng ngài phát ra: “Số bảy đã đi qua”. Nikôlai hết sức bực mình, không hiểu tại sao bọn mật thám lại dùng mật hiệu “số bảy” để gọi Ngài. Ngài bèn cách chức viên dội trưởng đội bảo vệ và sau đó mật thám bắt đầu gọi Ngài là “số một”.
Bước vào gian phòng lót nhỏ bé thắp ngọn đèn nến, Đênikin bỏ đôi giày lót ngoài bằng da gót bịt đồng, tự tay cởi cái áo ca-pốt rộng may bằng thứ dạ dùng cho lính, hàng lót màu mận - bao giờ ông cũng tự cởi lấy, không cần ai đỡ hộ - vuốt bộ tóc thưa thớt màu chì chải ngược ra phía sau: và đến hôn tay bà Êkatêrina Alekxêyevna. Ngài giơ hai tay cầm lấy bàn tay xinh đẹp và yếu ớt của tiểu thư Êkatêrina Alekxêyevna, âu yếm vỗ vỗ mấy cái và quay về phía hai người khách đã đến trước chào một câu ngắn gọn và ôn tồn: “Xin chào các vị”. Hai người khách cùng đến đánh bài vint với quan tổng tư lệnh hôm nay là công tước Lôbanôv-Roxtôvxki, sĩ quan phụ tá của ngài, và Vaxili Vaxiliêvits Xtrupê, cựu vụ trưởng của một bộ nào không rõ, một người Pêterburg kỳ cựu, rất dễ ưa.
Trong phòng khách bàn đã bày sẵn, trên tấm nỉ xanh có đặt hai ngọn đèn nến và cỗ bài trang ra thành hình quạt. Ngay đến những viên phấn và những chiếc bàn chải con con hình tròn cũng giữ đúng truyền thống như trong những năm tươi sáng ở đảo Vaxilievxki.
Êkatêrina Alekxêyevna, mình mặc chiếc áo dài đen đã sờn cũ, thân hình bé choắt, phần dưới béo phình ra, bao giờ cũng vui vẻ tươi cười, lăn tròn trên đôi chân ngắn lủn củn đến cạnh bàn. Cái mặt tròn trĩnh của bà tươi cười, cái miệng rộng đon đả nói liến thoắng. Vì bà rất hoạt bát nhanh nhẹn, cho nên cái ghế cũ kỹ cứ luôn luôn kêu kẽo kẹt dưới người bà. Dưới chân ghế bà có đặt một cái đòn nhỏ để kê chân. Trước khi rút con bài để quyết định cách phân chỗ ngồi quanh bàn, bà thử đoán trước kết quả, và lần nào cũng đoán đúng được kết quả rút thăm: người bạn cùng phe của bà trong ván bài bao giờ cũng là quan tổng tư lệnh. Bà vui vẻ vỗ đôi tay múp míp vào nhau trước mặt mình, nói:
- Đấy các ngài thấy chưa, tôi lại đoán đúng... Katya ạ, ta lại cùng phe với Antôn Ivanôvits...
- Tuyệt thật, - Vaxili Vaxiliêvits Xtrupê nói, giọng rầu rĩ, rồi ngồi xuống chọn lấy một viên phấn và một cái bàn chải.
Vaxili Vaxiliêvits, con người theo chủ nghĩa hoài nghi, tính tình điềm đạm, am hiểu mọi sự ở đời, ăn nói rất sắc sảo và dí dỏm, có khuôn mặt gầy nghiêm khắc già trước tuổi, là một đối thủ tối lợi hại trong bài vint, và cũng như tất cả những người Pêterburg khác, có một thái độ nghiêm trang rất thanh lịch đối với trò chơi này.
- Tuyệt thật, đúng như một ông thất phẩm có nói trong khi lật hết chủ bài ra, - ông ta nhắc lại, và mấy ngón tay trau chuốt có bộ móng cứng cáp của ông bắt đầu nhanh nhẹn trang bài.
Người khách đánh bài thứ tư, công tước Lôbanôv-Roxtôvxki, tuy hãy còn trẻ, cũng là một đối thủ lợi hại. Những nhiệm vụ của công tước trong khi giữ chức sĩ quan phụ tá cho quan tổng tư lệnh chỉ giới hạn trong việc đánh bài vint và một vài công việc sai phái riêng của ngài. Việc quân cơ đã có những người khác, có tác phong hiện đại hơn, đảm nhiệm. Cũng như mọi người trong dòng họ Lôbanôv-Rôxtôvki, công tước rất xấu giai, đầu thì hói mà dài, với một vầng trán đồ sộ tương phản với những nét mặt vô nghĩa. Nếu không kể một khuyết điểm nhỏ - cái thói cứ cựa quậy đôi chân dài ngoẵng dưới bàn như đang mót đi giải - công tước là người rất lịch sự. Ông không bao giờ phát biểu ý kiến của mình ra; hễ có ai hỏi ông điều gì, ông ta đều trả lời một câu ngớ ngẩn đến bất ngờ, vì ông hiểu rất rõ rằng người ta chẳng bao giờ hỏi ông một việc gì nghiêm túc; ông ân cần mà không quỵ lụy, và mùa hè vừa qua trong các chiến trận ông đã tỏ ra can đảm.
Họ đánh bài như thể đang làm tròn một lễ nghi tôn giáo. Trong nhà này và vào những giờ này, người ta không nói chuyện chính trị. Chỉ nghe thấy những tiếng: “Ca-rô... Cơ... Không có chủ bài... Hai không chủ bài...”. Ngọn nến nổ lép bép. Một làn khói mảnh bốc lên từ điếu thuốc lá gác trên thành đĩa gạt tàn bằng thủy tinh. Và cuối cùng:
- Thế nào đây, Êkatêrina Alekxêyevna, ta chịu thua thôi chứ?
- Tiếc quá, thật tiếc quá, Antôn Ivanôvits ạ.
Tiểu thư Êkatêrina Alekxêyevna cúi đầu ngồi đan trên chiếc đi văng nhỏ bọc nhung kẻ, miệng mỉm cười... Gương mặt, đôi mắt và mái tóc tiểu thư đều không có màu sắc. Trong những nét cong của cái cổ mềm mại và trong đôi tay xinh đẹp của tiểu thư có thể cảm thấy một niềm khao khát được vuốt ve mơn trớn, một niềm khao khát chưa hề được thỏa mãn bao giờ. Êkatêrina Alekxêyevna đã hai mươi sáu tuổi. Nàng rất đa tình, nhưng những câu chuyện yêu đương của nàng đều kết thúc một cách đáng buồn: khi thì chàng hối hả giã từ lên đường ra mặt trận, khi thì chàng lại tàn nhẫn báo cho biết một tin bất ngờ là chàng đã có người yêu khác. Bây giờ nàng đem lòng yêu Lôbanôv-Roxtôvxki, con người xấu giai nhưng có duyên lạ lùng. Chàng ta thường tán đùa tiểu thư: điều đó làm cho quan tổng tư lệnh hài lòng, vì ngài vẫn coi tiểu thư gần như con gái mình. Giống như các tiểu thư thời trước, nàng thường mơ ước rằng một ngày kia chàng sẽ để quên hộp thuốc lá ở nhà nàng, rồi đến sáng hôm sau, trong khi bà Êkatêrina Alekxêyevna đi vắng, chàng sẽ cưỡi ngựa xuất hiện trước cửa sổ, sẽ bước vào nhà, cựa giày kêu lẻng xẻng, sẽ chào nàng (lúc bấy giờ nàng sẽ mặc chiếc áo dài đen cổ trắng, tay có măng-sét), sẽ xin lỗi, và đang nói dở một câu bông đùa, chàng sẽ ngừng bặt, lặng đi, vì nhìn gương mặt nàng, chàng đã hiểu. Họ sẽ vào phòng khách, hai người đều xúc động... Đột nhiên, chàng sẽ nắm lấy hai cánh tay nàng ở phía trên khuỷu tay, sẽ kéo nàng vào lòng và nói, giọng xúc động: “Trước đây tôi chưa biết rõ em; bây giờ tôi mới biết em là một người khác hẳn, một đóa hoa thơm ngát...”. Đến đây trí tưởng tượng đang bay bổng của nàng dừng lại... Êkatêrina Alekxêyevna ngồi đan, miệng mỉm cười, không ngước mắt lên nhìn công tước đang ngồi giữa hai ngọn nến: chỉ cần chàng đang ở đây, mà nàng ngửi thấy mùi thuốc lá thơm đắt tiền của chàng, đối với nàng như thế cũng đủ lắm rồi...
Cái thế giới con con, cái mảnh vỡ của nước Nga cũ mà những tối thứ sáu tổng tư lệnh Đênikin đến nghỉ ngơi sau những nỗi lo âu nặng nề của ngài, là như vậy đó.
Hôm nay, trái với lệ thường, quan tổng tư lệnh đến muộn, dáng lo âu và hơi lơ đãng. Trong khi bỏ giày ngoài, ngài giẫm phải chân con mèo đang quấn quít quanh chân ngài: con mèo kêu ré lên một tiếng chối tai, Lôbanôv-Roxtôvxki phải vội vàng xách nó xuống nhà bếp. Bà Êkatêrina Alekxêyevna cười xòa. Vaxili Vaxiliêvits nói: “Cái giống mèo nhiều khi đến là khó chịu”. Mọi người chờ đợi Đênikin vào phòng khách. Nhưng ông trầm ngâm treo chiếc áo khoác lên mắc áo và cứ đứng yên, tay vân vê bộ ria bạc nhọn hoắt. Bấy giờ gương mặt mọi người đều nghiêm lại, và khoảng im lặng đầy lo âu kéo dài mãi cho đến khi công tước quay trở ra báo rằng con mèo không việc gì cả.
- Aha, - Đênikin nói, - thế thì tốt... Ta đừng để mất thì giờ.
Ngài chơi bài không được như mọi khi, đánh ra những con bài đáng lẽ không nên đánh, và luôn luôn ngoảnh ra cửa sổ, tuy các cửa sổ đều đã đóng kín. Tiểu thư Êkatêrina Alekxêyevna khoác áo lông ra sân xem thử đội bảo vệ có mặt ở vị trí không. Tên mật thám ngồi trên mái nhà sau cái ống khói lò sưởi, trong khi gió buốt thổi hun hút và vầng trăng khuyết lặn ngụp trong những đám mây lao đi vun vút như đã phát điên, cất tiếng gọi nàng, răng đánh vào nhau côm cốp:
- Tiểu thư ơi, làm ơn cho tôi xin chén rượu, vì Chúa...
Vào khoảng mười giờ có một chiếc hơi đỗ xịch trước cổng. Quan tổng tư lệnh đặt bài xuống, đôi mắt lo âu sáng quắc lên. Tướng Rômanôvxki, cao lớn, hồng hào, kiêu căng, bước vào phòng, mình mặc áo khoác sĩ quan, hai sợi dây thắt mũ chụp buộc chéo trên ngực. Ông ta bỏ mũ lưỡi trai, cộp gót giày đeo cựa đánh xoảng một tiếng rất gọn, cúi đầu chào mọi người.
- Antôn Ivanovits, tôi đến tìm ngài.
- Thế đã xong chưa?
- Thưa ngài, xong rồi ạ.
Đênikin hối hả đứng dậy.
- Tôi sẽ quay lại, các vị ạ, xin các vị thứ lỗi cho: hoàn cảnh nó như vậy.
Và khi đã ra đến phòng lót, mãi không xỏ được tay vào ống áo, ngài lại nói:
- Công tước ạ, công tước ở lại mà chơi một ván robber đi... Vậy tôi chưa cáo từ đâu nhé, Êkatêrina Alekxêyevna ạ...
Khách và chủ lại ngồi vào bàn, nhưng chẳng ai muốn đánh bài nữa. Bà Êkatêrina Alekxêyevna buông một tiếng thở dài dè dặt. Vaxili Vaxiliêvits cau đôi mày rậm rạp, lấy phấn vẽ lên tấm nỉ xanh những cái giá treo cổ nho nhỏ và những con quỷ tí hon. Công tước ngồi xuống cạnh tiểu thư Êkatêrina Alekxêyevna trên chiếc đi văng con. Nàng tươi hẳn lên và buông mớ len đan xuống. Đùi rung lia lịa, chàng bắt đầu kể rằng ở đây chàng đã tìm được một bà thầy bói phi thường và đang có ý định đưa bà ta đến nhà Antôn Ivanôvits.
- Bà ta xin một sợi tóc của khổ chủ cho lên ngọn nến đốt đi, rồi miệng bà ta sùi bọt mép ra...
- Bà bói cho công tước thế nào?
- Bà ta nói là tôi sẽ rong ruổi đường trường trên mình ngựa, tiểu thư có tưởng tượng được không: tôi sẽ bị thương ba lần, và mọi sự sẽ kết thúc bằng một đám cưới tưng bừng.
Hai chân ngọ nguậy càng hăng, người lắc lư thật mạnh như có ai nắm lấy tay chàng mà lay, công tước cười ngặt nghẽo. Cái cổ nõn nà và cái tai xinh xẻo của Êkatêrina Alekxêyevna ửng hồng lên.
- Tình hình bây giờ bất an lắm, thật thế, - bà Êkatêrina Alekxêyevna vừa nói vừa dụi mắt. - Thần kinh ai nấy đều căng thẳng... Lạy chúa, trước đây chúng ta có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ sống như thế này đâu...
- Phải, phải, chúng ta nghĩ khí ít, - Vaxili Vaxiliêvits nói, đoạn vẽ lên tấm nỉ một cái rìu và một súc gỗ kê đầu cho tử tù. - Nước Nga là một xứ sở kỳ quặc...
Quan tổng tư lệnh giữ đúng lời hứa: khi chiếc đồng hồ Anh-cát-lợi bọc nhung điểm mười một tiếng thanh thanh, ngoài cổng liền có tiếng xe hơi đỗ, và Antôn Ivanovits lại tháo giày ngoài, nói:
- Tôi biết, tôi biết, hôm nay có món gà tây nấu hạt dẻ, bà Êkatêrina Alekxêyevna ạ... nhân dịp này, công tước thân mến hãy ra xe lấy cho tôi chai sâm banh...
Quan tổng tư lệnh phấn chấn, ngài xoa xoa hai tay vào nhau, nhưng khi có người đề nghị đánh một ván robber, ngài khước từ: “Thôi, tôi với bà Êkatêrina Alekxêyevna xin hàng trước đi thôi, chỉ xin vớt lấy danh dự”. Ngài lại còn có nhã ý lấy một điếu thuốc lá trong cái hộp của Vaxili Vaxiliêvits châm hút, điều mà trước đây không bao giờ thấy ngài làm. Khách và chủ nóng lòng muốn ăn bữa khuya ngay. Họ đi sang căn phòng ăn nhỏ, nơi mà theo lối cũ có hai cây nến rọi ánh sáng dìu dịu lên những tấm giấy dán tường rẻ tiền và bàn ăn bày những cái đĩa con con đã mẻ đựng những món pa-tê và những thức ăn nguội nhà làm lấy rất ngon lành. Chỉ thiếu một món ăn mà Antôn Ivanovits rất thích là món cá chình nấu xốt mù-tạt. Ngoài ra cũng không có cái không khí thanh thản như mọi lần ngồi vào bàn ăn sau ván bài robber trong khi vẫn tiếp tục bàn cãi: “Ấy, lẽ ra phải đánh hết mấy con pích đi...” hay là “Bà ơi, tôi đã biết thừa trên tay ông ấy còn con át, con tẩy, con đầm, thế mà bà cứ huých chân tôi mãi...”.
Công tước, cảm thấy không khí hơi căng, bèn hy sinh đứng ra thu hút sự chú ý của mọi người bằng cách kể lại chuyện một lão gác cổng ở khu Pêterburgskaia Xtôrôna, nắm được bí quyết chữa đau răng, chữa bỏng và chữa chứng viêm quầng bằng bùa chú, ngoài ra chính lão ta đã tiên đoán được cuộc chiến tranh với Đức bằng cách bói bã cà phê. Lời nhắc nhở đến chiến tranh không được hợp cảnh cho lắm. Vaxili Vaxiliêvits lập tức cầm bình vôđka lên rót cho mọi người:
- Vậy phải nâng cốc chúc cho đất Nga-la-tư mãi mãi sản sinh ra những ông gác cổng kỳ diệu như vậy...
Vừa lúc ấy người nhà bưng món gà tây lên. Quan tổng tư lệnh ngả người trên lưng ghế tựa, đưa đôi mắt nghiêm nghị theo dõi cách bưng đĩa, cách đặt nó xuống giữa mặt bàn đã bày chật những món khác. Từ con gà tây hơi bốc nghi ngút lên hai ngọn nến làm cho nó khẽ chao đi.
- Ấy, chỉ có ở Nga ta mới có được những con gà tây như thế này. - ngài nói đoạn chọn một cái cánh. Công tước đứng dậy, mở nút chai sâm banh không một tiếng động và rót rượu vào các chén trà. Antôn Ivanôvits thong thả rút cái khăn ra khỏi cổ áo, cầm lấy cốc, tay vịn vào thành ghế đứng dậy nói:
- Thưa các vị, tôi không thể cầm lòng được, đành phải báo tin cho các vị mừng - số là sáng nay quân Pháp đã đổ bộ ở Ôđexxa, quân Hy lạp đã chiếm Kherxôn và Nikôlaiev. Thế là sự viện trợ của đồng minh, mà ta vẫn mong đợi bấy lâu, nay đã đến...
* * *
Đi trên chiếc máy bay Anh vừa hạ cánh ở Êkaterinôđar có một con người kỳ quặc đến nỗi trong các giới cầm quyền và các giới có thế lực người ta không biết nên nghĩ như thế nào nữa: không biết đó là một phái viên mật của Clêmăngxô, hay chỉ là một tay giang hồ, hay có khi lại là một yếu nhân cũng nên. Họ hắn là một họ Pháp: Jirô; người ta gọi hắn là Piôtr Pêtrôvits, hắn nói tiếng Nga rất trơn tru, giọng miền nam rõ rệt; hắn mang hộ chiếu Uruguay, tuy điều đó chứng minh cái tài xoay xở của hắn nhiều hơn là chứng minh quốc tịch của hắn. Hắn đi từ Pari sang đây trên chiếc tàu thủy chở súng đạn và các thứ vũ khí khác đến Nôvôrôxxixk. Những giấy tờ mà hắn xuất trình trước quan tư lệnh thành phố đều hoàn toàn hợp lệ. Đó là: những bức thư giới thiệu của các hạ nghị sĩ; một bức thư của bộ trưởng bộ nghi lễ, và một bức nữa của một công tước phu nhân Pháp tên rất khó đọc, một cái thẻ phóng viên của báo Le petit Parisien [Cậu bé Paris] và cuối cùng là những thư giao dịch của nhiều hãng buôn khác nhau, lúc bấy giờ đang mọc lên như nấm trên những khối hàng đủ loại, nhất là những hàng chóng hỏng, từ khắp thế giới chở vào Pháp.
Dù có nghĩ nát óc ra cũng chịu. Chỉ biết là từ trên trời đã rơi xuống cái thành phố Êkaterinôđar hẻo lánh, hãy còn nguyên những vết tích của các trận đánh hồi tháng ba và mùa hè vừa qua, một con người từ Pari tới, ăn mặc bảnh bao, phong thái đặc Tây Âu, ngoài khoác cái áo lông ngắn cổ xkunx thắt cái khăn quàng ngũ sắc che kín cả ngực, xách hai cái va-ly mới tinh, vai đeo máy ảnh, chân đi đôi giày giôn đẹp chưa từng thấy, đế da dày và dôi ra ngoài một cách tân kỳ đến nỗi ngay cả quan tư lệnh thành cũng không sao rời mắt ra được, đó là chưa nói đến công chúng ở ngoài phố, khi Piôtr Pêtrôvits Jirô đi sau người lính cô-dắc xách hộ hai chiếc va-ly, vui vẻ ngẩng cao mái đầu đội chiếc mũ phớt màu xám nhạt cực kỳ trang nhã.
Người ta dọn chỗ cho vị khách nước ngoài trong khách sạn sang nhất, dành cho ông ta một căn buồng “thượng hạng” sau khi đã tống cổ tên đầu cơ Paprikaki và cô nhân tình của hắn đi nơi khác.
Hôm sau, Jirô đến yết kiến tướng quân Đênikin.
Antôn Pavlôvits rất lúng túng, bèn cử tướng Rômanôvxki ra phòng khách tiếp hộ, và nói rằng quan tổng tư lệnh hơi khó ở, nhưng rất lấy làm hân hạnh là thành phố của mình được đón tiếp một vị khách thú vị như vậy.
Jirô lại ghé thăm giáo sư Kôlôgrivôv, một trụ cột của Hội đồng Đuma Quốc gia, và là người tạo nên xung quanh Đênikin cái không khí của một “Trung tâm Quốc gia”. Giáo sư Kôlôgrivôv rất quen thuộc và yêu mến thành Paris. Giáo sư giữ ông Jirô rất đáng mến ngồi chơi suốt mấy tiếng đồng hồ, hân hoan nhắc lại những bữa ăn trong những quán nhỏ và những trò giải trí ban đêm ở khu Môngmartrờ. Ông ta nhớ lại mùi các đại lộ, và tuy mang cái bụng phệ và bộ râu rối bù ông cũng làm ra một vẻ mặt tinh quái rất trẻ trung:
- A, cher ami [Bạn thân mến], làm sao nói cho hết được: lại còn cái mùi hương đặc biệt, vô song của đàn bà Pari nữa!... Ôi, tôi sẵn sàng cúi xuống hôn từng viên đá trên các phố Pari. Phải, phải, mong ông đừng lấy làm lạ: trong mỗi người Nga ông sẽ tìm thấy một người yêu nước Pháp nhiệt thành... Đấy, chính cái ấy mới là đề tài đáng cho ông viết!...
Họ quyết định một nhóm hạn chế gồm những đại diện của “trung tâm Quốc gia” sẽ tụ tập ở một ngôi nhà riêng và trong bữa ăn trưa sẽ nghe ông Jirô thông báo về tình hình chính trị quốc tế.
- Cher ami! - Giáo sư Kôlôgrivôv thốt lên, tay thân mật vân vê mấy cái cúc trên áo vét-tông của vị khách. - Ông sẽ thấy những con người đã hiểu được sớm hơn các ông ở châu Âu cái hiện tượng quái gở của lò sát sinh đỏ... Chủ nghĩa bôlsêvik là mối hằn học của lũ dân đen muốn phá hoại tất cả, đó là sự phẫn nộ điên cuồng của những cặn bã của nhân loại... Các ông, ngay cả những người ưu tú nhất, thông minh nhất, đều đang nghiêng mình kính phục trước chủ nghĩa xã hội. Xì! Thật là tầm thường, dung tục! Chủ nghĩa xã hội thì có, nhưng những con người xã hội chủ nghĩa thì không, vì chủ nghĩa xã hội không thể nào thực hiện được... Chúng tôi sẽ chứng minh cho các ông thấy điều đó! Lịch sử đã chọn giao phó cho nước Nga cái sứ mệnh làm cái đập kiên cố chặn đứng những đợt sóng vĩnh cửu của những xu hướng vô chính phủ, do đó chúng tôi là kẻ đang đứng mũi chịu sào để tạo điều kiện cho nền văn minh châu Âu có thể phát triển một cách yên tĩnh. Vì sự nghiệp đó, vì sự sống còn của châu Âu, của toàn thế giới đang bị bóng ma đỏ đe dọa, chúng tôi giơ tay về phía các ông: hãy giúp đỡ chúng tôi... Chúng tôi sẵn sàng nhượng bộ bất cứ điều gì, nước Nga sẽ nhận lấy bất cứ sự hy sinh nào... Đó chính là đề tài ông cần viết...
Cái bữa ăn trưa ấy đã gây nhiều phiền hà: cứ thử kiếm cho ra ở cái xứ Êkatêrinođar này một cái gì tinh tế một chút mà xem! Quanh đi quẩn lại chỉ có thịt mỡ ướp, thịt ngỗng và thịt lợn: chả nhẽ lại dọn cái món thịt băm ra thết một người Pari sao? Một thành viên của “Trung tâm Quốc gia” là Fon Lize, một người sành ăn nổi tiếng, đề nghị nột thực đơn như sau: xúp, pa-tê-sô, mát-lốt sốt vang đỏ và gà bỏ bong bóng lợn chưng cách thủy (không dính một giọt nước nào!). Họ nhờ gã đầu cơ Paprikaki kiếm cho một ít rượu vang khả dĩ uống được.
Đúng một giờ trưa tại căn nhà ông Sulghin, ủy viên Đuma quốc gia và chủ bút báo Rođnaia Zemlya (“Quê hương”) có sáu người tụ tập lại kể cả Piôtr Petrôvits. Bữa ăn trưa quả nhiên rất tinh tế. Khi đã dọn món cà-phê bằng gạo tiểu mạch rang lên, Jirô bắt đầu thông báo:
- Thưa các vị, trước hết xin có mấy lời nói về Pari... Các vị đều biết rõ thành phố này. Hàng năm khách ngoại quốc để lại Pari hơn ba tỷ frăng vàng. Cho nên không có gì khó hiểu, nếu những mùi hương từ các phố Pari bốc lên làm choáng váng cả những con người mơ mộng đứng trên những cửa sổ gác xép cao ngất nhìn xuống dòng xe hơi bóng lộn. Than ôi, những con người mơ mộng ở Pari nay không còn nữa. Xác của họ đang thối rửa trên sông Xom, trên những cánh đồng Sampanhờ và trên dãy Arđen. Pari không còn là nơi người ta nhảy múa trên các đường phố và cười ha hả vì bộ râu của vua Lêôpolđ hay vì những phen thất bại trên con đường tình ái của vị “đại công tước” Nga nọ. Pari và nước Pháp nay thiếu mất một triệu rưởi đàn ông: họ đã tử trận. Pari tràn ngập những gã kê giao chuyên nghiệp. Trên sân hiên của các hiệu cà-phê chỉ còn thấy những ông già ngồi ủ rũ mà ngay cả những gái đĩ hai mươi frăng cũng chẳng buồn chú ý đến. Trên những tấm gỗ lát đường vỡ nát lọc xọc những chiếc xe tắc-xi bị méo móp trên cánh đồng sông Marnờ. Trong các hiệu ăn và các hiệu cà-phê sang trọng, cho đến nay người ta vẫn tiếp những tên lính Mỹ hung hăng như những con ngựa giống. Còn phụ nữ? Phụ nữ thì bao giờ cũng thích nghi được với thời thế: họ cắt váy lên ngang đầu gối và bãi bỏ hết các thứ đồ lót...
Quanh bàn có tiếng nói:
- Xin nói rõ hơn...
- Buổi tối - khi đi xem hát hay đi ăn hiệu - ở phần trên, phụ nữ chỉ che những cái gì không phải là chủ yếu; nói cho đúng hơn áo dài của họ chỉ là hai cái dải hẹp giữ lấy một cái váy ngắn củn cỡn. Bao nhiêu sự thanh lịch đều tập trung vào đôi chân để hở: chân của con gái Pari thì đẹp mê hồn. Việc gì lại phải dùng đồ lót? Chúng tôi chịu đựng những nỗi thiếu thốn trong chiến hào cũng phải được đền bù thế nào chứ? Mẹ kiếp! Nhưng đó toàn là chuyện vặt. Pari ngày nay là một thành phố chiến thắng. Nó có ảm đạm, nó có rác rưởi, nhưng nó đầy những câu trò chuyện lo lắng và lập lờ hai nghĩa. Pari đã thắng trong cuộc đại chiến thế giới, nó đang chuẩn bị thắng trong cuộc phản cách mạng toàn thế giới.
Ba người ngồi bên bàn nói khẽ: “Hay lắm!”. Người thứ tư không nói gì, vì đang mải vo một hòn bi bằng ruột bánh mì. Người thứ năm nhún vai chẳng rõ có ý gì và mỉm một nụ cười cũng chẳng rõ có ý gì.
- Pari ngày nay là hang ổ của một con hổ đã phát khùng lên. Clêmăngxô đang khao khát phục thù: trước khi hòa ước được ký kết - nghĩa là cũng còn khá lâu - nước Đức sẽ phải chịu đựng tất cả những nỗi khủng khiếp của cuộc bao vây lương thực. Nó sẽ bị nhổ hết nanh vuốt và vĩnh viễn không còn bao giờ mọc lại được nữa. Trong một cuộc nói chuyện riêng Clêmăngxô có nói: “Tôi sẽ bóp chết ở người Đức ngay cả cái niềm hy vọng trở thành một cái gì hơn là một nước nhược tiểu. Khoai và đỗ của họ sẽ chỉ vừa đủ để khỏi chết đói”. Nhưng thưa các vị, năm mươi năm về trước, Clêmăngxô, ngoài cái nhục bại trận ở Xơđăng còn phải chịu cái nhục sợ hãi trước công xã Pari. Có một lần, ở một bữa tiệc chiêu đãi của các nhà báo, ông ta mới nhớ lại thời xưa và có kể lại những ấn tượng của ông khi trông thấy trên quảng trường Văngđôm những mảnh vỡ của cái cột do Hoàng đế Napôlêông vĩ đại dựng lên nay đã bị bọn công xã dùng thừng và tới kéo đổ xuống: “Tôi bàng hoàng xúc động không phải vì bản thân sự phá hoại, mà là vì cái tư tưởng đã cổ vũ thợ thuyền Pháp làm việc đó. Một hiểm họa chết người đang đe dọa nền văn minh. Có thể đẩy lùi nó được, nhưng rồi nó sẽ đến, và nó sẽ đến ngày nào người ta đặt vũ khí vào tay nhân dân. Đó sẽ là ngày chúng ta phục thù cho trận Xơđăng, cái ngày mà ta sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận”. Thưa các vị, Clêmăngxô nói thế mà đúng: những người lính giải ngũ đang lục tục trở về Pari. Họ đã trải qua những nỗi kinh hoàng của Xơđăng và sông Xom: dựng ụ chiến đấu và đánh nhau trên các đường phố đối với họ chỉ là một trò đùa. Trong tất cả các quán rượu, họ sẽ lớn tiếng nói với những người tụ tập quanh họ bên quầy rượu rằng người ta đã lừa họ: những người đã chiến đấu thì được những huân chương, những huy hiệu và những chân tay giả, còn những kẻ xua họ ra mặt trận thì sẽ đút túi hàng tỷ bạc tiền mặt... Những gã tư sản bị lạm phát làm cho phá sản sẽ chạm cốc với mấy gã to mồm kia. Các khu ngoại ô Pari nhốn nháo lên. Các nhà máy ngừng hoạt động. Quân trấn thủ Pari có một thái độ bí hiểm. Ở Đức là cả một cõi hỗn mang của cách mạng, phái xã hội dân chủ chật vật cưỡng lại sức ép của nó. Không chóng thì chầy, nước Hung sẽ tuyên bố thành lập các xô viết... nước Anh đang tê liệt vì những cuộc bãi công, chính phủ Lloyđ Đjorj chỉ cố lo sao chèo chống quanh co giữa các mỏm đá ngầm. Mọi người đều hướng mắt vào Clêmăngxô. Chỉ có một mình ông ta hiểu rằng cái đòn trí mạng đánh vào cách mạng phải nhằm vào Moxkva của các vị: dân chài Ý, khi lôi ở lưới ra một con bạch tuộc, thường dùng răng cắn vỡ cái bọng hơi của nó: những cái vòi đầy những miệng đỉa ghê tởm của nó sẽ rũ rượi ra một cách bất lực.
Quanh bàn ăn, người thì vò đầu, người thì bỏ cặp kính mờ hơi nước xuống. Khi Jirô ngừng lại để cắn đầu một điếu xì gà mới lấy ra, những câu hỏi tuôn ra tới tấp:
- Có bao nhiêu sư đoàn Pháp được gửi đến Ođexxa?
- Quân Pháp có ý định tiến quân sâu vào nội địa không?
- Ở Pari có biết tin những thất bại gần đây của quân Kraxnôv khi tấn công vào Txaritxyn không? Rồi đây có cứu viện cho Kraxnôv không?
- Những khu vực ảnh hưởng của các nước đồng minh ở Nga đã được phân chia chưa? Đặc biệt, nước nào có ý định giúp Quân tình nguyện một cách thực sự?
Jirô thong thả phun ra một làn khói lam xám.
- Thưa các vị, các vị hỏi tôi cứ như thể tôi chính là Clêmăngxô vậy. Tôi chỉ là một nhà báo. Có mấy tờ báo quan tâm đến vấn đề Nga, cho nên đã phái tôi đến đây. Vấn đề giúp đỡ trực tiếp bằng quân đội đang trở nên phức tạp. Lloyđ Đjorj không muốn vuốt râu hùm. Nếu ông ta phái đến Nôvôrôxxixk dù chỉ hai tiểu đoàn Anh thôi, ông ta sẽ mất đứt hai tá phiếu trong cuộc bầu cử bổ sung vào hạ nghị viện. Những tin tức cuối cùng tôi biết được là như sau: Lloyđ Đjorj đã cấp tốc đáp máy bay sang Pari: Ông ta thích cách vận chuyển này hơn là cái hiểm tượng bị nổ tung lên trời, vì do những trận bão, gần đây biển La Măngsờ lại đầy những quả mìn trôi vật vờ vô định; gần đây hơn nữa, ở Hội đồng Mười nước ông ta đã phát biểu mấy ý sau đây: mối hy vọng rằng chính phủ bolsêvik trong một thời gian ngắn nữa sẽ đổ đã không trở thành sự thực, có những tài liệu cho thấy rằng hiện nay bọn bolsêvik mạnh hơn bao giờ hết, uy thế của họ trong nhân dân đã tăng rất nhiều, và ngay cả nông dân cũng đứng về phía họ. Xét thấy rằng nước Nga bolsêvik đã lùi về những biên giới tự nhiên của nó có từ thời vương quốc Moxkva-Xuzđal và không làm thành một mối nguy cơ đe dọa ai hết, cần có lời đề nghị chính phủ Moxkva đến Pari trình diện trước Hội đồng Mười nước cũng giống như đế quốc La-mã triệu tập các thủ lĩnh bộ lạc ở những vùng xa xôi thần thuộc La-mã đến để trình báo về những hành động của họ... Thưa các vị, tình hình ở phương tây chúng tôi là như vậy đó... Các vị có hỏi thêm gì nữa không ạ?...
Mấy ngày sau bữa tiệc này (một sự kiện đã được giáo sư Kôlôgrivôv ghi vào biên niên sử), viên tư lệnh thành trong khi đến báo cáo ở dinh tổng tư lệnh có cho biết:
- Bẩm tướng công ngay trước mặt khách sạn “Xavoi” có một hiệu buôn, khi bán thì chỉ lấy vàng và kim cương, nhưng khi mua thì lại trả tiền giấy của chính quyền sông Đôn mà lại trả giá quá hời nữa là khác... Phẩm chất của những tờ giấy bạc này rất đáng ngờ: nó mới quá...
- Ông thì bao giờ cũng nghi ngờ, Vitali Vitaliêvits ạ, - Đênikin trả lời, giọng bực tức (ngài đang duyệt lại những bản in thử các thông báo quân sự. - vừa rồi người ta đã đánh chết một tên Do-thái nào đấy mà không cho tôi biết, về sau mới vỡ nhẽ hắn chẳng phải là Do-thái do-thiếc gì, mà chỉ là một anh trang chủ ở Orel... người Orel thỉnh thoảng cũng có người tóc đen, thậm chí còn giống người Tzygan là khác... Chà, các ông thì thật!...
- Bẩm tướng công, chúng tôi chót nhầm, xin tướng công thứ lỗi... Thế thì cái cửa hiệu ấy, giấy môn bài là do tên đầu cơ Paprikaki lấy, và chúng tôi đã xác minh được rằng chủ hiệu thực sự, kẻ đã đầu tư vào xí nghiệp thương mại này một số vốn rất khả nghi (đến đây viên tư lệnh cúi xuống đến mức tối đa, trong chừng mực cái thân hình to béo của ông ta cho phép) là một người Pháp: Piôtr Petrôvits Jirô.
Đênikin ném tập bản in thử xuống mặt bàn:
- Này ông đại tá, chỉ vì những chuyện vặt nào đấy, chỉ vì mấy sợi dây chuyền và mấy chiếc nhẫn nào đấy, mà ông muốn làm hỏng cả mối bang giao giữa ta với nước Pháp hẳn! Ông còn giở trò gì nữa với cái cửa hiệu ấy?
- Bẩm tôi đã cho niêm phong tủ két lại...
- Phải bóc niêm phong ngay lập tức, và xin lỗi người ta... Mà phải sao cho...
- Xin tuân lệnh...
Viên tư lệnh rón rén bưng cái bụng phệ ra khỏi phòng. Quan tổng tư lệnh hồi lâu hãy còn gõ mấy ngón tay lên tập thông báo quân sự, bộ ria bạc run run.
- Cái dân bịp bợm! - ngài nói, không rõ định ám chỉ người Nga hay là người Pháp.

15

Một nỗi thất vọng mới đã chờ sẵn Rôstsin ở ấp Prôkhlađny. Ngôi nhà Katya ở với Kraxilnikôv cổng mở toang, tuyết trắng phau đã phủ lên tất cả các dấu chân cũ, ùn lên trước thềm thành một đống tướng bị những giọt nước trên mái nhà nhỏ xuống đục thành một hàng lỗ sâu hoắm.
Không một người nào chịu nói rõ cho Vađim Pêtrôvits biết Kraxilnikôv đã đưa hai người đàn bà đi đâu. Ở đây quả có một anh Kraxilnikôv như thế thật, họ không phủ nhận điều đó, nhưng gốc gác anh ta ở đâu, từ làng nào đến thì ai mà biết được, đâu đâu mà chẳng có đủ hạng người đến với thủ lĩnh Makhnô!
Trong nhà phảng phất mùi lò sưởi nguội, nền nhà ngập ngụa rác rưởi, tuyết lùa vào nhà qua khung cửa kính vỡ. Bên tường kê hai cái giường trơ trụi. Bốn bức tường long lở không còn giữ lấy một chút hình bóng nào của Katya. Sau bao nhiêu nỗi gian truân, chàng đã lần ra được vết Katya, thế mà nay chàng đến được tận nơi thì đã muộn mất rồi.
Vađim Pêtrôvits ngồi lên chiếc giường bằng ván không bào. Vợ chồng họ ngủ chung ở giường nào? Giường chàng đang ngồi, hay là giường kia? Alekxêy là một người đàn ông khỏe đẹp, táo bạo... Chắc hắn đã nói với Katya: “Thôi cô khóc lóc thế là đủ rồi, lau nước mắt đi” - hắn không nói năng thô lỗ đâu, hắn đủ thông minh để đừng tỏ ra thô bạo với một thiếu phụ thượng lưu dịu dàng như vậy: hắn phải nói một cách vui vẻ, dứt khoát... Và con mèo cái xinh đẹp kia đã nín khóc, đã khuất phục, đã ngoan ngoãn phục tòng. Thẹn thùng và tinh khiết, nàng đã để cho hắn làm theo ý muốn... Chứ còn gì nữa, nàng đã quấn mình quanh cái thân cây lực lưỡng ấy như một dây bìm, trổ ra những bông hoa nhỏ có hương vị đăng đắng...
Vađim Pêtrôvits bứt rứt đi đi lại lại trong căn nhà, chân giẫm lên mấy cái vỏ đồ hộp vứt ngổn ngang. Trí tưởng tượng bị thả lỏng đã đi lạc lối mất rồi! Không đúng! Katya đã cưỡng lại, đã cự tuyệt, nàng vẫn trung thành, vẫn trinh bạch! Ôi, mày hèn quá, mày ti tiện quá! Trinh bạch, trung thành ư? Trung thành với hương hồn của mày hẳn? Tốt hơn, mày hãy trả lời đi: nếu gặp hai người trên cái giường ọp ẹp này, mày có giết cả đôi đi không? Hay là mày đứng trên ngưỡng cửa nhìn họ, trông thấy đôi mắt Katya - cái thế giới mà mày đã mất - rồi nói: “Xin lỗi, hình như tôi ở đây hơi thừa thì phải...”. Đấy, cuộc thử thách đau đớn đã đến với mày... Một thử thách khủng khiếp!... Mày không chịu được nữa à? Không, chịu được, chịu được! Mày phải đi tìm Katya, phải đi tìm, phải đi tìm...
Karetnik, gã thuộc hạ của Makhnô có khuôn mặt méo xệch, đang ngồi đợi ngoài xe. Rôstsin ra cổng, leo lên xe và xốc cổ áo ca-pốt lên cho đỡ gió. Vốn là xà ích riêng kiêm vệ sĩ của Makhnô, Karetnik chuyên thi hành những bản tuyên án ngắn gọn của thủ lĩnh trên đường đi. Hắn là một gã người cao lêu đêu, tính lầm lì ít nói cho nên được mệnh danh là Đại Á thần, phần dưới mặt không cân, méo đi như trong tấm gương cong mặt. Hắn cho bốn con ngựa phóng nhanh đến nỗi phải bám chặt lấy hai thành xe mới ngồi được.
Karetnik, người chồm chồm trên xe, nói giọng đơn đớt ra chiều thân mật:
- Thôi đừng rên rỉ nữa, đồ ngốc. Thủ lĩnh mà đã ra lệnh thì dù cô ả của anh có chui xuống đất cũng sẽ tìm ra. Xào, việc quái gì mà buồn! Bọn đàn bà chỉ được cái mã bên ngoài tô vẽ mỹ miều thế thôi, chứ bên trong đều là một cục nguyên liệu chẳng ra cái hình thù gì. Chả là đồ tim la tất... Nhổ toẹt vào cái ả ấy. Ả ấy không rời được thằng Aliôska Kraxilnikôv nữa đâu: hắn đã cướp cho ả ta ba xe của đấy... Cướp của trứ danh nhất đại đội đấy, hắn bỏ đi kịp thời như vậy cũng phúc cho hắn...
Vađim Pêtrôvits, cổ áo bẻ lên che kín đến tận mày, cứ nhẩm đi nhẩm lại một mình: “Chịu được! Chịu được! Đây mới là bước đấu của cuộc thử thách...”.
Không giảm tốc độ, chiếc xe phóng nhanh trên mặt đường lát đá của thị trấn Gulai-Pôlê. Đến trước trụ sở bộ tham mưu, Đại Á thần ghìm bốn con ngựa ướt đẫm dừng lại. Người ta đang đợi Rôstsin về. Chàng lập tức được gọi vào gặp thủ lĩnh Makhnô đang họp đại hội đồng quân sự trong một phòng học không đốt lò sưởi. Các cấp chỉ huy thì ngồi co ro trên những bộ bàn ghế học trò nhỏ xíu, còn bản thân thủ lĩnh, mặc áo va-rơi đen chằng chịt những nịt da vàng, thì cứ đi đi lại lại như con báo trước các hàng ghế. Mặt hắn khi tỉnh rượu trông còn hốc hác hơn nữa, hai tay hắn để sau lưng, bàn tay phải nắm lấy cánh tay trái buông thõng như cây roi da. Hắn nhìn Vađim Pêtrôvits không chớp mắt trong khoảng một phút đồng hồ.
- Anh sẽ đi Êkatêrinôxlav, - hắn nói, giọng đanh và sắc. - trình công lệnh với ủy ban cách mạng. Anh sẽ thay mặt bộ tham mưu của ta kiểm tra kế hoạch khởi nghĩa. Thôi đi đi.
Rôstsin đưa tay rất nhanh lên vành mũ, quay phắt lại và bỏ đi. Ngoài hành lang Liôvka Zađôv đang đợi chàng.
- Xong cả rồi. Công lệnh tôi đang cầm đây. - Hắn ôm lấy hai vai Vađim Pêtrôvits, đưa chàng đi một quãng trong hành lang, rồi dùng hông ẩy chàng tới một cánh cửa bên. - Cái áo ca-pốt cà khổ kia rồi phải bỏ đi thôi. Tôi sẽ cho anh cái áo bêkes. - Tay vẫn không buông vai chàng, hắn dùng ba cái chìa khóa mở cánh cửa ra. - Áo riêng của tôi, da lông thượng hảo hạng. Phải làm thân với Liôva này mới được. Liôva là như thế đấy: ai đã là bạn của Liôva thì tay cầm chắc con chủ bài rồi đấy.
Trong khi đưa Rôstsin vào một căn phòng cũng sực cái mùi chua loét như ở “Trung tâm huấn luyện”, hắn vẫn tiếp tục khoe khoang bản thân hắn và những thứ đồ đạc của hắn. Rồi hắn mặc cho Vađim Pêtrôvits cái áo bêkes; đó quả là một cái áo rất tốt, chỉ bị thủng mấy lỗ đạn ở trước ngực và sau lưng. Thở ì ạch dưới sức nặng của tấm thân phì nộn, hắn bò xuống gầm giường lôi ra một mớ mũ lông, chọn lấy một chiếc bằng da cừu, chóp mũ màu mận và ném qua phòng cho Rôstsin, chắc mẩm rằng chàng sẽ chộp lấy. Rồi hắn quay ra xài lớn, tháo trên tường xuống một thanh gươm Kavkaz giát bạc: “Dù sao cũng cứ cầm lấy mà dùng. Gươm của sĩ quan cận vệ đấy...”. Rồi bản thân hắn cũng bắt đầu tự trang phục. Hắn đeo vào hai cổ tay hai cái đồng hồ vàng, thắt quanh lưng một cái nịt da có đeo hai khẩu Mauzer, móc thêm thanh gươm vỏ đã tróc lớp mạ bên ngoài sau khi thử đưa ngón tay trên lưỡi gươm, nói: “Đây là gươm của tôi, gươm xéc-vít ấy mà...”. Rồi hắn xỏ chân vào đôi giày bọc cao cổ: “Ấy, cứ cho rằng tôi không phải là kỵ binh như ở Ôđexxa người ta vẫn nói...”. Cuối cùng hắn mặc trùm ra ngoài một cái áo tu-lúp lông cừu: “Thôi ta đi đi, anh bạn thân mến, tôi đi với anh...”.
Vẫn cái gã Đại Á thần kia đưa họ ra ga, Liôvka nói khẽ với Rôstsin, không cho hắn nghe thấy:
- Một người có sức khỏe phi thường, một tên hình phạm. Hồi Sa hoàng, Thủ lĩnh cùng vượt trại khổ sai với hắn. Anh phải cẩn thận đấy, hắn không thích ai nhìn hắn lâu đâu... Đến tôi đây cũng phải sợ hắn.
Liôvka khoái chí ngả người trên xe, tự mãn, hồng hào:
- Anh may đấy, Rôstsin ạ, không hiểu sao tôi lại thấy thích anh mới chết chứ. Tôi thích dân quý phái... Tôi đã có dịp, cách đây không lâu, cho ba anh em công tước Gôlitvynxki về chầu trời... Thái độ của họ lúc bị đem giết thật là tuyệt vời...
Trong ngăn toa, Liôvka sai lấy rượu và thức nhắm ở quầy giải khát nhà ga lên, và tiếp tục nói những chuyện đại loại như vậy. Hắn bỏ áo ngoài, tháo thắt lưng ra.
- Không thể hiểu nổi, - hắn vừa nói vừa cắt miếng thịt mỡ ướp ra từng lát dày cộp, - tôi không hiểu nổi tại sao trước đây anh chưa nghe tiếng tôi. Vì Ôđexxa đã từng bồng bế nuông chiều tôi: tiền, gái... Phải có được cái sức khỏe hộ pháp như tôi mới đương nổi. Chao ôi! Tuổi trẻ! Trên tất cả các báo người ta đều viết: Zađôv - nhà thơ trào phúng. Ấy, chả nhẽ anh không nhớ à? Tiểu sử của tôi thú vị. Tôi đã tốt nghiệp trường trung học với một tấm huân chương vàng. Bố tôi là một người đánh xe bò ở Pêrêxyp. Thế mà tôi đã trong phút chốc leo ngay lên đài danh vọng. Cũng là lẽ tự nhiên thôi; tôi đẹp như một vị thần, hồi ấy cái bụng này chưa có, lại gan dạ, ngang tàng, tiếng nói sang sảng (giọng barytôn loại cao). Những vần thơ trào phúng sắc sảo cứ tuôn ra như thác. Chính tôi đã tung ra cái mốt mặc áo chẽn ngắn ra ngoài và đi ủng quang dầu: kiểu tráng sĩ Nga đời xưa mà!... Khắp Ođexa dán đầy những áp phích quảng cáo những buổi đọc thơ của tôi... Xào! Zađôv có tiếc gì đâu: tôi đã tung hê tất cả như bỡn! Vô chính phủ: đó mới là cuộc sống! Tôi phóng đi trong một cơn lốc đẫm máu. Nhưng kìa, anh bạn, anh đừng lầm lì thế nữa, hãy niềm nở với Liôvka một chút. Hay anh vẫn còn giận? Anh hãy yêu mến tôi. Có nhiều người tái mặt đi khi tôi nói với họ... Nhưng tôi đã là bạn ai thì kẻ ấy tận tụy với tôi cho đến chết. Họ yêu tôi dữ lắm cơ!
Vađim Pêtrôvits thấy chóng mặt. Sau cơn chấn động ban sáng, chàng tưởng có thể tru lên như con chó đứng giữa bãi hoang nhìn lên ánh trăng mờ. Cái nhiệm vụ bất ngờ mà người ta giao cho chàng dưới hình thức một mệnh lệnh ngắn gọn và mơ hồ, quả là một cuộc thử sức mới. Chàng hiểu rằng hễ lầm một bước hay thoáng có một cử chỉ khả nghi là chàng sẽ phải trả giá bằng tính mạng ngay: Liôvka đi theo chàng chính là mục đích ấy. Cái ủy ban quân sự cách mạng kia là cái gì, cần phải đến gặp ai mà kiểm tra kế hoạch của ai, nhằm chống lại ai? Dĩ nhiên là Liôvka biết. Đã mấy lần Rôstsin thử hỏi dò hắn, nhưng Liôvka chỉ giương một bên lông mày lên, mắt đờ ra như mắt thủy tinh, và như thể chưa nghe ra, hắn vẫn tiếp tục nói ba hoa. Hắn nhai nhồm nhoàm, chép chép cái miệng, không buồn chùi môi. Mặt hắn đỏ gay lên. Hắn mở khuy cổ cái áo sơ-mi thêu ra.
Vađim Pêtrôvits cũng nốc một cốc rượu mạnh và nhai thịt mỡ ướp mà chẳng thấy mùi vị gì. Chàng lấy hết sức bình sinh cố trấn áp lấy cái cảm giác ghê tởm đối với con người bỉ ổi, đáng sợ và lố lăng kia... Những con người như thế, ngay trong tiểu thuyết chàng cũng chưa bao giờ thấy có... Cứ thử tưởng tượng xem, hắn tự nói về mình là “Tôi phóng đi trong một cơn lốc đẫm máu...”. Men rượu ngấm dần vào máu chàng, đôi giọng kìm đang cặp chặt lấy óc chàng buông dần ra, và cái điệp khúc “chịu được, chịu được” hầu như đã trở thành máy móc, hầu như không còn tác dụng gì nữa, dần dần nhường chỗ cho một tâm trạng vô tư lự đầy tự tin.
- Này, đừng có giở trò hề ra với tôi nữa, - chàng nói với Liôvka, - thủ lĩnh đã giao cho tôi một nhiệm vụ nhất đinh, tôi là quân nhân, tôi không thích câu đố đâu. Nói rõ ra: tôi phải làm gì?
Nụ cười của Liôvka lại ngưng đọng trên môi. Bàn tay phốp pháp với những lỗ chân lông rất to của hắn đang đưa chai rượu lên rót, bỗng ngừng lại giữa chừng.
- Tôi khuyên anh nên hỏi in ít ấy, chớ có tò mò. Mọi việc đã được trù tính từ trước.
- Người ta không tin tôi chứ gì? Nếu thế thì còn ra cái quái gì nữa?
- Tôi không tin ai hết...Thủ lĩnh tôi cũng không tin... Nào, ta cạn chén...
Mở rộng miệng cho thành cốc chạm vào hàm răng dưới, Liôvka từ từ rót rượu vào họng. Miệng hắn tỏa ra một mùi lờm lợm như mùi thịt sống ướp đường... Lắc lắc mái tóc dày kêu tanh tách, hắn bắt đầu bẻ cái cẳng gà ra ăn.
- Giá ở địa vị anh, tôi sẽ không nhận nhiệm vụ này đâu. Thủ lĩnh Makhnô xưa nay vẫn ra lệnh lung tung. Thủ lĩnh thích giờ trò. Anh sẽ gay đấy, anh bạn ạ.
Rôstsin đưa nhanh hai bàn tay lên vuốt mặt, rồi cười phá lên:
- Anh khuyên tôi thoái lui? Có lẽ vờ đi ngoài rồi nhảy ra cửa sổ buồng vệ sinh chăng?... Thế ra anh lấy tình bạn khuyên tôi như thế?
- Thì tôi cứ nói thế, còn tùy anh rút ra kết luận...
- Thật là một cái mẹo rẻ tiền... Anh nghĩ thế nào? Tưởng tôi sợ chết chắc?
- Tao chẳng việc gì phải nghĩ, một khi tao nhìn xuyên vào óc mày, đồ rắn rết... Ngậm miệng ngay, không tao nhổ cả hàm răng ra bây giờ... Nào rót rượu đi.
Rôstsin khó nhọc thở hắt ra một hơi dài.
- Mày biết rõ tao hẳn?... không đâu, Zađôv ạ, mày chẳng biết được tao đâu... Còn như mày ấy, cứ thử đứng trước mũi súng mà xem, lại chẳng kêu ré lên như con lợn ấy à?...
Liôvka đang há mồm để cắn cái đùi gà, ngậm ngay lại, mạnh đến nỗi răng chạm vào nhau đánh cốp một tiếng, cái mặt nhễ nhại mồ hôi của hắn xệ hẳn xuống. Hắn nói giọng khinh bỉ:
- Kể cho đến nay thì chỉ mới thấy xẩy ra cái trò ngược lại thôi: mới thấy những kẻ khác kêu ré lên thôi. Không biết có phải chính mày đang định xử bắn tao không?
- Ồ, giá mày lọt vào tay tao trước đây ba tháng...
- Thôi đừng quanh co nữa, tên sĩ quan bạch vệ kia, nói hết đi...
- Mày sốt ruột quá rồi hẳn, thằng đồ tể?
- Nào nói đi, tao đợi...
Họ nói rất nhanh, như thể vội vã. Cả hai đều đã thở hổn hển, hai chân co lại dưới gầm ghế, nhìn trừng trừng vào đáy mắt nhau. Cây nến cắm trên cái bàn con nổ tí tách, ngọn nến bắt đầu lụi xuống. Bấy giờ Rôstsin nhận thấy mặt Liôvak đang đỏ gay bỗng xám ngoét đi. Hắn nói, giọng âm âm:
- Thôi, ta đi ra hành lang đi, mày đi trước.
- Tao không đi...
- Đi đi...
- Đừng có ra lệnh cho tao... Mày là cái thá gì?
Trên bấc nến chỉ còn lại một đốm lửa xanh xanh như ma trơi. Hình như Liôvka hiểu rõ rằng trong ngăn toa chật hẹp này lợi thế ngả hẳn về Rôstsin, vốn người thon thả và gân guốc, nếu họ xông vào nhau trong bóng tối... Hắn rống lên như tiếng bò mộng:
- Đứng dậy, đi ra hành lang!
Cánh cửa ngăn toa bỗng mở toang, đốm lửa trên bấc nến nháy lên một cái rồi cháy to lên, Tsugai bước vào.
- Chào hai anh bạn. - Dưới hàng ria, miệng anh ta cười tủm tỉm, đôi mắt hơi lồi đảo từ Liôvka sang Rôstsin. - Thế mà tôi cứ đi tìm khắp cả đoàn tàu.
Anh ta ngồi xuống cạnh Rôstsin, đối diện với Liôvka. Anh cầm cái chai không lên lắc lắc, ngửi ngửi, rồi đặt xuống.
- Sao hai bạn có vẻ kém vui thế?
- Tính tình xung khắc, - Liôvka nói, mặt ngoảnh sang phía khác để tránh cái nhìn ngạo nghễ của Tsagai.
- Anh như thể một thứ chính ủy bên anh này phải không?
- Không phải là một thứ, phải quan niệm cao hơn, nhưng anh hỏi làm gì!
- Thế thì anh càng phải hiểu rõ tầm quan trọng của cái nhiệm vụ mà anh đang đưa bạn anh đi làm. Tính khí thì phải biết kiềm chế lại. Nào, anh ra ngoài một tí, tôi muốn nói chuyện riêng với anh này một lát.
Tsugai ngồi vững như tảng đá, hai tay bắt chéo trên bụng, đùi chạng ra; dưới ánh nến mặt anh hồng lên, trông như bằng sứ, cái mũ lính thủy có hai dải lụa, trông như mũ trẻ con, không hiểu vì một phép lạ nào mà vẫn dính vào gáy anh. Anh điềm tĩnh chờ cho Liôvka trấn áp được cái cảm giác là mình phải chịu nhục để phục tòng theo ý anh.
Mũi thở phì phò cái mặt đỏ gay sưng sỉa lên, Liôvka gườm gườm nhìn Rôstsin, vùng vằng đứng dậy rồi đi ra, đôi ủng quang dầu ánh lên bóng loáng. Tsugai kéo sập cửa lại.
- Anh có chuyện gì không ổn với hắn thế?
- Chuyện vặt ấy mà, - Rôstsin nói, - chẳng qua hắn với tôi hơi quá chén.
- Thế thì được, anh trả lời đúng cách đấy. Nhưng có cái này, anh bạn ạ, anh đã được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tôi, anh phải trả lời từng câu hỏi một của tôi.
Tsugai chuyển sang ghế bên kia, ngồi đối diện với Rôstsin và chăng ra cạnh cây đèn nến một tờ giấy gấp tư có chữ ký của thủ lĩnh Makhnô, đánh máy chi chít, đầy lỗi ngữ pháp, không có dấu chấm câu, trong đó có nói rằng Rôstsin được đặt dưới quyền sử dụng của bộ tham mưu quân sự cách mạng của khu vực Êkâtêrinôxlav.
- Thế này đã đủ cho anh tin chưa? (Rôstsin gật đầu) Thế thì rất tốt. Anh nói đi: cái gì đã đưa anh đến với bọn người này?
- Đây là một cuộc hỏi cung chính thức phải không?
- Hỏi cung chính thức, anh đoán đúng đấy. Chưa biết rõ một con người thì chưa có thể tin được, nhất là trong một công việc quan trọng như thế này. Anh đồng ý chứ? (Rôstsin gật). Tôi đã thu thập được ít nhiều tài liệu về anh... Chẳng có gì đáng mừng: Anh là một kẻ địch, anh bạn ạ, một kẻ địch sừng sỏ...
Rôtsin thở dài, rồi ngả người ra lưng ghế: Ngoài khung cửa kính đen ngòm phản chiếu ngọn nến, bóng đêm lao vun vút về phía sau, tối tăm như cõi vĩnh hằng. Chàng thấy trong lòng yên tĩnh lại. Người chàng lắc lư nhè nhẹ theo toa tàu. Qua ba ngày đêm hầu như không ngủ, đây là cuộc hỏi cung thứ ba, và có lẽ là cuộc hỏi cung cuối cùng, quyết định. Xét cho cùng thì chàng có thể kể những sự thật nào về bản thân? Một câu chuyện phức tạp, rối ren và mập mờ về một con người đã bị những người nào chẳng rõ đuổi ra khỏi ngôi nhà cũ, ra khỏi nơi mình cất tiếng chào đời, ra khỏi cái vương quốc của mình. Nhưng có đúng thế không? Chẳng phải chính chàng đã nắm lấy cổ áo mình và ném mình vào hố rác là gì? Nói cho đúng ra, chàng sợ cái gì? Nói cho đúng ra, chàng căm thù cái gì? Ngôi nhà cũ và cái thế giới cũ ấm cúng ấy, có cần cho hạnh phúc của chàng đến thế không? Phải chăng đó chỉ là những ảo ảnh nẩy ra trong trí tưởng tượng ốm đau của chàng? Nhớ kỹ lại thì chẳng tìm thấy được một cái gì hợp lý ở những hành động của chàng trong năm qua, mà cũng chẳng thấy có một cái gì có thể biện hộ cho những hành động ấy. Ở đây, trên ngăn toa xe lửa này, không phải là một phiên tòa với những ông hội thẩm có tuyên thệ và ông trạng sư có tài hùng biện đang lắc lắc mái tóc xù lãng mạn... Ở đây, giữa hai đôi mắt nhìn thẳng vào nhau, cần phải làm một việc hầu như không thể nào làm được: kể lại sự thật, không phải về những hành động của con người nhỏ bé, - điều đó không quan trọng, trong cuộc nói chuyện này nó không đáng kể đến, - mà về con người lớn, con người thực sự của mình... Ở đây anh vừa là người bị cáo vừa là quan tòa... Cái kết luận thực tiễn rút ra từ cuộc nói chuyện này cũng không quan trọng nốt - một khi cơ sự đã đi sâu đến tận con người lớn...
- Sao anh cứ lẩm bẩm gì một mình thế, nói to lên nào, - Tsugai nói.
- Không, tôi không phải là một kẻ địch: nếu thế thì đã đơn giản quá, - Rôstsin nói, gáy áp vào lưng ghế. - Một kẻ địch phải có mục đích, phải có oán thù, phải có mưu mô quỷ quyệt... Tôi muốn hỏi ông một câu...
- Hỏi đi.
- Các ông cần tôi làm chuyên gia quân sự phải không?
Tsugai im lặng một lát, nhìn kỹ khuôn mặt của Rôstsin với đôi má hóp hằn thành hai vệt tối sẫm ở hai bên.
- Thế bản thân anh trả lời thế nào?
- Tôi nghĩ là các ông cần tôi. Makhnô thì không, nhưng các ông thì cần.
- Anh gọi tôi bằng anh thì hơn, như thế tôi sẽ dễ nói chuyện hơn.
- Được, tôi sẽ xưng hô như thế.
- Makhnô có nói rằng anh vào quân tình nguyện là vì bị động viên, anh là một người theo chủ nghĩa vô chính phủ kiên định, thành phần xuất thân hình như cũng rất thích hợp nữa là khác...
- Toàn nói láo đấy... Thành phần hết sức không thích hợp. Tôi vào quân tình nguyện là tự ý tôi. Và ra khỏi quân tình nguyện cũng là tự ý.
- Vì bắt đầu thấy xấu hổ à?
- Không... Nhưng việc gì anh phải nhắc bài cho tôi? Tôi không phải là người bám vào cọng rơm đâu. Tôi chìm nghỉm từ lâu rồi... Giá tin được là có quả báo! Đến niềm an ủi ấy tôi cũng không có nốt...
- Chắc đã phạm nhiều tội ác lắm phải không?
- Có, có như thế... Suốt đời tôi tự buộc mình phải trung thực, thế mà sự trung thực của tôi té ta chỉ là sự vô sỉ... Và cái gì cũng thế: tưởng sấp hóa ra ngửa, tưởng trắng hóa ra đen...
- Anh thử kể tiểu sử của anh đi, anh bạn ạ, cho nó có đầu có đuôi.
- Tôi tốt nghiệp trường đại học Pêterburg... Ngành luật... À, các anh cần biết thành phần xuất thân nữa nhỉ... Thành phần quý tộc, tiểu trang chủ. Sau khi mẹ tôi chết, tôi đã bán đứt những mảnh đất cuối cùng: ngôi nhà, khu vườn và cái nghĩa trang nho nhỏ có hàng rào vây quanh. Tôi đã ra khỏi trung đoàn... Gì nữa nhỉ... Cũng như tất cả những người gọi là tử tế một chút, tôi có tư tưởng tự do (Vađim Pêtrôvits nhăn mặt khó chịu). Đối với cuộc cách mạng tương lai dĩ nhiên là tôi đồng tình. Trong thời kỳ bãi công, năm chín trăm mười ba phải không nhỉ, tôi còn mở cửa sổ ra quát bọn cảnh sát kỵ mã đang cưỡi ngựa qua: “Quân đao phủ, quân sát nhân...”. Đấy hoạt động cách mạng của tôi chung qui hình như chỉ có thế... Việc gì phải vội, khi mà cứ như thế cuộc sống cũng êm đềm chán?... (Lần này ria mép Tsugai rung lên) Không, anh khoan hẳn ghê tởm tôi vội... Tôi nói một cách trung thực. Dù sao tôi cũng không nâng cốc sâm banh trong những bữa tiệc để tưởng nhớ nhân dân Nga đang đau khổ. Rồi đến năm chín trăm mười bảy ở mặt trận tôi đã phát điên lên vì xấu hổ và tủi nhục. Tôi ngồi lì trong chiến hào hai năm rưỡi, không báo cáo... Và tôi không mặc đồ lót lụa để chóng chấy rận.
- Đó là một ưu điểm.
- Anh đừng chế nhạo tôi làm gì, xin miễn cho điều đó... (Vađim Pêtrôvits cau trán. Những vết hằn sâu hiện lên tối sẫm trên khuôn mặt gầy gò của chàng). Anh thử nói cho tôi nghe: đối với anh tổ quốc là gì? Một ngày tháng sáu của thời thơ ấu, ong bay vù vù trong rặng bồ đề, và anh cảm thấy hạnh phúc tràn vào người anh như một dòng mật... Một bầu trời Nga trên mảnh đất Nga. Chẳng lẽ tôi lại không yêu những cái đó? Chẳng lẽ tôi không yêu những đoàn người mặc áo ca-pốt xám đông hàng triệu đang xuống tàu để đi ra tuyến lửa đón lấy cái chết?... Tôi đã ước hẹn với thần chết: tôi không hề tính chuyện trở về... Tổ quốc lúc bấy giờ chính là tôi, con người lớn lao, con người đầy tự hào... Nhưng rồi hóa ra tổ quốc không phải thế, tổ quốc là một cái gì khác... Tổ quốc là họ... Anh nói đi: Tổ quốc là gì? Tổ quốc là cái gì đối với anh? Anh im lặng... Tôi biết anh sẽ nói gì... Điều đó người ta chỉ hỏi một lần trong đời người, khi người ta đã mất nó... Ồ, không phải tôi đã mất căn nhà ở Pêterburg đâu, không phải tôi đã mất cái sự nghiệp trạng sư... Tôi đã mất con người lớn trong tôi, mà làm con người bé nhỏ thì tôi không muốn. Anh cứ bắn tôi đi, nếu thấy tôi nói không thật, dù chỉ một lời, một chữ không thật thôi cũng thế... Những tấm áo ca-pốt xám đã quyết định theo ý họ... Tôi còn lại được cái gì? Tôi đã căm thù những vòng đai chì thít chặt lấy óc tôi... Vào quân tình nguyện chỉ có những kẻ phục thù, những hạng côn đồ điên dại, khát máu. “Vậy vì Sa hoàng, vì tổ quốc, vì đức tin, ta lớn tiếng hô Ura!...”. Thế rồi lên xe tam mã Tzigan đến khu Yar ăn chả cá...
- Quả thật có thể xúc anh bỏ vào lò ngay cũng được đấy anh bạn ạ, - Tsugai nói, và cái nhìn căng thẳng trong đôi mắt hơi lồi của anh vui lên. - Nói chuyện với một anh trí thức thật là một dịp thú vị! Không biết tại sao đầu óc các anh rối rắm đến thế? Vì dù sao các anh cũng là người Nga, mà hình như cũng thông minh nữa là khác... Thế tức là do giáo dục tư sản mà ra cả. “Tự đánh mất bản thân mình!”. Có mình hay không có, cũng chả biết nữa. Chà, mấy anh lính Đênikin! Nghe anh nói mà chết cười!... Bây giờ tôi với anh, ta quy ước với nhau thế nào đây? Anh có muốn làm việc không phải để bảo mạng, mà vì lương tâm không?
- Nếu anh đặt vấn đề như thế, tôi sẽ làm.
- Tuy không tự nguyện?
- Đã bảo sẽ làm là sẽ làm.
Tsugai lại cầm cái chai không lên lắc một cái, dòm xuống dưới bàn con, rồi nhìn lên cái lưới để hành lý.
- Thôi ta gọi cái thằng chó săn kia vào thôi. - Anh mở cửa gọi: - Chính ủy ơi, rượu cất đâu rồi? - Anh nháy mắt với Rôstsin: - Anh phải cứng tay với thằng ấy, hễ lôi thôi một chút là phải cho lên đầu ruồi ngay. Trong bọn tay chân của Makhnô, hắn là một thằng nguy hại nhất.
Rôstsin, Tsugai và Liôvka (qua một đêm tên này đã phờ phạc hẳn đi) xuống ga cuối cùng trước khi đến cầu. Làn sương mù từ sông Đniepr bốc lên che kín thành phố Êkatêrinôxlav ở bên kia. Cả ba đều lặng thinh, người co ro vì lạnh và ẩm. Cuối cùng đoàn tàu thúc tăm-pông va chan chát vào nhau và bò qua cầu. Bấy giờ trên sân ga lát ván hiện ra một người đàn bà đầu và vai trùm kín trong một tấm khăn len, chỉ trông thấy đôi mắt tinh nhanh. Người ấy đi qua trước mặt ba người vừa xuống ga, rồi đi ngược trở lại, qua mặt họ lần nữa. Đến lần thứ ba (mỗi lần đi một chậm hơn) Tsugai nói, không phải với người đàn bà ấy, mà nói trống không:
- Có chỗ nào uống được tí trà nhỉ!
Người đàn bà lập tức đứng lại, nói:
- Tôi có thể dẫn các ông đi, nhưng chỗ chúng tôi không có đường.
- Đường thì chúng tôi đã có sẵn.
Bấy giờ người đàn bà banh hai riềm khăn ra, để lộ một khuôn mặt trẻ măng, xinh xắn và dễ thương lạ lùng, với đôi má phinh phính lúm đồng tiền, cái miệng nhỏ có đôi môi mọng.
- Các đồng chí ở đâu đến?
- Thì ở đấy đến chứ ở đâu, thôi đừng hỏi nữa, bí mật! Dẫn đi! - Liôvka đáp, giọng cáu kỉnh.
Người con gái ngạc nhiên giương cao đôi mày, nhưng Tsugai bảo cô rằng họ “chính là những người cô ra đón”. Cô rời sân ga nhảy xuống và dắt họ đi theo các đường tàu, dọc mấy dãy toa hỏng nát. Khi thì trèo qua những đầu toa có máy hãm, khi thì chui dưới gầm toa, họ đến một toa chở hàng. Suốt dọc đường đi họ chẳng gặp lấy một bóng người nào. Người con gái gõ vào cửa toa.
- Tôi đây, Maruxya đây mà. Họ đã đến.
Cánh cửa toa thận trọng dịch sang một bên, và một khuôn mặt gầy gò, xanh xao, khắc khổ có đôi mắt đen như than huyền ló ra nhìn.
- Leo lên, nhanh, - người ấy nói khẽ, hơi lạnh lùa hết vào bây giờ.
Cả ba leo lên toa, Maruxya cũng leo theo. Người kia kéo kín cửa toa lại. Trong toa rất ấm vì có một cái lò sưởi gang đang cháy đỏ rực lên; một ngọn bấc thả trong cái hộp xi cũ đang cháy leo lét, hắt một ánh sáng yếu ớt lên gương mặt kín như bưng của chủ tịch hội đồng quân sự cách mạng và hai bóng người hiện lên mờ mờ ở cuối toa xe.
Tsugai trình giấy ủy nhiệm. Liôvka cũng rút giấy ra. Ông chủ tịch ngồi xổm bên ngọn đèn đọc một hồi lâu. Cuối cùng ông ta đứng dậy nói:
- Tốt lắm, chúng tôi đợi các anh đã ba đêm nay. Ngồi đi. - ông liếc nhìn đôi ủng quang dầu của Liôvka. - Thủ lĩnh Makhnô hình như không thấy cần vội chút nào thì phải.
Liôvka ngồi trước xuống cái ghế đẩu duy nhất cạnh cái bàn con bằng ván. Tsugai ngồi ghé vào một súc gỗ. Rôstsin lùi ra đứng sát vách toa.
Ra một phòng tham mưu của bôlsêvik là thế này đây... Một toa xe trơ trụi và mấy bộ mặt khắc khổ - trông dáng dấp thì đó là những công nhân đường sắt - lặng lẽ và sẵn sàng đề phòng.
Ông chủ tịch nói, giọng đều đều:
- Chúng tôi đã sẵn sàng. Nhân dân sốt ruột lắm rồi. Phải bắt đầu ngay... Có những nguồn tin cho biết: bọn Petlyura đã đánh hơi thấy điều gì, hôm qua chúng đã chở vào thành phố một đơn vị trọng pháo. Sẽ có thêm quân ở Kiev đến. Trong hàng ngủ chúng tôi không có những tên phản bội. Vậy những điều chúng đánh hơi được chỉ có thể từ Gulai-Pôlê xì ra.
Liôvka nói, giọng hăm dọa:
- Này, ăn nói cẩn thận đấy nhé.
Lập tức hai bóng người từ trong bóng tối xấn tới. Ông chủ tịch nói tiếp, giọng vẫn đều đều như cũ:
- Các anh làm gì cũng hở toạc ra. Như thế không được đâu, các bạn ạ... Ở Êkatêrinôlav chúng nó đã bắt đầu bắt bớ. Hiện nay chúng đang bắt hú họa, nhưng cũng đã có một đồng chí của chúng tôi bị bắt...
- Đó là Misa Krivômaz, thanh niên cộng sản, - Maruxya nói, giọng lanh lảnh, hơi vỡ ra như giọng con gái mới lớn. Hất cái khăn trùm ra sau vai, cô đứng cạnh Vađim Pêtrôvits.
- Chính Narêgorôđtxev, trưởng ban đặc vụ, hỏi cung anh ấy. Như thế tức là chúng đã thấy động...
- Chúng nó dùng dùi cui cao su đánh vào trán Misa Krivômaz, thế là mắt anh ấy bật ra, - Maruxya nói nhanh rồi bỗng bật lên khóc thút thít. - Chúng nó cắt hai ngón tay, rạch bụng anh ấy ra, nhưng anh ấy vẫn không khai lấy một lời.
Liôvka chống thanh gươm giữa hai bàn chân nói, giọng khinh bỉ:
- Kiểu làm ăn rẻ tiền. Narêgorôđtxêv à? Được, để đấy. Thế còn ai là công tố viên? Ai là cảnh sát trưởng?
- Chúng tôi sẽ cho anh biết tên họ và địa chỉ...
Ông chủ tịch ngắt lời Maruxya:
- Ta làm việc cho có quy củ, các đồng chí ạ. Feđiuk sẽ báo cáo cho chúng ta rõ về lực lượng của địch. (Ông chỉ một người vạm vỡ mặc cái áo vét cáu bẩn, một ống tay áo lép kẹp đút vào thắt lưng). Về công việc của ủy ban cách mạng thì tôi sẽ báo cáo. Về Makhnô thì xin nhường lời cho ông. Vấn đề thứ tư là nói về bọn mensêvik, bọn vô chính phủ và bọn xã hội cách mạng cánh tả. Bọn vô lại này đã đánh hơi thấy mùi thuốc súng, cho nên đang ráo riết chuẩn bị giành giật chỗ ngồi trong xô-viết. Bắt đầu đi, Feđiuk.
Giọng rắn rỏi, Feđiuk mở đầu bài báo cáo một cách khá xa xôi: anh ta nói về những mưu đồ của giai cấp tư sản thế giới. Ông chủ tọa lập tức ngắt lời: “Đây không phải là mít-tinh, cứ trình bày những sự kiện trần truồng ra”. Những sự kiện trần truồng tỏ ra rất nghiêm trọng: ở Êkatêrinôxlav có khoảng hai nghìn bộ binh Petlyura và mười sáu khẩu đại bác, trong đó có bốn khẩu hạng nặng. Ngoài ra còn có những đội dân vệ tình nguyện gồm những phần tử tư sản và những sĩ quan, có rất nhiều súng máy. Thêm vào đấy, Kiev đang chuẩn bị gửi viện binh đến.
Bản báo cáo thứ hai cho thấy rằng ủy ban quân sự cách mạng có thể trông cậy vào ba nghìn rưởi công nhân sẽ không chút phân vân đi theo tổ chức bolsêvik, và vào thanh niên nông dân ở những thôn ngoại thành đã được tuyên truyền cổ động. Nhưng vũ khí thì quá ít ỏi: “Có thể nói là ta vũ trang được một phần mười, còn lại thì tay không”.
Thấy Tsugai cựa quậy nhấp nhổm và Liôvka bĩu môi, ông chủ tịch quắc đôi mắt than huyền, nói to lên:
- Nếu thủ lĩnh Makhnô sợ, không dám thân hành đánh vào thành phố thì chúng tôi cũng không nài ép làm gì, chỉ yêu cầu ông ta cung cấp vũ khí và đạn dược cho chúng tôi.
Liôvka đỏ bầm mặt lên, gõ thanh gươm xuống sàn toa nói:
- Đừng có phỉnh phờ, đồng chí ạ. Chúng tôi không phải là phường buôn súng... Thủ lĩnh Makhnô chỉ cần trở bàn tay là có thể quét sạch bọn Petlyura như xua ruồi.
Bấy giờ Tsugai mới nói:
- Anh bạn Liôvka ạ, đừng nóng nảy, hãy im đi một lát đã. Vậy thì thế này, các đồng chí ạ: chúng ta đã thỏa thuận xong với thủ lĩnh Makhnô. Thủ lĩnh đã chịu phục tòng bộ tư lệnh tối cao vùng Ukrain. Quân đội nhân dân của thủ lĩnh bây giờ là sư đoàn Năm: nó sẽ xuất quân đi đánh Êkatêrinôlav ngay khi có lệnh. Lệnh của Bộ Tư lệnh tối cao đang nằm trong túi tôi. Bây giờ ta hãy bàn cách phối hợp hành động... Cùng đi với chúng tôi có một chuyên viên quân sự. Đồng chí Rôtsin, đứng gần lại đây...
Ngay đêm hôm ấy Tsugai quay trở về Gulai-Pôlê gặp Makhnô. Anh đưa cả Liôvka về theo, để công nhân khỏi lườm nguýt cái mặt phương phi, đôi ủng quang dầu và đôi giày bọc đế cao của hắn. Vả lại anh cũng không muốn để cho một thằng ngu độn như thế ở lại một mình với Rôstsin.
Maruyxya được phân công đi sát Rôstsin để liên lạc và quan sát. Kế hoạch tác chiến của ủy ban cách mạng chẳng ra cái gì hết. Rôstsin nói ngay ra như vậy một cách hết sức thẳng thắn. Ủy ban cách mạng liền đề nghị chàng thân hành đi quan sát thành phố và trình bày một kế hoạch khác do chàng thảo ra. Sáng sáng chàng với Maruxya chèo một chiếc thuyền qua sông Đniepr bốc hơi nghi ngút, len lỏi giữa những tảng băng trôi lềnh bềnh trên sông, rồi leo lên hữu ngạn ở xóm Manđyrôvka xin ngồi nhờ xe của một người nông dân nào đó đang chở hàng ra chợ, đi cho đến nhà ga rồi xuống đi bộ hay đi tàu điện vào trung tâm thành phố.
Nhà ga và xe lửa ở vào miệt phía Nam. Từ đấy có một con đường rất rộng gọi là đại lộ Êkatêrinxki chạy dài qua suốt thành phố, vỉa hè trồng xiêm gai và phong dương hình chóp, hai bên đường là những tòa nhà mới dáng dấp khá đồ sộ, cửa kính sáng choang: nhà ngân hàng, khách sạn, bưu điện, tòa thị chính. Đại lộ đột ngột đi lên dốc, dẫn đến thành phố cũ xây quanh quảng trường nhà thờ. Các trại lính cũng xây ở đây.
Vađim Pêtrôvits dạy cho Maruxya đếm bước để đo khoảng cách, ước lượng các góc độ bằng mắt, ghi nhớ những mục tiêu đặc biệt quan trọng. Thỉnh thoảng họ ghé vào một quán cà-phê và phác họa bản đồ trên một tờ giấy nhỏ. Tờ giấy này được gấp lại thành một hình tam giác con, và bao giờ Maruxya cũng nắm chặt trong lòng bàn tay: hễ cảnh sát chặn họ lại, cô sẽ bỏ vào mồm nuốt ngay. Nhưng không có ai nhìn ngó họ lấy một lần nào, tuy cô Maruxya xinh đẹp trùm chiếc khăn vuông bình dị thắt theo kiểu Ukrain và chàng Rôstsin đội cái mũ lông chóp đỏ đều có thể thu hút sự chú ý của người qua đường. Nhưng ở đây người ta chẳng còn tâm trí đâu mà chú ý đển họ. Chính quyền Petlyura, vốn tự mệnh danh là chính quyền cộng hòa dân chủ, đang lội bì bõm giữa đủ các thứ ủy ban thuộc các phe phái: borotbixt, xã hội, Do thái, vô chính phủ, quốc gia lập hiến, xã hội cánh tả, xã hội bình dân, ôn hòa, trung lập, có cương lĩnh và không có cương lĩnh, thôi thì đủ. Tất cả những nhóm ăn không ngồi rồi ấy đòi được hợp pháp hóa, đòi trụ sở, đòi tiền và hăm dọa sẽ làm cho dân chúng mất tin tưởng, đối với chính quyền. Hội đồng Đuma thành phố, trong đó Paprikaki em có chân (Paprikaki anh vốn thông minh hơn, đã chạy theo Đênikin) đã làm cho tình hình hoàn toàn rối loạn. Hội đồng Đuma tiến hành chính sách hai chính quyền song song, và thậm chí còn nhất thiết chủ trương thành lập một trung đoàn riêng biệt gọi là kuren theo danh từ bọn Petlyura, mang tên ông thị trưởng quá cố Khaim Xolomônôvits Ghistory. Lẽ tự nhiên là chính quyền Petlyura chỉ còn một khoảng trống duy nhất nữa để hoạt động: đang đêm sục vào nhà này nhà nọ bắt công nhân cộng sản, mà cũng chỉ biết được những người trú ngụ ở hữu ngạn mà thôi.
Cứ sau một ngày rong ruổi, Rôstsin và Maruxya lại chọn con đường ngắn nhất - đi qua cầu để trở về một ngôi nhà nhỏ vách đất quét vôi trắng dựng trên bờ sông Đniepr dốc đứng, nhà bố mẹ Maruxya.
Trong nhà bao giờ cũng đốt lò sưởi ấm áp, không khí thoang thoảng có mùi chua chua mà rất ấm cúng của phân ngựa khô. Mẹ Maruxya bước vào, tay cầm cây nến to tướng dùng để thắp trên toa (bố Maruxya làm công nhân đường sắt), đưa tay lên lò sưởi sờ thử rồi hỏi nhỏ:
- Đã ấm chưa?
- Ấm rồi mẹ ạ.
- Các con ăn tối chưa?
- Chúng con đói như cào, mẹ ạ.
Bà cụ thờ dài, rồi nói:
- Bố mẹ ăn tối cả rồi. Đi đi mà ăn, thanh niên lúc nào cũng đói.
Bước chậm rãi như thể đang nghĩ đến một chuyện buồn khôn tả xiết, bà cụ đi ra sau tấm liếp ngăn. Bà lom khom lấy cái nạng nhấc nồi, miệng lẩm bẩm: “Chúa phù hộ cho mày đừng buột đừng đổ”, cặp cái nồi lớn đựng xúp borsts ở bếp ra. Ông bố ngồi xo ro trên giường hút tẩu thuốc. Cả hai ông bà già cố làm như không để ý đến Rôstsin trong khi nói chuyện với nhau, hai ông bà gọi chàng là “ông cán bộ bí mật”. Nhưng hễ Rôstsin cần gì - một bình nước uống, một bao diêm chẳng hạn - ông bố vội vã đứng dậy và bà mẹ sốt sắng chạy lạch bạch đi lấy cho chàng ngay.
Rôstsin và Maruxya đổ xúp borsts ra hai cái đĩa mẻ ngồi ăn. Maruxya nói chuyện không ngớt, những ấn tượng của ngày vừa qua được phản chiếu từng ly từng tí trong cái ký ức trẻ trung, trong trẻo của cô.
- Chúa phù hộ mày! Mày ăn cho nó tử tế một chút nào! - bà mẹ đứng bên lò sưởi nói. - Vừa ăn vừa nói thế thì còn bổ béo gì.
- Mẹ à, con đã phải nhịn nói suốt ngày rồi. - Maruxya giương đôi mắt màu xanh đậm, lúc nào cũng như ngạc nhiên, nhìn Rôstsin. - Anh ạ, em hay nói đến phát khiếp lên được ấy, cũng vì thế mà có dạo họ không chịu cho em vào đoàn Komxômôl. Anh cũng hiểu đấy, ba hoa như em thì giữ bí mật thế quái nào được? Thế là em phải qua một cuộc thử thách: em ngậm tăm suốt bảy ngày bảy đêm.
Sau bữa ăn tối, Maruxya trùm chiếc khăn len ấm chạy đi họp đảng. Rôstsin, sau khi cảm ơn hai ông bà đã cho ăn cho ở, đi ra sau tấm liếp ở đầu nhà ngăn thành một cái buồng nhỏ, thấp đến nỗi giơ tay lên là chạm phải cái trần xù xì. Hai bàn tay xỏ vào thắt lưng, chàng đi đi lại lại từ cái cửa sổ con che tấm ván đến cái tủ ngăn nhỏ bằng gỗ thông của Maruxya. Rồi chàng cởi nịt, cởi áo ngoài và ra ngồi ở cửa sổ lắng nghe tiếng rì rào êm ả của những tảng băng trôi trên sông Đniepr từ rất xa và rất thấp vẳng tới chàng qua tấm ván che cửa. Bên kia tấm liếp, hai ông bà già đã đi ngủ. Trong cảnh vẳng lặng của ngôi nhà nhỏ thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng lách tách của lớp vữa trát trên lò sưởi rạn dần ra, và đâu đây một con dế mèn được sưởi ấm đang cưa một mảnh gỗ vụn bằng cái cưa tí hon của nó. Vađim Pêtrôvits bỗng dưng thấy yên tĩnh và khoan khoái lạ lùng, và trong tâm trí chàng chỉ nảy ra những ý nghĩ giản dị, thanh bình.
Chàng không muốn đi ngủ trước khi Maruxya về, và để khỏi buồn ngủ, chàng lại đứng lên, đi đi lại lại. Chàng thấy thích căn buồng nhỏ quét vôi trắng này quá. Đồ đạc của Maruxya chẳng có gì nhiều: một cái váy treo trên vách, một cái lược và một tấm gương để trên tủ ngăn, với lại mấy cuốn sách mượn ở thư viện... Sát vách kê có cái giường sắt ngắn. Maruxya nhường nó cho Rôstsin, còn cô thì trải tấm thảm dạ thô nằm giữa sàn.
Ngoài phòng lót có tiếng mở cửa, rồi cánh cửa vào gian bếp cũng thận trọng mở đánh két một tiếng khe khẽ. Maruxya bước vào nhà, má đỏ ửng lên vì lạnh. Cô cởi khăn trùm, nói:
- May quá, anh còn thức đợi em về đấy à? Anh có biết tin gì không? Ba ngày nữa Makhnô sẽ đến đây. Mai là anh đã phải trình bày kế hoạch rồi. Đêm hôm nay đẹp quá! Xung quanh yên tĩnh lạ lùng, trời thì đầy những sao là sao!...
Maruxya mải mê với những công việc quan trọng, với những ấn tượng muôn màu muôn vẻ của ngày vừa qua, và tính tình chất phác hồn nhiên đến nỗi sau khi đã trải tấm thảm ra giữa sân, cô cứ cởi áo quần ngay trước mặt Vađim Pêtrôvits. Váy, áo cánh, bít tất, cởi đến đâu cô đều vứt bừa mỗi thứ một nơi. Cô ngồi một lát trên thảm, hai tay bó gối, nói: “Ôi, mệt thật!” rồi ấn quả đấm xuống gối và nằm xuống kéo tấm chăn bông trùm kín đầu. Nhưng chỉ một giây sau mặt cô lại ló ra ngoài, với cái mũi ngắn xinh xinh, với đôi má lúm đồng tiền đỏ thắm tưởng không có gì làm phai nhạt được. Cô bỏ hai cánh tay trần ra ngoài chăn.
- Nóng quá! Anh ơi, anh ngủ rồi à?
- Chưa, Maruxya ạ, chưa.
- Trước kia anh là sĩ quan bạch vệ thật đấy à?
- Thật đấy, Maruxya ạ.
- Đấy, hôm nay em tranh luận mãi... Có mấy đồng chí không chịu tin anh. Anh ạ, trong bọn chúng em có mấy tay tính lầm lì mà đa nghi lắm... mẹ đẻ họ cũng nghi đấy... Mà làm sao lại có thể không tin ở một người nào đấy một khi mình tự nhiên thấy tin họ? Thà mình nhầm còn hơn là bạ ai cũng cứ nghĩ người ta là đồ rắn rết. Các đồng chí sẽ làm cách mạng với ai - em nói thế - nếu xung quanh chỉ toàn là rắn rết? Chúng ta đang làm cách mạng thế giới kia mà?... Cách mạng là một sức mạnh đặc biệt - em nói thế... Anh có hiểu không? Ấy, nếu không có cách mạng thì em sẽ làm gì! Ngồi phết keo suốt mười hai tiếng trong một xưởng bìa chứ làm gì?... Chỉ có mỗi một niềm vui là ngày chủ nhật nhấm hạt dưa trên đại lộ Êkatêrinxki... Ấy, cứ cho là em dành dụm được đủ tiền để mua đôi giày cao gót diện ngày chủ nhật đi - như thế mà cũng là một niềm vui sao? Làm sao các đồng chí lại không tin nhỉ - em nói thế. Một người trí thức đã đi lầm đường, đã phục vụ giai cấp mình, ừ thôi được, nhưng anh ta vẫn là một con người... Cách mạng đã lôi kéo được những hạng người còn tệ hơn nhiều. Liệu anh ta có từ bỏ cái giai cấp ghẻ lở của mình để đi theo cách mạng thế giới không? Có thể lắm chứ... Và hiện nay anh ta đang tự nguyện đến với chúng ta để chiến đấu cho sự nghiệp công nhân của ta... Thế mà còn không tin thì tệ quá... Thế đấy! Em đã thuyết phục được khá nhiều người.
Rôstsin nằm co người lại cho vừa cái giường, nhìn Maruxya. Cô nói say sưa, khi thì vung hai cánh tay trần lên, khi thì xiết chặt vào ngực, Rôstsin có cảm giác như căn buồng thấp hẹp tràn đầy sự tươi mát của người con gái ấy, như thể có ai vừa đưa một cành hoa đinh hương trắng vào đây.
- Còn như phải cải tạo trí thức thì đó lại là một vấn đề khác, anh ạ... Đoàn thể em cũng sẽ cải tạo cả anh nữa... sao anh lại cười?
- Tôi không cười đâu Maruxya ạ... Đã lâu lắm, đã mấy năm liền tôi chưa bao giờ cảm thấy mình có khả năng làm việc hữu ích như thế này. Bây giờ tôi đang nghỉ là chính tôi sẽ đi với đội xung kích đầu tiên lên chiếm cầu...
- Ôi, anh đi thật à?
Maruxya nhanh nhẹn chui ra khỏi chăn và đến ngồi bên mép giường chàng:
- Bây giờ thì em hoàn toàn tin rằng anh là người của ta thực sự... Chứ như ban nãy em cứ gào lên, gân cổ lên mà cãi, nhưng dù sao em cũng vẫn chưa đưa ra được một bằng chứng cụ thể nào.
* * *
Chiều ngày hai mươi sáu, một tốp kỵ binh Petlyura gồm khoảng nửa đại đội phóng rầm rập trên những tấm tôn lát cầu vượt qua sông Đniepr và lao vào nhà ga hàng hóa, chém giết những người công nhân đang đứng gác bốn toa đĩa xung quanh chất bao cát, và tản ra khắp các đường ray bắn vào các toa. Họ làm những việc đó một cách vội vã, sợ sệt. Ý đồ của họ là tập kích vào ban tham mưu của ủy ban cách mạng, nhưng đội kỵ binh lại sợ bị phục kích giữa các đoàn toa đỗ san sát, bèn cố phóng nhanh ra đồng và trở về thành phố.
Ở bên kia cầu họ đặt mấy khẩu súng máy, và hễ ai đi qua họ đều hỏi giấy tờ. Tình hình càng căng thẳng. Từ nhiều khu phố có tin là cảnh binh đã bắt đầu soát nhà hàng loạt. Ngày hôm ấy nông dân ngoại thành không ai đi lẻ vào phố nữa, mà cứ từng tốp hàng chục người, không mang hàng hóa gì, áo da cừu nịt rõ chặt. Ủy ban cách mạng đã tập hợp họ lại thành một trung đoàn riêng. Thể thức nhập ngũ rất giản dị. Ai đến xin vào, người ta hỏi:
- Đến làm gì?
- Đến xin vũ khí.
- Để làm gì?
- Phải lập xô-viết, chứ không thì lại lung tung cả lên.
- Anh toàn tâm toàn ý thừa nhận chính quyền xô-viết chứ?
- Chứ còn gì mà chả toàn tâm toàn ý?
- Vào đại đội hai!
Nhưng tình hình vũ khí vẫn rất gay, mãi cho đến giữa trưa bỗng đâu có một cái đầu máy kéo một toa chở ba trăm khẩu súng trường Áo có đủ đạn dược do Tsugai đưa từ Gulai-Pôlê đến. Tình hình nhờ đó có khả quan hơn. Và cuối cùng đến tối mịt trên thảo nguyên có tiếng ồn ào râm ran: quân đội của thủ lĩnh Makhnô bấy lâu chờ đợi đã kéo đến.
Xuất hiện trước tiên trong làng là đại đội kỵ binh cận vệ “mang tên Kropotkin”, gồm toàn những tay “con cưng của thủ lĩnh”, đều cao lớn như nhau. Họ lập tức chiếm lấy trường học, vứt hết sách vở, bàn ghế và cô giáo ra, rồi đi từng nhà gõ cửa một cách hách dịch. Theo sau họ có đến hai trăm xe giàn và xe tatsanka chở bộ binh. Dừng lại sau cùng trước cổng trường là một cỗ xe tứ mã đi đường trường thắng ngựa hàng ngang, trông chừng trước kia là xe của một ông giám mục, do Đại Á thần cầm cương. Makhnô từ trên xe khệnh khạng bước xuống, Liôvka và Karetnik cũng xuống theo.
Makhnô lập tức cho gọi ủy ban cách mạng đến hội ý. Lúc bấy giờ đã có khá nhiều công nhân tập hợp quanh toa xe của ủy ban cách mạng, nhốn nháo cả lên. Họ quát bảo ông chủ tịch:
- Mirôn Ivanôvits, ông cứ ra nhìn thử đi: bộ đội xô viết gì chúng nó, chúng nó là đồ kẻ cướp kia mà!... Đây ông cứ thử để bà Gapka bà ấy kể cho mà nghe...
Bà Gapka giọt ngắn giọt dài kể lể:
- Mirôn Ivanôvits, bác cũng biết thừa cơ ngơi nhà tôi có những gì... Thế mà vừa rồi hai thằng xông vào nhà tôi... Nào sữa, nào thịt mỡ chúng nó lấy ra ăn tất... Chúng nó ngốn như hổ đói... Xong đâu đấy chúng lại bắt tôi đưa ra sân: lợn đâu, gà đâu... Chúng nó vét sạch... Sao cho chúng nó vỡ bụng ra mà chết, cái quân khốn nạn ấy.
Ông chủ tịch phải lấy giọng thật nghiêm nghị giải thích rằng một khi đã trót gọi Makhnô đem quân đến rồi thì có muốn lùi cũng không kịp nữa. Bây giờ chỉ còn một nhiệm vụ duy nhất là xung phong vào chiếm thành phố và trao chính quyền lại cho các Xô-viết. Rồi ông bỗng lớn tiếng quát bà Gapka:
- Đền cho bà hai con lợn! Chưa đủ hẳn? Sẽ cho bà cả một đàn vậy... Đừng có quấy rầy người ta nữa!...
Trong buổi họp, Makhnô có một thái độ rất kỳ quặc: vừa ngang ngược lại vừa nhút nhát. Hắn đòi phải phong cho hắn làm tổng tư lệnh tất cả các lực lương tham chiến, dọa là nếu không quân đội của hắn sẽ tự động kéo trở về. Hắn nhắc đi nhắc lại rằng chính quyền Xô-viết chưa có một đơn vị chiến đấu nào bì kịp quân đội của hắn, cho nên phải bảo toàn đơn vị này chứ không được đem nướng nó vào những trận ẩu đả chưa được suy tính cân nhắc. Hắn luôn luôn gặm móng tay, và chốc chốc lại thò tay vào nách gãi. Cuối cùng mới biết là hắn sợ nhất đời mười sáu khẩu súng đại bác của quân Petlyura. Bấy giờ Tsugai nói với hắn:
- Được! Nếu anh phát ngứa lên vì mấy khẩu súng ấy thì đêm nay tôi sẽ vào thành phố nói chuyện với cậu chỉ huy pháo binh.
- Nói chuyện thế nào?
- Nói chuyện thế nào là việc của tôi.
- Chỉ nói láo!
- Không, tôi không nói láo. Ai là chỉ huy pháo binh bên ấy? Martynenkô. Thủy thủ Baltic đấy, người nhà của chúng tôi đấy mà, vốn là pháo thủ trưởng của thiết giáp hạm “Hangut”, người cùng quê với tôi, có lẽ còn là họ hàng thông gia nữa là khác... Hắn ta sẽ không bắn vào chúng tôi đâu.
- Chỉ nói láo! - Makhnô nhắc lại, năm móng tay bấu vào tay áo Tsugai. Rồi hình như hắn tin, hắn đột nhiên bình tĩnh lại, tư thế đĩnh đạc hẳn lên. - Các anh trình bày đi xem kế hoạch tấn công của các anh như thế nào?...
Ủy ban cách mạng trình bày cho hắn nghe kế hoạch sau đây. Đêm nay một đội công nhân vũ trang bằng lựu đạn sẽ sang bên kia sông. Từng người một sẽ lần lượt đến phục ở gần cầu xe lửa, đến tảng sáng sẽ cùng đánh vào các đơn vị súng máy ở công sự đầu cầu, chiếm lấy các khẩu súng máy và kiểm soát những con đường dẫn đến cầu. Khi nghe tiếng lựu đạn nổ, một đoàn tàu có bao cát (gồm bốn toa đĩa) chở công nhân vũ trang và một bộ phận của trung đoàn nông dân đánh vào nhà ga lớn của thành phố. Đồng thời ban tham mưu sẽ theo những địa chỉ và những tuyến điện thoại mà chỉ riêng ban tham mưu được biết, báo tin cho các ủy ban Bolsêvik khu phố, để cho họ ra lệnh khởi nghĩa trong thành phố: nghĩa quân sẽ tập hợp ở nhà ga nhận các vũ khí chở trên tàu có bao cát. Vào lúc ấy ban tham mưu cũng chuyển trung tâm tác chiến tới nhà ga. Kỵ binh của Makhnô sẽ qua cầu bộ hành xông vào thành phố. Bộ binh sẽ chia làm hai đạo vượt qua sông Đniepr ở phía trên và phía dưới cầu và sẽ tập hợp lại trên đại lộ Êkatêrinxki ở những nơi quy định, rồi từ đấy sẽ đánh lên phía trên, chiếm các cơ quan thị xã và các doanh trại. Cuộc khởi nghĩa có thành công hay không là tùy ở tốc độ và tính chất bất ngờ của cuộc tấn công, cho nên phải khởi sự ngay đêm nay.
- Binh sĩ hành quân mệt, ngựa sưng chân hết rồi, phải đóng móng lại. - Makhnô nói.
Chủ tịch ủy ban cách mạng trả lời hắn:
- Binh sĩ sẽ nghỉ ngơi khi đã chiếm xong thành phố, còn ngựa thì sẽ đóng móng Xô-viết một thể.
Tsugai nói:
- Thủ lĩnh nghĩ thế nào mà lại có thể để cho cả một đoàn người ngựa như thế nghỉ ngơi ngay trước mắt cả thành phố? Mai là chúng nó sẽ thết anh một chầu pháo trăm linh năm ly ngay. Nói ngắn thôi: hoặc tấn công ngay đêm nay, hoặc kéo nhau về đi...
* * *
Đêm ấy sông Đniepr đã đóng băng, nhưng chưa được chắc. Suốt đêm công nhân kéo ván ra bờ sông để lót lối đi, lôi cả những cánh cổng, cả những dãy rào đan mắt cáo. Các thành viên của ủy ban cách mạng, kể cả ông chủ tịch, đều ra làm việc như mọi người.
Chỉ có mấy gã “con cưng của thủ lĩnh”, mình đeo đầy các thứ vũ khí, ngại đổ mồ hôi, chỉ đi bách bộ trên bờ. Chúng nháy mắt chỉ cho nhau những ánh đèn thưa thớt của thành phố ở bên kia sông: Êkatêrinôxlav to và giàu thật!
Trước rạng đông khoảng hai tiếng đồng hồ, hai mười bốn người bước xuống mặt sông đóng băng. Người dẫn đầu là Rôstsin. Mọi việc đều đã được dặn kỹ từ trước. Băng kêu răng rắc ở chỗ các tảng băng dính vào nhau, có nhiều chỗ phải bắc mấy tấm ván vác theo mới đi được. Chỉ có một lần ở bờ bên kia, gần cái cầu dóng sắt in thành một vệt tối mờ mờ trên nền trời, có một phát súng nổ đơn độc, tiếng dội vang rền trên sông. Cả đội nằm rạp xuống. Từ đấy trở đi họ phải bò, người nọ cách người kia một quãng thật xa.
Rôstsin lên bờ đúng ở chỗ chàng đã đánh dấu trên bản đồ, gần một chiếc xà lan ngập một nửa dưới nước. Từ đấy có một con đường hẻm nhỏ đi lên dốc. Chàng đi theo con đường ấy và rẽ ngoặt vừa đúng phía sau lưng một sân kho chứa hàng bỏ không, nơi đã chọn làm địa điểm tập hợp. Đèn nhà ga từ xa hắt lại một ánh sáng mờ mờ. Cả thành phố đang ngủ say. Rôstsin bước nhẹ nhàng đi dọc dãy rào gỗ, miệng nhắc đi nhắc lại mãi một câu vô nghĩa: “Vàng gió, đỏ mưa, vàng gió, đỏ mưa...”. Chàng thích thú nhìn dãy rào gỗ cao, biết trước là mình sẽ tung người sang bên kia một cách nhẹ nhàng, chẳng cần phí sức bao nhiêu. Các đồng chí trong đội lần lượt hiện ra lù lù như những cái bóng. Chàng bảo họ nhảy qua hàng rào và đi ra phía cổng sân. Rồi chàng lại bước nhẹ nhàng dọc dãy rào.
Trong hai mươi bốn người đã có hai mươi ba người đến nơi tập hợp. Còn một người không biết bị lạc hay bị quân tuần tiểu bắt mất. Rôstsin dùng tay làm điểm tựa, nhún người lên, mũi giày cào lên ván, và nhảy sang bên kia hàng rào không phải một cách dễ dàng như đã tưởng. Chàng rơi xuống một đống gạch vỡ tấp vào chân rào.
Anh em công nhân trong đội đứng ở cạnh cổng, im lặng nhìn Rôstsin đang đi tới. Có mấy người ngồi giữa đất, mặt úp xuống hai đầu gối. Từ bây giờ đến tảng sáng chẳng còn lâu nữa. Những phút chờ đợi cuối cùng này là những phút quyết định, và là những phút làm cho người ta mệt mỏi nhiều nhất, đặc biệt là đối với những người lần đầu tiên đi chiến đấu. Rôstsin nhìn thấy thấp thoáng trong bóng tối những đôi môi mím chặt vì vận dụng nghị lực, ánh sáng khô của những đôi mắt mở trừng trừng nhìn không chớp. Đây là những con người ngay thẳng, có nếp suy nghĩ giản dị và thực thà, những người Nga có đôi tay nặng và khỏe. Họ đã tự nguyện và tin tưởng dấn thân vào một công việc nguy hiểm chưa biết sẽ ra sao. Vì cách mạng toàn thế giới, như Maruxya có nói trong căn buồng nhỏ quét vôi trắng dưới ánh đèn nến. Trong lòng chàng từ từ dâng lên một niềm mến phục hân hoan khiến cho chàng lại thấy mình nhẹ nhàng như ban nãy. Cổ chàng nghẹn ngào vì xúc động.
Tất cả những điều đó thật lạ lùng, chưa từng có...
- Các đồng chí, - chàng cau mày nói, - nếu lát nữa ta hành động một cách bình tĩnh, ta sẽ thành công. Cả cuộc khởi nghĩa có giành được thắng lợi hay không là do chúng ta quyết định. (Những người đang ngồi giữa đất đứng dậy, bước lại gần). Tôi nhắc lại một lần nữa: ở đây chẳng cần tài giỏi mưu mẹo gì, cái chính là phải nhanh và bình tĩnh. Đó là điều kẻ địch sợ hơn cả: không phải vũ khí mà chính là con người... Chẳng hạn nếu đồng chí... - chàng nhìn lên một người thợ trẻ có cái cổ lực lưỡng để trần. - Nếu đồng chí, - chàng chợt thấy muốn đặt tay lên vai anh ta, chạm vào cái cổ âm ấm của anh ta, một ý muốn không sao cưỡng lại được, và chàng làm theo ý muốn đó. - Nếu đồng chí thấy lành lạnh sau xương sống, thì nên biết rằng kẻ địch cũng thấy lạnh sau xương sống như thế... Vậy thì kẻ nào quyết tâm hơn, kẻ ấy sẽ thắng.
Người thợ trẻ lắc đầu cười lớn:
- Anh nói đúng thật đấy, để xem ai liều hơn... Chúng nó thì ngu, còn chúng ta thì không, vì chúng ta biết mình muốn gì... - Anh ta bỗng né vai khỏi bàn tay Rôstsin, cổ anh ta bạnh ra, đôi môi thanh tú của anh méo xệch đi. - Chúng ta biết chúng ta chết vì lý tưởng nào...
Một người khác len tới gần hỏi:
- Anh thử nói xem, ném hết lựu đạn rồi, chẳng có vũ khí thì biết làm gì?
Một tiếng thì thào khàn khàn đáp lại:
- Thế hai tay cậu để làm gì? Rõ ngốc!
- Các đồng chí, tôi nhắc lại một lần nữa để các đồng chí nắm vững toàn bộ cuộc hành quân. - Rôstsin nói. - Chúng ta chia ra làm hai tốp...
Chàng vừa trình bày vừa nhìn xem đến bao giờ ánh rạng đông mới bắt đầu hửng lên sau màn đêm mịt mùng ở bên kia sông Đniepr... Những đám mây dày che kín cả khoảng trời phía đông. Bắt anh em khắc khoải chờ đợi mãi chẳng có lợi gì. Chàng xốc lại thắt lưng nói:
- Đến giờ rồi. Phân ra. Mở cổng.
Họ thận trọng mở cổng, đi ra từng người một và lần đến chỗ cuối hàng rào. Đứng đây có thể trông rất rõ cái cầu bắc qua dải sông đóng băng. Ở phía trước hiện lên mờ mờ cái bờ đất đắp quanh ổ súng máy đầu cầu. Chắc đơn vị súng máy đang ngủ. Ở bên kia đường sắt cũng có một công sự thứ hai y như thế.
- Cầm sẵn lựu đạn... chạy lên...
Cả hai mươi ba người im lặng chạy lên hết sức nhanh, như chạy thi, mười người nhằm thẳng công sự trước mắt, còn mười ba người chạy vòng sang bên phải để vượt qua đường sắt, Rôstsin cố chạy cho kịp mọi người. Chàng trông thấy những cái bóng dài mặc áo va-rơi thắt nịt ngang lưng nhảy qua con đường sắt đắp cao lên. Chàng ngoặt sang phía đó, chạy theo họ. Chàng chợt hiểu ra rằng đã có một sai lầm trong cách tiến công: họ sẽ không có đủ thì giờ chạy đến công sự thứ hai - tiếng lựu đạn nổ bên này đường sẽ báo động cho những tên đóng ở bên kia. Sau lưng chàng có tiếng nổ, rồi những tiếng quát tháo man dại vang lên, và tiếp theo, lựu đạn lần lượt nổ tới tấp... Công sự thứ nhất đã bị chiếm... Không ngoảnh lại, miệng mở rộng hớp không khí giá buốt, chàng leo qua đường sắt. Trước mắt chàng, mười ba người đang nhảy từng bước lớn lao tới... Trước mặt họ, ngọn lửa ở đầu nòng một khẩu súng máy bắt đầu chấp chới như một con bướm hóa dại. Như thể có một trận gió ào qua đầu Rôstsin... “Lạy Chúa, hãy làm một phép lạ đi, cũng có khi được như thế, - chàng nghĩ thầm - nếu không thì chỉ có chết nữa mà thôi...” Chàng trông thấy người thợ trẻ ban nãy có cái cổ để trần đứng thẳng người ném lựu đạn, và cả mười ba người, còn nguyên, nhảy vào công sự. Chàng trông thấy những thân hình vật vã, thở khò khè. Một tên râu ria, vai đeo lon, vùng ra khỏi tay mấy người thợ, đứng dậy rút gươm đâm thục mạng vào những người đang túm lấy hắn. Rôstsin bóp cò. Tên kia khuỵu xuống, đầu nghẻo sang một bên. Lập tức có một tên khác mặc áo ca-pốt sĩ quan từ trong hào xông ra, mồm quát tháo, chân đá túi bụi. Rôstsin chộp lấy hắn. Tên sĩ quan giằng tay ra, túm lấy cổ chàng: “Quân khốn nạn! Quân khốn nạn” nhưng bỗng lại buông tay ra:
- Rôstsin!
Có ma nó biết thằng sĩ quan ấy là thằng nào, hình như trong bộ tham mưu của Evert thì phải. Không đáp, Rôstsin dùng súng lục đánh một phát vào thái dương hắn...
Công sự thứ hai cũng đã chiếm xong. Các công nhân quay ngược súng máy lại. Bên kia sông, một cái đầu máy rúc còi lên. Và đoàn tàu có bao cát lăn ầm ầm qua cầu, lao vào nhà ga.
Mặt trời đã mọc từ lâu. Nắng rực lên nhưng không ấm. Đoàn tàu có bao cát lại phụt khói đen chạy qua cầu, đưa người và vũ khí đến nhà ga đã chiếm lĩnh từ tảng sáng. Công nhân thuộc đội biệt động đứng dưới chiến hào reo hò trông theo. Chiến sự diễn biến tốt đẹp. Bộ binh Makhnô đã kéo qua sông từ lâu, như một đàn kiến, bò qua mặt băng leo lên bờ sông dốc đứng, đánh tan các đội án ngữ của cảnh binh vả tản ra các phố. Tiếng súng vẫn nổ rát, khi xa, khi gần.
- Xaskô, cậu ra ga tìm ông tổng chỉ huy nói là đội chúng ta ngồi đây từ năm giờ sáng, chưa ăn gì, rét cóng lên rồi, yêu cầu cho một đơn vị đến thay phiên nhé, - Rôstsin nói với người thợ trẻ có cái cổ trần. Khuôn mặt trẻ măng ngây thơ mà cương nghị của anh thợ trẻ, mới mọc lún phún những sợi lông măng quăn quăn bây giờ đã chằng chịt những vết xước rớm máu: ban nãy tên lính bắn súng máy cao lớn, trước khi lìa đời, đã tô vẽ cho nó như vậy.
Xaskô co ro trong chiếc áo va-rơi mỏng, nhanh nhẹn chạy đi giữa mặt đường trống trải, tuy đạn cứ bay chiu chíu xung quanh. Anh em quát gọi cậu ta: “Này liệu hồn đấy, lại trúng đạn bây giờ, ngốc ạ... Xaskô, nhớ kiếm ít thuốc lá nhé...”. Chỉ một lát sau Xaskô đã quay về, ngồi xổm xuống trước chiến hào, ném cho các bạn một gói thuốc lá và đưa cho Rôstsin một mảnh giấy đóng dấu mực hãy còn ướt: “Các anh đợi đấy. Sẽ gửi đến. Makhnô”.
- Maruxya gửi lời chào đồng chí đấy. - Xaskô nói với Rôstsin. Vađim Pêtrôvits ngạc nhiên đứng ngẩn người ra. Chàng đứng dưới hào ngơ ngác nhìn lên Xaskô đang ngồi xổm bên trên.
- Đồng chí Rôstsin ạ, cô ấy khá lắm, đồng chí gặp may đấy nhé!
- Cậu gặp cô ấy ở đâu?
- Đang bận tíu tít ở ngoài ga ấy... Không có cô ấy thì tôi cũng chẳng len vào nỗi chỗ Makhnô đâu. Dân đến đông quá đi mất, các cậu ạ! Phát súng không kịp!... Êkatêrinoxlav về ta rồi!
* * *
Đại bản doanh của Makhnô đóng ở nhà ga. Thủ lĩnh ngồi ở phòng khách hạng nhất và hạng nhì, sau cái quầy giải khát trang trí bằng một cây cọ giả. Người ta đã gạt hết các thứ chai cốc lọ đĩa xuống đất để lấy chỗ cho tổng chỉ huy làm bàn giấy. Makhnô đang viết quân lệnh. Karetnik lần lượt cộp dấu vào. Người được trao giấy lập tức chạy biến đi. Người vào tìm Makhnô không lúc nào ngớt, người nào cũng đang khích động dữ dội. Họ đến đòi cấp đạn, đòi tiếp viện, đòi bếp lưu động, đòi thuốc lá, bánh mì, cứu thương... Có một người chỉ huy, nổi khùng lên vì đã tiến đến sát một nhà ngân hàng công thương nghiệp - chỉ còn hai bước nữa thì đến cửa vào, nhưng lại hết đạn nên phải nằm rạp xuống gặm đất - xông vào trước mặt thủ lĩnh, tháo chùm lựu đạn đeo lủng lẳng ở thắt lưng ném đánh sầm một tiếng lên mặt quầy để hăm dọa thủ lĩnh:
- Anh làm cái gì ở đây? Ngồi cầu Chúa hẳn? Mẹ kiếp, đưa đạn đây!
Makhnô chỉ ra lệnh cho ai đến đòi lệnh. Hàm dưới đưa đi đưa lại cho thêm phần lẫm liệt, hắn làm ra vẻ như đang chỉ huy trận đánh. Thật ra đầu óc hắn rối tung lên như mớ bòng bong, Hắn ngồi đánh dấu chữ thập lên bản đồ thành phố ở những chỗ các đơn vị đang tiến hay đang lùi, ấn bút mạnh đến thủng cả giấy. Trong cái thành phố chết tiệt này chẳng lấy đâu ra chỗ để mà khai triển đội hình, ở đâu cũng chật chội, quân địch thì ở khắp nơi: trên đầu cũng có, bên sườn cũng có, sau lưng cũng có. Trố mắt ra nhìn vào bản đồ, thủ lĩnh chẳng hề trông thấy phố xá nhà cửa gì hết... Hắn mất hết phương hướng, đành cứ thế quờ quạng như người mù. Kể ra cũng không phải vô cớ mà hắn gọi các thành phố là một nhân tố nguy hại, là ổ nhiễm dịch của mọi ổ nhiễm dịch.
Ngoài ra, hắn còn lo sốt vó lên về cái tình trạng mơ hồ của pháo binh địch. Tsugai có cam đoan là Martynenkô sẽ không bắn vào đồng đội cũ. Không biết Tsugai đêm qua có gặp hắn ta không, hay hai người đã ước định với nhau từ trước. Nhưng quả tình trên trận địa pháo vẫn im phăng phắc. Pháo thủ thì chạy đi đâu mất một nửa, còn Martynenkô thì uống rượu say bí tỉ, chắc là vì mếch lòng. Trong đội pháo của hắn chỉ có hai khẩu dã pháo để ngoài ga, bị quân lính Petluyra bỏ lại. Makhnô mừng lắm - hắn chưa bao giờ cướp được khẩu pháo nào - bèn ra lệnh kéo nó ra đại lộ và tự tay kéo dây cò; hắn cười nhăn nhở khi khẩu súng gầm lên (quân lính hắn ngồi thụp xuống hết) và quả đạn bay đi vun vút trên các ngọn phong dương.
Ban tham mưu của ủy ban cách mạng đặt ở quảng trường ga. Giữa quảng trường đã đốt lên mấy đống lửa, công nhân ở khắp các khu phố tới đứng xúm xít xung quanh. Các thành viên của ủy ban cách mạng biết mặt từng người một, và biết rõ họ từ khu nào đến. Họ tập họp những người cùng xưởng, cùng xí nghiệp lại với nhau: thợ luyện kim, thợ xay, thợ da, thợ dệt. Những người được gọi đúng ngành rời các đống lửa ra xếp hàng thành từng đội năm mươi người một. Nếu trong đội có người đủ khả năng, họ chọn lên làm chỉ huy; nếu không thì lấy một người trong Ủy ban cách mạng ra làm. Người ta bắt đầu phát súng, chỉ dẫn luôn cách bắn cho những người chưa biết bắn. Họ giao nhiệm vụ tác chiến cho đội công nhân. Người chỉ huy giơ khẩu súng trường lên, lắc lắc:
- Các đồng chí, tiến lên!
Những người thợ đứng trong hàng ngũ cũng giơ cao cái vũ khí quý giá mà họ vẫn hằng mơ ước:
- Vì chính quyền Xô Viết!
Rồi các đại đội công nhân vũ trang kéo ra phía đại lộ Êkatêrinxki, xung trận.
* * *
Rôstsin len lỏi vào gặp tổng chỉ huy và báo cáo cặn kẽ về trận đánh chiếm hai công sự đầu cầu và về số thương vong: bốn người bị thương, một người bị đè chết. Makhnô cắn cây bút chì nhìn khuôn mặt nâu xạm, hốc hác của Rôstsin, với ánh mắt cương nghị đến mức xấc xượt, gần như điên rồ.
- Được. Anh sẽ được thưởng một cái đồng hồ bằng bạc. - hắn nói đoạn đẩy tấm bản đồ đặt ở trước mặt ra sát mép quầy. - Anh nhìn đây. - Hắn đưa đầu bút chì qua các dấu chữ thập. - Cuộc tấn công đang bị chặn lại. Quân ta đã đánh đến đây: phố này, cái ngõ cong này, đại lộ... Rồi đây nữa, chỗ này các dấu chữ thập cong gặp lại... Ta muốn biết nguyên nhân: tại sao quân ta lại giẫm chân tại chỗ như trong đống cứt thế? - Hắn quát lên the thé bằng cái giọng chim. - Anh đi xem thử. - hắn quạch mấy dòng lên mảnh giấy, và Karetnik hà hơi lên con dấu, luồn dưới khuỷu tay hắn cộp một phát lên chữ ký. - thằng nào tỏ ra hèn nhát, anh có thể bắn chết nó cho tôi, tôi cho anh được quyền bắn...
* * *
Rôstsin đi ra quảng trường, nơi các đội công nhân đang tiếp tục xếp thành những đội ngũ không thẳng hàng, chốc chốc lại có tiếng hô mệnh lệnh và tiếng reo “ura”! Trên những đống lửa, đây đó đã có người bắt nồi lên nấu cháo. Khói bốc lên làm chàng thấy choáng váng, và trong ký ức chàng hiện lên cái nồi gang quen thuộc nấu xúp bắp cải mà Maruxya vội vã chạy đến đỡ trên tay bà mẹ và hàng răng của Maruxya cắn vào miếng bánh mì thơm tho. Thôi, thế được rồi!
Khoác súng đi theo Rôstsin có Xaskô và hai người nữa trong đội: một người mặt rỗ, vui tính, thân hình chắc nịch như súc gỗ sồi, tên là Tsij, còn người kia là một chàng thanh niên đẹp trai lúc nào cũng cười nhạt, vẻ mặt hung ác, một bên mắt bị dập che dưới vành mũ lưỡi trai đen, làm nghề thợ bắc ống dẫn nước, tự gọi mình là Rôbert. Trên đại lộ Êkatêrinxki họ phải nép sau những gờ tường, chạy từ cổng nhà này sang thềm nhà kia. Đạn réo không ngớt. Đại lộ vắng ngắt, nhưng sau các cửa sổ che bằng những tấm đệm giường, đâu đâu cũng có những bộ mặt tò mò ló ra rồi lại thụt vào. Trong cổng một hiệu kim hoàn có một người thấp bè ngồi co ro. Khuôn mặt quắt queo lại vì nghèo đói ngửa lên, chòm râu bạc chĩa ra phía trước, như muốn hỏi ông Trời cổ kính của dân Do thái: lạy đấng Jêhovah! chuyện gì thế này?
- Ông làm gì ở đây - Tsij hỏi.
- Tôi làm gì ấy à? - Người kia đáp giọng rầu rĩ. - Tôi đợi họ giết chết tôi đi.
- Ông về nhà đi.
- Tôi về nhà làm gì? Ông Paprikaki sẽ nói: cái nào quý hơn, cái tính mạng khốn khổ của mày hay cửa hàng của tao...? Thà tôi chết bên cửa hàng này...
Họ chưa kịp bỏ đi thì người gác cửa hàng đã thò bộ râu ra ngoài cửa:
- Mấy ông bạn trẻ ơi, đi ra kia là chết đấy.
Khi họ ra đến góc nhà, một loạt súng máy bắn vỡ một mảng vữa ở trên đầu. Họ chạy lom khom vào một phố ngang và nép vào một ô cửa. Họ thở hổn hển nhìn thấy cái xác nằm giữa ngã tư, trên đá lát đường, súng vứt một bên. Bảy xác cả thảy. Ở đây đã có một đội công nhân vấp phải hỏa lực địch. Rôbert cười nhạt, hằn học dằn từng tiếng nói:
- Chúng nó đặt súng trên gác xép khách sạn “Axtorya” quét xuống. Đề nghị thanh toán hỏa điểm này.
Lời đề nghị có vẻ hợp lý. Khách sạn Axtorya, nơi Rôstsin trọ hai tháng trước, ở bên kia đại lộ. Đi sang đấy thế nào cũng phải băng qua làn đạn. Rôstsin dang hai tay ra, ép các bạn vào cổng:
- Từng người một thôi nhé, cách quãng chạy thật nhanh, không có gì nguy hiểm đâu.
Người cúi lom khom như chỉ chực nhào xuống đất, chàng chạy ra giữa ngã tư rồi nằm rạp xuống sau một xác chết. Từ gác xép khách sạn Axtorya bắn ra hai tràng. Chàng chồm dậy chạy chữ chi như con thỏ về phía dãy phong dương trồng ở chính giữa đại lộ. Trên gác xép lại nổ ra một tràng vội vã, nhưng Rôstsin đã vào được khu vực “tử giác”. Tựa lưng vào một thân cây, chàng bỏ mũ ra lau mặt, thở một hồi rồi quát:
- Xaskô, chạy đi...
Cánh cửa kính của khách sạn đóng rất chặt. Họ phải lấy lựu đạn nện ầm ầm. Bấy giờ ở bên trong người ta mới xô đổ cái tủ ngăn đi và mở cửa ra. Robert đẩy người gác cửa bệ vệ sang một bên - hắn ta mở mồm kêu to: “Rômka, mày đi đâu đấy hả thằng nỡm...” - rồi xông vào, tay giơ cao quả lựu đạn. Trong phòng mắc áo chật ních những khách trọ từ khắp các tầng nhà như đổ xuống. Trông thấy chàng thanh niên dáng dấp như một nhân vật tiểu thuyết lãng mạn và ba người đàn ông cầm vũ khí kia, họ lặng lẽ rút lui dần lên các cầu thang. Có mấy người thở không ra hơi nữa, phải đứng vịn vào lan can. Trong khi lên cầu thang, Rôstsin nhận ra nhiều người. Họ cũng nhận ra chàng: nếu có thể giết người bằng khóe mắt được thì chàng đã ngã lăn ra chết hàng trăm lần. Chỉ có lão trang chủ đèo bòng ba cô gái quá thì, lễ mễ mới ra khỏi buồng vì đang mải ăn đồ nguội, suýt ôm chầm lấy Rôstsin, phả vào mặt chàng một hơi thở sặc sụa mùi rượu Mađera:
- Ồ, Vađim Pêtrôvits, anh bạn quý, thế mà cứ tưởng ai, ba đứa con gái tôi cứ run bần bật lên như thể có quân bolsêvik ở đâu xông vào...
Nhưng lão câm bặt khi trông thấy anh chàng Xaskô to lớn mặt đầy vết xước đỏ lòm, anh thợ lắp ống dẫn nước đội mũ lưỡi trai ngập cả mắt và anh chàng Tsij vui vẻ, hồng hào nhưng ít có khuynh hướng hòa hợp giai cấp...
Anh thợ lắp ống dẫn nước am hiểu tường tận tất cả những lối ra vào trong khách sạn này. Khi họ lên đến tầng ba, anh ta dẫn họ đến một cầu thang sau, và từ đấy họ leo lên gác xép. Cánh cửa sắt dẫn vào buồng xép đang để mở he hé... “Chúng nó ở đây...” - anh thì thầm rồi mở toang cửa lao vào một cách hung hăn như thể đã chờ phút này suốt đời... Khi Rôstsin, người cúi lom khom trong bóng tối cho khỏi va đầu vào xà nhà, chạy đến cửa sổ tròn trổ qua mái, Rôbert đang đâm mãi lưỡi lê vào một người mặc áo khoác lông nằm sấp bên súng máy.
- Biết ngay mà: chính lão chủ khách sạn.
Khi họ rời căn gác xép leo xuống, Rôbert bỗng thấy khó ở, môi anh ta run lên bần bật, anh ngồi thụp xuống bậc cấp và lấy cái mũ lưỡi trai che mặt. Xaskô đỡ lấy khẩu súng trường của anh ta, gắt: “Lại phải đợi mày nữa chắc”? Tsij cũng đệm một câu: “Chà cái cậu này, thế mà là “Rôbert” kia chứ!”. Anh ta đứng phắt dậy, giật khẩu súng trường trong tay Xaskô và chạy xuống cầu thang, nhảy từng mấy bực một. Vađim Pêtrôvits cắt Rôbert và Tsij ở lại gác khác sạn, sai Xaskô cầm giấy về ban tham mưu yêu cầu gửi đạn đến khách sạn “Axtorya”, rồi một mình đi ra đại lộ.
Ngày đã sắp tàn. Các đội công nhân vũ trang đã chiếm nhà bưu điện, trụ sở Đuma thị xã và nhà ngân khố. Tất cả những nơi ấy Rôstsin đều đi duyệt qua một lượt, đến nơi nào chàng cũng phái liên lạc về báo cáo với ban tham mưu - có đủ mọi dấu hiệu cho thấy là trận đánh vẫn kéo dài. Bộ binh của Makhnô, sau khi cạn hết bầu nhiệt huyết lúc đầu, đã thấy chán ngán với hoàn cảnh chiến đấu trong thành phố... Giá đánh nhau trên thảo nguyên thì từ lâu họ đã chia nhau các món chiến lợi phẩm, nấu xúp đặc trên lửa trại và quây tròn lại ngắm những tay bợm nhảy đi những chiếc ủng mới lấy được của người chết nhảy điệu gôpak ngang tàng. Về phía họ, quân Petlyura đã hoàn hồn sau những phút hoang mang ban đầu. Rút vào phần giữa đại lộ, họ đào công sự và đây đó chuyển sang phản công.
Mãi đến sẩm tối Rôstsin mới về đến ga. Nhưng Makhnô không còn ở đấy nữa: hắn đã dời đại bản doanh đến khách sạn “Axtorya”. Rôstsin lại đến khách sạn “Axtorya”. Từ tối hôm qua chàng chưa ăn gì, chỉ uống một ca nước. Cổ chân chàng rã rời ra, cáo áo bêkes trĩu nặng trên vai, như thể làm bằng chì.
Người ta không cho chàng vào khách sạn. Ở cửa khách sạn có đặt hai khẩu đại liên, và trên vỉa hè hai tên lính cận vệ của Makhnô, tóc để dài rũ cả xuống trán theo mốt Gulai-Pôlê, đang đi đi lại, cựa giày kêu lẻng xẻng. Để khỏi cảm lạnh, một tên khoác một cái áo lông rộng trên cái áo va-rơi kỵ binh, một tên khác quấn quanh cổ một tấm khăn quàng bằng lông chồn bạc. Bọn cận vệ Makhnô đòi xem giấy tờ của Rôstsin, nhưng cả hai tên đều không biết chữ, và dọa sẽ bắn chàng chết ngay trên vỉa hè nếu chàng cứ một mực xông vào cửa. “Cút mẹ chúng mày về nhà ma với cái thằng thủ lĩnh của chúng mày” - Rôstsin uể oải nói, rồi lại quay ra ga.
Ở đây, trong gian phòng giải khát tranh tối tranh sáng bị phá tan hoang, chập chờn ánh lửa trại từ những khung cửa sổ cao ngất rọi vào, chàng ngả lưng ra một chiếc đi-văng bằng gỗ sồi và lập tức ngủ thiếp đi, bất chấp những tiếng quát tháo, những tiếng còi đầu máy và những phát súng nổ chen lẫn vào nhau loạn xạ ở bên ngoài. Nhưng qua giấc ngủ mệt nhọc, nặng nề cứ lần lượt hiên lên những mảng lộn xộn của ngày vừa qua. Hôm nay chàng đã sống qua một ngày hữu ích... Có lẽ cũng chưa hoàn toàn... Tại sao chàng lại đánh vào thái dương thằng ấy? Hắn hàng rồi kia mà... Hay để phi tang? Phải, phải... Rồi chàng thấy hiện lên những con bài la liệt trên bàn, những cốc rượu vang... Và ngay bên cạnh đó là người đã bị chàng giết, đại úy Vêđênyapin, một tay xu nịnh, có bộ răng sứt và cái miệng ướt át như lỗ đít gà, lúc nào cũng chúm lại như chực hôn vào cấp hiệu của viên tư lệnh quân đoàn, tướng Êvert, đang ngồi đánh bài prélerence... Thôi mặc mẹ nó, đánh chết là phải...
Giấc ngủ và nhịp đập hồi hộp của trái tim chàng cứ vật lộn với nhau. Rôstsin mở mắt nhìn lên một gương mặt thanh thản duyên dáng tuyệt vời hiện lên trong ánh lửa đo đỏ từ ngoài cửa sổ hắt vào. Chàng thở dài và tỉnh dậy. Maruxya ngồi bên cạnh chàng, trên đùi đặt một cái ca đựng nước nóng và một miếng bánh mì.
- Này, anh ăn đi một chút - Maruxya nói.
* * *
Đêm hôm ấy Tsugai và ông chủ tịch ủy ban cách mạng lần vào doanh trại pháo binh, nơi chỉ còn người của họ ở lại canh gác, đánh thức Martynenkô dậy, rồi Tsugai nói với anh như thế này:
- Chúng tôi đến có câu chuyện này bàn với cái lương tâm đen tối của bạn đây, bạn ạ. Không thể nào tưởng tượng một cách xử sự nào tệ hơn cách xử sự của bạn... Một là bạn dứt khoát theo Petlyura: nếu vậy chúng tôi không để cho bạn sống mà ra khỏi đây đâu, hai là bạn lắp xe kéo pháo...
- Ồ, được thôi, sáng mai tôi sẽ đưa pháo ra chỗ các anh...
- Không phải sáng mai gì cả, ngay bây giờ... Chà, bạn ngủ nhiều quá, không khéo ngủ quên mất không kịp lên thiên đường đấy, Martynenkô ạ...
- À, muốn ngay bây giờ thì ngay bây giờ vậy...
Sáng hôm sau tất cả các cửa sổ ở Êkatêrinôxlav đều rung lên rè rè vì những loạt đại bác. Trên đại lộ, đá lát đường, cành phong dương, mảnh nhà bát giác thi nhau tung lên trời. Được tiếng nhạc hùng tráng này cổ vũ, các đội công nhân vũ trang, trung đoàn nông dân và các đội binh Makhnô lao vào quân Petlyura, dồn họ lên đồi. Bấy giờ đại diện của các tổ chức đảng phái và không đảng phái, đồng thời có cả Paprikaki-em cầm những là cờ trắng buộc ở đầu mấy cây sậy, sợ sệt mon men đến trụ sở ủy ban cách mạng đề nghị đứng ra làm trung gian để trong một thời gian ngắn nhất đạt đến ngừng bắn và chấm dứt nội chiến.
* * *
Mirôn Ivanôvits đang ngồi trước một cái bàn đặt trong phòng mắc áo của khách sạn “Axtorya”, hai vai gù gù, mình mặc cái áo bành tô tồi tàn đã đứt hết khuy, đầu đội cái mũ cát-két cáu bẩn, miệng nhai miếng bánh mì khô cứng đét, nhai mãi mà tuyến nước miếng vẫn không hề tiết ra một chất gì. Ông nói với các đại biểu:
- Bản thân chúng tôi không có lợi gì trong việc phá hủy thành phố. Chúng tôi xin đưa ra những điều kiện tối hậu sau đây: đến ba giờ chiều tất cả các đơn vị Petluyra hạ vũ khí, các phần tử dân binh phản cách mạng ngừng bắn từ các gác xép. Nếu không, đến ba giờ một phút pháo của chúng tôi sẽ khai hỏa; chia thành phố ra thành từng ô vuông mà bắn rải thảm.
Ông chủ tịch nói chậm rãi, nhai còn chậm hơn nữa, mặt ông đen xạm lại vì mồ hống. Các đại biểu đâm nản. Họ thì thầm hội ý với nhau hồi lâu và đã định mở cuộc tranh luận. Nhưng vừa lúc ấy từ trên cầu thang đá hoa một tốp người ăn mặc đủ màu đủ kiểu bước xuống phòng mắc áo: đi trước là hai người khệ nệ bưng trước bụng hai khẩu súng đại liên Lewis, và theo sau đó có hơn mười gã thanh niên ngang tàng mình đeo đầy vũ khí, đi giữa là một người tóc dài có đôi mắt điên dại...
Các đại biểu liền giật bức tối hậu thư trong tay ông chủ tịch và hối hả ra đại lộ, ra giữa không khí trong lành, dưới những đường đạn bay chiu chíu.
Bộ chỉ huy Petlyura bác bỏ tối hậu thư. Đến ba giờ một phút thủ lĩnh Makhnô lồng lộn lên, gõ súng lục côm cốp lên bàn họp của hội đồng quân sự cách mạng, đòi phải triệt hạ thành phố không thương tiếc bằng cách pháo kích rải thảm từng ô vuông. Các thành viên của Ủy ban quân sự cách mạng, vốn là những công nhân sở tại sinh trưởng ở đây, đều thấy tiếc thành phố. Tuy vậy không thể tỏ ra nhu nhược được: họ bèn quyết định dọa cho bọn tư sản sợ một mẻ. Muộn hơn giờ hết hạn tối hậu một ít, mười bốn khẩu đại bác của Martynenkô bắt đầu dõng dạc lên tiếng. Đây đó trên tường các tòa nhà lớn nhô cao vượt hẳn các nhà khác, gạch và vữa đổ xuống ầm ầm. Đại biểu các ủy ban chạy như chuột nhắt từ chỗ quân Petlyura đóng đến ủy ban quân sự cách mạng. Nhưng cuộc tấn công của các đội công nhân vũ trang vẫn tiếp diễn không ngớt. Quân Petlyura bắt đầu rút về cuối đại lộ, trên đỉnh dốc.
Đêm rạng ngày thứ tư của cuộc khởi nghĩa, ủy ban cách mạng tuyên bố thành lập chính quyền xô-viết trong thành phố.
* * *
Suốt đêm hôm ấy ủy ban cách mạng tiến hành việc thành lập chính phủ. Như Mirôn Ivanôvits đã dự tính hôm còn ở trên toa xe lửa, bọn vô chính chính phủ và bọn xã hội cách mạng cánh tả đã liên kết thành một khối với thủ lĩnh Makhnô, dựa vào thế lực của hắn để xông vào hội nghị và hiện nay đang điên cuồng giành giật từng ghế một trong chính phủ. Không hiểu sao các đại biểu xã hội cách mạng toàn những người thấp bé nhưng dai sức, mấy hôm nay họ lại được ngủ đẫy giấc, cho nên tranh luận với họ rất khó.
Mỗi khi đứng dậy phát biểu, họ đều mỉm một nụ cười tươi rói quay về phía Makhnô trước tiên: thủ lĩnh đây là người đại diện chân chính của sức mạnh tự phát của nhân dân, thủ lĩnh đây là một nhà lãnh tụ thần thoại và là một nhà chiến lược vĩ đại, là ngọn lửa tẩy trừ mọi sự ô uế và là cái chổi sắt... Còn các chiến sĩ của thủ lĩnh thì đẹp đẽ xiết bao, thật là những trang mã thượng quên mình vì nghĩa!
Makhnô mím đôi môi nhợt nhạt ngồi nghe và chỉ gật gật cái đầu, khuôn mặt hốc hác vẫn điềm nhiên. Trong khi đó vị đại biểu bất khuất của Đảng xã hội cách mạng cố cất cao giọng nói rất to, để cho những lời phát biểu của mình vang qua mấy cánh cửa đóng chặt ra đến tận dãy hành lang chật ních những quân lính Makhnô và đủ các hạng người hiếu kỳ không hiểu làm thế nào đã lọt được vào khách sạn.
- Các đồng chí bolsêvik, giữa chúng ta có gì phải tranh luận đâu? Các đồng chí ủng hộ các xô-viết, chúng tôi cũng ủng hộ các xô-viết... Sự bất đồng giữa chúng ta chỉ có tính chất thuần túy chiến thuật. Chúng ta thừa hưởng bộ máy quản lý thị xã của tư sản. Các đồng chí muốn biến nó thành bộ máy xô-viết ngay. Còn chúng tôi, chúng tôi biết rằng bộ máy thị xã sẽ không chịu làm việc với những người cộng sản. Thế nào cũng sẽ có sự phá hoại. Nạn đói và tình trạng đổ vỡ là điều được bảo đảm trăm phần trăm. Nhưng làm việc với chúng tôi thì họ sẵn sàng: có một nghị quyết của hội đồng Đuma thành phố về việc đó. Chính vì vậy mà chúng tôi đấu tranh để đề cử đồng chí Vôlin làm dân ủy bộ lương thực. Tôi đề nghị chấm dứt tranh luận để chuyển sang biểu quyết...
Đại biểu vô chính phủ có một thái độ bí hiểm và thậm chí khinh bỉ nữa. Hắn ném ra một ý kiến bất ngờ đến nỗi ngay cả Makhnô cũng phải nghển cái cổ gà chọi lên. Đó là một anh sinh viên đội cái mũ hình cà-mèn đỏ như hoa mào gà. Hắn đề cử Paprikaki-em làm ủy viên bộ tài chính...
- Chúng tôi sẽ ủng hộ ông ta bằng tất cả những phương tiện mà chúng tôi có được... Paprikaki-em là người cùng chí hướng với chúng tôi, đó là một người vô chính phủ thuộc loại ngồi phòng giấy, rất am hiểu về tài chính, và trong tay chúng ta đó sẽ là một công cụ ngoan ngoãn và hữu ích của một thành phố khởi nghĩa... Tôi đề nghị không mở cuộc thảo luận, chỉ biểu quyết bằng cách giơ tay...
Maruxya và Vađim Pêtrôvits ngồi trong phòng họp, trên cùng một chiếc ghế tựa đặt sát tường. Maruxya công phẫn nắm chặt tay lại, thỉnh thoảng đứng bật dậy, giọng lanh lãnh: “Thật là nhục nhã!” hay “Thế khi chúng tôi chiến đấu thì các anh ở đâu?” - rồi lại ngồi xuống, hai má đỏ bừng bừng. Maryxya chỉ được quyền tham nghị, không được biểu quyết.
Qua mấy ngày hôm ấy Maruxya gầy và đen hẳn đi. Mặc cái áo da cừu, cô đã phanh ngực ra mà vẫn thấy nóng. Tóc cô xổ tung ra. Những lúc không phát biểu ý kiến, cô vội vã kể cho Rôstsin nghe những công việc của cô trong trận vừa qua... Lúc đầu cô ở trong ban tiếp tế bánh mì và nước sôi cho các đội công nhân... Sau đó cô được chuyển sang đội cứu thương và cuối cùng được phái đi làm liên lạc... Cô chạy khắp thành phố, bị bắn hụt “một trăm lần”. Cô cho Rôstsin xem cái vạt váy bị bắn thủng mấy chỗ...
- Em mà không nhanh thì chết rồi. Có ai gọi to: “Maruxya!”. Em quay lại, thế là một trái phá nổ ầm ầm ngay ở chỗ em vừa đứng, em chạy vút ra núp sau một cây phong... Chao ôi, sợ quá, đến bây giờ hai đầu gối vẫn còn run run.
Niềm vui sống của Maruxya còn thừa đủ cho mười cuộc khỏi nghĩa nữa là ít. Trong khi nàng đang mải kể chuyện huyên thiên như vậy, cái mặt đầy vết xước của Xaskô ló vào cửa. Anh ta khó nhọc lắm mới len được vào đây, giơ ngón tay vẫy Maruxya. Maruxya chạy ra. Xaskô thì thầm một câu gì bên tai cô không biết. Cô vỗ tay đánh đét một tiếng...
Tsugai đang nói ồm ồm, bác bỏ những ý kiến đề cử:
- Các đồng chí ạ, chúng ta họp nhau lại ở đây không phải để tranh luận, để chứng minh, mà để chỉ huy... Mà ai có sức mạnh thì kẻ đó phải chỉ huy...
Maruxya sốt ruột quá không đợi được nữa, chạy ra bàn báo tin:
- Trong thành phố đang có những vụ cướp phá hàng loạt... Các đồng chí cứ thử nghe mấy đồng chí ngoài kia mà xem... Người ta không chịu để cho họ vào đây, người ta đã vặn tay họ giữ lại...
Bấy giờ ngoài cửa bắt đầu có những tiếng xô đẩy ồn ào, những tiếng quát tháo thất thanh, rồi Xaskô và mấy người công nhân khoác súng nữa ùa vào. Họ tranh nhau nói một lúc:
- Chẳng còn ra cái gì nữa! Đặt cả cảnh sát ở đây à! Các đồng chí thử ra mà xem thì hơn... Cả đại lộ bị chắn kín cả hai đầu, bọn Makhnô đang đập phá các cửa hàng, bỏ đồ đạc lên xe chở đi...
Makhnô vêu mồm ra như sắp cắn ai... Hắn đứng dậy đi ra cửa... Quân lính của hắn đứng ngoài hành lang trông thấy thủ lĩnh nhe bộ răng vàng khê như răng chó già, vội tản ra. Hắn không phải đi xa: ngay ở bên kia đường, bên các cửa kính của một cửa hàng lớn có nhiều bóng người đang lăng xăng ra vào. Makhnô vừa bước ra khỏi cửa khách sạn thì Liôvka hiện ra trên vỉa hè.
- Có việc gì thế? Có việc gì mà ồn lên thế? - Liôvka hỏi, người lảo đảo.
Makhnô quát lớn:
- Nãy giờ mầy ở đâu hở thằng khốn kiếp?
- Tôi ở đâu à?... Chém cùn cả gươm ra đây này... Chỉ một tay này chém chết ba mươi sáu đứa... Ba mươi sáu đứa...
- Mày phải lập lại trật tự trong thành phố ngay cho tao! - Makhnô rít lên, đẩy mạnh vào ngực Liôvka và chạy sang cái cửa hàng ở bên kia đường. Liôvka và mấy tên lính cận vệ nữa chạy theo. Nhưng bọn kia đã biết thân chuồn đi hết, chỉ còn thấy mấy đứa chạy ì ạch ở phía xa, vai mang những gói tướng.
Tuy vậy quân lính cũng lôi được ở trong cửa hàng ra một tên có bộ ria to xù. Hắn mếu máo kể lại rằng hắn đến đây chỉ để xem thử bọn tư sản khốn kiếp uống máu dân lành ra sao... Makhnô nhìn hắn, cả người run lên bần bật. Rồi đến khi tứ phía khách sạn có thêm nhiều người hiếu kỳ ùa sang xem, hắn đưa tay chỉ vào mặt tên kia:
- Đây là một tên tay sai của phản cách mạng... Mày sẽ không làm điều ám muội được nữa đâu! Chém!
Tên lính Makhnô có bộ ria to gào lên “Ối đừng!...”. Liôvka rút gươm, thở đánh hự một tiếng trong khi cánh tay hắn vung hết đà chém xuống cổ tên kia...
- Tên thứ ba mươi bảy! - hắn vừa bước lui vừa nói, giọng huênh hoang...
Makhnô lấy chân đá túi bụi vào cái xác đang giãy giụa giữa vũng máu chảy lênh láng trên vỉa hè.
- Bất cứ kẻ nào làm xằng đều sẽ bị xử trí như vậy... Cuộc cướp phá đã chấm dứt, chấm dứt rồi... - Hắn quay ngoắt về phía đám đông đang sợ hãi lùi lại. - Các người có thể yên ổn ai về nhà nấy...
* * *
Maruxya chợt ngủ thiếp đi từ lúc nào trên chiếc ghế, người tựa vào vai Rôstsin, mái đầu tóc xõa ngả xuống ngực chàng. Lúc bấy giờ đã hơn sáu giờ sáng, người hầu phòng già cau có, nhân dịp thành lập chính quyền Xô-viết, đã thay chiếc áo lễ phục đen bằng một cái áo vét mặc ở nhà, khuy có thêu dải tết ngang, bưng nước trà và những khoanh bánh mì lớn ra. Chính phủ đã thành lập xong, nhưng hãy còn nhiều vấn đề cấp thiết chưa giải quyết được. Chẳng hạn, ngay từ tối hôm qua, công nhân đường sắt có đặt vấn đề: ai sẽ trả lương cho họ, và trả theo mức nào? Makhnô, được phái vô chính phủ ủng hộ, đề nghị giải pháp sau đây: công nhân đường sắt hãy tự quy định giá vé, tự thu tiền và tự trả lấy lương...
Nhưng cuộc tranh luận chưa kịp nổ ra. Trong gian phòng xanh um những khói thuốc là, các cửa kính bỗng rung lên rè rè. Một tiếng nổ ầm ầm vọng tới. Martynenkô đang ngủ trên chiếc đi-văng rên lên một tiếng. Các cửa kính lại rung lên. Martynenkô tỉnh hẳn: “Quỷ tha ma bắt chúng nó đi! Chúng nó giở cái trò bậy bạ gì thế nhỉ?” - Đoạn vội vã đội mũ lông lên cái đầu trọc lốc. Một tiếng nổ nặng nề nữa vọng tới. Tsugai và Mirôn Ivanôvits buông bánh mì xuống lo lắng nhìn nhau. Liôvka chạy vào phòng, cùng đi với một kỵ binh không đội mũ, cái đầu lắc lư như đầu gấu.
- Chết cả lũ rồi, - người kỵ binh vừa nói vừa khoát bàn tay ngang tai. - cả tiểu đoàn kỵ binh bị tiêu diệt rồi...
- Chúng đánh đến Đievka rồi! - Liôvka la lên, hai má rung rung. -Thủ lĩnh cứ ngồi tán láo mãi!... Đại tá Xamôkis đang tiến vào đây với sáu trung đoàn Kuren... Hắn nã trọng pháo vào ga rồi...
Công nhiên và hả hê, không thèm nấp sau những tấm đệm lót giường nữa, từ tất cả các khung cửa sổ trông ra đại lộ Êkatêrinxki dân phố đều thò đầu ra xem quân đội Makhnô rút. Những tên kỵ binh phi qua, luôn tay quất roi sang bên này bên kia, gió thổi bay phất phới sau lưng họ những tà áo choàng lông, áo burka, áo khoác phiêu kỵ, hay những tấm chăn lụa... Những con ngựa, bao da khâu sau yên nặng trịch những đồ đạc mới cướp được, thỉnh thoảng lại trượt chân trên mặt đường đóng băng: thế là cả người, ngựa lẫn chiến lợi phẩm lăn lông lốc dưới vó những con ngựa khác... Trên các cửa sổ có tiếng reo mừng: “A ha lại một thằng nữa!”. Những chiếc xe giàn chở nặng của ăn cướp, những chiếc xe tatsanka bốn ngựa phi qua, quét sạch tất cả trên đường đi, phóng nhanh đến nỗi vành bánh bọc sắt tóe lửa ra, những tên bộ binh không kịp nhảy lên xe giàn cắm cổ chạy theo...
Tất cả những thứ đó kéo đi ầm ầm trong tiếng quát tháo và kêu la í ới, leo lên dốc đại lộ chạy về phía trên thành phố, vì đại tá Xamôkis lúc bấy giờ đã chiếm được cầu xe lửa và nhà ga... Thủ lĩnh Makhnô từ trong trụ sở ủy ban cách mạng chạy ra, giẫm chân đành đạch trong cơn phẫn uất bất lực, và nghe đâu lại còn khóc òa lên nữa. Rồi hắn nhẩy lên chiếc xe tatsanka mà Liôvka vừa cho đánh đến khách sạn, trùm cái áo tu-lúp lên kín cả đầu - không biết vì xấu hổ hay vì muốn cho đừng ai nhận ra hắn - và rời cái thành phố đáng nguyền rủa này đi về hướng nào không rõ.
Quân đội của thủ lĩnh Makhnô đã rút lui không nổ một phát súng nào. Khi ra khỏi thành phố, họ đột nhiên chạm trán với quân trấn thủ của Petlyura, hốt hoảng cuống cuồng lên và quay ngựa chạy ra sông Đniepr, đâm dầu vào một cái chết chắc chắn. Ở đây bờ sông dốc đứng. Phá vỡ các hàng rào, giẫm nát các bụi cây, quân lính Makhnô đưa cả đoàn xe cộ xuống mặt băng. Nhưng băng mỏng quá, oằn xuống, vỡ răng rắc, thế là cả xe lẫn người ngựa rơi tõm xuống dòng nước đen xì giữa các tảng băng. Chỉ có một bộ phận nhỏ của quân đội Makhnô - một đám tàn quân thảm hại - sang được đến bờ bên kia.
Đêm hôm ấy nhiều công nhân trong các đội vũ trang đã xin về nhà sưởi cho đỡ rét, thay vải quấn chân và ăn chút thức ăn nóng. Ở lại trong quân ngũ chỉ có những đội tuần tiễu và những chiến sĩ của trung đoàn nông dân, vì các chiến sĩ này nhà xa không về được. Chính cái trung đoàn nông dân này phải chịu đựng tất cả sức tấn công của các trung đoàn do Xamôkis chỉ huy. Trung đoàn nông dân bị bao vây ở gần quảng trường nhà ga và bị tiêu diệt gần hết trong một trận đánh lê đẫm máu, chỉ còn được dăm bảy người thoát được ra ngoài, lẻn qua các sân nhà, trở về làng kể lại trận đánh khủng khiếp đã cướp mất tính mạng của ba trăm chàng trai cường tráng đã đến Êkatêrinôxlav để thiết lập chính quyền xô-viết.
Mirôn Ivanôvits và Tsugai chạy đi tập hợp các đội công nhân vũ trang và các đội tuần tiễu lại. Họ không tính chuyện giữ thành phố. Nhiệm vụ đặt ra là phải tạo khả năng cho tất cả những người đã tham gia khởi nghĩa rút sang tả ngạn qua cái cầu bộ hành. Các đội vũ trang được tập hợp lại nấp sau các góc nhà, sau những đống đá, những ụ chiến đấu, dùng hỏa lực súng máy đẩy lùi quân Petlyura đang tiến vào. Từ khắp nơi, hàng trăm công nhân dắt díu vợ con chạy về phía cầu và qua cầu. Có nhiều người cầm theo những thứ đồ đạc tồi tàn thảm hại lẽ ra có thể vứt bỏ không thương tiếc. Người ta bắn vào họ từ trên các mái nhà, từ dưới bờ sông.
Tsugai, Mirôn Antônôvits, Rôstsin, Maruxya, Xaskô, Tsij và chừng mười đồng chí khác rút lui sau cùng. Kéo lê theo một khẩu đại liên, họ chạy từ góc này sang góc kia, từ chỗ nấp này sang chỗ nấp khác. Những cái mũ lông màu xám của quân Xamôkis chốc chốc lại nhô lên cách các cổng nhà không xa. Còn lại một việc khó khăn nhất: lên cầu. Ở đây không còn có cách gì tự vệ, không có chỗ nào mà nấp bắn ngoài những xác chết và những gói đồ vứt lại ngổn ngang... Tsugai quay ngược súng máy lại, nằm sau lá chắn, giữ Xaskô ở cạnh mình và quát bảo mấy người kia: “Chạy nhanh lên!”. Trong tiếng nổ liên hồi của khẩu đại liên bắn đến chảy cả nòng ra, mọi người cắm cổ chạy qua cầu.
Ra đến chính giữa cầu Maruxya như vấp phải cái gì, bước chân lảo đảo, khó nhọc hẳn đi... Rôstsin chạy lên kịp, đỡ lấy cô. Cô giương to đôi mắt ngạc nhiên, muốn nói một câu gì nhưng rồi chỉ im lặng nhìn chàng. Rôstsin quỳ xuống bế xốc cô lên như bế một đứa trẻ. Maruxya trĩu vào người chàng mỗi lúc một nặng. Chàng vừa chạy đến cuối cầu thì như có một cây gậy sắt đánh vào đùi chàng. Chàng cố đứng vững để đừng đánh rơi Maruxya xuống. Tsugai từ phía sau chạy lên. Rôstsin nói với anh: “Tôi buông ra mất, anh đỡ lấy cô ấy...”. Ngay lúc ấy mũ của chàng bị bắn tung ra, mắt chàng tối sầm lại. Văng vẳng bên tai chàng có tiếng nói của Tsugai:
- Xaskô, không được bỏ rơi anh ấy.

16

Vở “Đạo tặc” mãi đến tháng hai mới dựng được, nhân một đợt trú quân ngắn của trung đoàn Katsalinxki. Những cuộc chuyển quân dài trong băng giá và bảo tuyết, khi phía trước không phải là một nơi nghỉ đêm ấm áp mà là ánh lửa cháy nhà chập chờn dưới lớp mây đen, và trên những cánh thảo nguyên phủ tuyết không thể tìm đâu ra một thanh củi nhỏ để đốt tí lửa sưởi tấm thân tê cóng, những trận đánh dằng dai, những đợt báo động lúc sáng sớm, những cuộc chạm súng ngắn ngủi nhưng ác liệt với quân cô-dắc - tất cả đều đã tạm lùi vào dĩ vãng. Mamôntôv với những tàn dư của các trung đoàn bị đánh liểng xiểng của hắn đang rút xa sang bên kia sông Đôn. Quân đội của hắn đã tan rã. Quân lính không còn tin hắn nữa: hắn đã nướng hàng vạn tinh binh của quân đoàn sông Đôn vào ba đợt tấn công Txaritxyn một cách uổng phí.
Sau khi chiếm lĩnh một làng cô-dắc lớn đã quy phục mà không tốn một viên đạn nào, binh sĩ trung đoàn Katsalinxki vui hẳn lên. Họ đã được ăn no và ngủ ấm. Trước mắt là mùa xuân rồi cũng có thể cuộc nội chiến dai dẳng này sẽ chấm dứt.
Một tháng rưỡi hành quân vất vả đã làm cho Đasa kiệt sức; nàng không còn thoáng ý nghĩ bắt tay vào dựng kịch nữa. Những dụng cụ sân khấu đã mất mát dần đi, nhiều người trong đoàn kịch đã bị thương. Ngay cuốn sách kịch cũng thất lạc đi đâu mất. Đasa muốn được ngồi trong phòng ấm bên cạnh Ivan Ilyits dù chỉ trong vài buổi tối, ngồi yên không nói, không nghĩ ngợi, đắm mình vào bóng hoàng hôn tĩnh mịch, trong tiếng hát ri rỉ thao thức của con dế mèn muôn thuở đang từ dưới lò sưởi đưa ra.
Cần phải giặt giũ vá mạng các thứ đồ lót, đưa đôi ủng dạ của Ivan Ilyits đi khâu lại. Sửa sang cái hình hài một chút, chứ không thì chồng nàng và mọi người khác trên thế gian này, kể cả nàng nữa, sẽ quên mất rằng nàng là một người phụ nữ. Ngay từ tối đầu tiên đóng quân Đasa và Agrippina đã nấu nước tắm rồi ra đi dạo trên những vũng nước đóng băng. Hơi gió nhẹ mơn man trên hai đôi má còn nóng bừng hơi nước tắm, một cảm giác khoan khoái lạ lùng! Hai người đặt ấm xamôvar, chuẩn bị ăn tối. Ivan và Ilyits và Ivan Gora cũng vừa đi tắm về, và cả bốn người ngồi vào bàn. Hai người đàn ông xuýt xoa vui thích, vì mùi canh bắp cải và mùi xamôvar tỏa ra dễ chịu quá! Ivan Gora nói:
 - Ivan Ilyits ạ, nghỉ ngơi thế này thì bõ thật đấy!...
Đasa nghỉ chưa kịp hồi sức thì ngay hôm sau, trước giờ Ivan Ilyits về, Anixya đã cầm một cuốn Siller đến, dè dặt, nghiêm trang ngước đôi mắt mơ mộng lên nói:
- Tôi buồn quá, Đarya Đmitrievna ạ... Không biết có phải tại tôi hư thân mất nết rồi không... Mọi người đều bình thường cả, nhưng tôi thì lại hư hỏng thế nào ấy. Hồi tôi còn bé đã có người nhận thấy thế... Thế rồi sau đó, dĩ nhiên tôi đi lấy chồng, có con khá sớm... Rồi cái chuyện buồn ấy đã xảy ra... Năm nay tôi hai mươi bốn tuổi. Đarya Đmitrievna ạ. Khi nào chiến tranh kết thúc, tôi sẽ đi đâu? Đi lấy một anh mu-gích, ở nhà với chồng, suốt ngày nhìn ra cánh đồng không mông quạnh hay sao? Sau những điều tôi đã được thấy, đã được nghe, tôi thấy cần một cái gì khác...
Ngực Anixya phập phồng dưới lần áo ca-pốt, đôi mắt chị lim dim:
- Tôi đã đọc hết cuốn sách này, trong khi đánh nhau tôi cũng không rời nó ra. Có lẽ tôi u mê, dốt nát, vô học, nhưng cái đó có thể bổ cứu được. Đarya Đmitrievna ạ, ở trong tôi có nhiều tiếng nói khác nhau đang sống... Về bản thân, tôi chẳng biết gì, nhưng về những con người khác thì tôi lại biết rõ... Nước mắt cứ sôi lên khi tôi nghĩ cách làm sao kể chuyện bá tước tiểu thư Amalya chẳng hạn... Sao cho người con gái ấy từ những trang sách này đứng lên như người sống thật! Sinh thời Saryghin cũng đã nói với tôi về chuyện này... Đarya Đmitrievna ạ, hôm nay chúng tôi đã tìm được chỗ diễn kịch, ngoài trường học ấy, chứa được khoảng ba trăm người... ở đây có thợ mộc, gỗ cũng kiếm được, vải cũng có... Tại sao chúng ta lại không dựng vở “Đạo tặc”? Chúng tôi hãy còn nhớ vở... Hôm nay các anh em có nhắc nhở: giá được giải trí một chút cho vui...
Ivan Ilyits về. Dĩ nhiên chàng rất phấn khởi: “Một ý tuyệt hay! Ta còn đóng ở đây độ một tuần nữa... sẽ thành một ngày hội rất vui cho anh em!...”. Ivan Ilyits thật là một con người kỳ lạ: không có gì có thể làm vẩn đục niềm vui sống trong lòng chàng: một khi Đasa đã ở bên cạnh chàng, thì tức là mọi người đều đang bay vun vút về chân trời hạnh phúc... Vẫn đúng như những ngày tháng sáu xa xôi, xanh biếc, lộng gió trên chuyến tàu thủy năm nào...
Rốt cục Đasa vẫn không được nghe tiếng tim đập của người yêu trong bóng hoàng hôn, không được rón rén như bước chân mèo len lỏi vào những ý nghĩ thầm kín của chàng. Vả lại trong lòng chàng liệu có cái gì thầm kín không? Ivan Ilyits chẳng qua là một người đại lượng, hào phóng: chàng có gì, cứ việc lấy cho kỳ hết... Và gương mặt dạn dầy sương gió của chàng cũng giản dị như ánh nắng... Ôi, mọi sự sẽ khác hẳn nếu trong bóng tối êm ả của thân thể nàng phôi thai một cuộc sống mới, một giọt máu của bản thân chàng...
Đội kịch bắt đầu diễn tập. Thật vất vả biết chừng nào! Đasa cứ lặng lẽ khóc thầm, các diễn viên xấu hổ không dám nhìn vào mặt nhau. Họ bây giờ đã thô lỗ đi, trở nên đanh đá, giọng họ khàn khàn... Xapôjkôv đã đến cứu vãn tình thế. Anh ta báo cáo một buổi về nguồn gốc của sân khấu nói chung, trong đó anh chứng minh rằng có những giống chim và giống thú cũng biết đóng kịch, chẳng hạn như con cáo “đóng kịch chuột”, nghĩa là con cáo mẹ bắt một con chuột rồi diễn cho lũ cáo con xem cả một màn kịch thực sự: nó nhảy nhót, ngã lăn kềnh ra, đi hai chân, quay tít cái đuôi... Đội kịch vững tâm lại, và công việc dần dần tiến hành có kết quả. Trong trường học, người ta dựng sân khấu, vẽ phông màn. Dãy đèn rầm thì thắp bằng mỡ lợn, những chiếc áo lễ phục và áo đuôi tôm đã lạc đi đâu mất trên đường hành quân, - những thứ mà Ivan Ilyits đã trưng dụng của ông trạng sư hồi còn đóng ở khu ấp - nay bỗng dưng lại tìm thấy trong đoàn xe tải.
Và cuối cùng ngày trình diễn đã đến: mặt trời vừa lặn thì một chiến sĩ hồng quân cưỡi con ngựa xám của pháo binh đi khắp làng (đây là một sáng kiến của Ivan Ilyits) thổi một hồi kèn đồng rồi cất tiếng rao to: “Thưa các đồng bào và các đồng chí, buổi diễn vở kịch “Những người đạo tặc” của Siller sắp mở màn...”
Cả làng đổ xô đến ngôi trường. Thềm và cửa ra vào bị tấn công dữ dội đến nỗi những người lọt được vào phòng mắt đều long lên sòng sọc, đầu không còn mũ, áo chẳng còn khuy... Những người không vào xem được cũng chẳng phải buồn lâu. Vầng trăng non treo trên thôn xóm, vằng vặc giữa bầu trời sâu thẳm của tiết chớm xuân. Tiếng phong cầm vang lên trước cửa trường. Các chiến sĩ Hồng quân làm cho đám con gái cô-dắc mới quy thuận phải ngạc nhiên với bài ca yêu thích của họ: “Giữa trời khuya bay qua một thiên thần...”. Họ làm quen nhau, rồi những câu bông đùa đối đáp qua lại, và “trong đôi mắt xinh ánh lên những niềm ân ái, và trên đôi môi thắm nảy nở một chiếc hôn”. Hoặc: “Người chiến binh kết hôn, chẳng phải chuyện chốc lát: ai muốn kết duyên xin hãy đợi chờ”.
Ban đầu công chúng trong phòng diễn kịch cứ cười ồ lên khi, dưới cái bộ dạng của ông già vẽ mặt, tóc bằng sợi gai, mặc cái áo thụng vốn là áo linh mục chữa lại, họ nhận ra chiến sĩ hồng quân Vanin... “Đúng cậu ấy rồi! - họ reo lên - Nào cố lên Vanin, đừng sợ...”. Khi từ trong cánh gà hiện ra một người mặc cái áo rộng thùng thình có hai cái đuôi sau lưng, chân đi bít tất đàn bà, răng nhe ra, mắt lấm la lấm lét, dáng đi như bò, mồm phun phè phè như con rắn “Bố ơi, con đây mà, Franx, đứa con hiếu thảo của bố đây mà” - thì công chúng cũng nhận ngay ra được Kuzma Kuzmits và lăn ra cười.
Đasa đứng trong hậu trường giơ hai tay lên nắm chặt lấy tóc mai, nói đi nói lại với Xapôjkôv.
- Thế là hết, hỏng hết rồi, thật là một thất bại thảm hại, tôi biết mà...
Nhưng rồi các nghệ sĩ cũng trấn áp được cái không khí cười cợt trong phòng diễn. Công chúng đã nhận mặt xong tất cả các diễn viên và bắt đầu lắng nghe. Latughin ra đứng sát đường rầm với dãy bấc bốc khói. Ánh đèn rầm từ phía dưới chiếu lên khuôn mặt gân guốc của anh với bộ râu lông cừu dán vào cằm, với đôi lông mày xếch ngược lên... Hai tay xiết chặt trên ngực, chặt đến nỗi cái áo đuôi tôm đen của ông trạng sư cứ nứt răng rắc, anh nói, giọng sang sảng:
- “Ôi, giá ta có thể kêu gọi cả thiên nhiên, không khí, đất đai, biển cả, cùng đứng lên một lượt mở cuộc chinh phạt quét sạch lũ lang sói đê hèn kia...”
Đến đây, công chúng lặng đi. Họ đã hiểu vở kịch muốn đi đến đâu. Cảnh trí không thay đổi, không có những sự chuyển dịch gì đặc biệt. Trước mỗi cảnh Xerghêy Xerghêyêvits lại ló đầu ra ngoài màn, cười tủm tỉm như thể mình biết một cái gì đặc biệt lắm:
- Cảnh ba. Các bạn hãy thử tưởng tượng lâu đài tráng lệ của dòng họ bá tước Moor. Mùi hoa thơm từ ngoài vườn, đưa vào khung cửa sổ. Nàng Amalya diễm lệ đang ngồi trong phòng khuê...
Mặt Xapôjkôv đã khuất sau màn. Màn kéo lên. Không còn ai nảy ra cái ý muốn nhận mặt Anixya Nazarôva ở đại đội hai trong vai trang giai nhân mặc chiếc váy rộng, vai quàng chiếc khăn sặc sỡ thắt trước ngực, má ửng hồng, tóc uốn quăn, đôi mắt mênh mông choán hết cả mặt, đang bừng bừng trong cơn phẫn nộ.
Nàng cất tiếng nói trầm trầm, giọng run run, ngân nga như hát. Nàng đập bàn quát vào mặt Frantx: “Xéo đi cho khuất mắt ta, đồ khốn nạn...”. Và vở kịch cứ thế tiếp diễn như một câu chuyện thần tiên mà thuở còn thơ, vào những đêm đông, ông nội ta thường kể, còn ta thì nằm trên lò sưởi nghẻo đầu xuống lắng nghe như uống lấy từng lời.
Trong vở kịch có một chỗ Kuzma Kuzmits rất sợ: đó là chỗ Amalya tát vào mặt ông ta. Tuy mơ mộng thế, Amalya vẫn có một bàn tay hồng quân chính cống. Kuzma Kuzmits thì thầm nhắc nàng: “Nhẹ tay tí nhé...”. Nhưng nàng vẫn quát lên với tất cả nỗi phẫn uất đang sôi sục trong lòng. “Đồ vu khống vô liêm sỉ!”, dang tay lên như thể tất cả sức nặng của quãng đời dĩ vãng đều dồn vào bàn tay ấy, và giáng xuống: Kuzma Kuzmits bay vèo vào hậu trường. Nhưng không một khán giả nào cười. Trong công chúng có tiếng reo: “Đáng đời lắm...!”. Và mọi người vỗ tay, vì ai cũng muốn giáng cho tên khốn nạn kia một cái tát tầy đình như vậy.
Rồi nàng giật những vòng những chuỗi trên cổ ném xuống đất giẫm nát ra.
- “Các người hãy cứ đeo vàng bạc khắp người đi, hỡi những kẻ giàu sang phú quý! Hãy cứ ăn uống no say trên những bàn tiệc linh đình. Hãy cứ duỗi dài chân tay trên chăn đệm dâm ô! Karl Karl! Em yêu anh...”
Xerghêy Xerghêyêvits vừa khép màn vừa nói với một nụ cười ngụ nhiều ý nghĩa: “Nghỉ giải lao...”
Trong hậu trường Anixya đến nép vào Đasa, úp mặt vào ngực nàng, người run cầm cập:
- Chị đừng khen, đừng, Đarya Đmitrievna nhé...
Sau đó, vở kịch như cứ tự nó tiếp diễn. Ở màn một, các diễn viên toát mồ hôi hột, nhưng bây giờ những bắp thịt căng thẳng của họ đã duỗi ra, giọng nói ban đầu như bị nghẽn lại nay đã tự nhiên hẳn đi, và họ cũng chẳng hề nao núng nếu qua cái giọng nhắc vở thều thào của Xerghêy Xerghêyêvits có những chỗ họ chẳng nghe ra cái gì hết: họ cứ cương bừa đi, so với Siller thì hơi quá quắt, nhưng dù sao cũng dễ hiểu hơn.
Công chúng rất hài lòng với buổi diễn. Têlêghin ngồi cạnh chính ủy ở hàng đầu đã mấy lần rơm rớm nước mắt: Ivan Gora, vốn có bổn phận giữ một thái độ dè dặt, luôn thở phì phò rất to, như thể trong một cuộc hành quân thắng lợi. Nhưng hài lòng nhất là các nghệ sĩ: họ không muốn cởi bỏ trang phục, không muốn chùi sạch hóa trang, họ cao hứng đến nỗi sẵn sàng diễn lại lần nữa, tuy khắp làng cô-dắc gà đã gáy sáng.
Buổi hội đã kết thúc. Tiếng hát và tiếng phong cầm đã im ắng, đây đó chỉ còn tiếng cổng mở ra đóng vào lạch cạch. Gà cũng đã ngừng tiếng gáy. Làng mạc đã ngủ yên. Anixya thong thả bước trên đường làng bên cạnh Latughin. Chiếc áo ca-pốt của anh chỉ khoác hờ một bên vai: anh vẫn còn thấy nóng.
- Đúng Anixya ạ, lạ thật đấy... Cái áo ca-pốt như cái vỏ bọc kín lấy Anixya, nhưng mình vẫn nhìn qua nó mà thấy rõ Anixya. Những lời lẽ thông thường không sao thích hợp được, và mình không muốn dùng những lời lẽ đó để nói với Anixya...
Họ đi ra cuối làng, nơi thảo nguyên chạy ra xa tắp để lẩn dần vào đêm tối. Trăng treo rất cao trên bầu trời đen sẫm. Trước mắt Anixya vẫn chập chờn ánh đèn rầm, và sau dãy đèn ấy, trong bóng tối hừng hực hơi thở, mỗi lời mỗi tiếng của chị đều gặp một hồi âm mạnh mẽ, và từ đấy đưa lên phía chị những tiếng thở dài xúc động, trong cái sức mạnh đó của chị có cái gì sâu thăm thẳm, chưa từng có bao giờ, một cái gì rất phụ nữ. Nghe Latughin nói, chị thấy khoan khoái dễ chịu...
- Mình đã được biết nhiều phụ nữ. Anixya ạ... Nhưng thôi mặc họ... Mình chưa gặp lấy một người nào như Anixya. Lần này thì mình bị rồi - tùy Anixya, có tin thì tin, không tin thì thôi...
Latughin dừng lại, và Anixya cũng dừng. Latughin ôm lấy Anixya, cái áo ca-pốt của anh tuột khỏi vai rơi xuống tuyết. Anh hôn rất mạnh rất lâu trên đôi môi lành lạnh của Anixya. Rồi anh lùi lại, nhìn gương mặt dường như dửng dưng của Anixya với đôi má tô đỏ bằng nước củ cải đường. Anixya thì không nhìn anh, mà lại ngước mắt lên nhìn trăng...
- Nỗi khổ của tôi là ở đấy! Thôi nói làm gì...
Latughin nhặt chiếc áo lên, và hai người lại bước đi...
Đêm hôm ấy Đasa cũng không ngủ được. Chống khuỷu tay lên gối, nàng nói:
- Em hiểu lắm, bây giờ thì chưa thể nào thực hiện được... Nhưng anh ạ, ta có Anixya, ta lại có Latughin. Kuzma Kuzmits thì hiển nhiên là một tài năng thực sự. Đó sẽ là Yagô... Ta sẽ dựng Ôthellô... Ta sẽ bổ sung đội kịch, mai anh ra quân lệnh cho trung đoàn đi... Rồi anh xem: ta sẽ đi biểu diễn ở sư đoàn, ở lữ đoàn... Nhưng trước hết là phải giữ gìn phông cảnh... Anh nói với anh chính ủy đi, bảo anh ấy chia cho bọn em mấy cái xe tải... Mà anh em họ nghe mới háo hức làm sao! Em có cảm giác khán giả là khối bọt bể hút nghệ thuật!...
- Em nói đúng đấy, đúng đấy, - Ivan Ilyits đáp.
Tay chắp sau lưng, áo sơ-mi bỏ ra ngoài, chân đi đôi giày dạ mà Đasa đã mua lại của một người đàn bà cô-dắc cho chàng, Ivan Ilyits đi đi lại lại, mỗi lần đi qua trước đèn, cái bóng to lù lù của chàng lại che lấp ánh sáng đi một lát. Không hiểu sao Đasa lấy thế làm khó chịu. Khi chàng đi đến cửa sổ, quay lại, và ánh đèn rọi sáng gương mặt khỏe khoắn, tươi cười của chàng với cái nước da như màu đồng đỏ, Đasa thấy tim đập hồi hộp.
- Em nói đúng... Người Nga rất thích kịch... Người Nga có một khứu giác rất nhạy bén đối với nghệ thuật. Một thứ nhu cầu phi thường nào đó, một sự khao khát đặc biệt... Em thử nghĩ mà xem, suốt tháng rưỡi đánh nhau liên miên ai nấy đều xơ xác ra, chỉ còn da bọc xương, con chó mà đến nước ấy e cũng chết mất... Ấy thế mà lại còn xem được Siller... Hôm nay thật như một buổi diễn đầu ở Nhà hát Nghệ thuật Moxkva ấy. Cứ lấy Anixya chẳng hạn. Anh chẳng còn hiểu ra sao nữa. Thật là một thiên tài bẩm sinh... Cử chỉ mới thanh cao làm sao... Tình cảm nhiệt thành đến thế là cùng! Lại đẹp mê hồn nữa.
Hai tay vung lên, chàng lại đi qua trước đèn, che mất ánh sáng. Đasa nói:
- Ivan, anh đừng đi đi lại lại như thế có được không?
Trong giọng nàng lại vang lên cái âm sắc gắt gỏng mà đã lâu lắm chàng không nghe thấy. Khuỷu tay chống lên gối; nàng nhìn chàng đăm đăm với đôi mắt tối sẫm. Ivan Ilyits dừng phắt lại, đến ngồi bên mép giường. Chàng lo sợ quá, chẳng buồn giấu diếm nữa. Nàng cũng ngồi dậy nói:
- Ivan ạ, đã từ lâu em muốn hỏi anh một câu. - Nàng quệt nhanh bàn tay lên mắt. - Điều này rất khó nói ra, nhưng em không chịu được nữa...
Trông gương mặt chàng, nàng thấy rõ rằng chàng đã hiểu câu hỏi đó là gì, nhưng nàng vẫn nói, vì nàng đã nhẩm đi nhẩm lại một mình hàng nghìn lần rồi:
- Ivan ạ, có phải anh hoàn toàn không còn coi em là một người đàn bà nữa không?
Hai vai chàng bắt đầu so lên, chàng lẩm bẩm những gì ở trong mồm, rồi giơ hai tay ôm lấy đầu. Đasa nhìn chàng chằm chặp, nàng vẫn còn hy vọng ít nhiều... Chẳng lẽ đây là lời tuyên án?
- Đasa, Đasa ạ, sao em không hiểu... Dù sao em cũng cần phải rộng lượng...
- Rộng lượng? (Bản tuyên án đây rồi!...)
- Đasa ạ, anh yêu em biết chừng nào... Em có thể ghét anh... Tuy thật ra anh cũng không biết mình có tội gì... Có thể nói đó là một sự xung khắc hữu cơ chăng?... Anh đã đem lòng yêu em đến suốt đời, như thế nó khổ cho anh hay sướng cho anh, thì chẳng có gì quan trọng, thật đấy... Tim anh ở trong anh, thì em cũng ở trong anh như thế. Mong em sống yên vui, mong em hạnh phúc...
Đasa lắng nghe, lắc đầu, Ivan Ilyits nhăn mặt nói tiếp một cách khó nhọc:
- Không biết tại sao lúc nào anh cũng hình dung thấy đôi chân bé nhỏ tội nghiệp của em - nó cứ lên đường đi tìm hạnh phúc mãi mà vẫn hoài công, vẫn không sao tìm thấy.
Đasa rút đôi chân trần mảnh khảnh ra khỏi chăn, nhảy xuống nền nhà đất rồi chạy ra thổi tắt ngọn đèn trên bàn.
Sau buổi kịch, Ivan Gora cùng về với Agrippina, thắp mẩu nến lên và xem qua một lượt những thứ công văn giấy tờ tích lại trong ngày vừa qua. Anh vẫn có thói quen như thế: trước khi đi ngủ, phải thu xếp cho xong công việc đã. Agrippina không cởi áo khoác và mũ lông, ngồi cách anh một quãng, trên cái ghế dài đặt ở cạnh cửa. Ivan Gora ngáp dài, rồi vừa gãi gãi lên cổ vừa nói:
- Em đóng cũng khá lắm, Gapa ạ. Em nói lí nhí những gì, anh không nghe ra được, vai em là vai rất phụ ấy mà... Nhưng Anixya, Anixya thì...! - Chúi mũi vào cây nến, anh vừa cười vừa lật mấy tờ giấy. - Có lẽ cô ta xòe váy hơi nhiều, như các cô thường nói, cô ta làm dáng với đàn ông, cô ta có cái chất ấy thật... Phải nâng niu cô ta một chút, phải nương nhẹ... Em nghĩ sao, cách mạng đã nâng cao biết bao nhiêu người như thế? Vấn đề là ở đấy cả... Cái gì cũng đều dựa vào đấy mà dự tính kế hoạch cả, nhân dân không phải là một khối xám xịt, không đâu... Nhân dân rất phong phú... Chúng ta đánh giặc một cách hoang phí quá... Lẽ ra chúng ta phải có máy móc để mà đánh giặc... Đây em thử đọc mà xem... - Anh vuốt thẳng một tờ giấy, - “Đã dùng tay không chiếm được một xe tăng”... như thế thì thật là man rợ... Nếu anh có thằng con, anh sẽ thích vào ngực cái thằng nhãi ấy: hãy nhớ suốt đời nhờ ai mà mày được hạnh phúc, ai đã phơi xương trắng xóa trên gò vì tương lai của mày...
Agrippina tựa lưng vào vách, mắt nhắm nghiền môi mím chặt. Chị hồi tưởng lại cái kỷ niệm thương tâm nhất của bản thân mà chị còn có thể nhớ lại được... Chị nhớ đêm nào Ivan Gora nằm giữa thảo nguyên không động đậy, không thở, còn chị thì cũng chẳng cần biết anh ấy hãy còn sống hay đã chết rồi: đối với chị lúc bấy giờ cũng thế cả thôi. Trong khẩu súng trường của chị chỉ còn lại một viên đạn cuối cùng... Agrippina đã không chịu rút với đồng đội, chị không thể bỏ anh lại giữa thảo nguyên, trong đêm tối... Thật đáng tiếc là từ dạo ấy, xương của Agrippina này không phơi trắng xóa trên đồng nội...
- Gapa, sao em chưa đi ngủ?
Ivan Gora giơ bàn tay lên che ngọn nến nhìn cho rõ: đôi mắt nhắm nghiền của Agrippina ướt đẫm, nước mắt chảy theo những sợi lông mi dài nhỏ xuống má rất mau, đôi mày đen giương cao lên... Ivan Gora vội đút hết giấy tờ vào túi rết, chạy đến ngồi xổm xuống trước mặt Agrippina:
- Em làm sao thế, hở em bé dại dột... Em mệt lắm à?
- Anh cứ thích chữ vào ngực nó đi, anh cứ dạy nó nhớ đến xương với cốt đi...
- Gapa, em nói lảm nhảm cái gì thế?
Agrippina đáp với cái giọng của một người con gái tuyệt vọng đâm liều:
- Em đã sang tháng thứ hai rồi... anh thì chẳng để ý gì hết... Anh chỉ biết có Anixya, Anixya...
Ivan Gora ngồi thụp xuống chân Agrippina. Miệng anh cứ tự dưng há hốc ra như miệng thằng ngốc...
- Gapa, em không nói dối đấy chứ? Thế thì sung sướng quá! Em có mang thật à! Ôi, em của anh, Gapuska yêu dấu của anh.
Khi đã nghe chồng nói như vậy, Agrippina đáp lần này giọng trầm hẳn xuống - giọng của người đàn bà:
- Thôi anh đi đi cho khuất mắt.
Agrippina vươn về phía chồng, ôm lấy anh và nép sát người vào anh, vẫn còn khóc thút thít, nhưng những tiếng khóc mỗi lúc một ngắn dần và yếu dần đi...
* * *
Cuộc bại trận lần thứ ba của thủ lĩnh Kraxnôv trước thành phố Txaritxyn làm cho toàn bộ mặt trận phía Nam sôi nổi lên. Ba quân đoàn của mặt trận này - quân đoàn thứ Tám, thứ Chín và thứ Mười ba - uy hiếp sông Đôn và vùng Đônbax. Dân cô-dắc chống cộng sản hình như chỉ chực từ bỏ mọi thù hằn, treo yên lên vách nhà phó mặc cho cứt chim bồ cầu phủ lên, lấy giẻ tẩm mỡ quấn súng lại rồi đem chôn thật sâu. Không biết cái thằng quỷ quái nào bịa ra cái chuyện là dưới quyền bọn bolsêvik không sao sống nổi? Đất thì có chuồn đi đâu được: nó vẫn bốc hơi trên những quả đồi trơ trụi dưới nắng xuân, đôi tay thì mình vẫn còn nguyên vẹn, ngựa chỉ đợi thắng vòng càng, bò chỉ chờ tròng ách...
Ở Xerpukhôv, tổng tư lệnh hối hả chuẩn bị tấn công. Bản kế hoạch ban đầu của ông, đầy rẫy nhược điểm, đã được cải biến đi ít nhiều. Các quân đoàn được cải tổ trên đường đi. Đáng lẽ tiến dọc sông Đôn đi về phía đông nam, các quân đoàn đỏ phải quay sang hướng tây nam, về phía sông Đônetx, giữa tiết tan băng lầy lội, đường sá ngập ngụa dưới bùn. Nhưng muộn mất rồi: con đường huyết mạch của cách mạng - vùng Đônbaxx vô sản - đã bị chặn kín lại: trong hai tháng hồng quân giẫm chân tại chỗ, sư đoàn Mai-Maievxki đã đột nhập vào Đônbaxx, được bổ sung thêm những đơn vị tình nguyện rất mạnh rút từ vùng Kavkaz về sau khi Quân đoàn đỏ thứ Mười một đã bị phân tán ở vùng này, trên những bãi sa mạc Axtrakhan. Bây giờ ở hữu ngạn sông Đônetx có khoảng năm vạn bạch quân tinh nhuệ do Mai-Maievxki, Pokrôvxki và Skurô chỉ huy.
Mùa xuân sang một cách đột ngột ở khắp nơi. Dưới ánh nắng gắt gao, tuyết tan ngay trong chốc lát, các khe rãnh trên thảo nguyên đều ngập dưới làn nước xanh, sông Đônetx dâng lên cao chưa từng thấy. Vì ở những nơi này đường sắt chạy theo các kinh tuyến, việc phân phối lại các đội ngũ phải tiến hành giữa đồng không, nơi chẳng có đường sá gì. Các đoàn xe tải của quân đội sa lầy xuống lớp bùn đặc quánh, bị bỏ lại rất xa ở phía sau đơn vị. Những chỗ có thể vượt qua sông Đônetx tràn nước lũ đều bị bạch quân chiếm giữ. Cuộc tấn công chuyển thành một loạt những trận đánh dằng dai. Và ngay lúc ấy ở hậu phương, trong làng cô-dắc Vêsenxkaia đột nhiên nổ ra một cuộc khởi nghĩa kiên trì và đẫm máu của dân cô-dắc, do những phái viên đặc vụ của Đênikin tổ chức. Máy bay của bạch quân thả dù cán bộ tuyên truyền, tiền bạc và vũ khí xuống đấy.
Chỉ riêng Quân đoàn thứ Mười, hành quân ở sườn trái, là theo đúng lệnh của tổng tư lệnh, tiếp tục tiến về phía nam dọc theo con đường sắt, vừa đi vừa đánh lui và tiêu diệt những tàn quân của Kraxnôv. Quân đoàn thứ Mười đang tiến lên đón lấy sự diệt vong của nó.
* * *
Giữa trưa mà nhìn ra thảo nguyên, nơi có một ngọn gió ngọt ngào thổi lại, thì đến nhức cả mắt lên: nắng ánh lên loang loáng khắp các vũng nước, các khe suối, các ao hồ nước lũ mùa xuân. Từng đoàn chim vỗ cánh bay trên bầu trời xanh trong, và những đàn sếu xếp thành hình chữ nhân thong thả trôi qua, tiếng kêu lảnh lót như tiếng kèn đồng. Đứng trên bậc lên xuống, những chiến sĩ hồng quân ngửa đầu đưa mắt nhìn theo. Đàn chim trời tự do bay về đâu? Về miền Ukrain, miền Polexiô, miền Volyn, rồi bay mãi sang Đức, sang sông Rain, về tổ cũ... Sếu ơi, hãy chào những người dân lành ở bên ấy, hãy kể cho họ nghe, trong khi đứng một chân trên mái nhà, rằng chim đã bay trên nước Nga Xô-viết và đã thấy băng tan, nước lũ tràn trề: một mùa xuân như thế chưa từng có ở đâu bao giờ - hung hãn, dữ dội, phì nhiêu...
Đasa, Agrippina và Anixya bây giờ rất hay gặp nhau ở đầu toa, ngây ngất vì nắng và gió. Đoàn tàu đi về phương nam, còn mùa xuân thì từ phương nam tràn về phương bắc. Các chiến sĩ đã mở toang các cửa toa, trên mình chỉ mặc mỗi chiếc áo sơ-mi. Thỉnh thoảng ở phía trước, bên kia chân trời, lại có tiếng đại bác nổ ùng oàng và tiếng súng máy gõ từng loạt: đó là các đơn vị tiền quân của Quân đoàn thứ Mười đang quét những toán cô-dắc cuối cùng ra khỏi các làng mạc, Hồng quân đã chiếm Vêlikônyajexkaia một cách khá dễ dàng. Đi quá thị trấn này, đoàn tàu của trung đoàn Katsalinxki đổ xuống bờ sông Manyts và bắt đầu chiếm lĩnh vị trí trên chiến tuyến.
Những cánh thảo nguyên vùng Xalxk, nơi mà vào mùa xuân con sông Manyts đục ngầu chảy tràn qua những bãi lau sậy, giờ đây hoang vu và phẳng lì như một mặt biển yên lặng màu xanh ngăn ngắt. Ở đây, trên sông Manyts, từ những thời thượng cổ, đã nhiều phen tên bay vun vút từ bờ bên này sang bờ bên kia, dân du mục châu Á đã từng chạm kiếm với người Seyth, người Alan và người Gôth. Xuất phát từ đây, rợ Hung-nô đã đốt phá sạch cả dải đất kéo dài đến vùng bắc Kavkaz. Ở đây, ngồi bên những mái lều da, những bộ lạc Kalmuk đã lắng nghe bài vè sử thi về những chiến công lừng lẫy của Manax. Mùa xuân, những cánh thảo nguyên này thật là lộng lẫy. Mặt đất mọng nước hối hả phủ lên mình các loài hoa cỏ; những ráng chiều ẩm ướt nhuộm đỏ chân trời phía Hắc hải; những vì sao to tướng sáng rực đến tận chân trời; từ bên kia Lý hải, một vầng thái dương đỏ rực nhô lên, giống như một tấm mộc Ba-tư.
Ban tham mưu của trung đoàn Katsalinxki đóng trong ngôi nhà ở duy nhất của cái vùng hoang vắng này, trên một bãi cỏ chăn ngựa có hàng rào bao quanh, mái lợp bằng cói. Trong vùng lân cận không thấy có bóng dáng địch, các đội tuần tiễu của quân đoàn đã đi sâu về phía nam, mạn Tikhoretxkaia, và về phía tây, mạn Roxtôv. Rất khó đả thông cho các chiến sĩ hiểu rằng họ đến đây không phải để mang lựu đạn ra ném cá trên sông Manyts, không phải để đem những viên đạn quý giá đi bắn vịt trời trong ánh hoàng hôn: trước mắt họ là một cuộc chiến đấu gay go, quân đoàn đang nằm giữa vùng hậu phương của địch, và kẻ địch này không thể coi thường, vì chưa hề được thử sức...
Một hôm Ivan Gora ở bộ tham mưu sư đoàn về, gọi Ivan Ilyits ra. Họ im lặng đi ra bờ sông, ngồi trên dòng nước châm thuốc lá hút; mặt trời hình bầu dục đỏ ngầu đang lặn dần sau làn hơi đất, ếch nhái kêu khắp dọc sông Manyts. Chúng trâng tráo thi nhau cất tiếng ộp oạp, chốp choáp, uềnh oang...
- Đang đẻ trứng đấy, cái lũ chết tiệt ấy, - Ivan Gora nói.
- Nào, anh đã biết được những gì nào?
- Vẫn thế. Lo bỏ cha đi! Ai cũng hiểu là rất gay, nhưng không có cách gì làm khác đi được, lệnh nhất quyết của tổng tư lệnh là tiến về Tikhoretxkaia. Cậu thấy thế nào?
- Việc của tôi không phải là bàn luận, Ivan Xtêpanôvits ạ, việc của tôi là thi hành mệnh lệnh.
- Tôi muốn hỏi xem bản thân cậu nghĩ thế nào kia.
- Tôi nghĩ thế nào ấy à? Anh không định đem tôi ra xử bắn đấy chứ?
- Xì, cậu này gàn quá... Cậu nào cũng cứ trả lời y như thế... Các cậu toàn một lũ nhát gan cả...
Ivan Gora bỏ cái mũ lưỡi trai ra, gãi đầu, rồi lại bỏ tay xuống gãi bên sườn. Một mô đất ở dưới chân anh sụt lở, rơi đánh bũm một tiếng rồi chìm nghỉm dưới làn nước xoáy đục ngầu. Ếch nhái thi nhau gào lên một cách khoái chá đến mức điên cuồng, như thể quyết tâm sinh sôi cho cả trái đất tràn đầy cái chủng tộc nhớt nhát của chúng...
- Thế tức là cậu thấy chủ trương của tổng tư lệnh đúng?
- Không, tôi không nghĩ thế, - Ivan Ilyits đáp khẽ, giọng rắn rỏi.
- A ha! Không à? Tốt lắm... Nhưng tại sao?
- Ngay ở đây chúng ta cũng đã gần như bị cắt ra khỏi lực lượng hậu bị, ra khỏi các căn cứ tiếp tế; quân địch sẽ cắt đứt đường dây nối liền chúng ta với Txaritxyn ở một chỗ nào đấy: lúc bấy giờ thì thôi, chỉ có đi đứt. Thật chẳng ra cái gì.
- Thế thì sao? Sao nữa nào?...
- Ta mà tiến sâu hơn nữa về phía nam, tận Tikhoretxkaia, thì chẳng khác nào mèo chui vào ủng. Kết quả chẳng hay ho gì đâu. Nếu quân đoàn ta được điều về đây làm nghi binh, để bằng bất cứ giá nào nhử địch ra khỏi vùng Đônbaxx, thì tôi còn hiểu được...
- Thế à? Rồi sao nữa?
- Nhưng chỉ để nghi binh mà nướng cả một quân đoàn thì quá đắt...
- Cậu kết luận thế nào?
Ivan Ilyits phồng má lên phun điếu thuốc lá sâu kèn đã tắt xuống nước:
- Kết luận thì tôi chẳng kết luận gì đâu, Ivan Xtêpanôvits ạ.
- Cậu nói dối, Ivan ạ, thế là cậu nói dối rồi... Thôi cậu im đi. Cậu không nói tôi cũng hiểu thừa ra... Ivan ạ, có lần cậu kể cho tôi nghe chuyện anh chính ủy Ghymza của cậu, cậu còn nhớ là anh ta phái cậu đi đưa cho tổng tư lệnh một bản báo cáo mật về tên phản bội Xôrôkin... Thế thì đây... (Ivan Gora đưa mắt nhìn quanh và hạ giọng nói khẽ bớt). Giá có thể thì chính tôi bây giờ có lẽ phải đi, không phải đi Xerpukhôv gặp tổng tư lệnh, mà lên thẳng Moxkva... Ở một cấp nào đấy có một thằng khốn nạn ngồi phá, ở bộ tổng tư lệnh hay ở Hội đồng quân sự tối cao thì không biết... Vả lại cũng không thể khác được: chiến tranh mà... Chúng mình cả tin quá... Chỉ vì anh em mình có những tư tưởng cao cả, có một tấm lòng rộng lượng, cho nên cứ tưởng ngoài bọn tư sản ra thì cả thiên hạ đều tốt đẹp cả; cứ việc chiến đấu cho hăng vào là được... Hồi ở Piter tôi đã ngắm kỹ Vlađimir Ilyits, người có đôi mắt nheo nheo, rất Nga... Một con người nhiệt thành, một nhà tư tưởng. Hai tay chắp sau lưng, dưới vạt áo vét-tông, người đi đi lại lại, cái trán dô ra, rồi bỗng nhiên như soi vào mắt người khác: cái gì người cũng hiểu... Đấy như thế mới được đấy... Tôi quan sát cậu, tôi theo từng cử chỉ, từng lời nói của cậu... Thế mà cậu thì không hề theo dõi tôi, cậu tin tôi một cách mù quáng... Tôi giao cho cậu làm một việc có hại: cậu cứ làm thinh mà thi hành...
- Không, tôi không thi hành đâu...
- Thì cậu vừa nói là bàn luận không phải việc của cậu kia mà... Thế thì cậu sẽ làm gì?
- Tôi sẽ cố gắng can ngăn, thuyết phục...
- Thuyết phục! Trí thức có khác! Nhiệm vụ của cậu chỉ là bắn thôi phỏng?... Ôi, trời ơi...
Ivan đặt hai bàn tay to tướng lên cái mũ lưỡi trai đội trên đầu, chống khuỷu tay lên đầu gối. Anh không kể lại cho Têlêghin nghe sự việc chủ yếu nhất: hôm qua, trong buổi họp đảng ở sư đoàn bộ, có đọc một bức điện của Hội đồng quân sự tối cao của nước cộng hòa từ Moxkva gửi về trả lời bức thư chất vấn đầy ý lo âu của quân đoàn trưởng quân đoàn Mười; giọng hách dịch và đầy ý hăm dọa, bức điện xác nhận lại một cách dứt khoát những chỉ thị trước đây...
- Còn đây, tôi kể những tin cuối cùng cho cậu nghe: ở sườn phải chúng ta tướng Pokrôvxi đã tập trung bốn sư đoàn điều từ Đônbaxx về, trước mặt chúng ta có lữ đoàn của tướng Kutêpôv đang tiến lại và đã cắt đường của ta về Tikhoretxkaia, hắn đã đoán ra được kế hoạch của tổng tư lệnh... Ở sườn trái chúng ta kỵ binh của tướng Ulagai đang tập trung lại... Còn sau lưng ta là một khoảng trống dài bốn trăm dặm...
- Đấy, chính điểm này quyết định hết, - Ivan Ilyits nói - Nếu anh muốn biết ý kiến của tôi thì đây: cho sơ tán tất cả các bệnh binh, gửi tất cả những cái gì thừa về hậu phương cho nhẹ bớt. Ta không giữ được sông Manyts đâu...
Ivan Gora không đáp. Im lặng một lát, anh giận dữ nhổ nước bọt xuống sông:
- Ăn nói như tôi với cậu vừa rồi là đáng ra tòa án cách mạng... Nếu cậu được lệnh chết để giữ sông Manyts, cậu sẽ chết, có thế thôi...
- Trước đây, tôi chưa bao giờ thoái thác điều đó thì phải... và bây giờ cũng thế.
* * *
Ngày mồng hai tháng năm bên kia sông xuất hiện những đội tuần tiễu của quân Kutêpôv. Lúc đầu đó là những tốp kỵ binh nhỏ, đi lẻ tẻ trên thảo nguyên, khi thì ghìm ngựa đứng lại một lát, khi thì phi nước đại dưới làn đạn, trên những vũng nước lấp lánh. Rồi họ tập hợp càng ngày càng đông, mạnh dạn đến sát trận tuyến, xuống ngựa, cho ngựa phục xuống đất rồi bắn vào những trạm gác tiền tiêu của hồng quân.
Ngày mồng ba tháng năm, trong tiếng gầm của đại bác, quân chủ lực của Kutêpôv tiến đến. Tập trung trong khu vực đường sắt, họ lần lượt tấn công một cách đầy tự tin vào bờ sông Manyts thành từng đợt liên tiếp. Những chiếc máy bay trinh sát bốn cánh bay tới, trông chẳng giống máy bay Nga mà cũng chẳng giống máy bay Đức. Những chiếc xe hơi vận tải chở cầu phao kéo ra bờ sông, nước và bùn bắn lên tung tóe hai bên. Ngày hôm ấy một đơn vị xung kích của sư đoàn Kutêpôv, vượt qua sông đánh vào vị trí của sư đoàn Môrôzôv nhưng đã bị tiêu diệt trong một trận giáp lá cà.
Đến đêm các đội xạ thủ lùi lại và nằm rạp xuống. Không nơi nào đốt lửa trại: những tiếng súng đã ngớt, và đêm tối trùm lên thảo nguyên, vẫn tĩnh mịch, ẩm ướt, phảng phất mùi hoa dại như cũ. Những đội hợp xướng của ếch nhái vẫn trâng tráo cất tiếng uềnh oàng như thể không hề có chuyện gì xẩy ra cả. Có những chiến sĩ áp tai xuống đất mà ngủ, mường tượng nghe thấy tiếng rì rào êm ả của những mầm cỏ non đang nhú, xuyên thủng bóng tối của đất đai.
Trong căn hầm của trung đoàn bộ, nơi Ivan Ilyits ở, các cấp chỉ huy trung đoàn họp suốt đêm. Họ nóng lòng chờ lệnh của sư đoàn cho tấn công: mọi người đều thấy rõ rằng không thể để cho một kẻ địch như vậy một giờ nào để mà chuyển quân tự do và muốn đánh vào chỗ nào thì đánh, nhất là khi trận tuyến của quân đoàn Mười dàn ra rất mỏng trên một dải đất dài gần năm mươi dặm, hai bên sườn cũng như sau lưng chẳng có gì án ngự. Các cấp chỉ huy báo cáo tình hình tinh thần của đơn vị mình: các chiến sĩ đều có tâm trạng khích động, họ không ngủ, cứ thì thầm to nhỏ trong chiến hào. Ví thử đây là năm mười tám thì cả trung đoàn đã ùa ra họp mít tinh đòi xé xác trung đoàn trưởng ra nếu không có lệnh tiến công. Có những phút phẫn uất và liều lĩnh đặc biệt, tưởng chừng như người ta có thể quét sạch mọi chướng ngại trên đường đi của mình.
Đại đội trưởng Môskin bước vào căn hầm. Anh vừa mới lội từ bên kia sông Manyts sang, nước ngập đến cổ; ở bên ấy có một tiểu đội của đơn vị anh đóng trạm tiền tiêu. Anh là một công nhân luyện kim ở Txaritxyn. Anh yêu nghề chinh chiến với niềm say mê của một người đi săn.
- Ở đây có cái mùi dễ chịu quá nhỉ! - anh nói, mắt nheo nheo lại vì khói thuốc lá bốc lên dày đặc che mờ cả ngọn đèn nến thắp trong hầm. Nhảy lò cò một chân, anh lần lượt rút hai chiếc ủng, dốc ngược lại cho nước chảy ra. - Lính của tôi bắn bị thương một thằng học sinh quân, định dẫn về đây nhưng hắn lại chết mất rồi, tiếc quá... Một thằng nhãi con mới mười mấy tuổi đầu, nhưng hung hãn lạ lùng: “Quân chó má! Quân khốn nạn!” không ngớt mồm. Anh em cứ há hốc mồm ra... Ăn mặc rất sang: áo dạ, giày da toàn loại thượng hảo hạng cả... Bọn cô-dắc so với bọn này có ra gì! Thằng cô-dắc là thằng ngốc, nó cũng là thằng nông dân nhà ta thôi, anh phang nó một cái, nó phang anh một cái, rồi chuồn... Còn cái bọn có đôi bàn tay trắng nõn này thì ghê lắm! Trong trung đội chúng nó chỉ toàn sĩ quan, trung đội trưởng là một thằng đại tá. Tay thằng nào cũng đeo đồng hồ... Tôi mới bảo anh em; này, các bố du côn, các bố phải quên mấy cái đồng hồ ấy đi, cấm không được mò đến vị trí địch để kiếm đồng hồ, tôi thì tôi ghè răng ra đấy...
Môskin cười phá lên, để lộ hàm răng đều răm rắp. Lòng nhân hậu bừng sáng trên khuôn mặt xấu xí, hơi rỗ hoa, nhưng thông minh.
- Tình hình như thế này đây các đồng chí ạ: trên thảo nguyên có tiếng ồn ào náo động, chúng tôi nghe thấy từ chập tối. Tôi mới phái trinh sát đi. Đó là Xtepka Stsavêliev: một đức chúa thánh thần, chứ không phải là người nữa... Cậu ta bò đi, rồi bò về... Pháo binh của chúng nó đã điều đến, cậu ấy nói thế, và rất nhiều bộ binh nữa, toàn chở xe giàn thì phải... Phải chuẩn bị đi thì vừa, các đồng chí ạ...
Ivan Ilyits, choáng váng vì khói thuốc lá, bỏ ra ngoài một phút cho thoáng. Giữa những ngôi sao mờ nhạt treo lơ lửng một vầng trăng lưỡi liềm nhọn hoắt và sáng vằng vặc. Trên dãy rào làm bằng ba cây sào dài, có ba bóng phụ nữ ngồi cạnh nhau. Ivan Ilyits bước lại gần.
- Đã dặn là mọi người phải ngủ đêm trong hầm mà thế à, thật không thể hiểu được.
- Chúng em chẳng ngủ được, - Đasa ngồi trên sào cúi xuống nói.
Đasa, Anixya, Agrippina trông đều lạ hẳn đi, mắt to, người mảnh khảnh... Và chàng không sao nhìn ra cho rõ họ đang mỉm cười hay đang nhăn mặt theo một kiểu đặc biệt nào đấy.
- Chúng em ngồi đây đợi các anh họp xong. - Agrippina nói.
- Còn em xin phép cùng ngồi đây với hai chị cho vui, đồng chí trung đoàn trưởng ạ. - Anixya nói.
- Tụt xuống đất mà ngồi, chứ sao lại ngất ngưởng trên cây sào như đàn gà thế kia? Đạn bay vù vù thế kia mà không sợ à?
- Dưới đất toàn phân ngựa với bọ chét, ngồi thế này mát lắm anh ạ. - Đasa nói.
- Đạn đâu mà đạn, bọ vừng nó bay đấy chứ, anh đừng lừa chúng tôi, - Agrippina nói.
Đasa lại cúi xuống nói:
- Lũ ếch nhái nó phát rồ lên rồi, chúng em đang ngồi nghe...
Ivan Ilyits ngoảnh ra sông. Bây giờ chàng mới để ý đến những tiếng thở dài, những tiếng rên rỉ khắc khoải và chờ đợi lặp đi lặp lại đều đều từng đợt. À, kẻ thắng cuộc đây rồi - một nhà độc tấu cao nửa gang tay, mồm rộng hoác, đôi mắt lồi xanh lè, cất tiếng hát ộp oạp, trong bụng tin chắc mười phần rằng ngay cả các vì sao cũng lắng nghe tiếng hát ca ngợi cuộc sống của mình...
- Hoan hô, hay tuyệt! - Ivan Ilyits nói đoạn cười ha hả. - Thôi được, ngồi thì ngồi, nhưng hễ bắt đầu có chuyện là xuống hầm ngay đấy. - Chàng nắm vai Đasa, kéo sát nàng lại và thì thầm vào tai nàng: - Thích quá em nhỉ, sao thế không biết?... Em xinh quá...
Chàng khoát tay đi vào hầm. Khi chỉ còn ba người ngồi lại với nhau, Anixya nói khẽ:
- Giá được ngồi thế này mãi nhỉ...
Agrippina nói:
- Hạnh phúc phải đổi bằng máu... Chính vì thế mà nó quý...
Đasa nói:
- Các bạn ạ, trong đời tôi đã thấy biết bao nhiêu chuyện, thế mà tất cả đều bay qua một bên, không động chạm gì đến mình... Mình cứ đợi mãi một cái gì đặc biệt, chưa từng có... Trái tim ngu ngốc của mình cứ làm khổ mình và làm khổ người khác... Thà yêu lấy một đêm thôi, nhưng phải như thế này này... Hiểu hết, hấp thụ tất cả vào mình, trong một đêm mà sống hàng triệu năm...
Nàng ngả đầu vào vai Anixya. Agrippina trầm ngâm một lát rồi cũng ngả đầu vào vai bên kia của bạn. Và họ cứ thế ngồi mãi trên sào, dưới bầu trời đầy sao.
* * *
Hỏa lực của pháo binh Kutêpôv được điều chỉnh bằng những chiếc máy bay bốn cánh mới tinh khôi. Chúng lượn vòng trên những mục tiêu đang bị pháo kích, ném bồi thêm cho quân đỏ từng cặp bom, rồi bay là là như những con diều hâu trên thảo nguyên, về phía chân trời, về phía những trận địa pháo đã bắt đầu nã dữ dội vào bờ sông Manyts từ tảng sáng.
Để dọa quân địch, sư đoàn gửi đến đây chiếc máy bay duy nhất có thể cất cánh được: một chiếc Niơpor cũ kỹ chậm chạp đã từng tham dự cuộc chiến tranh đế quốc và đã được chữa lại bằng phương tiện thủ công ở Txaritxyn.
Thân toàn bằng gỗ, cánh vá chằng chịt, chiếc máy bay trông mà phát sợ lên mỗi khi nó bay vụt qua đầu, bất chấp mọi định luật khí động học, máy kêu phành phạch, khi to lên, khi nhỏ lại như chỉ chực chết máy. Nhưng người lái nó lại là một hoa tiêu mà giới phi công bạch vệ biết rất rõ: đó là Valka Tserđakôv, người bé loắt choắt như con khỉ, bao nhiêu xương đều gãy hay dập hết, thọt chân, vai lệch, vá víu khắp người. Anh em thường hỏi: “Valka này, nghe nói năm chín trăm mười sáu cậu bắn rơi một thằng phi công ưu tú của Đức, rồi hôm sau lại bay sang Đức rắc hoa hồng lên mộ hắn phải không?”. Anh ta đáp, giọng the thé: “Ừ, thì sao nào?”. Miếng võ nổi tiếng của anh là khi băng đạn đã bắn hết sạch, thì từ trên lao xuống máy bay địch đâm vào thân nó. “Valka, thế làm sao bản thân cậu lại không tan xác ra hả?” - “Có tan thì đã sao chưa? Chả có gì đặc biệt cả”.
Khi thấy máy bay anh bay là là trên thảo nguyên, ai nấy đều vui hẳn lên, tuy cũng chẳng có gì đáng lấy làm vui cho lắm. Những quả đạn pháo đang nổ trên cả hai bờ sông Manyts, ấn chặt các chiến sĩ hồng quân xuống hào. Chọi với một đội pháo của ta, từ phía địch có ít nhất là sáu đội pháo nã sang liên hồi không lúc nào ngớt. Bộ binh của chúng chạy nhanh từng đợt một, hăng hái xông lên, khí thế như không có gì cưỡng nổi.
Valka Tserđakôv bay tới trận địa của trung đoàn Katsalinxki, nghiêng cánh ra hiệu, hạ xuống đất, trèo ra, khập khiễng đi quanh máy. Các chiến sĩ chạy lại. Mặt Valka nhem nhuốc dầu mỡ.
- Xem cái gì nào? Có cái gì mà xem? - anh vừa gắt vừa lôi trong thân máy bay ra một cái tráp đựng đồ lề và bộ phận phụ tùng. - Các anh coi đuổi hộ máy bay địch ra xa, để tôi còn làm việc.
Quả nhiên quân trắng đã trông thấy chiếc máy bay của Valka, và ba chiếc của chúng bắt đầu lượn quanh chỗ ấy - lượn khá cao, vì các chiến sĩ hồng quân bắn lên đì độp. Bom lần lượt rơi xuống xới tung đất lên. Valka không hề để ý, cứ lúi húi chữa cái ống dẫn dầu. Một quả bom nổ gần đến nỗi đất bắn vào cánh bùng bục. Valka vểnh cổ lên nhìn rồi giơ ngón tay lên dọa. Sửa xong, anh quát gọi các chiến sĩ hồng quân:
- Nào, lại đây quay hộ cái cánh quạt. - Anh leo lên buồng lái ngồi vào chỗ. - Các đồng chí, quay thế thì nước mẹ gì, có phải cái váy đàn bà đâu mà cầm như thế? Mạnh vào nào, đừng sợ toát mồ hôi!
Động cơ hắt hơi mấy tiếng, nổ inh tai, gầm lên. Các chiến sĩ lùi ra. Chiếc máy bay lắc lư, nhún nhẩy lăn đi trên thảo nguyên một quãng xa đến nỗi tưởng đến già đời cũng không rời mặt đất được, nhưng rồi bỗng cất cánh bay lên. Valka tranh thủ độ cao, cho máy bay lúng liếng để trộn cho đều cái chất hỗn tạp gồm cả xăng lẫn cồn trong bình nhiên liệu. Sau một vòng lượn rất rộng, anh lấy đà lao vào phi đội địch. Ba chiếc máy bay bốn cánh vội lảng đi, không ứng chiến.
Bay trên trận địa một lát, Valka Tserđakôv lại hạ cánh và gửi cho Têlêghin một mảnh giấy:
“Tôi trông thấy tám chiếc xe du lịch mới tinh. Đênikin đi thăm trận địa với một bọn ngoại quốc: đó là một điều chắc chắn, xin các đồng chí lưu ý cho. Hai khẩu đại bác của địch đã bắn hỏng. tôi đã nã súng máy vào một đạo quân đang tiến công. Tôi bay về căn cứ lấy xăng...”
* * *
Đênikin đang ở mặt trận. Chỉ mới già một năm trôi qua kể từ ngày ngài nằm lắc lư trong chiếc xe tải của đạo quân tình nguyện gần bảy nghìn người dưới quyền chỉ huy của Kornilôv đang mở con đường máu tiến về Êkatêrinôđar, mình quấn cái chăn da hổ, sốt hầm hập vì bệnh viêm phế quản. Bây giờ tướng quân Đênikin là người nắm toàn quyền cai quản toàn bộ miền Hạ lưu sông Đôn, miền Kuban trù phú, miền lưu vực sông Têrek và miền Bắc Kavkaz.
Trong chuyến đi thăm mặt trận này, Đênikin có đem theo hai phái viên quân sự, một người Pháp và một người Anh, để cho họ thấy khó chịu, để cho họ phải xấu hổ vì đã dâng Ôđexxa, Kherxôn và Nikolaiev cho bọn bolsêvik một cách nhục nhã. Giá là những đơn vị chính quy của Hồng quân đánh bật quân Pháp và quân Hy lạp ra khỏi những nơi này thì hãy còn khả thứ! Đàng này một bọn du kích, một lũ nhà quê, ngay trước mũi đội khu trục hạm hải đoàn của Pháp, đã dùng gươm chém sạch cả một đại đoàn Hy lạp. Không biết họ hoảng loạn đến mức nào mà quân Pháp, những kẻ đã chiến thắng trong chiến tranh thế giới, đã phải rút lui trước lũ mu-gích Nga, bỏ lại Kherxôn một cách hèn nhát và kéo hai sư đoàn ra khỏi Ôđexxa... Thật là quái gở! Lại đi sợ công xã Moxkva kia chứ! Antôn Ivanôvits quyết định biểu dương một cách trực quan cho bọn người Âu lừng danh kia thấy rõ đạo quân mang phù hiệu có thêu thanh gươm và cành nguyệt quế của ngài đánh tan quân cộng sản như thế nào.
Ngài còn có một mối căm uất thầm kín nữa: ngài rất bất bình đối với quyết nghị của Hội đồng Mười nước ở Pari đã chỉ định đô đốc Koltsak làm người cầm quyền tối cao của toàn nước Nga. Koltsak đã được lòng họ. Năm chín trăm mười bảy ông ta đã đứng trên cầu chỉ huy tháo thanh gươm vàng ném xuống Hắc hải. Hầu như tất cả các báo chí đã đưa tin này. Lúc bấy giờ tướng Đênikin đang bị giam ở nhà tù Bykhôv - các báo chí chẳng hề nhắc tới. Năm mười tám Koltsak chạy sang Bắc Mỹ và làm huấn luyện viên về thủy lôi cho hạm đội Mỹ - các báo đăng chân dung của ông ta bên cạnh chân dung các minh tinh màn bạc... Tướng Đênikin vượt ngục Bykhôv, tham gia chiến dịch Băng giá, đứng bên xác Kornilôv nhận lấy cây thập tự nặng nề của chức tư lệnh và đã chinh phục được một lãnh thổ rộng hơn cả nước Pháp... Đâu trên một tờ báo lá cải của Pari có chua ba dòng về tin này, kèm theo một tấm ảnh huyền hoặc của một ông nào không rõ có bộ râu má: “le général Dénikine”! Và để có một người cầm quyền ở Nga, người ta đã chọn một tay bợm quảng cáo cỡ thế giới, một kẻ loạn thần kinh, mắc bệnh vĩ cuồng, nghiện thuốc phiện trắng: Koltsak!
Antôn Ivanôvits không tin là Koltsak có thể thu được thắng lợi quân sự. Tháng mười hai năm ấy tướng Pêpêlaiev, vừa mới được huấn luyện vội vàng trong lò của quân Koltsak ra, đã chiếm Perm. Thế là tất cả các báo chí phương tây đều gào lên: “Quả đấm sắt đã giơ cao trên thành Moxkva bolsêvik”. Ngay Antôn Ivanôvits cũng đã có phút tin điều đó và đau đớn chịu đựng thắng lợi này của Pêpêlaiev. Nhưng Moxkva lại phái đến đấy, tức đến sông Kama (như cơ quan phản gián có cho biết) một chính ủy tên là Xtalin, người mà mùa thu qua đã hai lần đánh tan Kraxnôv trước thành Txaritxyn. Bằng những biện pháp quyết liệt, Xtalin đã nhanh chóng tổ chức phòng thủ và đã giáng cho cái anh Pêpêlaiev lừng danh kia một vố đau đến nỗi anh từ Perm lùi đến tận Mal. Rồi cuộc tấn công hiện nay của Koltsak vào vùng Volga chắc chắn cũng sẽ kết thúc như vậy: nó được tiến hành một cách vội vàng, không có chuẩn bị chu đáo, giữa những lời quảng cáo rùm beng của báo chí quốc tế và trong tiếng reo hò hoan hỉ của giới lái buôn Xibiri say rượu...
- Chiến thuật của chúng tôi bây giờ có khác với cái chiến thuật mà các ngài, quân Đức và chúng tôi đã dùng trong đại chiến: các hàng xạ kích thưa hơn và cách nhau xa hơn, mỗi trung đội thực hiện một nhiệm vụ độc lập, - Đênikin nói.
Bấy giờ ngài đang đứng trên một chiếc Fiat hở mui thanh lịch và mới tinh, bàn tay đi găng bằng da hoẵng trắng chỉ ra những đội hình của đại đoàn xạ thủ của thiếu tướng Têplôv đang khai triển một cách đều đặn như đi duyệt binh.
Đứng bên cạnh quan tổng tư lệnh trên xe hơi là một sĩ quan Pháp mặc chiếc áo quân phục bằng dạ rất mịn màu xanh da trời, quần cũng bằng thứ hàng ấy, chiếc mũ kê-pi có lon vàng đội rất sâu và rất khéo trên cái đầu nhỏ bé; dưới cái ống nhòm ông ta đang đưa lên mắt nhô ra một bộ ria mịn như to; bên sườn lủng lẳng một cái bi đông nhôm đựng rượu cô-nhắc. Người Pháp bao giờ cũng đàng hoàng đến phát khiếp lên được! Đứng cạnh họ, trên bậc lên xuống của chiếc xe hơi là một viên sĩ quan Anh, cũng đang nhìn vào ống nhòm. Ông này trông khô hơn và ăn mặc giản dị hơn: áo kaki có bốn túi rất to bỏ đầy những phim ảnh, thuốc lá, ống tẩu, bật lửa; cái mũ lưỡi trai của ông ta, trông như cái bánh xèo, đội chụp xuống tận mũi, đã làm đề tài cho những câu bàn tán xì xào trong đội tùy tòng đứng cách đấy một quãng khá xa. “Nói chứ người Anh chẳng biết mặc quân phục chút nào! Mũ lưỡi trai mà đội như quân kỵ binh cận vệ thì khác hẳn! Lại quân phiêu kị của Ngài Ngự ở Txarxkoiê Xelô nữa mới tuyệt chứ hả? Chứ có phải như con chó xù thế kia đâu!”.
Kutêpôv, người to ngang, tóc hoa râm, mặc áo khoác da cừu ngắn hở ngực, cưỡi con ngựa Kalmưk đứng cạnh xe hơi; nhân cuộc thao diễn này, ông ta đi găng và đính cựa vào gót ủng; đôi mắt nhỏ ti hí của ông sưng húp lên; đã năm hôm nay ông ta nã đại bác vào cái sông Manyts chết tiệt này, và ông ta hiểu rất rõ rằng cách khai triển đội hình của đại đoàn Têplôv đang diễn ra trước mắt hai gã công tử bột kia là một màn vũ kịch mà đại đoàn sẽ phải trả giá rất đắt.
- Đặc điểm của cuộc chiến tranh này là tính cơ động rất cao. - Đênikin giảng giải. - Do đó kỵ binh có một tầm quan trọng đặc biệt. Về phương diện này chúng tôi có ưu thế quyết định: vùng Têrek, vùng Kuban, vùng Đôn sẽ cung cấp cho tôi mười vạn tay kiếm tinh nhuệ.
- Ô là-là-là, - viên sĩ quan Pháp ngân nga một cách nông nổi, mắt vẫn không rời ống nhòm.
- Bọn đỏ không có kỵ binh, nếu không kể đại đoàn của Budionny đã gây nhiều phiền hà cho cựu thủ lĩnh Kraxnôv...
- Mười vạn bộ yên cương - cái đó cũng phải có, - viên sĩ quan Anh nói qua kẽ răng, mắt cũng không rời ống nhòm.
- Phải, vấn đề ở đấy cả, - Đênikin xẵng giọng đáp.
Ông ghìm mình lại, tuy ông rất muốn nói hết sự thật cho hai kẻ đồng minh kia, đúng vào lúc này, ở giữa quân đội của ông, trong tiếng gầm của đại bác (mấy chiếc xe hơi đỗ cách một trận địa pháo chỉ một dặm là cùng). Ngài rất muốn nói thẳng vào mặt họ rằng họ là những gã lái buôn, rằng toàn bộ chính sách của họ là thiển cận, hèn nhát bủn xỉn: mong kiếm bạc chục mà chỉ muốn bỏ ra vài xu... Thế mà thực tế đã chứng minh cho họ thấy rõ như hai lần hai là bốn rằng chủ nghĩa bolsêvik đối với họ còn nguy hại hơn hai trăm năm mươi sư đoàn Đức. Vậy nếu các ngài không dám gửi quân lính sang Nga, thì các ngài hãy cung cấp cho tôi đủ số vũ khí tôi đang cần... Sau này ta sẽ thanh toán với nhau ở Moxkva.
- Hiện nay tôi không có đủ yên, phải cho lính cô-dắc cưỡi trần đấy, - rốt cục ngài vẫn buột miệng nói ra, tuy không quá gay gắt, nhưng cũng không quá ôn tồn, đoạn ngài quay sang người phiên dịch dặn thêm: - Anh dịch cho cả hai ông kia hiểu thế nào là “cưỡi trần”.
Anh phiên dịch, một thanh niên miền Nam nhanh nhẩu đến phát ớn người lên, chẳng thấy dịch gì cả, mà chỉ hoảng hốt hít mạnh không khí vào mũi. Và ngay tức khắc Kutêpôv kêu lên, tay kéo mạnh dây cương, chân thúc vào sườn ngựa:
- Các vị, chui nhanh xuống gầm xe!
Vì tiếng súng nổ rát ở xung quanh, họ không để ý thấy một chiếc máy bay màu vàng, dáng dấp vụng về, đang bay thẳng về phía chiếc xe hơi. Thậm chí cũng chẳng có ai kịp bắn nó: nó đã ngóc đầu bay vút lên. Valka Tserđakôv chồm cái thân hình bé nhỏ ra ngoài, bờm tóc bay tung lên, và ném ra hai quả lựu đạn, một quả lọt thỏm vào giữa chiếc Fiat sang trọng, một quả rơi xuống bên cạnh... Chỉ thấy hàng răng trắng nhởn nhe ra như một ánh chớp. Chiếc máy bay đã lên cao.
Tuy vậy Đênikin và hai vị khách nước ngoài cũng đã kịp chui xuống gầm xe; khó nhọc hơn cả là quan tổng tư lệnh vì bụng ngài vốn to, lại mặc áo ca-pốt dày cộp. Chỉ phải một mẻ sợ bạt vía. Đội tùy tòng tản ra tứ phía. Tướng Kutêpôv cũng đã có đủ thì giờ phi ra xa.
* * *
Quân tình nguyện tấn công dữ dội chưa từng thấy. Nhiều đơn vị của họ đã nằm ngổn ngang trên cánh thảo nguyên bằng phẳng, mặt úp xuống đất. Nhưng luôn luôn có những đội xạ kích khác thế chân họ tiến về phía sông Manyts. Dưới hỏa lực bắn sát mặt đất của những khẩu súng máy hạng nhẹ, khi chỗ này khi chỗ khác, họ chồm dậy, cúi lom khom chạy lên từng đợt dồn lại ở bên kia sông. Têlêghin ra lệnh lấy lá quân kỳ của trung đoàn ở dưới căn hầm lên và tháo vải bọc ra.
Phút quyết định đã đến. Pháo binh của bạch quân chuyển hỏa lực vào các đơn vị hậu bị của trung đoàn Katsalinxkt làm tung lên một dải đất không chỗ nào hở. Từ bờ bên kia một trận mưa chì trút sang không ngớt. Những đội xạ thủ cuối cùng của quân tình nguyện đã chạy lên, không thèm nấp. Lập tức súng máy ngừng bắn, và hàng trăm người lao xuống sông Manyts một cách hung hãn đến nỗi nước sông sôi lên sùng sục. Tay vung cao súng trường, họ lội xuống nước ngập đến ngực hay đến cổ, họ bơi, họ trúng đạn ngã ngửa ra, vùng vẫy dưới nước, chìm nghỉm, và những kẻ đến sau cứ tiếp nối nhau mãi, giẫm lên xác họ mà tiến... Con sông ở chỗ này chỉ rộng chừng năm mươi thước... Bây giờ không còn một hỏa lực súng máy nào có thể ngăn cản nổi bầy người hóa dại đang hò hét vang dậy này... Thiếu tướng Têplôv đứng ở bờ bên kia, trong đám lau sậy, vung gươm hô lớn: “Tiến lên, tiến lên!”, chắc mẩm rằng một khí thế tiến công khủng khiếp như vậy sẽ buộc quân đỏ phải hoảng hốt lùi bước và bỏ chạy. Suốt ngày hôm ấy các chiến sĩ Katsalinxki chỉ chờ đợi có phút này, và ngay những người mà tim như thắt lại vì lo âu hồi hộp cũng đã trấn áp được tâm trạng đó, rắn rỏi hẳn lên trong một trạng thái căng thẳng chứa chất căm thù. Khi cuộc tiến công bắt đầu, các cấp chỉ huy và các đảng viên cộng sản, người níu áo, kẻ níu quần giữ các chiến sĩ lại, không để cho họ xông lên: “Bắn đi, bắn nữa đi đã...”. Những câu chửi rủa khủng khiếp vang lên khắp các chiến hào. Ở đây không ít những người vào thuở niên thiếu hay khi đến tuổi trưởng thành đã từng dự những cuộc đấu quyền trong làng: mùa đông, trên mặt băng, trên cầu hay giữa đường làng, họ thắt chặt nịt, mang bao tay vào, và cứ thế trai xóm này đấu với trai xóm kia những trận kinh hồn. Trong người họ vẫn còn cái máu ham mê những cuộc đấu quyền nẩy lửa ấy. “À, quân rắn rết, à, quân rắn rết!...”. Và nỗi hằn học làm cho quả tim thắt lại... “Buông ra nào, đ... mẹ!!!”. Quát lên một tiếng man dại, Latughin lao ra khỏi chiến hào trước tiên, lưỡi lê chĩa ra phía trước, và nối gót theo anh, tất cả các chiến sĩ khác trong chiến hào cùng lao xuống bờ sông thoai thoải đón đường quân địch vừa qua sông: “Ura! Ura! Ura!...”. Quân “rắn rết” cũng đáp lại “Ura! Ura! Ura!”. Cuộc phản công bằng lưỡi lê của các chiến sĩ Katsalinxki dữ dội lạ lùng, không có gì ngăn cản nổi. Họ lật nhào những tên địch đã lên bờ bên này, họ ùa xuống nước, đánh nhau với địch ngay giữa dòng sông, dùng cả báng súng mà nện, ném lựu đạn, vật lộn với chúng... Các sĩ quan dù có thiện chiến nhưng vẫn là con nhà đài các văn nhã, làm sao có thể chọi nổi những gã trai tráng nông dân, những anh thợ mỏ Đônbaxx, những người phu kéo gỗ, những người phu khuân vác trên các bến tàu dọc sông Volga, toàn những người sức vóc vạm vỡ, đang vọt lên khỏi mặt nước, chồm cả người lên vai họ?... Dòng sông Manyts sôi lên sùng sục, máu loang ra đỏ ngầu, tiếng gào thét vang dậy, tiếng vũ khí va vào nhau chan chát, tiếng lựu đạn nổ ầm ầm. Quân trắng bị bẻ gẫy, bị xô về phía sau, và bắt đầu lóp ngóp bò lên bờ bên kia. Thiếu tướng Têplôv điều thêm quân tiếp viện đến. Bấy giờ chính ủy Ivan Gora cầm lấy lá quân kỳ của trung đoàn trong tay người lính cầm cờ - một tấm lụa đỏ thắm có ngôi sao kim tuyến, thủng lỗ chỗ những vết đạn của các trận trước - giương cao nó lên, và giữa một tốp đảng viên cộng sản, anh chạy ra sông.
Ngược lên phía trên sông, nơi mực nước đã bắt đầu xuống, để lộ ra những đám lau sậy, Têlêghin đã bố trí sẵn từ trước những lực lượng dự bị dưới quyền chỉ huy của Xapôjkôv. Khi Ivan Gora cầm lấy lá quân kỳ, Têlêghin liền rời vị trí chỉ huy, nhảy lên ngựa phi tới chỗ quân dự bị bố trí. Chàng cho ngựa đi thẳng vào đám sậy, lớn tiếng gọi các chiến sĩ hồng quân đã phục nửa ngày trời trong bùn như đàn lợn lòi:
- Các đồng chí! Quân địch đang bỏ chạy, chớ để cho chúng kịp hoàn hồn!
Một trăm rưỡi chiến sĩ, tay khiêng những khẩu đại liên nặng, bỏ ủng lại trong lớp bùn nhầy nhụa, nơi thì bò, nơi thì lủi trong đám sậy, vượt sông sang bên kia bờ, đánh thốc vào sườn quân Kutêpôv. Cuộc tập kích này đã quyết định kết quả của trận đánh. Bạch quân lùi xa sông Manyts, và dưới hỏa lực bắn chéo cánh sẻ của hồng quân, bắt đầu bỏ chạy. Bên sườn phải, một đại đội kỵ binh của khu vực bên cạnh phái đến tiếp viện cho trung đoàn Katsalinxki, rải thành một hàng dài thưa thớt trên thảo nguyên rồi phi vòng lại cắt đường rút lui của địch.
Những đám tàn quân của đại đoàn Têplôv đã ra khỏi vòng vây. Chỉ còn những tốp lính lẻ tẻ bị nghẽn lại ngã gục dưới lưỡi lê của chiến sĩ hồng quân. Tiếp tục truy kích nữa thì nguy hiểm. Têlêghin ra lệnh cho Xapôjkôv ổn định lại chiến tuyến và đào công sự, rồi phi ngựa về phía lá quân kỳ đang đi chậm rãi trên thảo nguyên cách đấy nửa dặm. Chàng đã theo dõi nó từ lâu, kể từ khi nó vượt qua sông, lao về phía trước, dừng lại, rồi bỗng gục xuống, rồi lại được giương cao lên, rồi lại phất phới bay về phía trước...
Những đám mây mù đã che khuất tà dương, thảo nguyên tối sẫm lại rất nhanh. Từ chân trời lóe lên những phát đại bác của quân Kutêpôv, mấy quả trái phá bay vun vút qua đầu, chẳng biết bắn đi đâu, rồi mọi vật lại im lặng. Màn đêm phủ xuống chiến trường đẫm máu.
Têlêghin đi tìm chính ủy Ivan Gora mãi cho đến khi không còn trông thấy gì được nữa. Những chiến sĩ gặp trên đường đi, mỗi người trả lời một cách. Mọi người đều trông thấy chính ủy cầm cờ lội qua sông. Nhưng về sau lá cờ lại do đại đội trưởng Môskin cầm. Nhưng rồi Môskin cũng bị thương. Rốt cục lá cờ ở trong tay một chiến sĩ trẻ măng, khỏe như vâm. Latughin và Gaghin đến gặp Ivan Ilyits. Trong các pháo thủ chỉ có hai người sống sót sau khi pháo đạn của địch hắn tan khẩu đại bác trung thành và đắc lực của họ.
Latughin nói, hai hàm răng hé ra một cách khó khăn:
- Ivan Ilyits ạ, vừa rồi thật là một cảnh kinh hoàng, nhớ lại mà rợn cả người lên.
Gaghin, con người thường ngày lầm lì, cũng nói khẽ:
- Có nhiều cậu đến bây giờ mà đến gần vẫn còn nguy hiểm lắm. Họ thở hổn hển, sườn nổi cả lên, trông như chỉ chực đâm phập lưỡi lê vào bụng mình.
- Ivan Ilyits, anh tìm Ivan Xtêpanôvits đấy à?
- Phải, phải, các cậu có trông thấy anh ấy không?
- Đi theo tôi.
Họ ra bờ sông, vừa đi vừa tránh các xác chết... Đây đó trong bóng tối có những tiếng rên rỉ, những tiếng ú ớ mê sảng. Mấy người cứu thương gọi nhau í ới. Ivan Ilyits nghe ra tiếng thì thầm nghẹn ngào của Kuzma Kuzmits. Latughin đang đi phía trước bỗng dừng lại, cúi xuống.
Ivan Gora nằm úp xuống đất. Một viên đạn đã bắn trúng tim anh. Người cao lớn, anh dang rộng hai tay ra như muốn ôm lấy đất, chết rồi mà vẫn không chịu để cho quân thù chiếm lấy mảnh đất này.
Những chiến sĩ kỳ cựu của trung đoàn Katsalinxki, những người đã biết Ivan Gora từ khi anh là một chiến sĩ thường, rồi lên làm đại đội trưởng, đêm hôm ấy đã họp lại trên chiến trường và quyết định chôn chính ủy ở một nơi cao ráo, dễ nhớ và xung quanh có thể nhìn thật rõ, trên một ngọn gò ven bờ sông Manyts.
Ở đây gò đụn rải rác mọc lên khá nhiều, nhưng có một ngọn gò đơn độc cao sừng sững như một quả đồi. Có lẽ thời xưa các bộ lạc du mục đã đắp nó lên làm nơi cắm lều cho vị hãn của họ, để từ trên cao có thể trông rõ những đàn ngựa hằng hà sa số đang đi lại trên thảo nguyên. Cũng có thể vào những thời xưa hơn nữa người Scyth đã đắp nó lên trên hài cốt của vị thủ lĩnh kính yêu của họ, cùng chôn theo cả con ngựa và người vợ yêu dấu của thủ lĩnh, trên đỉnh gò xếp từng hàng lá lệ liễu rồi cắm ở giữa đỉnh gò một thanh kiếm khổng lồ bằng đồng đen, mũi chĩa lên trời, được họ phụng thờ như một thần tượng của phì nhiêu và hạnh phúc.
Mỗi người một tay, họ nâng thi hài chính ủy Ivan Gora lên ngang vai rồi đưa sang bên này sông, đặt trên lớp cỏ mùa xuân xanh rờn mọc trên đỉnh gò, chải tóc lại cho anh và phủ lá quân kỳ của trung đoàn lên người anh.
Đêm hôm ấy yên tĩnh và vằng vặc ánh trăng. Ivan Ilyits, gươm tuốt trần, đứng ở phía chân chính ủy; Babuskin, chính trị viên đại đội một, đảng viên cộng sản Pêtrôgrađ, đứng ở đàng đầu. Các chiến sĩ lần lượt kéo qua, bồng súng chào.
- Vĩnh biệt đồng chí...
Khi mọi người đã vĩnh biệt chính ủy, và đã sắp đến lúc hạ huyệt, Latughin lại chạy lên gò.
Anh nói lớn, giọng sang sảng:
- Hôm nay kẻ thù không đội trời chung đã giết mất người đồng chí ưu tú nhất của chúng ta... Đồng chí đã dạy cho chúng ta hiểu rõ mình cầm súng để làm gì... Chiến đấu vì chân lý! Chính vì thế mà khẩu súng này ở trong tay tôi... Bản thân đồng chí là một người chính trực, một người của chúng ta từ đầu đến chân... Đồng chí đã cho chúng ta thấy rằng một khi mẹ đã đẻ ta ra, một khi ta đã cất tiếng khóc chào đời, thì ta không thể làm việc gì khác hơn là chiến đấu vì chân lý... Tôi yêu cầu trung đoàn trưởng và chính trị viên Babuskin nhận lời xin gia nhập Đảng của tôi... tôi xin nói như vậy với tất cả tấm lòng trung thực của tôi trước thi hài này, trước lá quân kỳ này...
Họ đã chôn cất xong người chính ủy của họ, đêm đã khuya, Đasa gọi Ivan Ilyits ra khỏi căn hầm và vừa bẻ đốt ngón tay vừa nói:
- Anh ra với chị ấy một chút đi anh, dìu chị ấy về.
Nàng đưa Ivan Ilyits ra gò. Đêm tối sẫm lại trước giờ lê minh, trăng đã lặn, gió thảo nguyên thổi hun hút bên tai.
- Em với Anixya van nài thế nào chị ấy cũng không nghe.
Trên đỉnh gò, bên nấm mồ của Ivan Gora, Agrippina ngồi yên, đầu gục xuống, cái mũ lông và khẩu súng trường đặt bên cạnh. Anixya ngồi cách một quãng xa xa.
- Chị ấy như đã hóa đá mất rồi, bây giờ phải lôi chị ấy dậy, dìu về nhà, - Đasa nói thì thầm rồi đến cạnh Agrippina. - chị ơi, đồng chí trung đoàn trưởng cũng đến xin chị đấy.
Agrippina không ngẩng đầu lên. Những lời lẽ của con người cũng như làn gió thổi trên nấm mồ đều chẳng có nghĩa lý gì đối với chị. Anixya vẫn ngồi ở chỗ cũ, úp mặt xuống hai đầu gối. Ivan Ilyits ho húng hắng rồi nói:
- Chị Agrippina ạ, như thế không ổn đâu, trời sắp sáng rồi, chúng ta sẽ sang hết bên kia sông, chả nhẽ chị cứ ở lại đây một mình hay sao... như thế không tốt...
Vẫn không ngẩng đầu lên, Agrippina nói lẩm bẩm, giọng xa vắng:
- Dạo trước tôi cũng không bỏ anh ấy nằm lại một mình nữa là bây giờ... Tôi còn đi đâu nữa?
Đasa lại nói thì thầm, tay chỉ vào trán mình:
- Anh có hiểu không, chị ấy quẫn mất rồi...
- Gapa ạ, ta thử nghĩ kỹ một chút. - Ivan Ilyits ngồi xổm xuống bên cạnh chị. - Gapa ạ, chị không muốn rời bỏ anh ấy... Nhưng có phải Ivan Xtêpanôvits chỉ còn để lại có thế này thôi đâu? Anh ấy sẽ sống trong tâm trí chúng ta, sẽ cổ vũ chúng ta... Chị phải hiểu điều đó, Gapa ạ, chị là vợ anh ấy... Hơn nữa, giọt máu của anh ấy đang lớn lên dần trong người chị...
Agrippina giơ hai tay lên ngang mặt, xiết chặt lại một lát, rồi buông xuống.
- Bây giờ đối với chúng tôi chị càng thân thiết gấp mấy trước kia... Con chị sẽ là con nuôi của trung đoàn. Chị cứ thử nghĩ mà xem, bổn phận của chị lớn lao biết nhường nào... - Chàng vuốt tóc Agrippina. - Chị cầm súng lên, ta đi đi...
Agrippina rầu rĩ cúi đầu chào nấm mộ của chồng, nơi chị đã ngồi suốt đêm, rồi đứng dậy, cầm khẩu súng trường lên và đi xuống gò.
* * *
Những trận huyết chiến trên sông Manyts tiếp diễn cho đến giữa tháng năm rồi im ắng dần. Tướng Đênikin, bực mình vì Kutêpôv loay hoay mãi vẫn không chọc thủng được mặt trận của Quân đoàn thứ Mười và vì số thương vong quá nhiều, bèn gọi Kutêpôv về Êkatêrinôđar. Ngồi trong phòng giấy riêng, trước mặt tướng Rômanôvxki kiêu căng và khinh mạn, quan tổng tư lệnh ném cây bút chì xuống tập giấy để trước mặt, cao giọng buông ra những lời khiển trách bất công.
- Rốt cục thử hỏi đây là chiến tranh hay là trò xiếc cho các ngài đồng minh xem? Chúng ta không phải là phường mãi võ, tướng quân nhớ cho! Những trò anh chị kia thì được cái gì? Thật là điếm nhục! Một cuộc hành quân hoàn toàn vô văn hóa, một thứ du kích nhảm nhí!
Kutêpôv vốn biết rõ Đênikin và rất hiểu tại sao ngài lại điên tiết lên như vậy. Ông ta im lặng, lầm lì đưa mắt lườm sang cái lọ hoa nho nhỏ đặt cạnh bình mực.
- Đây ông thử đọc cái này cho nó hởi lòng hởi dạ. - Đênikin lấy tờ trên cùng ở tập giấy. - Mặt trận của Quân đoàn Hồng quân thứ chín đã bị chọc thủng với số thương vong không đáng kể ở phía ta, quân ta đã thắng trận oanh liệt... Ta đã tiến vào khu vực khởi nghĩa của dân cô-dắc. Hiển nhiên là chỉ nay mai ta sẽ chiếm được làng cô-dắc Vôsenxkaia... Nhưng lẽ ra những cuộc hành quân trên sông Đônetx đã có thể khai triển thành một cuộc tấn công đại quy mô nếu ta không phải để lại ở đây, trên sông Manyts, nhiều lực lượng như vậy. Tôi thấy xấu hổ cho chiến lược của ta quá, các ngài ạ... Cả thế giới đang nhìn vào chúng ta... Ở nước ngoài họ dễ bị ấn tượng lắm, xin các ngài biết cho như vậy... Mời các ngài lại đây...
Quan tổng tư lệnh tìm cái kính cặp mũi trong đống giấy tờ rồi cùng với Kutêpôv và Rômanôvxki đến cạnh cái bàn gỗ sồi bày các bản đồ quân sự.
Nội dung của bản kế hoạch là hai tướng Pôkrôvxki và Ulagai, sau khi tập trung xong những khối kỵ binh lớn hai bên sườn Quân đoàn Mười, sẽ đánh thọc vào hậu phương của địch, tiêu diệt các đơn vị kỵ binh dã chiến của bolsêvik, chiếm nhà ga Vêlikôknyajexkaia và nội trong bốn năm ngày hoàn thành việc vây hãm quân đỏ trên sông Manyts.
Đênikin rút trong túi bên áo vét ra một chiếc khăn mùi soa vải sạch sẽ sực mùi ô-đơ-cô-lôn rồi bắt đầu lau cái kính cặp mũi, mấy ngón tay da bóng và khô khẽ run run.
- Quân tình nguyện đang quyết định những vấn đề chính trị quốc tế. Sau những cuộc thất bại ở Ôđexxa, Kherxôn và Nikôlaiev, ở phương tây người ta đã bắt đầu hiểu ra điều đó... Ta phải giáng những đòn chớp nhoáng và có sức hủy diệt: trong cuộc chiến tranh này những tràng vỗ tay sẽ biến thành những chuyến tàu chở vũ khí... Tôi xưa nay vẫn can ngăn những cuộc phiêu lưu, tôi không thích những trò đỏ đen, nhưng tôi cũng không thích thua bạc... Nếu những thắng lợi của ta ở Đônbaxx không có được quy mô của một cuộc tổng tấn công đánh sâu vào nội địa và không kết thúc bằng một trận đánh chiếm Moxkva, tôi sẽ cho một viên đạn vào thái dương, xin các ngài biết cho như vậy...
Tướng Rômanôvxki đẹp trai, miệng mỉm một nụ cười ngạo nghễ và am hiểu, gõ gõ điếu thuốc lá lên chiếc hộp bạc. Mắt gườm gườm nhìn ông ta dưới cái trán thấp nhăn nheo, tướng Kutêpôv hiểu rõ tại sao quan tổng tư lệnh bỗng dưng nẩy ra những ý nghĩ quy mô như vậy. Như thế tức là ở đây ngài đã bị sửa mũ ra trò. Nhưng Kutêpôv là một ông tướng dã ngoại chứ không phải là một sĩ quan tham mưu: những vấn đề chiến lược cao cấp đối với ông quá mù mờ và chỉ làm cho ông mệt óc, việc của ông là xé xác quân thù ngay tại trận.
- Bẩm tướng công, chúng tôi sẽ làm hết sức mình, - ông ta nói, - nếu tướng công ra lệnh chiếm Moxkva trong mùa thu năm nay, chúng tôi sẽ chiếm...
* * *
Đã ba hôm nay, không một hớp nước, không một mẩu bánh mì, trung đoàn Katsalinxki len lỏi hành quân ra phía đường sắt. Lệnh rút lui ban bố ngày hai mươi mốt tháng năm. Quân đoàn Mười rời sông Manyts rút về phía bắc, mạn Txaritxyn, chọc thủng vòng vây một cách hết sức chật vật và với những thương vong rất lớn. Một làn gió khô khan thổi rạp những cây cỏ dại xuống. Thảo nguyên một màu xám xịt, chân trời lấp sau làn hơi mờ ảo: ở đấy kỵ binh của Ulagai đang tụ tập lại thành từng đàn như chó sói.
Ngựa kéo xe thồ lần lượt gục xuống. Những người bị thương và đau ốm phải chuyển sang những chiếc xe chở đồ đã đầy ắp. Những người bị thương nhẹ và những chị hộ lý khập khiễng bước sau xe. Khát quá, môi cứ sưng lên và nứt nẻ ra. Những đôi mắt sưng húp, nheo nheo dưới ngọn gió thổi từ phía đông, đăm đăm nhìn về phía chân trời tìm bóng dáng một cái cột bơm nước của hỏa xa. Trong các khe lũng trên thảo nguyên, một chút hơi ẩm cúng cũng chẳng còn, thế mà cách đây có lâu la gì những cái khe như thế đều phải lội qua, nước lạnh buốt lên ngang bụng. Giá có lấy được một giọt nước ấy mà nhấp ướt đôi môi đã bầm đen lại!
Trong một cái khe như thế, họ vấp phải một ổ phục kích: trong khi mấy cái xe giàn đang kéo xuống dốc khe cỏ mọc rậm rạp, bỗng có tiếng súng nổ rất gần, và một toán cô-dắc không biết nắp sẵn ở đâu phóng ngựa lên lao vào đoàn xe, mong được một phen cướp của dễ dàng. Khoảng dăm chục tên cướp phi ngựa trên dốc khe, râu cằm vênh lên. Nhưng chúng lại phi biến đi cũng một cách nhanh chóng như thế khi mỗi chiếc xe giàn đều nổ súng bắn vào chúng: mỗi thương binh đều giữ súng bên cạnh mình. Ngay cả Đasa cũng bắn, hai mắt nhắm rõ chặt.
Bọn cô-dắc đã chạy thoát hết, chỉ có một tên ngã cả người lẫn ngựa xuống đất. Các chiến sĩ ùa tới, hy vọng lấy được chiếc bi-đông đựng nước đeo trên người hắn. Trên vai hắn lấp lánh một đôi lon bạc. Họ lôi hắn từ dưới bụng con ngựa đã bị bắn chết ra. “Xin hàng, xin hàng... - hắn sợ sệt nhắc đi nhắc lại - tôi xin cung cấp tài liệu, các ông dẫn tôi đến gặp các chỉ huy...”.
Họ giật chiếc bi-đông nước đeo trên người bắn, và tìm thấy hai chiếc nữa trong các bao da sau yên ngựa.
- Dẫn hắn lại đây! - đại đội trưởng Môskin quát (anh đang ngồi trên một chiếc xe giàn, tay và đầu quấn băng).
Viên sĩ quan bị bắt đứng nghiêm trước mặt anh. Ít khi thấy ai có một bộ mặt xấu xí đến như vậy: đầy những nốt rỗ hoa, miệng nhão nhoét, mắt đờ đẫn như mắt xác chết. Từ người hắn tỏa ra một mùi hăng hắc rất nặng.
- Các anh là ai, quân chính quy hay du kích?
- Bẩm, một đơn vị phụ trợ không chính quy ạ.
- Các anh đang đi xúi giục nổi loạn ở hậu phương chúng tôi phải không?
- Theo lệnh tướng Ulagai, chúng tôi đang đi trưng binh...
Đoàn xe lại chuyển bánh. Viên sĩ quan đi cạnh chiếc xe giàn. Hắn trả lời một cách sốt sắng, nhanh nhẩu, rõ ràng. Hắn rất biết cách bảo mạng. Chắc hẳn là một tên phản gián kỳ cựu. Mấy chiến sĩ hồng quân cố ý đi gần để nghe hắn nói. Họ đưa mắt nhìn nhau khi hắn trả lời là Quân đoàn Chín đã rút khỏi sông Đônetx, và lữ đoàn kỵ binh của tướng Xêkrêtev đã thọc vào chỗ hở giữa Quân đoàn Chín và Quân đoàn Tám, hiện nay đang tràn vào hậu phương của hồng quân.
- Nói láo, không làm gì có chuyện ấy, - đại đội trưởng Môskin nói, giọng chẳng có gì quả quyết, mắt tránh nhìn hắn.
- Không ạ, đúng thế đấy, xin phép ngài; ở đây tôi có cầm một bản thông cáo của bộ tư lệnh tối cao...
Anixya Nazarôva từ trên xe giàn leo xuống đi với một tốp chiến sĩ bên cạnh tên tù binh. Môskin đọc tờ thông cáo gió thổi phần phật. Ai nấy chờ nghe thử anh sẽ nói gì. Anixya đưa bàn tay yếu ớt gạt các chiến sĩ ra để chen đến gần tên tù binh... Các chiến sĩ gắt: “Ơ kìa, chen gì thế, có gì đâu mà xem...”. Chân chị cứ trĩu xuống, đầu nhức như búa bổ, mắt như rắc đầy cát khô. Không chen qua được, chị chạy vòng lên nắm lấy cương ngựa giữ chiếc xe giàn lại. Không ai hiểu nổi chị muốn làm gì. Chị vươn cổ ra, đôi mắt nhợt nhạt và mênh mông choán hết cả khuôn mặt đen xạm và hốc hác, nhìn chăm chăm vào tên tù binh.
- Tôi biết thằng này! - Anixya nói. - Các đồng chí ơi, chính thằng này đã thiêu sống hai con tôi... Đã đánh tôi gần chết... Chính nó đã giết hai mươi chín người ở làng tôi...
Viên sĩ quan chỉ cười nhạt, nhún vai. Các chiến sĩ hồng quân lập tức quây lại, hết nhìn hắn lại nhìn Anixya. Môskin nói:
- Được, được, ta sẽ xét sau, lên xe mà nằm đi cô bạn ạ, lên xe đi...
Anixya nhắc đi nhắc lại như người mất hồn:
- Các đồng chí, các đồng chí, không thể tha cho hắn sống được, thà các đồng chí moi tim tôi ra còn hơn... Các đồng chí soát người hắn đi... Hắn tên là Nêmêsaiev, hắn còn nhớ tôi đấy... Các đồng chí nhìn mà xem, hắn đã nhận ra tôi kia kìa! - Chị mừng rỡ reo lên, ngón tay chỉ thẳng vào mặt hắn.
Hàng chục cánh tay giơ ra xé toạc chiếc áo besmet cô-dắc ướt đầm mồ hôi, làm rách luôn cả chiếc áo sơ-mi, lộn các túi trong túi ngoài của hắn ra, và quả nhiên tìm thấy một tấm thẻ quân nhân mang tên thượng úy kỵ binh Nikolai Nikolaiêvits Nêmêsaiev...
- Tôi không biết gì hết, tôi không hiểu, - hắn lặp đi lặp lại, vẻ mặt lầm lì. - người đàn bà này nói bậy, chị ta mê sảng đấy, chị ta đang sốt mà...
Các chiến sĩ hồng quân đều biết chuyện Anixya. Họ im lặng tránh ra khi chị cầm lấy khẩu súng trường của một người nào đấy trong bọn họ, đến cạnh Nêmêsaiev, chạm tay lên vai hắn nói:
- Đi!
Hắn đưa đôi mắt man dại nhìn qua những gương mặt nghiêm nghị của các chiến sĩ hồng quân. Hắn như ngạt thở. Hắn muốn nói gì với Môskin, nhưng anh quay mặt đi, chăm chú đọc tiếp tờ thông cáo. Hắn bám vào thành xe, như thể đó là cách cuối cùng có thể cứu hắn. Nhưng các chiến sĩ đã lôi hắn ra, thúc vào lưng hắn:
- Đi đi! Đi đi!
Bấy giờ hắn ngơ ngác đi ra thảo nguyên, cổ rụt lại, bước như người mù. Anixya đi sau hắn mươi bước, nâng khẩu súng nặng trịch lên, áp báng vào vai:
- Quay mặt lại đây.
Nêmêsaiev quay ngoắt lại, chực chồm tới. Anixya bắn một phát vào giữa mặt hắn, rồi không nhìn lại nữa, chị đi thẳng về phía các bạn đang đứng đứng yên nghiêm trang nhìn cuộc hành hình chính đáng.
- Súng ai đây nhỉ, cầm lấy, - Anixya nói đoạn đi về chiếc xe giàn ở cuối đoàn, leo lên xe và kéo tấm chăn ngựa đắp kín đầu.
-----------
Còn tiếp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét