Con Đường Đau Khổ - Tập II
Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976
Tập II - Năm 1918 (tiếp)
Ba lần dìm xuống nước,
Tắm trong máu ba lần
Ba lần luộc trong kiềm,
Ta trong sạch hơn những gì trong sạch nhất.
7
Akaterina Đmitrieva ngồi trong căn phòng
khách trần thấp bên chậu cây cảnh, tay nắm chặt chiếc khăn mùi-soa nhỏ đã ướt đẫm
nước mắt. Nàng đang viết thư cho Đasa, em nàng.
Mưa hắt rào rào trên cánh cửa sổ lắp những
tấm kính đầy bọt hơi. Ngoài sân, mấy cây xiêm gai đung đưa nghiêng ngả... Ngọn
gió đang lùa những đám mây đen từ biển Azôv về thổi tung những tấm giấy hoa đã
bong hết hồ bay phần phật trên vách.
Katya viết:
“Đasa ơi, Đasa ơi, nỗi tuyệt vọng của chị
không còn biết đâu là bờ bến nữa. Vađim đã chết. Hôm qua ông chủ căn nhà chị
đang ở, thượng tá Tyôtkin, đã cho chị biết tin đó. Chị không tin, chị hỏi: ai
báo cho ông biết? Ông liền cho chị cái địa chỉ của Valêrian Ônôli, một người ở
quân đoàn Kornilôv mới về. Đang đêm chị vội chạy đến khách sạn hắn ở. Chắc lúc ấy
hắn đang say. Hắn lôi chị về buồng, rót rượu ra mời chị... Khủng khiếp quá...Em
không thể tưởng tượng được những con người ở đây họ như thế nào... Chị hỏi: “Chồng
tôi chết rồi ư?”. Em hiểu không, Ônôli là bạn đồng ngũ của anh ấy, cùng đi chiến
đấu với anh ấy... Hai người gặp nhau hằng ngày... Hắn trả lời nhạo báng: “Phải,
bị bắn chết rồi, cứ yên chí, cô bé ạ, chính mắt tôi trông thấy xác anh ta bâu đầy
ruồi nhặng...”. Rồi hắn lại nói: “Ở chỗ chúng tôi Rôstsin đang bị nghi ngờ, chết
trong chiến đấu như vậy là một cái may cho anh ấy...”. Hắn không nói rõ ngày,
cũng không nói rõ địa điểm nơi Vađim đã bị bắn chết... Chị khóc lóc, van xin hắn...
Hắn quát lên: “Tôi làm sao nhớ hết được những ai chết ở những đâu”. Rồi ngỏ lời
xin thay thế Vađim... Chao ôi! Đasa! Sao lại có những con người như thế!... Chị
phát điên phát cuồng lên chạy ra khỏi khách sạn... Chị không thể tin rằng Vađim
không còn nữa... Nhưng không tin cũng không được: người ấy nói dối để làm gì? Cả
ông thượng tá cũng cho là có lẽ hắn nói đúng... Suốt thời gian qua chị chỉ nhận
được một lá thư của Vađim từ mặt trận gửi về - một bức thư rất ngắn và chẳng giống
anh ấy chút nào... Ấy là sau tiết Phục sinh độ hai tuần. Đầu bức thư chẳng thấy
gọi chị là gì cả. Anh ấy viết nguyên văn như thế này: “Anh gửi ít tiền cho
em... Anh không thể gặp em được... Anh nhớ những lời em nói khi chia tay... Anh
không biết liệu một con người có thể không còn là một kẻ sát nhân nữa không...
Anh không hiểu vì đâu anh lại trở thành kẻ sát nhân... Anh cố gắng không nghĩ
ngợi, nhưng có lẽ rồi cũng phải nghĩ ngợi và phải làm một cái gì. Bao giờ tình
trạng này qua đi - nếu đến một nơi nào đó nó có thể qua đi được -lúc bấy giờ
chúng ta sẽ gặp nhau...” Chỉ có thế. Đasa ạ, chị đã khóc hết không biết bao
nhiêu là nước mắt. Anh ấy đã bỏ chị ra đi để tìm cái chết... Chị còn biết làm
cách gì để giữ anh ấy lại, kéo anh ấy về, cứu anh ấy? Chị có thể làm được những
gì? Lấy hết hơi sức mà ôm chặt anh ấy vào lòng. May ra cũng chỉ làm được như thế...
Nhưng thời gian sau anh ấy có để ý gì đến chị đâu. Cách mạng đang choán hết tâm
trí anh ấy. Ôi, chị không còn hiểu ra làm sao nữa. Liệu tất cả chúng ta có cần
sống nữa không? Tất cả đã sụp đổ tan tành... Như những con chim trong cơn lốc,
chúng mình cứ đi vất vưởng trên đất Nga... Để làm gì? Nếu bấy nhiêu máu phải đổ
ra, bấy nhiêu đau khổ, đày đọa phải trải qua để trả lại cho chúng mình ngôi
nhà, căn phòng ăn sạch sẽ, những người quen đến đánh bài... thì liệu chúng mình
có hạnh phúc trở lại được không? Dĩ vãng đã chết rồi, nó đã vĩnh viễn chết đi rồi,
Đasa ạ... Đời chúng ta thế là hết. Thôi, để rồi sẽ có những người khác đến. Những
con người cường tráng hơn, tốt đẹp hơn...”.
Katya đặt bút xuống và đưa chiếc khăn mùi
soa vò nát lên lau mặt. Rồi nàng nhìn những giọt mưa đang chảy ròng ròng trên bốn
tấm kính cửa sổ. Ngoài sân cây xiêm gai uốn mình, nghiêng ngả như thể bị cơn
gió giận dữ giật mạnh mái tóc. Katya lại cúi xuống viết tiếp:
“Vađim đã ra mặt trận. Mùa xuân đã đến. Cả
cuộc sống của chị chung quy là để đợi anh ấy. Thật là đáng buồn, thật là vô bổ...
Chị còn nhớ có một chiều chị nhìn ra cửa sổ. Cây xiêm gai đang trổ lá, chồi non
đang nở tung ra. Một bầy chim sẻ bay nhảy rối rít ngoài sân... Chị thấy tủi
quá, thấy mình bơ vơ quá... Mình là một người lạ, một kẻ lạc loài trên đất
này... Chiến tranh đã qua, cách mạng rồi cũng sẽ qua. Nước Nga sẽ khác hẳn. Người
ta đang đánh nhau, đang chết chóc, đang đau khổ. Trong khi đó cây xiêm gai vẫn
trổ lá đâm chồi như mùa xuân năm ngoái, như bao nhiêu mùa xuân trước. Và cây
xiêm gai này, đàn chim sẻ ấy - tất cả thiên nhiên - đều đã rời chị lùi vào một
nơi nào xa tắp để sống cuộc sống riêng của nó, một cuộc sống mà chị không thể
hiểu được... Đasa, bấy nhiêu nỗi thống khổ của chúng ta sẽ đưa đến cái gì? Chẳng
lẽ lại chẳng để làm gì hết? Đàn bà chúng mình, như em và chị, chỉ biết có cái
thế giới con con của mình mà thôi... Nhưng những việc đang diễn ra xung quanh,
cả đất nước Nga này, thật là một lò lửa đang bốc cháy dữ dội vô cùng! Từ đấy chắc
phải nẩy sinh một niềm hạnh phúc mới... Nếu những con người đang dấn thân vào
đây không tin vào niềm hạnh phúc này, làm sao họ lại có thể căm thù nhau, tiêu
diệt nhau như vật được? Chị đã mất hết... Chị đã trở thành vô nghĩa đối với bản
thân chị... Nhưng rồi chị vẫn sống, bởi vì gối đầu lên đường xe lửa, buộc sợi
thừng lên cái móc chị thấy xấu hổ lắm, không phải là sợ, mà là xấu hổ. Ngày mai
chị sẽ lên đường đi khỏi Rôxtôv, để đừng có gì nhắc chị nhớ lại nữa... Chị sẽ đến
Êkatêrinôxlav... ở đấy chị có mấy người quen. Họ khuyên chị nên vào làm ở một cửa
hàng bánh kẹo. Có lẽ em cũng sẽ về miền Nam chăng... Nghe nói ở Piter gay go lắm
phải không? Khác nhau là ở chỗ này: dù đến ngày tận thế người đàn bà cũng không
bao giờ ruồng bỏ người yêu... Còn Vađim thì đã bỏ đi... Anh ấy đã từng yêu chị,
khi anh ấy hãy còn tự tin... Em có nhớ hồi tháng sáu ở Pêterburg không? Rực rỡ
biết chừng nào vầng thái dương đã rọi lên hạnh phúc của Vađim và chị!... Cho đến
chết chị sẽ không bao giờ quên ánh nắng nhợt nhạt của phương bắc... Chị không
còn giữ lại của Vađim lấy được một tấm ảnh nào, một vật nhỏ nào làm kỷ niệm...
Cứ như thể tất cả chỉ là một giấc mơ... Chị không hiểu nổi Đasa ạ, chị không
sao hiểu nổi là anh ấy đã chết... Có lẽ rồi chị đến phát điên mất... Đời chị
trôi đi buồn bã và vô vị quá chừng...”.
Katya không viết được nữa... Chiếc khăn mùi
soa nhỏ đã ướt sũng. Tuy vậy vẫn phải kể cho em biết những chuyện vặt vãnh hàng
ngày mà người ta vẫn quý hơn cả trong những bức thư... Giữa tiếng mưa rơi rả
rích, nàng viết thêm vài dòng, không đặt vào đấy một chút tâm tư, tình cảm
nào... Về giá cả các thức ăn, về sinh hoạt đắt đỏ...
“Chẳng có lấy một thứ hàng gì, chỉ cũng
không thấy bán... Một cái kim trị giá một ngàn rưỡi rúp hay là hai con lợn
con... Cô hàng xóm cùng sân, một cô bé mười bảy tuổi, một đêm chạy về nhà trần
truồng, mình mẩy thâm tím: cô bị lột hết ở ngoài đường. Bây giờ hiếm nhất là giầy...”
Nàng viết thêm là quân Đức tổ chức biểu diễn
quân nhạc thường xuyên ở vườn hoa thị xã, ra lệnh cho dân quét các đường phố,
còn bột mì, mỡ lợn, trứng thì họ chở từng đoàn xe lửa về Đức... Dân nghèo và thợ
thuyền rất căm thù chúng, nhưng họ vẫn lặng thinh, vì chẳng còn biết trông mong
ai cứu giúp cho được. Tất cả những chuyện ấy là do đại tá Tyôtkin kể lại cho
nàng nghe.
“Ông ta rất đáng mến, nhưng hình như cũng
phiền lòng vì phải nuôi thêm một miệng ăn... Vợ ông ta thì bây giờ không còn nể
nang gì nữa, cứ nói toạc chuyện ấy ra”.
Katya lại viết thêm:
“Hôm kia chị vừa đúng hai mươi bảy tuổi,
nhưng trông cứ như... Thôi nói làm gì... Bây giờ chuyện ấy còn có nghĩa lý gì nữa
đâu... Nó chẳng cần cho ai hết...”.
Rồi nàng lại cầm khăn mùi soa lên.
Bức thư này Katya trao cho Tyôtkin. Ông ta
hứa là hễ có dịp sẽ gửi đi Pêtrôgrad ngay. Nhưng Katya ra đi đã khá lâu mà nó vẫn
còn nằm yên trong túi ông. Liên lạc với miền bắc rất khó. Bưu vụ không hoạt động.
Thư từ đều do những người chuyên đi lại chuyển giúp. Đó là những kẻ hết sức liều
lĩnh, và đòi tiền công rất đắt.
* * *
Trước khi lên đường, có được mấy thứ đồ
dùng lặt vặt từ Xamara mang đi, Katya đều đem bán hết; chỉ còn lại một món tư
trang nhỏ: một chiếc nhẫn mặt ngọc bích của gia đình tặng nàng nhân ngày sinh
nhật. Đã lâu lắm rồi, vào một buổi sáng mùa xuân ở Pêterburg, hồi trước chiến
tranh. Buổi sáng ấy đã lùi sâu vào dĩ vãng, trở thành một kỷ niệm xa xôi đến nỗi
bây giờ không còn có gì gắn bó Katya với cái thành phố phủ sương mù mà nàng đã
sống qua thời thơ ấu. Hôm ấy Đasa, Nikôlai Ivanôvits và Katya đi ra đại lộ
Nevxki... Họ chọn mua chiếc nhẫn mặt ngọc bích này. Nàng đeo đốm lửa xanh biếc ấy
lên ngón tay, và đó là vật duy nhất mà nàng đem theo từ cuộc sống cũ của
nàng...
Từ nhà ga Rôxtôv có mấy chuyến xe lửa cùng
xuất phát một lúc. Katya bị chen lấn một lát rồi bị đẩy lên một toa hạng ba.
Nàng ngồi bên cửa sổ, đặt lên đùi cái khăn gói đựng mấy thứ áo quần đã mạng nhiều
chỗ. Ngoài cửa sổ trôi qua những cánh đồng cỏ ngập nước, những bãi lầy ven sông
Đôn, những đám khói bốc lên ở chân trời, những đường viền mờ mờ của làng
Bataixk không chịu khuất phục trước quân Đức. Dưới bờ sông dốc thẳng có những
làng chài ngập một nửa dưới nước, những túp lều vách đất, những mảnh vườn, những
chiếc thuyền úp sấp lại, những đứa trẻ cầm lưới đánh cá. Rồi biển Azôv trải rộng
ra trước mắt, phủ dưới một màn sương màu sữa, xa xa có mấy cánh buồm nghiêng
nghiêng. Rồi đến những ống khói đã nguội lạnh của các công xưởng Taganrôg. Những
cánh thảo nguyên. Những đống gò. Những khu mỏ bị bỏ hoang. Những làng mạc rộng
lớn trên những sườn đồi đá vôi. Những con diều hâu lượn trên nền trời xanh
ngát. Tiếng còi tàu cũng buồn man mác như những khoảng đồng không mông quạnh
này. Những người mu-gích cau có đăm chiêu ở các sân ga. Những cái mũ sắt của
lính Đức...
Katya nhìn ra cửa sổ, người khom rom như bà
già. Chắc gương mặt nàng lúc bấy giờ buồn và đẹp lắm, đến nỗi một người lính Đức
ngồi đối diện phải nhìn mãi hồi lâu người đàn bà Nga không quen biết này, khuôn
mặt gầy gò và mệt mỏi của hắn ta sau đôi kính gọng kền dường như cũng dần dần
đượm buồn theo.
- Những kẻ thủ phạm sẽ phải đền tội về tất
cả những tai họa do họ gây ra, bà ạ, sẽ đến lúc, - người lính nói khẽ bằng tiếng
Đức - Ở nước tôi cũng sẽ như thế, trên khắp thế giới đều sẽ như thế: sẽ có
phiên tòa vĩ đại... Sozialismus: đó sẽ là tên quan tòa.
Lúc đầu Katya không biết là người ta đang
nói với mình. Nàng ngước mắt lên nhìn đôi kính gọng kền to mặt, rất trong của hắn.
Người Đức thân thiện gật gật đầu với nàng:
- Bà nói được tiếng Đức chứ ạ?
- Vâng.
- Khi con người đau khổ nhiều, thì nguồn an
ủi của nó là nhận thức tính chất hợp quy luật của những nguyên nhân đã làm cho
nó đau khổ, - người Đức vừa nói vừa thu gọn đôi chân lại dưới ghế và cúi đầu xuống,
thành thử mặt hắn bây giờ nhìn Katya qua vành trên đôi kính. - Tôi đã nghiên cứu
lịch sử nhân loại khá nhiều. Sau một thời gian yên tĩnh kéo dài, ta lại bước
vào một thời kỳ đổ vỡ. Kết luận của tôi như thế này: chúng ta đang chứng kiến
bước đầu đi đến diệt vong của một nền văn minh vĩ đại. Đã có một lần thế giới
Ariên trải qua một hiện tượng tương tự. Đó là vào thế kỷ thứ tư, khi các man tộc
phá hủy thành La-mã. Nhiều tác giả sẵn sàng nêu lên một thế song hành với thời
đại ta. Không đúng đâu. Thành La-mã đã bị các tư tưởng cơ đốc giáo làm tan rã từ
trước rồi. Các man tộc chỉ xâu xé cái xác của thành La-mã mà thôi. Nền văn minh
hiện đại sẽ được chủ nghĩa xã hội tổ chức lại. Kia là phá hủy, còn đây là xây dựng.
Những tư tưởng có sức phá hoại mạnh nhất của đạo cơ đốc là: sự bình đẳng giữa
người và người, chủ nghĩa quốc tế và tính ưu việt tinh thần của sự nghèo khổ đối
với sự giàu sang. Đó là tư tưởng của những man tộc đã nuôi sống con ký sinh
trùng khổng lồ - thành La-mã ngập ngụa trong xa hoa trụy lạc. Chính vì thế mà
người La-mã sợ những người cơ đốc giáo và truy nã họ một cách tàn ác như vậy.
Nhưng trong đạo cơ đốc không có một tư tưởng có tác dụng xây dựng, nó không tổ
chức được lao động. Trên thế gian nó chỉ biết làm công việc phá hoại, còn tất cả
các thứ khác thì nó đều hứa hẹn là sẽ có trên thiên đường. Đạo cơ đốc chỉ là một
thanh gươm phá hoại và trừng trị. Và ngay trên thiên đường, trong cuộc sống lý
tưởng, nó cũng không hứa hẹn được một cái gì ngoài cái chế độ tôn ty giai cấp
và quan liêu của đế quốc La-mã mà nó đem lộn trái đi. Những sai lầm cơ bản của
đạo cơ đốc là như vậy. Đối lập lại với nó, La-mã đề ra tư tưởng trật tự. Nhưng
lúc bấy giờ trạng thái vô trật tự nhất - cõi hỗn mang phổ quát chính là mơ ước
thiết tha của các man tộc đang chờ đến giờ xung phong lên các thành quách La-mã.
Giờ ấy đã đến. Những đô thành cũ chỉ còn là những đống hoang tàn bốc khói. Xác
chết ngổn ngang trên các đường đi, cái thì đóng cọc, cái thì bị xe bò của người
man di nghiền nát. Không có cách gì cứu vãn được, vì châu Âu, vùng Tiểu Á và
châu Phi đều bốc lửa ngùn ngụt khắp nơi khắp chốn. Người La-mã như một đàn chim
mất tổ, chạy tan tác trên đám cháy đã bao trùm cả thế giới. Họ bị người man di
giết chết, bị thú rừng xé xác, họ chết trên các bãi sa mạc vì đói, vì nóng, vì
lạnh. Tôi có đọc một đoạn tự sự của một người đương thời, kể lại rằng Proba, vợ
của một quận trưởng La-mã, đang đêm đưa hai cô con gái lên thuyền trốn khỏi
thành La-mã, vừa bị những toán rợ German của Alarich đột nhập vào. Trong khi
thuyền trôi trên sông Tiber, mấy người đàn bà La mã ấy trông thấy ngọn lửa đang
thiêu hủy Đô-thành Vĩnh cửu. Đó là cảnh tận thế...
Người lính Đức mở cái túi đựng đồ ra, thò
tay vào tận đáy túi lấy ra một cuốn sổ tay dày cộp, bìa da đã sờn và lần giở
các trang một lát, miệng mỉm cười dè dặt:
- Đây, - hắn vừa nói vừa chuyển sang ngồi
bên cạnh Katya, - để bà có thể hình dung rõ hơn người La-mã trước khi diệt vong
như thế nào, xin mời bà nghe một đoạn văn của Ammianux Marcellinux. Ông đã miêu
tả những vị chúa tể của vũ trụ này như sau:
“Những tấm áo dài bằng vải điều và lụa bay
phất phới trước gió, cho phép nhìn thấy ở bên trong một chiếc áo tu-ních sang
trọng có thêu hình nhiều loài thú vật. Có một đoàn tùy tùng gồm năm mươi gia
nhân theo hầu, những cỗ xe mui của họ phóng trên đường phố với một tốc độ phi
thường, rung chuyển cả mặt đường và các nhà lân cận. Nếu trong bọn họ có ai vào
các nhà tắm, thường ăn thông với các nhà hàng, nhà ăn và những nơi đi dạo, người
ấy sẽ cất tiếng hách dịch đòi phải đưa những đồ dùng công cộng cho mình dùng
riêng một mình. Khi rời nhà tắm, người ấy đeo vào tay những chiếc nhẫn và những
chiếc vòng giát ngọc, khoác lên mình một tấm áo choàng đắt tiền mà chỗ hàng đã
dùng để may nó có thể đủ để may áo cho mười hai người. Sau đó người ấy mặc những
bộ y phục có thể làm thỏa mãn niềm tự ái của mình, không quên lấy một dáng bộ
uy nghi mà ngay đến Marcellux vĩ đại, người đã chinh phục thành Xyracuza cũng
không nên có. Vả chăng, chính Marcellux đôi khi cũng tiến hành những chuyến du
hành táo bạo có một lũ tùy tùng đông đúc đi theo, gồm những người hầu, những đầu
bếp, những kh ách hàng và những hoạn nô đã bị cắt mũi xẻo tai một cách đáng
kinh tởm, đi về những trang viên của ông ta ở xứ Italya để giải sầu bằng cách
đi săn chim và săn thỏ. Nếu tình cờ, nhất là vào một buổi trưa hè nồng nực, ông
ta có đủ can đảm ngồi trên một chiếc thuyền thiếp vàng đi qua hồ Lucrin để đến
ngôi biệt thự xây trên bờ biển, về sau ông ta sẽ so sánh chuyến đi này với những
cuộc hành quân của Cêsar và Alekxanđr. Nếu chẳng may có một con ruồi lọt qua tấm
rèm tơ trên khoang thuyền hay có một tia nắng xuyên qua các nếp màn, ông ta sẽ
than trách số phận sao không cho mình ra đời ở những xứ sở Cymmeri, nơi trị vì
của bóng tối vĩnh cửu. Những người khách được ưa chuộng nhất là những kẻ ăn bám
và xu nịnh có tài vỗ tay tán thưởng mỗi lời mỗi tiếng của chủ nhân. Họ hân hoan
kính phục ngắm nghía những dẫy cột cẩm thạch trong các phòng và những tấm nền
có ghép hình trang trí. Trong bữa ăn, những con chim và những con cá có kích
thước phi thường khiến cho mọi người trầm trồ kinh ngạc. Họ sai đem cân ra để
biết chắc trọng lượng của những món ăn này, và trong khi những vị khách biết điều
ngoảnh mặt đi không muốn nhìn cái cảnh này, thì bọn ăn bám lại lớn tiếng yêu cầu
gọi một viên trước bạ đến để lập biên bản xác nhận những kỳ quan ấy”.
- Phải, sic
transit...[sic transit gloria mundi - Hư vinh của
trần thế trôi đi như vậy đấy (tiếng la tinh] - người lính Đức vừa
nói vừa gập cuốn sổ tay lại. - Những con người ấy lang thang đi tìm cái ăn trên
những con đường cái, trong những thành phố hoang tàn. Trong khi đó những đợt
sóng man di vẫn từ phương đông tràn tới, đi đến đâu phá sạch đến đấy. Trong dăm
mươi năm nữa, đế quốc Nga-la-tư sẽ không còn để lại một dấu vết nào. Thành
La-mã vĩ đại cỏ đã mọc rậm rì, giữa những lâu đài tan hoang mấy con dê đứng gặm
cỏ. Đêm tối trùm lên châu Âu trong gần bảy thế kỷ. Sở dĩ như vậy là vì đạo cơ đốc
chỉ biết phá hoại chứ không biết đến những tư tưởng tổ chức lao động. Trong các
kinh bổn của họ, không hề nói đến lao động. Những quy tắc luân lý của nó thích
hợp với một con người không gieo, không gặt, vì đã được nô lệ gieo hộ, gặt hộ
cho. Đạo cơ đốc đã trở thành tôn giáo của những bậc đế vương và những kẻ đi
chinh phục. Lao động vẫn không được tổ chức và vẫn ở bên ngoài luân lý. Những
man tộc mới sẽ phá tan thành La-mã thứ hai và sẽ đưa lại cho thế giới cái tôn
giáo của lao động. Bà đã đọc Spengler chưa? Đó là một người La-mã từ đầu đến
chân, ông ta chỉ nói đúng có một điều, là trên cái châu Âu của ông ta hoàng hôn đang xuống dần. Nhưng đối với chúng ta thì đây
là buổi bình minh. Ông ta sẽ không lôi được giai cấp vô sản thế giới đi theo
mình xuống mộ. Loài thiên nga cất tiếng kêu trước khi chết. Thế thì giai cấp tư
sản đã làm cho Spengler cất tiếng kêu như con thiên nga... Đó là con chủ bài
duy tâm cuối cùng của nó. Răng của đạo cơ đốc đã sâu hết rồi. Còn răng của ta lại
là răng bằng thép... Đối lập với đạo cơ đốc, ta có cách tổ chức lao động xã hội
chủ nghĩa... Người ta bắt chúng tôi đi đánh nhau với những người bolsêvik... Ô
hô! Bà tưởng chúng tôi không hiểu rõ ai thúc ép cánh tay của chúng tôi và bắt
chúng tôi đánh lại ai đây sao? Ồ, chúng tôi hiểu rõ hơn là người ta có thể tưởng
nhiều. Trước kia chúng tôi khinh miệt người Nga. Bây giờ chúng tôi bắt đầu ngạc
nhiên và khâm phục họ...
Rúc lên một hồi còi dài, đoàn tàu đi qua một
thôn ổ sầm uất. Ngoài cửa sổ thấp thoáng những ngôi nhà vững chãi lợp mái tôn,
những cây rơm cao, những khu vườn có hàng rào gỗ bao bọc, những tấm biển treo
trên các cửa hiệu. Song song với đoàn tàu, trên con đường cái bụi bặm, một người
mu-gích mặc áo sơ-mi bộ đội không thắt nịt, đội mũ lông cừu, đứng chạng chân
trên một chiếc xe giàn nhỏ bốn bánh bịt sắt, quay quay đầu mũi dây cương. Con
ngựa cao lớn, no nê chuyển sang nước đại, cố vượt đoàn tàu. Người mu-gích quay
mặt về phía cửa sổ toa và nhoẻn miệng reo lên một câu gì không rõ, hai hàng
răng trắng nhe ra.
- Đây là Gulai-Pôlê, - người lính Đức nói, -
một thôn ổ rất trù phú.
Dọc đường phải chuyển tàu mấy lần. (Katya
đã ngồi nhầm lên một đoàn tàu không phải là tàu suốt). Cảnh nhộn nhịp chen chúc,
những lúc ngồi chờ ga, những bộ mặt mới lạ, những cánh thảo nguyên mênh mông mà
trước kia nàng chưa hề thấy đang trôi chầm chậm ngoài cửa sổ toa, làm cho nàng
khuây khỏa bớt những tâm tư phiền não. Người lính Đức đã xuống từ lâu. Lúc chia
tay, hắn nắm chặt tay Katya lắc lắc rõ mạnh. Con người ấy tin chắc như đanh
đóng cột vào tính quy luật của những biến cố đang diễn ra, và có vẻ như đã xác
định được một cách chính xác phần tham gia của mình vào những biến cố ấy. Cái
tinh thần lạc quan điềm tĩnh của hắn khiến cho Katya kinh ngạc và lo âu. Cái mà
mọi người đều cho là sự diệt vong, là sự kinh hoàng, là cảnh hỗn mang, thì đối
với con người ấy lại là sự khởi đầu đã mong đợi từ lâu của một kỷ nguyên vĩ đại.
Suốt năm qua Katya chỉ nghe toàn những tiếng
nghiến răng bất lực và những tiếng thở dài tuyệt vọng đến cùng cực, chỉ trông
thấy toàn những bộ mặt méo mó nhăn nhở, những quả đấm xiết chặt lại, như trong
buổi sáng tháng ba hồi nào ở nhà cha nàng. Quả tình, thượng tá Tyôtkin không thở
dài mà cũng chẳng nghiến răng, nhưng ông ta là người “phước lộc” [người “phước lộc” là hạng người hơi ngây dại mà tín
ngưỡng dân gian coi là những người được Thượng đế chọn lựa cho cuộc sống diễm
phúc trên thiên đường] như người ta vẫn nói, và chào mừng cách mạng
vì một lòng tin “phước lộc” nào đấy vào sự công bằng.
Tất cả những người sống xung quanh Katya đều
thấy cách mạng là sự diệt vong hoàn toàn của nước Nga và của nền văn hóa Nga,
là sự sụp đổ của cả cuộc sống là cảnh tao loạn của toàn thế giới, là cảnh
Apocalypxix [Apocalypxix (ngày tận thế) - là một
thiên trong kinh Thánh, tả những cảnh hoang đường, quái đản] đã trở
thành hiện thực. Trước kia là nền đế chế, bộ máy của nó hoạt động một cách phân
minh, dễ hiểu. Mu-gích thì cày, thợ mỏ than thì đào than, các nhà máy chế tạo
ra những mặt hàng rẻ và tốt, các thương gia mua bán sầm uất, các viên chức làm
việc răm rắp như những chiếc bánh xe trong máy đồng hồ. Ở bên trên, có những
người nhờ đó mà có được một sinh hoạt sung sướng xa hoa. Người ta cũng đã nói rằng
một chế độ như vậy là một chế độ bất công. Nhưng biết làm thế nào được: thượng
đế đã xếp đặt như vậy. Rồi đột nhiên mọi thứ đều bị tung hê lên, đổ vỡ tan tành
và cả nền đế chế chỉ còn là một cái tổ kiến vỡ... Thế là người dân thị thành,
bàng hoàng như kẻ hóa dại, thất thểu ra đi, đôi mắt trắng dã ra vì hãi hùng...
Đoàn tàu dừng lại rất lâu ở một ga xép vắng
lặng. Katya chồm ra cửa sổ. Vòm lá của một cây cao rì rào trong bóng tối. Bầu
trời đầy sao trông sâu thẳm lạ lùng trên dải đất xa lạ, bí ẩn này.
Katya tựa khuỷu tay lên khung cửa sổ. Tiếng
lá rì rào, những vì sao, mùi đất ấm áp khiến nàng nhớ lại một đêm nào ở Pari,
trong một công viên... Mấy người quen thân, đều là dân Pêterburg, đã rủ nhau đi
hai chiếc xe hơi đến đấy... Dưới giàn nho ở bên hồ, nơi họ ngồi ăn tối, hẳn ai
cũng phải thấy dễ chịu. Bên bờ hồ, những cây lệ liễu soi mình xuống nước, trông
như những đám mây óng ánh bạc.
Trong số những người cùng ăn có một người
Katya không quen, một người Đức kiều ở Nga. Người ấy mặc y phục dạ hội, không đội
mũ. Dáng gầy, khuôn mặt dài dài, có cái vẻ đăm chiêu của một người dễ xúc động,
vầng trán cao, hơi hói, đôi mắt nghiêm trang, hai mi nặng. Người ấy ngồi yên lặng,
lấy ngón tay dài đặt lên đáy một chiếc cốc uống rượu vang úp lại. Khi Katya thấy
có thiện cảm với một người nào, không khí xung quanh tự dưng trở nên ấm áp và
êm ả. Đêm tháng sáu trên hồ như mơn man trên đôi vai để hở của nàng. Qua đám lá
nho leo trên giàn thấp thoáng mấy vì sao. Mấy ngọn nến tỏa một ánh sáng ấm lên
mặt các bạn bè, lên mấy con bướm đêm đậu trên khăn trải bàn, lên gương mặt trầm
ngâm của người không quen biết. Katya cảm thấy người ấy trở nên tư lự mỗi khi
nhìn nàng. Chắc tối hôm ấy nàng đẹp lắm.
Khi mọi người đã rời bàn ăn đi theo con đường
trồng cây hai bên tối om như đi dưới những vòm cao của một dãy hành lang cổ
kính, dẫn ra cái sân lãm thúy ở cuối công viên, để ngắm những ánh đèn lấp lánh
trên đô thành Pari, người Đức đi bên cạnh Katya.
- Thưa bà, bà có thừa nhận rằng sắc đẹp là
một cái gì không thể chấp nhận được... Không thể dung thứ được không? - người ấy
nói, giọng nghiêm khắc, như muốn nêu rõ rằng mình không muốn cho những lời này
có một ý nghĩa nước đôi. Katya đi chầm chậm. Người ấy đã bắt chuyện với Katya,
và tiếng nói của người ấy không át mất tiếng rì rào của vòm cây tối sẫm: điều
đó làm cho nàng thích thú. Đi bên tay trái Katya, người ấy nhìn thẳng trước mặt,
về phía cuối lối đi, nơi hiện lên mờ mờ cái vầng ánh sáng màu hoa cà trùm trên
thành phố. - Tôi là kỹ sư. Cha tôi rất giàu. Tôi làm việc trong những xí nghiệp
lớn. Tôi phải giao thiệp với hàng chục vạn người. Tôi được thấy và biết nhiều
điều mà bà không biết. Xin lỗi, tôi nói chuyện như thế này có làm cho bà thấy
chán không?
Katya quay đầu về phía người ấy, im lặng mỉm
cười. Trong ánh sáng mờ mờ từ những ánh đèn xa xa hắt lại, người ấy nhìn kỹ đôi
mắt và nụ cười của nàng rồi nói tiếp:
- Chúng ta chẳng may sống vào buổi giao thời
giữa hai thế kỷ. Thế kỷ trước đang tàn lụi dần, lộng lẫy tráng lệ. Thế kỷ sau
đang ra đời giữa tiếng máy chạy ầm ầm và những dãy phố đơn điệu và khắc khổ bao
quanh các công xưởng. Đại diện của thế kỷ này là quần chúng, là khối người vô
danh, trong đó mọi sự khác nhau đều bị thủ tiêu. Con người chung quy là hai bàn
tay thông minh, biết điều khiển máy móc. Ở đây có những quy luật khác, một cách
tính thời gian khác, một chân lý khác. Thưa bà, bà là người cuối cùng của thế kỷ
trước. Chính vì vậy mà tôi rất buồn khi nhìn gương mặt bà. Nó không cần thiết
cho thế kỷ mới, cũng như tất cả những cái gì vô ích, duy nhất, có khả năng thức
tỉnh những tình cảm đang tiêu vong: tình yêu, sự hy sinh, thi vị, những giọt nước
mắt vui sướng... Đẹp!... Để làm gì? Đó là một cái gì đáng lo ngại, đó là một
cái gì không thể chấp nhận được... Tôi xin cam đoan với bà rằng trong tương lai
người ta sẽ ban hành những đạo luật cấm sắc đẹp... Bà có bao giờ nghe nói đến lối
làm việc dây chuyền chưa? Đó là phát minh mới nhất của Mỹ. Cái triết lý của
công việc bên băng dây chuyền cần phải được quần chúng thấm nhuần... Trộm cắp,
giết người phải được coi là ít tội lỗi hơn một giây lơ đãng bên dây chuyền...
Bây giờ bà thử tưởng tượng xem: khi sắc đẹp - một cái gì khiến lòng người xao
xuyến - bước vào những xưởng máy đầy sắt thép ấy thì sẽ thế nào? Những thao tác
sẽ rối loạn, những bắp thịt sẽ run rẩy, tay sẽ có những giây chậm trễ, thiếu
chính xác... Những giây ấy sẽ được dây chuyền nhân lên thành những giờ, những
giờ chuệch choạc ấy sẽ gây nên thảm họa... Nhà máy của tôi sẽ cho ra những sản
phẩm thua kém nhà máy bên cạnh... Xí nghiệp sẽ phá sản... Đâu đó sẽ có một nhà
băng vỡ nợ... Đâu đó nhà chứng khoán phản ứng với tình trạng tiền sụt giá bằng
một hành động đột ngột... Một người nào đấy sẽ bắn một viên đạn vào tim... Và sở
dĩ xẩy ra tất cả những thảm họa đó chẳng qua cũng vì trong một xưởng máy đã có
một người đàn bà xinh đẹp một cách tội lỗi đã đi qua trong tiếng áo dài sột soạt.
Katya cười phá lên. Nàng không biết chút gì
về phương pháp dây chuyền. Nàng chưa bao giờ vào trong một xưởng máy, chỉ trông
thấy những cái ống khói đen thui làm hỏng cả phong cảnh... Quần chúng - đám
đông - thì nàng rất thích khi họ dong chơi trên đại lộ, và nàng chẳng thấy họ
có gì là ghê gớm cả. Trong những người quen của nàng ngồi ăn tối bên bờ hồ, có
hai đảng viên xã hội dân chủ. Như vậy về phương diện lương tâm mọi sự cũng đều ổn
thỏa cả. Những điều mà người đang đi cạnh nàng vừa nói trong khi bước chầm chậm
trong bóng tối ấm áp của con đường rợp bóng cây, đầu ngửa cao lên, đều lý thú
và mới mẻ, cũng như những bức tranh lập thể treo ở phòng khách Katya dạo nào...
Nhưng tối hôm ấy nàng chẳng thiết gì triết lý...
- Chắc ông đã bị đàn bà đẹp làm khổ nhiều,
cho nên ông mới thù ghét họ đến thế, - nàng nói rồi lại cười khe khẽ, tâm trí
mãi nghĩ đến một cái gì khác... Cái gì khác ấy nó mơ hồ như buổi tối hôm nay phảng
phất mùi hoa và mùi lá, lấp lánh những ánh sao lọt qua các ngọn cây - đó là
bóng dáng huyền ảo của tình yêu đang đến gần trong một cảm giác ngất ngây êm dịu.
Không phải tình yêu đối với con người cao lớn đang đi cạnh nàng, nhưng cũng có
thể là đối với người ấy. Người ấy đã làm cho nàng thấy thèm yêu. Cái mà mới gần
đây thôi còn có vẻ khó khăn và thậm chí vô hy vọng, bây giờ đã đến gần và đã
tràn vào lòng nàng một cách dễ dàng...
Không biết trong những ngày ấy ở Pari còn
có những gì nữa có thể đến với nàng... Nhưng đột nhiên tất cả đều đứt đoạn giữa
chừng... Tiếng súng của chiến tranh thế giới đã nổ... Katya không còn gặp lại
người Đức ấy nữa. Người ấy có biết chiến tranh sắp nổ ra không hay chỉ phỏng
đoán? Trong câu chuyện tiếp theo bên dãy lan can bằng đá, trong khi đứng ngắm
những ánh đèn của thành Pari rải rác khắp chân trời tối mịt, lấp lánh đổi màu
như những hạt kim cương, người ấy đã mấy lần nói với nỗi lo âu đau đớn về một
thảm họa nào sắp tới. Người ấy như luôn luôn bị ám ảnh vì một ý nghĩ không sao
xua đuổi đi được: tất cả những điều vô ích sẽ phí hoài: vẻ đẹp huyền ảo của đêm
hôm ấy, cũng như nhan sắc kiều diễm của Katya.
Nàng không nhớ nàng đã nói với ông ấy những
gì chắc toàn những chuyện không đâu. Nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng. Người
ấy đứng chống khuỷu tay lên lan can, má gần chạm vào vai Katya. Katya biết rằng
pha lẫn vào hương đêm có mùi nước hoa của nàng, mùi da thịt nàng, mùi tóc
nàng... Có lẽ lúc ấy - hay bây giờ nàng mới có cảm giác như thế thì không rõ -
nếu người ấy đặt bàn tay to lên lưng nàng, nàng sẽ không tránh đi... Nhưng
không hề xảy ra một cái gì như thế cả...
Gió thổi mạnh trên má nàng, trên tóc nàng.
Những tia lửa đỏ từ đầu máy xe lửa bay vút qua. Đoàn tàu đi qua thảo nguyên.
Katya rời cửa sổ ngồi lùi vào trong, mắt vẫn chưa trông thấy gì trong toa. Ngồi
nép vào gốc ghế dài, nàng bóp chặt mấy ngón tay lạnh giá.
Bây giờ nàng thấy hối hận quá. Như thế là
thế nào? Nàng được tin Vađim chết chưa được một tuần, mà đã làm một cái gì còn
tệ hơn cả phụ tình, tệ hơn cả phản bội... Nàng đã mơ tưởng đến một người tình
nhân không hề có... Người Đức ấy dĩ nhiên là đã chết trên chiến trường. Người ấy
là sĩ quan dự bị. Người ấy chết rồi, chết rồi... Mọi người đều đã chết, mọi thứ
đều đã tiêu vong, đều đã bị xé nát, đều đã bị xua tan, cũng như cái đêm hôm ấy
trong công viên, trên sân lãm thúy, bên bờ sông - tất cả đều đã mất đi không
bao giờ còn trở lại nữa.
Katya mím chặt môi để đừng rên lên. Nàng nhắm
mắt. Một nỗi buồn nhức nhối đang vò xé lồng ngực nàng... Trong toa tàu bẩn thỉu
leo lét ánh đèn nến run rinh, hành khách không đông lắm. Trên thành toa chập chờn
những cái bóng đen hắt ra từ một cánh tay giơ lên, một bộ râu rối bù, một đôi
chân đã cỡi giày buông lủng lẳng từ giường trên. Không một người nào ngủ, tuy
đêm đã khuya. Họ nói chuyện khe khẽ.
- Khu vực này tệ nhất đây, thật đấy...
- Sao? Ở đây mà cũng không an toàn à?
- Xin lỗi, ông vừa nói thế nào ạ? Ở đây
cũng có cướp ạ? Thế thì lạ thật đấy, sao quân Đức họ cứ để mặc? Họ có bổn phận
bảo đảm an toàn cho hành khách chứ... Đã chiếm đóng thì phải giữ trật tự chứ!
- Quân Đức ấy à, nói vô phép, chúng nó nhổ
toẹt vào... Cứ việc lo lấy, các bạn Nga thân mến ạ, các bạn gây ra, các bạn phải
chịu lấy... Phải. Cái thói cướp bóc nó đã ăn sâu vào bản chất dân ta rồi... Dân
nó chó má lắm...
Một giọng tự tin đáp:
- Cả nền văn học Nga đều phải sổ toẹt, đem
đốt hết trước mặt thiên hạ... Hay ho lắm đấy! Nó chỉ làm hỏng dân ta. Có lẽ
trên khắp đất Nga không có lấy một người lương thiện... Tôi còn nhớ hồi tôi ở
Phần-lan, có lần để quên đôi giày bọc ngoài ở khách sạn... Thế là họ cho một
người cưỡi ngựa cầm đôi giày đuổi theo tôi, giày thì rách rồi chứ có quý báu
gì. Và họ cũng đã trừng trị cộng sản, nói chung là trừng trị người Nga, thật ra
trò. Ở thành phố Abo, sau khi đã dập xong cuộc nổi loạn, người Phần-lan đã dùng
lửa tra tấn tên chỉ huy Xích vệ ở địa phương. Đứng bên cửa sổ có thể nghe rõ tiếng
kêu gào của tên bolsêvik này.
- Ôi, lạy Chúa, biết đến bao giờ ở ta mới
có được chút trật tự gọi là?...
- Xin lỗi, tôi đã đến Kiev - Các nhà hàng
bây giờ rất sang trọng, trong các tiệm cà-phê đều có nhạc... Các cô các bà công
khai đeo kim cương. Cuộc sống thật tưng bừng. Các thương điếm mua vàng bạc rất
đông khách... Sinh hoạt phố hè rất phồn vinh... Thật là một thành phố kỳ diệu...
- Nhưng một miếng vải may quần đã hết nửa
năm lương rồi. Bọn đầu cơ bóp cổ chúng ta... Mà các vị có biết không: bọn chúng
đều tốt béo, bảnh bao, đều mặc com-lê len Sêviôt... Chúng nó ngồi trong các hiệu
cà-phê buôn giấy phép chở hàng... Buổi sáng thức dậy, đi mua bao diêm cũng
không có: cả thành phố không còn một bao nào. Hay như kim khâu chẳng hạn. Tôi
đã từng tặng vợ tôi hai cây kim và một cuộn chỉ để mừng ngày sinh nhật. Trước
kia tôi phải tặng hoa tai kim cương kia. Giới trí thức đang chết dần chết
mòn...
- Phải bắn hết bọn đầu cơ, không thương tiếc...
- Thôi đi, thưa ngài đồng chí, ở đây có phải
là vùng cộng sản đâu...
- Thế ở Kiev có tin đồn gì không? Quan thống
lĩnh vẫn đứng vững đấy chứ?
- Trong khi quân Đức còn ở đây thì vẫn vững...
Nghe nói vừa có thêm một người dòm ngó quyền cai quản xứ Ukrain: Vaxili
Vysivanny. Ông ta là hoàng thân Áo thuộc dòng Habxburg, nhưng lại mặc y phục
dân tộc Ukrain.
- Các vị ơi, ngủ đi thôi. Tắt nến đi.
- Tắt nến là thế nào? Đây là toa xe lửa kia
mà...
- Tắt đi an toàn hơn... Giữa đồng các cửa sổ
trông rất rõ...
Trong toa lập tức im phăng phắc. Tiếng bánh
xe gõ trên đường ray nghe rõ hẳn lên. Những tia lửa đỏ ở đầu máy phun ra bay
vào đêm tối thảo nguyên. Có ai nói giọng khàn khàn, giọng bực tức đến cùng cực:
- Ai bảo tắt nến đấy? (Im lặng một lát.
Không khí trở nên rờn rợn). Ừ, tắt đèn đi, còn mình thì tha hồ lục va-ly của
người khác. Bây giờ thử tìm xem ai nói, rồi đẩy cha nó xuống đường tàu, thế mà
hay...
Có tiếng chắt răng chán chường. Một giọng sợ
sệt nói:
- Tuần trước tôi đi tàu, - có một bà bị nó
lấy móc khoèo mất hai cái tay nải.
- Đúng là bọn Makhnô rồi.
- Bọn Makhnô nó thèm đi khoèo hai cái tay nải
cho anh đấy. Cướp cả đoàn tàu: việc của chúng nó là thế kia.
- Các ngài ạ, có ai biết chuyện bọn này, ta
kể lên nghe cho qua đêm nào...
Thế là họ bắt đầu kể chuyện, chuyện nọ khủng
khiếp hơn chuyện kia. Họ nhắc lại những sự việc nghe mà sởn cả gáy. Và đến đây
mọi người mới vỡ nhẽ ra rằng cái nơi đoàn tàu đang thong thả kéo qua chính là một
ổ cướp lừng danh mà ngay quân Đức cũng phải tránh. Té ra ở ga vừa qua ngay đến
đội cảnh vệ đi theo đoàn tàu cũng đã phải xuống rồi... Trong các làng ven đường
sắt, mu-gích mặc áo khoác lông hải ly, con gái mặc toàn nhung lụa. Ngày nào
cũng vậy, hoặc đoàn tàu bị xả súng máy bắn như mưa, hoặc các toa sau bị tháo rời
ra và kéo bằng tời về một nơi nào đấy, hoặc tàu đang đi nhanh thì cửa toa bỗng
mở toang, và mấy gã râu ria bước vào, tay cầm rìu hay súng cưa nòng: giơ tay
lên! Người Nga thì chúng lột sạch, còn nếu tóm được một thằng Do thái...
- Do thái cái gì? Tự nhiên lại đưa chuyện
Do thái ra đây làm gì? - một người mặt cạo nhẵn, mặc bộ com-lê len Sêviốt xanh,
chính cái người lúc nãy ca ngợi thành Kiev, bỗng quát lên, giọng man dại - Tại
sao cái gì cũng đổ lên đầu người Do thái?...
Tiếng quát này làm cho không khí trong toa
ghê rợn hẳn lên. Những tiếng xôn xao im bặt. Katya lại nhắm mắt lại. Nàng chẳng
có gì để mà mất cướp cả, may ra cũng chỉ có chiếc nhẫn ngọc bích. Nhưng nàng
cũng vẫn thấy lo sợ bồn chồn. Để thoát khỏi cái cảm giác khó chịu là cứ thấy
tim mình lịm đi, nàng lại cố hồi tưởng cái không khí huyền diệu của buổi tối
dang dở hồi nào. Nhưng nàng chỉ nghe thấy tiếng bánh xe dằn đều đều trong cõi
hư không mịt mùng: Ka-tyen-ka, Ka-tyen-ka, thế-là-hết, thế-là-hết...
* * *
Đột nhiên, như thể vừa đâm vào một vách
núi, toa tàu đứng sững lại, những bộ phanh rít lên một tiếng thép chói chang,
xích sắt kêu loảng xoảng, cửa kính rung lên lách cách, mấy chiếc va-ly từ trên
giá nặng nề rơi phịch xuống. Lạ hơn cả là không có ai ồ lên một tiếng nào. Họ đứng
vụt dậy nhìn quanh, nghe ngóng. Và tuy không ai nói với ai một câu nào, mọi người
đều hiểu rõ rằng mình đã gặp phải chuyện chẳng lành.
Trong bóng tối có tiếng súng trường bắn đì
đùng! Người mặc bộ com-lê len Sêviốt cuống quít chạy dọc toa, rúc cả người vào
nấp kín ở một xó nào đấy. Ngoài cửa sổ có những bóng người chạy sát dưới đường
tàu đắp cao. Đoành, đoành - mắt lóa đi vì ánh chớp, tai ù lên vì tiếng nổ... Một
giọng dữ tợn quát lên: “Không được thò đầu ra ngoài!”. Một quả lựu đạn nổ đánh
oàng một tiếng. Toa xe tròng trành. Các hành khách run lên cầm cập. Có tiếng
người bước lên, tiếng báng súng nện vào cửa toa. Rồi khoảng mười người đội mũ
lông cừu xô nhau ập vào, tay cầm lựu đạn giơ ra dọa, súng ống va vào nhau trong
bóng tối. Từ lồng ngực họ đưa ra những tiếng thở hổn hển.
- Thu đồ đạc, xuống tàu đi ra đồng.
- Nhanh lên, nếu không...
- Miska, cho một quả lựu đạn vào lũ tư sản
kia...
Hành khách giạt ra. Một gã thanh niên tóc
vàng nhạt có gương mặt xanh tái, hung ác, lao cả người ra phía trước, giơ cao
quả lựu đạn lên và giữ nguyên tư thế đó trong một giây...
- Chúng tôi ra đây, chúng tôi ra đây, - đám
hành khách lao xao. Rồi không phản kháng gì nữa, không nói lấy một lời, họ rời
toa xe lửa đi xuống, người thì xách chiếc va ly con, người thì chỉ vớ lấy cái gối
hay cái ấm đun nước... Một người đeo kính cặp mũi, bộ râu cằm bị xô lệch sang một
bên, lại còn mỉm cười trong khi len qua mấy tên cướp.
Đêm hôm ấy hơi lạnh. Trên thảo nguyên, các
vì sao rải khắp bầu trời thành một tấm thảm lộng lẫy. Katya cầm cái gói nhỏ ngồi
xuống một chồng tà-vẹt đã mục. Chúng đã không giết ngay lúc đầu, thì bây giờ chúng
chẳng giết nữa đâu. Nàng cảm thấy mệt lả ra như sau khi bị ngất. Nàng nghĩ thầm:
“Ngồi trên đống gỗ này hay nhịn đói đi lang thang ở Êkarinôxlav cũng thế
thôi...” Hai vai nàng lạnh buốt. Nàng ngáp dài. Trong toa xe, những người
mu-gích cao lớn đang lôi những chiếc va-ly ở trên giá xuống, vứt qua cửa sổ ra
ngoài. Người đeo kính cặp mũi toan leo lên đường tàu:
“Các ông ơi, các ông ơi, trong ấy có mấy thứ
dụng cụ vật lý của tôi, xin các ông nhẹ tay cho, dễ vỡ lắm...”.
Bọn cướp quát mắng thậm tệ, nắm lấy vạt sau
chiếc áo mưa của người đeo kính lôi hắn ta lại và đẩy vào đám hành khách. Lúc bấy
giờ từ trong đêm tối có một đội kỵ mã phi tới, vó ngựa nện rầm rập, vũ khí va
loảng xoảng... Người đi đầu, phi cách toàn đội khoảng hai thân ngựa, là một người
to lớn vạm vỡ phi thường, đầu đội chiếc mũ lông cao, người nhấp nhổm trên mình
ngựa. Đám hành khách tránh giạt ra. Đội kỵ mã, gươm súng giơ cao lên, dừng lại
bên toa xe. Người dẫn đầu quát, giọng lanh lảnh:
- Không có tổn thất gì chứ, các chú?
- Không, không... Đang dỡ hàng xuống... Cho
xe lại đây, - mấy người đáp.
Người vạm vỡ đội mũ lông cao quay ngựa lại
và xấn vào đám hành khách:
- Trình giấy tờ, - hắn vừa ra lệnh vừa cho
con ngựa nhún nhẩy, nước bọt trong mõm ngựa bắn vào những đôi mắt giương to lên
vì sợ hãi của các hành khách. - Đừng sợ. Các người đang ở dưới sự che chở của
quân đội nhân dân của thủ lĩnh Makhnô. Chúng tôi chỉ bắn bọn sĩ quan, bọn cảnh
vệ, - hắn to giọng lên, vẻ dọa nạt và bọn đầu cơ tài sản của nhân dân.
Người mặc áo mưa lại bước ra, tay sửa cặp
kính.
- Xin lỗi, tôi có thể cam đoan rằng trong
chúng tôi không có ai thuộc hai loại người nói trên cả... Ở đây chỉ có những
người dân phố hiền lành... Tôi là Ôbrutsev, thầy giáo dạy vật lý...
- Thầy giáo, thầy giáo, - người vạm vỡ thốt
lên, giọng trách móc, - thầy giáo mà lại chung đụng với đủ các hạng khốn kiếp.
Đứng ra một bên. Mấy chú kia, không được động đến ông này. Ông ta là thầy giáo
đấy.
Họ lấy cây nến trong toa tàu ra. Cuộc kiểm
tra giấy tờ bắt đầu. Quả nhiên không có ai là sĩ quan hay cảnh vệ cả. Người mặc
com-lê len Sêviốt ban nãy lăng xăng ngay ở chỗ kiểm soát, gần ngọn nến hơn ai hết...
Nhưng bây giờ hắn không mặc com-lê len nữa, mà lại mặc một bộ áo quần nông dân
nhàu nát, đầu đội mũ lưỡi trai bộ đội. Không sao hiểu nổi hắn đã kiếm đâu ra mấy
thứ này, chắc là hắn mang theo sẵn trong va-ly. Hắn vỗ vai mấy tên cướp hung tợn,
ra vẻ thân thiện lắm:
- Tôi là ca sĩ, tôi rất hân hạnh được làm
quen với các anh. Phàm là nghệ sĩ thì cần phải tìm hiểu cuộc sống, tôi là nghệ
sĩ...
Hắn dặng hắng cho trong giọng, định nói tiếp
nhưng có một tên cướp đã nói với hắn, giọng bí hiểm:
- Rồi sẽ biết anh là thứ nghệ sĩ gì, chớ mừng
vội...
Mấy chiếc giàn nhỏ, bốn bánh bịt sắt, được
đánh lại. Bọn Makhnô quăng va-ly, làn giỏ, tay nải lên xe rồi ngồi lên đống đồ
đạc ấy. Mấy tên đánh xe huýt lên theo kiểu dân thảo nguyên, những cỗ tam mã béo
tốt phóng nước đại kéo xe đi và cả đoàn mất hút vào thảo nguyên trong tiếng
huýt và tiếng vó ngựa phi rầm rập.
Đội kỵ mã cũng đã phi đi. Chỉ còn mấy tên
cướp đi đi lại lại trên toa xe. Bấy giờ đám hành khách dùng lối đưa tay biểu
quyết, bầu lên một phái đoàn đại biểu để xin phép bọn Makhnô lên tàu đi tiếp. Một
gã trẻ tuổi tóc vàng nhạt, người đeo đầy bom, đến gần bọn họ. Món tóc quăn lòa
xòa dưới cái vành lưỡi trai che lấp một mắt. Mắt kia, một con mắt xanh và
trong, nhìn đám người một cách trâng tráo.
- Cái gì thế? - hắn vừa hỏi vừa nhìn từ đầu
đến chân từng người đại biểu một - Đi đâu? Đi bằng gì? Chà, ngốc quá... Thằng
tài xế bỏ toa máy chạy vào thảo nguyên từ lâu rồi còn gì, bây giờ hắn đang ngồi
gãi cách đây đến mươi dặm là ít. Tôi không thể bỏ mặc đồng bào ở lại đây trong
lúc đêm hôm khuya khoắt thế này được, những phần tử vô tổ chức đi lang thang
trên thảo nguyên có phải ít đâu... Đồng bào nghe lệnh đây... (Hắn bước từ trên đường
tàu xuống, sửa lại cái thắt lưng nặng trĩu. Mấy tên còn lại cũng hất súng ra
sau vai xuống theo). Đồng bào, xếp hàng tư... Mang cả đồ đạc đi vào thảo
nguyên, bước!
Đi ngang chỗ Katya, hắn cúi xuống khẽ chạm
vào vai nàng.
- Này, cô nàng... Đừng buồn, chẳng ai làm
gì cô đâu... Cầm lấy cái gói rồi đi với tôi, không phải xếp hàng đâu.
Tay cầm gói quần áo, khăn kéo sụp xuống tận
mày. Katya đi trên cánh thảo nguyên bằng phẳng. Gã thanh niên có món tóc quăn
trước trán bước bên tay trái nàng, chốc chốc lại ngoái đầu nhìn đám người bị bắt
đang lặng lẽ và u sầu thất thễu bước đi. Hắn huýt sáo khe khẽ qua kẽ răng:
- Cô là ai, ở đâu đến thế? - Hắn hỏi Katya.
Nàng quay mặt đi, không đáp. Bây giờ nàng không thấy sợ, cũng không lo lắng gì,
chỉ một tâm trạng hoàn toàn dửng dưng. Nàng thấy mọi việc đều như đang diễn ra
trong một trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Gã thanh niên hỏi lại lần nữa:
- Thế ra cô không muốn hạ mình xuống nói
chuyện với một tên kẻ cướp phỏng. Rất đáng tiếc, cô tiểu thư ạ. Có điều là ở
đây phải bơn bớt cái lối kiêu ngạo của bà lớn đi một chút. Bây giờ chẳng phải
như trước đâu.
Bỗng hắn quay lại, bỏ khẩu súng trên vai xuống
cầm lăm lăm ở tay, cất tiếng giận dữ quát một bóng người mờ mờ đang bước khập
khiễng cách đám tù một quãng:
- Này, thằng khốn kiếp, hễ tụt lại sau là
tao bắn.
Bóng người hấp tấp nhập vào đám đông. Gã
thanh niên cười hả hê.
- Ngốc thật, trốn đi đâu được mà trốn?...
Có lẽ hắn muốn đi ngoài cũng nên. Cơ sự nó thế đấy cô ạ... Cô không muốn nói
chuyện, nhưng làm thinh lại đáng sợ hơn... Cô em đừng sợ, tôi không say đâu.
Tôi mà say thì cứ lầm lì không nói... Những lúc ấy thì liệu hồn... Ta hãy làm
quen với nhau đi, - hắn đưa hai ngón tay lên vành lưỡi trai, - tôi là Miska
Xôlômin, lính hồng quân đào ngũ... Đúng hơn; một tên cướp bẩm sinh, cần phải hiểu
như vậy. Một kẻ hung đồ gian ác. Vừa rồi cô không nhầm đâu...
- Bây giờ đi đâu thế này? - Katya hỏi.
- Về làng, về ban tham mưu trung đoàn. Người
ta sẽ kiểm tra lại, sẽ hỏi cung, cho một số về chầu trời, một số khác thì thả.
Cô là phụ nữ còn trẻ chẳng sợ gì đâu... Hơn nữa đã có tôi đây.
- Tôi đã thấy rõ rằng chính anh mới đáng sợ
hơn cả. - Katya nói, đoạn liếc nhanh sang nhìn hắn. Nàng không ngờ câu nói của
mình lại làm cho hắn phẫn uất đến thế. Hắn rướn người lên, mũi thở phì phò,
khuôn mặt dài dài nhăn nhúm lại, tái nhợt dưới ánh sao mờ mờ. “Đồ chó”, - hắn
thì thào. Hai người bước im lặng. Miska vừa đi vừa quấn điếu thuốc sâu kèn,
châm lửa hút.
- Cô có chối trời tôi cũng biết thừa cô là
hạng người gì rồi. Cô ở trong một gia đình sĩ quan.
- Đúng, - Katya nói.
- Dĩ nhiên chồng cô đang ở trong hàng ngũ bạch
vệ.
- Đúng... chồng tôi chết trận rồi.
- Tôi không dám chắc là không phải đạn của
tôi cho hắn ăn đất.
Hắn nhe răng ra cười. Katya đưa nhanh mắt
sang nhìn hắn, vấp ngã. Miska đỡ lấy khuỷu tay nàng. Nàng gỡ ra, lắc đầu. Hắn
nói tiếp:
- Tôi ở mặt trận Kavkaz về mà... Mới ở đây
được bốn tuần, cứ đánh nhau suốt với bọn cướp trắng. Khẩu súng này đã cho khá
nhiều đạn vào những thân hình quý tộc.
Katya lại lắc đầu. Hắn im lặng bước đi một
lát, rồi cười lớn.
- Chà, ở ga Umanxkaia chúng tôi bị một phen
đến là điêu đứng. Trung đoàn Varnavxki chúng tôi đã tan ra thành khói. Chính ủy
Xôkôlôvxki tử trận, trung đoàn trưởng Xapôjkôv chỉ thoát được với đúng một dúm
binh sĩ, đều bị thương nặng hết... Còn tôi thì luồn qua chiến tuyến Đức về với
thủ lĩnh Makhnô. Ở đây vui hơn. Không có ai đè đầu cưỡi cổ ai - quân đội nhân
dân mà. Chúng tôi là du kích cô ạ, chứ không phải là kẻ cướp đâu. Chúng tôi tự
bầu ra chỉ huy, và tự mình truất họ xuống: chỉ cần lấy súng lục bắn đoàng một
phát vào đầu... Chỉ có một người đứng đầu cả bọn: đó là thủ lĩnh Makhnô... Cô
tưởng chúng tôi cướp đoàn tàu thế rồi đem nướng vào quán rượu hết chắc? Không
đâu. Bao nhiêu của đem về đại bản doanh hết. Về đấy mới phân phối. Một phần cho
nhân dân, một phần cho quân đội. Các đoàn tàu chính là ban quân nhu của chúng
tôi. Còn chúng tôi, quân đội nhân dân, tức cũng là nhân dân, đang ở trong tình
trạng chiến tranh với Đức. Vấn đề đặt ra như thế đấy. Chúng tôi sẽ thịt hết bọn
địa chủ. Bọn cảnh vệ, bọn sĩ quan của thống lĩnh thì đừng lọt vào tay chúng tôi
là hơn: chúng tôi sẽ tiêu diệt chúng nó bằng dao, kiếm. Những đơn vị nhỏ của
quân Áo và quân Đức thì chúng tôi dồn về Êkatêrinoxlav. Loại kẻ cướp chúng tôi
là như thế đấy.
Trên thảo nguyên, những vì sao chi chít khắp
trời. Phía trước mặt, chân trời đã bắt đầu nhuốm một màu lục phơn phớt. Katya
càng đi càng hay vấp, và mỗi lần như vậy nàng lại cố nén một tiếng thở dài. Còn
Miska thì cứ điềm nhiên như không; hắn có thể khoác súng đi hàng ngàn dặm như
thế. Katya bây giờ chỉ có một nỗi bận tâm: làm sao đừng để cho hắn thấy nàng kiệt
sức, để cái gã ba hoa khoác lác ấy đừng quay ra thương hại nàng...
- Các anh tốt lắm nhỉ! - Nàng dừng lại sửa
cái khăn trùm để thở một chút, rồi lại bước giữa những bụi ngải đắng, những lỗ
hang chuột chũi.
- Ước gì các anh có con để cho họ giết con
các anh thử xem. Không được giết người, chỉ có thế thôi.
- Cái điệu hát ấy nghe nhiều rồi. Đó là một
điệu hát cổ lỗ của đàn bà, - Miska nói, không cần nghĩ lấy một phút. - Về chuyện
này, chính ủy của chúng tôi thường nói: “Hãy nhìn trên quan điểm giai cấp...”.
Anh giương súng lên: trước mặt anh không phải là một con người, mà là một hiện
tượng giai cấp. Hiểu chưa? Ở đây thương hại chẳng được cái tích sự gì, mà lại
là một cảm xúc thuần túy phản cách mạng nữa. Có một vấn đề khác, cô bạn ạ...
Giọng hắn bỗng khác đi một cách kỳ dị, nó
âm ấm, như thể hắn đang lắng nghe mình nói:
- Tôi không phải cứ thế này cầm khẩu súng
đi loanh quanh mãi khắp các mặt trận đâu. Họ thường nói: Miska là một thằng nát
rượu, một thằng nghiện ngập, hắn sẽ chết rấp dưới một cái rảnh nào đấy. Đúng,
nhưng không đúng hẳn... Tôi chưa có ý định chết ngay mà lại rất không muốn chết
ngay nữa là khác... Viên đạn sẽ giết chết tôi bây giờ chưa đúc xong đâu.
Hắn hất món tóc quăn trên trán lên:
- Con người bây giờ là cái gì: một cái áo
ca-pốt và một khẩu súng? Không, không phải thế... Như tôi đây, tôi muốn gì thì
có ma nó biết! Mà bản thân tôi cũng chẳng biết nốt... Tôi thử nghĩ xem: một xe
tiền chăng? Không phải. Cái con người ở trong tôi nó đau khổ lắm. Huống hồ thời
buổi lại thế này nữa: cách mạng, nội chiến. Tôi chịu rét, chịu khổ, chịu chảy
máu chân, chịu đau vì những vết thương - đều là một cách vô ý thức, vì giai cấp
mình chịu đựng... Hồi tháng ba đã có lần trong một phiên gác tôi phải nằm dưới
một lỗ thủng trên mặt băng đến nửa ngày dưới hỏa lực súng máy... Như thế tôi là
một anh hùng trước mặt đơn vị chứ gì? Nhưng trước mặt bản thân, khi một mình ngồi
tư vấn, thì tôi là cái gì? Tôi nốc rượu vào thật nhiều và trong một cơn giận
điên cuồng đối với bản thân, tôi rút con dao nhọn trong ủng ra...
Miska lại vươn vai hít thở khí lạnh ban
đêm. Gương mặt hắn rầu rĩ, trông gần như một gương mặt phụ nữ. Hắn thọc sâu hai
tay vào túi áo khoác rồi nói tiếp, không phải nói với Katya nữa, mà như thể nói
với một cái bóng nào đang bay trước mặt hắn:
- Tôi biết, tôi đã được nghe nói đến học thức...
Trí óc tôi nó man rợ lắm. Con cái tôi sẽ có học thức. Còn tôi bây giờ thì vẫn
chỉ là một hung đồ... Cái chết của tôi là ở chỗ ấy... Về những người trí thức,
người ta viết chuyện tiểu thuyết. Chao ôi, bao nhiêu là từ ngữ hay ho. Nhưng tại
sao lại không viết một cuốn tiểu thuyết về tôi? Các người tưởng chỉ có bọn trí
thức mới phát điên chắc? Đang ngủ tôi nghe một tiếng thét... Tôi tỉnh dậy, sẵn
sàng giết người một lần nữa...
Từ trong bóng tối có mấy người cưỡi ngựa
phi tới, từ xa đã quát: “Đứng lại, đứng lại...”. Miska kéo súng xuống cầm lăm
lăm: “Đứng lại cái mả mẹ mày! Người nhà cũng không nhận ra nữa à?...”. Hắn để
Katya đứng đấy, ra gặp bọn cưỡi ngựa, và hai bên bàn bạc gì với nhau hồi lâu.
Đám người bị bắt đứng nói chuyện thì thầm với
nhau, vẻ lo lắng. Katya ngồi xuống đất, mặt úp xuống hai đầu gối. Từ phương
đông, nơi ánh bình minh xanh biếc đã tỏ hơn, đưa lại một làn khí ẩm phảng phất
mùi phân ngựa khô đun bếp, cái mùi ấm cúng của một xóm quê.
Những ngôi sao của cái đêm vô tận đã bắt đầu
phai nhạt, tắt dần. Lại phải đứng dậy đi. Chẳng bao lâu đã nghe thấy tiếng chó
sủa, đã thấy lố nhố những đụn rơm, những cái cần múc nước giếng cao lêu đêu, những
mái nhà lúp xúp trong xóm. Một đàn ngỗng đang ngủ nổi bật lên trên bãi cỏ như
những nắm tuyết.. Ráng bình minh màu san hô soi bóng trên một mặt hồ. Miska lại
gần, cau mày:
- Đừng đi với người khác, tôi sẽ thu xếp
cho cô một chỗ riêng.
- Được, - Katya đáp. Nàng nghe những câu
nói của hắn như từ rất xa vẳng lại.
Đi đâu mà chẳng được, miễn là được nằm xuống,
ngủ thiếp đi...
Qua đôi mi ríu lại, Katya trông thấy những
bông hoa hướng dương to tướng và phía sau là hai cánh cửa chớp sơn màu xanh lá
cây có vẽ hoa hòe và chim chóc. Miska lấy móng tay gõ vào tấm cửa kính đầy bọt
hơi trên bức tường trắng của ngôi nhà, cánh cửa từ từ mở và một cái đầu bờm xờm
của một lão mu-gích thò ra. Bộ ria của lão vểnh ngược lên, cái miệng đầy những
răng là răng há hốc ra ngáp. “Thôi được, - lão nói - vào đi...”.
Katya bước lảo đảo vào ngồi nhà nhỏ. Mấy
con ruồi bị kinh động bay lên vù vù. Lão mu-gích đưa từ gian bên sang một chiếc
áo tu-lúp và một chiếc gối: “Cô ngủ đi” - rồi bỏ ra ngoài. Katya thấy mình nằm
trên một cái giường kê sau bức vách. Hình như Miska cúi xuống sửa cái gối dưới
đầu nàng. Nàng khoan khoái buông mình chìm hẳn vào hư vô...
... Tiếng bánh xe cứ quấy rầy giấc ngủ của
nàng. Nó cứ lăn ầm ầm ở bên ngoài. Hình như có rất nhiều xe ngựa kéo qua. Và
ánh nắng từ cửa kính những ngôi nhà rất cao phản chiếu lại hắt vào những xe cộ ấy
từ bên kia đường. Những mái nhà bằng đá xám hình khum khum. Pari. Những cỗ xe
ngựa phóng qua, trên xe là những người đàn bà ăn mặc sang trọng. Có ai cứ quát
tháo không ngớt, quay lại nhìn, chỉ trỏ... Mấy người đàn bà khua khua mấy chiếc
dù viền đăng ten... Xe ngựa phi qua mỗi lúc một nhiều. Trời ơi! Đây là một cuộc
săn đuổi!... Mà lại ở Pari, trên đại lộ! Họ đây rồi. Những cái bóng khổng lồ cưỡi
những con ngựa lông lá xù xì trong ánh bình minh màu lục. Không sao cựa quậy được,
không sao chạy trốn được! Tiếng vó ngựa ầm ĩ quá! Tiếng quát tháo dữ dội quá!
Ngợp quá!...
... Katya ngồi dậy. Ngoài cửa sổ, tiếng ngựa
hí lanh lảnh. Qua những cửa vách không treo rèm nàng trông thấy nhiều người vào
ra, mình đeo đầy vũ khí. Trong nhà tiếng người nói, tiếng ủng nện nhức cả óc.
Nhiều người chen chúc quanh bàn xem một cái gì để ở trên ấy. Họ văng ra những
câu rất tục. Trời đã sáng hẳn, qua những khung cửa sổ hẹp, mấy tia nắng xen vào
làn khói thuốc lá xanh xanh trong ngôi nhà.
Không ai buồn để ý đến Katya. Nàng sửa lại
áo và tóc, nhưng vẫn ngồi yên trên giường. Hình như vừa có những đội quân mới
vào làng. Qua tiếng nói ồn ào và lo lắng trong nhà có thể hiểu được rằng có một
việc gì nghiêm trọng đang được chuẩn bị. Một giọng gay gắt hơi ngắc ngứ, có một
âm hưởng lảnh lói như giọng đàn bà, quát lên hách dịch:
- Quỷ bắt cha nó đi! Gọi cái thằng mạt kiếp
ấy về đây!
Và họ thi nhau chõ mồm ra sân, quát về phía
có những cỗ xe giàn thắng ba ngựa, những con ngựa đóng yên cương, những tốp
lính, thủy thủ, nông dân vũ trang.
- Pêtritsenkô.... Pêtritsenkô đâu?... Chạy
đi gọi hắn về đây...
- Thì mày chạy đi có được không nào, hở con
lợn... Này, anh kia, gọi đại tá cho tôi một tí... Nhưng mà hắn ở đâu thế nhỉ? A
kia rồi, nằm ngủ trên cái xe kia kìa, say bí tỉ... Xối cho thằng quỷ ấy một xô
nước đi... Này, thằng kia, chạy ra giếng múc xô nước đi, - không đánh thức nổi
cái thằng đại tá này đâu... Ê, thôi đừng xối nước nữa, lấy hắc ín trát vào mồm
đi... Hắn tỉnh rồi, hắn tỉnh rồi... Báo với hắn là thủ lĩnh đang cáu lắm đấy...
Hắn đến kia rồi... đến kia rồi...
Một phút sau, người vạm vỡ đội mũ lông cao
tối qua bước vào nhà. Hình như hắn ngủ say đến nỗi trên gương mặt râu ria, đỏ bừng
của hắn khó lòng nhìn rõ được đôi mắt húp híp. Hắn vừa làu bàu vừa chen vào bàn
và ngồi xuống.
- Mày làm sao đấy hở thằng khốn kiếp, mày định
bán cả quân đội đấy à? Chúng nó mua được mày rồi! - giọng nói lanh lảnh, ngắc
nhứ ban nãy cất lên đay nghiến.
- Thì sao? Ừ thì tôi ngủ quên, chỉ có thế
chứ gì? - đại tá nói ồ ồ, giọng trầm và vang nghe như thể hắn đang ngồi trong
thùng ton-nô nói ra.
- Thì sao à, thì thế đấy chứ còn sao... Thì
thế đấy! - cái giọng lanh lảnh như bị sặc - Thì sao à? Thì mày đã ngủ quên để
cho Đức nó đến lúc nào không biết.
- Để cho Đức đến là thế nào? Chả để thằng
nào đến cả! - Các trạm gác của mày ở đâu? Chúng tao đi cả đêm chẳng gặp một tay
nào... Tại sao quân đội lại bị dồn vào bị?
- Làm gì mà thét lác ghê thế? Làm thế chó
nào biết được quân Đức ở đâu đến?... Thảo nguyên rộng như thế...
- Chỉ tại mày, đồ khốn nạn!
- Ơ kìa, ơ kìa...
- Tại mày hết!
- Đừng hòng động vào tao!
Trong căn nhà lập tức ắng lặng đi. Những
người đứng quanh bàn giãn ra. Có tiếng vật nhau huỳnh huỵch, tiếng thở hổn hển.
Một bàn tay cầm súng lục vung cao lên. Mấy bàn tay khác vội giữ lấy. Một tiếng
súng nổ, Katya bịt tai, nằm vật xuống gối. Vữa trên trần rơi lộp bộp. Và tiếng
người lại nhao nhao lên, lần này nghe rất vui vẻ. Đại tá Pêtritsenkô đứng dậy,
cái mũ lông cừu gần chạm tới trần, và khệnh khạng bước ra đường cùng với một lũ
anh chị.
Ngoài cửa sổ bắt đầu nhộn nhịp hẳn lên. Bọn
Makhnô lên yên ngựa, nhảy lên các xe tatsanka.
Roi quất đen đét, trục bánh xe kêu ken két, tiếng chửi rủa ầm ĩ. Căn nhà trống
hẳn đi, và bây giờ Katya mới hiểu tại sao nảy giờ nàng không trông thấy người
nói giọng lanh lảnh hách dịch. Đó là một người rất nhỏ bé. Hắn ngồi bên bàn,
lưng quay về phía Katya, hai khuỷu ta chống lên một tấm địa đồ.
Mái tóc dài, sợi thẳng, màu hạt dẻ buông xuống
đôi vai hẹp như vai thiếu niên mới lớn. Cái áo dạ đen thắt ngang dọc những nịt
da, ở thắt lưng đeo hai khẩu súng lục và một thanh gươm, hai chân đi đôi ủng bảnh
bao có cựa bắt chéo vào nhau ở dưới ghế. Cái đầu lắc lắc làm cho những món tóc
bóng nhẫy tuột xuống vai, hắn viết lia lịa, ngòi bút bắn mực ra tung tóe và cào
rách cả giấy. Từ ngoài sân, lão mu-gích ban nãy đã nhường giường cho Katya rón
rén bước vào.
Mặt lão đỏ ửng, vẻ xun xoe. Trên tóc lão
bám mấy cọng rơm. Lão vừa nhay nháy cặp mắt một cách ngốc nghếch vừa ngồi xuống
chiếc ghế dài, đối diện với người đang viết, đút hai bàn tay xuống dưới vế và lấy
bàn chân không bên này gãi bàn chân không bên kia.
- Lúc nào cũng lo lắng bận rộn, lúc nào
cũng thấy ông lo lắng bận rộn, Nextor Ivanôvits ạ... thế mà tôi cứ hy vọng là
ông sẽ ở lại ăn bữa chiều. Hôm qua nhà thịt con bê, cứ như thể tôi có linh tính
báo là ông sẽ ghé về...
- Không có thì giờ... Đừng quấy người ta...
- À vâng... (lão mu-gích lặng thinh, không
nháy mắt. Mắt lão trở nên thông minh, nằng nặng. Lão nhìn theo cây bút đang chạy
trên tờ giấy một lát). Nextor Ivanôvits ạ, thế ông có định ứng chiến trong làng
này nữa không?
- Còn xem sao đã...
- À phải, dĩ nhiên là như thế, việc quân cơ
mà... Số là tôi muốn liệu xem, nếu ứng chiến ở đây, về cái món gia súc...Lùa ra
khu trại có được không ạ?
Người tóc dài bỏ bút xuống, luồn bàn tay nhỏ
bé vào mái tóc rồi đọc lại mấy dòng chữ đã viết. Lão mu-gích thấy ngứa trong
chòm râu, ngứa dưới nách. Lão bắt đầu gãi sồn sột. Và như vừa sực nhớ ra, lão hỏi:
- Nextor Ivanôvits ạ, thế còn chỗ vải vóc
kia thì chúng tôi được sử dụng như thế nào đây ạ? Ông đã cấp dạ cho chúng tôi,
dạ tốt lắm. Dạ của quân nhu đấy, trông là biết ngay... Sáu xe cả thảy.
- Ít quá phỏng? Các anh chưa vừa ý à? Ít phỏng?
- Ơ kìa, sao ông lại nói thế, ít thế nào...
Cứ ngần ấy chúng tôi đã không biết lấy gì cảm ơn ông rồi... Ông cũng biết đấy,
làng chúng tôi đã gửi cho ông bốn mươi chiến sĩ... Cả con tôi cũng đi, hắn nói
là “con phải đổ máu vì sự nghiệp của nông dân bố ạ”. Nếu còn thiếu người, cánh
già chúng tôi cũng sẽ đi... Ông cứ việc chiến đấu, chúng tôi sẽ ủng hộ ông...
Còn như chỗ dạ kia, thì nếu có chuyện gì, - ấy, nói dại nhỡ quân Đức hay bọn cảnh
vệ nó đến thì, ông cũng biết chúng nó sẽ làm cỏ chúng tôi như thế nào. Ấy vậy
thì chúng tôi phải thế nào ạ: có thể biết chắc về trận sắp tới không ạ?
Lưng người có bộ tóc dài rướn thẳng ra. Hắn
bỏ bàn tay trên mái tóc xuống, nắm lấy gờ bàn. Có thể nghe rõ tiếng hắn thở phì
phì. Đầu hắn ngửa ra phía sau. Lão mu-gích bắt đầu thận trọng nhích nhích cái
đít dọc chiếc ghế dài lần về phía cửa, rút hai tay lót dưới vế ra và đi len lén
ra khỏi nhà.
Chiếc ghế tựa của người tóc dài lảo đảo. Hắn
lấy chân đá chiếc ghế đi. Katya giật mình khi trông thấy mặt con người nhỏ bé mặc
bán quân phục đen này. Trông hắn giống như một ông thầy tu cải trang. Dưới đôi
vành lông mày gồ cao lên, hai con mắt nâu nhạt, điên dại, cứng đờ nhìn trừng trừng
vào Katya. Mặt hắn hơi rỗ, râu cạo rất nhẵn, nước da phơn phớt vàng, trông như
mặt đàn bà, và trên gương mặt ấy có một cái gì như thể chưa trưởng thành mà lại
hung hãn, như mặt một thiếu niên mới lớn. Chỉ trừ đôi mắt già dặn và thông
minh.
Katya hẳn còn giật mình hơn nữa nếu nàng biết
rằng người đứng trước mặt nàng chính là thủ lĩnh Makhnô. Hắn nhìn kỹ người thiếu
phụ ngồi trên giường, chân đi đôi giày phủ bụi, mình mặc tấm áo lụa nhàu hãy
còn trang nhã, đầu trùm chiếc khăn màu thẫm thắt theo kiểu nông dân, và hình
như không sao đoán ra được nàng là hạng người gì mà lại lạc vào căn nhà này.
Môi trên của hắn nhếch một bên mép lên thành một nụ cười để lộ mấy cái răng
thưa. Hắn hỏi xẵng:
- Của ai?
Katya không hiểu ra, chỉ lắc đầu. Nụ cười vụt
tắt trên môi hắn, và gương mặt hắn biến sắc đi, đến nỗi môi Katya run lên.
- Mày là ai? Gái điếm phỏng? Nếu mày có tim
la thì tao sẽ bắn ngay! Sao? Mày có biết nói tiếng Nga không thế hả? Ốm à? Khỏe
à?
- Tôi là một tù nhân - Katya nói rất khẽ.
- Mày biết làm gì? Có biết trau móng tay
không? Ta sẽ cấp đồ dùng cho.
- Được, - nàng nói khẽ hơn nữa.
- Nhưng không được gieo rắc trụy lạc trong
quân đội đấy... Hiểu chưa? Cứ ở lại đây. Đến tối tao đi đánh nhau về, mày sẽ
trau móng tay cho tao.
* * *
Trong dân gian có rất nhiều chuyện lưu truyền
về thủ lĩnh Makhnô. Người ta kể lại rằng hồi bị đày khổ sai ở ngục Akatui, hắn
đã nhiều lần tìm cách vượt ngục và cuối cùng đã trốn được, nhưng lại bị quân
lính phát hiện trong một nhà chứa củi, phải dùng rìu đánh nhau với họ. Hắn bị
báng súng nện gãy hoặc giập hết cả xương, rồi bị xích thường xuyên trong ngục;
ba năm ròng hắn mang xích như vậy, cứ lặng thinh như con chồn mòng, suốt ngày
đêm tìm cách tháo đôi khóa tay bằng sắt, nhưng không sao tháo được. Ở chỗ giam
tù khổ sai hắn kết bạn với Asinov-Marin, một người theo chủ nghĩa vô chính phủ,
và trở thành học trò của người này.
Nextor Makhnô là con một người thợ mộc,
sinh trưởng ở vùng Êkatêrinôxlav, trong làng Gulai-Pôlê. Hắn bị đánh đập từ hồi
còn nhỏ, khi hắn đi ở cho một cửa hiệu tạp hóa, và cũng chính từ hồi ấy hắn có
cái biệt hiệu chồn mòng, vì cái tính độc ác và đôi mắt màu nâu nhạt của hắn. Một
hôm sau khi bị đòn, hắn giội nước sôi vào người lão chạy hàng chính của cửa hiệu.
Nextor bị đuổi. Hắn liền tụ tập một bọn học trò, phá phách các vườn rau, các vườn
cây ăn quả, giở trò du côn, sống đầu đường xó chợ cho đến khi bố hắn cho hắn
vào làm ở một nhà máy in. Người ta nói rằng ở đây hắn có gặp Vôlin, một người
theo chủ nghĩa vô chính phủ, mười tám năm sau sẽ trở thành tham mưu trưởng và
là đầu não của tất cả cái sự nghiệp của Makhnô. Người ta lại nói rằng Vôlin có
cảm tình với thằng bé đến nỗi đã ra công dạy cho nó học đọc học viết và truyền
chủ nghĩa vô chính phủ cho nó, rồi cho nó vào trường học, và Makhnô đã trở
thành một giáo viên. Nhưng điều đó không đúng sự thật. Makhnô không hề làm giáo
viên bao giờ cả, và hình như mãi về sau hắn mới biết Vôlin, còn chủ nghĩa vô
chính phủ thì hình như hắn được biết qua Arsinôv hồi ở nhà tù khổ sai.
Từ năm 1903 Makhnô lại bắt đầu giở quẻ ở
Gulai-Pôlê, nhưng đối tượng không còn là các vườn tược nữa mà là các trang viên
của địa chủ và các kho hàng của bọn lái buôn: khi thì hắn bắt trộm ngựa, khi
thì hắn vét sạch một hầm chứa đồ, khi thì hắn viết thư nặc danh cho một lão chủ
hiệu buôn, bắt phải để tiền dưới một hòn đá để hắn đến lấy. Giữa cảnh sát với hắn
lúc bấy giờ có một tình bằng hữu kỳ quặc, sặc mùi vôđka.
Người ta bắt đầu sợ Makhnô thực sự, nhưng
nông dân vẫn dung túng hắn, vì càng gần đến cách mạng 1905 hắn càng quấy rối bọn
địa chủ một cách táo tợn hơn. Rồi đến khi các dinh thự của địa chủ bắt đầu bốc
cháy, khi nông dân đã ngang nhiên đến cày cho mình trên đất địa chủ, Makhnô lại
chuyển sang hoạt động ở các thành thị trên quy mô lớn. Đầu năm 1906 hắn dẫn đầu
một tốp anh chị đánh vào kho bạc ở Berlyanxk, bắn chết ba người công chức, chiếm
lấy kết bạc, nhưng sau đó hắn bị một đồng lõa tố giác và bị đày đi Akaitui.
Mười hai năm sau, được cuộc cách mạng Tháng
Hai phóng thích, hắn lại xuất hiện ở Gulai-Pôlê, nơi mà nông dân, không nghe
theo những mệnh lệnh của Chính phủ lâm thời, đã đuổi các trang chủ đi và đem ruộng
đất chia cho nhau. Makhnô nhắc nhở lại những công lao của mình ngày trước và được
bầu làm phó chủ tịch hội đồng tự quản hàng tổng. Hắn lập tức hướng hẳn theo đường
lối xây dựng “chế độ nông dân tự do”, trong phiên họp của ban quản trị địa
phương hắn đã gọi các ủy viên hội đồng tự quản là những tên tư sản và những tên
ca-đê; nổi khùng lên trong khi tranh cãi, hắn bắn chết ngay trong cuộc họp một ủy
viên quản trị và tự đề bạt làm chủ tịch và chính ủy quận.
Chính phủ lâm thời không làm gì được hắn hết.
Một năm sau quân Đức đến, Makhnô phải bỏ chạy. Hắn đi lang thang khắp nước Nga
một thời gian, rồi đến mùa hè năm 1918 hắn đến Moxkva, lúc bấy giờ đang đầy rẫy
những tên vô chính phủ... Ở đây có cả ông già Arsinôv đang buồn rầu ngồi chiêm
nghiệm những biến cố của cuộc cách mạng mà do một sự trớ trêu của số phận rất
khó hiểu đối với ông ta đã được đặt dưới sự lãnh đạo của bolsêvik, có cả nhà lý
luận và rường cột vững vàng của chế độ vô chính phủ - “mẹ của trật tự” - là
Vôlin, con người từ khi cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ chải tóc và chải râu, có cả
Barôn, con người hám danh và hay sốt ruột, có cả Arten, có cả Têper, cả Rakôv,
cả Kraxnôkutxki, cả Glagzôn, cả Trintxiner, cả Tsernyak, và nhiều vĩ nhân khác
không tài nào đi theo cách mạng được. Họ ngồi ở Moxkva không có lấy một xu dính
túi, hàng ngày mở hội nghị với một chương trình nghị sự duy nhất: “Hệ thống tổ
chức và các vấn đề tài chính”... Về sau trong số này có những người trở thành
lãnh tụ trong đảng vô chính phủ của Makhnô, một số khác tham gia vào vụ nổ mìn
mưu sát Ủy ban bolsêvik thành Moxkva trong ngõ Lêôntyev.
Chắc chắn là sự xuất hiện của Makhnô đã gây
nên một ấn tượng mạnh mẽ trong đám người theo chủ nghĩa vô chính phủ đang ngồi
buồn thiu trong các hiệu cà-phê ở Moxkva. Makhnô là một con người hành động mà
là một con người hành động quyết liệt. Họ bèn nghĩ cách cử Makhnô về Kiev để bắn
chết thống lĩnh Xkôrôpađxki và các tướng tá của hắn.
Cùng với một tên vô chính phủ khác đi theo
trợ thủ, hắn vượt biên giới Ukrain sau khi đánh lừa được tinh thần cảnh giác của
viên chính ủy Xaienkô khét tiếng đang kiểm soát các đường xe lửa ở đấy. Hắn cải
trang làm một sĩ quan, nhưng rồi nghĩ thế nào lại không đi Kiev nữa, làn gió
phóng khoáng của thảo nguyên đã lọt vào mũi hắn, và hắn thấy hoạt động bí mật
chẳng hợp khẩu vị mình chút nào. Thế là hắn đi thẳng về Gulai-Pôlê.
Về đến cố hương, hắn chiêu nạp năm gã thanh
niên đáng tin cậy. Cả bọn cầm rìu, dao găm và súng cưa nòng phục trong cái khe
gần dinh thự lão trang chủ Reznikôv, đang đêm lẻn vào nhà và giết chết một cách
khá êm lặng lão trang chủ cùng với ba người em trai của lão làm ở sở cảnh sát của
chính quyền Kiev, rồi phóng hỏa đốt nhà. Trong vụ này hắn thu được bảy khẩu
súng trường, một khẩu súng lục, mấy con ngựa, mấy bộ yên cương và một số quân
phục cảnh binh.
Bây giờ hắn không để mất thì giờ nữa. Được
vũ trang đầy đủ và có ngựa cưỡi, hắn đưa cả tốp năm tên đồng lõa đi đốt phá các
trang trại. Đội của hắn đông dần lên. Với một niềm hăng say điên cuồng, hắn
xông xáo khắp huyện, quét sạch bọn địa chủ. Cuối cùng hắn quyết định làm một việc
về sau đã làm cho danh tiếng hắn lừng lẫy khắp vùng.
Bấy giờ là vào tiết lễ Ba ngôi. Một lãnh
chúa vùng thảo nguyên là trang trại chủ Mirgôrôđxki làm lễ cưới cho con gái lấy
một đại tá quân đội thống lĩnh. Đến dự lễ cưới có một số trang chủ trong vùng
lân cận, không sợ cái hiểm tượng phải đi xe ngựa qua thảo nguyên giữa cái thời buổi
tao loạn này. Có cả những tân khách từ tỉnh lỵ và từ Kiev về.
Dinh thự của họ Mirgôrôđxki được một đội cảnh
vệ khá mạnh canh phòng cẩn mật. Trên gác xép tòa nhà có đặt một khẩu liên
thanh. Chú rể đến đám cưới với các bạn đồng ngũ toàn là những gã thanh niên cao
lớn mặc quần xanh ống rộng may theo kiểu cổ truyền, đũng quần thụng xuống đến
sát đất, bên trên là những bộ áo bằng nỉ đỏ, đầu đội mũ lông Axtrakhan có tua vàng
buông xuống đến sát thắt lưng. Ai nấy đều đeo bên sườn một thanh gươm cong, khi
đi thì chạm lách cách vào đôi ủng da dê mũi uốn cong lên.
Cô dâu mới ở Anh về được ít lâu (cô ta đi học
trong một nhà trường có ký túc) và đã nói được tiếng Ukrain khá sõi. Cô mặc áo
lụa rộng ống thêu, đeo vòng cườm, thắt dải lụa và đi ủng da đỏ. Ông bố đã đặt
may riêng ở Kiev một chiếc áo jupan bằng
nhung lót da lông, đúng hệt như trong bức chân dung nổi tiếng của thống lĩnh
Mazepa. Họ muốn cử hành đám cưới theo kiểu cổ truyền, và tuy món mật ong để một
trăm năm là món khó kiếm ở trên đất Ukrain đang bốc lửa này, mọi thứ cũng đã được
chuẩn bị thừa thãi cho một bữa tiệc linh đình.
Sau buổi xem lễ họ dẫn cô dâu đi qua khu vườn
lớn của trang viên đến một ngôi nhà thờ đá mới xây. Mấy cô phù dâu, đang vừa đi
bên cạnh cô dâu vừa hát, đều đẹp lộng lẫy, còn cô dâu thì hệt như từ trong những
bài dân ca cô-dắc bước ra. Mấy chàng phù rể đứng đợi bên hàng rào nhà thờ thốt
lên: “Cha! Rõ ràng là thời xưa êm đẹp đã trở về với xứ Ukrain rồi!”. Sau buổi lễ
thành hôn, trên sân nhà thờ người ta rắc mấy nắm lúa kiều mạch lên đầu cô dâu
chú rể. Ông bố cô dâu mặc chiếc áo jupan
hệt như Mazepa cầu phúc lành cho đôi trẻ bằng một bức tượng thánh cổ đưa từ
Méjigoriê về. Hai họ uống sâm banh và tung hô: “Hai jivê!” rồi xán vỡ cốc đi. Hai vợ chồng mới cưới lên xe hơi ra
ga, còn tân khách thì ở lại dự tiệc.
Đêm đã xuống trên khoảng sân rộng của tòa
dinh thự, nơi có một đàn nô tỳ và cảnh vệ đang nhảy những điệu dân vũ rắc rối.
Tất cả các cửa sổ trên tòa nhà đều sáng trưng ánh đèn hoan hỉ. Dàn nhạc Do Thái
đưa từ Alekxanđrôvka về ra sức cưa, gẩy, thổi, gõ. Ông bố cô dâu đã nhảy xong một
điệu hopak điên cuồng và đang uống nước
xô-đa. Các cô các bà đã bắt đầu ra đứng cạnh các cửa sổ mở rộng để hóng mát,
còn các chàng phù rể - đều là những sĩ quan cô-dắc đã trở về đứng quanh các bàn
dọn thức nhắm, gươm vỗ lách cách, lớn tiếng hẹn nhau là sẽ đi dẹp hết bọn
Môxkali [dân Moskva - tiếng địa phương]
đáng nguyền rủa và kéo quân đến tận Moxkva.
Lúc bấy giờ trong đám khách dự tiệc xuất hiện
một viên sĩ quan thấp bé mặc quân phục cảnh binh của chính quyền thống lĩnh. Cảnh
binh ghé vào dinh thự trong một ngày như thế này cũng chẳng có gì là lạ. Viên
sĩ quan đi vào phòng một cách nhũn nhặn, im lặng nghiêng mình chào, im lặng đưa
mắt nhìn lên giàn nhạc. Chỉ có đôi người nhận thấy bộ quân phục của hắn mặc
hình như hơi rộng, với lại có một phu nhân lo lắng hỏi cô bạn đứng cạnh: “Ai thế?
Trông sợ quá!...”. Tuy viên sĩ quan lạ mặt lúc nào cũng cố nhìn xuống đất, đôi
mắt của hắn vẫn sáng quắc lên như mắt quỷ... Nhưng khi người ta say thì chuyện
huyễn hoặc gì mà chẳng tưởng tượng ra được?...
Sau những điệu mazurka và những điệu valse,
giàn nhạc bắt đầu chơi một điệu tango.
Hai ba người mặc áo jupan đỏ hãy còn
đứng vững được liền mời các bà các cô ra nhảy. Có ai ra lệnh tắt mấy chùm đèn
treo trên trần đi. Trong ánh sáng dìu dịu, trong những âm thanh lả lướt tưởng
như từ đáy sâu của những năm tháng dĩ vãng vẳng về, những đôi vũ khách ôm thân
nhau nghiêng ngả, bước rã rời như kiệt sức, đê mê trong điệu nhạc thể hiện những
khoái cảm của giờ hấp hối.
Và ngay lúc ấy súng bắt đầu nổ vang. Đám tân
khách sững sờ ra. Makhnô trong bộ quân phục sĩ quan cảnh binh đứng sau cái bàn
bày thức nhắm bên cạnh cánh cửa hé mở, dùng hai khẩu súng lục bắn vào những tấm
áo jupan đỏ. Một viên thượng tá cao lớn,
mặt đỏ gay, vốn là bạn thân của chú rể, giang rộng hai cánh tay rồi nặng nề ngã
sấp ra bàn, lôi nó đổ sập xuống. Đám phụ nữ hét lên inh ỏi. Một sĩ quan khác tuốt
gươm ra, nhưng gươm chưa ra khỏi vỏ thì hắn đã ngã chúi xuống mặt úp lên tấm thảm
trải sàn... ba người nữa cũng vung gươm xông vào Makhnô. Hai người lập tức ngã
xuống, người thứ ba nhảy ra cửa sổ, miệng kêu oai oái. Ở các khung cửa đối diện
xuất hiện thêm hai người nữa cũng mặc quân phục cảnh binh, vẻ mặt hung ác, tóc
để chỏm dài, nổ súng vào các tân khách. Đám phụ nữ chạy cuống cuồng, nhiều người
ngã lăn ra. Ông bố của cô dâu không sao rời ghế bành đứng dậy được, Makhnô liền
đến cạnh bắn một viên đạn vào mồm ông ta. Súng nổ vang dội cả ngoài sân, cả
trong khu vườn lớn, nơi các vị khách vừa nhảy ra cửa sổ đang chạy tán loạn. Một
số ít người đã nấp được vào các bụi cây, vào đám lau sậy mọc quanh hồ. Đám gia
nô và cảnh binh đều bị giết sạch. Bọn Makhnô thắng ngựa vào các xe của nhà chủ
và suốt đêm chất của cải và vũ khí lên xe cho đến tảng sáng. Mặt trời mọc trên
tòa dinh thự đang bốc cháy ngùn ngụt.
Ở Gulia-Pôlê vụ cướp táo bạo này đã gây được
một ấn tượng rất mạnh. Vào thời kỳ ấy nông dân đã oán giận đến cùng cực ách thống
trị của quân Đức, của bọn địa chủ mới, của bọn cảnh binh thuộc chính quyền thống
lĩnh vốn động một tí gì cũng thẳng tay đàn áp họ. Vì không dám tin nông dân, bọn
địa chủ không chịu phát canh cho họ và không những đòi họ phải nộp thu hoạch
mùa hè năm nay, mà còn bắt họ phải đền lại bằng thóc những khoản thất thu năm
ngoái nữa. Nông dân chỉ còn cách kêu gào chửi rủa số phận mình nữa mà thôi. Lúc
bấy giờ Makhnô đã xuất hiện và tuyên bố mở cuộc khủng bố. Trong các làng mạc
thôn ổ có tin đồn là dân vùng này đã tìm được một thủ lĩnh.
Nông dân vững dạ trở lại. Các dinh thự thi
nhau bốc cháy. Những đống thóc trên thảo nguyên cũng lần lượt bị thiêu ra tro.
Những đội du kích tấn công một cách xấc xược những chuyến tầu thủy và sà lan chở
lúa mì về Đức. Những cuộc dấy động lan sang hữu ngạn sông Đniepr. Các đạo quân
Đức và Áo được lệnh trấn áp ngay những vụ phiến loạn. Hàng trăm đội tiễu phỉ được
điều đi khắp xứ sở Ukrain. Lúc bấy giờ Makhnô, với một đội quân ít ỏi nhưng vũ
trang đầy đủ, liền chủ động tấn công trước vào quân Áo.
Quân đội của thủ lĩnh Makhnô lúc bấy giờ
chưa lấy gì làm lớn. Nòng cốt thường xuyên không bao giờ tẩu tán - của nó gồm
hai ba trăm tay anh chị hết sức liều lĩnh. Ở đây có cả những lính thủy Hắc hải,
cả những thủ lĩnh nhỏ đã đem quân đến sáp nhập với Makhnô, cả những người vô
gia cư, đi đánh nhau chỉ vì thích mạo hiểm, thích sống một cuộc đời thú vị.
Cũng vào thời kỳ ấy quân đội Makhnô bắt đầu
thu nạp cả những tên vô chính phủ hoạt động lẻ loi, gọi là những “chiến sĩ” đã
được nghe đồn về những toán cướp mới xuất hiện cưỡi ngựa rong ruổi tự do trên
thảo nguyên. Đi bộ đến đại bản doanh của Makhnô, đói và rách, túi áo bên này đựng
một quả bom, còn túi kia một cuốn Krôpôtkin, các “chiến sĩ” nói với thủ lĩnh
Makhnô:
- Chúng tôi nghe nói đâu anh là một cá nhân
thiên tài. Hừm! Để xem thử.
- Cứ xem đi, - Makhnô đáp.
- Được thôi, nếu anh quả đúng là người như
thế, anh sẽ có tên trong lịch sử thế giới. Biết đâu anh lại chẳng trở thành một
Krôpôtkin thứ hai?
- Có thể, - Makhnô đáp.
Bọn vô chính phủ ấy bắt đầu đi theo Makhnô
trong đoàn xe tải, uống rượu với hắn, nói với hắn những câu cách ngôn kỳ quái
mà hắn vốn rất thích nghe, về lịch sử và danh vọng. Và dần dần trong bọn họ có
mấy người bắt đầu được đưa lên những cương vị phụ trách và chỉ huy. Và chưa chi
mỗi người đã có một chiếc xe tatsanka
chở chiến lợi phẩm đi theo: một thùng cô-nhắc, một cái ton-nô con đựng vàng, một
cái bị đựng áo quần. Trong số những người này có Tsalđôn, Xkôrôpiônôv,
Yugôlôbôv, Tsêređnyak, Engaretx, “Frantxuz” và nhiều người khác nữa. Ở những trạm
nghỉ lâu họ đi kiếm từng bầy con gái về làm thành cả một xóm nhà thổ, và tổ chức
những “đêm Athen”, nói quả quyết với thủ lĩnh rằng một cách xử lý như vậy đối với
vấn đề tình dục nam nữ có tác dụng giải phóng sinh hoạt ra khỏi những sự gò bó
cổ hủ, còn như bệnh giang mai thì chỉ là chuyện vặt vãnh, nhảm nhì, một khi tự
do tuyệt đối đã được thực hiện. Makhnô gọi bọn vô chính phủ này là một lũ bò
sát bẩn thỉu, đã mấy lần dọa đem bắn họ, nhưng rốt cục vẫn dung thứ cho họ vì
đó là những con người sách vở, hiểu rõ thế nào là danh vọng thế giới.
Quân đội không có đại bản doanh cố định.
Tùy nhu cầu từng thời kỳ, nó được di chuyển từ đầu đến cuối tỉnh trên lưng ngựa
và trên xe tatsanka. Mỗi khi dự tính một vụ cướp phá hay chuẩn bị tác chiến,
Makhnô phái người vào làng mạc để báo tin và thân hành đến những nơi tụ tập
đông người đọc một bài diễn văn bốc lửa, sau đó thuộc hạ của hắn đứng trên xe
ném vào đám đông những súc dạ và vải hoa. Trong vòng một ngày, xung quanh cái
nòng cốt của quân đội hắn đã có thêm một số du kích nông dân đông đảo. Đánh
nhau xong, đám quân tình nguyện ấy lại giải tán ai về làng nấy một cách cũng
nhanh chóng như thế, cất giấu vũ khí đi rồi như thể biến thành người khác: họ
ra đứng ở cổng gãi lưng gãi gáy một cách lười biếng khi pháo binh Đức rầm rộ
kéo qua làng để đi tìm địch quân. Những đội quân Đức và Áo đi truy kích Makhnô
bao giờ cũng đấm vào không khí, và bao giờ con quỷ có phép tàng hình cũng bất
thần xuất hiện ở hậu phương của họ. Giống như những toán cướp du mục ngày xưa,
quân du kích của Makhnô không bao giờ chịu ứng chiến một trận quyết định, họ vừa
reo hò, huýt sáo, vừa bắn vừa chạy tán loạn trên lưng ngựa và trên xe tatsanka, rồi lại tập hợp ở một nơi mà
không ai ngờ họ có thể đến, và tấn công bất thình lình.
Trong làng vắng hẳn đi. Makhnô cũng đã ngồi
lên chiếc xe giàn lợp tấm thảm có ba ngựa kéo, đi theo quân đội. Lúc bấy giờ đã
vào giữa trưa. Một cô con gái to béo, mắt còn sưng húp vì khóc nhiều, váy xắn
cao lên, đang quét nhà bằng cái chổi ngải đắng. Lão chủ nhà ngồi bên khung cửa
sổ nhỏ mở rộng nhìn ra mấy ngọn đồi, nơi bộ binh và kỵ binh vừa kéo đi và bây
giờ chỉ thấy có hai cái chòi xay gió đang quay mấy cánh quạt một cách thanh
bình. Chốc chốc lão lại thở dài: hình như cuộc nói chuyện ban nãy với Makhnô
không làm cho lão yên tâm.
Katya ra giếng rửa ráy và sửa sang lại một
chút. Chủ nhà gọi nàng ra ăn trưa. Nàng ăn hai chiếc bánh nướng, uống một ít sữa.
Và bây giờ, tuyệt nhiên không còn biết mình phải làm gì và chờ đợi cái gì nữa,
nàng ra ngồi ở khung cửa sổ bên kia. Trời rất nóng nực. Ngoài đường có rất nhiều
gà đi lang thang giữa những bãi phân ngựa hãy còn ướt. Trong các mảnh vườn, những
cây quỳ đung đưa mấy đóa hoa vàng óng, mấy cây anh đào nặng trĩu những quả mọng.
Một con diều hâu lượn vòng trên xóm làng. Lão chủ nhà vẫn ngồi rên ư ử và thở
dài.
- Mày cứ tốc váy lên đến tận đầu ấy, con mặt
dày, - lão nói với cô con gái mắt húp híp - Nó sờ mó như thế thì đã sao chưa...
Mày chẳng phải là đứa đầu tiên.
Cô con gái bật khóc lên, vứt cái chổi và
buông váy xuống che đôi bắp chân mập mạp và trắng trẻo. Lão chủ nhà nhìn cái chổi
một lát.
- Thằng nào thế? Cháu cứ nói đi, đừng sợ,
Alekxanđra ạ.
- Cháu có biết tên hắn là gì đâu, cái thằng
chết tiệt ấy.... Không phải người ở đây... Hắn đeo kính trắng.
- Thấy chưa, - lão chủ nhà nói nhanh, như
thể mừng rỡ. - Đeo kính à... Thế thì một thằng trong cái bọn ấy đấy, bọn vô
chính phủ ấy mà - lão quay về phía Katya. - Con Alekxanđra cháu tôi đấy... Tôi
sai nó ra ngoài kho lấy rơm... Cô có biết nhà kho ở đâu không? Sáng ra nó về,
quần áo rách bươm. Đến tởm!...
- Hắn say. Hắn giơ súng ra dọa. Cháu còn biết
làm thế nào? nào? - Alekxanđra khóc khe khẽ.
Lão chủ nhà giẫm mạnh bàn chân không xuống
nền nhà quát:
- Mày xéo đi. Ở đây cũng chẳng biết làm thế
nào mà sống sót được.
Cô con gái chạy ra ngoài. Lão chủ nhà lại
nhìn ra mấy ngọn đồi, rên ư ử.
- Còn biết làm thế nào? Nuôi cái bọn kẻ cướp
ấy, chúng tôi sướng lắm đấy hẳn? Cứ nói cái chuyện ngựa chẳng hạn: chúng nó bắt
đi kéo xe tatsanka cho chúng. Mà
chúng nó phi đến tám mươi dặm liền ấy chứ... Ngựa có phải là máy đâu, phải
thương yêu vỗ về nó... Ngựa của chúng tôi bây giờ thành ra què quặt, ốm dở hết
rồi... Chao ôi, chiến tranh!
Cái thông phong của cây đèn treo trên bàn
rung lên, kính cửa sổ khẽ đập lách tách. Làn không khí nồng nực như thể cất tiếng
thở dài. Một tiếng sấm xa xa vang rền trên mặt đất. Lão chủ nhà cuống quít chồm
nửa người ra ngoài cửa sổ và nhìn hồi lâu lên mấy quả đồi, nơi có một người cưỡi
ngựa đứng một mình cạnh hai cái chòi xay gió. Rồi lão quay vào bức tranh thánh
nhỏ đặt ở góc nhà làm dấu chữ thập, ngón tay chỉ rất đúng từng chỗ “cha” “con”
và “thánh thần”.
- Pháo Đức đang dội vào cánh ta đấy, - lão
nói rồi lại luồn tay vào trong chiếc áo phai bạc gãi sồn sột. - Chao ôi, thời với
buổi! - Lão cầm cái chổi lên, ném vào góc nhà và đi ra ngoài ánh nắng chang
chang sực mùi phân ngựa.
Lúc bấy giờ ở ngoài đường có một đám người
kéo qua, dáng lo âu sợ sệt. Đó là những hành khách đi tàu hôm qua. Người đi trước
là ông giáo vật lý Ôbrutsev; ông ta vừa đi vừa nhìn qua vành trên cái kính cặp
mũi; ông vẫn mặc áo đi mưa bằng vải dầu, đi giày bọc và trông ra dáng một người
cầm đầu: đám hành khách tín nhiệm ông ta.
- Ra đây với chúng tôi đi! - ông ta quát gọi
Katya. Nàng lại gần. Đám hành khách người nào cũng phờ phạc, mặt gầy hẳn đi.
Hai người đàn bà có tuổi mặt húp híp vì khóc. Gã đầu cơ cải trang chẳng thấy
đâu nữa.
- Trong nhóm chúng ta có một người mất
tang: chắc là bị bắn rồi, - Ôbrutsev nói, giọng phấn chấn. - Tất cả chúng ta sẽ
chung số phận với người ấy, các vị ạ, nếu ta không có đủ nghị lực cần thiết. Ta
phải giải quyết ngay lập tức vấn đề sau đây: nên đợi trận đánh ngã ngũ, hay nên
thừa lúc không có ai canh giữ ta cả (hay hình như thế) cố gắng đi bộ ra đến đường
tàu... Ai phát biểu xin giới hạn trong một phút đồng hồ.
Bây giờ mọi người liền nhao nhao lên một
lúc. Người thì nêu lên rằng nếu bọn cướp đuổi kịp họ giữa đồng không mông quạnh,
chắc chắn là chúng sẽ giết sạch cả lũ. Người thì nói rằng bỏ đi trốn may ra còn
có cơ thoát nạn. Người thì tin chắc rằng quân Đức sẽ thắng, và bàn nên đợi cho
xong trận đánh đã. Đến khi sau dãy đồi lại có tiếng đại bác vang rền, mọi người
im bặt và nhăn nhó nhìn về phía ấy. mặc dầu chẳng trông thấy gì ngoài hai cái
chòi xay gió đang lười biếng quay mấy cánh quạt. Ôbrutsev đọc một bài diễn văn
ngắn gọn và minh xác, trong đó ông ta phân tích tất cả các mối mâu thuẫn của
tình thế. Hai bà có tuổi nhìn hau háu vào mồm ông ta như nhìn một vị truyền
giáo. Chẳng quyết định được gì, đám hành khách vẫn đứng tần ngần giữa lũ gà và
chim sẻ trên con đường làng vắng tanh, nơi mà chẳng có lấy một linh hồn nào nẩy
ra ý thương xót lấy những đồng bào người Nga của mình... Họ có thiết gì! Đằng
kia một mụ đàn bà tóc xõa dòm ra cửa sổ, ngáp dài rồi quay đi. Từ sau một góc
nhà, một gã nông dân mặc áo không thắt lưng bước ra, vẻ cáu kỉnh. Hắn không
thèm nhìn đám hành khách lấy một giây, cúi xuống nhặt một cục đất sét, lấy hết
hơi sức ném thật mạnh vào con lợn của một nhà khác. Và mấy con diều hâu đang lượn
vòng trên trời cũng nhìn xuống một cách dửng dưng như vậy cái đám người thị
thành bị cướp sạch, chẳng có nghĩa lý gì đối với ai ở đây cả.
Từ phía sau quả đồi bốc lên một đám bụi.
Người cưỡi ngựa đứng bên hai chòi xay gió thúc ngựa phi xuống và khuất mất ở
bên kia đồi. Trong đám hành khách có mấy người bàn nên quay lại trụ sở ban quản
trị hàng tổng, nơi họ ngủ lại đêm qua. Hai bà có tuổi bỏ đi trước tiên. Đến khi
từ sườn đồi bên kia nhô lên mấy cỗ tam mã phi hết tốc lực, những người còn lại
cũng đi nốt. Trên đường làng chỉ còn lại một mình Katya và ông giáo vật lý đang
khoanh tay dưới tấm áo mưa, dáng rất hiên ngang.
Có cả thảy bốn năm cỗ xe phi lại, vòng qua
cái hồ rồi xuất hiện ở đầu làng. Đó là xe chở thương binh về. Cỗ xe đi trước dừng
lại bên cửa sổ một ngôi nhà. Người đánh xe, một người du kích cao lớn mặc áo da
cừu phanh ngực, quát lớn:
- Nađejđa, gã của chị trở về rồi đây này.
Từ trong nhà một người đàn bà vừa chạy ra vừa
giật bỏ cái tập đề, cất cái giọng ồ ồ kêu lên mấy tiếng rồi gieo mình lên chiếc
xe tatsanka. Từ trên chiếc xe bước xuống
một thanh niên mặt xanh như tàu lá, giơ tay quàng cổ người đàn bà, đầu gục xuống,
người cúi lom khom, lê vào nhà. Cỗ xe đến trước một nhà khác. Từ trong nhà nhảy
xổ ra ba người con gái mặc áo màu sặc sỡ.
- Dắt về đi, các cô mình, bị thương nhẹ
thôi, - người đánh xe vui vẻ reo lên, đoạn cho ngựa quay lại đi bước một, mắt
nhìn xem nên chở người bị thương còn lại trên xe đi đâu bây giờ. Người bị
thương ấy là Miska Xôlômin. Hắn ngồi trên xe, mắt nhắm nghiền, đầu quấn những tấm
giẻ ở áo sơ mi xé ra, máu ứa ra đỏ lòm, hai hàm răng nghiến chặt. Bỗng người
đánh xe ghìm ngựa lại:
- Prrr... Trời ơi, chị đấy à! Êkatêrina
Đmitrievna đấy à?
Thế này thì thật Katya không thể nào ngờ được.
Ngạt thở vì xúc động, Katya chạy đến bên xe. Người đang đứng trên xe hai chân dạng
rộng, một tay chống cạnh sườn, tay kia cầm cương, chính là Alekxêy Kraxilnikôv.
Quanh khuôn mặt anh ta loăn xoăn bộ râu quai nón, đôi mắt trong sáng ánh lên mừng
rỡ. Trên thắt lưng anh đeo một chùm lựu đạn, một băng đạn súng máy bắt chéo qua
tấm áo da cừu, khoác sau vai là một khẩu súng trường kỵ binh.
- Êkatêrina Đmitrievna... Làm sao chị lại đến
đây? Chị ở nhà ai? Nhà này à? Nhà Mitrofan à? Ông anh họ tôi đấy, cũng họ
Kraxilnikôv... Chị xem này, khổ thân thằng Miska quá: đầu nó gần bay mất một nửa
vì đạn.
Katya bước bên cạnh cỗ xe tatsanka, Alekxêy
hãy còn say sưa hồi hộp vì trận đánh vừa qua. Đôi mắt, hàng răng, nụ cười đều
ánh lên sáng ngời:
- Bọn tôi đánh quân Đức tan ra như cám rồi!...
Cái quân ngu thật... Ba lần chúng nó lao vào súng máy bọn tôi. Bây giờ mấy ông
bạn nằm ngổn ngang khắp cả cánh đồng... Bây giờ bố Makhnô tha hồ mà cấp quân
trang cho bộ đội... Prrrr... - anh ta quát ngựa, - Mitrôfan, ra đây nào, cứ ru
rú trong hang thế à? Ra đây mà đón một anh hùng bị thương... Còn chị thì bây giờ
phải thế này, Êkatêrina Đmitrievna ạ. Chị chớ đi đâu ra khỏi nhà này. Ở đây
không hay ho gì lắm đâu...
Trên tháp chuông buông xuống một tiếng đồng
ngân nga. Khắp làng có tiếng cổng mở ra đóng vào lạch cạch, những cánh cửa sổ mở
toang, đàn bà chạy ùa ra đường, rồi đàn ông cũng thận trọng bước ra, không hiểu
từ đâu dổ ra lắm người thế. Họ vừa nói chuyện, hát hò, vừa đi ra đồng đón quân
đội Makhnô chiến thắng trở về.
Có Katya giúp sức, Alekxêy Kraxilnikôv
khiêng Miska vào nhà Mitrofan, đặt hắn nằm lên giường Alekxanđra, trong gian
phòng mùa hạ. Bấy giờ hắn đã gần như mê man đi, dở sống dở chết. Katya loay
hoay tìm cách băng bó lại cho hắn, chật vật lắm mới gỡ được miếng giẻ máu đông
cứng dính bết vào mái tóc. Miska chỉ nghiến răng ken két. Khi họ bắt đầu rửa
cái vết thương khủng khiếp bên phải sọ, Alekxanđra, lúc bấy giờ đang bưng cái
chậu đứng một bên, kêu lên một tiếng và lảo đảo suýt ngã, Alekxêy cầm lấy chậu
và ẩy cô ta ra. Anh ta nói với Katya:
- Chị thấy không, có mẩu xương nhòn nhọn trồi
ra một bên kia kìa. Xaska, đưa cái cặp gắp đường ra đây.
- Ôi, không có đâu, nó gẫy mất rồi.
Katya dùng móng tay cặp mẩu xương thòi lên
trên vết thương thử rút nó ra. Miska gầm lên một tiếng. Chắc chắn đó là một mẩu
xương bị vỡ. Móng tay nàng cứ tuột đi. Nàng cố đưa móng tay vào sâu hơn. Lần
này nàng đã rút nó ra được.
Alekxêy thở dài đánh phào một tiếng, cười lớn:
- Bọn tôi đánh nhau như thế đấy: kiểu
mu-gích mà!...
Họ lấy một miếng vải sạch băng đầu cho
Miska. Người ướt đầm mồ hôi, hắn nằm dưới tấm áo tu lúp, run cầm cập. Một lát sau hắn mở mắt ra. Alekxêy cúi xuống
người hắn hỏi:
- Thế nào. liệu có sống được không?
- Hôm qua tôi khoác lác với cô ấy, bây giờ
lại thế này - Miska phều phào, miệng mỉm cười nhợt nhạt. Hắn đưa mắt nhìn về
phía Katya. Nàng đã rửa tay xong và cũng đến cúi xuống bên cạnh hắn. Hắn mấp
máy đôi môi:
- Aliôsa, cậu hãy trông nom cô ấy.
- Biết rồi, biết rồi.
- Tôi đã nghĩ bậy về cô ấy... Phải đưa cô ấy
về tỉnh thành.
Hắn lại nhìn Katya đăm đăm với đôi mắt gần
như điên dại. Hắn trấn áp cảm giác đau và cơn sốt như thể đó chỉ là một chuyện
bực mình vặt vãnh không đâu. Hơi thở của thần chết đang mon men đến gần đã quét
sạch tất cả những luồng dục vọng, tất cả những mối mâu thuẫn trong người hắn.
Giây phút ấy hắn cảm thấy mình không phải là một thằng say rượu, một kẻ gian
ác, mà là một tâm hồn Nga đang vật vã quằn quại như con chim trong giông bão,
và đối với những sự nghiệp anh hùng hắn cũng có khả năng không kém bất kỳ ai: hắn
cũng cao ngang tầm những sự nghiệp cao cả ấy.
Alekxêy nói khẽ:
- Bây giờ cứ để cho hắn ngủ. Không sao đâu:
chàng trai này hăng say lắm. Hắn sẽ khỏi.
Katya đi với Alekxêy ra sân. Nàng vẫn ở
trong cái trạng thái kỳ lạ của một người chiêm bao giữa cái thực, dưới bầu trời
mênh mông, giữa cánh thảo nguyên nóng hừng hực phảng phất cái mùi khói phân khô
cổ kính này, nơi mà sau một thế kỷ dừng chân con người lại lên ngựa phi nước đại
nhoẻn rộng miệng cười với ngọn gió tự do, nơi những ước vọng nhiệt thành được
thỏa mãn trọn vẹn như người đang khát được cốc nước đầy.
Nàng không thấy sợ. Nỗi buồn của nàng đã xe
lại thành một cuộn nhỏ chẳng còn có nghĩa lý gì đối với ai ở đây cả, ngay đối với
bản thân nàng cũng vậy. Bây giờ nếu có ai kêu gọi nàng hy sinh, hay đi lập một
kỳ công, nàng cũng sẽ đi ngay cũng dễ dàng như thế, không suy nghĩ đắn đo gì. Nếu
có ai nói với nàng: cần phải chết, thì nàng cũng ưng thuận ngay, chỉ thở dài
ngước đôi mắt trong sáng lên nhìn trời.
- Vađim Pêtrôvits chết rồi, - nàng nói. -
Tôi sẽ không về Môxkva đâu: Ở đấy tôi chẳng còn ai cả... Chẳng còn gì hết... Em
tôi bây giờ ra sao tôi cũng không biết... Tôi cũng định kiếm một nơi nào... có
lẽ tôi sẽ đến Êkatêrinôxlav...
Alekxêy đứng chạng hai chân nhìn xuống đất.
Anh lắc đầu:
- Thật đáng tiếc. Vađim Pêtrôvits là người
rất tốt...
- Vâng, vâng, - Katya nói, nước mắt rưng
rưng. - Anh ấy tốt lắm...
- Hồi ấy anh chị không chịu nghe tôi. Dĩ
nhiên chúng tôi có mục đích của chúng tôi, anh chị có mục đích của anh chị. Ở
đây chẳng có gì phải mếch lòng. Nhưng làm sao đánh lại nhân dân được? Đời nào
chúng tôi chịu hàng phục!... Hôm nay chị đã trông thấy mấy anh mu-gích chưa?...
Dù sao anh ấy cũng là người rất chính trực...
Katya nói, mắt nhìn một cành anh đào nặng
trĩu nghiêng ra ngoài bờ rào:
- Alekxêy Ivanôvits ạ, anh khuyên tôi đi:
bây giờ nên làm gì? Vì dù sao cũng phải sống... -Nàng nói, rồi chợt thấy sợ: lời
nàng như mất hút vào khoảng không.
Alekxêy không trả lời ngay:
- Làm gì ư? Chà, thật là câu hỏi quý tộc.
Sao thế nhỉ? Chị là một người đàn bà có học, biết nói nhiều thứ tiếng, lại đẹp
nữa, mà lại đi hỏi một thằng mu-gích xem phải làm gì!
Gương mặt anh ta tỏ ý khinh bỉ. Anh xóc xóc
mấy quả lựu đạn đeo trên thắt lưng, làm cho nó khẽ kêu lách cách. Katya rúm cả
người lại. Alekxêy nói:
- Chị ra tỉnh thành khắc kiếm được việc
làm. Có thể đến quán rượu mà hát hay khiêu vũ, có thể đi làm tiền, cũng có thể
vào một công sở nào mà đánh máy. Chị không chết đói đâu mà sợ.
Katya cúi đầu. Nàng cảm thấy Alekxêy đang
nhìn mình, và cái nhìn ấy làm cho nàng không ngẩng đầu lên được. Và cũng như tối
hôm qua với Miska, nàng chợt hiểu tại sao cái nhìn của Alekxêy đặt lên gáy nàng
lại hằn học như vậy. Bây giờ không phải là lúc tha thứ, xót thương. Đã không phải
là người của mình thì tức là kẻ thù. Nàng đã hỏi xem nên làm gì để mà sống.
Nàng đã đem cái đó ra hỏi một chiến binh hãy còn hừng hực say sưa vì tiếng đạn
réo, tiếng vó ngựa và vì hơi men chiến thắng... Sống như thế nào ư? Katya chợt
thấy rõ câu hỏi này kỳ quặc đến nhường nào. Giá nàng hỏi xem nên phóng xe tatsanka qua thảo nguyên với người bạn
nào, vì nền tự do nào, thì hẳn mắt anh ta sẽ ánh lên vì một cảm tình nồng hậu...
Katya đã hiểu. Như một con thú rừng nhỏ yếu,
nàng quay ra mưu mẹo. Trong mấy ngày qua, đây là lần đầu tiên nàng tìm cách tự
bào chữa:
- Anh chưa hiểu ý tôi, Alekxêy Ivanôvits ạ.
Tôi bị cuốn đi đây đó như chiếc lá khô trước gió thế này, có phải tại tôi đâu.
Tôi biết yêu thương cái gì? Tôi biết quý chuộng cái gì? Anh không dạy cho tôi,
thì cũng đừng vặn tôi. Hãy dạy cho tôi biết đã (Alekxêy không xóc xóc cho mấy
quả lựu đạn kêu lách cách nữa: như thế nghĩa là anh ta đã chú ý, đã muốn lắng
nghe) Vađim Pêtrôvits đã bất chấp những lời khuyên can của tôi mà bỏ đi với
quân bạch vệ. Tôi thật không muốn thế. Và anh ấy đã nặng lời trách móc tôi là
không biết căm thù... Tôi thấy hết, tôi hiểu hết đấy Alekxêy Ivanôvits ạ, nhưng
tôi cứ đứng ra ngoài. Như thế rất khủng khiếp. Cái khổ của tôi là ở đấy cả...
Chính vì vậy mà tôi hỏi anh xem nên làm gì, sống như thế nào...
Nàng im lặng một lát rồi nhìn vào mắt Alekxêy
Ivanôvits một cách thẳng thắn, cởi mở. Anh ta chớp chớp đôi mắt. Gương mặt anh
ta trở nên ngờ nghệch, thật thà và lộ vẻ bối rối, như thể vừa bị chơi khăm. Anh
bất giác đưa tay lên gáy gãi gãi.
- Kể cũng gay thật đấy, chị nói đúng đấy, -
anh ta nhăn mũi lại nói - Đối với chúng tôi thì sự tình nó đơn giản lắm. Thằng
em tôi nó giết chết một thằng Đức ở sân nhà, thế là chúng tôi đốt nhà và ra đi.
Đi đâu? Đi tìm thủ lĩnh. Còn chị là người trí thức... Quả thật cũng gay...
Cái mẹo của Katya đã thành công. Alekxêy
Ivanôvits hình như có ý định giải quyết ngay tại chỗ cái vấn đề chết tiệt này:
những người như Katya - không có đất, không có ngựa - phải đấu tranh cho chân
lý nào? Đó là một công việc bạc bẽo.
Katya đứng yên bên hàng dậu nhìn lên cây
anh đào. Nàng muốn bứt hai quả anh đào đã chín thâm lại, treo lủng lẳng như đôi
hoa tai, nhưng rồi nàng vẫn lặng yên đứng trước mặt Kraxilnikôv, duy trong đôi
mắt to phản chiếu ánh trời xanh của nàng thoáng lóe lên những tia trào phúng.
- Một khi nông dân chúng tôi nuôi sống những
người thành thị như chị, thì tất nhiên những người như chị phải đứng về phía
chúng tôi, - Alekxêy Ivanôvits vừa nói vừa làm một cử chỉ cương quyết để tăng thêm
sức thuyết phục - Nông dân chúng tôi chống lại quân Đức, chống lại bọn bạch vệ,
chống lại bọn cộng sản, nhưng ủng hộ các xô viết nông thôn tự do. Chị hiểu chứ?
Nàng gật đầu. Alekxêy lại nói tiếp. Nàng
bèn kiễng chân lên và giơ tay trái -vì bên tay phải áo nàng bị tuột chỉ ở dưới
nách - bứt hai quả anh đào, rồi cho một quả vào mồm, còn một quả kia nàng cầm đầu
cuống vê cho nó quay tít đi.
- Giá tôi là người nông thôn, mọi thứ sẽ rõ
ràng ngay, - nàng nói đoạn nhổ cái hột anh đào ra. - Đã bao nhiêu lần tôi nghe
đến tổ quốc, đến nước Nga, đến nhân dân, nhưng đó là cái gì thì bây giờ tôi mới
nhìn thấy lần đầu. - Nàng ăn nốt quả anh đào thứ hai, liếc sang nhìn Alekxêy
Kraxilnikôv, nhìn bộ râu óng ánh dưới nắng, cái áo da phanh ngực, đôi chân lực
lưỡng, những vũ khí dữ dội anh đeo trên người.
- Nhân dân, nhân dân, - anh ta lẩm bẩm, mỗi
lúc một thêm bối rối - dĩ nhiên cũng chẳng phải là cái gì lạ lùng lắm đâu.
Nhưng cái gì của chúng tôi thì đừng hòng chiếm đoạt. - Anh ta nắm lấy cái cọc
nhô lên trên dãy rào, lay thử xem có chắc không. - Chúng tôi sẽ chiến đấu rất
ác liệt, dù có phải đánh nhau với cả thiên hạ... Êkatêrina Đmitrievna ạ, thứ
tôi thì nói cho cô nghe chẳng ra gì đâu, cô phải nghe mấy tay vô chính phủ của
chúng tôi nói cơ, họ nói mới tuyệt... Chỉ có điều...(Đôi lông mày anh ta nhích
nhích, đôi mắt anh nhìn quanh qua Katya một lượt như muốn cân nhắc điều gì). Khốn
nỗi bọn họ chơi bời vong mạng, rượu chè phóng đãng chết người đi được... Có lẽ
chẳng nên để cho họ trông thấy chị làm gì...
- Chuyện vặt! - Katya nói.
- Chuyện vặt là thế nào?
- Là thế thôi. Tôi chẳng còn bé bỏng gì,
không dở trò với tôi được đâu.
- Chị nói hay đấy nhỉ...
Cằm Katya rung rung; miệng mỉm cười, nàng lại
giơ tay với cành anh đào. Nàng cảm thấy nắng thấm vào khắp người nàng, mơn man
trên da thịt nàng, và đó cũng là chiêm bao giữa cõi thực.
- Nhưng tôi có thể làm việc gì ở đây bây giờ?
- Nàng nói, - Anh nghĩ thế nào hở Alekxêy Ivanôvits?
- Làm công tác văn hóa ấy... Thủ lĩnh có một
phòng chính trị... Nghe nói ông ta đang muốn ra một tờ báo riêng.
- Thế anh thì sao?
- Tôi ấy à?... (Anh ta lại nắm lấy cái cọc,
lay lay) Tôi là một chiến sĩ thường, đánh xe tatsanka chở đại liên. Vị trí của tôi là ở chiến trường...
Êkatêrina Đmitrievna ạ, chị phải nghĩ cho chín đi đã, đừng quyết định ngay. Tôi
sẽ đưa chị về chỗ cô Matriôna em dâu tôi. Chúng tôi sẽ nhận chị vào gia đình
chúng tôi, chứ còn gì nữa nhỉ.
- Ông thủ lĩnh Makhnô dặn tôi tối nay phải
đến chuốt móng tay cho ông ta đấy.
- Sao?! - Alekxêy lập tức đưa hai tay nắm
chặt lấy cái thắt lưng dưới vạt áo da; thậm chí mũi anh ta còn nhọn hoắt ra nữa.
- Móng tay à? Thế chị trả lời thế nào?
- Tôi trả lời rằng tôi là một tù nhân, - nàng
đáp, giọng điềm tĩnh.
- Thôi được. Ông ta cho người đến gọi thì
chị cứ đi đi. Nhưng tôi sẽ có mặt ở đấy...
Vừa lúc ấy cô Alekxanđra béo tốt từ trên thềm
chạy xuống, tay rũ rũ cái tạp đề.
- Về kia rồi, về kia rồi! - cô ta vừa reo vừa
chạy ra mở cổng.
Xa xa có tiếng “u-ra”, tiếng súng lẻ tẻ, tiếng
vó ngựa rầm rập.
Thủ lĩnh Makhnô đã kéo quân về. Katya và
Alekxêy đi ra đường. Trên thảo nguyên tung lên những đám bụi lớn. Trên mấy quả
đồi, từng đoàn người cưỡi ngựa và xe tam mã phóng qua hai cái chòi xay gió.
Tiền quân đã vào làng. Trẻ con cuống quít ở
xung quanh. Mấy cô gái chạy hai bên đường. Những con ngựa ướt đẫm, sủi bọt mồ
hôi phi tới, sườn phập phồng. Bọn Makhnô đứng trên các xe giàn, mồ hôi nhễ nhại,
bụi bám đầy người, mũ đội vẹo vọ.
Makhnô đi một chiếc xe tatsanka che tấm thảm Ba-tư rìa bay phấp phới. Hắn ngồi trên một
cái thùng đạn, tay chống lên đùi, khuỷu tay khuỳnh ra, chiếc mũ lông cừu đặt
trên đùi. Gương mặt xanh xao của hắn cứng đờ, các thớ thịt căng thẳng, đôi môi
khô nẻ mím chặt.
Trên chiếc xe giàn đi theo sau xe hắn có
sáu người dáng dấp như người thành thị, mặc áo vét tông, đội mũ phớt nỉ hay mũ
rơm, người nào cũng để tóc dài, để râu cằm nhọn, đeo kính: đó là những tên vô
chính phủ trong ban tham mưu và phòng chính trị.
8
Năm tháng ròng Đasa ở một mình trong mấy
căn phòng trống trải. Khi ra đi, Ivan Ilyits có để lại cho nàng một nghìn rúp,
nhưng số tiền này tiêu chẳng được bao lâu. May thay ở tầng dưới có một người
ngoại quốc rất láu lỉnh tên là Mattê dọn đến ở căn nhà của một viên đại thần
Pêterburg đã đem cả gia đình đi trốn hồi tháng giêng. Cái ông Mattê ấy chuyên
mua lại những bức tranh, những thứ đồ gỗ và đủ các thứ linh tinh khác.
Đasa bán cho ông ta cái giường đôi, mấy bức
tranh khắc, mấy thứ đồ trang trí bằng sứ. Nàng từ giã một cách dửng dưng những
đồ đạc còn giữ lại những kỷ niệm đau đớn như giữ lại một mùi hương cũ. Nàng đã
đoạn tuyệt với dĩ vãng, đoạn tuyệt hẳn rồi.
Bằng số tiền bán đồ, nàng sống qua mùa xuân
và mùa hạ. Thành phố đang vắng dần. Cách Pêterburg một tiếng đồng hồ đi xe ngựa,
bên kia sông Xextra, là chiến tuyến. Chính phủ đã dời về Moxkva. Những tòa cung
điện nhìn xuống sông Nêva bằng những khung cửa sổ trống hoác bị đạn bắn lỗ chỗ.
Tối đến, ngoài phố không có đèn. Dân quân chẳng thiết gì bảo vệ an ninh cho đám
dân tư sản: dù sao trước sau họ cũng không sao thoát khỏi cái số phận hẩm hiu của
họ. Tối đến, trên các đường phố lại xuất hiện những con người đáng sợ mà trước
kia không hề thấy có. Họ dòm vào các cửa sổ, đi tha thẩn trên những cầu thang
gác tối tăm, vặn thử nắm đấm ở các cửa phòng. Thật đáng lo ngại cho những ai
không biết đề phòng, không khóa cửa cho kỹ và cài hàng năm sáu lượt then chốt
vào. Ngoài hành lang có tiếng sột soạt khả nghi, rồi mấy người lạ mặt ùa vào
nhà. “Giơ tay lên!”, họ xông vào những người ở trong nhà, dùng dây điện trói lại
rồi thong thả gói đồ đạc mang đi.
Trong thành phố có dịch tả. Đến mùa hoa quả
nạn dịch càng hoành hành kinh khủng. Nhiều người ôm bụng ngã lăn ra giữa phố,
giữa chợ. Khắp nơi xì xào bàn tán. Người ta chờ đợi một tai họa chưa từng thấy.
Người ta nói với nhau rằng hồng quân đeo trên mũ một ngôi sao năm cánh chổng
ngược: đó chính là phù hiệu của Ma vương phản cơ đốc, và đâu như trong ngôi nhà
thờ bỏ hoang trên cầu trung úy Smiđt bắt đầu thấy xuất hiện “con ma trắng” báo
hiệu một trận lụt khủng khiếp. Người ta đứng trên các cầu chỉ ra những ống khói
nhà máy nguội lạnh: trên nền trời chiều đỏ rực ở phía tây, những cái ống khói ấy
chĩa lên đen ngòm như mấy “ngón tay của quỷ sứ”.
Các nhà máy đều đóng cửa. Công nhân sung hết
vào các đội tiếp tế, hoặc đi về nông thôn. Trên các phố, ở những kẽ đá lát đường
cỏ nhú lên xanh rì.
Đasa vài ngày mới ra khỏi nhà một lần, mà
cũng chỉ vào buổi sáng, để đi chợ. Ngoài chợ, mấy bà nông dân vô liêm sỉ đổi chục
kí khoai tây lấy một cái quần. Xích vệ càng ngày càng hay đột nhập vào chợ bắn
chỉ thiên để xua đuổi những tàn tích của chế độ tư sản: mấy bà nông dân đem
khoai tây đổi lấy quần và rèm, và mấy cô tiểu thư cầm quần và rèm đi đổi lấy
khoai tây. Càng ngày càng khó kiếm thức ăn. Đôi khi lại phải nhờ đến cái ông
Mattê nọ cứu vãn tình thế cho: ông ta lúc nào cũng sẵn sàng đổi đồ hộp và đường
lấy các thứ đồ cổ.
Đasa cố gắng ăn thật ít để đỡ phải lo lắng
chạy vạy. Nàng dậy rất sớm, Nàng khâu vá nếu kiếm được chỉ, hoặc cầm lấy cuốn
sách in từ năm mười ba hay mười bốn, đọc chỉ để đừng phải nghĩ ngợi; nhưng phần
lớn thì giờ nàng ngồi bên cửa sổ suy nghĩ mông lung: hay nói cho đúng hơn, ý
nghĩ của nàng cứ luẩn quẩn xung quanh một điểm tối tăm. Sự chấn động tâm thần vừa
qua, nỗi tuyệt vọng, tâm trạng u uất - tất cả dường như đã vón lại thành một cuộn
nho nhỏ ở trong óc, dấu tích của cơn bệnh cũ. Nàng gầy đi đến nỗi trông giống
như một cô bé mười sáu tuổi. Vả lại con người nàng, nàng cũng cảm thấy như đã
quay trở lại thời con gái, nhưng không còn chút gì là thanh thản nhởn nhơ như
thời ấy nữa.
Mùa hè trôi qua. Những đêm trắng đã hết, và
những buổi chiều tà trên Krôstađt đã nhuộm một mầu ảm đạm hơn. Đứng bên cửa sổ
từng năm có thể nhìn ra rất xa: những dãy phố vắng vẻ đêm đang buông xuống dần,
những khung cửa sổ tối om trên các nhà. Không thấy đâu thắp đèn lên. Thỉnh thoảng
lắm mới nghe tiếng bước chân của một người qua đường.
Đasa nghĩ: rồi đây sẽ ra sao nữa? Đến bao
giờ cái tình trạng mụ mằn ngưng trệ này mới chấm dứt? Chẳng bao lâu nữa sẽ sang
thu, mùa mưa sẽ đến, gió rét sẽ lại rít trên các mái nhà, củi thì không có. Áo
choàng lông đã bán đi rồi. Có lẽ Ivan Ilyits sẽ về... Nhưng rồi lại vẫn cái
tình trạng buồn chán ấy, lại phải sống cuộc đời thừa như cũ.
Làm sao có được đủ sức để lay chuyển cái
tình trạng mụ mẫm tê liệt này, đi cho khỏi cái nhà đang chôn sống đời nàng, đi
cho khỏi cái thành phố đang hấp hối này!... Lúc bấy giờ sẽ diễn ra một cái gì mới
mẻ trong cuộc sống... Lần đầu tiên trong năm ấy Đasa đã nghĩ đến một cái gì “mới
mẻ”. Càng bất chợt thấy mình có ý nghĩ này, nàng ngạc nhiên, bồi hồi xúc động
như thể sau tấm màn của nỗi chán chường vô vọng đã hé ra những hồi quang của một
khoản rộng bao la tràn đầy ánh sáng - khoảng rộng mà nàng đã có lần mơ thấy trên
chuyến tàu thủy trên sông Volga.
Và từ đấy bắt đầu những ngày buồn bã nhớ
nhung: nàng bắt đầu thấy nhớ Ivan Ilyits, nàng thấy thương chàng với một nỗi
xót xa mới mẻ nỗi xót xa của một người em gái. Nàng xót xa nhớ lại những sự săn
sóc ân cần và nhẫn nại của chàng, cái tính đôn hậu thật thà của chàng mà xét
cho cùng chẳng hề làm phiền ai cả.
Đasa lục trong tủ sách tìm ra ba tập thơ
bìa trắng của Bexxônôv - một kỷ niệm đã phai nhòa từ lâu. Nàng đọc những bài
thơ ấy vào lúc chiều tà, trong im lặng, khi những con én bay qua ngoài cửa sổ
như những mũi tên. Trong những câu thơ ấy nàng tìm thấy những lời nói về nỗi buồn
của nàng, về cảnh cô đơn, về làn gió tối tăm sẽ thổi hun hút trên mộ nàng...
Đasa mơ mộng một lát, rồi khóc, Sáng hôm sau nàng mở hòm lấy tấm áo cưới sực
mùi băng phiến ra và bắt đầu chữa nó lại. Cũng như hôm qua, én bay vun vút
ngoài cửa sổ, mặt trời chiếu xuống một ánh sáng nhợt nhạt. Trong cõi im lặng,
thỉnh thoảng lại nghe vang lên những tiếng ì ầm thưa thớt, đôi khi có tiếng gì
răng rắc, tiếng một vật gì nặng nề đổ xuống mặt đường: chắc họ đang phá đổ ngôi
nhà gỗ trong ngõ.
Đasa thong thả khâu. Chiếc đê của nàng tuột
ra khỏi ngón tay gầy, có một lần suýt rơi ra ngoài cửa sổ. Nàng nhớ là mình đã
đeo chiếc đê này ngồi trên cái rương ở phòng ngoài nhà chị nàng ăn mứt dẻo với
bánh mì. Ấy là vào năm mười bốn. Katya có chuyện xích mích với chồng, bỏ nhà đi
Pari. Chị nàng đội một chiếc mũ chụp xinh xắn có cắm lông chim trông bướng bỉnh
một cách dễ thương lạ lùng. Ra đến cửa chị nàng quay lại; trông thấy nàng ngồi
trên cái rương, chị nàng như vừa sực nhớ ra: “Đasa, em đi với chị đi”. Đasa đã
không đi... Và bây giờ... Giá được ở Pari nhỉ... Đasa biết Pari qua những bức
thư của Katya: một đô thành màu thiên thanh, làm bằng lụa, thơm như cái hộp đựng
nước hoa... Nàng vừa khâu vừa thở dài, lòng bồi hồi xúc động. Pari... Nghe nói
là không có tàu... Bây giờ họ không cho phép ra nước ngoài... Giá có thể đi bộ,
vai khoác khăn gói đi qua rừng, qua núi, qua đồng, qua những con sông xanh, đi
từ nước này sang nước khác, đến tận chốn đô thành hoa lệ, diễm huyền ấy...
Mấy giọt nước mắt nhỏ xuống tấm áo. Vớ vẩn
quá đi mất, chỉ toàn nghĩ vớ vẩn! Đâu đâu cũng có chiến tranh. Quân Đức đang
dùng một thứ đại bác rất lớn bắn vào Pari. Nàng đã thả hồn bay theo những mơ ước
quá hão huyền! Sao người ta không chịu để cho con người sống yên lành, vui vẻ
nhỉ? Thử hỏi như thế có chính đáng không?... “Mình có tội tình gì đối với họ?...”.
Cái đê tuột ra, rơi xuống ghế, ánh sáng nhòe đi qua làn nước mắt, và mấy con
chim én bay qua trong một tiếng huýt trống rỗng: chúng nó thì có cần gì nhiều,
miễn có được vài con ruồi, dăm con muỗi... “Thế nhưng mình cũng sẽ bỏ đi, mình
sẽ đi!” - Đasa khóc...
Ở phòng ngoài có mấy tiếng gõ cửa thong thả
và cương quyết. Đasa đặt cây kim và cái kéo lên bậu cửa sổ, lấy miếng mụn vải
vò nhầu lau mắt, ném nó lên mặt ghế rồi ra cửa...
- Đây có phải là nhà cô Đarya Đmitrievna
Têlêghina không ạ?
Đasa không trả lời, cúi xuống lỗ khóa. Người
đứng ở bên kia cánh cửa cũng cúi xuống, và qua lỗ khóa một giọng dè dặt nói:
- Cô ấy có thư ở Rôxtôv gửi về...
Đasa lập tức mở cửa ra. Một người lạ mặt bước
vào, mình mặc áo ca-pốt lính nhàu nát, đầu đội mũ lưỡi trai rách, Đasa đâm hoảng,
bước lùi lại, giơ hai tay ra phía trước như để chống đỡ. Người kia vội nói:
- Kìa cô, xin cô đừng... Đarya Đmitrievna,
cô không nhận ra tôi ư?
- Không, không...
- Tôi là Kulitsek, Nikanor Yurêvits... trợ
lý trạng sư. Cô có nhớ dạo ở Xextrôretxk không?
Đasa bỏ hai tay xuống, nhìn kỹ gương mặt gầy
đã lâu ngày không cạo, có cái mũi nhọn nhọn. Những nếp nhăn quanh đôi mắt chăm
chú và linh lợi cho biết đó là một con người đã quen thận trọng, cái miệng
không đều nét báo hiệu tính cương quyết và tàn nhẫn. Người ấy giống như một con
thú rừng nhỏ đánh hơi thấy nguy cơ.
- Chẳng lẽ cô quên rồi à? Đarya
Đmitrievna... Hồi ấy tôi là trợ lý của Nikôlai Ivanôvits Xmôkôvnikôv, người chồng
quá cố của chị cô... Hồi ấy tôi yêu cô, và đã bị cô cự cho một mẻ đích đáng... Cô
nhớ ra chưa? - Hắn bỗng mỉm cười như đã quên giữ gìn thận trọng, một nụ cười “tiền
chiến”, thật thà chất phác, và Đasa đã nhớ ra hết: dải bờ phẳng phiu, hơi nắng
mờ mờ trên cái vịnh ấm áp và phẳng lặng một cách lười biếng, hình ảnh bản thân
nàng, cô con gái “nhà lành”, không ai được đụng đến, chiếc nơ to tướng thắt
trên chiếc áo dài con gái, anh chàng Kulitsek si tình mà nàng đã khinh miệt với
tất cả niềm kiêu ngạo của một trinh nữ... Mùi hương của những cây thông cao vút
ngày đêm cất tiếng rì rào trang trọng trên các cồn cát...
- Anh thay đổi nhiều quá, - Đasa nói, giọng
run run, và đưa tay ra cho Kulitsek bắt. Hắn cầm lấy tay nàng một cách khéo
léo, và đặt một chiếc hôn lên đấy. Tuy hắn mặc chiếc áo ca-pốt tồi tàn, vẫn có
thể thấy rõ ngay rằng mấy năm qua hắn tòng ngũ trong một đơn vị kỵ binh.
- Cô cho phép tôi chuyển bức thư này. Cô
cho phép tôi ngồi ở đâu đây để cởi đôi ủng một chút... Vì, xin lỗi cô, ở bên
trong tôi quấn xà cạp. - Hắn đưa về phía Đasa một cái nhìn ngụ nhiều ý nghĩa và
theo nàng đi vào một căn phòng trống trải ngồi xuống giữa sàn rồi nhăn mặt kéo
đôi ủng lấm bùn ra.
Bức thư đó là của Katya, chính bức thư nàng
đã chuyển cho thượng tá Tyôtkin.
Ngay từ mấy dòng đầu Đasa đã kêu lên một tiếng,
đưa tay bưng lấy cổ - Vađim chết rồi ư!... Nàng lướt nhanh qua bức thư, mắt
không kịp đọc từng chữ. Nàng háo hức đọc lại một lần nữa. Nàng bủn rủn tay
chân, buông mình xuống tay vịn ghế bành. Kulitsek kín đáo đứng cách đấy một
quãng xa xa.
- Nikanor Yurêvits, anh có gặp chị tôi
không?
- Không ạ. Bức thư này do một người chuyển
lại cho tôi cách đây mười hôm; người ấy cho biết rằng Êkatêrina Đmitrievna đã rời
Rôxtôv được hơn một tháng...
- Trời ơi! Thế bây giờ chị ấy ở đâu? Chị ấy
có làm sao không?
- Rất tiếc là tôi không hỏi kỹ được.
- Anh có biết chồng chị ấy không? Vađim
Rôstsin ấy!... Anh ấy chết rồi... Katya có viết... ôi, khủng khiếp quá!
Kulitsek ngạc nhiên giương cao đôi lông
mày. Bức thư cầm trong tay gầy gò của Đasa cứ run bắn lên, đến nỗi Kulitsek phải
cầm lấy, đọc lướt qua mấy dòng nói chuyện Valêrian Ônôli báo tin chồng Katya chết...
Khóe môi Kulitsek nhếch lên, vẻ hiểm hóc.
- Tôi xưa nay vẫn nghĩ rằng Ônôli có thể
làm những việc hèn hạ...Theo lời hắn thì Rôstsin chết vào tháng năm. Phải không
ạ? Điều đó rất kỳ lạ... - hình như tôi có gặp anh ấy sau đó ít lâu...
- Bao giờ? Ở đâu?
Nhưng đến đây Kulitsek nghển cái mũi diều
hâu lên, nhìn Đasa xoi mói. Tuy vậy điều đó chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Đôi
mắt Đasa sáng bừng lên vì xúc động, mấy ngón tay nhỏ nhắn của nàng, giá lạnh và
co quắp lại, cho Kulitsek thấy rất rõ rằng mình có thể yên tâm; tuy là vợ của một
sĩ quan đỏ, Đasa sẽ không đời nào phản bội. Kulitsek tiến đến sát Đasa, nhìn
vào mắt nàng hỏi:
- Trong nhà này không có ai nữa đấy chứ?
(Đasa hối hả gật đầu mấy cái). Cô nghe đây, Đarya Đmitrievna ạ, những điều tôi
sắp nói ra đây sẽ đặt tính mạng tôi vào tay cô...
- Anh là sĩ quan của Đênikin à?
- Vâng.
Đasa bẻ ngón tay kêu răng rắc, thẫn thờ
nhìn ra cửa sổ - nhìn vào màu xanh sâu thẳm kia...
- Với tôi anh không có gì phải sợ...
- Tôi cũng biết chắc như thế... Tôi muốn
xin cô cho tôi trọ ở đây mấy hôm.
Hắn nói câu này bằng một giọng rắn rỏi, gần
như có ý hăm dọa. Đasa cúi đầu.
- Được.
- Nhưng nếu cô sợ... (Hắn lùi lại một bước)
Không chứ? Cô không sợ chứ? (Hắn lại tiến tới sát nàng) Tôi hiểu, tôi hiểu...
Nhưng cô chẳng có gì phải sợ đâu... Tôi là người rất thận trọng... Tôi chỉ ra
khỏi nhà vào ban đêm thôi... Không có một ai biết tôi đang ở Pêterburg... (Hắn
rút từ trong một nếp gấp của chiếc mũ lưỡi trai ra một tấm thẻ quân nhân)
Đây... Ivan Xvisev. Chiến sĩ Hồng quân. Giấy thật đấy. Chính tay tôi móc ra...
Thế cô muốn biết về Vađim Pêtrôvits à? Theo tôi, ở đây có một sự lầm lẫn gì đấy...
Kulitsek nắm lấy hai tay Đasa, xiết chặt:
- Thế ra cô đứng về phía chúng tôi à, Đarya
Đmitrievna? Cảm ơn cô. Toàn thể giới trí thức, tất cả giới sĩ quan bị lăng nhục,
hành hạ đang tập hợp lại dưới ngọn cờ thiêng liêng của quân tình nguyện. Đó là
một quân đội của những kẻ anh hùng. Và cô sẽ thấy: nước Nga sẽ được cứu thoát,
sẽ được những bàn tay trắng trẻo cứu thoát. Còn những quân đê mạt kia sẽ bị
quét sạch khỏi nước Nga! Dẹp hết cái thói đa cảm đi. Hừ! Nhân dân lao động! Vừa
rồi tôi đã đi một nghìn rưởi dặm trên nóc toa xe lửa. Tôi đã nhìn thấy nhân dân
lao động! Thật là một lũ thú vật! Tôi xin khẳng định: chỉ có chúng tôi, một dúm
anh hùng rất ít ỏi, mang nước Nga chân chính trong tim mình. Và chúng tôi sẽ lấy
lưỡi lê găm đạo luật của chúng tôi lên cổng lâu đài Tavrich...
Đasa choáng váng trước dòng từ ngữ tuôn ra
như thác ấy... Kulitsek giơ cái móng tay đen kịt lên xoi mói vào khoảng không,
hai bên mép hắn bắn nước bọt ra tung tóe. Chắc hẳn hắn đã phải im lặng quá lâu
trên nóc toa.
- Đarya Đmitrievna ạ, tôi sẽ không giấu cô
làm gì... Tôi đã được phái đến miền Bắc này để làm tình báo và chiêu nạp thêm
những người cùng chí hướng. Hiện nay có nhiều người chưa hình dung được lực lượng
của chúng tôi... Trong các báo ở đây chúng tôi chỉ là những toán bạch vệ, chỉ
là một nhúm người thảm hại mà nay mai người ta sẽ quét sạch khỏi mặt địa cầu...
Cho nên không có gì là lạ nếu giới sĩ quan chưa dám đi... Nhưng cô có biết những
gì đang diễn ra ở vùng sông Đôn và sông Kuban không? Đạo quân của vị thủ lĩnh
vùng sông Đôn đang lớn mạnh lên nhanh chóng. Ở tỉnh Vôrônej đã quét sạch hết
quân đỏ. Xtavrôpôl đang bị uy hiếp... Chỉ nay mai thủ lĩnh Kraxnôv sẽ tiến ra
sông Volga, chiếm Txaritxyn... Quả tình ông ta cũng có thậm thụt với quân Đức,
nhưng cái đó chỉ là chuyện nhất thời... Chúng tôi, quân của Đênikin, tiến về
phía nam Kuban như đi duyệt binh. Torgôvaia, Tikhôretxkaia và Velikonnyajexkaia
đã lọt vào tay chúng tôi. Xôrôkin bị chúng tôi đánh tan không còn manh giáp. Tất
cả các làng cô-dắc đều hân hoan đón mừng Quân tình nguyện. Ở Bêlaia Glina chúng
tôi đã đánh một trận y hệt như ở lò sát sinh, chúng tôi đi trên một đống xác
dày đến nỗi người đang hầu chuyện cô đây quân phục từ thắt lưng trở xuống đều
như nhúng vào chậu máu...
Nhìn sâu vào đôi mắt hắn, Đasa tái mặt đi.
Kulitsek cười ngạo nghễ.
- Cô tưởng thế là hết chắc? Đó chỉ mới là
đoạn mở đầu của cuộc trấn áp. Đám cháy đang lan rộng ra khắp đất nước. Các tỉnh
Xamara, Ôrenburg, Ufim, khắp vùng Ural đều ngập trong máu lửa. Bộ phận ưu tú
trong nông dân đã tự động tổ chức những đội bạch quân. Cả miền trung lưu sông
Volga đều đã lọt vào tay quân Tiệp. Từ Xamara đến Vladivoxtok là một tuyến khởi
nghĩa liên tục. Giá không có bọn Đức chết tiệt kia, thì cả xứ Tiểu Nga đã đứng
dậy nhất tề. Các thành phố vùng thượng lưu sông Volga là những kho thuốc nổ chỉ
còn đợi châm ngòi... Bọn bolsêvik không thể sống qua một tháng nữa. Chúng nó chẳng
đáng để cho ai đánh cá lấy một đồng xu rỉ. Kulitsek run lên vì kích động. Bây
giờ hắn không còn giống một con thú nhỏ yếu nữa. Đasa nhìn gương mặt sắc sảo của
hắn, một gương mặt giãi dầu nắng gió thảo nguyên, tôi luyện trong lửa chiến đấu.
Đó là cả một cuộc sống sôi nổi đột nhập vào cảnh cô đơn trống trải của nàng.
Đasa thấy hai thái dương nhoi nhói lên; tim nàng đập mạnh. Khi Kulitsek nhếch
môi trên liếm điếu thuốc lá mộc cuốn, để lộ mấy cái răng cửa nhỏ nhỏ, Đasa hỏi:
- Các anh sẽ thắng. Nhưng dù sao chiến tranh
cũng không thể kéo dài vĩnh viễn được... sau đó sẽ ra sao?
- Sau đó ấy à? - hắn nheo nheo đôi mắt, nói
đai giọng ra - Sau đó sẽ tiếp tục chiến tranh với quân Đức cho đến thắng lợi cuối
cùng, sẽ có đại hội toàn thế giới, trong đó chúng tôi sẽ bước vào với tư cách
những bậc anh hùng vĩ đại nhất, và sau đó nữa, với sự đồng tâm hiệp lực của các
nước đồng minh, của toàn thể châu Âu, chúng tôi sẽ phục hồi nước Nga - phục hồi
lại trật tự, pháp chế, chế độ đại nghị, nền tự do. Đó là chuyện tương lai - Còn
trong những ngày sắp tới...
Hắn bỗng đưa tay lên ngực, phía bên phải, lần
tìm một vật gì dưới áo khoác. Hắn thận trọng rút ra một miếng các tông gấp đôi
lại một cái nắp hộp thuốc lá, - xoay xoay trên đầu ngón tay một lát. Rồi lại
nhìn trừng trừng vào Đasa, xoi mói.
- Tôi không thể liều lĩnh được... Số là thế
này, Đarya Đmitrievna ạ... Ở đây đi ngoài phố hay bị khám xét lắm... Tôi sẽ
giao cho cô một cái này. - Hắn thận trọng mở miếng các-tông lấy ra một hình tam
giác nhỏ cắt từ một tấm danh thiếp ra. Trên cái hình tam giác ấy có viết bằng
tay hai chữ O và K. - Cô cất hộ cái này. Đarya Đmitrievna ạ, cô phải giữ nó như
giữ một thánh tích... Tôi sẽ bày cho cô cách sử dụng nó... Xin lỗi cô... không
sợ chứ?
- Không.
- Cô cừ lắm, cừ lắm!
Thế là chỉ vì bị một ý chí mãnh liệt lôi cuốn,
Đasa đã vô tình lọt vào trung tâm một âm mưu của cái gọi là “Liên minh bảo vệ tổ
quốc và tự do” đang hoạt động ở kinh đô và cả một loạt thành phố khác trên lãnh
thổ Đại Nga.
Cách xử sự của Kulitsek, đặc phái viên của
đại bản doanh Đênikin thật là nông nổi, hầu như vô lý: mới trao đổi vài câu
chuyện qua loa mà đã tin ngay một người đàn bà không quen biết mấy, lại là vợ một
sĩ quan hồng quân. Nhưng ngày trước hắn đã từng yêu Đasa, và giờ đây, nhìn vào
đôi mắt xám của nàng, hắn không thể không tin được khi đôi mắt ấy đã nói: “anh
hãy tin”.
Hồi ấy, ý chí của con người ta chịu sự chi
phối của những cảm xúc bồng bột trong chốc lát, chứ không phải của những suy
tính điềm đạm. Cơn gió lốc của những biến cố dồn dập đang gầm thét, đại dương
nhân loại đang cuộn sóng ào ạt, mỗi người đều cảm thấy mình là cứu tinh của con
tàu đang lâm nguy, và đứng trên chiếc cầu chỉ huy tròng trành, vung súng lục
lên bắt lái tàu sang trái hay sang phải. Và lúc bấy giờ tất cả đều chỉ là cảm
giác: những ảo ảnh bạch vệ đang chờn vờn xung quanh nước Nga mênh mông bát
ngát. Mắt người ta mờ đi vì căm thù. Những điều người ta mong ước đều hiện lên
trong những bức tranh vân cẩu của ảo giác.
Chẳng hạn, sự diệt vong sắp tới của phe
Bolsêvik lúc bấy giờ có vẻ như một điều không còn có thể hồ nghi nữa; tưởng chừng
như những đạo quân can thiệp từ khắp bốn phương trời đang vượt biển đến giúp
các đạo quân bạch vệ; tưởng chừng như một trăm triệu mu-gích Nga sẵn sàng cầu
nguyện cho Quốc hội lập hiến; tưởng chừng như tất cả các thành phố của đế quốc
Nga thống nhất thành một khối không có gì chia cắt nổi chỉ còn đợi một hiệu lệnh
là sẽ đứng lên đánh đuổi các xô viết đại biểu và hôm sau sẽ hồi phục trật tự và
nền pháp chế đại nghị.
Mọi người đều tự lừa dối bằng những ảo ảnh:
từ cô tiểu thư Pêterburg chạy về miền Nam mà chỉ đem theo mấy thứ đồ lót, cho đến
giáo sư Mêlyukôv thông thái tuyệt vời, mỉm cười ngạo nghễ đợi cho các sự cố diễn
biến và kết thúc theo những phương hướng do chính ông vạch ra trong viễn cảnh lịch
sử.
Trong số những người tin vào những ảo ảnh đầy
sức an ủi đó có nhóm “Liên minh bảo vệ tổ quốc và tự do”. Nhóm này do Bôrix
Xavinkôv thành lập vào đầu mùa xuân năm 1918, sau khi thủ lĩnh Kalêđin tự sát
và quân đoàn Kornilôv rút ra khỏi Rôxtôv, nó dường như là một tổ chức bất hợp
pháp của Quân tình nguyện.
Người đứng đầu liên minh là Xavinkôv, con
người đã phủ quanh mình một bức màn bí mật, ẩn hiện bất kỳ như một bóng ma. Hắn
đi lại trong thành phố Moxkva với một bộ ria nhuộm, mặc một chiếc áo va-rơi kiểu
Anh, đi ghệt và khoác bành tô màu ngụy trang. Liên minh được tổ chức theo kiểu
quân sự; nó có bộ tham mưu, phiên chế thành sư đoàn, đại đoàn, trung đoàn, nó
có ban phản gián và đủ các thứ tổ chức hậu cần. Người cầm đầu bộ tham mưu là đại
tá Perkhurôv.
Việc chiêu nạp thành viên cho liên minh được
tiến hành theo những quy tắc giữ bí mật hết sức nghiêm ngặt. Mỗi người tham gia
liên minh chỉ có thể biết được bốn người khác. Trong trường hợp bại lộ, chỉ có
thể bắt được một tổ năm người, chứ không thể khai triển rộng thêm. Nơi đóng bộ
tham mưu và tên họ các lãnh tụ là một điều bí mật đối với mọi người. Mỗi khi có
người muốn vào liên minh, mỗi viên thủ trưởng trung đoàn hay một cấp chỉ huy thấp
hơn đến tận nhà người ấy, hỏi chuyện, cấp một số tiền tạm ứng và ghi địa chỉ mật
mã của người ấy vào một mảnh bìa. Những tấm thẻ này, có in những vòng tròn chỉ
số thành viên và có ghi địa chỉ, hàng ngày được đưa về bộ tham mưu. Việc điểm
duyệt các lực lượng của liên minh được tổ chức trên các đại lộ, gần các đài kỷ
niệm: đến giờ hẹn, các thành viên phải đến với chiếc áo khoác để hở ngực theo một
kiểu đặc biệt nào đấy, hoặc đính một dải lụa nhỏ ở một chỗ nhất định trên áo
khoác. Những người làm nhiệm vụ liên lạc được cấp một mảnh danh thiếp hình tam
giác có ghi hai chữ cái, một chỉ khẩu lệnh, một chỉ tên thành phố. Khi xuất
trình, hình tam giác này được đem lắp thử vào tấm danh thiếp bị cắt xem có khớp
không. Liên minh có một lực lượng tình báo đáng kể. Vào tháng tư, trong một cuộc
họp bí mật, liên minh đã quyết định chấm dứt hoạt động phá hoại và tìm cách chui
vào làm việc ở các cơ quan xô viết. Từ đây có nhiều thành viên của liên minh lọt
được vào trung tâm của bộ máy nhà nước. Một bộ phận được cài vào các cơ quan cảnh
vệ Moxkva. Một tình báo viên được đưa vào làm trong thành Kremlin. Một số nữa
chui vào các cơ quan kiểm soát quân sự và ngay cả Hội đồng quân sự tối cao nữa.
Thành Kremlin dường như bị bao bọc trong những mạng lưới dày đặc của liên minh.
Lúc bấy giờ việc quân đội Đức do thống chế
Aishorn chỉ huy sắp đánh chiếm Moxkva được coi như một điều trước sau thế nào
cũng phải xẩy ra. Và tuy trong đám thành viên của liên minh có một trào lưu
thân Đức khá mạnh - số thành viên này chỉ tin vào lưỡi lê của quân Đức mà thôi
- khuynh hướng chung của liên minh vẫn thiên về các nước đồng minh. Trong bộ
tham mưu của liên minh người ta còn ấn định cả ngày quân Đức kéo vào Moxkva:
ngày mười lăm tháng sáu. Cho nên họ quyết định là sẽ từ bỏ việc đánh chiếm
thành Kremlin và Moxkva, điều các đơn vị vũ trang của liên minh tới Kazan, giật
mìn phá tất cả các cầu cống và bể chứa nước ở ngoại ô Moxkva, phát động khởi
nghĩa ở Kazan, Nijni, Kôxtrôma, Rybinxk, Murôm, bắt liên lạc với quân Tiệp và
thành lập mặt trận miền đông, dựa vào vùng Ural và vùng lưu vực sông Volga trù
phú.
Đasa tin từng lời từng chữ tất cả những điều
Kulitsek nói với nàng: các nhà ái quốc Nga, hay như hắn mệnh danh cho họ - các
hiệp sĩ của tinh thần, chiến đấu để vĩnh viễn quét sạch những mụ nhà quê láo xược
đem đổi khoai tây ở các chợ, để cho các phố phường Pêterburg lại sáng trưng ánh
điện và nhộn nhịp những đám người vui tươi, trang nhã, để vào những phút buồn
chán có thể đội chiếc mũ chụp cắm lông chim lên đường sang Pari... Để cho bọn “cướp
nhảy” không còn hoành hành ở quanh công viên mùa hạ nữa. Để cho gió thu đừng gầm
rít trên mộ đứa con trai của nàng.
Tất cả những điều đó Kulitsek đều hứa hẹn với
Đasa bên chén trà. Hắn ăn khỏe như chó đói, hắn ngốn hết một nửa số đồ hộp dự
trữ, ăn cả bột sống với muối. Đến chặp tối hắn biến đi lúc nào không rõ, cầm
theo cả chìa khóa cửa.
Đasa đi ngủ. Nàng buông rèm cửa sổ, nằm xuống
đi văng, và như vẫn thường thấy trong những giờ mất ngủ nhọc nhằn, những ý
nghĩ, những hình ảnh, những kỷ niệm, những điều phỏng đoán đột ngột, những nỗi
day dứt đau đớn, cứ hiện lên loang loáng, chen lấn nhau, đuổi theo nhau... Đasa
trở nghiêng mình lại, đút tay xuống dưới gối, nằm ngửa ra rồi lại trở sấp lại...
Tấm chăn như nóng dẫy lên, mấy cái lò so đi-văng cứ chích vào hông, mấy tấm
khăn lót giường cứ tuột xuống đất...
Một đêm trằn trọc khổ sở, dài đằng đẵng như
cuộc đời. Cái vệt thâm thâm trong óc Đasa sinh động lên, đâm những múi rễ độc địa
vào tất cả những nếp nhăn sâu kín nhất của bộ não. Nhưng tại sao lại sinh ra những
nỗi day dứt, tại sao lại có cái cảm giác mình bất chính, mình có tội? Giá hiểu
được thì còn nói làm gì!
Rồi mấy tiếng sau, khi tấm rèm cửa sổ đã ngả
sang màu lam, Đasa mệt nhoài vì mải quay cuồng giữa điệu vũ quái đản của những
ý nghĩ ấy, nàng lả đi, tâm hồn nàng lắng xuống, và nàng kết tội mình từ đầu đến
cuối một cách giản dị và trung thực - nàng sổ toẹt cả con người mình.
Nàng ngồi dậy, búi tóc lại, găm cho chặt,
buông thõng hai cánh tay gầy để trần xuống giữa hai đầu gối, rồi trầm ngâm suy
nghĩ... Nàng là một kẻ sống cô độc, mơ mộng viễn vông, một người đàn bà lạnh
lùng, không biết yêu thương ai hết: vĩnh biệt người đàn bà ấy, muốn chết rấp ở
đâu thì chết, chẳng tiếc chút nào. Bọn cướp nhảy ở công viên mùa hạ dọa cho
mình một mẻ như thế thật đáng đời: mà như thế cũng hãy còn ít, lẽ ra phải làm
cho mình sợ hơn nữa kia!... Bây giờ thì thôi, tan biến đi cho xong. Bây giờ linh
hồn ta hãy buông xuôi theo làn gió mà bay đi, bay đi, người ta bảo bay đến đâu
thì bay đến đấy, người ta bảo làm gì thì làm nấy... Ý chí của mình không còn có
nữa... mình chỉ là một trong muôn triệu người... Thật là yên ổn, thật là thanh
thoát!...
* * *
Kulitsek đi suốt hai ngày đêm. Trong khi hắn
đi vắng có mấy người đến, người nào cũng cao lớn, mặc áo vét tông sờn cũ, trông
hơi ngơ ngác, nhưng hết sức nhã nhặn. Cúi xuống lỗ khóa, họ đọc khẩu lệnh. Đasa
mở cửa cho họ vào nhà. Khi biết “Ivan Xvisev” không có nhà, họ không bỏ đi
ngay, một người bỗng dưng quay ra kể lể những chuyện khổ tâm trong gia đình
mình, một người khác xin phép hút thuốc rồi thận trọng như cầm một bảo vật, lấy
từ trong chiếc hộp đựng thuốc lá có khảm tộc huy ra một điếu “thuốc hôi” xô viết,
vừa quấn vừa cất cái giọng cổ mạt sát thậm tệ “bọn đại biểu của lũ chó má”. Một
người thứ ba nói toạc ra một điều bí mật cá nhân: nào là mình đã chuẩn bị một
chiếc xuồng máy ở đảo Krextôvxki, bên cạnh lâu đài của họ
Bêlôxelxki-Bêlôzerxki, nào là đã rút được những đồ tư trang quý ra khỏi tủ sắt,
nhưng bỗng dưng lũ trẻ lại rũ ra ho gà... Thật là rủi như chó!...
Có thể thấy rõ ràng cả bọn đều thấy thích
thú khi được nói chuyện với người thiếu phụ mảnh khảnh xinh xắn có đôi mắt to
này. Đasa chỉ lấy làm lạ có một điều: những con người hoạt động bí mật này sao
thật ngờ nghệch quá, y như trong một vở hài kịch ngu xuẩn... Hầu hết đều dùng
những lối nói rất thận trọng để dò xem “Ivan Xvisev” có mang tiền quỹ về không?
Và rốt cục họ tỏ ra tin tưởng quả quyết cả mười phần rằng “câu chuyện tối ngu
xuẩn với bọn bolsêvik” sẽ kết thúc rất chóng vánh. “Thật đấy, quân Đức mà đánh
chiếm Pêtrôgrad thì chẳng phải hao hơi tổn sức gì đâu”.
Cuối cùng Kulitsek cũng về: lại đói run
lên, người lấm bê bết, vẻ mặt lo âu. Hắn hỏi xem có ai đến trong khi hắn đi vắng
không. Đasa thuật lại cặn kẽ cho hắn rõ. Hắn nhe răng ra cười gằn:
- Cái lũ đê mạt! Đến lấy tiền tạm ứng đấy
mà... Thế mà cũng gọi là quân cận vệ! đôi mông quý tộc vốn ngại rời lòng ghế
bành lắm. Chỉ mong quân Đức đến giải phóng cho thôi: xin mời chư vị, chúng tôi
vừa treo cổ bọn bolsêvik xong, mọi việc ổn thỏa rồi ạ. Thật đáng giận!... Trong
hai mươi vạn sĩ quan tham gia Quân tình nguyện, số những vị anh hùng tâm huyết
chỉ có ba nghìn ở quân đoàn Đrôzđôvxki, tám nghìn ở quân đoàn Đênikin, và trong
“Liên minh bảo vệ tổ quốc” của ta chỉ có ba nghìn. Tất cả chỉ được ngần ấy...
Thế số còn lại ở đâu? Họ đã bán linh hồn và lương tâm cho hồng quân rồi... Còn
nữa thì đi nấu xi đánh giầy, buôn thuốc lá... Hầu hết bộ tổng tham mưu đều chạy
sang hàng ngũ bolsêvik... Thật nhục nhã!...
Hắn lấy bột mì ra trộn muối ăn thật no, uống
nước rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, hắn đánh thức Đasa dậy sớm. Khi nàng khoác vội
áo ngoài chạy vào phòng ăn, Kulitsek đang đi đi lại lại rất nhanh bên bàn, mặt
mày nhăn nhó:
- A, cô đấy à? - hắn quát vào mặt Đasa, giọng
sốt ruột. - Liệu cô có thể mạo hiểm, hy sinh nhiều thứ, chịu đựng hàng ngàn
chuyện khó chịu, bất tiện không?
- Có, - Đasa nói.
- Ở đây tôi không dám tin ai cả... Vừa nhận
được những tin tức đáng lo ngại... Cần có người đi Moxkva. Cô đi chứ?
Đasa chỉ nhấp nháy đôi mắt, lông mày giương
cao lên... Kulitsek đến cạnh nàng, bảo nàng ngồi xuống bên bàn ăn, kéo ghế ngồi
sát nàng đến nỗi đầu gối chạm cả vào chân nàng, và bắt đầu giảng giải cho nàng
rõ là đến Moxkva cần phải gặp ai và phải truyền đạt bằng miệng những tin tức gì
về các tổ chức ở Pêtrôgrađ. Hắn nói tất cả những chuyện đó một cách chậm rãi,
giọng như giận dữ, cố nhồi từng chữ, từng câu vào trí nhớ Đasa. Hắn bắt nàng nhắc
lại. Nàng ngoan ngoãn nhắc lại.
- Tuyệt! Cô thông minh lắm! Chính chúng tôi
đang cần những người như thế. - Hắn đứng bật dậy, xoa lia lịa hai bàn tay vào
nhau. - Bây giờ về căn nhà của cô thì thế nào đây? Cô sẽ lên nói với ban đại diện
khối là sẽ đi Luga một tuần. Tôi ở lại đây vài hôm nữa rồi sẽ giao chìa khóa lại
cho ông trưởng khối... Được không?
Những sự biến dồn dập này làm cho Đasa
chóng mặt. Nàng kinh ngạc cảm thấy không còn buồn kháng cự gì nữa: đi đâu cũng
được, bảo làm gì cũng làm... Khi Kulitsek nhắc đến căn nhà, nàng quay lại nhìn
cái tủ búp-phê bằng gỗ mắt chim: “thật là một cái tủ xấu xí, buồn tẻ như một cỗ
quan tài...”. Nàng nhớ đến những con én say sưa bay theo tiếng gọi của những
chân trời xanh biếc. Và nàng thấy rằng thoát ra khỏi cái lồng bụi bặm này mà
bay vào cuộc sống hoang dại, bát ngát, quả thật là một hạnh phúc...
- Nhà gì cơ? - nàng nói. - Có lẽ tôi cũng
chẳng về đây nữa đâu. Anh muốn thu xếp thế nào cũng được.
Một trong những người đã đến nhà Đasa trong
khi Kulitsek đi vắng đưa nàng ra tàu. Đó là một người cao lêu đêu, mặt dài, râu
quặp, tính tình hòa nhã; hắn đưa Đasa lên một toa ghế cứng đã vỡ hết cửa sổ, rồi
cúi xuống, ghé sát tai Đasa nói giọng trầm: “Công lao của cô sẽ được ghi nhớ” -
Và đi lẫn vào đám dông. Trước khi tàu chuyển bánh có mấy người chạy dọc đoàn
tàu, miệng cắn khăn gói leo vào cửa sổ toa. Trong toa chật hẳn đi. Mấy người
kia leo lên giá để đồ, chui xuống gầm ghế và quẹt diêm châm thuốc lá mộc hút
phì phèo, có vẻ hoàn toàn mãn nguyện.
Đoàn tàu chậm chạp lê qua những đầm lầy phủ
sương mù với những dãy ống khói nhà máy nguội lạnh, qua những ao hồ phủ đầy rêu
mốc. Xa xa đồi Pulkôvxkaia với đài thiên văn trên đỉnh thấp thoáng sau làn
sương ngập nắng. Ở đây các nhà thiên văn học thông thái và bản thân ông già
Glazênap bảy mươi tuổi, bị mọi người trên thế gian quên khuấy đi, vẫn tiếp tục
tính toán đường chuyển động của các vì sao trong vũ trụ. Những khóm rừng thông,
những cây bách, những ngôi biệt thự lướt dần về phía sau. Ở các ga, người ta đặt
một đội cảnh vệ vũ trang không cho ai lên toa thêm nữa. Bây giờ tuy vẫn còn ồn
ào, nhưng đã đỡ nhốn nháo.
Đasa ngồi ép chặt giữa hai người lính cựu.
Trên cái giá để đồ ở phía trên có một cái đầu vui vẻ chõ xuống, luôn luôn xen
vào câu chuyện.
- Ấy, thế rồi sao nữa hả? - Trên giá có tiếng
hỏi, giọng nghẹn đi vì cười. - Thế các anh thì sao?
Ngồi đối diện với Đasa, giữa mấy người đàn
bà tư lự và lầm lì, là một người nông dân gầy chột mắt, để bộ ria quặp, râu cằm
mọc lởm chởm, đầu đội mũ rơm. Cái áo của hắn mặc khâu bằng bao bột, trên cổ buộc
thắt lại bằng một sợi dây gai. Trên thắt lưng hắn giắt một cái lược con và một
mẩu bút chì tím; trong ngực, dưới lần áo sơ mi, có giắt mấy tờ giấy.
Ban đầu Đasa không theo dõi câu chuyện của
mấy người đi tàu. Nhưng những chuyện do người chột mắt kể ra hình như rất hấp dẫn.
Dần dần hành khách ở các dãy ghế khác đều ngoảnh về phía hắn, trong toa im ắng
hẳn đi. Một người lính đeo súng trường nói, giọng quả quyết:
- Phải rồi, tôi hiểu rồi, nói tóm lại, các
anh là du kích, là quân của Makhnô chứ gì?
Người chột mắt im lặng một lát, mỉm cười
tinh quái dưới chòm ria:
- Các chú cũng biết đấy, nhưng chưa tinh tường
đâu. - Hắn đưa bàn tay khô nẻ sần sùi quệt qua bộ ria như để xóa nụ cười đi, rồi
nói, giọng nghe còn có vẻ trang trọng nữa là khác. - Du kích của Makhnô là một
tổ chức của kulak. Makhnô hoạt động ở vùng Êkatêrinôxlav kia. Ở đây nhà nào
cũng có đến dăm chục mẫu đất. Còn chúng tôi lại là món khác. Chúng tôi là du
kích đỏ...
- Thế các anh làm ăn ra sao?
- Khu vực hoạt động của chúng tôi là tỉnh
Tsernigôv và các tổng ở phía bắc Nijin. Hiểu chưa. Chúng tôi là cộng sản. Đối với
chúng tôi, quân Đức hay là ngài trang chủ, hay là lính haiđamak của thống lĩnh,
hay là lão kulak trong làng, đều là một duộc cả... Cho nên không được lẫn lộn
chúng tôi với bọn Makhnô. Hiểu chưa?
- Hiểu rồi, có ngu si gì mà chẳng hiểu, anh
kể tiếp đi nào. - Cái đầu vui vẻ ở trên giá nói.
- Kể tiếp thì nó là thế này... Sau trận
đánh nhau với quân Đức ấy, chúng tôi hơi mất tinh thần. Chúng tôi rút vào rừng
Kosêlev, rúc vào những khu rậm rạp chỉ có chó sói ở. Chúng tôi nghỉ ngơi đôi
chút. Người ở các làng bên bắt đầu chạy vào với chúng tôi. Trong làng không thể
nào sống nổi, họ nói thế. Quân Đức thực sự bắt tay vào càn quét du kích trong
vùng. Chúng nó có bọn haiđamak giúp sức: ngày nào bọn này cũng sục vào làng, cứ
theo lời tố giác của bọn kulak mà bắt bớ đánh đập. Nghe những chuyện này bọn
chúng tôi tức điên lên, đến nghẹn cả thở. Lúc bấy giờ có thêm một đội nữa đến
chỗ chúng tôi. Trong rừng tập trung cả một đạo quân đến ba trăm năm mươi người.
Chúng tôi bầu ra người chỉ huy chung là chuẩn úy Golta, một anh du kích ở
Verkiev. Rồi chúng tôi mới nghĩ xem nên khai triển những cuộc hành quân sau về
hướng nào, và quyết định kiểm soát con sông Đexna: vũ khí đạn dược chở cho quân
Đức là theo con đường sông này. Thế là chúng tôi đi. Chúng tôi chọn những nơi
tàu thủy phải đi men sát bờ, mai phục ở đấy...
- Chà thế rồi sao nữa? - Cái đầu trên giá hỏi.
- Thế rồi nó thế này nữa. Một chiếc tàu thủy
đi qua. Hàng tiền tiêu hô: “Đứng lại”. Thuyền trưởng không thi hành mệnh lệnh.
Bọn tôi liền bắn một loạt. Dĩ nhiên là tàu phải ghé vào bờ. Bọn tôi lập tức leo
lên boong, đặt người gác, kiểm soát giấy tờ.
- Đúng kiểu đấy, - người lính cầm súng nói.
- Trên tàu có chở hàng: yên cương và dây thắng.
Đi áp tải có hai viên đại tá, một đã già khọm, một nữa thì còn trẻ, trông oách
lắm. Ngoài ra còn chở cả thuốc men nữa. Chính chúng tôi lại đang cần món ấy.
Lúc ấy tôi đang đứng trên boong kiểm soát giấy tờ; bỗng thấy hai anh em Piôtr
và Ivan Pêtrôvxki, là hai đảng viên cộng sản ở vùng Bôrôđian, trong đám hành
khách. Tôi đoán ra được ngay, cho nên cứ tảng lờ đi, làm như không quen họ. Đến
lượt họ, tôi cứ xử sự kiểu cửa công, lên giọng nghiêm khắc hỏi: “Giấy tờ đâu...”.
Pêtrôvxki đưa hộ chiếu cho tôi, kèm theo một mảnh giấy quấn thuốc lá có viết: “Đồng
chí Pyavka, hai anh em tôi rời Tsernigôv để đi về Nga đây, yêu cầu đồng chí xử
với chúng tôi thật khắc nghiệt để xung quanh khỏi để ý, vì quanh đây có nhiều mật
thám...”. Được... Kiểm soát giấy tờ xong, chúng tôi cho đưa yên cương thuốc men
lên bờ, kèm theo mười lăm thùng rượu vang để bồi dưỡng cho anh em bị thương.
Cũng phải công bằng mà thừa nhận rằng ông bác sĩ trên tàu đã xử sự rất anh
hùng. Ông ta quát: “Tôi không thể để cho các ông lấy tủ thuốc đi được, làm như
thế là trái mọi luật lệ, mà lại vi phạm công pháp quốc tế nữa”. Câu trả lời của
chúng tôi rất gọn: “Chúng tôi đang có người bị thương, vậy thì không phải là
công pháp quốc tế, mà là công pháp nhân đạo đòi hỏi ông phải trao tủ thuốc cho
chúng tôi!...”. Chúng tôi bắt giữ mười viên sĩ quan đưa lên bờ, rồi cho tàu đi.
Lên đến bờ lão đại tá già bắt đầu khóc lóc van xin đừng giết, nhắc nhở những
công lao ngày xưa của mình trong quân đội. Chúng tôi nghĩ bụng: “Giết cái lão
này làm gì, cứ để thế lão cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa”. Chúng tôi đã
vì đại lượng mà tha cho lão. Lão lập tức chuồn vào rừng.
Cái đầu ở trên giá cười ha hả. Người chột mắt
đợi cho mọi người cười thỏa thuê, rồi kể tiếp:
- Một tên khác, một sĩ quan văn phòng, cũng
gây được ấn tượng tốt trong chúng tôi, hỏi gì hắn cũng trả lời rất láu lỉnh, tư
thế rất ung dung. Chúng tôi cũng thả nốt... Những tên còn lại, chúng tôi dẫn
vào rừng bắn vì trong bọn không có thằng nào chịu nói lấy một câu...
Đasa nín thở nhìn người chột mắt. Mặt hắn
điềm tĩnh, đầy những nếp nhăn chua chát. Con mắt độc long, màu xanh xám, đồng tử
nhỏ xíu, chắc là một con mắt đã từng chứng kiến rất nhiều chuyện đời, đang trầm
ngâm nhìn mấy cây thông chạy vun vút ngoài cửa sổ. Một lát sau người chột mắt lại
kể tiếp:
- Chúng tôi ở trên sông Đexna chẳng được
bao lâu: quân Đức vây bọc chúng tôi, phải rút vào khu rừng Đrôzđôvxki. Chiến lợi
phẩm thì đem chia cho nông dân; quả tình chỗ rượu vang kia chúng tôi chia nhau
nốc hết, nhưng các thứ khác thì đưa vào bệnh xá. Lúc bấy giờ bên phía trái
chúng tôi có một đội du kích lớn của Krapivianxki đang hoạt động, bên phải thì
có Marunya. Nhiệm vụ chung của cả ba đội chúng tôi là làm thế nào đến Tsernigôv
và đánh chiếm thị xã này. Giá ba đội liên lạc với nhau cho tốt thì hay quá rồi...
Nhưng lại không có liên lạc thực sự, thành ra chậm chân mất. Quân Đức ngày nào
cũng kéo bộ binh, pháo binh, kỵ binh đi rầm rập. Chả là bọn chúng tôi như cái
gai trước mắt chúng nó. Chẳng hạn chúng nó vừa đi khỏi làng một cái là trong
làng đã tổ chức ngay ủy ban cách mạng, và vài thằng kulak đã lủng lẳng trên cây
phong... Một hôm tôi được cử sang bên Marunya lấy ít tiền: đồng đội đang cần
quá... Số là chúng tôi vẫn trả tiền mặt cho dân khi mua thực phẩm: ở chỗ chúng
tôi mà lấy không của dân thì xử tử ngay. Tôi ngồi lên xe đrôjki đi vào rừng
Kosêlêvô nói chuyện công việc với Marunya, nhận của ông ta một nghìn rúp tiền
Kêrenxki, rồi đánh xe trở về... Đến gần làng Jukôvka, tôi vừa đánh xe xuống một
khoảng đất trũng thì có hai người cưỡi ngựa lao vào tôi. “Cậu đi đâu thế? Quân
Đức đấy!...” - “Ở đâu?” - “Sắp vào Jukôvka rồi”. Tôi lùi xe lại, cho ngựa vào bụi,
nhảy xuống. Chúng tôi bắt đầu bàn xem nên làm thế nào? Không nghĩ đến chuyện
kháng cự trực diện với quân Đức được. Chúng có cả một binh đoàn, có pháo phiếc
cẩn thận...
- Ba người mà chống lại một binh đoàn thì
gay thật đấy, - người lính cựu nói.
- Gay quá đi chứ. Thế là chúng tôi quyết định
chỉ dọa quân Đức một mẻ thôi. Chúng tôi bò đi trong đám lúa tiểu mạch. Chúng
tôi nhìn thấy: kia là Jukôvka, và từ đây, ở trong khóm rừng con kéo ra một đoàn
binh mã khoảng hai trăm người, hai khẩu đại bác và một đoàn xe, và gần phía
chúng tôi hơn là một đội kỵ binh tuần tiễu. Rõ ràng là danh tiếng của quân du
kích khá lẫy lừng: có thế mới đem cả pháo binh đi đánh chúng tôi. Chúng tôi nằm
trong mấy mảnh vườn rau. Cả ba thằng đều cao hứng lắm: chúng tôi đang bấm bụng
cười, thưởng thức trò vui sắp tới. Đội tuẩn tiễu chỉ còn cách có năm mươi bước.
Tôi hô: “Toàn tiểu đoàn, bắn!”. Một loạt súng nổ, một loạt nữa... Một con ngựa
lăn kềnh ra, thằng Đức bò vào đám bụi gai. Chúng tôi lại bắn, lại lên quy lát
lách cách, cố làm cho thật ồn ào lên...
Cái đầu ở trên giá rung lên bần bật, cả đôi
mắt cũng rung. Chủ nhân phải lấy tay bịt miệng lại để khỏi cười rống lên. Người
lính cựu cười hể hả.
- Đội kỵ binh bỏ chạy về phía đại quân.
Quân Đức lập tức khai triển đội hình, điều lên phía trước mấy đội xạ kích, tiến
lên tấn công theo đúng nghi thức. Hai khẩu đại bác được tháo ra khỏi xe kéo và
bắt đầu nã đạn bảy mươi lăm ly vào các vườn rau, nơi các bà nhà ta đang bới
khoai tây... Đạn nổ ùng oàng, đất tung cả lên... Các bà nhà ta... (Người chột mắt
kéo lệch mũ sang bên tai, hắn không nhịn được nữa, cũng phì cười. Cái đầu ở
trên giá cười ngặt nghẽo). Các bà nhà ta như bầy gà mái bỏ chạy tán loạn...
Quân Đức chạy về phía làng... Tôi mới bảo: “Các cậu ơi, đùa dai thế đủ rồi, chuồn
thôi”. Chúng tôi lại bò trong đám lúa, đi ra chỗ đất trũng ban nãy. Tôi ngồi
lên xe đrôjki đánh vào rừng Đrôzđôvxki an toàn. Về sau dân làng Jukôvka có kể lại:
“Quân Đức tiến đến gần mấy mảnh vườn rau, sát bờ rào, rồi hét tướng lên: “Xung phong!”...
Trong khi đó thì sau bờ rào chẳng có ai hết... Ai trông thấy cái cảnh ấy cũng
phải cười lăn ra...”, Quân Đức chiếm đóng làng Jukôvka, lùng mãi chẳng thấy ủy
ban cách mạng hay du kích đâu hết, bèn tuyên bố thiết quân luật trong làng. Chừng
hai hôm sau, chúng tôi ở trong rừng Đrôzđôvxki có tin báo là có một đoàn xe chở
đạn rất lớn của Đức kéo vào vùng làng Jukôvka. Mà đối với chúng tôi thì đạn dược
là quí hơn cả... Chúng tôi bắt đầu bàn bạc, các cậu nhà ta rỏ giãi ra, bèn quyết
định tấn công Jukôvka để chiếm lấy được chỗ đạn dược của quân Đức. Chúng tôi tập
hợp khoảng một trăm người. Trong số đó có ba mươi chiến sĩ được điều ra đường
cái để chặn đường rút lui của quân Đức về phía Tsernygôv. Còn lại thì kéo thành
đoàn tiến về Jukôvka. Đến chập tối, chúng tôi bò đến phục ở một đám ruộng ở sát
làng và phái bảy người đi trinh sát, để xem cách bố trí ở trong làng về báo với
toàn đội, rồi đến khuya sẽ tấn công bất thình lình. Chúng tôi nằm im, hút thuốc
cũng cấm. Trời mưa lâm thâm, buồn ngủ, ướt át... Đợi mãi, đợi mãi mà chẳng thấy
gì. Trời đã bắt đầu hừng sáng, mà vẫn chẳng thấy động tĩnh gì cả. Thế này là
cái quái gì? Mấy bà trong làng đã bắt đầu lùa gia súc ra đồng. Bấy giờ mới thấy
bảy ông trinh sát bò ra... Té ra mấy ông tướng đêm qua bò vào đến chòi xay thì
nằm lại nghỉ một chút, thế chó nào lại ngủ quên luôn đến sáng, mãi đến khi các
bà lùa gia súc ra, suýt dẫm phải họ. Dĩ nhiên cuộc tấn công thế là đi đứt... Bọn
chúng tôi cáu không biết lấy gì nói cho hết. Phải lập phiên tòa xét xử và trừng
trị mấy cậu trinh sát. Anh em nhất trí quyết định xử bắn. Nhưng mấy cậu khóc òa
lên xin tha và hoàn toàn nhận rõ tội mình. Mấy cậu đều trẻ cả, phạm lỗi lần này
là lần đầu... Chúng tôi bèn quyết định tha thứ cho họ. Nhưng bắt họ hứa hễ có
chiến đấu là phải lập công chuộc tội.
- Cũng có khi phải tha thứ chứ, - người
lính cựu nói.
- Phải... Chúng tôi quay ra bàn bạc: thôi
không chiếm Jukôvka ban đêm thì chiếm ban ngày vậy chứ sao? Một cuộc hành binh
khá khó khăn, anh em đều hiểu mình dấn thân vào một trận đánh như thế nào.
Chúng tôi bố trí rất thưa, đợi hễ có tiếng súng máy là xông lên, không bò toài
gì hết, cứ phóng bừa lên.
- Hi hi! - Trên giá có tiếng cười bật ra.
- Thế nhưng quân Đức chẳng thấy đâu, chỉ thấy
một lũ đàn bà xách lẵng đi ra phía chúng tôi: họ đi hái dâu rừng, hôm ấy chả là
ngày hội. Họ trông thấy chúng tôi thì cười phá lên: các anh chậm chân mất rồi,
họ bảo thế, đoàn xe tải của Đức đã ra đường cái đi Kulikôvô được hai tiếng đồng
hồ rồi. Bấy giờ chúng tôi nhất trí quyết định đuổi theo quân Đức, có chết hết
trong trận này cũng vui lòng. Chúng tôi mang cả xẻng đi để đào công sự tại chỗ,
các bà trong làng đem bánh blin, bánh rán thịt ra cho chúng tôi ăn. Chúng tôi
xuất phát, sau lưng kéo theo cả một đám đông nghịt - dĩ nhiên đi theo vì tò mò
nhiều hơn - dễ đến một quân đoàn. Chúng tôi phát gậy cho đàn ông lẫn đàn bà và
bố trí thành hai hàng, người này cách người kia khoảng hai mươi bước, xen kẽ
người có súng với người cầm gậy cốt làm cho quân Đức thấy đông đâm hoảng. Cả
đoàn kéo dài ra đến năm dặm. Tôi chọn mười lăm chiến sĩ, trong đó có cả bảy cậu
trinh sát tai hại kia, lấy luôn cả hai viên sĩ quan do chính chúng tôi điều được,
hai tên phản cách mạng ra mặt, nhưng cảnh cáo cho hai chú biết là phải tỏ ra xứng
đáng với lòng tin cậy của chúng tôi mới mong thoát chết được. Nhóm chúng tôi chạy
lên trước chặn đường đoàn xe Đức... Thế là một trận đánh nhau diễn ra không phải
trong một ngày, cũng không phải hai... (Hắn khoát tay một cái, vẻ miễn cưỡng).
- Thế là thế nào? - người lính cựu hỏi.
- Là thế này... Nhóm tôi để cho đoàn quân lọt
qua rồi đánh vào phần đuôi, vào xe tải ấy. Cướp được hai mươi xe súng đạn.
Chúng tôi gấp rút trút đạn vào bị, phát súng trường cho mấy người nông dân vừa
chạy lên kịp, và tiếp tục tấn công vào đoàn quân Đức. Chúng tôi cứ tưởng mình
đang bao vây quân Đức, nhưng hóa ra chính quân Đức nó đang bao vây chúng tôi:
chúng nó kéo tới chỗ ấy từ ba ngả khác nhau, có đủ các thứ binh chủng. Chúng
tôi phân ra thành từng nhóm nhỏ, chui xuống các hố rãnh. Cũng may là quân Đức
khai triển tác chiến theo đúng mọi quy tắc của một trận đánh chính quy, chứ
không thì chúng tôi chẳng còn sống lấy một mống nào... Trong đội du kích chỉ
còn tôi với lại khoảng mười người nữa sống sót. Chúng tôi bắn cho đến khi hết đạn
mới thôi. Sau đó thấy là ở vùng này không thể nào thở nổi, phải vượt qua sông
Đexna, đi sang vùng trung lập, sang đất Nga. Tôi giấu súng đi và giả vờ làm một
tên tù binh đi về phía Novgorođ-Xeverxki...
- Thế bây giờ anh đi đâu?
- Đi Moxkva xin chỉ thị.
Pyavka còn kể nhiều chuyện nữa về quân du
kích và về sinh hoạt ở thôn quê. “Hết nạn này lại ách khác - cuộc sống của
chúng tôi là như thế đấy. Chúng nó đã đưa nông dân đến cái thế con sói bị dồn
vào bước đường cùng: chỉ còn một cách nhảy lên cắn cổ”. Bản thân Pyavka là người
vùng Nêjin, trước đây đi làm ở nhà máy củ cải đường. Anh ta mất một mắt thời
Kêrenxki, trong cuộc tấn công tai hại hồi tháng sáu. Anh ta thường nói: “Kêrenxki
đã móc mất một mắt của tôi”. Cũng vào dạo ấy, dưới chiến hào, anh ta đã làm
quen với những người cộng sản. Pyavka bây giờ là ủy viên xô-viết Nêjin, có chân
trong ủy ban cách mạng, bí mật hoạt động tổ chức phong trào khởi nghĩa.
Câu chuyện của Pyavka kể làm cho Đasa rất
xúc động. Có thể thấy rõ rằng đó là chuyện thật, và tất cả các hành khách chú mục
vào Pyavka đểu hiểu thế.
Phần còn lại của ngày hôm ấy, và cả đêm hôm
ấy nữa, đã làm cho Đasa rất mệt. Nàng ngồi, chân thu gom lại dưới ghế, mắt nhắm
nghiền, và suy nghĩ mãi đến nhức cả đầu, đến tuyệt vọng. Có hai chân lý: chân
lý của người du kích chột mắt, của mấy người lính cựu ở mặt trận về, của mấy
người đàn bà có bộ mặt chất phác, mệt mỏi đang ngủ gật trên toa, và cái chân lý
mà Kulitsek lớn tiếng hô hào. Nhưng không làm gì có hai chân lý. Một trong hai
cái chân lý đó là một sai lầm khủng khiếp, oan nghiệt, thảm hại...
Tàu đến Moxkva vào giữa trưa. Đasa lên một
chiếc xe thuê cổ kính của một người xà ích già. Con ngựa chạy nước kiệu lúp xúp
đưa nàng qua phố Myaxnitxkaia lầy lội và tồi tàn, hai bên chỉ trông thấy những
cửa hàng trống trải, bùn từ lòng phố bắn lên lấm tấm trên các cửa kính. Quang cảnh
hoang vắng của thành phố làm cho Đasa phải kinh ngạc, nàng hồi tưởng lại cảnh
Moxkva trong những ngày mà hàng nghìn người cầm cờ vừa kéo đi từng đoàn trên những
đường phố giá lạnh, chúc mừng nhau về cuộc cách mạng không hề đổ máu.
Trên quảng trường Lubyanxkaia, gió tung lên
những cột bụi xoáy lông lốc. Hai người lính mặc áo sơ-mi không thắt nịt, cổ
phanh ra, đang đi qua quảng trường. Một người gầy gò hom hem, mặt dài thưỡn,
mình mặc áo vét nhung ngoảnh lại nhìn Đasa, quát với theo một câu gì không rõ,
chạy theo xe một quãng, nhưng bụi tung lên tối tăm cả mặt mũi làm cho hắn đành
tụt lại phía sau. Khách sạn “Mêtrôpôl” bị nhiều phát đạn đại bác bắn lở ra từng
mảng, và đứng giữa các quảng trường bụi tung mù mịt này, người qua đường phải lấy
làm lạ khi thấy trong cái công viên nhỏ nhỏ đầy những rác rưởi ở góc đường có một
vồng hoa tươi tốt đang nở rộ, chẳng biết do ai trồng lên và trồng để làm gì.
Trên phố Tverxkaia, quang cảnh có sinh động
hơn. Đó đây có dăm cửa hiệu nhỏ mở cửa bán rốn thêm ít nữa. Trước mặt trụ sở
xô-viết đại biểu, ở chỗ trước kia có pho tượng Xkôbêlev bây giờ chỉ thấy một
hình khối vuông khổng lồ làm bằng gỗ phủ vải đỏ. Đasa thấy nó dễ sợ quá. Ông
lão đánh xe giơ roi chỉ vào phía ấy:
- Họ đã hạ bệ anh hùng rồi. Tôi đánh xe bao
nhiêu năm ở Moxkva mà trước sau pho tượng vẫn đứng đấy. Nhưng đến ngày nay thì
hình như nó không được vừa lòng chính phủ... Sống cách gì bây giờ? Cơ mầu này
thì đến chết mất cô ạ. Cỏ khô hai trăm rúp một yến. Các ông lớn chạy đi đâu hết
rồi, chỉ còn những đồng chí thôi; mà đồng chí thì cuốc bộ là phần nhiều... Cha!
Nhà nước với chả nhà nước! - Ông lão kéo dây cương - Giá có được ông vua nào...
Sắp đến quảng trường Xtraxtnaia, phía dưới
tấm biển đề “Cà-phê Bôm” ở bên trái đường, sau hai khung cửa kính có thể trông
thấy mấy người thanh niên vô công rổi nghề và mấy cô thiếu nữ uể oải đang ngồi
trên đi-văng hút thuốc và uống những thứ nước gì không rõ. Trước quán cà-phê có
một người để tóc dài không chải, mặt cạo nhẳn, đứng tựa vai vào khung cửa hút tẩu
thuốc. Trông thấy Đasa, hắn có vẻ như sửng sốt, bỏ tẩu thuốc xuống. Nhưng xe
Đasa đã vượt qua. Đây là cái tháp hồng của nhà dòng Xtraxtnôi, và đây là tượng
Puskin. Dưới khuỷu tay của nhà thơ vẫn còn miếng giẻ đã phai màu buộc ở đầu gậy
găm vào tượng từ hồi diễn ra những cuộc mít-tinh rầm rộ. Mấy đứa trẻ gầy gò chạy
trên cái bệ đá hoa cương. Trên một chiếc ghế dài có một bà đeo kính cặp mũi và
đội cái mũ con con giống hệt như cái mũ Puskin đang cầm sau lưng.
Trên đại lộ Tverxkôi lơ lửng mấy đám mây
thưa thớt. Một chiếc xe hơi vận tải chạy qua, thùng xe chở đầy lính. Ông lão xà
ích nháy mắt về phía xe, nói:
- Đi cướp của đấy. Cô có biết ông
Ôvxyanikôv không? Nhà triệu phú bậc nhất ở Moxkva đấy. Hôm qua cũng có một xe
lính như thế kéo đến nhà ông ta vét sạch đồ đạc chở đi. Ông Ovxyanikôv chỉ lắc
đầu rồi cứ thế nhắm mắt đi thẳng, chẳng cần biết đi đâu. Họ quên mất Chúa rồi,
các cụ già thường bảo nhau như thế.
Ở cuối đại lộ hiện ra những bức tường đổ
nát của tòa nhà Gagarin. Một người mặc áo gi-lê đứng chơ vơ trên một bức tường
đổ, dùng cuốc chim bổ cho gạch rơi xuống đất. Bên trái, một khối nhà đồ sộ cháy
đen thui nhìn lên bầu trời nhợt nhạt qua mấy khung cửa sổ trống hoác. Các nhà ở
xung quanh đều lỗ chỗ vết đạn. Một năm rưỡi trước đây Đasa và Katya chạy trên vỉa
hè này, đầu trùm khăn choàng rộng. Hôm ấy, lớp băng mỏng phủ trên mặt đường kêu
lạo xạo ở dưới chân, mấy ngôi sao soi mình trong những vũng nước giá lạnh. Hai
chị em chạy đến Câu lạc bộ trạng sư nghe bài báo cáo đặc biệt về những tin đồn
nói rằng cách mạng đã bùng nổ ở Pêterburg. Đêm ấy làn không khí giá lạnh mùa
xuân có sức làm cho lòng người ngây ngất, say sưa như một niềm hạnh phúc...
Đasa lắc mạnh mái đầu: “Thôi đừng nhớ nữa...
Đã chôn vùi hết từ lâu rồi...”
Chiếc xe thuê đi ra phố Arbat rồi rẽ vào một
ngõ hẹp ở bên trái. Tim Đasa đập mạnh đến nỗi ánh nắng tối sầm lại... Đây là
ngôi nhà trắng hai tầng có cái chòi nhỏ ở trên mái, nơi nàng đã từng ở với
Katya và người chồng quá cố của chị nàng từ năm mười lăm. Têlêghin trốn khỏi trại
tù binh Đức cũng tức tốc về đây. Nơi đây Katya đã gặp Rôstsin. Hôm làm lễ cưới,
bản thân Đasa đã bước ra từ cái cửa ọp ẹp này để được Têlêghin đỡ lên chiếc xe
kiệu nhỏ thắng con ngựa xám bất kham đưa hai vợ chồng nàng đi trong bóng hoàng
hôn nồng đượm khí xuân, giữa những ánh đèn hãy còn nhợt nhạt, trôi nhanh về hạnh
phúc. Cửa sổ trên cái chòi con đã vỡ hết. Đasa nhận ra màu giấy hoa trong phòng
nàng ngày trước, bây giờ đã trốc hồ rũ xuống từng mảng. Từ khung cửa sổ bay ra
một con quạ nhỏ. Ông lão đánh xe hỏi nàng:
- Bây giờ rẽ sang phải hay sang trái đây
cô?
Đasa lấy tờ giấy ra xem lại số nhà. Xe dừng
bánh trước một tòa nhà nhiều tầng. Cánh cửa chính đã bị đóng ván từ bên trong.
Thấy không có cách gì hỏi thăm ai được. Đasa bước lên mấy cầu thang gác tối om
tìm căn nhà 112-A. Thỉnh thoảng có vài nhà nghe tiếng chân Đasa liền mở hé cánh
cửa ra nhìn. Có thể ngỡ chừng như sau mỗi cánh cửa kia đều có một người đứng sẵn
để báo cho các nhà khác biết có khách khả nghi.
Đến tầng thứ năm, Đasa gõ hai tiếng liền
nhau rồi một tiếng nữa, theo đúng lời dặn. Bên trong có tiếng chân rón rén rồi
một người phì phò sau lỗ khóa, dòm ra ngoài, nhìn kỹ Đasa. Cánh cửa mở ra, và một
bà đứng tuổi cao lớn có đôi mắt lồi màu xanh đậm rất dễ sợ, hiện ra trên ngưỡng
cửa. Đasa lặng lẽ đưa mảnh danh thiếp hình tam giác. Người đàn bà nói:
- À, cô ở Pêterburg về... Mời cô vào.
Họ đi qua một gian nhà bếp rõ ràng là đã
không nấu nướng gì từ lâu, rồi bước vào một gian phòng lớn chăng rèm. Trong
bóng tối mờ mờ, thấp thoáng những đường viền của những bộ bàn ghế sang trọng,
những đồ trang trí bằng đồng đen bóng loáng, nhưng ở đây cũng có cái không khí
giá lạnh, hoang vu của những nơi đã lâu không có người ở. Người đàn bà mời Đasa
ngồi xuống ghế đi-văng rồi cũng ngồi xuống một bên, đôi mắt lồi dễ sợ mở rộng
ra nhìn khách.
- Cô nói đi, - bà ta ra lệnh, giọng nghiêm
khắc và hách dịch.
Đasa thành tâm cố tập trung tư tưởng, bắt đầu
truyền đạt một cách thực thà những tin tức đáng buồn mà Kulitsek đã dặn nàng kể
lại. Người đàn bà siết mạnh đôi bàn tay mỹ miều đeo đầy nhẫn lên hai đầu gối ép
chặt vào nhau, vặn mấy ngón tay kêu răng rắc...
- Thế ra ở Pêtrôgrađ các người chưa biết gì
hết ư? - bà ta ngắt lời nàng. Cái giọng trầm trầm của bà ta run run trong thanh
quản. - Các người chưa biết là đêm qua họ đã đến khám nhà đại tá Xiđôrôv... Họ
đã tìm ra một bản kế hoạch phân tán và bản danh sách động viên... Các người
chưa biết là tảng sáng hôm nay Vilenkin đã bị bắt... - Rướn thẳng ngực ra, bà
ta đứng dậy, vén tấm màn cửa, rồi ngoảnh về phía Đasa nói: - Mời cô vào đây. Có
người sẽ nói chuyện với cô...
- Mật hiệu! - Một người đàn ông đứng quay
lưng ra cửa sổ nói với nàng, giọng như ra lệnh. Đasa chìa cho hắn mảnh danh thiếp
hình tam giác - Ai đưa cho cô cái này? (Đasa bắt đầu trình bày) Nói ngắn chứ!
Tay trái hắn cầm một chiếc khăn mùi soa lụa
để bên miệng che một nửa khuôn mặt rám nắng hay cũng có thể là đã bôi một lớp
hóa trang màu nâu. Đôi mắt nhờ nhờ, tròng trắng như tráng một lớp men vàng vàng
nhìn trừng trừng vào Đasa, có ý sốt ruột. Hắn lại ngắt lời Đasa lần nữa.
- Cô có biết rõ là tham gia vào tổ chức, cô
có thể nguy đến tính mạng không?
- Tôi sống đơn độc và tự do, - Đasa nói. - Tôi
hầu như không biết chút gì về tổ chức. Nikanor Yurêvits giao việc cho tôi...
Tôi không thể bó tay ngồi không được nữa. Xin các ông tin cho rằng tôi không sợ
công việc, mà cũng không sợ...
- Cô còn trẻ quá. - Hắn nói, vẫn cái giọng
nhát gừng như cũ, nhưng Đasa đã giương cao đôi mày thủ thế:
- Tôi đã hai mươi bốn tuổi rồi.
- Cô có chồng chưa? (Nàng không đáp). Trong
trường hợp này, điều đó khá quan trọng. (Nàng gật đầu trả lời khẳng định). Cô
không cần nói gì về bản thân, tôi thấy rõ cô rồi. Tôi tin cô. Cô ngạc nhiên
không?
Đasa chỉ chớp mắt một cái. Những câu nói
nhát gừng, đầy tự tin, cái giọng mệnh lệnh, đôi mắt lạnh lùng đã nhanh chóng buộc
chặt cái ý chí đang lung lay của nàng lại. Nàng có cái cảm giác nhẹ nhõm như
khi ông thầy thuốc ngồi xuống cạnh giường, đôi kính trắng uyên bác sáng long
lanh, và nói với nàng: “Nào cô bạn quý, từ hôm nay ta sẽ theo chế độ sinh hoạt
như thế này nhé...”.
Bây giờ nàng chăm chú nhìn người cầm mùi
soa để bên miệng. Vóc người hắn hơi thấp, đầu hắn đội mũ phớt mềm, mình mặc chiếc
áo măng tô màu ngụy trang may rất đẹp, chân đi ghệt da. Cách trang phục cũng
như những động tác chính xác của hắn làm giống một người ngoại quốc. Hắn nói giọng
Pêterburg, tiếng nói không rõ âm sắc, nghe như khàn khàn:
- Cô trọ ở đâu?
- Xuống ga tôi đến thẳng đây.
- Rất tốt. Bây giờ cô sẽ ra phố Tverxkaia,
đến hiệu cà-phê “Bôm”. Cô sẽ ăn ở đấy. Sẽ có một người đến gặp cô: trên ca-vát
người ấy có một cái kim găm hình sọ người. Khẩu lệnh: “Gửi Chúa, lên đường bình
an”. Nghe khẩu lệnh xong, cô đưa cho người ấy xem cái này. (Hắn chìa miếng danh
thiếp hình tam giác ra làm hai, đưa cho Đasa một nửa) Khi đưa phải cẩn thận đừng
để ai trông thấy. Người kia sẽ chỉ dẫn cho cô những việc cần làm. Cô phải tuyệt
đối phục tòng người ấy. Cô có tiền không?
Hắn rút trong ví ra hai tờ ngân phiếu của
viện Đuma, mỗi tờ một nghìn rúp.
- Tiền chi tiêu sẽ có người trả hộ cô. Còn
số tiền này cô cố giữ lấy đề phòng khi gặp tai nạn bất ngờ, khi cần hối lộ, khi
phải đi trốn. Cô có thể gặp đủ các trường hợp bất trắc. Cô đi đi... Khoan... Cô
đã hiểu những điều tôi dặn chưa?
- Hiểu rồi, - Đasa đáp sau một vài giây ngập
ngừng, tay gấp hai tờ ngân phiếu lại năm sáu lần.
- Không hở ra một câu nào là đã gặp tôi.
Không hở ra với ai là đã đến đây. Cô đi đi.
Đasa ra phố Tverkaia. Nàng vừa đói vừa mệt.
Những hàng cây trên đại lộ Tverxkôi, những bóng người qua đường thưa thớt và âm
thầm cứ chập chờn trước mắt nàng như qua một làn sương mù. Tuy vậy nàng vẫn thấy
lòng thư thái vì cái tình trạng tê liệt mụ mẳm đã chấm dứt, và những sự biến
không thể hiểu được đã cuốn nàng vào cái bánh xe ma quái của nó, ném nàng vào một
cuộc sống kỳ ảo và dữ dội.
Hai người đàn bà đi dép cỏ đang đi ngược lại
phía nàng như hai cái bóng ảo đăng. Họ quay lại nhìn nàng và khẽ nói.
- Thật không biết dơ, say đến nỗi đi không
vững nữa.
Kế đến là một bà cao lớn có bộ tóc hoa râm
quấn thành tổ chim, xung quanh đôi môi hum húp hằn lên những nếp nhăn bi đát,
chiếc váy dài màu đen vá bằng một thứ hàng khác, trông như thể cố ý. Dưới tấm
khăn san, một múi buông xuống tận đất, bà ta ôm một chồng sách. Đi ngang Đasa
bà ta nói khẽ:
- Có Rôzanôv cô có lấy không, sách cấm đấy,
có cả toàn tập Vlađimia Xôloviôv...
Đi một quãng nữa thấy một ông già đang cúi
xuống một chiếc ghế đá đặt bên hè, làm gì không rõ. Khi đi ngang qua, Đasa thấy
trên ghế có hai người lính hồng quân nằm kề vai nhau ngủ rất say, mồm há hốc,
súng gác giữa hai bắp đùi; mấy ông già đang thì thầm chửi rủa họ những câu thậm
tệ.
Sau rặng cây, một ngọn gió khô khan thổi bụi
bay là là trên mặt đất. Một chuyến xe điện hiếm hoi khua mấy tiếng chuông rời rạc,
cái bậc lên xuống đã gẫy kéo lê loẹt quẹt trên đá lát đường. Những chùm lính
xám xịt bám trên các cửa xe, ngồi cả lên tấm lá chắn ở phía sau. Trên mái đầu đồng
đen của Puskin nhảy nhót mấy con chim sẽ thờ ơ với cách mạng.
Đasa rẽ vào phố Tverxkaia. Từ phía sau một
đám bụi phả vào nàng kéo theo cả một mớ giấy vụn bay lả tả quanh người nàng và
cứ thế theo nàng đến tận hiệu cà-phê “Bôm”, thành trì cuối cùng của cuộc sống
cũ vô tư lự.
Đây là nơi tụ tập của các nhà thơ thuộc đủ
các trường phái, của những nhà báo giải nghệ, của những tay đầu cơ văn học, của
những chàng thanh niên láu lỉnh đã thích nghi được với thời buổi một cách dễ
dãi và tài tình, của những cô thiếu nữ đang tự đầu độc bằng nỗi chán chường, bằng
thuốc phiện trắng, của những gã vô chính phủ tép riu đang đi tìm những cách xử
trí thật chua cay, của những thị dân bình thường bị mấy chiếc bánh ngọt cám dỗ.
Đasa vừa mới ngồi xuống một cái ghế ở cuối
phòng, dưới pho tượng bán thân của một nhà văn nổi tiếng, đã có một người nào đứng
dậy hoa tay múa chân vượt qua đám khói thuốc lá mù mịt ngồi phịch xuống cạnh
Đasa, miệng nhoẻn thành một nụ cười ướt át để lộ hàng răng siết. Đó là một người
quen lâu đời, nhà thơ Alekxanđr Jirôv.
- Ban nãy ở phố Lubyanka tôi đã chạy theo
xe cô mãi... Lúc ấy tôi đã biết chắc là cô rồi đấy, Đarya Đmitrievna ạ. Cô ở
đâu đến thế? Duyên số nào run rủi vậy? Cô đi một mình à? Hay đi với chồng? cô
có nhớ tôi không? Hồi trước tôi đã có dạo yêu cô đấy: Cô cũng biết thế, phải
không nào?
Đôi mắt hắn như mới tráng một lớp dầu nhờn.
Hiển nhiên là hắn không chờ đợi Đasa trả lời lấy một câu hỏi nào của hắn. Hắn vẫn
như cũ: lúc nào cũng run lên vì khích động, chỉ có cái nước da ốm yếu của hắn
nay đã xỉn lại, trên khuôn mặt gầy và dài, cái mũi hơi lệch, phần dưới bạnh ra,
trông càng to hơn.
- Còn tôi, tôi đã thể nghiệm biết bao thế sự
thăng trầm trong mấy năm qua... Thật là huyễn hoặc... Tôi mới về Moxkva được ít
lâu... Tôi ở trong nhóm hình tượng chủ nghĩa: Xêriôja Yexênin, Burlyuk,
Krutsevykh, chúng tôi đang đập phá... Cô có đi ngang qua quảng trường Xtraxnoi
không? Cô có trông thấy hàng chữ cao một thước kẻ trên tường không? Đó là một
trò xấc xược ở quy mô thế giới!... Ngay cả mấy chú bolsêvik cũng phải sửng sốt...
Tôi với Yexêmin làm suốt đêm đấy... Chúng tôi đã chơi xỏ Đức Mẹ và Chúa Jêxu một
keo điếng người... Cô ạ, thật là một cuộc báng bổ có quy mô vũ trụ: Tảng sáng
có hai bà già đọc mấy hàng chữ ấy rồi lăn đùng ra chết tại chỗ đấy... Đarya
Đmitrievna ạ, ngoài ra tôi lại tham gia cả nhóm “Diều đen” của phái vô chính phủ
nữa... Chúng tôi sẽ đưa cô vào... Không, không, cô đừng hòng nói chuyện từ chối
với tôi... Cô có biết thủ lĩnh của chúng tôi là ai không? Mamônt Đalxki đấy, phải,
con người trứ danh ấy đấy... Một thiên tài... Một Kin [Kean
Edmund, 1787-1833, diễn viên Anh nổi tiếng chuyên đóng các vai bi kịch của
Shakespeare] tái thế... Một nhà cách tân vĩ đại... Chỉ vài tuần nữa
thôi là cả Moxkva sẽ ở trong tay chúng tôi... Thế là sẽ bắt đầu một thời đại mới!
Moxkva sẽ rợp bóng cờ đen. Chúng tôi định ăn mừng thắng lợi - cô có biết bằng
cách gì không? Chúng tôi sẽ tuyên bố mở vũ hội hóa trang cho toàn dân... Bao
nhiêu kho rượu cho ra phố hết, ở các quảng trường sẽ có nhạc binh. Một triệu rưỡi
người dự vũ hội. Không còn nghi ngờ gì nữa: một nửa số người ấy sẽ xuất hiện trần
truồng... Và thay cho pháo hoa, chúng tôi sẽ cho nổ các kho đạn đại bác ở đảo
Lôxin. Trong lịch sử thế giới chưa từng có một cái gì tương tự như vậy.
Trong mấy ngày qua, đây là hệ thống chính
trị thứ ba mà Đasa đã được làm quen. Bây giờ nàng chỉ thấy sợ. Thậm chí nàng
quên cả đói. Rất hài lòng với cái ấn tượng đã gây được, Jirôv bắt đầu đi vào
chi tiết.
- Chả nhẽ cô lại không thấy lộn ruột lên
trước cái cảnh tầm thường ti tiện của thành phố hiện tại hay sao? Bạn tôi là
Valet, một họa sĩ thiên tài - hẳn cô còn nhớ anh ta chứ - đã vạch dự án cải tạo
hoàn toàn bộ mặt của thành phố... Đập phá hết và xây dựng lại hoàn toàn mới:
hơi tiếc là không kịp làm việc đó xong trước ngày vũ hội... Chúng tôi quyết định
cho nổ mìn một số di tích - trước hết dĩ nhiên là phải cho nổ Viện bảo tàng lịch
sử, thành Kremlin, tháp Xukharev, tòa nhà của Pertxôv... Dọc hai bên phố chúng
tôi sẽ dựng những tấm pa-nô cho che kín hai dãy vẽ những chủ đề kiến trúc tương
lai theo một phong cách tối tân chưa từng thấy... Cây cối... - màu lá tự nhiên
là một cái gì không thể chấp nhận được - thì chúng tôi sẽ dùng sơn xì nhuộm nhiều
màu khác nhau.... Cô thử tưởng tượng mà xem: những dãy bồ đề đen nhánh trên đại
lộ Pretsixtenxki, Đại lộ Tverxkôi một màu tím rùng rợn... Tuyệt! Chúng tôi cũng
quyết định tổ chức một cuộc phỉ báng toàn dân đối với Puskin... Đarya Đmitrievna,
chắc cô còn nhớ những buổi “báng bổ huy hoàng” và cuộc “đấu tranh chống nếp
sinh hoạt hàng ngày” ở nhà Têlêghin nhỉ? Thế mà dạo ấy người ta lại nhạo báng
chúng tôi kia chứ!
Cười rúc rích như run lên từng đợt lăn tăn
vì ớn lạnh, Jirôv nhắc nhở thời xưa, ngồi dịch lại gần Đasa và đã mấy lần,
trong khi hoa tay múa chân, chạm vào bộ ngực chỉ hơi nhú lên của Đasa...
- Cô có nhớ Elizaveta Kievna không? Cô gái
có đôi mắt cừu ấy mà? Đang mê vị hôn phu của cô như điếu đổ mà lại đi với
Bexxônôv. Chồng cô ta là Jađôv, một chiến sĩ kiệt xuất của phái vô chính phủ...
Jađôv và Mamont Đalxki hiện nay là hai con chủ bài chính của chúng tôi. À này,
cả Antôska Arnôlđôv cũng đang ở đây đấy! Hồi chính phủ lâm thời hắn nắm hết báo
chí. Hai chiếc xe hơi riêng... Nhân tình toàn là những ả quý tộc. Trong số đó
có một ả người Hung ở “Villa Rođê”, đẹp đến mức quái dị: hắn ngủ với ả ta mà
cũng phải để sẵn súng lục một bên. Tháng Bảy năm ngoái hắn có sang Pari, hắn
suýt được cử làm đại sứ đấy... Thằng cha ngu như con lừa!... Hắn không kịp tuồn
ngoại tệ ra nước ngoài, thế là bây giờ đói rách như ăn mày ấy. Phải, Đarya
Đmitrievna ạ, phải đi đều nhịp với thời đại mới được... Antôska Arnôlđôv chết
vì căn nhà sang trọng ở phố Kirôtsnaia, vì mấy bộ bàn ghế thiếp vàng, vì mấy
cái bình cà-phê, vì một trăm đôi giày của hắn. Phải đột phá, xé toang mọi thành
kiến... Phải giành một sự tự do tuyệt đối, thú vật, toàn vẹn -thế mới được! Sau
này sẽ không còn thời đại nào như thế nữa... Và chúng ta sẽ thực hiện một cuộc
thí nghiệm vĩ đại. Tất cả những kẻ đi tìm sự yên ổn trưởng giả sẽ đè bẹp họ...
Con người là một dục vọng không có gì hạn chế... (Hắn hạ giọng, ghé sát vào tai
Đasa) Bọn bolsêvik như cứt ấy... Họ chỉ khá được một tuần hồi tháng mười... Sau
đó lập tức quay ra ham chuộng tổ chức nhà nước. Nước Nga xưa nay vẫn là một nước
vô chính phủ, người mu-gích Nga là người vô chính phủ tự bản chất... Bọn
bolsêvik muốn biến nước Nga thành một công xưởng - xì! Không được đâu, chúng
tôi có Makhnô... So với Makhnô, Piôtr đại đế chỉ là một con chó con... Makhnô ở
miền Nam, Mamônt Đalxki và Jađôv ở Moxkva. Chúng tôi sẽ đốt phá từ hai mũi. Đêm
nay tôi sẽ dẫn cô đến một nơi, cô sẽ được thấy tận mắt, cho biết cái quy mô đồ
sộ của sự nghiệp chúng tôi... Đồng ý nhé? Đi nhé?
Đã mấy phút rồi có một người thanh niên
xanh xao để bộ râu cằm nhọn đến ngồi ở bàn bên. Từ phía sau tờ báo, hắn chăm
chú nhìn Đasa qua cái kính cặp mũi. Ù tai choáng óc trước những tưởng tượng hão
huyền của Jirôv, nàng không hề nghĩ đến chuyện phản đối hắn: trong những đám
khói thuốc lá nàng mường tượng thấy những ý đồ quái đản ấy nảy sinh ra như những
làn chớp, và trước mắt nàng chờn vờn những bộ mặt kỳ dị với những mẩu thuốc lá
cắn nát bét và những đôi đồng tử mở rộng... Nàng còn có thể nói gì để bác lại?
Có chăng cũng chỉ phát ra được những tiếng chiêm chiếp ai oán như tiếng gà con
để nói rằng trái tim bé nhỏ của nàng run sợ trước những cuộc thí nghiệm này, và
dĩ nhiên tiếng cười quái đản, tiếng reo hò, tiếng suỵt chó, tiếng la ó ầm ĩ sẽ
át tiếng chiêm chiếp của nàng.
Đôi mắt của người có bộ râu nhọn nhìn nàng
mỗi lúc một xoi mói hơn. Nàng đã trông thấy cái kim găm hình sọ người trên cái
cà vạt màu huyết dụ của hắn và đoán chắc đó là người mình phải gặp. Nàng toan đứng
dậy nhưng hắn khẽ lắc đầu ra hiệu cho nàng ngồi yên. Đasa cau mặt, nghĩ kế. Hắn
đưa mắt chỉ Jirôv. Nàng hiểu ý, liền yêu cầu Jirôv đi gọi món ăn cho nàng. Bấy
giờ người có râu cằm nhọn lại gần nàng và nói, môi không mấp máy:
- Gửi Chúa, lên đường bình an.
Đasa mở ví lấy nửa hình tam giác ra. Người
kia lắp nó vào nửa thứ hai, rồi xé vụn cả hai mảnh ra.
- Tại sao cô quen Jirôv? - hắn hỏi nhanh.
- Đã lâu rồi, hồi ở Pêterburg.
- Như thế cũng tiện. Cần làm cho người ta
tưởng cô ở trong nhóm ấy. Hắn đề nghị cô cũng cứ bằng lòng đi. Rồi đến mai - cô
nhớ kỹ nhé - cũng vào giờ này cô đến tượng Gôgôl ở đại lộ Prêtsixtenkxi. Cô ngủ
lại ở đâu?
- Tôi chưa biết.
- Đêm nay thì cô ngủ ở đâu cũng được. Cô cứ
đi với Jirôv.
- Tôi mệt lắm. - Mắt Đasa rưng rưng, tay
nàng lẩy bẩy, nhưng nhìn bộ mặt lạnh lùng và cái sọ người trên cà-vạt của hắn,
nàng nhẫn nhục cúi đầu.
- Cô nhớ kỹ là phải tuyệt đối bí mật. Nếu
cô nói hở ra, dù là vô tình cũng vậy, trong giai đoạn quyết liệt này, chúng tôi
sẽ phải thủ tiêu cô...
Hắn nhấn mạnh hai chữ này. Mấy ngón chân của
Đasa co quắp lại. Lúc ấy Jirôv bưng hai đĩa thức ăn đi về bàn. Người có bộ râu
nhọn đến cạnh hắn, đôi môi mỏng nhếch lên thành một nụ cười, và Đasa nghe hắn
nói:
- Xinh nhỉ. Ai đấy?
- Thôi xin cậu đi, Yurka ạ, chẳng phải dành
cho cậu đâu.
Jirôv nhìn theo hắn, hàm răng siết nhe ra,
không biết để cười hay để dọa, rồi đặt xuống trước mặt Đasa một khúc bánh mì
đen, mấy miếng xúc xích và một cốc nước gì nâu nâu.
- Tối nay thế nào? Cô rỗi chứ?
- Thế nào cũng được, - Đasa vừa đáp vừa cắn
miếng xúc xích một cách ngon lành đến mức xót xa nhức nhối.
Jirôv mời Đasa về căn buồng của hắn thuê ở
khách sạn “Lux” ở chênh chếch bên kia đường.
- Cô ngủ đi một chút, tắm rửa đi, rồi khoảng
mười giờ tôi sẽ đến gọi cô.
Hắn lăng xăng cuống quít, vẻ còn hơi e dè
trước mặt Đasa vì những kỷ niệm cũ. Cái giường của hắn - có mắc rèm gấm và trải
thảm hồng trông khả nghi đến nỗi hắn cũng hiểu ra điều đó và bàn với Đasa dọn
chỗ ở chiếc đi-văng. Sau khi dẹp hết những sách báo, bản thảo bừa bãi trên
đi-văng, hắn trải một tấm khăn lót giường, phủ lên trên một tấm da lông màu đen
tháo của một cái áo khoác đắt tiền nào đấy, cười hềnh hệch rồi đi ra. Đasa cởi
giày. Hai bên hông, hai chân cả người nàng đều mỏi nhừ ra. Nàng nằm xuống và ngủ
thiếp đi ngay, mình được ủ ấm dưới tấm da lông thoang thoảng mùi nước hoa, mùi
thú rừng và mùi băng phiến. Nàng không nghe thấy tiếng Jirôv vào phòng và cúi
xuống ngắm nàng, cũng không nghe thấy tiếng một người cao lớn, mặt cạo nhẵn,
trông giống một người La Mã cổ đại, đang đứng ở ngưỡng cửa nói ồ ồ: “Thôi được,
cứ đưa cô ấy đến, tôi sẽ viết cho mấy chữ”.
Trời đã tối hẳn từ lâu khi nàng thở dài một
tiếng rồi tỉnh dậy. Mảnh trăng vàng nhạt trên mái nhà nhìn qua tấm kính cửa sổ
lồi lõm không đều trông méo mó hẳn đi. Ánh điện ngoài hành lang lọt qua cái kẽ
hở dưới cánh cửa vẽ thành một đường thẳng dài. Mãi lát sau Đasa mới nhớ ra là
mình đang ở đâu, đi vội bít tất vào, sửa lại tóc, áo và đến cạnh la-va-bô. Cái
khăn mặt bẩn đến nỗi Đasa ngần ngại mãi, nước nhỏ tong tong từ dưới đầu ngón
tay xòe rộng, rồi cuối cùng nàng đành lau tay vào mặt trong chiếc váy đang mặc.
Nàng chợt thấy buồn chán đến xót xa trước
cái cảnh bẩn thỉu này, cổ nàng se lại vì ghê tởm. Ước gì có thể chạy một mạch về
nhà, về với khung cửa sổ sạch bóng, với đàn chim én của nàng!... Nàng quay đầu
nhìn lên mảnh trăng - một lưỡi liềm khô cằn, méo mó, dễ sợ lơ lửng trên thành
Moxkva. Không, không thể được... Đường về không còn nữa, không thể chết cô đơn
trên chiếc ghế bành bên khung cửa sổ nhìn xuống đại lộ Kamenny Oxtrôv vắng
tanh, trong khi lắng nghe tiếng đanh đóng chan chát vào những tấm ván bịt kín
các cửa nhà... Không... Rồi có ra sao cũng đành...
Có tiếng gõ cửa, và Jirôv rón rén bước vào.
- Kiếm được phiếu rồi, cô Đarya Đmitrievna ạ,
ta đi thôi.
Đasa chẳng buồn hỏi xem phiếu gì, và đi
đâu. Nàng đội chiếc mũ chụp tự làm lấy, ép chặt cái ví đựng hai tờ giấy nghìn
bên dùi, và theo Jirôv ra ngoài. Một bên phố Tverxkaia sáng mờ dưới trăng. Đèn
đường không thắp. Một đội tuần tra âm thầm lê ủng đi chầm chậm trên phố vắng.
Jirôv rẽ ra đại lộ Tverxkôi. Ánh trăng chiếu
xuống từng vệt mờ mờ trên mặt đất mấp mô. Dưới rặng bồ đề, bóng tối dày đặc đến
nỗi nhìn vào mà rợn cả người. Phía trước hình như vừa có một bóng người chạy vụt
vào cái khoảng tối mịt ấy. Jirôv đứng lại, trên tay lăm lăm một khẩu súng lục.
Hắn đứng yên một lát rồi huýt sáo khe khẽ.
Từ trong bóng tối có tiếng huýt sáo đáp lại. “Polunđra” - hắn nói to hơn. “Đồng
chí đi” - một giọng người đáp lại, rành rọt và uể oải.
Họ rẽ sang phố Malaia Đmitrôvka. Trước mặt
có hai người mặc áo da đi nhanh qua phố. Họ nhìn Đasa và Jirôv rồi lặng lẽ
tránh ra nhường lối. Bên cửa vào Câu lạc bộ Thương nghiệp - ở tầng hai, bên
trên thềm nhà có treo một lá cờ đen - từ sau dãy cột bỗng có bốn người bước ra,
tay lăm lăm mấy khẩu súng lục. Đasa giật mình suýt ngã. Jirôv gắt:
- Các đồng chí làm cái trò gì thế? Khỉ thật,
chỉ được cái dọa người một cách vô ích. Tôi có phiếu của Mamônt đây.
- Đưa xem.
Dưới ánh trăng, bốn “chiến sĩ” vô chính phủ,
cổ áo khoác dựng lên lấp cả hai má nhẵn nhụi, lưỡi trai sụp xuống che kín cả mắt,
bắt đầu xem xét tấm phiếu. Gương mặt Jirôv cứng đờ ra trong một nụ cười gượng gạo,
trông như một xác chết. Một trong bốn người kia hỏi giọng thô lỗ:
- Nhưng phiếu viết cho ai mới được chứ?
- Cho nữ đồng chí đây, - Jirôv nắm lấy tay
Đasa, - đồng chí ấy là nữ nghệ sĩ ở Pêtrôgrađ mới đến... Cần phải trang phục...
Đồng chí ấy vào nhóm ta...
- Thôi được, vào đi...
Đasa và Jirôv bước vào một căn phòng mắc áo
tối mờ mờ, có đặt một khẩu súng máy ở dưới chân cầu thang. Người phụ trách kho
từ phía trong bước ra. Đó là một sinh viên người thấp, má phính, mặc áo quần
quân sự mà đội mũ fexka [Mũ hình cái xoong có ngù ở trên, thường dùng ở các
nước Cận đông]. Hắn lật lên lật xuống đọc đi đọc lại tấm phiếu hồi
lâu, rồi hỏi Đasa, giọng càu nhàu:
- Cần thứ gì?
Jirôv đỡ lời:
- Mamônt có ra lệnh là phải trang phục đầy
đủ từ đầu đến chân: chọn những thứ sang nhất ấy.
- Mamônt có ra lệnh là thế nào?... Đồng chí
nên biết rằng ở đây không có ai được ra lệnh cả... Đây không phải là cửa hiệu...
(Hắn ngứa đùi quá, mặt nhăn như bị, với tay xuống gãi sồn sột). Thôi được, đi
vào đây.
Hắn rút ra một cái chìa khóa và đi vào gian
phòng trước kia dùng làm nơi treo quần áo, còn bây giờ là kho vật tư của trụ sở
đảng Vô chính phủ.
- Đarya Đmitrievna ạ, cô chọn đi, đừng ngần
ngại gì cả, toàn là tài sản của nhân dân cả đấy mà...
Jirôv vung rộng cánh tay chỉ những dãy giá
treo san sát những bộ áo lông loại quý: lông chồn bạc, lông chồn hương, lông
cáo đỏ, lông cáo nâu, lông sinsila, lông hải ly, lông vượn. Những thứ ấy còn để
la liệt trên mấy cái bàn hay chất đống giữa sàn. Trong những chiếc va-ly mở nắp
xếp bừa bộn những áo dài, đồ lót và hộp đựng giày. Dễ có đến mấy kho hàng xa xỉ
phẩm chở đến dồn cả vào gian phòng này. Viên phụ trách kho hoàn toàn thờ ơ trước
đống của phong phú đó, ngồi ngáp vặt trên một cái thùng.
- Đarya Đmitrievna ạ, cô thích thứ gì thì cứ
lấy tự nhiên, tôi sẽ mang cho; ta sẽ lên trên kia thay trang phục.
Dù những cảm xúc và tư duy của Đasa lúc này
có phức tạp đến đâu chăng nữa, thì trước hết nàng vẫn là người đàn bà. Má nàng ửng
hồng lên. Một tuần trước đây, khi nàng đang tàn héo dần như một đóa hoa linh
lan bên khung cửa sổ và thấy cuộc đời đã chấm dứt, không còn mong đợi gì nữa,
có lẽ không có một thứ ngọc ngà châu báu nào có thể cám dỗ nàng. Nhưng bây giờ
thì bốn bề đã mở rộng thênh thang - cái mà nàng vẫn tưởng là tê liệt đi, đã chết
rồi, nay lại bắt đầu cử động. Nàng bước vào cái trạng thái kỳ lạ khi những ước
muốn, niềm hy vọng mới bừng tỉnh đều hướng về lớp sương mù đầy lo lắng của ngày
mai, còn hiện tại thì đổ nát, điêu tàn như một ngôi nhà bỏ hoang.
Nàng không nhận ra giọng nói của mình nữa,
kinh ngạc trước những câu trả lời, những cử chỉ của mình, trước cái thái độ điềm
tĩnh của mình khi cảm thụ những cảnh hoang đường huyễn hoặc đang quay cuồng ở
xung quanh. Bằng thứ bản năng tự vệ nào đấy từ trước tới nay vẫn chìm trong giấc
ngủ, nàng cảm thấy rằng bây giờ phải giương hết buồm lên và ném tất cả những
hành lý cũ kỹ nặng nề xuống biển.
Nàng chìa tay về phía tấm khăn quàng bằng lông
chồn bạc:
- Làm ơn cho tôi cái này.
Jirôv đưa mắt nhìn viên phụ trách kho. Hắn
nhún vai. Jirôv lấy tấm khăn xuống, vắt lên vai. Đasa cúi mình trên một cái
rương mở nắp. Rồi nàng thọc cánh tay vào mớ đồ lót. lút đến tận khuỷu.
- Đarya Đmitrievna, còn giày nữa chứ? Cô lấy
cả giày đi mưa nữa đi. Áo mặc buổi tối trong tủ kia kìa. Đồng chí phụ trách ơi,
cho mượn chìa khóa đi... Đối với một nữ nghệ sĩ, trang phục là công cụ sản suất
đấy đồng chí ạ.
- Thôi thôi, muốn lấy gì thì cứ lấy đi -
viên phụ trách nói.
Đasa và theo sau là Jirôv tay bê một mớ quần
áo giày dép, đi lên tầng hai, vào một căn phòng nhỏ có tấm gương bị một viên đạn
bắn thủng. Giữa những đường rạn nứt chạy chằng chịt như mạng nhện trên tấm kính
mờ mờ, Đasa trông thấy một người đàn bà nào khác đang thong thả xỏ chân vào đôi
bít tất lụa. Người ấy khoác lên mình một chiếc áo sơ-mi rất mịn, mặc chiếc quần
lót viền đăng ten vào, lấy mũi giày hất đống quần áo mạng sang một bên, rồi
khoác tấm da lông chồn lên đôi vai gầy... Cô là ai thế, cô bạn thân mến? Một
con đĩ chăng? Hay là một con ăn cướp, một con ăn cắp? Dù sao cô cũng xinh đẹp
quá... Thế là tất cả đều đang chờ cô ở phía trước. Thôi, rồi sẽ thử tìm cách
phân giải sau...
* * *
Phòng ăn lớn của khách sạn “Mêtrôpôl” đã bị
những trận pháo kích hồi tháng mười làm hư hỏng cho nên không mở cửa, nhưng
khách sạn vẫn dọn thức ăn và rượu vang cho khách ở các phòng ăn riêng, vì một
phần khách sạn được giành cho người ngoại quốc, phần đông là người Đức, và cho
những thương gia liều lĩnh đã xoay xở được một tờ hộ chiếu ngoại quốc -
Li-toan, Ba-lan hay Ba-tư. Trong các phòng ăn riêng ấy, người ta chè chén linh
đình như ở Florenxya hồi có dịch hạch. Nếu có tay trong, người Moxkva chính cống
cũng có thể được đưa vào cổng sau: đó phần lớn là những diễn viên biết chắc rằng
các nhà hát ở Moxkva không thể nào thọ được đến cuối mùa: trước mắt nhà hát
cũng như diễn viên là một cái chết vô phương cứu vãn. Thế là các diễn viên uống
rượu tì tì, không hề biết tiếc thân.
Linh hồn của những bữa chén ban đêm này là
Đamônt Đalxki, một diễn viên kịch nói, chuyên đóng bi kịch, mà mới gần đây thôi
tên tuổi còn lừng lẫy không kém gì Rôxxi. Đó là một người tính khí rất kỳ quặc
hung hãn, dung mạo tuấn tú, hay đánh bạc, điên rồ một cách có ý thức, oai vệ và
xảo trá. Mấy năm gần đây hắn ít khi lên sân khấu, chỉ biểu diễn trong những
chuyến đi lưu động. Người ta thường gặp hắn trong các sòng bạc ở hai kinh
thành, ở miền nam, ở Xibiri. Người ta truyền tụng những canh bạc quái gở trong
đó hắn thua những món tiền khó tưởng tượng nổi. Bây giờ hắn đã bắt đầu về già,
và thường nói là mình sắp giải nghệ. Hồi đại chiến hắn có dính líu vào những vụ
đầu cơ ám muội quanh cục quân nhu. Đến khi cách mạng bùng nổ, hắn xuất hiện ở
Moxkva. Hắn đánh hơi thấy đây là một màn bi kịch khổng lồ, và nẩy ra cái ý muốn
đóng vai chính trong vở “Anh em kẻ cướp” mới cải biên này. Với tất cả sức thuyết
phục của một diễn viên thiên tài, hắn lên tiếng tuyên truyền cho chế độ vô
chính phủ thần thánh và cho quyền tự do tuyệt đối, thuyết lý về tính chất ước định
của các nguyên tắc luân lý và về quyền của mọi người được làm và được tất cả những
gì mình muốn. Hắn gieo rắc sự kích động trong tâm trí người Moxkva. Khi có những
nhóm thanh niên, được tăng cường bằng những phần tử tội phạm, bắt đầu nổi lên
đi trưng dụng của cải trong các biệt thự, hắn đã tập trung những nhóm vô chính
phủ rời rạc này lại, dùng vũ lực chiếm câu lạc bộ thương nhân làm trụ sở cho đảng
vô chính phủ. Hắn tuyên chiến với chính quyền xô viết, nhưng chắc chắn là trí
tưởng tượng của hắn còn đi xa hơn những căn nhà kho của Câu lạc bộ thương nhân
và những cuộc chè chén ban đêm, khi hắn đứng trên cửa sổ trụ sở diễn thuyết trước
dân chúng, và sau một cử chỉ đặc phong cách Hy La cổ đại, hắn ra lệnh cho thủ hạ
gieo xuống đám đông đứng dưới sân nào quần, nào ủng, nào vải vóc, nào rượu
cô-nhắc đóng chai.
Mamônt Đalxki chính là người mà Đasa nhìn
thấy trước tiên khi cùng với Jirôv bước vào căn phòng riêng của khách sạn “Mêtrôpôl”
- một gương mặt tối sẫm, như đúc bằng đồng đen, trên đó những dục vọng cuồng
nhiệt và quãng đời đập phá hoang tàng, như một nhà điêu khắc vĩ đại đã chạm lên
những nếp gấp, những nếp nhăn, những đường nét cương nghị của đôi môi, của cái
cằm và những đường gân rắn rỏi trên cái cổ đóng khung trong chiếc áo sơ mi mềm,
không còn sạch lắm...
Nắp dương cầm đã mở. Một người mảnh khảnh,
mặt cạo nhẵn, mình mặc chiếc áo vét nhung, đầu ngửa ra đằng sau, mồm cắn điếu
thuốc, đôi hàng mi lim dim phủ lên đôi mắt ướt mơ màng, đang dập lên phím đàn
những hợp âm ai điếu. Quanh bàn ăn, mấy vĩ nhân lừng danh thế giới đang ngồi
trước một mớ chai đã rót cạn. Một người mũi hếch, cái cằm cương nghị tựa lên
lòng bàn tay, khiến cho cái mặt hơi nhão càng bẹt ra, cất cái giọng tenor thanh thanh hát phần của linh mục
chủ lễ. Những người kia - một gã lý sự dung mạo như cái hũ, một diễn viên hài kịch
có bộ mặt đưa đám, môi trề xuống; một vai anh hùng râu ba ngày chưa cạo, mũi nhọn
hoắt, một gã tình nhân say khổ say sở; một vai chính diện công tử có vầng trán
rực lửa và những nếp nhăn sâu, trông chẳng có vẻ gì là say hết - hễ đến lúc lại
cùng cất tiếng hát phần đồng ca.
Ông thầy lễ của nhà thờ “Chúa cứu thế”, một
con người đẹp trai đã về già, tóc hoa râm, đeo đôi kính gọng vàng nặng đến ba lạng
do giới thương nhân Moxkva đánh riêng để biếu ông ta, đang đi đi lại lại trên tấm
thảm, ống tay áo chùng phe phẩy, chốc chốc lại đệm vào những câu thánh ca. Cái
giọng cực trầm vừa êm như nhung vừa dữ vội như tiếng thú gầm của ông làm cho những
cốc tách pha lê để trên bàn rung lên lanh lảnh. Căn phòng ăn tường chăng lụa đỏ
thẫm, với những bức rèm cửa bằng gấm, sát cửa ra vào có đặt một bức bình phong
ba tấm.
Mamônt Đalxki đứng tựa khuỷu tay vào bức
bình phong ấy. Trong tay hắn cầm một cổ bài. Hắn mặc một bộ y phục bán quân sự:
một chiếc áo bốn túi kiểu Anh, một cái quần ngựa vá da, chân đi ủng đen. Khi
Đasa vào phòng, hắn đang mỉm cười hằn học nghe bài hát cầu hồn.
- Ồ, đẹp quá, đẹp mê hồn! - người ngồi ở
đàn dương cầm nhìn nàng thốt lên.
Đasa e thẹn đứng lại. Cả bọn đều đổ dồn vào
nhìn nàng, trừ Đalxki. Ông thầy lễ nói:
- Một vẻ đẹp thuần túy Nga.
- Tiểu thư, lại đây với chúng tôi, - vai
công tử chính diện nói, giọng êm như nhung.
Jirôv thì thầm:
- Cô ngồi xuống đi, ngồi xuống đi.
Đasa ngồi vào bàn. Cử tọa lần lượt đến cúi
chào và hôn tay nàng, với những dáng dấp long trọng như đến chào một hoàng hậu
Mary Xtuart tái thế. Sau đó họ lại tiếp tục hát. Jirôv tiếp cho nàng một ít trứng
cá ướp, mấy món nhắm, cho nàng uống một thứ rượu gì ngòn ngọt, uống vào nóng
ran cả người. Trong phòng ngột ngạt, khói thuốc lá mù mịt. Sau hớp rượu, Đasa
thấy nóng, bèn cởi khăn choàng lông, để hai cánh tay trần lên bàn. Những hợp âm
ảm đạm và những lời ca cổ kính làm nàng xao xuyến. Nàng chăm chú nhìn Mamônt
không rời mắt. Vừa rồi, đi dọc đường Jirôv có kể chuyện hắn cho nàng nghe. Hắn
vẫn đứng riêng ra một bên, cạnh bức bình phong, mặt mày trông rất dữ tợn, không
biết là hắn đang giận điên lên hay đang say khướt:
- Thế nào đấy, các ngài, - hắn nói giọng trầm
vang dội cả phòng. - Không có vị nào nhận lời à?
- Không, không ai muốn đánh với cậu đâu, thế
này chúng mình cũng vui chán rồi, cậu đừng nài nữa, đừng lôi thôi nữa, - người
có cái mặt nhão nói liến thoắng, giọng tenor
rất mảnh. -Nào, Yasenka, đánh bài lễ thứ bảy đi.
Yasa ngồi trước dương cầm, đầu ngửa hẳn ra,
mắt nhắm lại, ấn mười ngón tay lên phím đàn. Mamônt nói:
- Không đánh ăn tiền đâu... Tôi nhổ toẹt
vào tiền của các ngài...
- Không ăn tiền cũng không đánh, đừng lôi
thôi nữa, Mamônt ạ.
- Tôi muốn đánh cuộc một phát súng...
Sau câu này cả bọn lặng đi trong một phút.
Vai anh hùng có cái mũi nhọn đưa lòng bàn tay lên vuốt trán và tóc, rồi đứng dậy,
tay cài cái cúc áo gi-lê.
- Được, tôi nhận lời đánh cuộc một phát
súng.
Anh diễn viên hài kịch lặng lẽ nắm lấy hắn,
ấn cả tám mươi cân thịt lên người bắt hắn ngồi xuống.
- Tao đặt cuộc cả đời tao đây, - vai anh
hùng quát lên, - bài của thằng Mamônt đểu cáng có dấu đấy... Nhưng tao đếch cần,
hắn cứ trang bài đi... Buông tao ra...
Nhưng hắn đã kiệt sức. Vai lý sự, phần dưới
khuôn mặt bạnh rộng ra, nói dịu dàng:
- Thế đấy, rượu cũng chẳng còn lấy một giọt,
Mamônt, thế này thì tệ quá đấy anh bạn ạ...
Bấy giờ Mamônt ném lên cái bàn con đặt máy
điện thoại một cỗ bài và một khẩu Browning.
Khuôn mặt to với những đường nét như tạc của hắn tái mét đi vì tức giận.
- Không ai được ra khỏi nơi này, - hắn phát
âm rõ từng tiếng một. - Sẽ đánh bài theo đúng ý của tôi... Cỗ bài này không có
dấu gì hết.
Hắn hít mạnh không khí qua hai lỗ mũi rộng,
môi dưới chìa ra. Ai nấy đều hiểu rằng đây là một phút rất nguy hiểm. Hắn nhìn
qua mặt những người ngồi quanh bàn một lượt. Yasa dùng một ngón đánh khe khẽ
bài “chim hoàng tước” trên đàn dương cầm. Bỗng đôi mày đen nhánh của Mamônt
giương cao lên, đôi mắt tối sẫm của hắn thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. Hắn đã trông
thấy Đasa. Nàng thấy tim mình lạnh toát đi dưới cái nhìn của hắn. Hắn bước vững
vàng đến cạnh nàng, cầm lấy đầu ngón tay của nàng đưa lên đôi môi khô nẻ, nhưng
không hôn, mà chỉ khẽ chạm vào đây.
- Các anh nói là không có rượu phải
không... Sẽ có ngay...
Hắn rung chuông gọi người hầu bàn, mắt vẫn
nhìn Đasa. Một người hầu bàn Tatar bước vào, dang hai tay tỏ vẻ bất lực: không
còn lấy một chai nào, khách uống hết sạch, hầm rượu thì đã khóa chặt, viên quản
lý cầm chìa khóa về nhà mất rồi. Mamônt liền nói:
- Thôi ra đi - Đoạn bước đến máy điện thoại,
dáng dấp như đang đi trước mắt hàng nghìn khán giả. Hắn gọi số điện thoại: “Vâng...
Tôi đây... Đalxki đây... Cho một đội đến ngay. Khách sạn “Mêtrôpôl”... Tôi đang
ở đây... Việc khẩn... Phải... Bốn người là đủ...”.
Hắn thong thả đặt ống nghe xuống, dựa lưng
vào tường và khoanh tay trước ngực. Chỉ mười lăm phút trôi qua là cùng. Yasa bắt
đầu chơi khe khẽ một khúc nhạc của Xkryabin trên dương cầm. Đasa thấy choáng
váng trước những âm thanh quen thuộc đang từ dĩ vãng xa xôi bay về. Thời gian
đã biến mất. Lớp áo gấm ngân tuyến trên ngực Đasa phập phòng nâng lên hạ xuống,
máu dồn lên tai nàng rần rật. Jirôv ghé tai nàng thì thầm mấy tiếng, nhưng nàng
không nghe gì hết.
Nàng bồi hồi xao xuyến thể nghiệm niềm hạnh
phúc của sự giải thoát, cái cảm giác nhẹ nhõm của tuổi thanh xuân. Nàng có cảm
giác như mình đang bay lên lâng lâng như một quả bong bóng vừa tuột dây lìa khỏi
chiếc xe nôi trẻ con, bay lên cao đến chóng cả mặt...
Vai công tử chính diện vuốt cánh tay để trần
của nàng, lấy một giọng êm như nhung khuyên nhủ nàng:
- Đừng nhìn hắn một cách quá âu yếm như thế,
con bồ câu của tôi ạ, kẻo mù mắt đi đấy.... Ở Mamônt chắc chắn là có một cái gì
ma quái...
Bỗng một bên cửa ra vào vụt mở, và sau tấm
bình phong hiện ra bốn cái đầu đội mũ lưỡi trai, bốn cánh tay mặc áo da vung
cao bốn quả lựu đạn lên. Bốn tên vô chính phủ quát lớn, giọng hung hãn:
- Ngồi im! Giơ tay lên!
- Thôi ra đi, ổn cả rồi, - Đalxki điềm tĩnh
nói giọng trầm. - Cám ơn các đồng chí. - Hắn lại gần tốp kia, chồm qua bình
phong giảng giải khe khẽ cho họ một điều gì đấy. Họ gật đầu rồi lui ra. Một
phút sau có mấy tiếng người nói lao xao, rồi một tiếng kêu nghèn nghẹn. Một tiếng
nổ ầm ầm làm cho mấy bức tường khẽ rung lên. Mamônt nói:
- Mấy thằng chó con bao giờ cũng vẫn cứ phải
gây ấn tượng để lòe thiên hạ. - Hắn lắc chuông. Lập tức một người hầu chạy vào
phòng, mặt tái mét, hai hàm răng đập vào nhau cầm cập. - Dọn hết đi, trải khăn
bàn sạch để dọn rượu! Mamônt ra lệnh. - Yaska, đừng làm khổ dây thần kinh tôi nữa,
cho một bài gì phấn chấn lên nghe nào!
Quả nhiên mấy người hầu chưa kịp trải xong
khăn bàn mới thì bốn chiến sĩ vô chính phủ đã lại xuất hiện, tay cắp một mớ
chai. Sau khi đặt lên bàn nào cô-nhắc, nào whisky, nào rượu mùi, nào sâm banh,
họ lui ra, cũng lặng lẽ như khi đem rượu vào. Quanh bàn lao xao những tiếng trầm
trồ kinh ngạc và hân hoan. Mamônt giảng giải:
- Tôi đã ra lệnh là chỉ tịch thu trong các
buồng trọ năm mươi phần trăm số chai rượu hiện có mà thôi. Còn một nửa để lại
cho các chủ nhân. Lương tâm các ngài không việc gì phải bứt rứt, mọi việc đều ổn
đáng.
Yasa gõ lên phím dương cầm một điệu nhạc
binh rầm rộ. Nút sâm banh nổ bôm bốp. Mamônt ngồi xuống cạnh Đasa. Dưới ánh đèn
bàn, những nét như tạc càng nổi rõ trên mặt hắn và càng có vẻ có ý nghĩa hơn. Hắn
nói:
- Hôm nay tôi đã trông thấy cô ở khách sạn “Lux”,
lúc ấy cô đang ngủ... Cô là ai?
Đầu choáng váng, nàng cười khanh khách đáp:
- Chẳng là ai cả... Một quả bong bóng
con...
Hắn đặt bàn tay to và nóng lên cái vai để
trần mát rượi của nàng, nhìn chăm chăm vào mặt nàng. Đasa điềm nhiên như không,
chỉ cảm thấy hơi ấm của bàn tay đè nặng lên vai. Nàng cầm lấy cái chân cốc sâm
banh mảnh dẻ và uống cạn cốc.
- Cô không thuộc về ai chứ? - hắn hỏi.
- Chẳng thuộc về ai hết.
Mamônt liền ghé sát vai nàng nói một giọng
bi kịch ngân nga:
- Cô bé của ta ơi, hãy sống đi, hãy sống
cho hết sức lực của tâm hồn... Em đã gặp ta: đó là diễm phúc của em... Em đừng
sợ, ta sẽ không lấy tình yêu phá hỏng tuổi thanh xuân của em đâu... Những con
người tự do không yêu và không đòi hỏi tình yêu... Ôthellô là một hỏa đàn trung
cổ, là tòa giảo hình, là một bộ mặt nhăn nhó của địa ngục... Rômêô và Juliet...
Ồ, ta biết lắm: em vẫn thầm thở dài nghĩ đến đôi uyên ương ấy... Nhưng đó chỉ
là một mớ đồ cũ mốc meo... Chúng ta đang đập phá hết từ trên xuống dưới... Ta sẽ
đốt hết các sách vở, sẽ phá hết các viện bảo tàng...Cần phải làm cho con người
quên hết các thiên niên kỷ... Tự do chỉ có một: nền vô chính phủ thần thánh...
Một hội pháo hoa vĩ đại của các dục vọng... Không! Hỡi mỹ nhân, chớ mong chờ
tình yêu, chớ ước ao yên tĩnh... Ta sẽ giải phóng em... Ta sẽ phá tan những xiềng
xích của sự ngây thơ trinh bạch đang trói buộc em... Ta sẽ cho em tất cả những
gì em tưởng tượng ra giữa hai cuộc ái ân... Em xin đi!... Em hãy xin ngay bây
giờ đi!... Biết đâu đến ngày mai thì đã quá muộn rồi...
Qua những lời mê sảng này, Đasa cảm thấy với
tất cả da thịt của mình cái dục vọng nặng nề đang sôi sục lên sát bên cạnh
nàng. Nàng thấy kinh hoảng như trong cơn ác mộng, khi mình không sao cử động được
mà từ trong bóng tối của chiêm bao, đôi mắt đỏ ngầu của quái vật cứ dần dần tiến
sát vào mình. Nó sẽ xô ngã, sẽ bóp nát, sẽ xéo lên nàng... Hãi hùng hơn nữa là
trong bản thân nàng cũng dấy lên những thèm muốn chưa từng biết, nó thiêu đốt
nàng, bóp nghẹt nàng... Nàng cảm thấy mình chỉ là một người đàn bà... Chắc bây
giờ trong cơn xúc động nàng đẹp lắm, cho nên vai công tử chính diện nghiêng người
về phía nàng, giơ tay ra chạm cốc với nàng và nói, giọng ghen tuông:
- Mamônt, anh đang hành hạ một đứa trẻ...
Như bị bắn thẳng vào mặt, Đalxki giật nẩy
người đứng phắt dậy, nện quả đấm xuống bàn, mạnh đến nỗi mấy cái cốc nảy lên, đổ
kềnh ra.
- Hễ động đến người đàn bà này, ta bắn chết
ngay.
Hắn lao về phía cái bàn điện thoại nơi đặt
khẩu súng lục. Tất cả những người ngồi quanh bàn đều đứng bật dậy, ghế đổ lỏng
chỏng. Yasa chui xuống gầm bàn, Bấy giờ, tuy cũng chẳng hiểu mình đang làm gì,
Đasa bíu chặt lấy cánh tay của Mamônt đang lăm lăm khẩu súng. Đôi mắt nàng nhìn
hắn, van lơn. Hắn liền ôm lấy tấm lưng mảnh dẻ của nàng ở phía dưới hai bả vai,
nhấc bổng nàng lên và áp môi lên môi nàng, chặt đến nỗi răng hắn chạm vào răng
nàng. Đasa rên lên một tiếng. Vừa lúc ấy có tiếng chuông điện thoại. Mamônt thả
Đasa xuống một chiếc ghế bành (nàng giơ tay lên che mắt) rồi cầm ống nghe lên:
- Vâng... có việc gì đấy? Tôi đang bận...
À... Ở đâu? Phố Myaxnitxkaia à? Kim cương à? Có giá trị chứ? Mười phút nữa tôi
sẽ...
Hắn đút khẩu súng vào túi sau, đến cạnh
Đasa, giơ hai tay nâng mặt nàng lên, thèm khát hôn lên môi nàng mấy lần, rồi đi
ra ngoài sau khi giơ cao tay lên chào như người La mã.
* * *
Phần đêm còn lại Đasa ngủ ở khách sạn “Lux”.
Nàng ngủ như chết, chiếc áo gấm ngân tuyến vẫn mặc nguyên trên mình. (Jirôv thì
ngủ trong buồng tắm vì sợ Mamônt). Sáng hôm sau, nàng ngồi buồn thiu bên cửa sổ
cho đến giữa trưa. Nàng không nói chuyện với Jirôv, hắn hỏi gì nàng cũng không
buồn trả lời. Khoảng bốn giờ chiều nàng ra phố và đến năm giờ nàng đã đứng đợi ở
quảng trường phố Prêtsinxtenki, dưới tượng Gôgôl. Xung quanh nhà văn mũi dài, mấy
đứa trẻ gầy gò đang lúi húi đắp cát và đất thành những chiếc bánh ga-tô và bánh
nướng.
Đasa lại mặc chiếc áo dài cũ và đội chiếc
mũ làm lấy. Ánh nắng sưởi ấm lưng nàng, chiếu lên cảnh sống nghèo nàn ở xung
quanh. Mấy đứa trẻ đang chơi quanh pho tượng, đứa nào mặt cũng quắt lại, già cỗi
vì đói. Không nghe thấy tiếng bánh xe lăn trên đường, không nghe thấy tiếng nói
to. Xe đều ra mặt trận hết rồi, mà người qua đường thì lặng thinh. Gôgôl trên chiếc
ghế bành bằng đá hoa cương so vai rụt cổ dưới sức nặng của tấm áo khoác bằng đồng
loang lổ vết cứt chim sẻ. Hai người để râu dài đi qua không để ý đến Đasa: một
người nhìn xuống đất, một người nhìn lên cây. Đasa nghe loáng thoáng:
- ... Thất bại hoàn toàn... Thật là khủng
khiếp... Bây giờ biết làm thế nào?
- Nhưng đã chiếm được Xamara, chiếm được
Ufa rồi kia mà?
- Bây giờ tôi không tin gì nữa hết... Chúng
mình không sống qua được mùa đông này đâu...
- Nhưng Đênikin đang tiến về vùng sông
Đôn...
- Tôi không tin, không có gì cứu nỗi nữa
đâu... Babylon đã diệt vong, La Mã đã diệt vong, bây giờ đến lượt chúng ta...
- Nhưng Xavinkôv vẫn chưa bị bắt, Tsernôv
cũng chưa...
- Toàn chuyện nhảm... Phải, nước Nga đã
tiêu vong, tất cả đều tiêu vong...
Bà già tóc bạc hôm qua lại đi ngang, rụt rè
đưa cho Đasa xem toàn tập Rôzanôv dưới tấm khăn san. Đasa quay mặt đi. Người trẻ
tuổi có cái kính găm hình sọ người đi chênh chếch về phía ghế Đasa. Hắn đưa mắt
nhìn quanh, sửa lại cái kính mũi, rồi ngồi xuống cạnh nàng:
- Đêm qua cô ở khách sạn “Mêtrôpôl” à?
Đasa cúi đầu, khẽ mấp máy đôi môi: vâng.
- Rất tốt. Tôi đã xếp buồng cho cô. Tối nay
cô sẽ dọn đến. Chớ nói gì với Jirôv. Bây giờ nói chuyện công việc: cô có biết mặt
Lê-nin không?
- Không.
Hắn rút ra mấy tấm bưu ảnh rồi đút vào ví
Đasa. Hắn ngồi một lát, đưa mấy sợi râu vào mồm cắn. Rồi hắn cầm hai tay của
Đasa rũ rượi trên đùi, lay mạnh.
- Vấn đề nó thế này... Chủ nghĩa bolsêvik
và Lê-nin là một. Cô hiểu không? Ta có thể đánh Hồng quân, nhưng chừng nào
Lê-nin còn ngồi trong điện Kremlin thì chưa thể thắng được. Hiểu không? Cái nhà
lý luận ấy, cái sức mạnh ý chí ấy là nguy cơ lớn nhất đối với cả thế giới chứ
không phải riêng gì chúng ta... Cô hãy nghĩ đi và trả lời tôi cho chắc chắn: cô
có đồng ý hay không...
- Giết à? - Đasa vừa nhìn thằng bé hở bụng
đang bước loạng choạng trên đôi chân vòng kiềng. Người trẻ tuổi cựa mình liếc
sang bên phải, nheo nheo đôi mắt nhìn lũ trẻ rồi lại cắn cắn mấy sợi râu.
- Không ai lại đi nói điều đó ra... Nếu cô
có nghĩ như thế thì cũng đừng hét tướng lên... Chúng tôi đã nhận cô vào tổ chức...
Chả nhẽ cô chưa hiểu Xavinkôv nói chuyện gì?
- Ông ấy đã gặp tôi nói chuyện gì đâu...
(Người trẻ tuổi cười nhạt) À, thế ra cái người cầm khăn mùi soa chính là...
- Khẽ chứ... Người ấy chính là Bôrix
Viktorôvits... Cô đã được tin cậy đến mức kinh khủng... Chúng tôi đang cần những
người mới. Vừa qua chúng nó bắt bớ rất dữ. Chắc cô đã biết là kế hoạch động
viên ở Kazan đã thất bại... Công tác của trung ương đã chuyển sang một nơi
khác... Nhưng ở đây vẫn còn để lại một tổ chức... Nhiệm vụ của cô là theo dõi
những buổi ra mắt của Lê-nin, dự các cuộc mít-tinh, đến các nhà máy... Cô sẽ
không phải hoạt động đơn độc... Sẽ có người báo cho cô biết trước những chuyến
đi của hắn ra ngoài thành Kremlin và những buổi ra mắt đã dự kiến trước... Nếu
cô làm quen được với bọn Cộng sản thì hãy xin vào đảng được như thế thì tốt nhất.
Cô hãy theo dõi các báo và đọc sách vở cộng sản... Sáng mai cô đến đây nhận chỉ
thị mới...
Đoạn hắn cho Đasa biết một địa chỉ bí mật để
liên lạc khi cần, thông báo khẩu lệnh và đưa chìa khóa phòng cho nàng. Rồi hắn
bỏ đi về phía cổng Arbat. Đasa rút một tấm ảnh ở trong ví ra nhìn hồi lâu. Đến
khi gương mặt ấy nhòa đi và dần dần có một gương mặt khác hiện từ từ lên cái nền
huyết dụ của những tấm màn cửa đêm qua, nàng bóp ví lại đánh tách một cái và
cũng bỏ đi, đôi mày cau lại, môi mím chặt. Thằng bé có đôi chân vòng kiềng toan
chạy theo nàng nhưng lại vấp ngã, tấm thân bé bỏng rơi đánh phịch một tiếng xuống
cát. Nó òa lên khóc nức nở.
Căn phòng của Đasa ở trên phố Xitxex
Vrajôk, trong một ngôi biệt thự cũ kỹ, cửa sổ trông ra sân sau. Ngôi nhà hình
như đã bị bỏ hoang được ít lâu nay. Đasa đi vòng ra cửa sau, gõ mãi hồi lâu mới
thấy một bà già thấp bé, bẩn thỉu, có đôi mi mắt lộn tròng, dáng chừng là vú em
nhà này, ra mở. Hồi lâu bà ta vẫn không hiểu đầu đuôi ra sao cả. Nhưng rồi bà
ta cũng cho Đasa vào nhà và dẫn nàng lên buồng, rồi bắt đầu kể lể những gì
không sao hiểu nổi:
- Mấy con chim ưng tốt lành của tôi đi hết
rồi - cả Yuri Yurits, cả Mikhail Yurits, cả Vaxili Yurits... Còn thằng Varenka
thì chỉ về một lần năm mười sáu vào tiết lễ thánh Fôma... Tôi đã bắt đầu cầu
nguyện cho linh hồn chúng nó được yên rỗi trên thiên đàng...
Bà ta toan dọn trà, nhưng Đasa từ chối.
Nàng cởi áo ngoài chui vào tấm chăn bông và ép chặt gối vào miệng khóc rưng rức
trong bóng tối.
Sáng hôm sau, bên cạnh tượng Gôgôl, nàng nhận
chỉ thị mới và được lệnh hôm sau phải có mặt ở nhà máy. Nàng định về nhà, nhưng
nghĩ thế nào lại ghé vào tiệm cà-phê “Bôm”. Ở đấy Jirôv cứ lăng xăng cạnh nàng
hỏi nàng xem đi đâu mà mất tăm, tại sao nàng đi mà lại không lấy đồ đạc mang
theo. “Tôi đang đợi Mamônt gọi điện, nếu Mamônt hỏi cô, tôi sẽ trả lời ra sao
đây?” Đasa ngoảnh mặt đi để hắn khỏi trông thấy má nàng đỏ bừng lên... Nàng tự
nhủ, trong khi bản thân nàng cũng thấy là mình nói dối: “Xét cho cùng, cứ theo
chỉ thị khi cần tiếp tục làm quen với bọn này kia mà...”
- Tôi sẽ ghé về lấy đồ đạc, - nàng gắt, - rồi
sẽ hay.
Nàng trở về căn buồng ở phố Xitxev Vrajôk,
tay xách cái bọc đựng tấm khăn choàng lông quý giá, mấy thứ đồ lót và chiếc áo
dài gấm hôm qua. Nàng giở bọc lấy các thứ ném lên giường. Ngồi nhìn các thứ đó,
nàng bỗng run lên, răng va vào nhau cầm cập, vai nàng lại cảm thấy sức nặng của
bàn tay ấy, và răng nàng lại cảm thấy sự tiếp xúc thô bạo của hàm răng ấy...
Đasa ngồi thụp xuống trước giường và úp mặt vào tấm da lông thơm phức, miệng cứ
nhắc đi nhắc lại một câu hỏi vô nghĩa: “Thế này là thế nào? Thế này là thế nào?”
* * *
Sáng hôm sau, nàng y lời dặn, mặc một chiếc
áo vải hoa màu thẫm, trùm khăn theo kiểu vô sản (nàng phải giả vờ làm một chị hầu
buồng trước kia làm cho một gia đình giàu có và đã bị ông chủ hãm hiếp; cái áo
là do người thanh niên có cái kim găm cà-vạt hình sọ người mang đến cho nàng)
và lên tàu điện đi đến nhà máy.
Nàng không có giấy vào cửa. Người gác cổng
già nháy mắt bảo nàng: “Cô bé đi dự mít tinh đấy hả? Vào tòa nhà chính nhé”.
Nàng bước trên mấy tấm ván mục, đi qua những đống sắt rỉ và xỉ than, qua những
khung cửa sổ rất to đã vỡ mất kính. Chỗ nào cũng trống trải, hoang vắng. Trên nền
trời không một bóng mây, mấy cái ống khói nhà máy yên lặng nhả ra từng đám khói
nhẹ.
Người ta chỉ cho nàng một cánh cửa ọp ẹp
bên ngách tường. Đasa bước vào một gian phòng dài xây bằng gạch. Cái mái lợp
kính ám khói để lọt từ trên xuống một ánh sáng ảm đạm. Mọi thứ đều trơ trụi, dãi
dầu. Từ trên các cầu lăn buông xuống lòng thòng những sợi xích cần cẩu. Phía dưới
là những cái trục chuyển vận dài và những sợi cua-roa treo im lìm trên ròng rọc.
Một con mắt không nhìn quen phải kinh ngạc trước những khung máy đen xì, những
đường nét khi thì thấp, khi thì cao, khi thì vươn dài, khi thì cụt lủn của những
bàn máy tiện, máy dập, máy phay, máy bào, của những đĩa mài lớn bằng gang. Sau
một cái cổng vòm rộng, trong bóng tối mờ mờ, sừng sững cái khối sắt lớn của một
bộ máy búa nặng hai mươi tấn, trông như một quái vật đứng chống nạnh.
Ở đây chế tạo những bộ máy và những cơ chế
mà đến khi ra khỏi những bức tường ảm đạm của xưởng này sẽ làm cho cuộc đời
tràn đầy ánh sáng, sức chuyển động, trí thông minh và vẻ hoa lệ. Ở đây sực nức
mùi rỉ sắt, mùi dầu máy, mùi đất và mùi thuốc lá mộc. Một đám rất đông người đứng
trước cái diễn đàn dựng bằng ván, nhiều người ngồi trên các khung máy, trên những
bậu cửa sổ cao.
Đasa chen lên gần diễn đàn. Một anh thợ trẻ
cao lớn quay lại nhìn nàng và nhoẻn rộng miệng cười để lộ hàng răng trắng muốt
trên gương mặt đầy vết dầu máy, hất đầu chỉ cho nàng một cái bàn quay, chìa tay
ra cho nàng. Đasa đứng trên cái bàn quay, dưới một khung cửa sổ. Xung quanh
nàng lố nhố mấy nghìn cái đầu - những gương mặt lầm lì, những cái trán cau lại,
những đôi môi mím chặt. Ngày ngày trên các đường phố, trên các toa xe điện,
nàng vẫn thường trông thấy những gương mặt này - những gương mặt Nga bình thường,
mệt mỏi, với khóe nhìn kín như bưng. Có lần - ấy là vào hồi trước chiến tranh -
trong một chuyến đi dạo ngày chủ nhật trên các khu đảo ở Pêterburg, hai viên trợ
lý trạng sư cùng đi với Đasa đã lấy chính những gương mặt này làm đề tài nói
chuyện. “Đarya Đmitrievna ạ, cô cứ thử xem dân chúng trên các phố Pari chẳng hạn:
họ vui vẻ, họ hiền lành, họ hớn hở... Còn ở ta thì người nào cũng gườm gườm như
lang sói. Xem hai người thợ kia kìa. Bây giờ tôi thử đến nói đùa với họ một
câu... Họ sẽ trạnh lòng, họ sẽ không hiểu... Dân Nga ta kỳ cục, khó tính lắm...”.
Và giờ đây những con người không ưa đùa cợt ấy đang đứng đông nghìn nghịt trong
xưởng máy, với những gương mặt lầm lì, xúc động, đăm chiêu và cương quyết. Cũng
vẫn là những gương mặt ấy, nhưng đã xỉn lại vì đói, cũng vẫn những đôi mắt ấy,
nhưng cái nhìn đã nóng lên, như có một cái gì thiêu đốt ở bên trong.
Đasa quên bẳng mục đích của nàng khi đến
đây. Những ấn tượng của cuộc sống mà nàng đã lao vào từ cái khung cửa sổ hoang
vắng trên phố Kraxnyê Zori đã cuốn nàng đi như trận bão thổi bạt một cánh chim.
Và với một tấm lòng chân thành nguyên vẹn, nàng đã toàn tâm toàn ý buông mình
vào những ấn tượng mới mẻ ấy. Nàng tuyệt nhiên không phải là một cô gái khờ khạo,
nhưng cũng như nhiều cô gái khác, nàng chỉ có thể dựa vào bản thân, dựa vào cái
kinh nghiệm nhỏ bé của mình. Trong tâm hồn nàng có một khát vọng vươn tới sự thật,
sự thật của cá nhân, của người phụ nữ, của con người.
Báo cáo viên đang nói về tình hình ở các mặt
trận. Chẳng có tin tức gì đáng phấn khởi. Cuộc vây hãm tiếp tế đang thắt chặt dần:
quân Tiệp chặn đường tiếp tế lúa mì Xibiri, thủ lĩnh Kraxnôv chặn đường tiếp tế
lúa mì vùng sông Đôn. Quân Đức trấn áp dữ dội phong trào du kích Ukrain. Hạm đội
của bọn can thiệp uy hiếp Krônstađt và Arkhangelxk. “Nhưng cách mạng vẫn chiến
thắng!” - báo cáo viên ném ra nhiều khẩu hiệu, lấy quả đầm ấn nó vào không khí,
và vơ lấy cái cặp chạy xuống diễn đàn. Đám thợ vỗ tay uể oải - tình hình như thế
thì còn ai thiết vỗ tay? Những mái đầu gục xuống, những đôi mắt nấp dưới bóng
lông mày.
Người thợ trẻ có hàm răng trắng muốt - Đasa
vừa bắt gặp cặp mắt anh ta - lại vui vẻ nhoẻn miệng cười với nàng:
- Gay thế đấy cô bé ạ: chúng nó muốn giam
đói cho chúng mình chết như chuột... Rồi đây cô sẽ làm gì?
- Thế anh sợ à? - Đasa nói.
- Tôi ấy à? Sợ đến chết khiếp đi ấy chứ
(Xung quanh có nhiều tiếng xuỵt tức giận: “khẽ chứ, đồ quỷ!”) Cô tên là gì?
Đasa nhìn anh ta: chiếc áo sơ mi đen không
cài cúc để lộ ra một khoảng ngực gân guốc, cổ anh ta lực lưỡng như cổ bò mộng,
gương mặt tươi cười, mấy món tóc quăn ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt tròn xoe trông rất
lẳng, khắp người nhem nhuốc những vết dầu máy...
- Trông bảnh nhỉ! - Đasa nói. - Sao cứ nhe
răng ra cười mãi thế?
- Chả hồi còn bé tôi bị mẹ đánh rơi từ trên
ghế xuống mà. Thế còn cô thì thế này nhé! ngày kia cô đi với chúng tôi ra mặt
trận đi. Đồng ý chứ? Dù sao ở cái xứ Moxkva này cô cũng đến chết thôi... Tôi
mang cả phong cầm đi đấy, cô em ạ...
Tiếng nói của anh ta bị tiếng vỗ tay át đi.
Một diễn giả mới đã lên diễn đàn. Đó là một người thâm thấp mặc vét tông xám,
chiếc áo gi-lê ở bên trong hằn lên những nếp nhăn chạy ngang ngực. Cúi cái đầu
hơi gồ ghề xuống, ông ta giơ giơ mấy tờ giấy, rồi cất tiếng nói, hơi pha giọng
mũi: “Các đồng chí”. Bây giờ Đasa mới trông thấy gương mặt đăm chiêu của ông ta
và đôi mắt nheo nheo như chói nắng. Hai tay ông chống lên bàn, đè lên mấy tờ
ghi chép. Khi ông nói rằng chủ đề nói chuyện hôm nay là cuộc khủng hoảng trầm
trọng đang trùm trên khắp các nước châu Âu và nhất là nước Nga, là nạn đói, ba
nghìn người đứng dưới mái nhà ám khói nín thở lắng nghe ông.
Ông mở đầu bằng những nhận định khái quát,
nói giọng đều đều, cố tìm cách bắt liên lạc thật chặt với người nghe. Mấy lần
ông đi ra xa bàn rồi lại quay trở lại. Ông nói về cuộc chiến tranh thế giới mà
hai tập đoàn kẻ cướp đang bóp cổ nhau không thể và không muốn kết thúc, nói về
hoạt động đầu cơ điên cuồng dựa vào tình hình đói kém, kết luận rằng chỉ có
cách mạng vô sản mới kết thúc được chiến tranh.
Ông nói về hai đường lối đấu tranh với nạn
đói: một bên là thương mại tự do, đang làm giàu cho bọn đầu cơ một cách khủng
khiếp, một bên là đường lối độc quyền nhà nước. Ông đứng sang một bên, cách bàn
độ ba thước, và nghiêng mình về phía quần chúng, hai ngón tay cái thọc vào hai
bên nách áo gi-lê. Vầng trán rộng và đôi bàn tay to nổi bật lên phía trước, -
ngón tay chỏ hoen đầy những vết mực.
- ...Chúng ta đã sát cánh và sẽ sát cánh đến
cùng với giai cấp đã cùng chúng ta phản đối chiến tranh, đã cùng chúng ta lật đổ
giai cấp tư sản và đang cùng chúng ta chịu đựng tất cả gánh nặng của cuộc khủng
hoảng hiện nay. Chúng ta phải giữ vững chủ trương độc quyền lúa mì cho đến
cùng... (Nghe đến đây, anh thợ trẻ có bộ răng trắng buông một tiếng thở dài
khoái chá). Nhiệm vụ trước mắt chúng ta là phải chiến thắng nạn đói hay ít nhất
là giảm bớt khó khăn cho đến khi có vụ mùa mới, bảo vệ chính sách độc quyền lúa
mì, bảo vệ quyền lực của nhà nước vô sản. Tất cả những chỗ lúa mì thừa ta đều
phải gom góp lại và tìm cách đưa cho kỳ được đến những nơi đang cần, rồi phân
phối cho hợp tình hợp lý... Đó là nhiệm vụ chủ yếu: phải bảo tồn nhân lực cho
xã hội, và đồng thời đó cũng là một công việc hết sức khó khăn, chỉ có một cách
giải quyết duy nhất: toàn dân phải tích cực nâng cao năng suất lao động...
Trong cái xưởng máy im phăng phắc bỗng có
ai thở dài lên một tiếng rền rĩ: một tâm hồn nào đấy đã kiệt sức vấp ngã trên
con đường dốc băng giá mà người mặc áo vét tông đang dắt đám thợ thuyền đi. Vầng
trán người ấy cúi trên dân chúng; dưới hai vành lông mày, đôi mắt người ấy nhìn
ra, chăm chú, khắc nghiệt:
- Chúng ta đang đương đầu với việc thực hiện
các nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, và trước mắt chúng ta là những
khó khăn phi thường. Đây là cả một thời đại nội chiến ác liệt... Chỉ có cách đánh
giập đầu phản cách mạng, chỉ có cách tiếp tục thi hành chính sách xã hội chủ
nghĩa đối với vấn đề đấu tranh với nạn đói, chúng ta mới có thể đánh bại nạn
đói và đánh bại bọn phản cách mạng đang lợi dụng nạn đói này...
Bàn tay ông rút ra khỏi áo gi-lê phẩy vung
ra phía trước như để tiêu diệt một kẻ nào trong không khí, rồi dừng lại trên đầu
đám quần chúng.
- ...Khi thợ thuyền bị những khẩu hiệu của
bọn đầu cơ lung lạc và quay ra nói chuyện bán lúa mì tự do, nhập cảng phương tiện
vận tải, chúng ta trả lời rằng làm như thế là giúp một tay cho bọn kulak...
Chúng ta sẽ không bước vào con đường ấy... Chúng ta sẽ dựa vào cái thành phần
lao động đã cùng ta làm cách mạng tháng Mười, ta sẽ thực hiện cho kỳ được giải
pháp của chúng ta bằng một biện pháp duy nhất là làm cho kỷ luật vô sản thấm
nhuần vào các tầng lớp nhân dân lao động. Trước mắt chúng ta là một nhiệm vụ lịch
sử, ta sẽ giải quyết nó... Vấn đề căn bản nhất của cuộc sống - vấn đề lúa mì -
đã được đặt ra trong những sắc lệnh gần đây. Những sắc lệnh đó đều có ba ý chủ
đạo. Ý thứ nhất là tập trung, hay nói cách khác là liên kết mọi người vào một
công việc chung dưới sự lãnh đạo của trung ương... Phải, hiện nay chúng ta được
biết rằng chính sách độc quyền lúa mì luôn luôn bị phá hoại vì hoạt động buôn
chuyến và đầu cơ. Càng ngày càng hay nghe giới trí thức nói: chính bọn buôn
chuyến giúp họ sống, chính họ nhờ bọn buôn chuyến mà có cái ăn... Phải... Nhưng
bọn buôn chuyến cho người ta ăn theo kiểu
kulak, chúng hành động đúng như người ta cần hành động khi muốn củng cố,
xác lập, duy trì vĩnh viễn quyền lực
của bọn kulak...
Bàn tay diễn giả cắt chéo không khí, gạch bỏ
một cái gì sẽ không bao giờ còn tồn tại nữa.
- ...Khẩu hiệu thứ hai của ta là đoàn kết
công nhân lại thành một khối. Công nhân sẽ đưa nước Nga ra khỏi cái tình cảnh
khó khăn, tuyệt vọng hiện nay. Phải tổ chức ngay những đội công nhân, tổ chức
dân nghèo đói ở những huyện không làm nông nghiệp; ta sẽ cầu cứu họ, ủy viên
lương thực của ta sẽ kêu gọi họ: “Hãy tham gia chiến dịch lúa mì!”
Những tràng vỗ tay vang lên dữ dội. Đasa thấy
diễn giả lùi lại, thọc hai tay vào túi áo làm cho hai vai nhô lên. Gò má ông đỏ
bừng, đôi mi rung rung, trán ông xâm xấp mồ hôi:
- Chúng ta đang xây dựng nền chuyên
chính.... Chúng ta đang dùng bạo lực đối với giai cấp bóc lột...
Mấy câu này cũng chìm trong tiếng vỗ tay.
Diễn giả khoát tay: thôi đi nào!... và khi trong xưởng đã im lặng, ông nói tiếp:
- ....”Các ông chồng bị áp bức trên toàn thế
giới, hãy đoàn kết lại” - đó là khẩu hiệu thứ ba của chúng ta. Trước mắt chúng
ta là một nhiệm vụ lịch sử: ta cần giác ngộ cho một giai cấp lịch sử mới...
Trên khắp thế giới các đội công nhân thành thị, công nhân công nghiệp đều đã được
tập họp lại. Nhưng trên thế giới hầu như chưa nơi nào thấy có những cố gắng vô
tư, tận tình và có hệ thống liên kết những người bị cảnh sống heo hút ở thôn
quê đày đọa trong bóng tối của nền sản xuất tiểu nông. Đây là một nhiệm vụ có
tác dụng liên kết vào một mục tiêu duy nhất cả cuộc đấu tranh chống nạn đói
cũng như cuộc đấu tranh bảo vệ cơ cấu sâu xa và trọng yếu của chủ nghĩa xã hội.
Đây là một trận chiến đấu đáng cho ta dốc hết sức lực vào, đáng cho ta đặt hết
lên bàn cân, bởi vì đây là trận chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội, bởi vì đây là trận
chiến đấu bảo vệ chế độ cuối cùng của những người lao động và bị bóc lột áp bức.
Ông đưa nhanh bàn tay lên lau trán rồi nói
tiếp:
... - Hiện nay, xung quanh Moxkva cũng như ở
các tỉnh lân cận - ở Kurxk, Ôrel, Tambôv, theo ước lượng của các chuyên viên thận
trọng, chúng ta còn có đến mấy mươi triệu pút lúa mì dự trữ. Các đồng chí,
chúng ta hãy cùng chung sức bắt tay vào việc. Chỉ có hiệp lực lại, chỉ có cách
tập hợp tất cả những ai điêu đứng khổ sở nhất trong các thị xã và các huyện bị
nạn đói, thì chúng ta mới thành công được, và chính đó là con đường mà chính
quyền xô viết kêu gọi các đồng chí đi theo: tập hợp công nhân, tập hợp dân
nghèo, tập hợp những đội tiên phong của họ lại để tuyên truyền tại chỗ cho cuộc
chiến tranh lúa mì chống bọn Kulak...
Diễn gia càng hay đưa bàn tay lên vuốt
trán, giọng của ông mờ đi, không vang được như trước: ông đã nói hết được những
điều cần nói. Ông cầm một tờ giấy nhỏ để trên bàn lên xem qua, rồi dồn mấy tờ
giấy kia lại:
- Cho nên, các đồng chí ạ, nếu ta tiếp thu
tất cả những điều đó, nếu ta làm đúng như thế, nhất định ta sẽ thắng.
Và một nụ cười hồn hậu trong sáng bỗng bừng
lên trên gương mặt ông, và mọi người đều hiểu rằng đây là người của mình, của
mình! Họ reo hò, vỗ tay, giẫm chân. Người vừa nói chuyện rời diễn đàn thoăn thoắt
bước xuống, cổ rụt lại. Người thợ trẻ có bộ răng trắng đứng cạnh Đasa gân cái cổ
bò mộng lên hô to:
- Ilyits muôn năm!
* * *
Đasa chỉ có thể nói được một điều: nàng đã
được thấy và nghe “một cái gì khác”... Dự mít tinh về, nàng ngồi trên giường,
đôi mắt mở rộng nhìn trừng trừng lên những vòng tròn trên giấy hoa dán tường.
Trên gối có một mảnh giấy của Jirôv: “Mamônt đợi ở “Mêtrôpôl” mười một giờ tối
nay”. Giữa sàn, sát cánh cửa có một mảnh giấy khác: “Sáu giờ chiều cạnh tượng
Gôgôl”...
Trước hết, cái “khác” ấy có một tính chất đạo
đức nghiêm khắc, nghĩa là nó cao hơn... Người ấy nói đến lúa mì. Trước kia nàng
biết lúa mì có thể mua hay đổi; giá cả của nó nàng cũng đã rõ: một pút mì là một
cái quần lành. Nhưng bây giờ nàng mới biết rằng cách mạng giận dữ khước từ thứ
lúa mì ấy. Đó là thứ lúa mì ô trọc. Thà chết còn hơn ăn thứ lúa mì ấy. Hôm nay
đã có ba nghìn con người đói khổ khước từ lúa mì ô trọc.
Họ đã khước từ nó vì... (nhưng đến đây,
trong cái trí óc tội nghiệp của Đasa mọi thứ lại rối tung lên)... Vì những người bị lăng nhục và áp bức...Có
phải người ấy nói như vậy không nhỉ? Dốc hết sức lực ra, đặt hết lên bàn cân,
hiến cả cuộc đời cho những người lao động bị bóc lột... Chính vì thế mà họ có vẻ
khắc khổ bi thương ấy...
Kulitsek có nói rằng từ khắp bốn phương
trên địa cầu người ta sẵn sàng chìa ra những bàn tay cứu giúp, những bàn tay đầy
lúa mì... Miễn là tiêu diệt chế độ xô-viết... Tiêu diệt đi, rồi sẽ có lúa mì
ngay... Với danh nghĩa nào? Với danh nghĩa cứu vớt nước Nga. Nhưng cứu vớt khỏi
cái gì? Khỏi bản thân dân Nga... Nhưng dân Nga lại không muốn cứu vớt cái kiểu ấy
chính nàng đã được thấy rõ điều đó...
Tội nghiệp thay cho cái trí óc của Đasa!
Mày quan tâm đến chính trị muộn quá, Đasenka ạ... “Thư thả... - nàng tự nhủ, -
hẵng thư thả đã nào”. Nàng chắp hai tay sau lưng và đi đi lại lại trong phòng,
mắt nhìn xuống đất.
“Còn có thể có gì cao cả hơn là hiến đời
mình cho những người bị lăng nhục và áp bức?... Thế mà Kulitsek lại nói rằng nước
Nga tiêu vong vì bọn bolsêvik, và mọi người đều nói như thế...” - Đasa nhắm mắt
lại, cố sức tưởng tượng nước Nga như một cái gì mà mình phải yêu hơn cả bản
thân. Nàng nhớ lại một bức tranh của Xêrôv: hai con ngựa trên một sườn đồi, một
giải mây ở phía mặt trời lặn và một mái tranh xơ xác... “Không, đó chỉ là cảnh
của Xêrôv...”. Và trong đôi mắt nhắm nghiền của nàng hiện lên nụ cười vui và
ngây ngô của người thợ trẻ có hàm răng trắng. Đasa lại đi đi lại lại trong
phòng “Thế thì nước Nga là cái gì? Tại sao người ta cứ xâu xé nó, mỗi người lôi
nó về một phía như vậy? Thôi mình ngu lắm, mình chẳng hiểu gì đâu... Ôi! Trời
ơi!” - Đasa lấy khớp ngón tay đánh bồm bộp vào ngực. Nhưng cũng chẳng ăn thua
gì - “Chạy đến hỏi Lê-nin chăng? Ồ không được, mình thuộc phe đối lập kia mà...”
Tất cả những mối mâu thuẩn và hoang mang khủng
khiếp chỉ đưa đến cái kết quả là đến sáu giờ Đasa chụp vội cái mũ xuống tận mắt
và đi ra tượng Gôgôl. Người có cái kim găm hình sọ người lập tức từ sau một
thân cây bước ra:
- Cô ra chậm mất ba phút... Sao? Có đi dự
không? Có nghe Lê-nin nói chứ? Cô kể thật vắn tắt những điểm chính đi... Hắn đến
như thế nào? Đi với ai? Trên diễn đàn có người hộ vệ không?
Đasa im lặng, cố sắp xếp các ý nghĩ lại:
- Này, ông thử nói đi, người ta muốn giết
ông ấy vì danh nghĩa gì?
- À ra thế đấy! Cô lấy chuyện ấy ở đâu ra
thế nhỉ? Không ai có ý định ấy cả. - Thế đấy, thế đấy... Thế tức là cô đã bị
tác động? Biết ngay mà... Chính vì thế mà hắn nguy hiểm đến như vậy.
- Nhưng ông ấy nói nhiều cái có lý lắm.
Hắn vươn dài cổ ra, dí sát một nụ cười tinh
tế và ướt át vào tận mặt Đasa, rồi hỏi, giọng ngọt ngào.
- Có lẽ cô nên thôi đi thì hơn, nhỉ?
Đasa né ra. Nhưng cái cổ của hắn cứ vươn
dài mãi ra như làm bằng cao su và những tia sáng lấp lánh trên đôi cặp kính mũi
của hắn soi vào tận hai đồng tử của Đasa. Nàng thì thào:
- Tôi không biết gì hết... Tôi không hiểu
gì nữa hết... Tôi phải tìm cho ra đã, tôi phải biết cho chắc đã...
- Lê-nin là một tên tay sai của bộ tổng
tham mưu Đức, - người đeo kim găm hình sọ người nói. Sau đó hắn bỏ ra đến nửa
giờ để giảng giải cho Đasa hiểu cái kế hoạch thâm độc của quân Đức: chúng phái
đi khắp nơi những tên bolsêvik thuê với giá rất đắt chở trên những toa tàu hàn
kín. Bọn bolsêvik ấy phá hoại quân đội, lừa bịp thợ thuyền, làm kiệt quệ nền
công nghiệp và nông nghiệp của tổ quốc... Chỉ chừng một tháng nữa là quân Đức
có thể tay không vào chiếm nước Nga...
- Hiện nay bọn bolsêvik đang mở rộng cuộc nội
chiến, kêu gào về cuộc bao vây tiếp tế lúa mì và đồng thời xử bắn những người
buôn chuyến cứu tinh của chúng ta... Họ tổ chức nạn đói một cách cố ý... Hôm nay
cô đã nhìn thấy mấy nghìn thằng ngu nhìn hau háu vào mồm Lê-nin... Thật là đau
đớn vô cùng... Hắn lừa bịp quần chúng, lừa bịp hàng triệu người, lừa bịp toàn
dân... Về một phương diện, phương diện vật chất, hắn là một tên khiêu khích đại
tài... Về một phương diện khác (hắn chồm sát tai Đasa thì thầm rất khẽ) hắn là
Ma vương phản cơ đốc! Cô còn nhớ những câu sấm truyền chứ? Những thời hạn đã
tiên đoán đều ứng nghiệm. Miền Bắc đã tiến đánh miền Nan. Những kỵ sĩ sắt của
thần chết đã xuất hiện: đó là những xe tăng... Sao Ngải đã rơi vào Nguồn nước của
thế gian: đó là ngôi sao năm cánh của bọn bolsêvik... Và hắn ta cũng nói với
nhân dân như Chúa cơ đốc, chỉ có điều là tất cả đều bị đảo ngược lại... Hôm nay
hắn đã cám dỗ cả cô nữa, nhưng chúng tôi không để cho cô lọt vào tay chúng
đâu... Chúng tôi sẽ chuyển cô sang làm việc khác.
Vấn đề thứ ba vẫn chưa giải quyết được
(Đasa đã lại về nhà, nằm lên giường, khuỷu tay che mắt). Nàng chợt thấy chán
nghĩ quá: nghĩ mãi khổ lắm rồi... “Nào mình có sống trăm tuổi cho cam? Mình có
xấu xa đến thế đâu? Tại sao cứ phải gò bó mình? Đã muốn đến Mêtrôpôl thì cứ đến...
Tại sao lại phải giấu giếm tất cả những cái gì không hề muốn được giấu giếm, tại
sao lại phải nén tiếng reo hạnh phúc trong lồng ngực? Vì ai mà cứ phải khép chặt
đùi lại một cách khổ sở thế này? Để chờ ân ái của ai? Đồ ngốc, đồ hèn... Hãy
vùng ra, lao tới... Đằng nào chả thế - nhổ toẹt vào tình yêu: nhổ toẹt vào bản
thân mày...”.
Nàng đã biết chắc là nàng sẽ đến “Mêtrôpôl”.
Nhưng sở dĩ nàng còn nghĩ chẳng qua là vì chưa đến giờ đi. Bấy giờ là buổi
hoàng hôn, thời gian độc địa nhất đối với suy tư. Trong nhà đồng hồ điểm chín
tiếng khoan thai như chuông đồng hồ tháp. Đasa nhảy vội xuống giường... “Hồi hộp
cuống quít lên như thế này thì nhục quá, không thể như thế được!”.
Nàng vội vàng cởi quần áo, chỉ để chiếc áo
lót chạy vào buồng tắm, nơi xếp ngổn ngang những bó củi, những chiếc hòm, những
thứ đồ cũ. Nàng đứng dưới gương sen, vặn nước. Một làn mưa lạnh buốt trút xuống
lưng nàng, làm nàng gần như tắt thở. Người ướt đầm đìa, nàng chạy về phòng ngủ,
rút tấm khăn trải giường ra lau mình, răng đánh vào nhau cầm cập.
Và mãi đến phút này vẫn không thấy được một
giải pháp nào: nàng hết nhìn chiếc áo cũ vứt giữa sàn, lại nhìn sang chiếc áo gấm
hôm qua vắt trên lưng ghế. Và nàng lại thấy rõ ràng đây chỉ là một sự hèn nhát,
một cách trì hoãn. Bây giờ nàng lập tức mặc áo vào. Trong phòng không có gương:
cũng may. Nàng khoác tấm khăn choàng lông lên vai và đi ra phố, len lén như con
ăn cắp. Bóng hoàng hôn đã dày đặc. Nàng đi qua các đại lộ. Mấy người đàn ông
kinh ngạc quay lại nhìn theo nàng. Nàng nghe loáng thoáng mấy câu bình phẩm
không có gì đáng yên tâm cho lắm. Từ dưới rặng cây có hai người mặc áo khoác
lính nhô ra, quát gọi nàng: “Gượm đã, con ăn bám, mày chạy đi đâu?”.
Đến quảng trường Nikitxkaia, Đasa dừng lại,
thở hổn hển, trống ngực đập thình thình. Hai toa xe điện thắp đèn sáng chạy
qua, kéo chuông inh ỏi. Trên các bậc lên xuống đều có người bám chật. Ở toa trước
có một người dùng tay phải bíu vào thanh vịn bằng đồng, tay kia xách một cái
va-li con bằng da cá sấu hình dèn dẹt. Khi xe đi vượt qua Đasa, người ấy ngoảnh
cái mặt cạo nhẵn về phía nàng. Đó chính là Mamônt. Đasa kêu lên một tiếng và cắm
cổ chạy theo tàu điện. Hắn đã trông thấy Đasa, chiếc va ly con trong tay hắn
rung giật lên. Hắn buông tay vịn ra nhảy xuống đường trong khi tàu điện vẫn lao
nhanh, ngã lăn ra, tay chới với cố bíu vào khoảng không, một đế giầy to tướng
vung cao lên, và vừa lúc ấy một nửa người hắn khuất dưới toa thứ hai, chiếc va
ly lăn xuống chân Đasa. Nàng trông thấy hai đầu gối hắn vụt co lại, nàng nghe
thấy tiếng xương vỡ răng rắc, tiếng đôi ủng đập trên đá lát đường. Tàu điện
phanh rít lên, hành khách trên tàu đổ xô xuống.
Một ánh chì chập chờn trong mắt Đasa, mặt
đường mềm nhũn ra như bông: nàng ngã xuống bất tỉnh, hai tay và má đè lên chiếc
va ly con bằng da cá sấu.
9
Đợt chuyển sang phản công của Quân đoàn
tình nguyện, thường gọi là “chiến dịch Kuban thứ hai”, mở màn bằng trận đánh
vào nhà ga Torgôvaia. Chiếm được điểm nút hỏa xa này là một bước hết sức quan
trọng: cả vùng Bắc Kavkaz sẽ bị cắt ra khỏi nước Nga. Ngày mười tháng sáu, quân
đoàn gồm có một vạn bộ binh và kỵ binh, dưới quyền tổng chỉ huy của Đênikin,
dàn thành bốn đạo tiến lên bao vây Torgôvaia.
Đênikin đi với đạo quân của Đrozđôvxki.
Không khí hết sức căng thẳng. Ai nấy đều hiểu rằng kết quả của trận đánh đầu
tiên này sẽ quyết định số phận của quân đoàn. Dưới hỏa lực của pháo địch, chỉ
được một khẩu đại bác duy nhất bắn đạn bi yểm hộ, quân Đrôzđôvxki bơi qua sông
Yegorlyk. Phía trước đội xạ kích thứ nhất, trung đoàn trưởng thượng úy Turkul
vùng vẫy dưới nước như quả bóng, sặc sụa, luôn mồm chửi bới. Quân đỏ chống cự rất
dữ dội, nhưng đã vụng về để cho địch quân có kinh nghiệm hơn bao vây. Những đội
án ngữ đều bị đánh bật lui - từ phía nam do đạo quân của Borôvxki,, từ phía
đông do đội kỵ binh của Erđêli. Những đơn vị lẫn lộn của hồng quân cùng những
đoàn xe tải rất lớn đã rời bỏ Torgôvaia và bắt đầu rút lui về phía Bắc. Nhưng từ
phía Sablievka họ gặp phải đạo quân của Markôv chặng ngang đường. Quân tình
nguyện đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Những đội bách cơ cô-dắc của Erđêli
phóng nước kiệu trên thảo nguyên, chém xả vào tàn quân đỏ đang bỏ chạy, bắt được
nhiều tù binh và xe giàn chở đồ.
Hoàng hôn đã xuống. Tiếng súng đã lặng.
Đênikin chắp hai bàn tay phốp pháp ra sau lưng, mặt đỏ gay và cau có, đi đi lại
lại trên thềm ga, Một toán junker, cười
đùa hả hê như người ta vẫn đùa sau khi đã trải qua một cơn nguy hiểm chết người,
khuân những bao cát đến xếp trên các toa đĩa, đặt súng máy trên đoàn tàu bọc sắt
tự chế. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng đại bác nổ xa xa: đó là tiếng súng của đoàn
tàu bọc thép đỏ từ phía bắc, phía sau Sablievka, bắn về. Quả đạn cuối cùng rơi
cạnh một cái cầu bắc qua sông Manyts, nơi tướng Markôv đang cưỡi con ngựa xám
đi xem xét chiến trường.
Đã hai ngày hai đêm nay ông ta không ngủ,
không ăn gì, và không hút thuốc. Ông rất bực mình vì trận đánh chiếm Sablievka
đã không diễn ra theo đúng ý muốn của ông. Nhà ga có một đội hồng quân rất mạnh
và có cả pháo binh và xe bọc thép chiếm đóng. Hôm qua, ngày mười một, và suốt
ngày hôm nay đạo quân của ông, tiến theo đường vòng đến đây, đã chiến đấu rất
kiên trì nhưng không thu được thắng lợi. Lần này vận may, vẫn thường giúp ông
thành công nhanh chóng, đã phản bội ông. Số thương vong của đơn vị ông rất lớn.
Mãi đến chiều, chắc là sau khi nhận định tình hình chung, quân bolsêvik đóng ở
Sablievka mới rút lui.
Người hơi cúi trên yên, ông nhìn những đường
viền mờ mờ của mấy xác chết nằm sóng soài còn giữ nguyên cái tư thế khi tử trận.
Đó là những sĩ quan của ông, mỗi người khi lâm trận đáng giá cả một trung đội.
Chỉ vì một sự uể oải nào đấy trong trí óc ông, mấy trăm chiến sĩ ưu tú đã chết
và bị thương một cách vô ích.
Ông chợt nghe thấy một tiếng rên rỉ và những
tiếng thở khò khè như của một người tỉnh cơn ác mộng. Từ dưới dãy hào ở đầu cầu
có một người nhổm dậy rồi lập tức ngã sấp xuống bờ hào. Người ấy hì hục chống
tay lên, khó nhọc tì chân vào miệng hào, trèo ra khỏi hào và đứng nhìn đăm đăm
ngôi sao to và sáng nổi bật trên chân trời phía tây đang sẫm dần. Người ấy quay
cái đầu cạo trọc, rên lên một tiếng, rồi tập tễnh bước đi. Trông thấy tướng
Markôv, người ấy đưa tay lên vành mũ chào, rồi bỏ tay xuống.
- Thưa tướng quân, tôi bị choáng mạnh.
- Rõ.
- Tôi bị bắn từ sau lưng.
- Thật đáng tiếc.
- Tôi bị choáng mạnh ở đầu vì một phát súng
lục bắn từ sau lưng, gần gáy tôi... Đội viên tình nguyện Valêrian đã chủ tâm giết
tôi.
- Tên anh! - Markôv hỏi gắt.
- Thượng tá Rôstsin...
Vừa đúng lúc ấy, khẩu trăm linh hai đặt
trên đoàn tàu bọc thép của hồng quân đang rút về phía bắc bắn một phát cuối
cùng. Hòn đạn rú lên, bay trên thảo nguyên tối sẫm. Con ngựa của viên tướng lo
lắng cụp tai ra phía sau và bắt đầu ngồi bệt xuống. Quả đạn từ trên trời lao xuống,
rơi cách tướng Markôv năm bước.
Khi bụi và khói đã tan dần đi, Vađim
Pêtrôvits Rôstsin, bị hơi đạn hất ra xa, trông thấy con ngựa xám đang giẫy giụa
trên mặt đất, và bên cạnh là một thân hình bé nhỏ nằm sóng soài không nhúc
nhích. Rôstsin nhổm dậy kêu lên:
- Cáng đâu! Tướng Markôv chết rồi!
* * *
Sau khi chiếm Torgôvaia, Quân đoàn tình
nguyện quay sang hướng bắc tiến về phía Vêlikôknyajexkaia, nhằm hai mục đích:
giúp thủ lĩnh Kraxnôv quét sạch quân bolsêvik trong quận Xalxki, và củng cố
thêm hậu phương của mình về phía Txaritxyn. Họ chiếm Vêlikôknyajexkaia không tổn
thất bao nhiêu, nhưng thắng lợi cũng không khuếch trương được, vì trong một trận
đánh đêm, đội kỵ binh của Buđionny đã đánh tan các đơn vị của Erđêli và không
cho chúng qua sông Manyts.
Gần đến sát nhà ga, đoàn tàu bọc thép đầu
tiên của Quân tình nguyện suýt bị tiêu diệt. Những người đứng trên tàu trông thấy
một cái đầu máy cắm cờ trắng chạy lại. Tưởng rằng đó là toán đại biểu cưỡi đầu
máy đến thương lượng, họ liền ngừng bắn. Nhưng cái đầu tàu vẫn phóng tới, không
giảm tốc độ, rúc còi giật giọng. Mãi đến phút cuối cùng trên tàu bọc thép mới
có mấy người bắn vào cái đầu máy đã lao đến sát sườn. Nó húc vào đoàn tàu bọc
thép làm vỡ tan một toa đĩa, rồi ngã lăn kềnh ra - nó chứa đầy dầu hỏa và xung
quanh mắc đầy bom. Trong mấy phút đồng hồ cả chiến trường phải chú ý tới cái sự
biến kỳ lạ này, giống hệt như một pha giật gân trong một cuốn phim Mỹ.
Sau khi trao khu này cho bộ chỉ huy vùng
sông Đôn và phó cho các chi đội cô-dắc tự lĩnh lấy trách nhiệm tiêu diệt nốt những
phần tử bolsêvik ở địa phương. Đênikin lại quay về phía nam để đánh chiếm một
điểm nút tối quan trọng: nhà ga Tikhôretxkaia, là điểm nối liền vùng sông Đôn với
vùng sông Kuban, vùng Hắc hải với vùng Kaxpiên. Đênikin sắp phải đương đầu với
những nguy cơ lớn. Trên đường đi có hai thôn ổ lớn của dân tứ xứ -
Pextsanôvxkôie và Bêlaia Glina - vốn là hai trung tâm bolsêvik. Dân làng đang hối
hả đào công sự. Quân đoàn Kalnin cũng đang khẩn trương củng cố vị trí ở gần
Tikhôretxkaia. Quân đoàn Xôrôkin, lúc bấy giờ đã hoàng hồn sau cơn hoảng loạn,
cũng bắt đầu gây sức ép từ phía này. Những đơn vị hồng quân đã bị đánh tan trên
sông Manyts đã tập hợp lại và chuyển sang tấn công từ hậu phương. Nhiều làng
cô-dắc đã gửi dân quân đến.
Đênikin chỉ có thể trông mong vào một ưu thế
duy nhất: tình trạng thiếu ăn ý trong cách hành binh của địch quân. Nhưng tình
trạng đó cũng có thể thay đổi từng phút một. Cho nên ông ta cố hành quân thật
nhanh. Có những nơi ông đã phải thân hành đến giục từng đơn vị đang nằm dài ra,
hoàn toàn kiệt sức. Bộ binh được chở bằng xe giàn. Đi trước quân đoàn vẫn là
đoàn tàu bọc thép cây nhà lá vườn của họ.
Ở gần Pextsanôvxkôie toàn thể dân làng đã
chiến đấu bên cạnh hồng quân. Quân tình nguyện chưa bao giờ chứng kiến một tinh
thần quyết chiến dữ dội như vậy. Từ sáng sớm cho đến tối mịt, thảo nguyên rung
chuyển lên vì trận pháo kích. Hai trung đoàn Bôrôvxki và Đrozđôvxki xung phong
hai lần bị đánh bật ra khỏi làng. Và mãi đến khi thấy mình bị bao vây tứ phía,
mà lại không biết rõ lực lượng và trang bị của địch, quân đỏ mới rút hết ra khỏi
làng. Bây giờ tất cả các đơn vị, tất cả các chi đội và các đám dân lánh nạn đều
kéo về Bêlaia Glina.
Ở đây, làm nòng cốt cho đoàn quân đông đến
vạn người là Sư đoàn Thép của Đmitri Jlôba. Tất cả các lứa tuổi đều được động
viên. Họ đào cộng sự ở các lối vào làng. Lần đầu tiên quân đỏ tỏ ra có tổ chức
và có hiểu biết về chiến thuật. Trong các buổi mít tinh, các diễn giả kêu gọi đồng
đội chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Trước mắt họ
là một đối thủ lão luyện: để chống lại lòng dũng cảm và sự liều lĩnh tuyệt vọng,
nó vận dụng khoa học quân sự, nó nghiên cứu cặn kẽ từng chi tiết nhỏ và chuyển
quân như trên một bàn cờ tướng, bao giờ cũng xuất hiện bất ngờ ở sau lưng đối
phương. Quả tình, đợt đầu của cuộc tấn công không thu được kết quả gì. Đại tá
Jêbrak, người chỉ huy quân Đrozđôvxki, đang tiến quân trong đêm tối thì vấp phải
những đội tiền tiêu của hồng quân đóng trong một khu trại: bị hỏa lực đỏ bắn
sát tầm ngay trước mặt, đại tá đã dẫn quân xung phong lên và bị bắn chết ngay.
Quân Đrozđôvxki lùi lại và nằm rạp xuống. Nhưng đến chín giờ sáng, Kutêpôv dẫn
quân Kornilôv phối hợp với một trung đoàn kỵ binh có xe thiết giáp yểm hộ, từ
phía nam đánh vào Bêlaia Ghina. Từ phía nhà ga bị bạch quân chiếm lại có
Borôvxki đem quân tiến sát vào làng. Một trận giáp lá cà diễn ra trên các đường
làng. Quân đỏ cảm thấy mình bị vây hãm bốn phía, bắt đầu rối loạn. Chiếc xe thiết
giáp lao bừa vào hàng ngủ họ. Những mái rạ bốc cháy ngùn ngụt. Bò và ngựa chạy
tán loạn giữa đám lửa, dưới làn đạn, giữa những tiếng gào thét.
Sư đoàn Thép của Jiôba rút lui theo con đường
duy nhất mà họ thấy là không bị chặn. Nhưng trên con đường ấy, bên một cái chòi
bẻ ghi, Đênikin đang cưỡi ngựa đứng chờ. Ông ta đưa bàn tay lên miệng làm loa,
quát tháo dữ dội, ra lệnh phải chặn ngay đường rút lui của đám tàn quân Sư đoàn
Thép có cả quân du kích và toàn thể dân làng chạy theo. Kỵ binh của Erđêli phi
nước đại rượt theo họ. Ngay đến lính áp tải của tổng tư lệnh cũng không cầm
lòng được nữa, tuốt gươm đuổi theo để chém giết. Các sĩ quan tham mưu cứ quay
cuồng trên yên ngựa, và như một đàn chó săn đuổi rượt theo mồi, họ cũng phi ngựa
đến đây, chém xả vào đầu, vào lưng đám người đang bỏ chạy. Đênikin đứng lại một
mình. Ông lấy mũ lưỡi trai quạt khuôn mặt nóng bừng vì khích động. Trận thắng
này đã dọn sạch con đường đưa ông đến Tikhôretxkaia và Êkatêrinôđar.
Vào lúc nhá nhem, trong làng có những loạt
súng ngắn nổ đây đó trước các sân nhà: đó là quân lính Đrozđôvxki đang trả thù
cho Jebrak bằng cách đem bắn các tù binh hồng quân. Đênikin uống nước chè trong
một căn nhà đầy ruồi nhặng. Tuy đêm hôm ấy trời oi bức, cái áo quân phục may rất
sát của ông vẫn cài khuy đến tận cổ. Cứ sau mỗi loạt súng ông ta lại quay ra
phía cái cửa sổ đã vỡ hết kính và đưa chiếc khăn mùi soa vò nát lên lau vầng
trán và hai bên sống mũi.
- Vaxili Vaxiliêvits, anh bạn ơi, - ông ta
nói với viên sĩ quan phụ tá của ông, - anh bảo Đrôzđôvxki đến gặp tôi nhé, dù
sao thì làm như thế cũng không ổn.
Viên sĩ quan phụ tá cộp hai gót ủng vào
nhau, cựa kêu lẻng xẻng, đưa tay lên vành mũ, bỏ tay xuống, rồi quay ngoắt lại
và ra khỏi phòng. Đênikin rót nước trong xamovar
ra ấm trà. Một loạt súng nữa nổ gần sát bên cạnh, làm cho mấy tấm kính rung lên
lách cách. Rồi trong bóng tối có tiếng kêu kéo dài: u-u-u-u. Nước sôi tràn ra
miệng ấm cùng với mấy búp trà. Antôn Ivanôvits đậy nắp ấm lại, miệng khẽ thì thầm:
“Đến khổ! Đến khổ!”. Cánh cửa vụt mở. Một người trạc ba mươi tuổi, mặt tái mét,
mình mặc chiếc áo va-rơi nhàu nát với đôi lon vai cấp tướng mềm cũng nhàu không
kém. Ánh đèn dầu hỏa phản chiếu mờ mờ trên đôi mắt kính cặp mũi của hắn. Cái cằm
vuông vức có một chỗ lúm nhỏ ở giữa dô ra phía trước, lởm chởm những râu, đôi
má hóp cứ giật giật từng đợt. Hắn dừng lại trên ngưỡng cửa. Đênikin nặng nề rời
ghế đứng dậy, chìa bàn tay ra đón khách:
- Mời ông ngồi xuống đây, Mikhail
Grigôviêvits! Uống tí trà nhé?
- Xin cảm ơn tướng quân, tôi không có thì
giờ ạ.
Đó là Đrozđôvxki, gần đây mới được đề bạt
lên cấp tướng. Hắn biết rõ tổng tư lệnh gọi hắn để làm gì, và cũng như mọi khi
- trong khi chờ đợi những lời nhận xét - hắn khổ sở nén cơn giận xuống. Đầu cúi
gầm, Đrozđôvxki đưa mắt nhìn chéo sang một bên.
- Mikhail Grigôrievits ạ, tôi muốn nói chuyện
với ông về những cuộc xử bắn ngoài kia đấy, ông bạn ạ...
- Tôi không đủ sức ngăn cản các sĩ quan của
tôi đâu, - mặt càng tái nhợt đi, Đrozđôvxki nói giọng the thé rất khó chịu, cái
giọng sắp vỡ của một người lên cơn động kinh. - Tướng quân cũng biết đại tá
Jêbrak bị bọn bolsêvik hành hạ dã man như thế nào... Ba mươi lăm sĩ quan mà tôi
đã đưa từ Rumani về... cũng bị tra tấn và phanh thây... Bọn bolsêvik giết và
tra tấn tất cả mọi người... Phải, tất cả.... (Hắn nghẹn giọng, tắt thở). Tôi
không thể giữ được... Tôi xin khước từ việc đó... Nếu tướng quân không hài
lòng, tôi thiết tha xin tướng quân cứ cách chức tôi... Được làm lính thường,
tôi coi đó là một vinh dự...
- Thật đến khổ, đến khổ - Đênikin nói. - Không
nên nóng Mikhail Grigôrievits ạ... Ai lại đi nói chuyện cách chức bao giờ...
Ông nên hiểu rằng đem tù binh ra bắn như vậy chính là làm tăng sức kháng cự của
địch... Tin đồn về những vụ xử bắn sẽ lan rộng ra. Vậy thì việc gì lại tự mình
gây tác hại cho quân mình? Ông có đồng ý với tôi không nào? Có đúng thế không
nào? (Đrozđôvxki lặng thinh) Xin ông truyền đạt lại cho các sĩ quan của ông như
vậy, đừng để cho những sự việc tương tự xảy ra một lần nữa.
- Xin tuân lệnh! - Đrozđôvxki quay ngoắt đi
ra ngoài, đóng sập cửa lại sau lưng.
Đênikin còn ngồi suy nghĩ bên chén trà hồi
lâu, chốc chốc lại lắc đầu. Xa xa vang lên một loạt súng cuối cùng rồi đêm tối
chìm sâu trong im lặng.
* * *
Cuộc hành binh tiến đánh Tikhôretxkaia là một
bộ phận trong kế hoạch khai triển hoạt động của quân đoàn trên một mặt trận rộng
sáu mươi dặm. Việc phải làm trước tiên là quét sạch khỏi căn cứ bàn đạp những
chi đội và đơn vị du kích lẻ tẻ. Việc này được giao cho viên tướng trẻ
Borôvxki: trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ ông ta vừa chiến đấu vừa vượt qua một
trăm dặm, chiếm đóng một loạt làng cô-dắc. Trong lịch sử nội chiến đó là cuộc
hành quân “biệt kích” đầu tiên vào hậu phương của quân địch.
Sau đó quân đoàn tình nguyện khai triển đội
hình trên khắp căn cứ bàn đạp đã được quét sạch. Ngày ba mươi, Đênikin phát ra
một quân lệnh ngắn: “Ngày mai, mồng một tháng bảy, đánh chiếm nhà ga
Tikhôretxkaia, sau khi đánh tan quân địch tập trung trong khu vực
Ternôvxkaia...”. Đêm hôm ấy các đạo quân xuất phát, bao bọc Tikhôretxkaia giữa
hai gọng kềm khổng lồ. Quân bolsêvik, sau một trận đọ súng ngắn, bắt đầu rút
lui về phía vị trí có công sự.
Ở đây không hề thấy có sức kháng cự liều
lĩnh, tuyệt vọng như một tuần về trước. Trận thất thủ Bêlaia Glina đã gieo sự bối
rối vào hàng ngũ hồng quân. Cuộc tiến quân của Xôrôkin đã chùn lại. Cái số mấy
ngàn binh sĩ đã ngã xuống trong trận huyết chiến ấy đã tỏ ra vô ích. Bạch quân
đang tiến lên như một bộ máy khổng lồ. Trí tưởng tượng hoang mang khuếch đại
thanh thế của quân tình nguyện lên mười lần. Người ta kể cho nhau nghe rằng từ
khắp nước Nga hàng đoàn sĩ quan đang kéo về gia nhập quân đoàn Đênikin, rằng bọn
Cađê không tha một người nào lọt vào
tay chúng, rằng hễ chúng quét sạch nơi nào là quân Đức đến chiếm đóng ngay nơi ấy.
Kalnin, tư lệnh cánh quân Tikhôretxkaia, ngồi lì trên toa tàu của mình ở ga
Tikhôretxkaia như đã hoàn toàn tê liệt. Khi trông thấy quân Đênikin, từ khắp bốn
phía tiến vào, ông ta đã mất tinh thần và ra lệnh rút lui. Đến chín giờ sáng tiếng
súng đã ngớt, các đơn vị đỏ rút về các vị trí hình bán nguyệt. Kalnin vào buồng
toa khóa trái cửa lại để ngủ một giấc, đinh ninh rằng hôm nay sẽ không phải tác
chiến nữa. Trong khi đó quân tình nguyện tiếp tục chuyển quân trên cánh đồng
lúa mì mọc rất rậm, tiến dần lên bao vây đối phương. Đến giữa trưa, hai cánh sườn
ngoài cùng của họ gặp nhau và từ phía nam đánh vào hậu phương quân đỏ. Trung
đoàn Kornilôv xông vào chiếm ga, không bị một tổn thất nào. Các nhân viên hỏa
xa đều bỏ trốn. Kalnin đã biến đi đâu mất - trong buồng toa chỉ thấy cái mũ lưỡi
trai và đôi ủng của ông ta vứt lăn lóc giữa sàn. Ở buồng bên cạnh họ tìm thấy tổng
tham mưu trưởng của Kalnin là đại tá Zvêrêv: đại tá nằm sóng sượt giữa sàn, sọ
bị bắn vỡ. Vợ ông nằm trên giường, đầu phủ tấm khăn san, ngực bị bắn thủng, hãy
còn thở thoi thóp.
Sau đó các đạo quân tình nguyện chỉ còn có
việc khép chặt gọng kìm tiêu diệt quân đỏ đã mất người chỉ huy và bị cắt ra khỏi
mọi căn cứ và đường giao thông. Suốt cho đến tối bạch quân nã đại bác và súng
máy vào họ. Trên trận địa hình bán nguyệt, binh sĩ hồng quân giãy giụa cuống cuồng
dưới trận mưa chì quất vào mặt, vào lưng họ. Những con người đã hóa rồ từ dưới
hào xông lên đánh lưỡi lê và đâu đâu cũng bị tiêu diệt sạch. Đến chiều Kutêpôv
chặn con đường duy nhất còn để hở dẫn về phía bắc, rồi dùng hỏa lực và lưỡi lê
tiêu diệt nhóm hồng quân đang tìm cách len qua vòng vây. Đến chặp tối bạch quân
và hồng quân hàng ngũ lẫn lộn quần nhau trong đám lúa mì rậm rạp. Các cấp chỉ
huy lủi đi trong đám lúa như những con gà gô, tập hợp các sĩ quan lại và ném họ
vào cuộc chiến đấu. Ở một nơi, quân đỏ ở dưới hào buộc khăn trắng vào lưỡi lê
khua lên. Kutêpôv và một nhóm sĩ quan phi tới lập tức được đón tiếp bằng một loạt
súng trường kèm theo những tiếng chửi rủa cực kỳ dữ dội. Ông ta phải quay ngựa
phi trở lại, người cúi rạp trên mình ngựa. Lệnh của quan tổng tư lệnh là không
được bắn tù binh; nhưng không ai ra lệnh bắt sống tù binh cả.
Sáng hôm sau Đênikin cưỡi ngựa đi quanh chiến
trường. Trên khắp cánh đồng, lúa đều bị dẫm rạp xuống. Trên nền trời một màu
xanh lộng lẫy, mấy con kên kên lượn vòng. Đênikin nhìn qua những dãy chiến hào
ngoằn ngoèo chạy giữa cánh đồng, băng qua những gò đống và những nấm mộ. Từ dưới
hào nhô lên những cánh tay, những cẳng chân, những cái đầu, những thân hình nằm
úp lên nhau như một đống bị. Tướng quân Đênikin lúc bấy giờ đang ở vào một tâm
trạng trữ tình. Ông ta xoay người sang một bên để viên sĩ quan phụ tá phi ngựa
lại đón lệnh, và cất tiếng nói, vẻ trầm ngâm.
- Dù sao cũng toàn người Nga cả. Thật khủng
khiếp. Không bao giờ có được một niềm vui trọn vẹn, Vaxili Vaxiliêvits ạ...
Trận đánh đã thu được thắng lợi hoàn toàn.
Đoàn quân ba vạn người của Kalnin đã bị đánh tan, thương vong mất một phần lớn,
phải rút chạy tán loạn. Chỉ có bảy chuyến tàu của hồng quân kịp tháo về
Êkatêrinôđar. Quân đoàn Xôrôkin bị cô lập. Có những cánh quân mất hẳn liên lạc
với đại quân: đó là cánh quân Amavir và cánh quân duyên hải, tức quân đoàn
Taman. Quân đoàn Đênikin chiếm được một số chiến lợi phẩm khổng lồ: ba đoàn tàu
bọc sắt, nhiều xe thiết giáp, năm mươi khẩu pháo, một máy bay, nhiều toa súng
trường, súng máy, đạn dược, cả một kho quân nhu rất phong phú.
Trận thắng đã gây được một ấn tượng rất mạnh,
làm cho công luận sửng sốt. Thủ lĩnh Kraxnôv cho tổ chức một buổi lễ ở nhà thờ
lớn Nôvôtserkaxxk và ra diễn thuyết trước ba quân cũng hay ho không kém gì ông
bạn của ông ta là hoàng đế Vilhelm. Tuy trong ba tuần qua quân của Đênikin đã
thương vong mất một phần tư quân số, đến những ngày đầu tháng bảy nó lại được
tăng lên gấp đôi; những người tình nguyện nối tiếp theo nhau kéo về không ngớt
từ Ukrain, từ Tân Nga-la-tư, từ trung bộ nước Nga; lần đầu tiên người ta thành
lập những đơn vị gồm toàn tù binh hồng quân.
Sau hai ngày nghỉ ngơi. Đênikin chia quân
đoàn ra làm ba đạo và tiến hành một cuộc tấn công trên ba mặt trận : đánh
Xôrôkin ở phía tây, đánh cánh quân Amavir ở phía đông và truy kích tàn quân của
Kalnin đang án ngữ đường về Êkatêrinôđar ở phía nam. Mọi việc đều đã được suy
tính và chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng những định luật của khoa học quân sự cao cấp.
Chỉ có một nhân tố duy nhất và tối quan trọng không được Đênikin tính đến: trước
mặt ông không phải là một đội quân đối địch mà ông có thể ước lượng và cân nhắc
sức mạnh và phương tiện, mà chính là nhân dân vũ trang, là những lực lượng mà
ông không thể hiểu được. Ông không biết rằng đồng thời với những thắng lợi của
ông, lòng căm thù và sự nhất trí trong các đạo quân của nhân dân này cũng tăng
lên gấp bội, và cái thời diễn ra những cuộc mít tinh rầm rộ trong đó người ta
truất bỏ những cấp chỉ huy không vừa lòng binh sĩ và giơ tay biểu quyết để quyết
định tấn công, cái thời ấy qua rồi, nhường chỗ cho một kỷ luật mới, hãy còn
hoang dã, nhưng càng ngày càng thêm vững mạnh, kỷ luật của thời nội chiến.
Mọi sự hình như đều báo trước một thắng lợi
dễ dàng và nhanh chóng. Trinh sát báo cáo về những cuộc chuyển quân hoảng hốt của
Xôrôkin đang rút về Êketêrinođar qua sông Kuban. Nhưng điều đó không đúng hẳn.
Bọn trinh sát đã nhầm. Những đám quân vượt qua sông Kuban chỉ là những tốp lính
đào ngũ và những chi đội nhỏ, cùng với những đoàn xe tải của dân lánh nạn. Đoàn
quân ba vạn người của Xôrôkin đã loại bỏ tất cả những phần tử không có khả năng
chiến đấu, đang củng cố hàng ngũ, hừng hực chí phục thù. Mặt trận Bataixk chống
quân Đức bị bỏ trống, Hồng quân chờ đợi một cuộc chạm trán trên bình địa, diện
đối diện với Đênikin. Và cơ sự đã xảy ra như thế nào mà Quân đoàn tình nguyện,
được những thắng lợi vừa qua chắp cánh, chỉ còn với tay nữa là đạt đến đích, đã
suýt bị tiêu diệt hoàn toàn trong trận huyết chiến mở màn một cách đột ngột và
kéo dài mười ngày liền với quân Xôrôkin.
Đáp lại lời đề nghị của Chấp ủy Kuban - Hắc
hải, Xôrôkin đã trả lời với một thái độ ngạo mạn theo kiểu Bônapartơ: “Tôi
không cần cán bộ tuyên truyền. Quân lính của Đênikin đang tuyên truyền cho tôi.
Lòng dũng cảm có một không hai trong lịch sử của quân đội tôi sẽ đạp đổ mọi chướng
ngại vật phản cách mạng”. Chấm dứt được tình trạng hoảng loạn trong quân đội
vào những ngày đầu cuộc tấn công của Đênikin, Xôrôkin như bừng tỉnh sau giấc ngủ
mê man trong cảnh sống nhàn nhã và say sưa. Suốt ngày đêm ông ta kiểm tra mặt
trận, khi thì đi tàu, khi thì đi goòng máy, khi thì cưỡi ngựa. Ông ta tổ chức
những cuộc điểm binh, tự tay bắn chết trước hàng quân hai viên chỉ huy có thái
độ lơ là với tình hình hiện tại. Đứng thẳng người trên bàn đạp, ông lớn tiếng
phỉ báng những kẻ thù của nhân dân, chủi bới tục tằn, sùi cả bọt mép ra, môi
méo xệch đi, đến nỗi binh sĩ hồng quân đồng thanh gầm lên như một đàn trâu dữ
át cả tiếng ông ta. Ông tăng cường hoạt động của các tòa án binh và các ban đặc
vụ, tuyên án xử tử những ai giữ súng không chu đáo và ban hành trong quân đoàn
những bản nhật lệnh trong đó có nói: “Hỡi các chiến sĩ! Nhân dân lao động toàn
thế giới đang khấp khởi hy vọng nhìn vào các đồng chí, họ sẽ ghi ơn các đồng
chí với lòng thành kính muôn đời. Các đồng chí đang đi lên đón lấy buổi bình
minh đẫm máu của lịch sử, mắt mở rộng, lồng ngực tràn đầy nhuệ khí. Bọn ăn bám,
bọn rắn rết đê hèn, giặc Đênikin và toàn thể lũ chó má phản cách mạng phải bị
quét sạch bằng lửa đạn. Hòa bình cho nhân dân lao động, tiêu diệt sạch bọn bóc
lột, cách mạng toàn thế giới muôn năm!”.
Chính ông ta đã tự tay viết ra những bản nhật
lệnh này trong một tâm trạng khích động như lên cơn sốt. Những bản nhật lệnh của
ông đều được đem đọc trước từng đại đội. Những người mu-gích Ukrain, những người
thợ mỏ sông Đôn, những cựu binh của quân đoàn Kavkaz, những người cô-dắc tứ xứ
- cả đám người hỗn tạp, rách rưới, ồn ào, không tín ngưỡng ấy đều mê mẩn tâm thần
trong khi nghe những lời lẽ khoa trương này.
Tham mưu trưởng Bêlyakôv, một quân nhân
thông minh và từng trải, đã soạn ra một kế hoạch tấn công, hay nói cho đúng
hơn, một mưu đồ đưa cả ba vạn quân lao lên chọc thủng vòng vây và rút ngay sang
bên kia sông Kuban. Ít nhất đó cũng là ý nghĩ của viên tham mưu trưởng, vốn
không hy vọng mảy may là sẽ giành được một thế thuận lợi nào trong cuộc chạm
trán với Đênikin. Nơi được chỉ định để chọc thủng vòng vây là khu vực nhà ga
Korênôvxkaia (giữa Tikhôretxkaia và Êkatêrinôđar). Sau khi chiếm Korênovxkaia
có thể áp đảo dễ dàng hai đạo quân của Đrozđôvxki và Kazanôvits bấy giờ đã bị cắt
ra khỏi đại quân ở phía nam, rồi quay về Êkatêrinôđar và đến đây sẽ tính sau: ý
đồ của viên tham mưu trưởng là như vậy. Tình cảnh ông hết sức gay cấn: trong
thâm tâm, khi mê cũng như khi tỉnh, ông vốn căm thù phe đỏ, nhưng số phận khốn
nạn lại ràng buộc ông ta với những người bolsêvik. Nếu lọt vào tay Đênikin - người
mà ông ta vẫn nghĩ đến với một niềm khâm phục đầy lo âu và ghen tị - thì chỉ có
chết. Nếu Xôrôkin nghi ông ta không đủ nhiệt tình cách mạng và không căm thù
Đênikin đúng mức - thì cũng chết nốt! Niềm hy vọng duy nhất - tuy nó cũng huyền
hoặc như tất cả các sự việc khác trong thời buổi này - là lòng hám danh ngông
cuồng của Xôrôkin. Đó là một con bài có thể đánh được: dùng đủ mọi cách để đưa
Xôrôkin lên cương vị độc tài, rồi đến đấy hẵng hay!...
Dù sao thì ông ta cũng chuẩn bị cuộc tấn
công rất ráo riết: những kho dự trữ đạn dược và lương thảo được đặt rải rác đến
tận ga Timasêvô, những toa đạn được dỡ xuống, từng đoàn xe tải rất lớn kéo kìn
kìn vào thảo nguyên. Quân đoàn được bố trí trong khu vực Timasêvô, mặt quay về
phía đông nam, để có thể cùng một lúc đánh vào Korênôvxkaia và vào Vyxelki nằm
về phía bắc ga này.
Rạng ngày mười lăm tháng bảy, dã pháo của hồng
quân khai hỏa như vũ bảo vào Korênôvxkaia, và một giờ sau các đội bách cơ kỵ
binh nối tiếp nhau lao từng đợt vào làng và vào nhà ga. Họ chém vun vút vào bọn
cađê, thúc ngựa xéo bừa lên chúng, và
chỉ bắt làm tù binh những tên đã vứt súng xuống từ xa. Các đơn vị bộ binh đi suốt
đêm và đến Korênôvxkaia thì lập tức đào công sự không phải thành hình bán nguyệt
như ở Bêlaia Glina, mà thành một vòng vây kín mít hình bầu dục.
Mặt trời trắng bạch mọc lên trong một đám bụi
mù mịt và nóng bức. Cả thảo nguyên nhộn nhịp hẳn lên: những đội kỵ binh phi nước
đại, những trung đoàn bộ binh trườn lên, những đội pháo binh lăn bánh ầm ầm, khắp
nơi vang lên những tiếng quát tháo, những tiếng roi quất, những tiếng súng nổ,
những tiếng ngựa hí, những tiếng hô mệnh lệnh khản đặc. Từng đoàn xe tải kéo
dài đến tận chân trời. Trời nóng như lò lửa. Đi đến nửa đường, Xôrôkin rời khỏi
bộ tham mưu và cưỡi con ngựa giống sủi bọt mồ hôi trắng xóa quay cuồng giữa các
hàng quân. Từ chỗ ông ta chốc chốc lại thấy phóng ra những sĩ quan trực ban và
những chiến sĩ liên lạc đem mệnh lệnh của ông ta chuyển tới các đơn vị.
Mũ ông ta đã rơi mất trong khi phi ngựa,
chiếc áo Tserkex cũng đã cởi bỏ. Ông chỉ còn mặc trên người một chiếc sơ-mi lụa
màu huyết dụ, ống xắn quá khuỷu tay, và cái quần kỵ binh thắt nịt da rất chặt.
Khắp nơi binh sĩ đều có thể trông thấy gương mặt của ông đen xỉn lại vì mồ hôi
và bụi, làm nổi bật hàm răng trắng nhởn. Ông đã thay đến con ngựa thứ ba. Giờ
đây ông đi xem xét cách bố trí các trận địa pháo, thăm qua những dãy chiến hào
mà các đơn vị bộ binh đang đào theo lối chuột chũi trên đất màu đen nhánh, rồi
phi ra thảo nguyên qua các trạm thông tin, ghé vào những nơi dỡ đạn của các
đoàn xe tải đang kéo đến, vung roi gọi các cấp chỉ huy lại, cúi người trên yên,
mặt nóng bừng và hung hãn, mắt quắc lên dữ tợn, nghe họ báo cáo. Ông ta như người
chỉ huy một dàn nhạc khổng lồ đang theo dõi các nhạc công của mình lên dây đàn
cho trận chiến đấu đang mở màn. Ông phi ngựa ra ga, để con ngựa đang thở hổn hển
ngoài sân rồi bước vào phòng điện báo, lấy chân gạt một cái xác sĩ quan bạch vệ
bị vỡ sọ sang một bên cửa vào và cầm băng giấy điện báo đang từ từ tuôn ra khỏi
máy lên đọc, trong lòng dấy lên một nỗi khích động say sưa, điên cuồng. Từ phía
nam, quân của Đrozđôvxki và Kazanôvits vừa rời khỏi ga Đinxkaia đang tiến về đây
để ứng chiến.
Quân Đrozđôvxki di chuyển bằng xe giàn:
hàng trăm chiếc xe phi suốt ngày qua thảo nguyên trong những đám bụi nóng bỏng.
Quân của sư đoàn Markôv do tướng Kazanôvits chỉ huy được chở bằng xe lửa cùng với
một đội pháo binh, vượt lên trước, và rạng ngày mười sáu, từ các toa xe lửa
xông thẳng vào công kích Korenôvxkaia.
Tướng Kazanôvits đứng trên thành giếng, bên
cạnh một chòi bẻ ghi, và điềm tĩnh theo dõi những đợt di chuyển khéo léo của
các đội xạ kích sĩ quan đang im lặng tiến lên, không nổ súng. Gương mặt thanh
tú, trang nhã của ông, với đôi ria hoa râm để dài và bộ râu cằm húi ngắn (như
râu của Sa hoàng bệ hạ), có một vẻ chăm chú đầy ý ngạo nghễ, đôi mắt rất đẹp của
ông mỉm cười lạnh lùng, đượm một sắc thái lả lơi như mắt phụ nữ. Ông tin chắc ở
kết quả của trận đánh đến nỗi không thèm đợi sư đoàn Đrozđôvxki một phút nào hết.
Trên con đường đi tìm danh vọng, ông là kẻ kình địch của Đrozđôvxki, con người
có một lòng tự ái bệnh tật, tính thận trọng và chín chắn đến mức chậm chạp, nhiều
khi chỉ vì thế mà gây hại cho công việc chung. Kazanôvits yêu chiến tranh vì
cái quy mô hùng tráng của nó, vì tiếng nhạc của chiến trận, vì cái vinh quang rầm
rộ của những trận thắng.
Một vầng thái dương khổng lồ lăn lên trời từ
phía sau mấy ngọn gò ở phía xa, chứa chất cái phong khí hung hãn của tháng bảy:
ánh nắng chói chang chiếu thẳng vào mặt quân bolsêvik. Súng máy bắt đầu nổ từng
tràng, xé tan cõi im lặng oi ả. Có thể thấy rõ những đội xạ kích địch dày đặc từ
các chiến hào xông lên. Quân Markôv chạy về phía trước, không một ai khom lưng
dưới làn đạn. Hàng nghìn bóng người từ phía trước bò lên đón họ. Kazanôvits đưa
ống nhòm lên mắt. Lạ thật!
- Ba loạt đạn bi vào các “đồng chí”! - ông
ra lệnh cho người điện thoại viên ngồi bên bờ giếng. Hai trận địa pháo khuất
phía sau đường tàu khai hỏa. Từng chùm đạn bi nổ trắng xóa như những cuộn bông
sát trên đầu các đội bộ binh địch. Những bóng người nghiêng ngả hỗn loạn, rồi lại
siết chặt hàng ngũ, tiếp tục tiến lên. Bây giờ khắp cánh đồng đã vang rền tiếng
súng. Các trận địa pháo của bolsêvik mãi đến giờ mới gầm lên. Kazanôvits băn
khoăn cười nhạt một tiếng, chiếc ống nhòm run run trong bàn tay nhỏ nhắn. Lính
của sư đoàn Markôv nằm rạp xuống hối hả đào công sự. Gương mặt rám nắng của
Kazanôvits tái đi. Ông ta nhảy trên bờ giếng xuống, ngồi xổm bên thùng điện thoại
và sai gọi tướng Timanôvxki.
- Các đội xạ kích không cất đầu lên được, -
ông ta quát vào ống máy. - Bằng bất cứ giá nào cũng phải đánh bật cánh trái. Phải
tranh thủ từng giây...
Lập tức từ phía sau đường tàu đội dự bị của
Timanôvxki thuộc sư đoàn Markôv lao xuống dốc. Từng tốp một, hết đội này đến đội
khác, cương quyết và khích động, họ khuất vào đám lúa đã sai hạt. Timanôvxki,
trẻ trung, hồng hào, lúc nào cũng riễu cợt, mũ đội lệch, mặc chiếc áo sơ-mi vải
bẩn thỉu với đôi lon cấp tướng đen kịt, tay lăm lăm thanh kiếm chạy ở phía sau
các hàng quân. Trước mắt họ đang diễn ra một sự việc không thể nào hiểu được:
các đội quân bolsêvik như luôn luôn bị đánh tráo đi - những giây phút mà lẽ ra
họ không thể nào tránh khỏi nao núng đều đã trôi qua. Bây giờ khắp thảo nguyên
đã lố nhố những bóng lính hồng quân đang tiến lên. Mấy khẩu súng máy của quân
tình nguyện tha hồ nhả đạn từng tràng - những đợt sóng mới vẫn tràn lên thay thế
những đợt đã ngã xuống.
Cuối cánh đồng lúa mì, các đại đội của
Timanovxki cầm súng lắp lưỡi lê lần lượt lao lên. Kazanôvits người rướn thẳng
như sợi dây đàn đứng trên thành giếng. Trong cái nhãn trường rất hẹp của đôi ống
nhòm, ông trông thấy mấy cái gáy hung hãn của lính Markôv. Thật căng thẳng đến tột
độ! Rụng rồi, rụng rồi! Ông đưa ống kính theo những người lính đang xông lên,
và chợt trông thấy những cái miệng há hốc, những khuôn mặt rộng, những cái mũ
lính thủy, những bộ ngực rám nắng để trần... Lính thủy bolsêvik!... Ngay sau đó
tất cả quấn hết vào nhau thành một mớ hỗn độn: trận giáp lá cà bắt đầu. Một nụ
cười đau đớn ngưng đọng trên đôi môi thanh tú của Kazanôvits... Lính Markôv
không trụ nổi rồi! Tàn quân của đại đội một chạy vào đám lúa mì nằm rạp xuống.
Đại đội hai chùn lại, và cũng nằm nốt.
Kazanôvits liền rời thành giếng nhảy xuống
đất và chạy nhanh qua cánh đồng. Quân lính đã trông thấy ông ta. Ông ta quát: “Các
ngài, các ngài, thật xấu hổ!”. Các hàng quân lần lượt nhổm dậy. Ông bắt họ xông
lên đánh lưỡi lê, nhưng hỏa địch bắn rát và quân lính ngã xuống nhiều đến nỗi
các hàng quân lại phải nằm xuống. Chẳng lẽ trận này thua mất hay sao?
Đến chín giờ sáng từ phía tây vẳng lại những
tiếng súng đại bác của sư đoàn Đrozđôvxki. Một chiếc xe thiết giáp lắc lư xuất
hiện trên thảo nguyên, trông như một con rùa xám. Sư đoàn Đrozđôvxki mở cuộc tấn
công một cách điềm đạm, có quy củ. Lần thứ ba các hàng quân của Kazanôvits lại
nhổm dậy. Quân tình nguyện bây giờ tiến lên thành một tuyến rộng hình cánh
cung. Quân bolsêvik khó lòng chịu nổi đợt tấn công này.
Giữa các chiến hào của quân bolsêvik chợt
thấy xuất hiện một người cưỡi ngựa phi điên cuồng, tay vung thanh gươm sáng
loáng. Người ấy phóng lên một ngọn gò, kìm ngựa lại. Người cưỡi ngựa mặc một
chiếc áo sơ-mi huyết dụ ống tay xắn cao, đầu hất ngửa ra quát tháo, rồi lại
vung gươm lên. Thế là từng đợt kỵ binh lao vào các hàng quân của sư đoàn
Đrozđôvxki đang tấn công. Ngựa của họ thấp bé, hung ác, phi là là sát đất. Những
phát súng trường im bặt. Tiếng gươm chém vun vút, tiếng gào thét, tiếng vó ngựa
vang dội cả một vùng thảo nguyên. Người kỵ mã mặc sơ mi đỏ từ trên gò lao xuống,
bỏ hẳn cương ngựa phóng lên phía trước đoàn kỵ binh. Một đám bụi đen nghịt bốc
lên, che kín cả chiến trường. Quân lính của sư đoàn Markôv và sư đoàn
Đrozđôvxki không sao đương nổi đợt tấn công của kỵ binh đỏ, phải bỏ chạy. Họ dừng
lại đào công sự cố thủ ở bên kia ngòi Kerpêli.
* * *
Ivan Ilyits Têlêghin, nhăn nhó và run rẩy
vì đau, lấy túi cứu thương cá nhân ra băng đầu lại.
Vết xước chẳng có nghĩa lý gì, xương không
bị chạm, nhưng đau quá thể, cứ như có một mũi khoan xoáy vào sọ. Chàng mệt lả
đi vì phải cố gượng mãi, đến nỗi băng xong chàng phải ngả lưng nằm ngửa trên
đám lúa một hồi lâu.
Tiếng dế kêu ri rỉ thanh bình như không có
chuyện gì xảy ra cả, nghe thật kỳ lạ. Những con dế vô hình nấp đâu dưới kẽ đất,
những vì sao sáng quắc của đêm phương nam và mấy bông lúa lún phún lông tơ treo
im lìm ở khoảng giữa mắt chàng và bầu trời, - những cuộc xung phong đẫm máu, những
tiếng gào thét và những tiếng gầm sắt thép của chiến trận đã kết thúc như vậy đấy.
Lúc nãy, gần đâu đây cón có một người bị thương rên rỉ, nhưng bây giờ người ấy
cũng đã im bặt.
Im lặng quả là một điều tốt lành, cơn đau
chói chang trong đầu đã dịu đi, và chàng có cảm giác là chính cõi im lặng hùng
vĩ, trang trọng này của đêm khuya đã xoa dịu nó. Trong ký ức chàng thoáng hiện
lên những mảng sáng lóe của ngày qua, một ngày đã bị xé tan ra từng mảng vì tiếng
gầm của đại bác, tiếng gào thét của những cái miệng mở hoác ra như miệng thú dữ,
vì những phút căm thù bùng lên dữ dội, trong khi người ta chạy miết về phía trước,
mắt chỉ nhìn thấy cái đầu lưỡi lê nhọn hoắt và gương mặt tái mét của người đang
bắn vào mình. Nhưng những kỹ niệm ấy xói vào óc, khoan vào sọ một cách đau đớn
đến nỗi Ivan Ilyits rên lên một tiếng: thôi nhanh lên, nhanh lên, sang một cái
khác...
Nhưng chàng có thể nghĩ đến cái gì khác? Chỉ
có thể một là những mảng rách khủng khiếp ấy của một biến cố dài dằng dẵng mà
trí tưởng tượng không thể nào bao quát hết được - cách mạng, chiến tranh, - hai
là giấc mơ hạnh phúc xa xôi mà chàng đã khóa chặt lại: Đasa! Chàng bắt đầu nghĩ
đến nàng (thật ra chàng không lúc nào thôi nghĩ đến nàng), đến cái tình cảnh bơ
vơ của nàng, chẳng được ai trông nom giúp đỡ, một thân một mình, vụng dại, yếu
đuối, với những mộng tưởng viển vông của nàng... Đôi mắt thì nghiêm trang, giận
dữ, nhưng trái tim thì như một con chim, nông nổi, bồng bột, - chỉ là một đứa
trẻ, một đứa trẻ...
Trong bàn tay úp sấp lại, Ivan Ilyits nắm
chặt một mô đất âm ấm. Mi mắt chàng khép lại. Nàng đã từ giã chàng, lòng tin chắc
là sẽ vĩnh viễn xa chàng. Em dại lắm em ơi... Không ai sợ đôi mắt giận dữ của
em đâu... Và sẽ không có ai yêu em chung thủy hơn anh, em bé dại dột của anh ạ...
Em sẽ phải chịu đựng những nỗi nhục nhằn đắng cay, không thể nào quên được...
Dưới hàng mi của Ivan Ilyits trào ra mấy giọt
nước mắt - vết thương của chàng đã làm cho chàng yếu đuối. Ngay sát dưới tai
chàng một con dế bắt đầu cất tiếng kêu rả rích. Dưới ánh sao, cánh đồng đẫm máu
bị xéo nát trông như giát bạc. Đêm bao trùm lên mọi vật... Ivan Ilyits nhổm dậy,
ngồi một lát, hai tay bó gối. Tất cả đều như trong chiêm bao, như trong thời
thơ ấu. Tim chàng xót xa, tim chàng lặng lẽ khóc... Chàng đứng dậy và bước đi,
cố thật nhẹ cho những bước chân đừng dội vào óc.
Korenovxkaia cách đây một dặm. Về phía ấy
lác đác có mấy đống lửa bập bùng trong đêm tối, gần hơn, dưới một khoảng đất
trũng, một ngọn lửa không có khói nhảy múa trên mặt đất. Ivan Ilyits thấy khát,
thấy đói, và rẽ về phía ngọn lửa.
Từ khắp cánh đồng có những bóng người đen
đen cũng đang đi về phía ấy, người thì bị thương nhẹ, người thì lạc mất đơn vị
đã tan vỡ, người thì kéo theo sau một gã tù binh. Họ gọi nhau í ới, cất tiếng
chửi khàn khàn, cười ha hả... Quanh đống lửa nhóm bằng những thanh tà vẹt đang
cháy rực, binh sĩ nằm la liệt.
Ivan Ilyits hít mạnh làn không khí thoang
thoảng mùi bánh mì. Tất cả những con người phủ đầy bụi bặm ấy đều đang nhai. Gần
đống lửa có chiếc xe giàn chở một mớ bánh mì và một cái thùng con. Một người
đàn bà gầy gò, tiều tụy, đầu bịt khăn hộ lý màu trắng, đang múc nước vào ca cho
binh sĩ uống.
Chàng uống nước và lĩnh một khoanh bánh mì
rồi đứng tựa vào chiếc xe giàn, vừa ăn vừa ngắm mấy ngôi sao trên trời. Những
người nằm quanh đống lửa có vẻ đã bình tâm lại, nhiều người đã ngủ say, nhưng
những người đang từ ngoài đồng trở về thì còn sôi sục lên vì căm giận. Họ chửi
rủa, giơ nắm tay dọa ai trong bóng tối, tuy chẳng ai nghe họ cả. Cô hộ lý phân
phát bánh mì và múc nước vào ca đưa cho họ.
Một người râu đen, cởi trần, lôi một tù
binh tới và xô hắn ngã ngồi xuống bên cạnh đống lửa.
- Đây, bắt được con chó này, thằng ăn bám
này... Anh em hỏi cung nó đi...
Người râu đen lấy ủng hất tên tù binh đang
nằm giữa đất một cái rồi lùi lại, hai tay xốc nịt quần. Cái ngực lép của hắn thở
phập phồng. Ivan Ilyits nhận ra Tsertôgônôv. Chàng quay mặt đi. Mấy người xô về
phía tên tù binh, cúi xuống...
- À, một tên tình nguyện... (Họ giật lon
vai của hắn ném vào lửa).
- Oắt con, nhưng ác như rắn độc!
- Đi đánh nhau vì vốn liếng của bố đấy
mà... Rõ ràng là con nhà giàu...
- Mắt cứ quắc lên thế kia kìa, cái thằng khốn
kiếp...
- Còn xem gì nữa, để tôi cho...
- Khoan, có thể hắn có tài liệu gì cũng
nên. Đưa đến bộ tham mưu đi...
- Giải lên bộ tham mưu đi...
- Không được! - Tsertôgônôv quát, rồi chồm
tới. - Hắn bị thương nằm đấy, tôi lại gần -thấy đôi ủng của hắn chưa - hắn bắn
tôi hai phát. Đừng hòng tôi buông tha hắn ra. - Rồi hắn quát tên tù binh, giọng
dữ tợn hơn nữa. - Cởi ủng ra.
Ivan Ilyits lại liếc mắt nhìn về phía đống
lửa. Cái đầu cạo nhẵn, tròn thu lu của tên tình nguyện quân trẻ măng được ánh lửa
soi sáng rực. Răng hắn nhe ra. Trong hai con mắt thao láo, đôi đồng tử đảo lia
lịa, cái mũi nhọn nhăn nhúm lại. Chắc hẳn hắn đã hoàn toàn mất tự chủ... Hắn
vùng đứng dậy. Cánh tay trái của hắn bỏ thõng xuống im lìm trong ống tay áo rách
đẫm máu. Từ các kẽ răng hắn khẽ phát ra một tiếng rít hằn học, cổ hắn vươn dài
ra... Tsertôgônôv lùi lại, thảng thốt trước cái hiện thân của lòng căm thù này.
- E-hê! - trong đám đông có ai nói thốt
lên, giọng ồm ồm. - Tôi biết thằng này, tôi trước có đi làm ở nhà máy thuốc lá
của bố nó: đó là lão Ônôli, chủ nhà máy Roxtôv.
- Có biết, chúng tôi có biết đấy, - trong
đám đông nhao nhao lên.
Valêrian Ônôli cúi đầu xuống, quay quay cái
cổ sang hai bên, rồi thét lên, cái giọng khản khản vỡ ra the thé:
- Quân khốn nạn, quân rác rưởi, lũ chó má
bolsêvik! Tao phải đánh vỡ mõm chúng mày, đánh vỡ mõm chúng mày! Người ta bắn
giết chúng mày, treo cổ chúng mày như thế vẫn chưa đủ phỏng? Chúng mày vẫn thấy
chưa đủ hả! Chúng tao sẽ treo ngược tất cả lũ chúng mày lên, đồ súc vật, đồ chó
má!...
Rồi không biết gì nữa, hắn chộp lấy bộ râu
xồm của Tsertôgônôv, đôi chân đi ủng đá lia lịa vào cái bụng để trần của người
lính hồng quân...
Ivan Ilyits lập tức rời chiếc xe giàn. Đám
binh sĩ gầm lên dữ dội, rồi một tiếng thét thất thanh cắt ngang cơn phẫn nộ mỗi
lúc một dâng lên hừng hực của họ. Cái thân hình của Valêrian Ônôli, hai tay
dang rộng, hai chân dãy dụa, bị nhấc cao lên trên đám đông và ném xuống.... Từ
đống lửa, một bó tàn đỏ rực nhỏ lăn tăn vút lên cao...
* * *
Trên cánh thảo nguyên gần về sáng đã mát lạnh
đi, mấy tiếng súng trường lẻ tẻ quất vào không khí như những phát roi, tiếng đại
bác vang rền, long trọng. Đó là hai đạo quân của Đrozđôvxki và Borôvxki đang mở
lại cuộc tấn công từ bên kia ngòi Kirpêli - một cố gắng tuyệt vọng nhằm xoay thế
thắng về phía mình.
Cũng trong đêm ấy quân đoàn trưởng Xôrôkin
nhận được một chỉ thị của chấp ủy Kavkaz - Kuban đang họp liên tục ở
Êkatêrinôđar gửi về, chỉ định ông ta làm tổng tư lệnh tất cả các lực lượng hồng
quân ở vùng Bắc Kavkaz.
Người đến báo tin này cho Xôrôkin là tham
mưu trưởng Bêlyakôv: tay cầm băng điện báo, ông ta lao lên toa xe lửa của quân
đoàn trưởng, hất đôi chân Xôrôkin ra khỏi giường, bật máy lửa dầu hỏa lên soi
băng điện báo và đọc cho ông ta nghe bản chỉ thị. Xôrôkin không sao tỉnh dậy được.
Ông ta giương mi mắt lên nhìn ngơ ngác rồi lại nằm vật xuống chiếc gối nóng hổi.
Belyakôv nắm hai vai ông lay mạnh:
- Kìa dậy đi nào, quan lớn, đồng chí tổng
tư lệnh... Bây giờ anh là chúa tể vùng Kavkaz, hiểu chưa? Anh là vua, là chủ,
hiểu chưa?
Bây giờ Xôrôkin mới hiểu hết tầm quan trọng
của tin này, hiểu hết cái vận mệnh thần kỳ của mình đã được ghi bằng những cái
chấm và những cái gạch trên dải băng giấy hẹp đang uốn khúc ngoằn ngoèo trong mấy
ngón tay của viên tham mưu trưởng. Ông ta nhanh nhẹn cài lại khuy quần, khoác
áo Tserkex lên vai, thắt bao súng lục và thanh gươm vào người.
- Lập tức công bố lệnh này trong quân
đoàn... Bảo đem ngựa lại cho ta ngay!
* * *
Tảng sáng, Ivan Ilyits Têlêghin, sau khi đã
được băng bó, liền len lỏi giữa các xe cộ đi tìm ban tham mưu trung đoàn mình.
Vừa lúc ấy từ phía ga có một toán vệ binh phi qua đường, mũ áo khoác bay phất
phới sau lưng, phía trước là một người lính kèn, và kế đến là Xôrôkin đang ghì
chặt cương con ngựa bờm dài và một người cô-dắc giơ cao quân hiệu tổng tư lệnh
trên đầu ngọn giáo. Như những quỷ thần ban đêm trong đám bụi xoáy cuồn cuộn,
toán người cưỡi ngựa phi về phía có tiếng súng.
Trên những chiếc xe giàn ướt đẫm sương đêm,
những cái đầu ngái ngủ nhấc lên, những bộ râu thò ra, những giọng khàn khàn nói
ú ớ. Và rất xa trên thảo nguyên, tiếng kèn của người nhạc binh đang phi ngựa
hát lên, loan báo rằng tổng tư lệnh đang có mặt ở ngay đây, giữa trận tiền, dưới
làn đạn... “Ta sẽ quật ngã quân thù, ta-ta-ta, - tiếng kèn hát lên - hãy tiến
lên giành thắng lợi và vinh quang... Đối với người anh hùng, không làm gì có
cái chết, chỉ có vinh quang muôn đời, ta-ta-ta...”.
Trong một căn nhà vách đất, cửa sổ mở tung,
Ivan Ilyits tìm thấy Ghymza. Ngoài ra không thấy người nào của ban tham mưu
trung đoàn ở đây nữa. Ghymza ngồi khom lưng trên chiếc ghế dài, người to lù lù,
vẻ lầm lì, bàn tay cầm cái thìa gỗ bỏ thõng giữa hai bắp đùi chạng ra. Trên bàn
có một cái liễn đựng bắp cải và bên cạnh là một cái cặp căng phồng lên - tất cả
bộ máy của thủ trưởng ban đặc vụ.
Ghymza trông như đang ngủ gật. Ông ta không
nhúc nhích, chỉ liếc mắt về phía Têlêghin:
- Bị thương à?
- Sướt xoàng thôi... nằm dài mất nửa đêm
trên ruộng lúa... lạc đơn vị: chả nó cứ rối tung lên ấy... Trung đoàn ở đâu?
- Ngồi xuống đã, - Ghymza nói. - Có đói
không?
Ông ta nặng nhọc nhấc bàn tay lên đưa thìa
cho Têlêghin. Chàng vùi đầu vào cái liễn canh đã nguội, rên lên một tiếng.
Trong một phút đồng hồ, chàng im lặng ăn lấy ăn để.
- Hôm qua đơn vị chúng tôi đánh khá lắm, đồng
chí Ghymza ạ, chẳng cần phải thúc giục gì nữa: cách ba bốn trăm bước anh em đã
lao lên đánh lê rồi...
- Được... Thôi ăn nhanh đi, - Ghymza nói.
Têlêghin bỏ thìa xuống. - Cậu nghe nhật lệnh cho quân đoàn chưa?
- Chưa. - Xôrôkin được cử làm tổng tư lệnh.
Hiểu chưa?
- Ờ, thì tốt chứ sao... Hôm qua anh có thấy
ông ta không? Buông cương xông vào giữa đám lửa, cái áo đỏ nổi lên lồ lộ. Chiến
sĩ trông thấy ông ta là hô ura! Hôm qua mà không có ông ấy thì không biết là...
Hôm qua chúng tôi đã phải kinh ngạc đấy: thật là một Xêzar.
- Ấy, đúng là Xêzar đấy. - Ghymza nói. -
Tôi tiếc là chưa bắn được hắn!
Têlêghin sửng sốt bỏ thìa xuống:
- Anh đùa đấy chứ?
- Không, tôi không đùa. Thôi, dù sao cậu
cũng chẳng hiểu được những chuyện này đâu. -Ghymza đưa đôi mắt nặng nề nhìn Têlêghin
không chớp. - Còn cậu, cậu không phản bội đấy chứ? (Têlêghin điềm nhiên nhìn thẳng
vào mắt ông ta) Thôi được... Tôi muốn giao cho cậu một công việc khó khăn,
Têlêghin ạ... Tôi nghĩ có lẽ cậu là người thích hợp nhất... Cần phải đi đến khu
Volga...
- Vâng...
- Tôi sẽ viết cho cậu tất cả các giấy tờ cần
thiết. Tôi sẽ đưa cho cậu một bức thư gửi chủ tịch Hội đồng Quân sự. Nếu cậu
không hoàn thành nhiệm vụ, không đưa được bức thư, thì thà chạy sang quân bạch
vệ còn hơn, chứ chớ vác mặt về đây nữa. Rõ chưa?
- Rõ.
- Đừng để bị bắt sống. Phải giữ gìn bức thư
hơn cả tính mạng. Nếu rơi vào tay bọn phản gián, phải làm đủ cách... phải nuốt
bức thư đi... Hiểu chứ? - Ghymza chồm tới, nện quả đấm xuống bàn, làm cho cái
liễn nẩy lên. - Tôi nói cho cậu rõ, bức thư sẽ nói như thế này: quân đội đang
tin tưởng ở Xôrôkin. Xôrôkin bây giờ là một anh hùng, hắn muốn dẫn quân đội đi
đâu cũng được hết... Còn tôi, tôi yêu cầu xử bắn Xôrôkin. Ngay lập tức, trong
khi hắn chưa nắm lấy yết hầu của cách mạng. Cậu nhớ chưa?
Ông im lặng một lát. Mấy con ruồi bò trên
trán ông. Têlêghin nói:
- Được, tôi sẽ làm tròn.
- Thế thì cậu đi nhé... Không biết đi qua
Xvyatôi Krext, theo đường Axtrakhan có tiện không? E xa quá... Tốt hơn là nên
đi qua sông Đôn đến Txaritxyn. Nhân thể cũng trinh sát xem vùng địch hậu thế
nào... Cậu lấy cái lon sĩ quan mà đeo, ăn mặc diện vào một chút... Cậu lấy lon
gì, đại úy hay thượng tá?
Ông cười, đặt tay lên đùi Têlêghin vỗ vỗ
như vỗ một cậu bé.
- Ngủ đi vài tiếng, trong khi đó tôi sẽ viết
thư.
10
Cuối cùng Vađim Pêtrôvits Rôstsin cũng nhận
được giấy cho nghỉ phép ba tuần. Lúc bấy giờ chàng đóng với đội trấn thủ của
quân tình nguyện ở ga Velikôknyajexkaia, người mệt mỏi, ốm đau, bị những mối
mâu thuẫn gay go giằng xé. Không thấy diễn ra những trận đánh lớn, tất cả các lực
lượng hồng quân đều đã di chuyển về phía nam, đương đầu với đội chủ lực của
Đênikin. Còn ở đây, dọc các làng cô-dắc ở ven sông Manyts và sông Xala, đó đây
cũng nổ ra những cuộc dấy động, nhưng những chi đội trừng phạt của thủ lĩnh cô-dắc
Kraxnôv đều nhanh tay trấn an được những đầu óc phiến loạn: nơi thì họ dùng
vinh hoa, nơi thì họ dùng que thông nòng, nơi thì họ dùng giá treo cổ.
Vađim Pêtrôvits lấy cớ là vết thương còn
đau để khỏi tham gia vào những cuộc hành quân trừng phạt. Trong chừng mực có thể,
chàng tránh những cuộc chè chén mà các sĩ quan tổ chức để ăn mừng những trận thắng
của Đênikin. Và lạ thay, ở đây, nơi đồn trú cũng như trong quân đội dã chiến, mọi
người đối với Rôstsin đều có thái độ thủ thế và thù địch ngấm ngầm.
Có ai phao ra một dư luận nói về “cái quần
lót đỏ” của Rôstsin, thế là từ đấy mấy tiếng này đã gắn liền vào chàng như một
biệt hiệu.
Trong chiến hào ở Sablievka, tình nguyện
quân Ônôli đã bắn vào chàng. Rôstsin nhớ rất rõ giây phút ấy: tiếng rú của quả
tạc đạn từ đoàn tàu bọc sắt bắn ra, tiếng đại đội trưởng hô “nằm xuống”, tiếng
đạn nổ ầm ầm. Rồi ngay sau đó là một phát súng lục. Chàng có cảm giác như có ai
lấy gậy phang vào gáy mình, và trước mắt chàng thoáng qua đôi mắt xếch của
Ônôli đang ánh lên hỉ hả.
Chỉ có một người có thể tin được lời nói
danh dự của Rôstsin: đó là tướng Markôv. Nhưng ông ta đã chết, cho nên Rôstsin
nghĩ là không nên khơi lên một vụ kiện đáng ngờ bằng cách tố cáo thằng oắt con ấy.
Chàng cứ băn khoăn dằn vặt: tại sao người
ta lại thù ghét chàng đến như vậy? Chẳng lẽ họ không thấy rõ chàng là người
trung thực, vô tư, rằng cái tư tưởng duy nhất chỉ đạo những hành động của chàng
là chiến đấu cho sự vĩ đại của nước Nga? Chàng đi vào những cánh thảo nguyên
đáng sợ này không phải để kiếm lấy đôi lon cấp tướng...
Rôstsin không có được một cách nhìn thật
minh xác, lạnh lùng, tàn nhẫn đối với sự vật. Trí óc của chàng cứ tô vẽ cho thế
giới và cho sự việc những màu sắc mà bản thân chàng cho là tốt đẹp nhất và quan
trọng nhất. Cái gì không phù hợp với những lý tưởng ấy thì chàng bỏ qua; nếu nó
quấy rầy dai dẳng quá thì chàng nhăn mặt ngoảnh đi. Và chàng hình dung thế giới
như một hệ thống hoàn chỉnh. Sở dĩ như vậy có lẽ là vì cái bẩm tính quý tộc của
chàng đã thừa hưởng của nhiều thế hệ trang chủ quen sống hồn nhiên và vô tư lự.
Cái giống đã tuyệt diệt này đặt sự nhàn nhã vô tư lên trên mọi diễm phúc ở đời,
và cứ gán ghép nó cho bất cứ cái gì và bất cứ ở đâu. Nếu viên quản lý dùng roi
đánh một người mu-gích ở ngoài chuồng ngựa, thì họ nghĩ bụng: ờ, cũng không sao,
anh chàng mu-gích ấy kêu la một lát, rồi sau đó mới biết hối lỗi, và bản thân
anh ta sẽ sung sướng hơn, sau khi đã hối hận và cam lòng. Nếu có người đưa văn
khế nợ ra, đưa trang viên của mình ra bán đấu giá, thì - biết làm thế nào được?
Thôi thì ở trong dãy nhà phụ, giữa những bụi ngưu bàng và những lùm dây leo
cũng xong. Không có tiệc tùng ồn ào cũng được. Có lẽ về già như thế lại yên
tĩnh hơn... Dù số phận có cố gắng giở trò gì cũng không sao làm cho con người
trang chủ vô tư lự ấy nao núng được. Và ở họ hình thành một nhãn quan đặc biệt
mềm mỏng: ở cái gì cũng chỉ nhìn thấy những khía cạnh đẹp đẽ nhất và cao quý nhất
mà thôi!
Vađim Pêtrôvits cũng vậy: chàng cũng không
có được một cái nhìn sắc sảo và lạnh lùng đối với những con người và những hành
vi. (Tuy những biến cố mấy năm gần đây đã lay chuyển rất mạnh cái tâm hồn lãng
mạn của chàng, hay nói cho đúng hơn, cái tâm hồn lãng mạn ấy nay chỉ còn sót lại
những mảnh vụn mà thôi). Bây giờ, chàng luôn luôn phải nhăn mặt lại. Chính vì vậy
mà chàng tránh dự những buổi tụ họp của các sĩ quan.
Theo quan niệm của chàng, những con người ấy
- cái nhóm nhỏ gồm những sĩ quan và junker
- lẽ ra phải mặc áo quần vải trắng muốt như các chiến sĩ thập tự quân ngày xưa:
vì họ đã tuốt gươm chống lại lũ dân đen nổi loạn, chống lại những lãnh tụ của lực
lượng phi nghĩa hắc ám, những thủ hạ của Ma-vương phản cơ đốc hay của quân Đức
gì đấy - là người ta vẫn nói thế, chứ có ma nó phân biệt được. (Rôstsin lần mò
xuống vùng sông Đôn chính là với những tư tưởng như vậy).
Nhưng trong những bữa chén của sĩ quan
chàng lấy làm quái dị trước những lời lẽ huênh hoang sàm sỡ trong tiếng cốc
chén chạm vào nhau lanh canh, những câu khoa trương ầm ĩ tâng bốc những hành động
anh chị trong khi chém giết đồng bào. Những gương mặt trẻ trung, xưa kia vốn
trang nhã của các chiến sĩ “thập tự quân” ấy đã biến dạng, méo mó đi vì luôn
luôn nóng lòng muốn giết chóc, trừng phạt, trả thù. Họ đứng đấy, tay cầm những
ly rượu cồn chín mươi lăm độ, nghêu ngao hát bài ca ai điếu tưởng nhớ con người
vô nghĩa nhất, kém cỏi nhất trong cả loài người, con người đã bị bắn, bị thiêu
ra tro, bị tung ra cho gió thổi tán loạn khắp bốn phương trời như Đmitri Mạo-danh
ngày trước, con người mà nếu có thể gom góp lại tất cả những vũng máu đã đổ xuống
vì cái ý chí yếu hèn của hắn thì nhân dân nhất định sẽ dìm sống hắn xuống cái hồ
ấy...
Hình như (chính đây là một điều mà Rôstsin
phải nhắm mắt để khỏi nhìn thấy) điệu hát ấy là cái lý tưởng duy nhất của các
chiến hữu của chàng. Quét sạch bọn bolsêvik trên đất Nga, tiến về Moxkva giữa tiếng
chuông nhà thờ... Đênikin cưỡi ngựa bạch đi vào điện Kremlin. Phải, phải, tất cả
những cái đó đều có thể hiểu được. Nhưng sau đó rồi sẽ thế nào nữa? - cái ấy mới
là cái chính! Như về Quốc hội lập hiến chẳng hạn: trong cái giới sĩ quan này,
chỉ nhắc đến nó thôi cũng đã chướng tai lắm rồi. Thế thì phải chăng lý tưởng của
họ chung quy chỉ là một điệu hát tưởng nhớ một thây ma?
Cái gì đã lôi cuốn những người ấy vào con
đường đấu tranh, chết chóc? Rôstsin nhắm mắt... Giơ ngực ra trước làn đạn hay uống
rượu mạnh trong các toa chở hàng không còn là hành vi anh hùng nữa rồi: những
cái đó đã trở nên lỗi thời. Những việc đó thì người can đảm hay kẻ hèn nhát
cũng đều làm cả. Chế ngự nỗi khiếp sợ trước cái chết đã trở thành một chuyện
thông thường, mạng người bây giờ đã quá rẻ.
Bản lĩnh anh hùng là ở chỗ hy sinh mình cho
niềm tin và chân lý. Nhưng ở đây lại phải nhắm mắt, lúc nào cũng cứ phải nhắm mắt
hoài... Các bạn đồng ngũ của chàng tin vào chân lý nào? Bản thân chàng tin vào
chân lý nào? Vào lịch sử bi đát và vĩ đại của nước Nga chăng? Nhưng đó là một sự
thật, chứ không phải là chân lý. Chân lý nớ ở trong sự vận động, trong sự sống,
không phải trên những trang giấy bụi bặm của những pho sách cũ, mà chính là ở
trong những cái gì đang chảy vào tương lai.
Nhân danh chân lý nào (nếu không kể tiếng
chuông nhà thờ Moxkva, con ngựa bạch, những chùm hoa cắm trên lưỡi lê, vân vân)
cần phải tàn sát những người mu-gích Nga. Vấn đề này bắt đầu lay động trong tâm
trí Vađim Pêtrôvits, rung rinh như một hình bóng phản chiếu trên mặt nước vừa
có một hòn đá ném xuống. Và từ đây cũng bắt đầu cái quá trình phân đôi đau đớn
của chàng. Chàng là một người lạ giữa các bạn đồng ngũ, là “cái quần lót đỏ”,
là một kẻ “gần như bolsêvik”.
Càng ngày, chàng lại càng hay nhớ lại cuộc
nói chuyện cuối cùng với Katya, và mỗi lần như vậy tai chàng lại nóng bừng lên
vì xấu hổ. Nàng xiết hai bàn tay vào nhau, nghẹt thở vì xúc động, như thể bở vực
đang sụt lở dưới chân Vađim Pêtrôvits. “Vađim! Vađim! Phải làm một việc gì khác
hẳn kia!”.
Chàng vẫn thấy khó lòng có thể thú nhận rằng
Katya đúng, rằng mình đang lầm lẫn một cách vô hy vọng, rằng mình càng ngày
càng khó hiểu nổi do đâu mà “lũ dân đen nổi loạn” lại có được một sức mạnh như
vậy, tại sao sức mạnh ấy cứ lớn lên mãi như một cơn ác mộng: rằng cái lối giải
thích nông cạn nói rằng nhân dân bị bọn bolsêvik lừa phỉnh là một lối giải
thích ngu xuẩn đến mức khủng khiếp, vì hiện nay chưa biết rõ ai, bọn bolsêvik
thúc đẩy cách mạng hay nhân dân thúc đẩy bọn bolsêvik, rằng giờ đây chàng không
thể buộc tội ai được, trừ phi là bản thân chàng.
Katya đúng về mọi mặt. Rời cuộc sống cũ để
dấn thân vào những nẻo đường đày ải của cái thời buổi rối ren này, Katya chỉ
mang theo một bảo vật duy nhất để hộ thân: tình thương yêu và lòng trắc ẩn.
Chàng hồi tưởng lại hôm nàng đi theo chàng trên các đường phố Rôvtôv, đầu trùm
khăn, tay xách gói quần áo - người bạn đường dịu dàng nhẫn nhục của đời
chàng... Ôi, nàng đáng yêu biết mấy, nàng đáng yêu vô cùng!... Giá được ngả mãi
đầu lên lòng nàng, ép hai bàn tay mềm mại của nàng lên mặt, và chỉ nói: “Katya,
anh kiệt sức rồi...”. Nhưng một niềm kiêu hảnh phi lý, kỳ quặc đã gò Vađim
Pêtrôvits lại. Trên con đường làng bụi bậm, trong hàng quân, ở phòng sĩ quan,
cái bóng dáng gầy gò của chàng hiện ra, như thể bị nẹp chặt trong một cái khung
bằng sắt, mái đầu đã bạc trắng ngẩng cao lên một cách kiêu căng... Và bọn sĩ
quan thầm bảo nhau: “Trông ghê chưa, giữ tư thế khá lắm, dáng dấp như một kỵ sĩ
ngự lâm, cái thằng bộ binh quèn ấy!...”.
Chàng đã gửi cho Katya hai bức thư ngắn,
nhưng chẳng thấy thư trả lời. Bấy giờ chàng quyết định viết thư cho thượng tá
Tyôtkin. Nhưng vừa đúng lúc ấy chàng lại được nghỉ phép, cho nên Rôstsin lập tức
lên đường đi Rôxtôv.
Đến giữa trưa chàng xuống tàu và thuê chiếc
xe ngựa. Thành phố bây giờ không còn nhận ra được nữa. Phố Xađôvaia đã được
quét dọn sạch sẽ, cây cối đều được xén tỉa gọn gàng, những bóng dáng phụ nữ
thanh lịch mặc toàn áo đồ trắng dạo chơi dưới bóng cây, được phản chiếu lại
trong những tấm cửa kính lớn của các nhà hàng.
Rôstsin nhấp nhổm trên xe, đưa mắt tìm
Katya. Thế này là thế nào nhỉ? Những người đàn bà đi trên phố như từ một giấc
chiêm bao đã quên từ lâu hiện ra, đội những chiếc mũ cắm lông chim kiểu cũ, mũ
cói panama, choàng khăn trắng... những bàn chân trắng trẻo xinh xắn lướt đi
thoăn thoắt trên mặt đường nhựa đã được những người phu lầm lì rửa sạch bóng,
và trên những đôi bít tất trắng ấy không có lấy một vết máu nhỏ nào. Thế ra đội
án ngự đóng ở Vêlikôknyajexkaia là để có được cảnh phố phường thanh lịch này
đây! Đênikin đánh nhau với quân đỏ bốn tuần nay cũng vì thế! Cái chân lý đơn giản
“như quả cam” của chiến tranh trắng là thế này đây!
Rôstsin cười chua chát. Trên các ngã tư đường
có những tên lính Đức mặc những bộ quân phục màu xanh xám trông quen thuộc đến
buồn nôn lên được, đầu đội mũ lưỡi trai mới tinh. Lính của ta đấy, người nhà đấy!
À, kia, một thằng đang bỏ kính một mắt ra, hôn tay một giai nhân cao dong dỏng
mặc áo trắng.
- Xà ích, nhanh lên nào!
Thượng tá Tyôtkin đứng trước cổng nhà.
Vađim Pêtrôvits nhảy từ trên xe xuống, thấy Tyôtkin lùi lại, mắt tròn xoe,
trông như muốn bật ra ngoài, bàn tay phốp pháp giơ lên huơ huơ về phía chàng
như muốn làm dấu thánh.
- Chào thượng tá... Thượng tá không nhận ra
tôi hay sao? Tôi... Katya thế nào? Có khỏe không? Tại sao không...
- Trời ơi, còn sống ư! - Tyôtkin kêu lên,
giọng thanh thanh như giọng đàn bà. - Vađim Pêtrôvits, cậu đấy ư!
Và ông ta ôm chầm lấy Rôstsin, nước mắt chảy
ướt cả má chàng.
- Có chuyện gì thế? Thượng tá... nói hết
cho tôi biết ngay đi...
- Lòng tôi vẫn linh cảm là cậu còn sống...
Nhưng khổ thân Êkatêrina Đmitrievna đã khóc hết bao nhiêu nước mắt! Tưởng chết
đi được! - Và Tyôtkin bắt đầu kể chẳng có mạch lạc chút nào câu chuyện nàng đến
tìm Ônôli và bị hắn lừa - chẳng hiểu để làm gì - nói là Rôstsin đã chết. Ông ta
kể lể về nỗi đau khổ của Katya, và cho biết nàng đã ra đi.
- Ra thế, ra thế... - Rôstsin nói, giọng rắn
rỏi, mắt nhìn xuống đất. - thế Êkatêrina đi đâu?
Tyôtkin giang hai tay, trên gương mặt phúc
hậu của ông ta có thể thấy rõ ý muốn giúp đỡ chàng, một ý muốn thiết tha đến mức
đau đớn.
- Tôi còn nhớ là chị ấy bảo sẽ đi
Êkatêrinôxlav... Hình như lại còn định vào làm ở một hiệu bánh kẹo nào đấy nữa...
Vì tuyệt vọng mà đi như thế... Tôi cứ chờ chị ấy viết thư về, nhưng không có lấy
một dòng, biệt vô âm tín...
Ông ta mời Rôstsin ghé vào nhà uống cốc nước
chè, nhưng chàng từ chối và lập tức quay ra ga. Chuyến tàu đi Êkatêrinôxlav đến
tối mới chạy. Chàng vào phòng đợi của hành khách hạng nhất, ngồi xuống một chiếc
ghế xô pha bằng gỗ sồi, tựa khuỷu tay lên cánh tay vịn, úp bàn tay lên mặt và cứ
thế ngồi yên mấy tiếng liền không nhúc nhích...
Có ai thở phào một tiếng nhẹ nhõm rồi ngồi
xuống một bên Vađim Pêtrôvits, hình như có ý định ngồi lâu. Trước đó cũng đã có
nhiều người đến ngồi một lát rồi bỏ đi. Nhưng người này thì lại cứ ngồi rung
đùi mãi, làm cho chiếc ghế cũng rung theo. Hắn không chịu đi đi cho, mà cũng
không thôi rung đùi. Tay vẫn để nguyên trước mắt, Rôstsin nói:
- Này ông, ông làm ơn đừng rung nữa có được
không ạ?...
Người kia sốt sắng trả lời:
- Xin lỗi ông, quả tôi có một thói quen rất
xấu. - Rồi ngồi im.
Giọng nói của người ấy khiến Vađim
Pêtrôvits giật mình: nó quen thuộc lạ lùng, như gắn liền với một cái gì rất xa
xôi, một kỷ niệm diễm phúc nào... Rôstsin, vẫn không cất tay ra, liếc một mắt
qua mấy ngón tay để hở nhìn người ngồi bên cạnh. Đó là Têlêghin. Duỗi dài đôi
chân đi ủng lấm bùn, hai bàn tay bắt chéo để trên bụng, Têlêghin có vẻ như đang
thiu thiu ngủ, gáy tựa vào thành ghế cao. Chàng mặc một chiếc áo quân phục bó
sát người, nách quá chật, trên vai có đeo đôi lon trung tá mới tinh. Trên gương
mặt gầy, rám nắng, mới cạo của chàng ngưng đọng lại một nụ cười thanh thản, nụ
cười của một người đang được nghỉ ngơi sau một công việc mệt nhọc vô cùng...
Sau Katya, Têlêghin là người gần gũi nhất đối
với Rôstsin: đó là một người em, một người bạn tốt. Têlêghin như mang trên người
ánh hào quang của vẻ đẹp kiểu diễm của hai chị em Katya và Đasa... Vađim
Pêtrôvits kinh ngạc đến nỗi suýt kêu lên, suýt vồ lấy Ivan Ilyits. Nhưng
Têlêghin vẫn không mở mắt ra, không nhúc nhích. Một giây trôi qua. Rôstsin đã
hiểu ra rằng trước mặt mình là một kẻ thù. Từ hồi cuối tháng năm chàng được biết
rằng Têlêghin đã tự nguyện gia nhập Hồng quân và được các bạn đồng ngũ đánh giá
rất cao. Bộ quân phục chàng đang mặc rõ ràng là của người khác, có thể là lấy của
một sĩ quan nào chính chàng giết chết, lại đeo lon trung tá nữa (trước kia
chàng chỉ là thượng úy trong quân đội Sa hoàng)... Rôstsin chợt cảm thấy trong
lòng mình dâng lên một cảm giác ghê tởm nhầy nhụa, vẫn thường kết thúc bằng một
cơn bột phát ghê gớm của chí căm thù: Têlêghin ở đây chỉ có thể là với tư cách
một tên phản gián Bolsêvik...
Phải đi báo ngay cho viên tư lệnh thành.
Giá phải hai tháng trước đây thì Rôstsin sẽ không hề phân vân lấy một khoảnh khắc.
Nhưng giờ đây chàng đã dán chặt vào chiếc ghế: không sao đủ sức đứng dậy. Vả lại
cái cảm giác ghê tởm ban nãy cũng dường như lắng xuống từ bao giờ... Ivan
Ilyits là một sĩ quan đỏ. Chàng đang ngồi kia, ngay bên cạnh, vẫn như thế: mệt
mỏi, cả con người toát ra một phong thái hiền lành, đôn hậu... Chàng vào Hồng
quân hẳn không phải vì tiền, không phải để tâng công - nhảm nhí quá! Đó là một
con người điềm đạm, biết suy nghĩ, vào Hồng quân là vì cho rằng sự nghiệp của họ
là chính nghĩa... “Cũng như mình, đúng như mình... Bây giờ mình đi tố giác
Têlêghin, để rồi một giờ sau chồng của Đasa, em của Katya, em mình, nằm phơi
thây trên một đống rác cạnh hàng rào, chân không còn ủng...”.
Cổ Rôstsin se lại vì kinh hãi. Chàng rúm cả
người lại... Thế thì biết làm thế nào? Đứng dậy, bỏ đi chăng? Nhưng Têlêghin có
thể nhận ra chàng, sẽ mất bình tĩnh, sẽ cất tiếng gọi chàng. Làm thế nào cứu được
Têlêghin?
Rôstsin và Ivan Ilyits cứ thế ngồi cạnh
nhau trên chiếc ghế xô-pha bằng gỗ sồi, không cử động như đang ngủ. Vào giờ ấy
nhà ga rất vắng. Người gác ra đóng các cửa thềm. Bấy giờ Têlêghin nói, mắt vẫn
không mở ra:
- Cảm ơn, Vađim.
Tay Rôstsin run bắn lên. Ivan Ilyits nhẹ
nhàng đứng dậy đi ra cửa ga, dáng đi điềm tĩnh, không ngoái lại. Một phút sau
Rôstsin choàng dậy lao theo. Chàng chạy quanh quảng trường ga, với những con
người nhem nhuốc đang ngủ gà ngủ gật bên mấy cái khay hàng, mấy xâu cá hun
khói, dưới ánh nắng trắng bệch đang nung chảy cả nhựa đường, thiêu cháy cả lá
cây, thiêu cháy cả làn không khí đầy bụi bặm của phố phường.
“Ôi, giá được ôm lấy cậu ấy, chỉ ôm lấy
nhau một phút thôi!” - và những vòng tròn đỏ rực của khí nóng quay cuồng trước
mắt Rôstsin. Têlêghin đã biến đi đằng nào không để lại một dấu vết.
Vào cái giờ mà ánh hoàng hôn trên thảo
nguyên đã tắt ngấm, trong khi Rôstsin đã ngủ thiếp đi trên ngăn giường cao góc
toa trong tiếng bánh xe dằn thình thình trên đường sắt, thì người mà chàng đang
đi tìm, người mà tâm hồn chàng, đau đớn ê chề vì cảnh máu me và thù oán, đang
nhớ nhung khoắc khoải, người vợ của chàng, Katya, đang ngồi trên chiếc xe tatsanka vượt qua thảo nguyên. Trên vai
nàng quàng một tấm khăn san. Bên cạnh nàng là chị Matriôna Kraxilnikôva xinh đẹp.
Những cái nẹp sắt trên xe rung lên cành cạch. Mấy con ngựa thở phì phò. Phía
trước và phía sau còn rất nhiều xe khác nối đuôi nhau thành một chuỗi dài chìm
dần trong bóng tối của một đêm thảo nguyên đầy sao.
Alekxêy Kraxilnikôv buông lỏng dây cương ngồi
vắt vẻo trên càng xe. Xêmiôn ngồi ghé một bên xe, những bụi ngưu bàng và cỏ dại
bên đường quật loạt soạt vào đôi ủng của anh. Không khí thoang thoảng mùi ngựa,
mùi ngải đắng. Katya suy nghĩ vẩn vơ trong khi thiu thiu ngủ. Làn gió nhẹ thổi
lành lạnh trên vai nàng. Thảo nguyên trải ra mênh mông không biết đâu là bờ bến:
những nẻo đường thảo nguyên kéo dài xa tắp chẳng biết đến đâu mới tận cùng. Từ
thế kỷ này sang thế kỷ khác, những con ngựa cứ tiếp theo nhau đi mãi, những cỗ
xe cứ lăn bánh cót két, và mãi đến bây giờ vẫn có những ngựa xe đi trên thảo
nguyên như bóng dáng của những chuyến di cư cổ đại hiện về...
Hạnh phúc, hạnh phúc - đó là một nỗi nhớ
nhung vĩnh viễn, đó là chỗ tận cùng của các thảo nguyên, là một bến bờ soi nền
trời xanh biếc, là những làn sóng dịu dàng, là thanh bình, là sung túc...
Matriôna chăm chú nhìn gương mặt Katya, cười
khe khẽ. Rồi sau đó chỉ còn nghe tiếng vó ngựa lóc cóc. Quân đội đang vượt vòng
vây, Thủ lĩnh Makhnô ra lệnh phải hành quân im lặng. Đôi vai của Alekxêy so lại,
lưng anh gù hẳn xuống: chắc anh buồn ngủ quá không gượng được nữa rồi, Xêmiôn
nói khẽ:
- Không phải tôi muốn thoát cho xa anh, xa
vợ ra đâu... Lúc nào cũng Xêmiôn ơi, Xêmiôn ơi... (Matriôna thở hắt ra một tiếng
ngắn, quay đi, nhìn ra thảo nguyên). Từ dạo mùa xuân tôi đã nói với anh
Alekxêy: không phải tôi quý gì cái dải lụa của lính thủy, tôi quý là quý cái sự
nghiệp chung... (Alekxêy lặng thinh). Hạm đội bây giờ là của ai? Của ta, của
nông dân chứ của ai. Nếu chúng tôi chạy tán loạn, mỗi người đi một ngả hết, thì
còn ra cái gì? Vì chúng mình đấu tranh là đấu tranh cho một sự nghiệp chung,
các anh ở đây, chúng tôi ở đấy...
- Thế họ viết cho anh những gì? - Matriôna
hỏi.
- Họ viết là nhất thiết phải trở về khu trục
hạm ngay, nếu không sẽ bị coi là kẻ đào ngũ, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật của
cách mạng...
Matriôna nhún một bên vai. Người chị nóng bừng
lên. Nhưng chị cố nhịn, không trả lời. Một lát sau Alekxêy rướn thẳng người
trên càng xe, nghe ngóng một lúc rồi giơ cây roi ngựa chỉ vào đêm tối:
- Chuyến tàu suốt đi Êkatêrinôxlav...
Katya nhìn theo hướng cây roi, nhưng không
trông thấy đoàn tàu đang đưa Vađim Petrôvits đi, trên ngăn giường trên của một
toa hành khách. Nàng chỉ nghe thấy một tiếng còi dài và xa xăm, vang dội trong
lòng nàng thành một nỗi buồn da diết.
* * *
Xuống ga Êkatêrinoxlav, Vađim Petrôvits lập
tức đi khắp các hiệu bánh kẹo hỏi thăm Katya. Chàng ghé vào những hiệu cà-phê
nóng hừng hực, ruồi bâu đen kịt trên những tấm kính cửa sổ bẩn thỉu và trên những
tấm xô đậy bánh kẹo. Chàng đọc những tấm biển bằng vải trúc bâu đề: “Verxai”, “Elđôrađô”,
“Quán Thanh Lịch”. Từ ngưỡng cửa những tiệm ăn nhỏ khả nghi này, những người da
chì để ria mép dài nhìn chàng bằng đôi mắt lồi lên như hai cái lòng trắng trứng,
sẵn sàng hễ có khách gọi là làm ngay một món saslyk bằng bất cứ thứ thịt gì. Ngay ở những tiệm này Rôstsin cũng
hỏi thăm. Sau đó chàng bắt đầu đi khắp các cửa hàng một lượt.
Trời nắng chang chang. Một đám người đông
đúc và pha tạp đủ màu sắc đang ồn ào chen chúc nhau trên hai lối đi rợp bóng những
cây bàng sum suê của đại lộ Êkatêrinxki, những chiếc xe điện nhỏ ọp ẹp chạy
qua, phát ra những tiếng loảng xoảng như sắt vụn. Trước chiến tranh thành phố
này đang được kiến thiết thành thủ phủ mới của miền Nam Ukrain. Chiến tranh đã
chận đứng quá trình mở mang ấy. Bây giờ, dưới chính quyền thống lĩnh và dưới sự
kiểm soát của quân Đức, thành phố lại nhộn nhịp lên, nhưng theo một kiểu khác:
thay cho những thương điếm, những nhà băng, những kho hàng, mọc lên những sòng
bạc, những quán đổi tiền, những tiệm saslyk
và những quầy nước chanh; tiếng ồn ào của một thành phố bận rộn và những hoạt động
vận tải thương nghiệp nhường chỗ cho những chuyến chạy vạy điên cuồng của những
tên buôn bạc râu ria không cạo, mũ hất ngược ra sau gáy, luồn lõi khắp các hiệu
cà-phê và các ngã tư đường, cho những tiếng rao chào và vô số những trẻ đánh giầy
và những người bán xi - ngành kỹ nghệ duy nhất thời bấy giờ, cho những câu nài
ép trơ tráo của những tên ma-cà-bông dáng dấp gian xảo; cho những tiếng than thở
của mấy dàn nhạc lèo tèo trong các “quán thanh lịch”, cho sự chen chúc vô tích
sự của đám đông nhàn rỗi sống bằng nghề buôn bạc giả và buôn nước bọt.
Thất vọng vì tìm mãi mà chẳng có kết quả
gì, váng tai đi vì tiếng ồn, người mệt lả ra, Vađim Pêtrovits ngồi xuống chiếc
ghế dài dưới gốc cây xiêm gai. Đám người đi dạo phố vẫn trẫy qua bên cạnh
chàng: những người đàn bà, ăn mặc trang nhã cũng có, ăn mặc lố lăng cũng có -
người thì mặc áo may bằng màn cửa, người thì mặc y phục dân tộc Ukrain; - những
người đàn bà với đôi mắt kẻ mi ướt đẫm vì nóng, với những dòng mồ hôi chảy trên
đôi má trát phấn; những gã đầu cơ nhớn nhác hai tay giơ giơ ra phía trước đang
len lỏi cuống cuồng giữa đám đàn bà đó; những anh công chức ngờ nghệch của
chính quyền thống lĩnh đeo huy hiệu đinh ba trên mũ, đầu óc bận rộn vì những thủ
đoạn chứng khoán và những mưu mô ăn cắp của công; những tên lính cô-dắc của
quân đội thống lĩnh, cao lớn, rộng vai, gáy bò tót; những tên lính haiđamak để
ria dài, đội mũ chụp to tướng chóp màu huyết dụ, mặc áo jupan màu xanh da trời và quần đũng thấp sát đất, ống rộng thùng
thình trông rất cổ quái - thứ y phục mà đã hai thế kỷ nay các ông giáo trung học
theo chủ nghĩa quốc gia và các nhà văn lãng mạn xứ Galitxi vẫn hằng nhớ nhung
mơ ước. Giữa đám đông trôi lềnh bềnh mấy viên sĩ quan Đức bất khả xâm phạm đang
nhìn qua đầu mọi người với nụ cười khinh khỉnh...
Rôstsin nhìn cảnh này mà lòng sôi sục lên
vì căm giận. “Giá tưới dầu vào mà thiêu sống hết cái lũ chó má này...!”. Chàng
ghé vào một cái quầy lộ thiên uống cốc nước quả rồi lại đi hỏi hết cửa hàng này
đến cửa hàng khác. Mãi đến bây giờ chàng mới hiểu rõ những cuộc tìm kiếm của
mình điên rồ đến nhường nào. Katya, tiền bạc chẳng có, bơ vơ một mình, vụng về,
nhút nhát, đau khổ ê chề (với một nỗi kinh hoàng không sao chịu nổi, chàng nhớ
đi nhớ lại mãi cái lọ con đựng thuốc độc trong căn nhà ở Moxkva) - Katya đang
có mặt ở đâu đây, trong đám người dở khôn dở dại này... Những bàn tay nhớp nhúa
của bọn buôn bạc, bọn ma cô, bọn bán saslyk
đang chạm vào người nàng, những đôi mắt dâm ô đang sờ soạng trên người nàng...
Chàng thấy nghẹn thở... Hai khuỷu tay khuỳnh
ra, chàng len thẳng vào đám đông, không thèm đáp lại những tiếng la ó và chửi bới.
Đến tối chàng thuê một buồng khách sạn với giá rất đắt - gọi là buồng nhưng chỉ
là một cái xó tối tăm chỉ vừa đặt một chiếc giường sắt, đệm dẹp lép. Chàng cởi ủng
ra nằm xuống, và hai tay ôm chặt lấy mái đầu bạc trắng, chàng lặng lẽ khóc thầm,
không nước mắt...
* * *
Đi bộ qua biên giới vùng sông Đôn. Têlêghin
cất đôi lon trung tá vào cái túi đựng đồ; chàng lên tàu hỏa đi đến Txaritxyn rồi
xuống một chiếc tàu thủy rất lớn, từ boong trên cho đến hầm tàu chật ních những
nông dân, lính cựu, lính đào ngũ, dân đi lánh nạn. Đến Xaratôv, chàng vào ủy
ban cách mạng trình giấy tờ rồi lên một chiếc tàu kéo đến Xyzran, nơi bắt đầu
chuyến tuyến của quân Tiệp.
Sông Volga vắng vẻ hiu quạnh như những thời
truyền thuyết xa xưa khi quân kỵ mã của Thành-cát-tư-Hãn dừng chân trên những bờ
cát này để cho ngựa uống nước sông Ra vĩ đại. Mặt sông rộng phẳng lì như gương
khoan thai trôi giữa đôi bờ cao phủ cát xen kẽ với những bãi cỏ xanh ngập nước.
Những làng mạc thưa thớt bên sông trông như bỏ hoang. Về phía đông những cánh
thảo nguyên bằng phẳng mất hút trong những làn sóng không khí nóng bỏng chập chờn
những ảo quang. Những bóng mây soi trên sông từ từ trôi chảy dưới đáy nước. Và
trong cõi im lặng chỉ có tiếng guồng bánh cần mẫn vỗ lép bép xuống làn nước
xanh màu da trời.
Ivan Ilyits nằm dưới cái cầu chỉ huy của
thuyền trưởng, trên mặt boong nóng hầm hập. Chàng đi chân không, mặc áo sơ mi
nông dân bằng vải hoa không buộc thắt lưng ra ngoài; trên má chàng râu quai nón
đã mọc lên một lớp khá dày màu vàng óng. Như một con mèo lười nằm phơi nắng,
chàng tận hưởng cảnh tĩnh mịch của vùng sông, mùi hương ẩm ướt của những bông
hoa đầm lầy, mùi hăng hăng của cỏ dại thảo nguyên từ dải bờ thấp thoảng tới, những
luồng ánh sáng tràn trề trong không trung. Chàng chưa bao giờ cảm thấy mình được
nghỉ ngơi một cách yên tĩnh trọn vẹn như vậy.
Chiếc tàu thủy này chở súng đạn cho quân du
kích ở các huyện vùng thảo nguyên. Những người lính hồng quân đi theo áp tải,
hít thở cái không khí quá trong lành của vùng sông, đâm ra lười biếng; người
thì nằm ngáy khò khò, người thì ngủ mãi đã chán mắt quay ra ngồi nhìn làn nước
mênh mông rồi cất tiếng hát nghêu ngao. Người chỉ huy đội áp tải là đồng chí Khvêđin,
một thủy thủ Hắc hải, trong một ngày hôm ấy đã mấy lần phê bình khiển trách các
chiến sĩ của mình về tội kém ý thức giác ngộ. Họ quây quần xung quanh người chỉ
huy, kẻ thì ngồi, người thì nằm chống khuỷu tay kê má. Khvêđin nói với họ, giọng
khàn khàn:
- Các chú phải hiểu rằng ta chiến đấu không
phải với Đênikin, không phải với Kraxnôv, cũng không phải với quân Tiệp: chúng
ta chiến đấu với toàn thể giai cấp tư sản đẫm máu trên cả hai bán cầu... Phải
đánh giập đầu giai cấp tư sản thế giới trong khi nó chưa kịp hồi sức... Chúng
ta, người Ng-nga (chữ này anh ta phát âm rất rõ và nhấn rất mạnh) được sự đồng
tình của các anh em ruột thịt của chúng ta - những người vô sản ở khắp các nước.
Họ chỉ chờ đợi có một điều: là chúng ta mau mau tiêu diệt xong bọn ăn bám trong
nước và sang giúp đỡ họ một tay trong cuộc đấu tranh giai cấp của họ... Điều đó
thì không cần nói các chú cũng hiểu được. Trên đời này không có gì dũng cảm cho
bằng người lính Ng-nga, nếu không kể người thủy thủ của hạm đội đỏ, cho nên ta
có đủ khả năng chiến thắng. Hiểu chưa, các chú điển trai kia? Tôi nói đây là
chính xác một trăm phần trăm, như toán học vậy. Hôm nay có chiến sự ở Xamara,
và ít nữa sẽ có chiến sự ở khắp năm châu...
Các chiến sĩ chăm chú lắng nghe. Một anh điềm
tĩnh nhận xét:
- Đúng... Cánh ta làm ăn thật ra trò... Khắp
thế giới sẽ biết tay!
Bên trái hiện lên xanh xanh dãy đồi
Khvalynxkiê. Khvêđin đưa ống nhòm lên nhìn. Thị trấn Khvalynxk lười biếng và
ngái ngủ, hiện lên rõ hơn sau mấy lùm cây. Đây là nơi tàu phải ghé vào lấy dầu.
Ông thuyền trưởng tóc bạc đứng cạnh người
hoa tiêu. Chỗ này sông chia ra làm ba dòng chảy quanh những cồn cói, luồng lạch
ở đây rất bất kỳ. Khvêđin lại gần thuyền trưởng.
- Trong thành phố chẳng có lấy một bóng người...
Thế là thế nào nhỉ?
- Thế nào cũng phải vào lấy dầu. Tùy ông đấy,
- thuyền trưởng nói.
- Đã cần thì cứ ghé thôi.
Tàu đi men một hòn dảo, sát đến nỗi những
cành phong trên đảo chạm cả vào guồng bánh, rồi rú máy và bắt đầu quay mũi. Vừa
lúc ấy từ những bụi cói rậm rạp ở trên đảo có mấy tiếng người quát thất thanh:
- Đứng lại! Đứng lại! Các người đi đâu?
Khvêđin rút súng lục. Đội áp tải lùi xa mạn
tàu. Nước dưới guồng bánh sủi lên sùng sục.
- Đứng lại, đứng lại! - mấy tiếng người lại
quát. Bụi cói xao xác: có mấy người đang rẽ cói đi ra bờ đảo. Một lát sau thấy
hiện ra những gương mặt đỏ bừng, khích động, những cánh tay giơ lên vẫy vẫy. Cả
tốp đều chỉ về phía thị xã. Ồn quá chẳng nghe thấy họ nói gì. Cuối cùng Khvêđin
át hết mọi người bằng một tràng tiếng chửi của dân hàng hải. Nhưng rồi mọi sự
cũng đã rõ ngay tức khắc: bên bến tàu của thị xã phụt ra mấy đám khói nho nhỏ,
rồi mặt sông vang vọng những tiếng súng trường nổ. Khvalynxk đã bị quân bạch vệ
chiếm. Những người ở trên đảo là tàn quân của đội trấn thủ đã bỏ chạy, trong đó
một phần là du kích địa phương. Trong bọn họ có một số người có súng, nhưng đạn
thì chẳng ai còn.
Mấy chiến sĩ hồng quân chạy vào ca-bin lấy
súng. Khvêđin đứng ở cầu thuyền trưởng quát vang cả một khúc sông, văng ra những
câu chửi rủa thậm tệ đến nỗi mấy người ở trên đảo yên tâm ngay, trên các gương
mặt đều nở những nụ cười vui vẻ. Khvêđin đang nổi nóng, đã định tấn công vỗ mặt
ngay vào thành phố, cho đổ bộ thẳng từ tàu lên và trừng phạt bọn bạch vệ một trận.
Nhưng Têlêghin ngăn anh ta lại. Trong một cuộc tranh luận ngắn, chàng chứng
minh rằng không thể tiến hành một cuộc tiến công chẳng hề có chuẩn bị gì như vậy,
nhất thiết phải phối hợp cuộc tấn công trực diện với các cuộc hành binh đường
vòng đánh thốc vào sau lưng địch, vả lại Khvêđin không biết rõ lực lượng của địch
ra sao, và phải dè chừng chúng có cả pháo binh nữa.
Khvêđin chỉ nghiến răng ken két, nhưng cũng
tán thành. Dưới làn đạn của địch, con tàu đi giật lùi xuống phía xuôi và ghé
vào bờ phía tây của hòn đảo: ở đây có một khóm rừng che khuất thành phố. Tàu bỏ
neo. Những người trên đảo chạy ùa ra bãi cát. Họ có khoảng năm mươi người, áo
quần rách rưới, râu tóc rối bù.
- Kìa, các anh phải nghe cho ra đầu ra đũa
đã chứ, đồ quỷ! - Họ quát.
- Zakharkin sắp đưa đội du kích Pugatsôv đến
tiếp viện cho chúng tôi bây giờ... đây này.
- Chúng tôi đã cho người đi báo với
Zakharkin từ ba hôm nay rồi.
Và họ kể lại là cách đây ba hôm, bọn tư sản
địa phương đã vũ trang nổi dậy bất thình lình, chiếm trụ sở xô-viết đại biểu,
nhà bưu vụ và sở điện báo. Các sĩ quan trong thị trấn gắn lon lên vai, xông vào
các kho vũ khí lấy súng máy. Học sinh, lái buôn, công chức đều cầm vũ khí nổi dậy.
Ngay cả ông thầy lễ trong nhà thờ lớn cũng cầm khẩu súng săn chạy giữa phố.
Không ai ngờ tới vụ biến động này. Họ không kịp vớ lấy súng nữa.
- Bọn chỉ huy của chúng tôi chạy tán loạn hết,
chúng nó bán rẻ chúng tôi...
- Chúng tôi cứ loay hoay chẳng khác một lũ
cừu.
- Làm ăn như thế đấy! - Khvêđin nói gọn lỏn.
- Dân đất liền có khác!
Trên bờ, hai bên họp chung một hội đồng
quân sự. Họ bầu Têlêghin làm thư ký. Vấn đề đặt ra là: có nên chiếm lại Xvalynk
trong tay bọn tư sản hay không? Họ quyết định là phải chiếm lại. Vấn đề thứ
hai: đợi du kích Pugatsôv hay tự lực đánh chiếm thị xã? Ở đây có nhiều ý kiến
khác nhau. Người thì nói là phải đợi, vì du kích Pugatsôv có đại bác, kẻ thì lại
bảo không thể đợi được: bất cứ phút nào cũng có thể có tàu thủy bạch quân từ
trên Xamara xuôi về.
Khvêđin nghe tranh luận mãi phát chán,
khoát tay nói:
- Thôi ba hoa thế đủ rồi, các đồng chí ạ.
Nhất trí quyết nghị: đến chiều phải chiếm xong Khvalynxk thôi! Đồng chí
Têlêghin ghi vào biên bản đi.
Vừa lúc ấy ở tả ngạn, trên bờ dốc đứng, hiện
ra mấy người cưỡi ngựa: lúc đầu hai rồi bốn. Trông chiếc tàu thủy, họ lại phóng
đi. Một lát sau khắp dọc bờ sông đều kín mít những người ngựa, những ngọn giáo
rộng bản làm bằng lưỡi hái lấp loáng dưới nắng. Tốp người Khvalynxk quát lớn:
- Ê-ê-ê, các anh là a-a-a-i?
Trên bờ đáp vọng xuống:
- Chi đội Zakharkin, quân đội nông dân
Pugatsôv...
Khvêđin cầm loa gân cổ lên gào:
- Anh em ơi! Chúng tôi chở súng về cho anh
em đây. Xuống đảo đi... Ta sẽ chiếm lại Khvalynxk...
Trên bờ đáp:
- Đồng ý... Chúng tôi có khẩu đại bác
đây... Cho tàu ghé vào đi...
* * *
Những người cưỡi ngựa đứng trên bờ là một
trong những đội du kích của quân đội nông dân đang chiến đấu trên các thảo
nguyên Xamara chống lại các tổng đã công nhận chính quyền của chính phủ lâm thời
Xamara.
Quân đội đã hình thành ngay sau khi quân Tiệp
chiếm Xamara. Thành phố Pugatsôxvk - trước kia là Nikôlaievxk - trở thành trung
tâm huấn luyện. Ở đây tập hợp tất cả những đầu óc hăng say thích cưỡi ngựa, tất
cả những người bị tên buôn đất Sekhôbalôv nổi tiếng biến thành những người nông
dân bần cùng, tất cả những ai có chuyện tranh chấp đất đai với bọn phú nông
cô-dắc ở Ural, tất cả những ai có thừa nhiệt huyết vì tâm hồn đã sinh trưởng
trên những cánh thảo nguyên mênh mông vô tận, nơi mà những đám lúa mì vàng óng
cất tiếng rì rào khoáng đạt, nơi mà người mu-gích đi theo sau cái cày nặng trịch,
luôn mồm thúc giục cặp bò mộng lề mề.
Quân địch len lỏi vào khắp nơi như những ảo
ảnh mà ánh nắng thiêu đốt làm xuất hiện trên thảo nguyên. Trong một làng nào đấy
có một hôm thấy triệu tập một cuộc họp: những gã phú nông, những hạ sĩ quan của
quân đội Sa hoàng, những cán bộ tuyên truyền trá hình ở Xamara về thi nhau hò
hét rằng không có cái luật ở đâu lại để cho thằng bần nông, thằng cố nông, thằng
cầu bơ cầu bất không có tấc đất cắm dùi ngồi cai trị cả tổng, lấy không đất đai
và lúa mì của nông dân khá giả. Thế là cuộc họp quyết định phái người sang các
làng bên báo cho mọi người phải đào công sự phòng thủ. Lập tức cả tổng nổi dậy,
lấy vũ khí ở những nơi cất giấu ra, lấy cày vạch mấy luống chạy suốt biên giới
và đào một dãy chiến hào dài hàng chục dặm.
Có những nơi tuyên bố thành lập nền cộng
hòa, chịu phục tùng chính phủ trung ương Xamara. Việc phòng thủ lãnh thổ được
giao cho kỵ binh. Bộ binh thì chỉ huy động khi quân đỏ tấn công. Để vũ trang kỵ
binh, họ lấy lưỡi hái lắp thẳng đứng vào những cái sào dài làm dáo. Những đội
quân kulak ấy rất đáng sợ. Họ xuất hiện đột ngột trên thảo nguyên, từ trong
sương mù lao thẳng vào các đội xạ kích và các ổ súng máy của hồng quân, vó ngựa
tung bụi lên mù mịt. Ở đây toàn người nhà đánh nhau cả: anh em, bố con, bạn bè
thông gia, cho nên họ không biết sợ hãi, không biết xót thương là gì. Sau mấy
trận đánh với hồng quân có kết quả, kỵ binh được vũ trang bằng súng máy và súng
trường, nhưng vẫn không bỏ mấy cây dáo làm bằng lưỡi hái.
Ngày nay không còn giữ lại được một pho sử
biên niên hay một tài liệu lưu trữ quân sự nào có ghi lại cuộc chiến tranh nông
dân vĩ đại này trên các thảo nguyên Xamara, nơi dân còn nhớ lại những cuộc hành
binh của Emêlian Pugatsôv. Họa hoằn lắm, vào những ngày lễ thánh, bên vò rượu mới
có những cặp bố con nhắc nhở lại những trận đánh năm xưa và chê bai nhau về những
sai lầm về chiến lược. Ông bố sẽ nói:
- Yaska, mày còn nhớ cái dạo chúng mày nã đại
bác vào chúng tao ở Kolđyban không hả? Hồi ấy tao biết ngay là thằng Yaska chó
đẻ nó bắn mà... Chỉ tại tao không đe con cái cho ra trò từ tấm bé, cho nên mày
mới thế... Nhưng chúng mày đã được một mẻ khiếp đảm... Cũng may cho mày là hồi ấy
không rơi vào tay tao...
- Bố cứ tha hồ nói khoác nữa đi! Đằng nào
thì hồi ấy bọn con vẫn át giọng.
- Không sao, nếu có dịp, ta lại sẽ gặp nhau
trên chiến trường.
- Vâng, nếu có dịp... Bố đã là kulak thì
không làm sao bỏ được cái quan điểm hiếu chiến kia được đâu.
- Nào, cạn chén đi con!
- Nào, mời bố cạn chén!
* * *
Chiếc tàu thủy ghé vào bờ bên trái. Ván cầu
được bắc lên bờ và Zakharkin người chỉ huy đội dân quân Pugatsôv bước lên tàu.
Đó là một người có cái mũ khoằm khoằm như mũi diều hâu, vóc người to lớn vạm vỡ
đến nỗi mấy tấm ván cầu oằn xuống răng rắc dưới chân. Cái áo vét bạc màu của
anh ta đã đứt hết chỉ ở hai bên nách. Một thanh gươm cong vỗ lách cách trên đôi
ủng cao. Hai ông anh của Zakharkin, vốn là nông dân ở tổng Utevxkaia, bây giờ đã
chỉ huy đến hàng sư đoàn.
Theo anh ta lên tàu có sáu người du kích nữa
- ban chỉ huy đội, - trang phục khá độc đáo và ngoạn mục: những chiếc áo sơ mi
rộng của nông dân đã bạc màu, đầy bụi và hắc in, cổ phanh rộng ra, người thì đi
ủng dạ có cựa, người thì đi giầy cỏ, băng đạn súng máy khoác đầy người, lưng
đeo lựu đạn; lưỡi lê dẹt kiểu Đức, súng cưa nòng.
Zakharkin và Khvêđin gặp nhau trên cầu thuyền
trưởng, bắt tay nhau rất mạnh, mời nhau thuốc lá, Khvêđin vắn tắt trình bày
tình hình quân sự. Zakharkin nói:
- Tôi biết kẻ nào gây rối ở Khvalynxk rồi:
đó là thằng Kukuskin, chủ tịch ban quản trị nông phố... Tôi mà bắt sống được
cái thằng khốn kiếp ấy thì...
- Thế còn khẩu đại bác của các anh thì sao?
- Khvêđin hỏi, - Bắn tốt chứ?
- Bắn được, nhưng phải bắn thẳng, không
quan trắc: chúng tôi cứ dòm vào nòng mà ngắm. Nhưng được cái khỏe lắm, cái khẩu
chết tiệt ấy: oàng một phát là tháp chuông, tháp nước gì cũng bay.
- Tốt. Thế còn về chuyện đổ bộ và đánh luồn
phía sau thì đồng chí thấy thế nào hả đồng chí Zakharkin?
- Chúng tôi sẽ cho kỵ binh sang bờ bên kia.
Tàu này có chở được trăm người không?
- Nhiều hơn ấy chứ: chở hai chuyến.
- À, thế thì chẳng phải bàn gì nữa. Hễ sâm sẫm
tối là đổ bộ kỵ binh lên phía trên thành phố một quãng. Đại bác thì đặt trên
tàu. Đến tảng sáng là nổ súng.
Khvêđin giao cho Ivan Ilyits chỉ huy đội bộ
binh đổ bộ có nhiệm vụ đánh vỗ mặt vào thị xã từ bến tàu. Đến chập tối chiếc
tàu tắt đèn đi men theo nhánh sông phụ dọc bờ đảo. Trong im lặng chỉ nghe tiếng
người thủy thủ đang dò chiều sâu.
Đội du kích Pugatsôv cũng men bờ đi theo
tàu. Đội của thành phố Khvalynxk đã được phát súng, nằm phục trên bãi cát.
Têlêghin đi đi lại lại sát bờ sông, kiểm tra không cho ai hút thuốc hay nhóm lửa.
Trong đêm tối chỉ nghe tiếng sóng dạt dào xô rất khẽ vào bờ cát. Không khí
thoang thoảng mùi hoa đầm lầy. Mấy con muỗi bay vo ve. Tốp người nằm trên cát
đã im hẳn.
Đêm càng về khuya càng tối sẫm lại, mượt
như nhung và lốm đốm những vì sao. Từ thảo nguyên đưa lại mùi hăng hắc của ngải
đắng, văng vẳng tiếng gáy đơn điệu của một con đa đa... Ivan Ilyits đi đi lại lại
bên mé nước, cố xua cơn buồn ngủ.
Khi bóng đêm đã loãng dần, mất hẳn màu đen
mượt như nhung, và xa xa bên kia sông đã có tiếng gà gáy sáng, trên mặt sông phủ
một làn sương mỏng bắt đầu có tiếng guồng bánh vỗ xuống nước. Con tàu ghé vào bờ.
Ivan Ilyits xem lại ổ đạn súng lục, xốc lại thắt lưng và đi dọc tốp người nằm
giữa cát, lấy cái gậy vỗ vỗ vào chân họ:
- Các đồng chí, dậy đi.
Họ giật mình, ngơ ngác choàng dậy, co ro vì
hơi lạnh, vẫn còn ngái ngủ, chưa hình dung được mình sắp phải làm gì... Nhiều
người vục đầu xuống sông uống nước. Têlêghin khe khẽ hô mệnh lệnh. Trước hết phải
có bao cát để xếp trên mạn tàu. Các chiến sĩ cởi áo sơ-mi buộc kín lại, nhồi
cát vào rồi đặt dọc lan can tàu. Họ làm lặng lẽ, chẳng ai buồn đùa bỡn lúc này.
Trời bắt đầu hừng sáng. Công việc chuẩn bị
đã xong. Khẩu đại bác - một khẩu sơn pháo nhỏ đã han rỉ - được đặt ở mũi tàu.
Năm mươi chiến sĩ lên tàu nằm sau các bị cát. Khvêđin đứng cầm bánh lái:
- Mở hết tốc lực, tiến lên!
Nước ở dưới guồng bánh sôi lên sùng sục.
Con tàu vòng qua đảo rất nhanh rồi theo nhánh chính tiến thẳng về phía thị xã. Ở
đấy lác đác có mấy ánh đèn vàng vàng nhấp nháy. Phía sau nổi lên mờ mờ những đường
viền tối sẫm của mấy dãy núi chìm trong đêm. Bây giờ tiếng gà gáy nghe đã rất
to.
Ivan Ilyits đứng cạnh khẩu đại bác. Chàng
không thể nào hình dung rằng chỉ lát nữa sẽ phải nổ súng vào cõi tĩnh mịch vĩnh
hằng này. Người lính Khvalynxk đã xung phong làm nhiệm vụ chỉ mục tiêu cho đại
bác, một người dáng dấp hiền lành, giống như một anh thầy lễ hay đi câu cá, cất
tiếng nói dịu dàng:
- Đồng chí chỉ huy thân mến, có lẽ nên nã
vào nhà bưu vụ một tí nhỉ? Nã đúng vào chính giữa ấy... Đồng chí có trông thấy
không: có hai ngọn đèn vàng vàng đấy...
- Mục tiêu: nhà bưu vụ! - tiếng Khvêđin
oang oang trong loa - khẩu đội chuẩn bị! Nhắm thẳng qua nòng!
Anh pháo thủ ngồi xổm xuống dòm qua nòng
súng, hướng nó vào hai ngọn đèn, rồi nạp đạn. Anh ta quay sang Têlêghin nói:
- Đồng chí thân mến, đồng chí lùi ra một
tí, nhỡ cái của nợ nó này nổ toác ra...
- Bắn! - Khvêđin hô to.
Khẩu đại bác phụt lửa ra sáng lòa, giật lùi
lại. Tiếng nổ vang rền chuyền đi trên mặt nước, vọng vào vách đá. Gần chỗ có
hai ngọn đèn vàng vàng bùng lên một ánh chớp, và tiếng nổ thứ hai lại vọng vào
vách núi.
- Bắn, bắn! - Khvêđin vừa quay bánh lái vừa
quát. - Hỏa lực khẩn trương bên mạn trái, bắn! Bắn dồn từng loạt vào lũ khốn kiếp,
bắn!
Anh ta dẫm chân thình thình, cuống cuồng
lên mồm tuôn ra từng tràng từ ngữ siêu việt. Từ bên mạn tàu, các chiến sĩ bắn
loạn xạ. Bờ sông gần lại rất nhanh. Anh pháo thủ nạp đạn rất cẩn thận, rồi bắn
phát nữa. Có thể trông thấy những mảnh gỗ của một cái nhà kho nào đấy bay tung
lên. Bây giờ đã trông thấy rõ nét những ngôi nhà gỗ, những mảnh vườn, những cái
tháp chuông.
Phía dưới, ở các bến tàu bắt đầu lóe lên những
tia lửa mảnh ở đầu nòng súng trường phụt ra. Rồi cái âm thanh mà Têlêghin vẫn e
sợ bỗng nổi lên: một khẩu đại liên bắt đầu gõ từng tràng rất rõ, rất vội. Theo
một phản ứng quen thuộc, mấy ngón chân chàng bất giác bám chặt xuống, cứ như thể
bao nhiêu vi ti huyết quản trong người chàng đều co lại. Têlêghin ngồi xổm bên
khẩu đại bác chỉ cho người pháo thủ một tòa nhà dài trên một ngọn đồi thâm thấp.
- Anh thử cố rót cho trúng vào cái góc nhà
kia, nơi có mấy bụi cây ấy...
- Ế - ề, - người pháo thủ nói, - cái nhà ấy
đẹp thế mà... Thôi được, kệ xác nó.
Khẩu đại bác bắn phát thứ ba. Tiếng súng
máy im bặt một phút, rồi lại bắt đầu gõ ở một chỗ khác, cao hơn. Con tàu quay đột
ngột, tiến thẳng vào bến. Đạn từ trên bờ bắn xuống bay rất cao, phạt vào cột
tín hiệu, vào ống khói.
- Không cần đợi cặp bến, nhảy xuống! - Khvêđin
quát. - Anh em ơi, xung phong!
Gờ cầu trên bến kêu lên răng rắc. Têlêghin nhảy
xuống nước. Quay về phía đội Khvalynxk đang trèo qua lan can tàu, chàng hô lớn:
- Theo tôi, xung phong!
Chàng chạy trên ván cầu lao bên bờ. Sau
chàng là một đám đông chiến sĩ vừa xông lên vừa reo hò. Họ vừa chạy vừa bắn,
luôn luôn vấp ngã. Bờ sông vắng tanh. Dường như có mấy bóng người chạy bổ vào
những đám cây trong một mảnh vườn. Đây đó có những phát súng bắn từ các mái nhà
xuống. Rồi từ rất xa; trên mấy ngọn đồi, một khẩu súng máy bắn mấy tràng cách
quãng, im bặt một lát, rồi lại bắn vài tràng nữa. Quân địch đã rút lui, không ứng
chiến.
Têlêghin thấy mình đang đứng trên một quảng
trường gồ ghề. Chàng thở hổn hển, đưa mắt nhìn quanh, tập hợp các chiến sĩ lại.
Hai bàn chân không của chàng rát buốt, chắc vừa rồi vấp phải đá nhọn. Không khí
sặc mùi bụi. Những ngôi nhà gỗ ở trước mặt đóng cửa kín mít. Ngay đến những
khóm lá cây tử đinh hương và xiêm gai cũng không động đậy. Trên bao lơn một
ngôi nhà hai tầng ở góc phố, phía trên có cái tháp theo hình nhà tỉnh lẻ, có bốn
cái quần lót phơi trên một sợi dây. “Kẻ cắp nó rút mất thôi!” - Têlêghin nghĩ
thầm. Thành phố có vẻ như đang ngủ say, và tiếng súng, tiếng quát tháo, cuộc
xung phong ban nãy dường như chỉ diễn ra trong giấc mơ.
Têlêghin hỏi xem nhà bưu vụ, sở điện báo,
tháp nước ở đâu và phái những chi đội đến đấy, mỗi đội mười người. Các chiến sĩ
đi trên phố, vẫn còn hồi hộp thủ thế, hễ nghe một tiếng động khẽ là nhảy lùi lại
chĩa súng ra. Quân địch chẳng thấy bóng dáng ở đâu hết. Sáo sậu đã bắt đầu hót
líu lo, và mấy đàn bồ câu từ các mái nhà cất cánh bay lên.
Têlêghin dẫn một chi đội đến chiếm lĩnh trụ
sở ủy ban - một tòa nhà bằng đá cột đã long lở. Các cửa đều mở toang. Trong
phòng đợi ngổn ngang những súng ống. Têlêghin đi ra bao lơn. Phía dưới là những
vườn cây um tùm, những mái nhà đã từ lâu không sơn lại, những ngõ hẻm bụi bặm,
vắng tanh. Một không khí tĩnh mịch của tỉnh xép. Rồi bỗng xa xa có tiếng chuông
báo động giật giọng vang khắp thành phố. Từ nơi phát ra tiếng kêu cứu bằng đồng
ấy bắt đầu vẳng lại những tiếng súng trường bắn dồn dập, những tiếng lựu đạn nổ,
những tiếng quát tháo, tiếng vó ngựa nặng nề và tiếng hét kéo dài. Đó là quân kỵ
binh đổ bộ của Zakharkin chặn đường quân địch đang rút vào núi. Rồi đoàn kỵ
binh phi qua phố trong tiếng vó ngựa rầm rập. Và mọi vật lại chìm trong im lặng.
Ivan Ilyits thong thả đi ra bờ sông, xuống
bến tàu báo cáo là đã chiếm lĩnh thị xã. Khvêđin nghe báo cáo xong, nói:
- Chính quyền xô viết đã được phục hồi. Ở
đây ta chẳng có nhiệm vụ gì nữa. Nhổ neo đi thôi. - Anh ta thân ái vỗ vỗ lên
lưng ông thuyền trưởng già đã gần chết khiếp: - Thế là bác đã được ngửi mùi thuốc
súng rồi đấy nhé. Nó thế đấy, ông bác ạ... Xin giao lại quyền chỉ huy cho bác,
bác trở lại vị trí đi.
Trong tiếng máy xình xịch và tiếng nước reo
róc rách bên mạn tàu. Têlêghin ngủ một giấc kéo dài cho đến chiều... Trên sông
lơ lửng một ánh hoàng hôn xâm xẩm, trong suốt. Phía lái, mấy người ngồi hát khe
khẽ, tiếng hát tan dần vào khoảng không tĩnh mịch. Vẻ đẹp lộng lẫy của buổi
hoàng hôn lan tràn một cách phí hoài lên hai dải bờ, lên mặt sông, rót vào đôi
mắt, vào tâm hồn.
- Ê, các cậu, sao mà buồn thiu ra thế? Đã
hát thì phải hát bài gì cho nó vui vui tí chứ! - Khvêđin quát. Anh ta cũng đã
ngủ đẫy giấc, uống một cốc rượu mạnh và bây giờ đang đi bách bộ dọc boong trên,
tay xốc lại thắt lưng. - Giá chiếm thêm Xyzran nữa nhỉ! Thế nào hở đồng chí
Têlêghin? Được thế thì chúng nó phải lác mắt đấy nhỉ!...
Anh ta nhe bộ răng trắng nhởn ra cười ha hả.
Anh này có đếm xỉa gì đến nguy hiểm, đến cái thi vị đượm buồn của những buổi
hoàng hôn trên sông Volga, đến viên đạn cuối cùng đang đợi mình ở một nơi nào đấy,
giữa chiến trường hay từ sau một góc nhà... Chỉ có một sức sống mãnh liệt sôi sục
trong người. Boong tàu kêu lên cót két dưới đôi chân không của anh.
- Cứ đợi đấy, chẳng bao lâu nữa ta sẽ chiếm
cả Xyzran lẫn Xamara, sông Volga sẽ về ta...
Ánh hoàng hôn như phủ một lớp tro. Con tàu
không lên đèn. Bóng đêm đã phủ lên đôi bờ, xóa nhòa các đường nét. Khvêđin
không biết tiêu phí sức lực vào đâu, bèn rủ Têlêghin đánh bài:
- Nào, không thích đánh ăn tiền thì đánh ăn
vỗ mũi vậy... Có điều là đã vỗ thì vỗ cho ra hồn đấy nhé.
Họ ngồi trong ca-bin thuyền trưởng đánh
bài. Khvêđin nóng nảy đánh sơ hở thế nào thua đến ba trăm phát “vỗ mũi”, nóng mặt
lên toan ăn gian, nhưng Ivan Ilyits rất tinh mắt: “Không xong đâu, anh bạn ạ,
chẳng ai ngốc thế đâu”. Rốt cục chàng thắng. Ngồi lại cho thật thoải mái trên
chiếc ghế đẩu, Têlêghin bắt đầu lấy cỗ bài cáu bẩn vỗ đen đét từng phát lên mũi
Khvêđin. Chỉ mấy phút mà cái mũi đáng thương ấy đã đỏ như củ cà-rốt.
- Cậu học được ở đâu cái kỹ thuật ấy đấy?
- Ở trại tù binh của Đức - Têlêghin nói. - Đừng
có quay mõm đi. Hai trăm chín bảy.
- Này liệu đấy... Phải đánh cho gọn... Nếu
không tớ lấy chày ra tớ nện lại thì đừng kêu...
- Bậy nào, đúng lệ là ba phát sau cùng phải
kéo dài.
- Thì đánh đi, đồ xỏ lá...
Nhưng Têlêghin chưa kịp đánh thì ông thuyền
trưởng đã bước vào ca-bin, hàm run lên bần bật. Chiếc mũ lưỡi trai ông ta cầm ở
tay. Trên cái trán hói bủng beo mồ hôi cứ đổ hột ra.
- Tùy các ngài đấy, các ngài đồng chí ạ, - ông
ta nói, giọng tuyệt vọng. - Tôi xin sẵn sàng chịu hết... Nhưng các ngài muốn
làm gì thì làm, chứ tôi không cho tàu đi nữa đâu... Đi là chết chắc chắn mười
phần...
Khvêđin và Têlêghin bỏ bài đi ra ngoài
boong. Về phía trước ở bên mạn trái, ánh đèn điện ở Xyzran sáng lấp lánh như một
quần sao. Một chiếc tàu chiến rất lớn, thắp đèn sáng trưng, đang thong thả đi dọc
bờ sông. Nhìn bằng mắt trần cũng có thể trông thấy lá cờ chữ thập chéo của hải
quân Nga hoàng ở sau lái, những đường thẳng uy nghi của mấy khẩu đại bác và
bóng mấy viên sĩ quan đang đi đi lại lại trên boong.
- Tôi không thể quay trở lại được các đồng
chí ạ, - Khvêđin thì thầm. - Dù có thế nào cũng phải đi qua cho được. Cố ngược
lên đến Batraki bỏ neo; sẽ dở hàng ở đấy...
Khvêđin ra lệnh cho toàn đội xuống hầm tàu,
sẵn sàng chiến đấu. Họ kéo cờ ba sắc lên cột tín hiệu, bật các đèn hiệu lên.
Trên chiến hạm đã trông thấy chiếc tàu kéo. Họ huýt mấy tiếng còi ngắn ra lệnh
giảm tốc độ. Một giọng trầm gọi loa sang:
- Tàu của ai? Đi đâu?
- Tàu kéo “Thương nhân Kalasnikôv”. Đi
Xamara, - Khvêđin đáp.
- Sao mãi mới bật đèn lên?
- Sợ bọn bolsêvik - Khvêđin hạ loa xuống
nói khẽ với Têlêghin: - Chà, giá có quả ngư lôi nhỉ... Tôi đã viết về
Axtrakhan, bảo gửi ngư lôi về... Thế mà họ cứ lờ tịt đi...
Sau một phút im lặng, từ bên chiến hạm thấy
trả lời sang:
- Cho đi tiếp.
Ông thuyền trưởng tay run lẩy bẩy đội mũ lưỡi
trai lên. Khvêđin nhe răng, nheo nheo đôi mắt nhìn những ngọn đèn trên chiến hạm.
Đoạn anh ta nhổ nước bọt, đi vào ca-bin. Trong khi châm thuốc hút, anh ta đánh
gẫy mấy que diêm liền.
- Nào đánh nốt đi nào, đồ quỉ! - anh ta bảo
Têlêghin.
Một giờ sau Xyzran đã tụt lại phía sau. Gần
đến Batraki họ cho một chiếc xuồng đưa Têlêghin vào bờ. Chàng ra ga Batraki,
lên chuyến tàu mười hai giờ, và đến năm giờ chiều thì xuống ga Xamara, tìm đến
nhà bác sĩ Bulavin. Chàng đã lại mặc chiếc áo quân phục nhàu nát có đính lon
trung tá. Tay gõ nhè nhẹ lên thân ủng chiếc gậy nhỏ mà chàng đã dùng để đánh thức
mấy người du kích ở Khvalynxk, chàng vừa đi vừa đọc một cách hết sức tò mò, như
đang ngắm một cái gì đã không trông thấy từ lâu, những tấm áp-phích quảng cáo của
nhà hát, những bản hiệu triệu, những tờ yết thị. Tất cả đều viết bằng hai thứ
tiếng: tiếng Nga theo chính tả cũ, và tiếng Tiệp...
* * *
Tay cầm cốc nước chanh, Đmitri Xtêpanôvits
Bulavin đứng dậy, rút tấm khăn ăn ra khỏi cổ áo gi-lê, môi nhóp nhép mấy cái
cho thêm chững chạc, rồi bằng cái giọng quan trọng và thâm trầm mà ông đã có được
trong thời gian làm thứ trưởng gần đây, ông mở đầu bài diễn văn:
- Thưa các ngài, xin các ngài cho phép tôi
cũng được ngỏ mấy lời...
Bữa tiệc này do các nhân vật đại diện cho
thành phố tổ chức để chào mừng cuộc hành quân thắng lợi của quân đội. Quốc hội
lập hiến đang tiến về phía bắc Ximbirxk, và thành Kazan đã chiếm xong. Quân
bolsêvik chừng như đã mất hẳn vùng trung lưu sông Volga. Ở gần Mêlêkes, những
tàn dư của Quân đoàn kỵ binh đỏ, gồm ba nghìn rưỡi tay kiếm, đã phải mở con đường
máu vượt ra khỏi vòng vây. Ở thành phố Kazan đã bị quân Tiệp tiến đánh chớp
nhoáng, người ta tịch thu được hai mươi bốn nghìn pút vàng trị giá 600 triệu
rúp - hơn một nửa số vàng dự trữ của nhà nước. Sự kiện này trọng đại và có vẻ
hoang đường đến nỗi lúc bấy giờ người ta vẫn chưa quan niệm hết được những hậu
quả khó lường nổi của nó.
Số vàng ấy đang ở trên đường đến Xamara. Nó
chưa dứt khoát thuộc về quyền sử dụng của ai cả, nhưng hình như quân Tiệp đã
quyết định giao nó cho ủy ban các thành viên Quốc hội lập hiến ở Xamara. Giới
thương gia Xamara có một quan điểm riêng về số phận của mớ vàng ấy, nhưng hiện
chưa phát biểu nó ra. Còn mối thiện cảm đối với quân Tiệp, kẻ đã chiến thắng
oanh liệt trong chiến dịch vừa qua, thì đã đạt đến mức tột cùng của sự nồng nhiệt.
Bữa tiệc rất đông đúc và náo nhiệt. Các cô
các bà của giới xã giao Xamara, trong đó có những ngôi sao sáng như Arzanôva,
Kurlina và Sêkhôbalôva, những bà chủ của những nhà máy xay bột năm tầng, của những
kho lúa mì, những công ty tàu thủy và những điền trang màu mỡ rộng hàng huyện,
- các cô các bà đều đeo đầy những kim cương mỗi hạt to bằng một quả dẻ, mặc những
bộ y phục nếu không được hợp thời trang cho lắm thì dù sao trước đây cũng đã được
đưa từ Pari và Viên về; họ như một khóm hoa tươi cười vây quanh người anh hùng
của thời sự là đại úy Tsetsek người chỉ huy quân đội Tiệp. Cũng giống như tất cả
các vị anh hùng khác, ông ta cực kỳ giản dị và xuề xòa. Của đáng tội, với cái
thân hình to béo của ông, ông cũng hơi thấy nóng bức, cái cổ áo quân phục may rất
đẹp của ông cứ thít vào cái cổ đỏ gay, nhưng gương mặt trẻ trung hồng hào với bộ
ria màu hung tỉa ngắn, với đôi mắt sáng long lanh, cứ như chào mời các cô các
bà hôn vào cả hai cái má đỏ ong của ông. Nụ cười quyến rũ mê hồn không lúc nào
rời môi ông, cứ như thể ông gạt xa mọi thứ vinh quang, danh vọng, cứ như thể sự
có mặt của các cô các bà ở xung quanh đối với ông còn thú vị gấp nghìn lần tiếng
sấm chiến thắng và công đánh chiếm các tỉnh lỵ với những đoàn tàu chở đầy vàng.
Ngồi đối diện với đại úy là một sĩ quan đứng
tuổi, người đẫy đà, vai đeo dây lụa tết bím màu trắng. Cái sọ hình quả trứng của
ông ta nhẵn nhụi và đồ sộ như thành trì của quyền lực. Trên cái mặt phì nộn cạo
nhẵn, đáng chú ý hơn cả là đôi môi dày: những cơ thịt đều đặn quanh mồm ông ta
cử động liên tục vì ông ta cứ ngồi nhai không lúc nào ngớt, mắt chăm chú nhìn các
đĩa thức ăn nguội. Cái cốc nhỏ lọt thỏm trong bàn tay phốp pháp của ông: có thể
thấy rõ rằng ông ta quen cầm cốc vại hơn. Ông ta uống từng ngụm ngắn, đầu hất
ra phía sau. Đôi mắt gấu màu thiên thanh, nhỏ và thông minh của ông không dừng
lại ở một người nào, cứ như thể ở đây ông phải luôn luôn thủ thế. Các tân khách
quân nhân thường nghiêng người về phía ông với một vẻ chăm chú đặc biệt. Đó là
một vị khách mới, một anh hùng của giới cô-dắc vùng Ural, thủ lĩnh Đutôv ở
Ôrenburg.
Cách Đutôv không xa, một người mặc áo ja-két
màu xám nhạt, bên trong là một chiếc sơ-mi trắng tinh, ngồi giữa hai người phụ
nữ xinh xắn, một người tóc vàng, và một người tóc hạt dẻ. Đó là me-xừ Jannô, đại
sứ Pháp. Cái mặt choăn choắt của ông ta, với bộ ria rất bảnh và cái mũi nhọn,
mang rõ những vết tích của một cuộc đời trác táng. Ông ta nói giọng cổ liến thoắng,
khi thì nghiêng người liếc trộm đôi vú để hở một nửa của cô tóc hạt dẻ (vì tội
này ông ta đã bị cô ta lấy cái hoa đánh một phát vào tay), khi thì lại chạm vào
cái vai tròn màu hồng mịn nõn nà của cô tóc vàng đang cười rú lên như thể bị
ông ta cù. Cả hai cô đều nghe được tiếng Pháp, nhưng chỉ khi nào nói chậm. Có
thể thấy rõ rằng những món hấp dẫn trên người hai cô đã làm cho ông Jannô đáng
thương ấy mất trí. Tuy vậy điều đó cũng không cản trở ông thừa những lúc hưu
chiến ngắn ngủi quay sang nói chuyện với ông chủ nhà máy xay Brykin bệ vệ mới ở
Ômxk tới, hay nâng cốc ca ngợi những chiến công anh hùng của thủ lĩnh Đutôv. Sự
quan tâm của me-xừ Jannô đối với bột mì Xibiri, đối với thịt và bơ Ôrenburg cho
thấy rõ tấm lòng tận tụy nhiệt thành của ông đối với phong trào chống cộng; vào
những lúc khó khăn về lương thực. đại sứ Pháp bao giờ cũng có thể đề nghị chính
phủ nhận cho dăm chục toa bột và những thứ khác... Lúc bấy giờ cũng có những đầu
óc hoài nghi khẳng định rằng lẽ ra chính phủ cũng nên đề nghị me-xừ Jannô trình
những quốc thư ủy nhiệm toàn quyền, như bất cứ chính phủ nào biết tự trọng đều
phải làm... Nhưng chính phủ đã chọn một đường lối khôn khéo hơn: hoàn toàn tin
cậy vào đồng minh.
Bên bàn tiệc còn có một nhân vật ngoại quốc
đáng chú ý nữa, đó là xinhor
Piccôlômini (ông ta quả quyết rằng đó là tên thật của mình), một người có nước
da ngăm ngăm đen, đôi mắt linh lợi. Ông đại diện một cách khá mơ hồ cho quốc
gia Ý-đại-lợi, cho nhân dân Ý. Chiếc áo phẩm phục ngắn màu thiên thanh của ông
có thêm một đường ngân tuyến, trên hai vai rung rinh hai bộ ngù vai cấp tướng.
Ông đang thành lập ở Xamara một tiểu đoàn đặc biệt gồm toàn người Ý. Chính phủ
chỉ biết so vai: “Ông ta tìm đâu ra được người Ý ở cái xứ này? Có ma nó biết”.
Nhưng được cái ông ta đưa tiền cẩn thận: dù sao cũng là đồng minh. Trong các giới
tư sản, ông ta chẳng có tín nhiệm gì lắm.
Trong bữa tiệc này không có vị đại biểu nào
của chính phủ ngoài hai nhân vật không đảng phái là bác sĩ Bulavin và ông phó
trưởng ban phản gián, Xemiôn Xemiônôvits Gôvyađin, một người đã leo lên khá cao
trên thang công danh. Cái thời kỳ mà hai bên đang nhiệt thành tâng bốc nhau,
khi hãy còn phải lật đổ phe bolsêvik, nay đã qua rồi. Chính phủ của ủy ban lập
hiến - gồm toàn những đảng viên xã hội cách mạng kiên định - tán dương các
thành quả của cách mạng một cách huyền hoặc đến nỗi chỉ có người Tiệp, vốn
không hiểu đầu cua tai nheo gì về những công việc của nước Nga, mới còn có thể
tin họ được. Dĩ nhiên trong giai đoạn đầu, khi đang đảo chính và đang cần phải
làm cho thợ thuyền và mu-gích yên tâm, một chính phủ xã hội cách mạng cũng là một
điều rất hay ho nữa là khác. Bản thân giới thương nhân Xamara đã lặp lại những
khẩu hiệu xã hội cách mạng. Nhưng giờ đây sông Volga đã được giải phóng từ
Khvalynxk cho đến Kazan, Đênikin đã chinh phục được gần hết miền bắc Kavkaz,
Kraxnôv đang tiến về Txaritxyn, Đutôv đã quét sạch vùng Ural, và ở Xibiri mỗi
ngày lại xuất hiện thêm những thủ lĩnh chống cộng đáng sợ - ấy thế mà những anh
chàng khố rách đầu bù đang ngồi chễm chệ trong tòa lâu đài tráng lệ của đại biểu
Quý tộc vùng Xamara - những Volxki, Brusvit, Klimuskin và đồng bọn - vẫn chưa
yên tâm được: họ vẫn tìm cách nào đưa đến Quốc hội Lập hiến kia!... Đến chán!
Thế là giới đại thương gia bắt đầu cương quyết chuyển sang những khẩu hiệu
khác, giản dị hơn, mạnh hơn, dễ hiểu hơn...
Đmitri Xtêpanôvits nói, chủ yếu là để cho
các vị khách ngoại quốc nghe:
- ...Con rắn đã mất nọc rồi. Cái sự kiện
phi thường, có ý nghĩa đột biến này chưa được đánh giá đúng mức... Tôi muốn nói
đến cái món sáu trăm triệu rúp ngày nay đã lọt vào tay chúng ta... (Hai cái ria
của ông Jannô vểnh ngược lên. “Bravô”. - Ông reo to, tay lắc lắc cái cốc; mắt
ông Piccôlômini nẩy lửa lên như mắt quỷ). Cái nọc vàng của bọn bolsêvik đã bị
rút đi rồi, thưa các vị... Chúng còn có thể cắn được, nhưng chẳng còn chết ai.
Chúng có thể dọa, nhưng chẳng ai sợ chúng nữa: chẳng qua cũng chỉ như thằng ăn
mày què vung cái nạng lên dọa trẻ con... Chúng không còn vàng nữa, không còn gì
nữa hết, ngoài cái bàn in bạc giấy...
Brykin, ông lái buôn ở Ômxk, bỗng há hốc mồm
ra cười ha hả khi nghe xong câu này, rồi vừa lấy khăn ăn lau cổ vừa lẩm bẩm: “Chao
ôi, tình hình, tình hình như thế thì...”.
- Thưa các ngài đại diện ngoại quốc - bác
sĩ Bulavin nói tiếp, và trong giọng nói của ông có xen vào những tiếng thép mà
trước đây không hề thấy có, - thưa các ngài đồng minh. Tình hữu nghị là một
chuyện, tiền bạc là một chuyện. Mới hôm qua đây, đối với các ngài chúng tôi hãy
còn là một tổ chức con rối, một thứ cấu tạo tạm bợ nào đấy, cũng ví như một cái
u nổi lên một cách tất nhiên sau khi bị một vố nặng... (Tsêtsek cau mày, me-xừ
Jannô và Piccôlômini phác những cử chỉ bất bình... Đmitri Xtêpanôvits mỉm một nụ
cười ranh mãnh). Nhưng ngày nay thì cả thế giới đều biết rằng chúng tôi là một
chính phủ có uy tín, chúng tôi là kẻ nắm giữ ngân khố quốc gia. Bây giờ thì
chúng ta có thể thỏa thuận với nhau được, thưa các ngài đại diện ngoại quốc...
(ông ta giận dữ gõ khớp ngón tay xuống bàn). Giờ đây tôi nói với tư cách một cá
nhân giữa những cá nhân, trong một khung cảnh cực kỳ thân mật. Nhưng tôi đã thấy
trước tất cả tầm quan trọng của những tư tưởng tôi vừa phát biểu ra...Tôi đã thấy
trước những chuyến tàu thủy chở vũ khí và công nghệ phẩm đang tiến vào các bến
tàu Nga... Tôi đã thấy trước những đạo bạch quân khổng lồ mọc lên khắp nơi. Tôi
đã thấy trước thanh gươm trừng phạt tàn khốc bổ xuống đầu lũ kẻ cướp đang xưng
hùng xưng bá trên đất Nga này... Sáu trăm triệu là một sức mạnh đủ để thực hiện
những điều đó... Thưa các ngài đại diện ngoại quốc! Hãy giúp đỡ, hãy giúp đỡ một
cách rộng rãi và đại lượng những người đại diện hợp pháp của nhân dân Nga!
Ông đưa cốc lên môi nhấp một ngụm rồi ngồi
xuống thở phì phò, mặt cau có... Các tân khách vỗ tay nhiệt liệt. Ông lái buôn
Brykin kêu lên:
- Cám ơn ông bạn... Thế mới đúng đấy, ông bạn
ạ, thế mới đúng kiểu của chúng ta, không pha chủ nghĩa xã hội vào làm gì hết!
Tsêtsek đứng dậy, xốc lại nịt lưng bằng một
động tác gọn ghẽ:
- Tôi sẽ nói rất ngắn... Chúng tôi đang hiến
dâng và sẽ tiếp tục hiến dâng đời mình cho hạnh phúc của những người anh em
cùng huyết tộc của chúng tôi: người Nga... Nước Nga vĩ đại, hùng cường muôn
năm!
Đến đây cả bàn tiệc rung lên (theo nghĩa
đen) vì những tiếng vỗ tay rầm rộ, những cánh tay phụ nữ xinh xắn vươn dài ra,
vỗ đôm đốp giữa mấy lọ hoa.
Me-xừ Jannô đứng dậy. Mái đầu ông ta ngửa
ra một cách tôn quý, bộ ria tuyệt mỹ làm cho gương mặt của ông thêm phần rắn rỏi,
can trường:
- Mesdames
et messieurs [Các quý bà và các quý ông -
tiếng Pháp]! Chúng ta đều biết rằng quân đội Nga cao quý, vốn luôn
luôn mơ tưởng đến vinh quang của các bậc tiền bối của họ, đã bị bọn bolsêvik lừa
dối một cách xảo quyệt. Chúng tiêm nhiễm vào quân đội Nga những tư tưởng phản tự
nhiên và những bản năng mông muội, cho nên quân đội ấy đã không còn là một quân
đội nữa. Mesdames et messieurs, tôi
xin thú thật là có một thời kỳ nước Pháp đã dao động trong niềm tin đối với
lòng chân thành của nhân dân Nga... Cơn ác mộng ấy nay đã bị xua tan rồi...
Ngày nay, ở đây chúng ta đã thấy rằng không phải như thế, một nghìn lần không!
Nhân dân Nga lại ở bên cạnh chúng tôi... Quân đội đã nhận thức được những sai lầm
của mình... Trang dũng sĩ bogatyr Nga
giờ đây lại sẵn sàng ưỡn ngực ra trước làn đạn của kẻ thù chung của chúng ta...
Tôi rất sung sướng với niềm tin mới mẻ của tôi.
Khi những tiếng vỗ tay đã ngớt, Piceôlômini
đứng bật dậy, đôi ngù vai rườm rà rung lên lấp lánh. Vì trong cử tọa không có
ai biết tiếng Ý, cho nên mọi người chỉ biết tin rằng ông ta ủng hộ mình, và ông
lái buôn Brykin đến ôm hôn con người đen đủi và nhỏ bé ấy. Sau đó là những diễn
văn của các đại biểu giới tư bản. Giới thương nhân phát biểu một cách lờ mờ và
rối rắm, họ hướng về Xibiri nhiều hơn, vì họ cho rằng sự giải thoát sẽ từ đấy
mà đến với họ. Cuối cùng người ta nài thủ lĩnh Đutôv nói đôi lời...Ông ta chối
đây đẩy: “Ờ chịu thôi, tôi là con nhà võ, không biết nói gì đâu...”.
Tuy vậy ông ta cũng nặng nề đứng lên trong
khi cử tọa lập tức im lặng, thở dài một tiếng rồi nói:
- Thì... cũng thưa các ngài! Đồng minh có
giúp ta, thì cũng tốt, không giúp thì ta sẽ tìm cách tự lực dẹp bọn bolsêvik.
Miễn là có tiền... Đấy, thưa các ngài, xin các ngài đừng xén cụt cánh của chúng
tôi.
- Cứ lấy đi, thủ lĩnh ạ, lấy cả tấm thân
chúng tôi, cả gan ruột chúng tôi đi cũng được, chúng tôi chẳng tiếc gì đâu, -
Brykin gào lên, lòng hân hoan đến cực độ.
Bữa tiệc đã thành công. Sau phần long trọng,
họ dọn cà-phê đen, thêm cả cô-nhắc ngoại và rượu mùi. Đêm đã khuya. Đmitri
Xtêpanôvits chuồn theo kiểu Anh, không chào ai cả.
Khi Đmitri Xtêpanôvits xuống xe đi vào nhà
mở cửa trước, một sĩ quan bước nhanh tới cạnh ông.
- Xin lỗi, ông có phải là bác sĩ Bulavin
không ạ?
Đmitri Xtêpanôvits nhìn kỹ người lạ mặt.
Lúc bấy giờ trên phố tối om, cho nên ông chỉ nhìn ra được đôi lon trung tá. Ông
nhóp nhép đôi môi mấy cái rồi trả lời:
- Vâng, tôi là Bulavin.
- Tôi cần gặp ông có một việc rất quan trọng...
Tôi hiểu rằng giờ này không được tiện... Nhưng tôi đã ghé nhà bấm chuông đến ba
lần.
- Ngày mai ông đến bộ từ mười một giờ trở
đi.
- Tôi van ông, xin ông cho tôi gặp bây giờ,
vì tôi phải đi chuyến tàu thủy đêm nay.
Đmitri Xtêpanôvits lại im lặng. Trong phong
thái của người lạ mặt có một cái gì hết sức thiết tha và bồn chồn lo lắng. Bác
sĩ so vai:
- Xin nói trước là nếu về việc xin trợ cấp
thì không thuộc quyền tôi đâu.
- Ồ không đâu ạ, tôi không cần trợ cấp đâu ạ!
- Hừm... Mời ông...
Từ gian phòng ngoài, Đmitri Xtêpanôvits đi
trước vào phòng làm việc và lập tức đóng cánh cửa dẫn vào các phòng trong lại. Ở
phía trong ấy có ánh đèn: có thể thấy rõ trong nhà còn có người chưa đi ngủ. Rồi
bác sĩ ngồi vào bàn giấy, chỉ cho khách một chiếc ghế ở trước mặt, hầm hầm nhìn
chồng giấy đang đợi lấy chữ ký ở trên bàn, đan mười ngón tay vào nhau:
- Nào, ông cần hỏi việc gì?
Viên sĩ quan áp mũ lưỡi trai vào ngực và
nói khẽ, trong giọng có một âm sắc dịu dàng, thiết tha:
- Đasa ở đâu?
Bác sĩ lập tức ngồi thẳng dậy, tựa đầu lên
cái lưng ghế chạm trổ. Bây giờ ông mới nhìn vào mặt người khách. Cách đây hai
năm Đasa có gửi về một bức ảnh chụp lấy, có hình hai vợ chồng nàng. Đúng là người
này. Bác sĩ chợt tái mặt đi, đôi mi dưới run lên. Ông ta hỏi, giọng khản đặc:
- Đasa à?
- Vâng... Tôi là Têlêghin.
Và nhìn vào mắt bác sĩ, chàng cũng tái mặt
đi. Đmitri Xtêpanôvits đã trấn tĩnh lại. Nhưng ông không hề có cái thái độ niềm
nở tự nhiên của một người được gặp con rể lần đầu tiên trong đời, mà lại vung
hai tay lên thanh một cử chỉ rất kịch, phát ra một tiếng ư ử như thể đang nén một
tiếng cười:
- A ra thế... Anh là Têlêghin... Thế dạo
này anh thế nào?
Chắc vì quá đột ngột, ông ta cũng chẳng bắt
tay Ivan Ilyits nữa. Ông đeo kính cặp mũi lên (không phải cái kính gọng kền đã
rạn mặt ngày trước, mà là một cái kính gọng vàng rất chững chạc), rồi hấp tấp
kéo ra đẩy vào cái ngăn kéo đầy giấy tờ một lúc, không biết để làm gì.
Têlêghin, chẳng hiểu ra làm sao hết, sửng sốt nhìn theo những động tác của ông
ta. Trước đây một phút chàng sẵn sàng kể hết chuyện mình cho Đmitri Xtêpanôvits
- một người nhà, một người cha... Nhưng bây giờ chàng nghĩ: “Có trời biết được
như thế nghĩa là thế nào - có lẽ ông ta cũng đoán... Có lẽ mình đã đặt ông ta
vào một tình thế rất gay go: dù sao cũng là một ông bộ trưởng...”. Chàng cúi đầu,
lần này nói rất khẽ:
- Đmitri Xtêpanôvits ạ, đã hơn nửa năm nay
tôi không được gặp Đasa, thư không đến nơi... Tôi không được biết Đasa ra sao cả.
- Vẫn sống, vẫn sống, khỏe mạnh! - bác sĩ
cúi xuống lục cái ngăn kéo cuối cùng, người gần lấp hẳn sau bàn giấy.
- Tôi ở trong quân tình nguyện. Tôi chiến đấu
với cộng sản từ tháng ba đến nay. Hiện nay bộ tham mưu cử tôi đi công tác ở miền
bắc, có giao một nhiệm vụ bí mật.
Đmitri Xtêpanôvits nghe chàng nói, vẻ hết sức
ngỡ ngàng, rồi khi nghe mấy tiếng “nhiệm vụ bí mật” một nụ cười thoáng hiện dưới
chòm ria của ông ta.
- À, ra thế, ra thế... Anh ở trung đoàn
nào?
- Trung đoàn Xolđatxki ạ - Têlêghin cảm thấy
máu dồn lên mặt.
- À... Té ra trong Quân đoàn tình nguyện có
một trung đoàn tên như thế nhỉ. Anh ghé nhà chúng tôi có được lâu không ạ?
- Đêm nay tôi phải đi.
- Rất tốt. Cụ thể là đi đâu ạ? À xin lỗi nếu
là bí mật quân sự thì xin miễn trả lời... Nói cách khác, anh đi làm công tác phản
gián chứ gì?
Giọng Đmitri Xtêpanôvits nghe kỳ dị đến nỗi
Têlêghin, tuy đang bồi hồi xúc động đến cùng cực, cũng phải giật mình chột dạ.
Nhưng lúc ấy bác sĩ đã tìm ra cái vật nãy giờ ông cố tìm:
- Vợ anh rất khỏe mạnh... Đây có cái này có
liên quan đến anh (Bác sĩ vứt ra trước mặt Têlêghin mấy tờ giấy chi chít những
dòng chữ viết rất to của Đasa. Những nét chữ không đều, những nét chữ vô giá
này cứ nhòa đi trước mắt Ivan Ilyits), Xin lỗi, tôi phải vào trong nhà một
chút. Anh cứ ngồi cho thoải mái mà đọc nhé.
Bác sĩ ra ngay, đóng cửa lại. Câu nói cuối
cùng mà Ivan Ilyits nghe được là một câu của bác sĩ trả lời một người nhà nào đấy:
-... Không, có ai đâu... à, một người đến hỏi
việc...
Từ phòng ăn, bác sĩ đi vào một dãy hành
lang tối, có đặt một cái máy điện thoại kiểu cũ. Ông đứng quay mặt vào tường,
quay máy rồi khe khẽ hỏi số điện thoại của ban phản gián và yêu cầu gọi Xêmiôn
Xêmiônôvits Gôvyađin ra máy.
Bức thư của Đasa viết bằng bút chì tím,
càng về sau chữ càng to và phần cuối dòng càng chúc xuống.
“Ba ơi, con không biết rồi con sẽ ra sao...
Cái gì cũng rối ren, mờ mịt quá... Ba là người duy nhất mà con có thể viết thư
được... Con đang ở Kazan... Có lẽ đến ngày kia con sẽ lên đường, nhưng không biết
có về được với ba không? Con rất muốn gặp ba. Ba sẽ hiểu hết. Ba khuyên như thế
nào, con sẽ làm như thế... Con mà còn sống cũng là kỳ lạ... Con cũng không biết
nữa - có lẽ sau cái việc đã xảy ra, con đừng sống nữa là hơn... Tất cả những điều
người ta nói với con, người ta nhồi vào óc con, đều là dối trá, là một sự bỉ ổi
phơi trần ra một cách vô liêm sỉ... Ngay cả Mikanor Yuriêvits Kulitsek cũng vậy...
Con đã tin hắn, con đã nghe lời xúi giục của hắn mà đi Moxkva (khi nào gặp ba
con sẽ kể chi tiết từ đầu). Thế mà ngay đến hắn ta hôm qua cũng nói trắng ra với
con nguyên văn như thế này: “Ngoài kia người ta đang bắn hàng loạt, rồi đem lùa
từng đống xuống đất; một viên đạn súng trường, đấy giá trị một con người chỉ có
thế, cả thế giới đang sặc sụa trong máu, thế mà tôi lại còn phải giữ lễ nghi với
cô nữa sao. Những người khác thì ngay điều đó họ cũng chẳng thèm nói nữa, mà cứ
thế lôi thẳng cô vào giường”. Con đã chống cự, ba ạ, ba hãy tin con... Con
không thể chỉ là một món tráng miệng sau một cốc rượu mạnh. Con chỉ còn giữ được
có thế, mà bây giờ lại đem quẳng nốt đi, thì như thế nghĩa là chút ánh sáng cuối
cùng sẽ tắt, và chỉ còn cách cho đầu vào thòng lọng nữa mà thôi. Con đã cố gắng
tìm việc có ích mà làm. Ở Yarôxlavl con đã làm việc ba ngày dưới làn đạn với tư
cách nữ y tá... Đêm ấy tay con đầy máu me, áo con cũng đầy máu me, con cứ thế nằm
vật ra giường... Chợt có ai kéo váy con lên. Con choàng dậy kêu to. Một sĩ quan
trẻ măng, bộ mặt của hắn lúc ấy, thật không thể nào quên được! Hắn như đã hóa
thành thú vật, hắn chồm lên người con, im lặng nắm lấy hai tay con vặn trái
ra... Thằng khốn nạn! Ba ạ, con đã lấy súng lục bắn hắn con cũng không hiểu việc
ấy xẩy ra như thế nào nữa. Hình như hắn ngã vật ra - lúc bấy giờ con chẳng còn
trông thấy gì nữa. Con không nhớ... Con chạy ra phố: trời đã rực lên, cả thành
phố đang cháy, đạn đại bác nổ ầm ầm... Không biết tại sao con không phát điên
trong đêm ấy! Và lúc bấy giờ con đã quyết định: trốn đi, trốn đi... Con muốn ba
hiểu con, giúp con... Con muốn trốn ra khỏi nước Nga. Con có phương tiện để đi
trốn... Nhưng xin ba giúp con thoát khỏi Kulitsek. Hắn theo con khắp nơi, nghĩa
là hắn cứ lôi con đi với hắn khắp nơi, và đêm nào cũng lại dở cái chuyện ấy ra.
Nhưng dù hắn có giết, con cũng không đời nào chịu...”
Ivan Ilyits dừng lại, thở một hơi dài, rồi chậm
rải giở sang trang:
“Con tình cở có được một số báu vật rất đắt
tiền... Trước mặt con ở cạnh cổng Nikitxki có một người bị tàu điện chẹt chết.
Người ấy chết cũng vì con, con biết như thế... Khi con tỉnh dậy thì trong tay
con có một chiếc va ly nhỏ bằng da cá sấu: chắc khi người ta khiêng con đi, có
ai đã đút nó vào tay con... Mãi đến hôm sau con mới tò mò mở ra xem: chiếc va
ly có đựng những đồ tư trang bằng kim cương và bằng ngọc trai. Những vật này,
người ấy đã lấy trộm ở đâu đấy... Người ấy đi tàu điện đến chỗ hẹn gặp con...
Ba có hiểu không? Người ấy lấy trộm để cho con... Ba ạ, con chẳng muốn phân
tích phải trái, luật lệ gì ở đây hết - con đã giữ lại những vật ấy... Bây giờ
nó là cách cứu vãn duy nhất của con. Nhưng nếu ba có chứng minh cho con thấy rằng
con là một con ăn cắp, thì con vẫn cứ giữ... Con đã trông thấy cảnh chết chóc
quá nhiều, cho nên con muốn sống... Con không còn tin ở dung mạo con người nữa...
Những con người tuyệt vời luôn mồm nói chuyện cứu nước ấy chỉ là những kẻ đểu
cáng, những con thú dữ... Ôi, con đã thấy những gì! Chúng nó thật đáng muôn đời
nguyền rủa! Ba có hiểu không, lại xảy ra một chuyện như thế này: có một hôm
Nikanor Yuriêvits đột nhiên đến tìm con rất khuya, hình như từ Pêtrôgrađ đến thẳng
nhà con thì phải... Hắn đòi con phải rời Moxkva đi với hắn ngay. Té ra tổ chức
của bọn hắn, “Liên minh bảo vệ tổ quốc và tự do” đã bị Tseka phát giác, và ở
Moxkva đang có những vụ bắt bớ hàng loạt. Xavinkôv và cả bọn tham mưu của hắn
chạy về vùng Volga. Ở đấy họ định tổ chức khởi nghĩa ở Rybinxk, ở Yaroxlavl và ở
Murôm. Họ vội lắm: đại sứ Pháp không chịu đưa tiền nữa, đòi phải chứng minh thế
lực của tổ chức bằng hành động. Họ hy vọng rằng tất cả tầng lớp nông dân sẽ
chuyển sang phía họ hết. Nikanor Yuriêvits cho rằng ngày tận số của bọn
bolsêvik đã sắp đến, - cuộc khởi nghĩa sẽ bao trùm hết miền Bắc, cả vùng bắc
Volga, và nghĩa quân của bọn họ sẽ hợp được với quân Tiệp. Kulitsek quả quyết
nói rằng tên con có ghi trong các danh sách của tổ chức, cho nên ở lại Moxkva rất
nguy hiểm. Thế là con theo hắn đi Yaroxlavl.
Ở đấy mọi việc đã được chuẩn bị xong xuôi:
trong quân đội, trong dân vệ, trong kho quân giới: đâu đâu thủ trưởng cũng là
người của tổ chức do họ đưa vào cả. Kulitsek và con đến Yaroxlavl vào chập tối.
Đến tờ mờ sáng con bừng tỉnh vì tiếng súng. Con chạy ra cửa sổ... cửa sổ này
trông ra sân, phía trước là bức tường gạch của nhà ga-ra, một đống rác và mấy
con chó đang chõ ra cổng mà sủa... Tiếng súng không thấy nổ lại nữa, xung quanh
im phăng phắc, chỉ ở xa xa có tiếng xe bình bịch chạy và bóp còi giật giọng...
Rồi bắt đầu nổi lên một hồi chuông dài vang khắp thành phố: tất cả các nhà thờ
đều kéo chuông. Cổng sân nhà con trọ mở toang ra, và một nhóm sĩ quan kéo vào,
họ đều đã đeo lon lên cả. Mặt người nào cũng bừng bừng khích động, tay người
nào cũng cầm súng khoa lên. Họ áp giải một người to lớn mặc áo vét-tông xám, mặt
cạo nhẵn. Người ấy không đội mũ, áo sơ-mi không đính cổ, áo gi-lê không cài
khuy. Mặt người ấy đỏ bừng, giận dữ. Họ đánh vào lưng người ấy, làm cho đầu người
ấy lắc mạnh. Người ấy giận điên lên. Hai sĩ quan đứng hai bên ga-ra giữ người ấy,
còn thì đi tách ra một quãng bàn bạc gì với nhau. Vừa lúc ấy từ cửa sau nhà trọ,
đại tá Perkhurôv bước ra - con trông thấy ông ta lần ấy là lần đầu -, ông ta là
người đứng đầu tất cả các lực lượng võ trang của cuộc khởi nghĩa... Tất cả sĩ
quan trong sân đều đứng nghiêm chào ông ta. Đó là một con người có nghị lực phi
thường - mắt đen, rất sâu, mặt gầy, ăn mặc rất gọn, tay đi găng, cầm roi da.
Con hiểu ngay: người mặc áo vét-tông kia chỉ có chết. Perkhurôv gườm gườm nhìn
người ấy, môi hằn học nhếch lên để lộ mấy cái răng. Người kia tiếp tục chửi mắng,
hăm dọa và đưa yêu sách. Perkhurôv ngẩng phắt đầu lên, ra một mệnh lệnh rồi lập
tức bỏ đi... Hai người đang giữ người to béo kia liền tránh ra xa... Người kia
giật bỏ chiếc áo vét-tông, cuộn lại và ném vào tốp sĩ quan đang đứng phía trước
trúng vào mặt một người; mặt ông ta đỏ bầm, mồm lớn tiếng chửi mắng họ. Ông ta
vung hai quả đấm lên hăm dọa họ, rồi đứng thẳng người, chiếc áo gi-lê phanh ngực,
người to lớn, vẻ phẫn nộ đến cùng cực. Lúc bấy giờ họ bắn vào ông ta. Ông ta giật
nẩy mình lên, giơ hai tay ra phía trước, bước tới một bước rồi ngã sấp xuống. Họ
bắn thêm một lúc nữa vào cái hình người nằm giữa sân. Đó là chính ủy bolsêvik Nakhimxôn...
Ba ạ, con đã chứng kiến một cuộc hành hình! Cho đến chết con cũng sẽ không quên
được hình ảnh người bị giết há mồm cố hớp lấy không khí... Nikhanor Yuriêrits
nói quả quyết với con rằng làm như thế là phải, rằng nếu họ không bắn người ấy
đi, thì người ấy sẽ bắn họ...
Những gì kế tiếp theo sau, con không nhớ
rõ; tất cả những việc diễn ra sau này chỉ là sự tiếp tục của cuộc hành hình
này, tất cả đều phảng phất cái hình ảnh của những đợt co giật cuối cùng của một
thân thể to lớn lực lưỡng không muốn lìa đời. Họ bảo con đến một tòa nhà dài
sơn vàng, có nhiều cột, đánh máy những tờ chỉ thị và những lời hiệu triệu.
Ngoài phố, xe bình-bịch phóng suốt ngày, bụi bay mù mịt... Chốc chốc lại có những
người hớt hải chạy vào nổi giận, ra lệnh này lệnh nọ; động cái gì cũng thấy
quát tháo ầm ỹ, ôm đầu rứt tóc. Khi thì hốt hoảng cuống cuồng lên, khi thì lại
hớn hở hy vọng quá đáng. Nhưng khi nào Perkhurôv xuất hiện với đôi mắt lạnh
lùng khắc nghiệt, ném ra mấy câu gọn lỏn thì có nhốn nháo mấy cũng im ngay tức
khắc. Đến hôm sau từ phía ngoại thành có tiếng đại bác vang rền. Quân bolsêvik
đang tiến đến. Ở cơ quan con làm việc, mấy hôm trước từ sáng đến tối dân phố
lui tới đông nghịt, thế mà bây giờ bỗng vắng tanh. Thành phố như lịm đi. Chỉ có
tiếng xe hơi của Perkhurôv rú máy phóng đi, những đội vũ trang kéo qua... Người
ta chờ đợi những chuyến máy bay gì đấy của người Pháp, mong những đạo quân nào
đấy từ miền bắc kéo về, những chuyến tàu thủy nào đấy chở đạn dược ở Rybinxk tới...
Những mối hy vọng ấy đều tỏ ra hão huyền. Rồi vòng đai tác chiến bóp chặt lấy
thành phố. Đạn đại bác nổ ùng oàng trên các phố xá... Những tháp chuông cổ
kính, những tòa nhà cao thi nhau đổ xuống, khắp nơi đều có những đám cháy bốc
lên, chẳng có ai mà đi dập, khói bốc ngùn ngụt che rợp cả ánh nắng. Thậm chí
xác chết trên phố cũng không ai dọn đi. Về sau người ta mới biết rằng Xavinkôv
cũng phát động một cuộc khởi nghĩa như vậy ở Rybinxk, nơi có nhiều kho đạn đại
bác, nhưng cuộc khởi nghĩa bị binh lính dập tan; rằng các làng xung quanh
Yarxôlavl không hề nghĩ đến chuyện cứu viện cho quân khởi nghĩa, rằng công nhân
ở trong thành không chịu xuống chiến hào đánh nhau với cộng sản... Hãi hùng hơn
cả là bộ mặt của Perkhurôv - mấy hôm nay con đi đâu cũng gặp ông ta. Đó chính
là thần chết đang phóng xe hơi qua những cảnh hoang tàn đổ nát của thành phố, tất
cả những việc xảy ra dường như đều là sự thể hiện của ý chí ông ta. Kulisek bắt
con ở dưới nhà hầm mấy ngày liền. Nhưng ba ạ, trong tất cả những chuyện này con
đều cảm thấy có phần lỗi của mình... Dù sao ở dưới hầm con cũng sẽ phát điên
lên mất. Con đội khăn hồng thập tự lên và làm việc cho đến cái đêm mà có người
đã định hiếp con...
Trước hôm Yarôxlavl thất thủ một ngày, con
và Nikanor Yuriêvits lên thuyền trốn ra sông Volga... Suốt một tuần phải đi lén
lút, tránh gặp người. Đêm thì ngủ dưới những đụn rơm - cũng may là tiết này đêm
không lạnh. Giầy con rách tan ra, chân rớm máu. Nikanor Yuriêvits kiếm ở đâu ra
được cho con một đôi ủng da - chắc chỉ rút trộm ở một bờ dậu nào đấy thôi... Một
hôm - hôm nào con cũng không nhớ nữa, trong một khu rừng bạch dương Nikanor
Yuriêvits và con trông thấy một người mặc áo khoác rách, chân đi dép cỏ, đội
cái mũ chụp xù lông. Hắn đi rất nhanh, dáng lầm lì, cứ nhắm thẳng trước mặt mà
bước như người mất trí, tay chống cái gậy rất to. Đó là Perkhurôv - cũng đã bỏ
Yaroxlavl trốn đi. Trông thấy hắn, con sợ đến nỗi phải nằm úp sấp mặt xuống cỏ...
Rồi Nikanor Yuriêvits đưa con đến Kôxtrôma, ở lại nhà một ông công chức ở ngoại
ô có quen với Kulitsek, cho đến khi quân Tiệp chiếm Kazan... Nikanor Yuriêvits
suốt ngày cứ săn sóc con như chăm con trẻ - con rất biết ơn hắn. Nhưng một hôm
tình cờ hắn trông thấy mớ kim cương và ngọc trai - con bọc nó trong tấm khăn bỏ
trong cái túi của con mà suốt trên đường đi Kulitsek bỏ trong túi áo vét-tông của
hắn. Đi đến Kôxtrôma con mới sực nhớ đến cái gói. Đành phải kể cho Nikanor
Yuriêvits nghe tất cả câu chuyện ấy. Con nói với hắn rằng con tự coi là một kẻ
tội phạm. Nhân đó hắn ta thuyết trình ra cả một hệ thống triết học: té ra con
không phải là kẻ tội phạm, mà chỉ vớ được một cái vé may mắn trong cuộc xổ số của
cuộc đời. Kể từ đấy thái độ của hắn đối với con thay đổi, trở nên rất phức tạp.
Còn một điều nữa cũng có ảnh hưởng là Kulitsek và con sống yên tĩnh và sạch sẽ
trong một căn nhà xinh xắn ở một tỉnh lẻ, ngày ngày uống sữa, ăn dâu rừng và
phúc bồn tử. Con bình phục dần. Có một lần vào lúc hoàng hôn, ngồi trong mảnh
vườn con, Kulitsek bắt đầu nói về tình yêu nói chung, rồi nói rằng con sinh ra
là để yêu đương, và bắt đầu hôn tay con. Và con cảm thấy rằng hắn tin chắc mười
phần là chỉ một phút sau con sẽ hiến thân xác cho hắn trên chiếc ghế đá, dưới
góc cây xiêm gai này... Sau tất cả bấy nhiêu việc đã xảy ra, mà lại có thể như
thế ư? Ba thử nghĩ mà xem! Để khỏi phân trần gì lôi thôi, con chỉ nói: “Giữa
anh và tôi, sẽ chẳng thành ra cái gì đâu. Tôi yêu Ivan Ilyits”. Và con nói như
thế là không dối lòng chút nào đâu ba ạ...”.
Ivan Ilyits rút mùi soa lau mặt, rồi lau mắt,
và đọc tiếp:
“Con không hề dối lòng... Con không quên
Ivan Ilyits được. Giữa con với anh ấy chưa phải là không còn gì nữa hết... Chắc
ba cũng biết, chúng con chia tay nhau hồi tháng ba, anh ấy đi Kavkaz vào hồng
quân... Anh ấy rất được tin cậy, anh ấy là người bolsêvik thực sự, tuy không phải
là đảng viên... Chúng con đã cắt đứt với nhau, nhưng dĩ vãng đã gắn bó chúng
con quá mật thiết... Con không hề cắt đứt dĩ vãng... Còn Kulitsek thì nhìn nhận
sự việc một cách rất đơn giản - nằm xuống, thế là xong... Ôi, ba ơi, cái mà trước
kia ta gọi là tình yêu chẳng qua chỉ là bản năng tự bảo tồn. Ta vốn sợ sự quên
lãng, sự tiêu vong... Chính vì thế mà ban đêm gặp đôi mắt của một cô gái giang
hồ ở trên đường phố mới thấy ghê sợ đến như vậy... Đó chỉ là một cái bóng của
người đàn bà... Nhưng con, con là người đang sống, con muốn được yêu, được nhớ
tới, con muốn trông thấy mình trong đôi mắt của người yêu. Con yêu cuộc sống...
Nếu một ngày kia con nẩy ra cái ý muốn hiến thân một cách giản dị, trong chốc
lát thì dĩ nhiên khác hẳn... Nhưng bây giờ trong con chỉ có hằn học, ghê tởm và
sợ hãi... Trong thời gian gần đây có một cái gì đấy đã diễn ra trong dung nhan
của con - gương mặt, hình dáng. Con đã đẹp ra... Bây giờ con đi đâu cũng như
người trần truồng, đâu đâu cũng gặp những con mắt đói khát... Sắc đẹp thật đáng
nguyền rủa!... Ba ơi, con gửi cho ba bức thư này, đến khi gặp ba con sẽ không
phải nói gì nữa... Con chưa ngã hẳn đâu, xin ba hiểu cho con...”.
Ivan Ilyits ngẩng đầu lên. Sau tấm cửa dẫn
ra phòng ngoài có tiếng bước rón rén của một tốp người, tiếng nói thì thầm. Quả
nắm cửa quay đi một vòng. Chàng lập tức đứng phắt dậy, đưa mắt nhìn các khung cửa
sổ...
Theo tập quán kiến trúc ở tỉnh lẻ, cửa sổ
nhà bác sĩ Bulavin cách mặt đất ở bên ngoài không cao. Cửa sổ giữa vẫn mở.
Têlêghin chạy ra đứng ở cửa ấy. Trên mặt đường trải nhựa có một cái bóng người
trải dài như cái com-pa, và một cái bóng dài hơn nữa của khẩu súng trường người
ấy đang chống bên chân.
Tất cả những việc này xảy ra trong một giây
đồng hồ. Quả nắm cửa quay hẳn một vòng và lập tức có hai người thanh niên sát
vai nhau cùng bước vào một lúc, dáng dấp như hạng tiểu thị dân, đội mũ cát-két,
mặc áo sơ mi thêu. Sau lưng họ thấp thoáng cái mặt bủng beo có bộ râu hung của
Gôvyađin. Điều đầu tiên mà Têlêghin nhìn thấy khi họ xông vào phòng là ba cái
nòng súng lục chĩa vào chàng.
Những việc sau đây diễn ra trong nửa giây đồng
hồ kế theo. Với cái kinh nghiệm của một quân nhân, chàng hiểu ngay rằng nếu lùi
trong khi sau vai mình là một đối thủ mạnh chưa hề bị tổn thương là một điều dại
dột. Chuyển khẩu browning sang tay
trái, chàng rút từ thắt lưng dưới áo ra một quả lựu đạn nhỏ có cài bức thư của
Ghymza, và máu dồn lên mặt đỏ bừng, chàng quát lên như sấm, rách cả thanh đới:
- Bỏ súng xuống!
Tiếng quát rất rõ nghĩa này cũng như cả cái
dáng dấp của Ivan Ilyits đều có một uy lực dữ dội đến nỗi bọn kia chột dạ lùi lại.
Bộ mặt bủng beo vụt tránh sang một bên. Thế là đã tranh thủ thêm được một giây
nữa... Tay giơ cao quả lựu đạn, Têlêghin chồm lên áp đảo đối thủ:
- Bỏ xuống!
Đến đây đã xẩy ra một việc mà tất cả những
người có mặt trong phòng, nhất là Têlêghin, đều không thể nào ngờ được... Ngay
sau tiếng quát thứ hai của chàng sau, tấm cửa một cánh bằng gỗ dẻ dẫn từ phòng
làm việc vào các phòng trong bỗng vang lên một tiếng thét đau đớn, một giọng phụ
nữ kêu lên mấy âm gì, âm sắc hoảng hốt tuyệt vọng... Cánh cửa gỗ dẻ mở toang
ra, và Têlêghin trông thấy đôi mắt mở rộng của Đasa, mấy ngón tay thon thon vịn
lên khung cửa, khuôn mặt gầy gò đang run bắn lên vì xúc động.
- Ivan!
Đmitri Xtêpanôvits bỗng hiện ra bên cạnh
nàng, ôm ngang lưng nàng lôi vào, và cánh cửa đóng sập lại... Tất cả những việc
đó trong nháy mắt đã đảo lộn hết những ý đồ tấn công và phòng ngự của Ivan
Ilyits... Chàng lao về phía cánh cửa gỗ dẻ, dùng vai xô hết sức mạnh. Có cái gì
kêu đánh tách một cái, cánh cửa mở toang ra, và chàng nhảy vào một gian phòng
ăn... Tay chàng vẫn còn nắm hai thứ vũ khí giết người... Đasa đang đứng cạnh
bàn, hai tay nắm lấy hai ve cổ chiếc áo ngủ kẻ sọc, cuống họng nàng nhích nhích
như thể nàng đang cố nuốt vật gì. (Chàng nhìn thấy thế mà lòng đau nhói lên vì
thương xót) Đmitri Xtêpanôvits lùi lại, vẻ hốt hoảng đến cùng cực, trông như
con thú bị dồn đến bước đường cùng.
- Cứu tôi với! Gôvyađin! - Ông ta gọi thều
thào, giọng vỡ ra. Nhanh như cắt, Đasa lao ra cánh cửa gỗ dẻ khóa nó lại.
- Trời ơi, khủng khiếp quá!
Nhưng Ivan Ilyits lại hiểu khác đi: quả thật
xông vào nhà Đasa với những của nợ này thì thật là khủng khiếp. Chàng hối hả
đút khẩu súng và quả lựu đạn vào túi. Bấy giờ Đasa nắm lấy tay chàng: “Đi, anh”,
và lôi chàng vào một dãy hành lang hẹp tối om, rồi từ đấy đi vào một căn buồng
nhỏ có thắp cây nến để trên chiếc ghế tựa. Căn buồng trơ trụi, chỉ thấy chiếc
váy của Đasa treo trên cái đinh, và một cái giường sắt kê sát tường, khăn trải
đệm nhàu nát.
- Em ở đây một mình à? - Têlêghin hỏi thầm
thì. - Anh đã đọc bức thư của em.
Chàng đưa mắt nhìn quanh, một nụ cười nở
trên đôi môi run rẩy. Đasa không đáp, kéo chàng đến khung cửa sổ mở rộng.
- Chạy đi, kìa chạy đi anh, anh điên rồi à?
Từ khung cửa sổ có thể trông thấy lờ mờ khoảng
sân, những bóng cây và những mái nhà thấp dần về phía bờ sông, và dưới cùng là
những ánh đèn trên bến tàu. Từ sông Volga đưa lại một làn gió ẩm thấp sực mùi
mưa... Đasa đứng nép sát cả người vào Ivan Ilyits, ngẩng gương mặt sợ hãi lên
nhìn chàng, miệng hé mở.
- Anh tha thứ cho em, anh ơi, anh chạy đi,
đừng chần chừ nữa Ivan, - nàng nói lắp bắp, mắt nhìn vào tận đôi đồng tử của
chàng.
Chàng làm sao mà rứt ra được? Con đường
vòng dài dằng dặc của chia ly đã khép kín lại. Chàng đã vượt qua hàng nghìn cái
chết và đã đến đây, nhìn khuôn mặt duy nhất trên ở trên đời này. Chàng cúi xuống
hôn nàng.
Đôi môi lạnh giá của nàng không đáp lại, chỉ
run lên bần bật.
- Em đã không phản bội anh... Em thề với
anh như vậy... Chúng mình sẽ gặp nhau khi nào đã yên ổn hơn... Nhưng bây giờ
thì anh trốn đi, anh trốn ngay đi, em van anh...
Chưa bao giờ, ngay cả những ngày diễm phúc ở
Krym cũng thế, chàng lại thấy yêu Đasa mãnh liệt như bây giờ. Chàng cố cầm nước
mắt nhìn lên mặt nàng:
- Đasa, đi với anh... Em ạ. Anh sẽ đợi em ở
bên kia sông - tối mai...
Nàng lắc đầu, rên rỉ tuyệt vọng:
- Không... Em không đi đâu!
- Em không muốn đi ư?
- Em không thể đi được.
- Được, - chàng nói, - nếu thế thì anh ở lại.
- Chàng lùi ra phía tường... Đasa kêu lên một tiếng, khóc nấc lên... Rồi bỗng
như điên như dại, nàng xông vào nắm lấy tay chàng lôi ra cửa sổ lần nữa. Ngoài
sân có tiếng mở cổng đánh két một cái, rồi tiếng chân bước rón rén trên cát...
Đasa tuyệt vọng ép khuôn mặt nóng bừng lên hai tay Ivan Ilyits...
- Anh đã đọc bức thư của em, - chàng lại
nói, - Anh đã hiểu hết.
Trong khoảng một giây, nàng không cố kéo
chàng đi nữa. Nàng ôm lấy cổ chàng, áp sát mặt vào mặt chàng:
- Họ đã vào đến sân... Họ sẽ giết anh mất,
họ sẽ giết...
Ánh nến làm cho mái tóc xõa của nàng ánh
lên những đường cong vàng óng. Ivan Ilyits thấy nàng chỉ là một cô bé, một đứa
trẻ, đúng như hình ảnh của nàng đêm nào, khi chàng bị thương nằm trên đám lúa,
tay nắm mô đất ẩm và nghĩ đến trái tim bướng bỉnh và thảng thốt, trái tim bé bỏng,
mong manh của nàng.
- Đasa, tại sao em không muốn đi với anh? Ở
đây người ta sẽ làm khổ em. Em cũng thấy rõ những con người ở đây là hạng người
gì... Thà chịu đủ thứ tai ương, nhưng anh có ở bên em... Em bé bỏng của anh...
Dù sao em cũng luôn luôn ở bên anh trong cõi sống cũng như trong cõi chết, em ở
trong anh, như chính trái tim của anh.
Chàng nói mấy câu ấy rất khẽ và rất nhanh,
từ trong cái góc tối chàng đang đứng. Đasa ngửa đầu ra, tay vẫn không buông tay
chàng. Nước mắt nàng chảy giàn dụa.
- Em sẽ trung thành với anh cho đến chết...
Anh đi đi... Anh hiểu cho em: em bây giờ chưa được như người con gái mà anh yêu
đâu... Nhưng em sẽ được như thế...
Chàng không nghe tiếp nữa; chàng ngây ngất
trong niềm vui điên dại mà những giọt nước mắt, những lời lẽ và giọng nói tuyệt
vọng của nàng đã rót ngập lòng chàng. Chàng xiết tay nàng mạnh đến nỗi mấy đốt
xương của nàng kêu lên răng rắc.
- Em ạ, anh đã hiểu hết, từ biệt em, -
chàng thì thầm.
Chàng chồm lên bậu cửa sổ nhìn ra ngoài, rồi
một giây sau, như một cái bóng, chàng tụt xuống sân - chỉ nghe thấy tiếng đế ủng
của chàng gõ khe khẽ lên cái mái gỗ của căn nhà kho phía dưới phòng Đasa. Đasa
đầu thò ra cửa sổ, nhưng không thấy gì hết: chỉ thấy đêm tối mịt mùng và mấy
ánh đèn vàng vàng ở phía xa. Nàng đưa hai tay lên ngực, nơi tim nàng đang đập
thình thình. Bên ngoài không có lấy một tiếng động... Nhưng rồi từ trong tối có
hai bóng người tiến lên, khom lưng chạy qua sân theo một đường chéo. Đasa kêu
lên một tiếng chói tai, tiếng kêu khủng khiếp đến nỗi hai bóng người kia đang dở
đà cũng đứng sững lại. Chắc là họ đang quay đầu nhìn lên cửa sổ nàng. Và lúc bấy
giờ ở cuối sân nàng trông thấy Têlêghin đang trèo qua một nóc nhà bằng gỗ.
Đasa nằm vật xuống giường, mặt úp vào gối.
Nàng nằm yên không nhúc nhích. Một lát sau nàng lại vùng dậy cũng một cách đột
ngột như thế, sờ sẫm tìm chiếc giày vải rơi xuống chân giường rồi chạy ra phòng
ăn.
Trong phòng ăn, bác sĩ, tay cầm khẩu súng lục
nhỏ mạ kền và Gôvyađin lăm lăm khẩu
mauser đang đứng giữ thế thủ, sẵn sàng chiến đấu. Họ cướp lời nhau hỏi
Đasa: “Thế nào? Sao rồi?...” ... Nàng xiết chặt nắm tay, căm giận nhìn vào đôi
mắt màu hung của Gôvyađin.
- Đồ khốn nạn, - nàng vừa nói vừa vung vung
quả đấm trước cái mũi tái nhợt của hắn, - rồi có ngày họ sẽ bắn chết mày, đồ khốn
nạn!
Cái mặt dài dài của hắn co rúm lại, càng nhợt
nhạt hơn, bộ râu cằm rũ xuống như râu xác chết. Bác sĩ ra hiệu cho hắn, nhưng hắn
đã giận run lên rồi, không còn để ý gì nữa.
- Cô
bỏ cái lối vung tay vung chân ấy đi, Đraya Đmitrievna ạ... Tôi tuyệt nhiên chưa
hề quên rằng cô đã có lần có nhã ý đánh vào mặt tôi, hình như lại đánh bằng
giày nữa... Cô cất cái nắm tay ấy đi... Và nói chung, tôi khuyên cô không nên
cói thường tôi.
- Xemiôn Xemiônôvits, đừng để mất thì giờ,
- bác sĩ ngắt lời hắn trong khi vẫn tiếp tục ra hiệu, nhưng không để cho Đasa
trông thấy.
- Xin ông cứ yên tâm, Đmitri Xtêpanôvits ạ,
Têlêghin không thoát được đâu...
Đasa nhảy chồm lên, thét:
- Đừng hòng! (Gôvyađin lập tức tránh ra sau
một chiếc ghế).
- Được, để rồi xem thử... Đarya Đmitrievna ạ,
tôi báo cho cô biết: ở cục an ninh họ rất chú ý đến cá nhân cô đấy... Sau sự việc
vừa xảy ra hôm nay, tôi không dám bảo đảm gì nữa đâu. Cô có thể gặp nhiều chuyện
rầy rà đấy.
- Kìa, hình như anh bắt đầu đi hơi xa rồi đấy,
Xemiôn Xemiônôvits ạ. - bác sĩ nói, giọng bực tức, - như thế thì quá lắm...
- Tất cả đều tùy ở quan hệ cá nhân, Đmitri
Xtêpanôvits ạ... Ông cũng biết rõ thiện ý của tôi đối với ông, và mối thiện cảm
mà tôi đã có từ lâu đối với Đarya Đmitrievna...
Đasa tái mặt đi. Nụ cười ngạo nghễ làm cho
mặt Govyađin méo mó đi như trong một tấm gương lồi lõm. Hắn cầm lấy mũ và đi
ra, gáy lên gân thật căng để trông phía sau khỏi buồn cười. Bác sĩ ngồi xuống
bên bàn nói:
- Cái anh Govyađin này thật là một con người
đáng sợ.
Đasa đi đi lại lại trong phòng, bẻ ngón tay
răng rắc. Rồi nàng dừng lại trước mặt bố:
- Bức thư của con đâu?
Lúc bấy giờ Đmitri Xtêpanôvits đang cố mở nắp
cái hộp thuốc lá bằng bạc, thở phều phào qua kẽ răng; rốt cục lấy ra một điếu
thuốc lá và vê vê nó trong mấy ngón tay phốp pháp hãy còn run run:
- Trong kia... Biết được?... Trong phòng
làm việc, trên tấm thảm ấy.
Đasa sang phòng bên rồi trở về ngay, tay cầm
bức thư, và lại đến đứng trước mặt Đmitri Xtêpanôvits. Ông ta châm thuốc - ngọn
lửa cứ vờn xung quanh đầu điếu thuốc mãi không bén được.
- Ba chỉ làm tròn bổn phận, - Ông vừa nói vừa
vứt que diêm xuống bàn (Đasa lặng thinh) - Con ạ, hắn là một tên bolsêvik, hơn
nữa lại là một tên gián điệp... Con cũng biết đấy, cuộc nội chiến này không phải
là trò đùa, ở đây ta phải hy sinh tất cả. Chúng ta được nắm quyền lực trong tay
chính để làm như thế, nhân dân không khi nào dung thứ những thói nhu nhược.
(Đasa, như thể đang mải nghĩ đi đâu, thong thả xé bức thư ra từng mảnh). Sự việc
đã rõ như ban ngày: hắn đến đây để khai thác ở ba những tài liệu hắn đang cần,
rồi để có dịp thuận lợi là hắn thịt ba luôn... Con đã thấy hắn vũ trang như thế
nào chưa? Có cả bom nữa kia chứ. Năm chín mươi sáu, ở góc phố Moxkatelnaia,
quan tỉnh trưởng Blôk bị một quả bom xé nát ngay trước mặt ba... Giá con trông
thấy... Ông ta chỉ còn lại được cái ngực và một dúm râu. - Tay bác sĩ run lên.
Ông ném điếu thuốc lá chưa châm được xuống đất, lấy một điếu khác. - Ba xưa nay
vốn không ưa cái thằng Têlêghin của con, con cắt đứt liên lạc với hắn là phải...
(Đasa vẫn làm thinh). Thế mà hắn đã mở đầu bằng một mưu mẹo thô sơ: hắn vờ hỏi
thăm xem con ở đâu nữa kia chứ...
- Nếu Gôvyađin bắt được anh ấy...
- Chắc chắn là bắt được chứ! Tay chân
Gôvyađin cừ lắm... Con ạ, con ăn nói với Gôvyađin gay gắt quá đấy... Gôvyađin
là một người có thế lực... Người Tiệp cũng như bộ tham mưu ta, đều rất coi trọng
anh ấy... Thời buổi này ta phải hy sinh những chuyện riêng tư... vì quyền lợi của
đất nước - con hãy nhớ đến những tấm gương cổ điển... Con là con của ba; quả đầu
óc con hơi viễn vông một chút - ông ta bật cười rồi ho húng hắng, - nhưng không
đến nỗi khờ dại...
- Nếu Gôvyađin bắt được anh ấy, - Đasa nói,
giọng khàn khàn - ba sẽ làm đủ cách để cứu anh ấy.
Đmitri Xtêpanôvits đưa mắt nhìn con gái, rồi
bắt đầu thở phì phò. Nàng xiết chặt nắm mảnh vụn của bức thư trong tay.
- Ba sẽ làm, ba ạ!
- Không! - bác sĩ vỗ mạnh bàn tay xuống bàn
quát lên, - không! Chỉ vớ vẩn! Ba muốn tốt cho con, cho nên ba không làm!
- Ba sẽ gặp khó khăn, nhưng ba sẽ làm ba ạ.
- Mày là con ranh con, mày ngu lắm! - bác
sĩ rống lên. - Têlêghin là một thằng khốn nạn, một thằng phạm tội ác, hắn sẽ bị
tòa án binh xử bắn.
Đasa ngẩng đầu lên, đôi mắt xám của nàng quắc
lên dữ dội đến nỗi bác sĩ thở phì ra một tiếng rồi cụp mi mắt xuống. Nàng giơ nắm
tay cầm mớ giấy vụn lên như để hăm dọa.
- Nếu những người bolsêvik đều như Têlêghin
cả, - nàng nói, - thì tức là những người bolsêvik đúng.
- Đồ ngu!... Đồ ngu!... - Đmitri
Xtêpanôvits nhảy chồm lên, giẫm chân thình thịch, mặt tím bầm, toàn thân run bắn
lên. - Phải treo cổ hết bọn bolsêvik kể cả thằng Têlêghin của mày. Treo khắp các
cột dây thép... Phải lột da sống chúng nó ra!
Nhưng tính khí Đasa có lẽ còn cục hơn cả
Đmitri Xtêpanôvits. Nàng chỉ tái mặt đi, sấn đến sát người ông, đôi mắt dữ dội
không rời mắt ông:
- Đồ khốn nạn, - nàng nói, - đừng giở trò
hung hăng. Ông không phải là bố tôi, ông là một kẻ điên rồ, một con người thối
tha!
Và nàng ném nắm giấy vụn vào mặt Đmitri
Xtêpanôvits...
Ngay đêm hôm ấy, vào lúc tờ mờ sáng, có người
gọi điện thoại cho bác sĩ. Một giọng thô lỗ và điềm đạm nói trong ống máy:
- Xin báo để ông biết rằng gần bến
Xamoliôtxkaia, sau kho bột, mới tìm được hai cái xác - xác ông phó trưởng ban phản
gián, và xác một nhân viên của ông ta...
Bên kia đầu dây, người gọi điện đã đặt ống
máy xuống. Đmitri Xtêpanôvits há hốc mồm ra, hớp hớp không khí mấy cái và ngã
xuống bên cạnh máy điện thoại trong một cơn đau tim hết sức dữ dội.
11
Quân đoàn Xôrôkin, sau khi đánh tan hai đơn
vị ưu tú nhất của quân tình nguyện là sư đoàn Đrozđôvxki và sư đoàn Kazanovits,
liền từ bỏ kế hoạch vượt sông Kuban đã vạch lúc đầu. Đến Korênôvxkaia, nó quay
về phía bắc và mở cuộc tấn công vào ga Tikhoretxkaia, nơi đóng đại bản doanh của
Đênikin.
Trận giao chiến ác liệt đã kéo dài đến ngày
thứ mười. Được những thắng lợi đầu tiên cổ vũ, quân Xôrôkin quét sạch tất cả
các đội quân án ngự trước vị trí Tikhoretxkaia. Có thể tưởng chừng như bây giờ
không còn gì có thể chặn nổi cái đà tiến quân như vũ bão của họ nữa. Đênikin hối
hả tập hợp các lực lượng tản mác khắp vùng Kuban lại. Hai bên chống chọi nhau
quyết liệt đến nỗi mỗi cuộc đọ súng đều kết thúc bằng một trận giáp lá cà.
Nhưng trong quân đội của Xôrôkin đồng thời
cũng diễn ra một quá trình tan rã không kém phần nhanh chóng. Mối cừu địch giữa
các trung đoàn Kuban và các trung đoàn Ukrain ngày càng gay gắt. Lính mới và
lính cựu trên đường hành quân cứ vào cướp sạch các làng cô-dắc, không phân biệt
làng nào theo bạch quân, làng nào theo hồng quân.
Tất cả các khái niệm đều lẫn lộn hết. Dân
làng hễ cứ thấy từ cuối thảo nguyên có một đoàn quân kéo đến trong những đám bụi
bốc lên mù mịt, là đã sợ mất vía đi rồi. Đênikin thì ít ra cũng còn trả tiền cỏ
ngựa, chứ quân Xôrôkin thì bao giờ cũng nhanh tay đoạt sạch. Thế là người trẻ
thì lên ngựa sung vào quân Đênêkin, người già và phụ nữ thì đưa con cái và gia
súc chạy ra khe núi.
Từng làng liền nổi dậy chống lại quân của
Xôrôkin. Các trung đoàn Kuban kêu rên: “Chúng ta thì họ lùa vào lò sát sinh,
còn đất đai chúng ta thì bọn dân tứ xứ cướp sạch!”. Tham mưu trưởng quân đoàn
Bêlyakôv tuyệt vọng quay cuồng trong cơn lốc của các biến cố, thỉnh thoảng chỉ
biết ôm lấy cái đầu: xem thử nó còn nằm nguyên trên cổ không. Còn phải nói! Chiến
lược đã bị ném về nhà ma. Chiến thuật chung quy là mũi lê cho nhọn và nhiệt
tình cách mạng cho cao. Kỷ luật đã được thay thế bằng cái đà chuyển động như vũ
bão, không có gì cản nổi của những đám binh sĩ khổng lồ. Tổng tư lệnh Xôrôkin hồi
này trông rất sợ: vào những ngày ấy ông ta chỉ sống bằng rượu mạnh và thuốc phiện
trắng, mắt ông ta sưng húp lên, da mặt ông xạm đi, giọng ông vỡ ra, và như người
mất trí, cứ xô quân đội tiến lên không ngừng.
Điều không sao tránh khỏi đã xảy ra.
Quân đoàn tình nguyện, đã được tôi rèn kỹ
lưỡng bằng một kỷ luật sắt, tuy bại trận và đang phải rút lui, song vẫn răm rắp
tuân theo ý chí của một bộ tư lệnh duy nhất như một cơ chế hoạt động đều, luôn
luôn chuyển sang phản công, bám lấy từng gò đất có thể cố thủ được, điềm tĩnh
và khéo léo chọn những chỗ yếu của địch quân. Thế rồi đến hai mươi bẩy tháng bẩy,
sát làng Vixelki, cách Tikhoretxkaia năm mươi dặm, đã diễn ra ngày cuối cùng,
ngày thứ mười của trận đánh.
Vị trí của hai sư đoàn Đrozđôvxki và
Kazanôvits còn bất lợi hơn cả mấy ngày trước. Ở đây quân đỏ đã luồn được ra sau
lưng địch, và quân tình nguyện bị rơi vào một cái bọc gần giống hệt như quân
bolsêvik ở Belaia Glina. Nhưng quân của Xôrôkin không còn là đạo quân như cách
đây chín ngày nữa. Tâm trạng say sưa căng thẳng đã sụp xuống, sức kháng cự
ngoan cường của quân địch đã gieo rắc tâm trạng thiếu tin tưởng, nỗi ngờ vực, nỗi
thất vọng: bao giờ mới kết thúc, mới thắng trận, mới được nghỉ ngơi?
Quá ba giờ chiều, quân Xôrôkin mở trận tấn
công trên khắp chiến tuyến. Vố công kích hết sức ác liệt. Xung quanh, khắp chân
trời đều vang ầm tiếng đại bác. Những đội xung kích dày đặc tiến lên kìn kìn
không thèm nấp. Trạng thái căng thẳng sốt ruột; hăng máu đã lên đến giới hạn tột
cùng...
Và đến đây bắt đầu diễn ra quá trình diệt
vong của quân đoàn Xôrôkin. Đợt tiến công đầu tiên bị bắn rát rồi bị tiêu diệt
trong một trận đánh lưỡi lê. Các đợt sau bị hỏa lực địch làm rối loạn, hàng ngũ
lẫn lộn vào nhau giữa những xác chết, những người bị thương, những người đang
ngã xuống. Và đến đây đã xảy ra một hiện tượng không thể nào lường trước được,
không thể nào hiểu nổi, không thể nào chặn đứng lại được: trạng thái căng thẳng
đột nhiên xẹp xuống ngay trong chốc lát. Không còn đủ sức, không còn đủ nhuệ
khí nữa rồi.
Cái ý chí lạnh lùng của quân địch tiếp tục
giáng những đòn chính xác đã được suy tính kỹ, làm tăng thêm tình trạng rối loạn...
Từ phía bắc, sư đoàn Markôv và trung đoàn kỵ binh, từ phía nam, quân kỵ mã của
Erđêli phóng thẳng vào giữa các trung đoàn đỏ lẫn lộn. Những chiếc xe thiết
giáp bò tới, hỏa lực khoét từng mảng lớn trong hàng ngũ đối phương, những đoàn
tàu bọc sắt của bạch quân phụt khói xông tới. Lúc bấy giờ quân Xôrôkin bắt đầu
lùi lại, rồi bỏ chạy, làm mồi cho cuộc tàn sát.
Đến bốn giờ chiều khắp cánh thảo nguyên
mênh mông trải rộng về phía tây chiến trường đều tràn đầy những tàn quân của
quân đoàn Xôrôkin: kể từ nay, quân đoàn này, với tính cách một lực lượng thống
nhất, không còn tồn tại nữa.
Tham mưu trưởng Bêlyakôv dùng sức mạnh ném
tổng tư lệnh lên một chiếc xe hơi. Đôi mắt đỏ ngầu những tia máu của Xôrôkin lồi
ra, mép ông sùi bọt, bàn tay đen sì vẫn còn nắm chặt khẩu súng lục đã bắn hết đạn.
Chiếc xe hơi móp mép bị đạn bắn thủng lỗ chỗ phóng bừa qua các xác chết và khuất
sau dãy đồi.
Bộ phận chủ yếu của đám tàn quân kéo về
Êkatêrinôxlav. Từ bán đảo Taman, tập đoàn quân miền tây của Hồng quân, mệnh
danh là quân đoàn Taman, do Kojukh chỉ huy, cũng bắt đầu rút về đấy. Trên đường
vòng rút quân của nó, các làng cô-dắc lần lượt nổi dậy, và hàng nghìn dân tứ xứ
chở đồ đạc và lùa gia súc chạy theo quân đoàn Taman để tránh sự trả thù của dân
cô-dắc. Trên đường rút lui, quân Taman bị đạo kỵ binh của tướng Pokrôvxki chặn
đánh. Trong một trận chiến đấu điên cuồng, họ đã đánh tan được kỵ binh trắng,
đuổi nó chạy tán loạn, nhưng dù sao cũng không còn có thể tiếp tục rút về đến
Êkatêrinôxlav nữa. Kojukh đành cho quân đội và đoàn xe của dân lánh nạn rẽ ngoặt
về phía nam, đi vào những dãy núi vắng lặng và hiểm trở, hy vọng sẽ len lỏi được
đến Nôvôrôxxixk, nơi đóng quân của hạm đội cộng sản Hắc hải.
* * *
Đênikin bây giờ không còn có gì ngăn chặn nổi
nữa. Mở đường một cách dễ dàng, ông ta đem toàn quân tiến về Êkatêrinôđar đang
do những đám tàn quân của quân đoàn Bắc Kavkaz đã bị tiêu diệt chiếm đóng, rồi
sẵn đà chiếm luôn thành phố sau một trận xung kích ác liệt. Đến đây đã kết thúc
cuộc “hành quân băng giá” do Kornilôv với một dúm sĩ quan khởi đầu cách đây sáu
tháng.
Êkatêrinôđar trở thành thủ đô trắng. Các
vùng đất trù phú ở ven Hắc hải vội vàng quét sạch hết những phần tử phiến loạn.
Các tướng lĩnh, mới cách đây không lâu còn thân chinh ngồi bắt rận trong áo
sơ-mi, bây giờ đã hồi phục lại những truyền thống đại cường quốc và cái quy mô
hùng vĩ của thời đế chế.
Cái lối tiến hành chiến tranh theo kiểu tiểu
thủ công trước kia, dựa vào việc kiếm chác vũ khí và đạn dược trong chiến trận
hay bằng cách cướp kho của bolsêvik dĩ nhiên là không thể đem ứng dụng được cho
những kế hoạch mới vốn có quy mô rất rộng. Cần phải có tiền, có những con đường
nhập vũ khí và đạn dược với số lượng lớn, thiết lập một bộ phận hậu cần cho một
cuộc chiến tranh đại quy mô, những căn cứ địa vững mạnh cho một cuộc tấn công
thọc sâu vào đất Nga.
Thời kỳ huynh đệ tương tàn trong một nhà đã
kết thúc, những lực lượng hùng hậu từ bên ngoài đã bắt đầu nhúng tay vào cuộc.
Một nguy cơ đặc biệt và bất ngờ hiện ra trước
mắt bộ tổng tham mưu Đức ngay sau những trận thắng đầu tiên trong đợt hành quân
tháng bảy của Đênikin. Phe bolsêvik đã bị hòa ước Bretx-Litôvxk trói chân trói
tay. Đênikin là một kẻ thù chưa được điều tra nghiên cứu. Tiêu diệt được quân
đoàn Xôrôkin, Đênikin đã mở được lối đi ra biển Azov và Nôvôrôxxixk, nơi tập
trung toàn thể hạm đội Nga kể từ những ngày đầu tháng năm.
Mặt Hắc hải quân Đức không có gì bảo vệ. Chừng
nào hạm đội còn nằm trong tay phe bolsêvik thì họ có thể yên tâm: hễ hạm đội có
một hành động thù địch nào là họ sẽ trả đũa ngay bằng cách vượt biên giới
Ukrain. Nhưng mười lăm khu trục hạm hải đoàn và hai tuần dương hạm hiện có mà lọt
vào tay Đênikin thì sẽ phát sinh một nguy cơ nghiêm trọng là Hắc hải có thể biến
thành một mặt trận của chiến tranh thế giới.
Ngày mồng mười tháng sáu nước Đức trao cho
chính phủ Xô viết một tối hậu thư đòi trong thời hạn chín ngày phải đưa tất cả
hạm đội Hắc hải từ Nôvôrôxxixk đến Xêvaxtôpôl nơi có một đội trấn thủ rất mạnh
của Đức đóng. Nếu khước từ, nước Đức dọa là sẽ tấn công vào Moxkva.
Cũng vào lúc ấy từ Ođexxa tham mưu trưởng của
quân đội chiếm đóng Áo viết thư về Viên cho tổng trưởng bộ ngoại giao như sau:
“Nước Đức theo đuổi ở Ukrain một mục đích
kinh tế - chính trị nhất định. Nó muốn vĩnh viễn bảo đảm cho mình một con đường
an toàn để đi sang Lưỡng Hà và A-rập qua Baku và Ba-tư.
Đường sang phương Đông đi qua Kiev,
Êkatêrinôxlav và Xêvaxtôpôl, nơi xuất phát con đường biển đi Batum và
Trapêzunđ.
Nhằm mục đích ấy, nước Đức có ý định giành
lấy miền Krym làm thuộc địa, hay chiếm đóng nó dưới một hình thức nào khác. Họ
sẽ không bao giờ buông bán đảo Krym quý giá ấy ra nữa. Ngoài ra, muốn được sử dụng
toàn quyền con đường này, họ cần phải nắm lấy mạch giao thông đường sắt, và vì
không thể đưa than từ Đức sang cung cấp cho con đường sắt này và vùng Hắc hải
được, cho nên nước Đức phải nắm lấy những mỏ than quan trọng nhất của vùng
Đonbaxx. Tất cả những điều đó, nước Đức sẽ thực hiện cho kỳ được bằng cách này
hay cách khác...”.
Ngày mồng mười tháng sáu, khi ở Moxkva nhận
được bức tối hậu thư của Đức, Lênin - cũng như trong mọi trường hợp khác, không
hề do dự - lập tức giải quyết cái vấn đề khó khăn này, mà nhiều người khác cho
là một vấn đề “không thể giải quyết được”. Cách giải quyết đó là: hiện nay chưa
thể đánh nhau với Đức được, nhưng cũng không thể trao hạm đội cho Đức.
Từ Moxkva, đại diện của chính phủ Xô-viết
là đồng chí Vakhramêyev đến Nôvôrôxxixk. Trước mặt các đại biểu của hạm đội Hắc
hải và tất cả các cấp chỉ huy, ông trình bày cách trả lời duy nhất của những
người bolsêvik đáp lại tối hậu thư: Hội đồng Ủy viên nhân dân gửi công văn vô
tuyến điện công khai cho Hạm đội Hắc hải, ra lệnh đi đến Xêvaxtôpôl nộp chiến hạm
cho Đức, nhưng hạm đội Hắc hải không thi hành lệnh đó và tự đánh đắm trên vịnh
Nôvôrôxxixk.
Hạm đội Xô-viết - hai chiếc tuần dương hạm
và mười lăm chiếc khu trục hạm, cùng với một số tàu ngầm và tàu phục vụ, bị hòa
ước Bretx-Litôvxk buộc phải bất động, lúc bấy giờ đều đậu ở trong vịnh
Nôvôrôxxixk.
Các đại biểu của hạm đội lên bờ nghe
Vakhramêyev nói, mặt người nào cũng cau có lầm lì: Vakhramêyev đề nghị hạm đội
tự sát. Nhưng chẳng còn cách gì khác: hạm đội không có than, cũng không có dầu.
Quân Đức án ngự Moxkva, từ phía đông Đênikin đang tiến đến gần, trên vịnh đã thấp
thoáng những đường bọt do kính tiềm vọng của tàu ngầm Đức rạch trên mặt nước,
trên trời thì lấp lánh những chiếc máy bay phóng pháo Đức. Các đại biểu thảo luận
rất lâu và rất sôi nổi... Nhưng lối thoát vẫn chỉ có một: tự đánh đắm... Tuy vậy
trước cái việc khủng khiếp này các đại biểu cũng quyết định đặt số phận của hạm
đội ra cho toàn thể thủy thủ biểu quyết.
Trong bến tàu Nôvôrôxxixk bắt đầu diễn ra
những cuộc mít tinh đông hàng mấy nghìn người. Nhìn những chiến hạm khổng lổ
màu thép xám bóng bỏ neo trong vịnh - hai chiếc tuần dương hạm kiểu dreadnought là chiếc “Vôlya” và chiếc “Xvobôđnaia
Rôxxya”, những chiếc khu trục hạm thần tốc lừng lẫy chiến công, nhìn những tòa
tháp chỉ huy và quan trắc bằng thép và những cột tín hiệu đan vào nhau thành những
đường ngang dọc phức tạp chồng chéo trên bến, vươn cao ngất trên đầu đám đông -
nhìn cái cảnh ấy các thủy thủ khó lòng có thể tưởng tượng được rằng cái tài sản
đầy mãnh lực dữ dội ấy của cách mạng, cả cái quê hương nổi này của thủy thủ lại
có thể chìm xuống đáy bể mà không bắn một phát súng nào, không hề kháng cự.
Thủy thủ Hắc hải không có lòng dạ nào lại
bình tĩnh đành tâm tự tiêu diệt đi như vậy. Họ đã gào lên bao nhiêu câu phản
kháng phẫn nộ, họ đã xé rách bao nhiêu tấm áo sọc trên những lồng ngực xăm chàm
của họ, đã đấm thùm thụp lên ngực họ biết bao nhiêu lần, họ đã uất ức giẫm nát
bao nhiêu chiếc mũ có dải lụa phất phới ở phía sau của họ trong những ngày đau
khổ ấy...
Từ mờ sáng cho đến sẩm tối, khi ánh mặt trời
lặn nhuộm một màu đỏ rực lên làn nước tím thẫm của cái biển Đen đáng nguyền rủa
bây giờ chẳng còn là của họ nữa, từng đám đông dày đặc gồm những thủy thủ, những
lính cựu lục quân và những thợ bến tàu nhốn nháo lên suốt dọc bờ xây của hải cảng.
Các hạm trưởng và sĩ quan mỗi người nhìn nhận
sự việc một cách: phần đông thì trong thâm tâm có xu hướng muốn đi đến Xêvaxtôpôl
nộp tàu cho quân Đức; phần thiểu số, do hạm trưởng khu trục hạm “Kerst” là thượng
úy Kukel đứng đầu, hiểu được cái thế không sao tránh khỏi việc tự hủy diệt và
cái ý nghĩ lón lao của hành động này đối với tương lai. Họ nói:
“Chúng ta phải tự sát - nghĩa là tạm thời gấp
cuốn lịch sử Hạm đội Hắc hải lại mà không để cho nó hoen ố...”
Trong những cuộc mít tinh hùng vĩ và rầm rộ
như bão táp này, sáng người ta quyết định một đằng, chiều lại quyết định một nẻo.
Được hoan nghênh nhất là những người ném mũ xuống đất quát lớn:
“... Các đồng chí! Chúng ta mặc xác bọn
Moxkva. Chúng nó giỏi thì cứ tự vẫn. Chứ chúng ta nhất định không chịu nộp hạm
đội. Chúng ta sẽ chiến đấu với quân Đức đến phát đạn cuối cùng...”
“Urrra!...” - tiếng hoan hô vang rền khắp hải
cảng.
Thời hạn thi hành yêu sách của tối hậu thư
còn bốn này nữa thì hết. Tình hình hỗn loạn trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi
có hai nhân vật cao cấp từ Êkatêrinôđar cấp tốc phóng xe đến Nôvôrôxxixk: chủ tịch
Chấp ủy Cộng hòa Hắc hải Rubin và đại biểu quân đội Pêrêbinôx -một người cao lớn
phi thường, tướng mạo hung dữ, thắt lưng đeo bốn khẩu súng lục. Cả hai người -
Rubin thì đọc một bài diễn văn dài đòng, còn Pêrêbinôx thì cất cái giọng trầm
vang lên như sấm, tay vung súng lục - chứng minh rằng nộp hạm đội hay đánh đắm
nó đi đều không thể được, rằng ở Moxkva người ta cũng chẳng hiểu bản thân mình
nói gì, rằng nước cộng hòa Hắc hải sẽ cung cấp cho hạm đội tất cả những thứ cần
thiết: dầu hỏa, đạn đại bác, thực phẩm.
- Tình hình ở mặt trận hết sức lạc quan...
- Pêrêbinôx quát lớn. - Chỉ đến tuần sau ta sẽ dìm chết con chó Đênikin và bọn cađê của hắn xuống sông Kuban... Anh em
chớ đánh đắm tàu, chúng tôi hiện đang cần như thế... Phải làm sao cho quân đội ở
mặt trận cảm thấy ở sau lưng ta có một hạm đội hùng mạnh. Còn nếu anh em cứ
đánh đắm, thì tôi thay mặt cho toàn thể quân đội cách mạng Kuban - Hắc hải dứt
khoát tuyên bố rằng chúng tôi không thể dung thứ một hành động phản bội như vậy,
và chúng tôi vì tuyệt vọng sẽ quay mặt trận của chúng tôi vào Nôvôrôxxixk với bốn
vạn lưỡi lê, và chúng tôi sẽ xốc tất cả các anh em, không bỏ sót một mống nào,
trên lưỡi lê của chúng tôi...
Sau cuộc mít tinh này mọi sự đều rối tung
lên, tâm trạng hoang mang lên đến cực điểm. Các đội thủy thủ bắt đầu trốn khỏi
tàu, mỗi người đi một nẻo. Trong đám đông ngày càng thấy xuất hiện nhiều nhân vật
khả nghi, ban ngày thì hét to hơn ai hết: “chiến đấu với quân Đức đến quả đạn
cuối cùng” còn ban đêm thì tụ tập từng tốp lần mò đến các khu trục hạm gần như
bỏ không, sẵn sàng xông lên ném các thủy thủ xuống biển và cướp phá tàu.
Vào những ngày ấy Xêmiôn Kraxilnikvô trở về
khu trục hạm “Kerst”.
Xêmiôn đang lau cột chân la bàn bằng đồng.
Cả đội thủy thủ trên tàu làm việc từ sáng, lau rửa kỳ cọ chiếc khu trục hạm
đang đậu sát bến khoảng hai mươi thước. Mặt trời nóng mọc lên trên những quả đồi
xém nắng ở ven vịnh... Những lá hạm kỳ rũ im lìm trong không khí oi nồng không
một hơi gió thoảng. Xêmiôn ra sức kỳ cọ cái cột đồng, cố tránh nhìn vào bến. Đội
thủy thủ đang lau chùi chiến hạm của họ lần cuối trước khi nó đón lấy cái chết.
Trong cảng, những ống khói khổng lồ của tuần
dương hạm “Vôlya” đang nhả khói. Những hàng đại bác đã tháo bạt ánh lên sáng
loáng. Những cột khói đen bốc cao lên trời. Chiếc chiến hạm, những làn khói, những
ngọn đồi với những nhà máy xi-măng ở dưới chân, đều được phản chiếu trên mặt vịnh
phẳng lì như gương.
Xêmiôn đi chân không ngồi xổm trên sàn tàu,
ra sức kỳ cọ lại cái cột đồng. Đêm qua anh phải phiên gác, lòng anh cay đắng
nghĩ rằng mình đến đây thật uổng công. Chỉ tại anh không nghe lời Alekxêy và
Matriôna... Bây giờ họ sẽ tha hồ cười anh: “Chà, đánh Đức khỏe nhỉ: các cậu đem
hạm đội bán lấy tiền uống rượu hết rồi còn gì...”. Biết trả lời thế nào đây? Trả
lời là mình đã tự tay lau chùi kỳ cọ cho sạch sẽ và đã đánh đắm chiến hạm “Kerts”
rồi chăng?
Từ tuần dương hạm “Vôlya” một chiếc xuồng
máy phóng về phía các tàu khác, khua cờ đánh tín hiệu. Khu trục hạm “Đerzki” rời
bến, kéo theo chiếc “Bexpokôiny” và thong thả đưa nó ra vịnh. Theo sau nó là
các khu trục hạm hải đoàn “Pôxpesny” “Jivôi”, “Jarki”, “Grômki”, đi còn chậm
hơn nữa, lừ lừ như đau ốm, lần luợt trườn trên mặt nước phẳng như gương.
Sau đó có một thời gian ngừng di chuyển.
Trong bến còn tám chiếc khu trục hạm. Trên các chiến hạm này không thấy động
tĩnh gì. Bây giờ bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn hết vào cái khối thép khổng lồ của
tuần dương hạm “Vôlya” màu ghi sáng, hai bên mạn tàu có những đường nước chảy gỉ
sắt. Các thủy thủ bỏ bàn chải, bơm nước, khăn lau xuống, nhìn chiếc tuần dương
hạm. Trên chiến hạm “Vôlya”, lá quân kỳ của tư lệnh hạm đội, thượng tá hải quân
Tikhmênev, uể oải bay.
Trên chiếc “Kerts” các thủy thủ khe khẽ bảo
nhau, giọng lo lắng:
- Để xem... Chiếc “Vôlya” đi về Xêvaxtôpôl
mất...
- Anh em ơi, chả nhẽ họ tồi tệ đến thế?...
Chả nhẽ họ không có chút lương tâm cách mạng nào sao?...
- Ấy, nếu chiếc “Vôlya” bỏ đi thì còn biết
tin ai nữa hở các cậu?
- Cậu không biết Tikhmênev là người thế nào
sao? Đúng là một kẻ địch, một con cáo già phản phúc.
- E nó đi mất! Chà, đồ phản bội!...
Phía sau chiếc “Vôlya”, tuần dương hạm “Xvobôđnaia
Rôxxya” - em ruột của chiếc “Vôlya” đang bỏ neo đứng yên. Nhưng chiếc này thì
hình như đang ngủ say, - phủ đầy vải bạt, trên boong chẳng thấy một bóng người
nào. Từ dãy kè có mấy chiếc thuyền nhỏ chèo thục mạng về phía nó. Thế rồi trên
bến tàu lặng gió nổi lên những tiếng còi rõ mồn một của thủy thủ trưởng trên
chiếc “Vôlya”, những chiếc máy tời bắt đầu chuyển ầm ầm, những sợi dây xích buộc
neo ướt đẫm phủ đầy rong biển từ từ kéo lên. Mũi chiếc tàu bắt đầu quay vòng,
những đường nét rắc rối của các tháp quan trắc, cột tín hiệu, ống khói từ từ
chuyển đi trên nền các mái nhà trăng trắng trong thành phố.
- Đi rồi... Đi về với quân Đức... Chao ôi,
các cậu ơi... Đi nộp mình làm tù binh! Sao chúng mày nỡ làm như thế?...
Trên khu trục hạm “Kerts”, hạm trưởng bước
ra cầu chỉ huy, mặt rám nắng đen thui, có cái mũi to khô nẻ. Đôi mắt sâu hoắm của
ông theo dõi những chuyển động của chiếc “Vôlya”. Cúi người trên lan can cầu chỉ
huy, ông ra lệnh:
- Kéo cờ tín hiệu...
- Rõ, kéo cờ tín hiệu! - Thủy thủ trưởng nhắc
lại mệnh lệnh.
Các thủy thủ lập tức sôi nổi lên, lao vào
cái thùng đựng cờ tín hiệu. Trên cột cờ tàu “Kerts” hiện lên một chuỗi cờ ngũ sắc
bay phần phật trên nền trời xanh. Chuỗi cờ ghép như vậy có nghĩa là:
“Gửi các chiến hạm đang đi về Xêvaxtôpôl:
nhục nhã thay những kẻ phản bội tổ quốc!...”
Trên chiếc “Vôlya” không thấy có tín hiệu
trả lời, cứ như thể họ không trông thấy tín hiệu của chiếc “Kerts”... chiếc “Vôlya”
mang nặng nỗi ô nhục, trên boong không có lấy một bóng người, trườn qua bên cạnh
các chiến hạm vẫn giữ lòng trung thành với danh dự... “Họ trông thấy tín hiệu rồi!”
- các thủy thủ bỗng kêu lên. Hai khẩu đại bác khổng lồ trên ổ súng phía sau của
chiếc “Vôlya” giương nòng lên, các súng từ từ quay về phía chiếc khu trục hạm...
Viên hạm trưởng đứng trên cầu chỉ huy của chiếc “Kerts”, hai tay nắm chặt lấy
vành lan can, nghếch cái mũi to khô nẻ về phía chiếc “Vôlya”, sẵn sàng đón cái
chết. Nhưng hai khẩu đại bác chỉ nhích lên nhích xuống một lát rồi nằm im.
Tuần dương hạm “Vôlya” tăng tốc độ đi vòng
qua đập chắn sóng và chẳng bao lâu cái bóng dáng kiêu hãnh của nó đã chìm sau
chân trời, để rồi mấy năm sau, bị tước hết khí giới, thân bị han gỉ đục khoét,
đến bỏ neo trên cảng Bizert xa xôi với nỗi ô nhục muôn đời.
Tư lệnh hạm đội Tikhmênev đã khăng khăng một
mực làm theo ý mình và đã thi hành đúng lời văn trong mệnh lệnh của Hội đồng Ủy
viên nhân dân: tuần dương hạm “Vôlya” và sáu khu trục hạm hải đoàn đã đến
Xêvaxtôpôl nộp mình cho quân Đức. Đội thủy thủ và các sĩ quan được trả tự do.
Thủy thủ giải tán mỗi người đi một nẻo họ về
quê, ai về nhà nấy làm ăn. Dĩ nhiên họ kể lại rằng họ không nỡ tự tay đánh đắm
tàu, và nhất là sợ bốn vạn lính hồng quân đã dọa sẽ dùng lưỡi lê xiên tất cả
các thủy thủ ở Nôvôrôxxixk.
Tuần dương hạm “Xvobôđnaia Rôxxya” và tám
khu trục hạm hải đoàn ở lại trong cảng Nôvôrôxxixk. Hôm sau là hết hạn thi hành
tối hậu thư. Trên thành phố, máy bay Đức lượn vòng rất cao. Trên vịnh, giữa đàn
cá heo đang nô giỡn, xuất hiện những ống kính tiềm vọng của tàu ngầm Đức. Ở
Temryuk, cách đấy không xa, có thể nghe thấy tiếng tàu Đức đổ quân lên bờ.
Trong khi đó, ở Nôvôrôxxixk những cuộc mít tinh náo nhiệt họp suốt ngày đêm
không giải tán một lúc nào, trong đó có những nhân vật mặc thường phục kêu gào
mỗi lúc một thêm hăng:
- Anh em thủy thủ, đừng tự hãm hại mình, đừng
đánh đắm hạm đội...
- Chỉ có bọn sĩ quan là muốn đánh đắm hạm đội,
tất cả bọn họ, không trừ một ai, đều bị đồng minh mua chuộc...
- Ở Xêvaxtôpôl hồi tháng chạp anh em đã ném
bọn sĩ quan xuống nước, thế còn bây giờ anh em lại sợ à? Sao không làm lại một
phen nữa?
Đến đây một cán bộ tuyên truyền nhảy lên thế
chân gã to mồm kia, xé toạc ngực áo sơ mi:
- Các đồng chí đừng nghe lời bọn khiêu
khích. Nếu trao hạm đội cho Đức, chúng sẽ dùng chính những khẩu pháo này bắn
vào các bạn... Quyết không nộp vũ khí cho bọn đế quốc chủ nghĩa... Hãy cứu vãn
cách mạng thế giới!...
Đấy, cứ thử lần cho ra xem: biết nghe ai
bây giờ? Kế theo người cán bộ tuyên truyền là một anh cựu binh ở Ekatêrinôđar,
người mang đầy vũ khí lỉnh kỉnh, vừa leo lên diễn đàn đã lại đưa bốn vạn lưỡi
lê ra dọa dẫm... Và đến đêm mười bảy rạng ngày mười tám tháng sáu có nhiều đội
thủy thủ không trở về hạm nữa - họ trốn đi, chạy đi, nấp biến đi, bỏ vào núi...
Suốt đêm hôm ấy khu trục hạm “Kerts” dùng
tín hiệu bằng ánh sáng nói chuyện với các tàu bạn. Chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” trả
lời là trên nguyên tắc nó sẵn sàng tự đánh đắm, nhưng đội thủy thủ hai nghìn
người nay chỉ còn không đầy một trăm, cho nên dù chỉ còn không đầy một trăm,
cho nên dù chỉ cho nổ máy để rời bến thôi cũng khó lòng làm nổi.
Khu trục hạm “Hađji-bêy” nháy đèn tín hiệu
nói rằng trên tàu vẫn đang họp mít tinh sôi nổi, trong thành phố có một đoàn
thiếu nữ mang rượu đến, chắc chắn là một phe nào đấy phái đến một cách có dụng
ý: đây có thể là một âm mưu cướp tàu phá tàu này. Trên khu trục hạm “Kalykirya”
chỉ còn lại có hạm trưởng và một người thợ máy tàu. Trên chiếc “Fiđonixi” còn lại
sáu người. Các khu trục hạm “Thuyền trưởng Baravnô”, “Xmetlivy”, “Xtrêmitelny”,
“Pronzitelny” cũng cho biết một tình hình tương tự. Chỉ có hai chiếc “Kerts” và
“Trung úy Sextakôv” là còn nguyên số thủy thủ.
Đến nửa đêm có một chiếc thuyền con chèo đến
gần chiếc “Kerts”, và một giọng xấc xược từ dưới thuyền gọi lên:
- Các đồng chí thủy thủ... Tôi là phóng
viên báo “Tin tức” của Chấp Ủy... Chúng tôi vừa nhận được một bức điện của đô đốc
Xablin từ Moxkva gửi về: đô đốc ra nghiêm lệnh tuyệt đối không được đánh đắm hạm
đội và không đi Xêvaxtôpôl, mà phải đợi những chỉ thị tiếp theo...
Thủy thủ chồm trên lan can tàu, lặng lẽ
nhìn xuống khoảng tối, nơi chiếc thuyền đang dập dình. Tiếng nói dưới thuyền tiếp
tục chứng minh và thuyết phục... Thượng úy Kukel ra cầu chỉ huy, ngắt lời người
đang nói:
- Đưa cho tôi xem bức điện của đô đốc
Xablin.
- Đáng tiếc là tôi để quên nó ở nhà rồi đồng
chí ạ, nhưng tôi có thể về lấy ngay...
Bấy giờ Kukel mới nói, kéo dài từng chữ ra
để nghe cho rõ:
- Chiếc xuồng ở mạn hữu lùi ra cách hạm nửa
cáp. Không được đến gần hơn.
- Xin lỗi đồng chí - giọng nói dưới thuyền
vọng lên, trâng tráo - nếu đồng chí không muốn nghe lệnh của trung ương, tôi sẽ
điện ngay lên...
- Nếu không lùi tôi sẽ bắn đắm thuyền. Ông thì
tôi sẽ vớt lên tàu. Về hành động của thủy thủ sau đó, tôi không chịu trách nhiệm.
Dưới thuyền không thấy nói gì nữa. Sau đó
có tiếng chèo vỗ khe khẽ. Bóng thuyền chìm dần vào đêm tối. Các thủy thủ cười
phá lên. Viên hạm trưởng gày gò chắp hai tay sau lưng, dáng gù gù đi đi lại lại
trên cầu chỉ huy như một con thú nhốt trong chuồng.
Đêm ấy không mấy ai chợp mắt. Thủy thủ nằm
trên boong tàu ướt đẫm sương đêm. Chốc chốc lại có người nhấc đầu lên nói một
đôi câu, thế là chẳng còn ngủ ngáy gì được nữa, cả đội bắt đầu nói chuyện khe
khẽ... Sao đã bắt đầu nhợt nhạt đi. Rạng đông đã hửng sau dãy đồi. Từ trên bờ,
thiếu úy Annenxki, hạm trưởng tàu “Trung úy Sextakôv” xuống báo rằng không những
thủy thủ các khu trục hạm, các tàu kéo của cảng và các xuồng máy đang bỏ trốn,
mà ngay trên các tàu buôn cũng không còn lấy một thủy thủ nào. Bây giờ chưa biết
lấy gì mà kéo các chiến hạm ra vịnh.
Hạm trưởng chiếc “Kerts” nói:
- Thiếu úy Annenxki, đây là trách nhiệm của
chúng ta, dù có phải trả giá thế nào, chúng ta cũng sẽ đánh đắm các chiến hạm.
Thiếu úy Annenxki gật đầu. Hai người im lặng
một lát. Rồi thiếu úy bỏ đi. Khi ánh bình minh đã sáng bừng trên vịnh, chiếc “Trung
úy Sextakôv” từ từ rời bến, kéo chiếc “thuyền trưởng Baranôv” theo sau, và bắt
đầu đưa bạn ra vịnh ngoài, nơi nó sẽ bị đánh đắm. Trên cột tín hiệu của hai chiếc
khu trục hạm đều bay phấp phới chuỗi cờ:
“Tôi chết chứ không đầu hàng”.
Chẳng bao lâu hai chiếc chiến hạm đã mất
hút trong làn sương sớm. Tất cả các hạm khác bây giờ đều vắng tanh. Mấy con hải
âu bay lượn trên cái khối thép khổng lồ của chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya”. Chiếc “Kerts”
nhả khói. Tuy trời mới vừa sáng, những đám dân đông nghịt đã chạy đi chạy lại trên
bờ xây, suốt cái đập chắn sóng đều đen nghịt những người, trông như bị ruồi bâu
kín. Bên các chiến hạm đám đông xô lấn, trèo lên vai nhau, rơi cả xuống nước.
Xêmiôn Kraxilnikvô đứng gác ở cầu tàu. Quá
năm giờ từ trong đám đông len ra một người thấp bé, mặt đỏ gay vì khích động, mặc
chiếc áo quân phục hải quân màu đen không đeo lon. Người ấy nện gót bước lên cầu
tàu. Khuôn mặt đỏ, với cái miệng nhăn nhúm, ướt đẫm mồ hôi.
- Thượng úy Kukel có ở đây không? - người ấy
cất tiếng ồm ồm hỏi Xêmiôn, đôi mắt màu thiên thanh vui vẻ giương tròn ra nhìn
người thủy thủ đang giơ lưỡi lê ra chặn đường mình. Người ấy vỗ vỗ nắn nắn lên
hai vai bên hông, rồi lên ngực, rút ra một tờ công lệnh đưa cho Xêmiôn. Tờ công
lệnh cho biết người ấy là đồng chí Sakhôv, đại diện của chính quyền Xô-viết
trung ương. Người thủy thủ hầm hầm chúc lưỡi lê xuống:
- Đồng chí Sakhôv, đồng chí có thể lên tàu.
Kukel ra đón Sakhôv và bắt đầu trình bày
cái tình hình gần như vô hy vọng hiện nay ở bến tàu. Ông nói rành mạch, thong
thả. Mắt Sakhôv cứ đảo tròn, vẻ sốt ruột:
- Chuyện vặt! Trong những công việc thuộc
loại này, nhiều khi còn gay hơn... Tôi đã nói chuyện với thủy thủ, tinh thần họ
rất tốt... Tôi sẽ kiếm tàu kéo ngay cho các anh, và tất cả những gì cần thiết...
Ta sẽ tổ chức một cuộc mít-tinh... sẽ ổn hết cho mà xem.
Ông ta bảo đưa xuồng máy, xuống xuồng đi
sang tàu “Xvobôđnaia Rôxxya”, rồi từ đấy đi hết tàu này sang tàu khác. Xêmiôn
trông thấy cái thân hình ngăn ngắn của ông ta lủng lẳng trên thang dây của mấy
chiếc tàu buôn; rồi ông ta nhảy lên bờ, len lỏi vào giữa đám đông, và từ đấy có
những tiếng reo hò, những cánh tay vung lên. Ở một nơi, hàng ngàn tiếng người
hô “ura” vang dậy.
Mấy chiếc thuyền chở đầy thủy thủ rời bến,
đi đến một chiếc tàu chạy hơi nước đã han rỉ đậu ở cuối cảng, và chỉ lát sau một
cột khói dày đặc bốc lên từ mấy cái ông khói của nó. Chiếc tàu nhổ neo đi về
phía tuần dương hạm “Xvobôđnaia Rôxxya”. Trên một chiếc tàu buồm kiểu schooner có cả máy hơi, hàng chục cánh
buồm giương lên, rung phần phật trước gió. Chiếc “Trung úy Sextakôv” quay trở lại
kéo một khu trục hạm nữa ra vịnh ngoài.
Quá chín giờ, một đám đông xúm xít bên cầu
tàu “Kerts”. Dân chúng dường như lại quay trở lại cái tâm trạng phẫn uất trước
đây. Mấy người ăn mặc rách rưới chen về phía tàu, mỗi người đều cầm xúc xích,
bánh mì, thịt mỡ ướp. Họ cười nhăn nhở, nháy mắt với các thủy thủ, tay chỉ chỉ
mấy chai rượu mạnh cắp dưới nách. Kukel liền ra lệnh kéo cầu lên và tháo dây buột
tàu. Chiếc “Kerts” ra giữa cảng, tránh xa những sự cám dỗ ma quái ấy, và bỏ neo
tại đấy để theo dõi việc kéo các khu trục hạm ra vịnh ngoài.
Chiếc tàu han rỉ chạy hơi nước, trông bé nhỏ
và mong manh như cái vỏ hạt dẻ, phun khói đen ngòm, thở ì ạch, lôi căng dây cáp
một hồi lâu chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” mới bắt đầu chuyển mình, và chiếc tuần
dương hạm khổng lồ uy nghi lướt chầm chậm trước mặt các đám đông. Nhiều người bỏ
mũ ra như trước một cỗ quan tài. Chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” đi qua các phao, qua
cổng bến, qua cảng và ra giữa vịnh. Người ta tưởng thế nào máy bay Đức cũng đến,
nhưng trời và biển đều yên tĩnh. Trong cảng chỉ còn lại khu trục hạm “Fiđônixi”.
Trong đám đông lại nhốn nháo lên, và cái
đám lố nhố như một đĩa trứng cá đen tràn về phía bến nơi chiếc “Fiđônixi” đậu.
Lúc bấy giờ chiếc schooner vừa chạy
buồm vừa chạy máy đang tiến lại gần để kéo nó đi. Trong đám đông bắt đầu có những
hòn đá ném vào chiếc schooner, và mấy
tiếng súng lục nổ đôm đốp. Một người tóc bạc leo lên cột đèn thét lớn:
- Quân phản quốc! Chúng nó bán đứt Nga rồi...
Chúng nó bán đứt quân đội rồi... Anh em!... Thế này mà cứ khoanh tay đứng nhìn
à?... Chúng nó bán rẻ hạm đội cuối cùng của ta...
Đám đông gầm lên, cúi xuống gỡ đá lát đường.
Mấy người nhảy lên boong tàu “Fiđônixi”. Chiếc “Kerts” liền tiến nhanh vào bờ,
chuông báo động chiến đấu vang lên lanh lảnh, các ổ đại bác quay hết về phía
đám đông, hạm trưởng quát vào loa phóng thanh:
- Lùi ngay! Tôi ra lệnh khai hỏa!
Đám người lùi lại, giạt ra, những người bị
giẫm kêu í ới. Bụi tung lên, và một lát sau trên bến chẳng còn bóng người nào.
Chiếc schooner móc cáp vào chiếc “Fiđônixi”
kéo ra vịnh.
Chiếc “Kerts” thong thả đi theo, cho đến
nơi tất cả các chiến hạm đang nằm im trên mặt nước gợn lăn tăn. Xêmiôn nhìn lên
mấy con hải âu đang bay rất cao ở phía lái, rồi nhìn sang viên hạm trưởng đang
vịn cả hai tay lên vành lan can cầu chỉ huy.
Lúc bấy giờ là ba giờ chiều. Chiếc “Kerts”
đi vòng qua mạn hữu chiếc “Fiđônixi”. Viên hạm trưởng chỉ hô một tiếng gọn lỏn:
Một quả ngư lôi đen ngòm phụt ra khỏi ống phóng, một dảy bọt chạy dài trên mặt
nước gợn lăn tăn, rồi phần chính giữa chiếc “Fiđônixi” nhô cao lên, toát ra làm
đôi, một cái núi nước và bọt xù xì từ dưới biển sâu phọt lên cao ngất, một tiếng
nổ nặng nề truyền đi rất xa trên mặt biển. Khi cái núi nước ấy đã xẹp xuống,
trên mặt nước không còn thấy chiếc “Fiđônixi” đâu nữa, chỉ thấy một dải bọt trắng
xóa. Cuộc tự đánh đắm của hạm đội Hắc hải đã bắt đầu.
Các đội thủy thủ mở các cửa ngầm dưới suờn
tàu và các cửa ngăn của các khu trục hạm, rồi mở tất cả các cửa sổ tròn bên mạn
tàu đang nghiêng xuống. Và trước khi leo xuống xuồng để rời khỏi chiếc tàu đang
chìm dần, họ châm ngòi thuốc súng dẫn đến quả mìn hai cân đặt ở tuyếc-bin và
xi-lanh dưới hầm máy.
Chẳng mấy chốc các khu trục hạm đã chìm nghỉm
xuống đáy vịnh sâu hàng trăm thước. Hai mươi phút sau vịnh đã vắng hẳn đi.
Chiếc “Kerts” mở hết tốc lực lao về phía
chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” và phóng ra mấy quả ngư lôi. Thủy thủ từ từ bỏ mũ xuống.
Quả ngư lôi thứ nhất trúng vào lái - chiếc tuần dương hạm lắc lư giữa đám sóng
cuộn lên dữ dội. Quả thứ hai trúng vào giữa mạn tàu. Qua đám bọt và khói có thể
thấy rõ cột tín hiệu đung đưa. Chiếc tuần dương hạm vật vã quằn quại như một
sinh vật, bóng dáng càng uy nghi và hùng vĩ hơn nữa trên mặt biển cuồn cuộn và
giữa những tiếng nổ sấm sét. Mặt các thủy thủ đều giàn dụa nước mắt. Xêmiôn đưa
hai bàn tay lên bưng lấy mặt.
Hạm trưởng Kukel như đã khô tóp lại trong
những phút ấy, chỉ còn có cái mũi vươn về phía chiếc chiến hạm đang hấp hối. Đến
quả ngư lôi cuối cùng, chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” từ từ lật úp lại... Nó cố gượng
một lần nữa, trông như nhổm người lên trên mặt nước, rồi chìm xuống rất nhanh
trong luồng nước xoáy sủi bọt.
Rời khỏi nơi tang tóc, chiếc “Kerts” mở hết
tốc lực phóng về phía Tuapxê. Tảng sáng, các thủy thủ được đưa xuống xuồng. Rồi
chiếc “Kerts” đánh đi một bức điện vô tuyến:
“Gửi tất cả... Tôi chết sau khi đánh đắm bộ
phận còn lại của hạm đội Hắc hải gồm những chiến hạm đã chọn cái chết, thà chìm
xuống đáy bể chứ không cam chịu nỗi ô nhục phải nộp mình cho quân Đức. Khu trục
hạm hải đoàn “Kerts”.
Chiếc tàu mở các cửa ngầm, cho mìn nổ dưới
hầm máy và chìm xuống đáy bể sâu sáu mươi thước.
Trên bờ, Xêmiôn Kraxilnikov bàn bạc với các
bạn xem bây giờ nên đi đâu. Họ nghĩ đi nghĩ lại một lát rồi rủ nhau đi về
Axtrakhan, về sông Vôlga: nghe nói ở đấy Sakhôv đang thành lập một hạm đội
giang thuyền để chiến đấu với bạch vệ.
* * *
Lần theo những con đường mòn trong núi và
băng qua những quãng chẳng có đường sá gì, bị bạch quân đuổi sát gót, bị các
làng cô-dắc nổi dậy vây quanh, quân đoàn Taman do Kôjukh chỉ huy rút thành một
đường vòng cố len lỏi đến vùng thượng lưu sông Kuban.
Đường rút lui của họ đi qua Nôvôrôxxixk đã
bị quân Đức chiếm đóng sau khi hạm đội tự đánh đắm. Những đơn vị của quân đoàn
Taman đột ngột tiến vào. Vừa diễu qua thành phố vừa hát. Đội trấn thủ Đức không
hiểu họ có ý định gì, liền chạy xuống tàu và từ đấy nã đại bác cỡ lớn vào đạo hậu
quân, nã luôn cả vào những đội cô-dắc say rượu đang lồng lộn lên như thú dữ đuổi
sát theo họ.
Để phòng xa, quân Đức rút ra khỏi
Nôvôrôxxixk. Khi Kôjukh đã kéo quân đi, thành phố bị quân Cô-dắc chiếm đóng, rồi
sau đó những đơn vị chính quy của bạch quân kéo vào và cướp phá sạch.
Họ treo cổ những thủy thủ, những binh sĩ hồng
quân và cả những người dân phố bình thường nữa lên các cột dây thép, không xét
xử gì hết. Trong những ngày ấy những người đánh xe ngựa tải đã chở ba nghìn xác
chết trút xuống biển, Nôvôrôxxixk trở thành một hải cảng trắng.
Dọc miền duyên hải nghèo đói, quân đoàn
Taman với đoàn xe cồng kềnh của mười lăm nghìn dân lánh nạn kéo đến Tuapxê và từ
đấy rẽ ngoặt về phía đông. Phía sau thì quân Đênikin đuổi, phía trước thì tất cả
các hẻm núi và các cao điểm đều bị quân khởi nghĩa chiếm đóng. Mỗi ngày đều
chuyển thành một trận đánh gian khổ. Luôn luôn phải đánh trả, máu chảy đến kiệt
sức, gần chết đói, quân đoàn bò vào các khe núi, leo lên những sườn đồi dốc đứng,
càng đi thương vong càng nhiều, cố lao lên mở lấy một đường thoát.
Một hôm người ta dẫn tới cho Kôjukh một tù
binh hồng quân được tướng Pokrôvxki thả ra để đưa về cho ông một bức thư viết với
giọng văn giản dị của nhà binh:
“Thằng khốn nạn, mày đã làm ô danh tất cả
các sĩ quan của quân đội và hải quân Nga khi mày cả gan gia nhập hàng ngũ bọn
bolsêvik, bọn trộm cướp và lưu manh; mày nên nhớ rằng mày và lũ côn đồ của mày
đã đến ngày tận số. Tao đã nắm chắc số phận mày trong tay, thằng khốn nạn ạ, và
không đời nào buông ra nữa. Nếu mày muốn hưởng khoan hồng, nghĩa là chỉ phải đền
tội bằng án đày khổ sai chung thân thôi, thì mày phải thi hành mệnh lệnh của
tao: ngay hôm nay phải hạ hết vũ khí và đưa cả lũ giặc cỏ của mày đến cách ga
Bêlôretsenxkaia bốn năm dặm về phía tây, không được một đứa nào mang vũ khí.
Sau khi đã thực hiện điều này, phải lập tức báo cho ta biết ở chòi bẻ ghi thứ
tư...”.
Kôjukh vừa đọc bức thư này vừa uống nước
chè trong một cái hộp sắt tây. Ông nhìn người lính hồng quân đi chân đất, áo
sơ-mi không có nịt, đang đứng buồn thiu trước mặt ông.
“Anh ngốc quá đấy anh bạn ạ, - Kôjukh nói,
- ai lại chuyển cho tôi những bức thư như thế này? Thôi về đơn vị đi...”.
Ngay đêm hôm ấy Kôjukh giáng vào quân
Pokrôvxki một vố khủng khiếp, đánh tan và dùng kỵ binh truy kích các đơn vị của
nó. Ông chọc một mũi vào Bêlôretsenxkaia và ra khỏi vòng vây. Đến cuối tháng
chín quân đoàn Taman xuất hiện ở gần Armavir đang bị quân Đênikin chiếm đóng,
dùng xung kích chiếm lấy thị trấn này và hợp được với tàn quân của Xôrôkin ở
Nêvinnômyxxkaia.
Xôrôkin, sau cuộc bại trận ở Vyxelki và
Êkatêrinôđar, đã mất hẳn uy tín trong quân đội. Sau khi đã say sưa nếm mùi men
của chiến công lừng lẫy rồi lại thể hiện nỗi uất ức đắng cay của chiến bại, Xôrôkin
ngày càng lùi xa mãi về phía đông, quay cuồng như một mảnh vỏ bào trên luồng nước
xoáy của cái mà mới cách đây ít lâu còn được gọi là những sư đoàn, những đại
đoàn, những trung đoàn. Bây giờ đó chỉ còn là những đám đông hễ nghe tiếng súng
của địch là bỏ chạy. Trong khi rút lui, họ quét sạch tất cả trên đường đi. Họ
chỉ mong có một điều: làm sao thoát cho nhanh khỏi cái chết đang treo lơ lửng
sau gáy họ, rồi nhắm mắt bước thẳng. Những đoàn lính đào ngũ dài vô tận đi thất
thểu trên những cánh thảo nguyên vùng Têrek, dọc theo con đường thiên lý của
các dân tộc cổ đại phủ đầy ngải trắng và mộ cổ.
Từ Êkatêrinôđar ra đi có khoảng hai mươi vạn
binh sĩ và dân lánh nạn. Những người ở lại đều bị quân cô-dắc chém chết, treo cổ,
tra tấn. Trong thôn cô-dắc nào cũng có những xác chết treo lủng lẳng trên những
cây phong hình chóp nhọn. Bây giờ người ta trả thù quân đỏ không thương tiếc vì
không còn sợ họ trở lại nữa. Khắp vùng, người ta tiêu hủy cả cái danh từ
bolsêvik.
Xôrôkin là một con người do cách mạng đẻ
ra. Bằng một bản năng dã thú, ông ta cảm biết được những sự thăng trầm của nó.
Bây giờ ông ta không đứng ra điều khiển cuộc rút lui nữa; có làm như thế cũng
vô ích. Một sức mạnh tự phát đang dồn đoàn người về phía đông: sức mạnh đó chỉ
ngừng thôi thúc khi sức ép của bạch quân đang truy kích giảm bớt đi.
Ông ta chỉ còn có cách hầm hầm nhìn ra cửa
sổ của toa tàu đang lăn bánh qua những cánh thảo nguyên cháy xém, qua những nấm
mồ chung đắp tùm lum lên như ngọn gò của người Pelajghi, người Celti, người
German, người Xlavi, người Khojar. Đoàn tàu của ông ta có một đội vệ binh riêng
bảo vệ, vì binh sĩ đi qua đều quát lớn:
- Anh em ơi, bọn chỉ huy đã bán rẻ chúng ta
uống rượu hết rồi, hãy giết chết chúng nó đi, chúng tôi đã giết mấy thằng chỉ
huy của chúng tôi rồi.
Tham mưu trưởng Bêlyakôv bước vào ngăn toa,
thở dài, rồi bắt đầu ướm thử những câu nói mù mờ gợi ý rằng hiện nay không thể
nào tiếp tục đấu tranh được nữa. “Cách mạng có những giai đoạn của nó, - ông ta
luôn luôn nhắc đi nhắc lại, tay xoa xoa lên cái trán rộng, - cao trào đã qua,
bây giờ các lực lượng tự phát đã nổi lên chống lại ta. Bây giờ ta đấu tranh
không phải chỉ với bọn sĩ quan, mà với toàn dân. Cần phải kịp thời cứu vãn những
thành quả của cách mạng... Dù có phải ký một hòa ước thỏa hiệp cũng phải ký...”.
Và ông đưa ra những dẫn chứng hết sức tiêu biểu trong lịch sử...
“Mày định giả tao bao nhiêu tiền để mua cái
thân tao đấy, thằng khốn nạn?” - Xôrôkin chỉ trả lời như vậy. Bây giờ mà
Đênikin lọt vào tay ông ta thì ông ta nuốt sống. Nhưng ông ta căm nhất là các đồng
chí của mình - cái ủy viên Chấp Ủy Kuban - Hắc hải lúc bấy giờ đã bỏ
Êkatêrinôđar chạy về Pyatigorxk. Họ chỉ lo “tìm ra những biện pháp đối phó với
những ý đồ độc tài của Xôrôkin...”. Họ không chịu thi hành những mệnh lệnh khẩn
cấp, việc gì cũng can thiệp vào, họ đem cái ông Mác của họ len lỏi vào tận tâm
hồn tổng tư lệnh.
Trong toa tiếp khách của Xôrôkin lại thấy
xuất hiện cô Zinka tóc hung, - ở đây người ta cảm thấy có bàn tay ân cần của
Bêlyakôv nhúng vào. Zinka vẫn tươi thắm và đầy sức quyến rũ như xưa, chỉ có giọng
cô hơi khàn đi; bao nhiêu váy lụa của cô và cả cây đàn ghi ta của cô nữa, đều bị
mất cắp trong cuộc hành quân. Cách cư xử của cô đối với tổng tư lệnh bây giờ có
phần tự thị hơn trước.
Đêm đêm, khi những bức rèm trên các cửa sổ
toa đã buông xuống và Xôrôkin đã rơi vào cái trạng thái cuồng loạn ảm đạm của
ma túy, Zinka tay dạo trên phím đàn balalaika, lại giở những luận điệu y hệt như
Bêlyakôv ra: cô ta nói lảm nhảm về sự cáo chung sắp tới của cách mạng, về cái vận
mệnh huy hoàng của Napôlêông, bậc vĩ nhân đã biết cách bắc cầu từ chế độ khủng
bố Jacôbanh sang nền đế chính. Mắt Xôrôkin bắt đầu bốc lửa, tim ông ta bóp mạnh,
dồn lên óc một luồng máu nóng rực pha rượu cồn đến một nửa... ông ta giật tấm
rèm đi và đưa mắt ra cửa sổ, nhìn vào bóng đêm chập chờn những hồi quang của
trí tưởng tượng đang lên cơn sốt của ông ta.
Sức ép của bạch quân đã giảm bớt. Hồng quân
sau một thời gian dài đã bám được vào tả ngạn sông Kuban về phía thượng lưu, cố
thủ trong các chiến hào. Lúc bấy giờ Đmitri Jlôba, sư đoàn trưởng Sư đoàn thép,
đưa một đoàn xe hơi vận tải từ Txaritxyn về qua các thảo nguyên Kirghizi. Ông
chở về hai mươi vạn viên đạn và chuyển đạt mệnh lệnh của Hội đồng Quân sự Cách
mạng gửi cho đạo quân ở Kavkaz: tiến quân về phía Bắc cứu viện cho Txaritxyn
đang bị quân đoàn cô-dắc trắng của thủ lĩnh Ukraxnôv vây hãm.
Xôrôkin dứt khoát khước từ việc thi hành mệnh
lệnh. Các trung đoàn Ukrain, đã chán ngấy cái cảnh phải chiến đấu trên đất người,
đã nổi loạn và tự ý rời mặt trận. Họ không thèm đếm xỉa đến những lời khuyên nhủ
và hăm dọa của Xôrôkin. Và chỉ có Jlôba, vốn quê ở Poltava, ngăn chặn được một
bộ phận của quân đội. Ông nói với binh sĩ một cách từ tốn phải chăng, theo lối
mu-gích, ông khen ngợi họ, khen ngợi mình. Lính Ukrain thấy rằng người đang nói
chuyện với họ là một batkô - một thủ
lĩnh đồng hương của họ, chứ không phải một cha căng chú kiết nào, cho nên đã
nghe lời Đmitri Jlôba. Ông đưa họ vào chiến trận, và ở Nêvinnômyxxkaia hồng
quân đã đánh tan được một đạo quân rất mạnh của sĩ quan. Việc này làm cho
Xôrôkin căm thù ông dữ đội.
Sau khi mừng công Jlôba, Xôrôkin cử ông làm
tư lệnh một bộ phận của mặt trận và ngay hôm ấy cũng bí mật ra lệnh tước hết vũ
khí các đơn vị của ông, và đem bắn ông cùng với toàn thể các cấp chỉ huy thuộc
quyền ông. Khi được biết mật lệnh này, Jlôba đưa cả Sư đoàn thép của ông, lúc bấy
giờ đã được bổ sung thêm nhiều đơn vị Ukrain, ra khỏi mặt trận, và kéo qua các
thảo nguyên đất mặn và các cồn cát lớn tiến về Txaritxyn, thi hành mệnh lệnh của
Hội đồng quân sự cách mạng của Đạo Hồng quân thứ mười. Xôrôkin liền tuyên bố đặt
ông ra ngoài vòng pháp luật, giao nhiệm vụ cho mỗi đội viên hồng quân phải bắn
chết ông và cấm không ai được cung cấp lương thảo cho Sư đoàn thép. Nhưng Jlôba
vẫn đi, và không một bàn tay nào dám sát hại ông. Dọc đường, mỗi khi cần lương
thảo, ông cưỡi ngựa vào làng, ngả mũ ra, và nước mắt rưng rưng, ông xin ủy ban
hành chính thôn cấp cho ông một ít cỏ khô, thóc tiểu mạch, lúa mì và phân trần
rằng không phải ông, Jlôba, là kẻ phản bội, mà chính tổng tư lệnh Xôrôkin mới
là một tên cướp bạch vệ và là kẻ phản trắc.
Chỉ ít lâu sau lòng tự ái của Xôrôkin lại
phải chịu một phen thử thách thứ hai nữa: từ sau dãy núi, Kôjukh mà người ta tưởng
là đã bị tiêu diệt, đột nhiên xuất hiện và chiếm Armavir như trở bàn tay, đánh
bạt bạch quân sang bên kia sông Kuban. Quân Taman miễn cưỡng thi hành những mệnh
lệnh của Xôrôkin, có khi không thèm thi hành nữa. Quân đoàn Taman, được tôi luyện
trong cuộc hành quân vô cùng gian khổ, đã làm thành một nòng cốt vững chắc cho
đoàn quân tơi tả của Xôrôkin. Bây giờ nó đã củng cố được vị trí trên suốt tuyến
đường Armavir - Nêvinnômyxxkaia - Xtavrôpôl.
Ấy là vào mùa thu. Trên tuyến này đang diễn
ra những trận huyết chiến kéo dài để giành giật Xtavrôpôl, một thành phố rất
trù phú. Ở chỗ nào quân Taman cũng chiến đấu ở hàng đầu.
Bên phía Đênikin cũng xuất hiện một lực lượng
mới - đội du kích trắng của Skurô, một kẻ giang hồ và đạo tặc, sống hết sức
phóng đãng và liều mạng đã chiêu nạp đủ các phần tử lưu manh lại thành một đội
bách cơ hung dữ như lang sói.
Đại bản doanh của Xôrôkin dời về
Pyatigorxk. Xôrôkin không xuất hiện trên mặt trận nữa: lúc bấy giờ đã có những
kỷ cương mới, chính quyền Moxkva đã trực tiếp chỉ đạo vùng Kavkaz, và mỗi ngày
quyền chỉ đạo ấy một thêm vững chắc. Để mở đầu, đảng ủy địa phương ra quyết nghị
thành lập một hội đồng quân sự cách mạng. Xôrôkin không dám lôi thôi với
Moxkva, đành phải phục tòng. Những người được bầu vào hội đồng toàn là những
người mới. Quyền của tổng tư lệnh được chuyển cho một tập thể phụ trách.
Xôrôkin hiểu rằng đây là một vấn đề sinh tử của mình, liền bắt tay vào đấu
tranh quyết liệt.
Trong những phiên họp của Hội đồng quân sự
cách mạng, ông ta ngồi im, vẻ mặt lầm lầm; mỗi khi phát biểu, ông ta bảo vệ từng
chữ một trong những ý kiến của mình. Và ông ta đã làm cho tất cả những ý kiến
đó được thông qua, vì ở Pyatigorxk tập trung những đơn vị trung thành với ông.
Người ta rất kiêng dè Xôrôkin và như vậy không phải là vô cớ. Ông ta vẫn tìm cơ
hội để biểu dương quyền lực, và cuối cùng đã tìm ra cơ hội đó. Martynôv, tư lệnh
lữ đoàn thứ hai của quân đoàn Taman, trong đại hội binh sĩ ở Armavir có tuyên bố
rằng ông khước từ việc thi hành những mệnh lệnh chiến đấu của tổng tư lệnh.
Xôrôkin liền đòi Hội đồng phải xử tử Martynôv. Ông ta dọa là nếu không xử tử Martynôv,
quân đội sẽ lâm vào tình trạng vô chính phủ hoàn toàn. Không có cách gì cứu được
Martynôv. Họ triệu Martynôv đến Pyatigorxk, bắt giam ông rồi đưa ra bắn trước mặt
hàng quân. Một cơn bão phẫn uất nổi lên trong các trung đoàn Taman, họ tuyên thệ
sẽ trả thù.
Một bộ tham mưu mới được thành lập bên cạnh
tổng tư lệnh. Bêlyakôv bị gạt hẳn ra ngoài, và Xôrôkin không bênh vực gì ông
ta. Viên tham mưu trưởng bàn giao công việc và tiền quỹ, rồi đến nhà người bạn
cũ để giãi bày lần cuối cùng. Xôrôkin đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại
trong phòng. Trên bàn có một cây đèn bằng sắt tây đang cháy leo lét, mấy đĩa thức
ăn chưa đụng đến, một chai vôđka mới uống được mấy ngụm. Ngoài cửa sổ, trong
ánh chiều tà hanh khô, ngọn núi Masuk phủ rừng sừng sững hiện lên thành một khối
đen sẫm...
Xôrôkin đưa mắt rất nhanh liếc nhìn người mới
vào, rồi lại tiếp tục đi đi lại lại. Bêlyakôv ngồi xuống cạnh bàn, đầu cúi gầm.
Xôrôkin đứng lại trước mặt ông ta, hất một bên vai:
- Uống tí vôđka nhé? Chén rượu tiễn biệt
mà. - Ông ta cười khàn khàn, nhanh nhẹn rót ra hai cốc, nhưng không uống mà lại
quay ra đi bách bộ như cũ. - Thời anh đã hết rồi anh bạn ạ... Và tôi khuyên anh
nên liệu bề đi khỏi nơi này... Tôi sẽ không bênh anh đâu... Ngày mai tôi sẽ chỉ
định một ủy ban để soát lại những hành tung của anh, anh hiểu chưa? Chắc là sẽ
xử bắn...
Bêlyakôv ngẩng đầu lên nhìn ông ta, một
gương mặt xám ngoét, hốc hác, đưa tay lên vuốt trán rồi buông thõng xuống.
- Một con người nhỏ bé, vô nghĩa... anh là
thế đấy, - Bêlyakôv nói. - Tôi hết lòng với anh chỉ uổng phí tâm sức. Anh là một
thằng hèn... Thế mà mình lại tấn phong hắn lên làm Napôlêông kia chứ... Loài chấy
rận...!
Xôrôkin cầm cốc lên, - răng ông ta chạm côm
cốp vào miệng cốc thủy tinh - rồi uống cạn. Đoạn lại đi bách bộ, hai tay đút
vào túi áo Tserkex. Một lát sau ông đứng phắt dậy:
- Sẽ không tiến hành việc soát lại nữa. Xéo
đi. Sở dĩ tao không bắn mày ngay bây giờ là vì còn nhớ đến công lao của mày.
Mày nhớ lấy, và phải biết đánh giá điều đó cho đúng, hiểu chưa?
Hai cánh mũi ông ta phập phồng hít không
khí, đôi môi tím bầm đi, toàn thân run cầm cập, cố trấn áp nỗi căm giận điên cuồng.
Bêlyakôv biết quá rõ tính khí của Xôrôkin.
Mắt không rời viên tổng tư lệnh, ông ta lùi dần ra khỏi cửa và nhanh nhẹn đóng
sập nó lại sau lưng, rồi cứ thế đi giật lùi qua sân. Ngay đêm ấy ông ta trốn khỏi
Pyatigorxk.
Hết giờ này sang giờ khác, cạn hết chén này
đến chén khác. Xôrôkin suy nghĩ suốt đêm. Người bạn cũ của ông ta, đã đầu độc
ông ta bằng một giọt khinh bỉ, nhưng giọt thuốc độc ấy thật khủng khiếp, làm
cho ông ta đau đớn không sao chịu nổi...
Ông ta đưa tay lên bưng mặt... Đúng,
Bêlyakôv nói đúng... Hồi tháng sáu quả ông ta đã có được một quy mô hùng vĩ như
Napôlêông, thế mà bây giờ cơ sự lại kết thúc bằng những buổi họp trong Hội đồng
quân sự, luôn luôn phải kiêng dè bọn phái viên Moxkva... Điều Bêlyakôv nói ra
chẳng phải là ý riêng của hắn... Trong quân đội, trong đảng chúng nó đều nói thế
tất. Và Đênikin nữa, ôi Đênikin! ông ta sực nhớ tới cái bài đăng trong tờ nhật
báo của bạch vệ ở Êkatêrinôđar, và giờ đây nó đâm sâu nọc vào suốt tim ông. Đó
là một bài phỏng vấn Đênikin: “Tôi cứ tưởng trước mặt mình là một con sư tử,
nhưng té ra đó chỉ là một con chó sợ sệt đội lốt sư tử... Vả chăng điều đó cũng
chẳng làm tôi ngạc nhiên. Xôrôkin trước kia và bây giờ cũng vẫn chỉ là một anh
sĩ quan cô-dắc tầm thường, dốt nát, một anh trưởng cơ quèn”. Ôi, Đênikin! Hãy đợi
đấy... Sẽ có ngày...: Mi sẽ hối hận.
Xôrôkin nắm chặt hai tay, nghiến răng ken
két. Lao ra mặt trận, lôi cuốn toàn quân, đánh tan quân chúng nó, xéo nát bọn
sĩ quan dưới vó ngựa, đốt sạch các làng cô-dắc, đột nhập vào Êkatêrinôđar... Ra
lệnh giải Đênikin đến - bắt hắn ngay trên giường ngủ, đang mặc quấn lót... “À,
Antôn Pavlôvits, có phải ngài đã ba hoa trên báo về cái chức trưởng cơ quèn đấy
không? Đây, anh trưởng cơ ấy đang đứng trước mặt ngài đây, quan lớn ạ... Bây giờ
thì thế nào nhỉ? Nên xẻo từng miếng thịt sau lưng ngài ra, hay chỉ nghìn rưỡi
phát que thông nòng là đủ?”
Xôrôkin rên lên mấy tiếng, cố xua đuổi cơn
mê sảng cứ ám ảnh ông ta... cõi thực thì quá tối tăm, bất định, nhục nhã, đầy
lo âu... Phải quyết định một cái gì. Người bạn cũ, viên tham mưu trưởng, hôm
nay đã giúp ông một việc cuối cùng... Xôrôkin ra cửa sổ. Một làn gió nhẹ đưa lại
mùi hương khô khan, hăng hắc của những cánh thảo nguyên mọc đầy ngải đắng. Một
dải sáng màu huyết dụ sâm sẫm nổi lên mờ mờ trên nền trời ảm đạm: đã sắp rạng
đông. Và cái khối sừng sững màu tím của ngọn Masuk lại hiện lên mờ mờ...
Xôrôkin cười nhạt: thôi thì cũng cảm ơn mày, Bêlyakôv ạ... Phải, phân vân do dự
mà làm gì... Và ngay đêm ấy Xôrôkin đã quyết định đánh “được ăn cả ngã về không”.
Sau một thời gian do dự rất lâu, Hội đồng
quân sự cách mạng của quân đoàn Kavkaz biểu quyết ra lệnh tấn công. Hậu cần được
chuyển đến Xvyatôi Krext, quân đội tập trung ở Nêvinnômyxxkaia, và theo kế hoạch,
sẽ xuất phát từ đấy tiến về Xtavrôpôl và Axtrakhan để hợp với Đạo Hồng quân thứ
mười đang chiến đấu ở Txaritxyn. Đó cũng chính là cái kế hoạch mà Jlôba đưa từ
Txaritxyn về.
Việc đánh chiếm Xtavrôpôl được giao cho
quân đoàn Taman. Toàn quân bắt đầu chuyển động: hậu cần xuất phát về phía đông
bắc, quân trực chiến xuất phát về phía tây bắc. Các chính trị viên và cán bộ
tuyên truyền hét khản cả giọng, cổ vũ tinh thần các đơn vị, tung ra những khẩu
hiệu bốc lửa. Các cấp chỉ huy đều ra mặt trận. Pvatigorxk vắng tanh. Ở lại đấy
chỉ còn chính phủ địa phương - Chấp ủy Cộng hòa Hắc hải, và Xôrôkin với bộ tham
mưu và đội vệ binh của ông ta. Trong lúc xuất quân khẩn trương không ai để ý thấy
rằng chính phủ thật ra đang nằm trong tay tổng tư lệnh.
Một buổi tối nọ, Xôrôkin cưỡi ngựa phóng nước
kiệu về nhà với một người cần vụ. Khi rẽ từ công viên thành phố lên con đường dốc,
ngựa ông ta vấp phải một người vạm vỡ, lưng hơi gù, mặc chiếc áo va-rơi da. Người
ấy lảo đảo đưa tay lên ôm bụng, nơi có đeo một khẩu súng lục lớn. Xôrôkin giận
dữ cau mày, và nhận ra Ghymza. Lẽ ra giờ này Ghymza phải ở ngoài mặt trận...
Ghymza bỏ tay xuống. Cái nhìn của đôi mắt sâu, lấp một nửa sau đôi lông mày,
trông rất kỳ dị... Cái nhìn của Bêlyakôv trong buổi nói chuyện cuối cùng vừa
qua cũng y như thế... Trên gương mặt đen bóng như thân ủng của Ghymza bỗng ánh
lên một hàng răng trắng. Xôrôkin lặng người đi: cả thằng này nữa cũng cười!...
Xôrôkin ép cựa ủng vào sườn ngựa mạnh đến nỗi
con vật thở đánh phì một tiếng, lồng lên và phi nước đại lên con đường dốc lát
đá, trên đó một đàn cừu đi ăn cỏ về đang vừa kéo đi vừa kêu be be, đuôi phe phẩy,
mùi lông xông lên nồng nặc. Đó là vào đêm rạng ngày mười ba tháng mười, Xôrôkin
gọi đội trưởng đội vệ binh đến. Người này vừa liếc ra cửa sổ vừa thì thầm báo
cáo rằng quả nhiên hôm nay Ghymza đã về Pyatigorxk đề nghị điều hai đại đội từ
mặt trận về bảo vệ Chấp ủy... “Một thằng ngu cũng thừa hiểu những biện pháp này
nhằm đối phó với ai, đồng chí Xôrôkin ạ!”
Khi những ngôi sao mùa thu đã lấp lánh với
những tia sáng lộng lẫy nhất của nó trên quả núi Masuk và thành Pyatigorxk tối
tăm đang yên giấc, đội vệ binh của Xôrôkin lặng lẽ lẻn vào nhà chủ tịch Chấp ủy
Rubin, vào nhà hai ủy viên Vlaxôv và Đunaievxki, vào nhà ủy viên Hội đồng quân
sự Krainy và vào nhà chủ tịch ủy ban mật vụ Rôjanxki, lôi họ ra khỏi giường và
dí lưỡi lê vào lưng đưa họ ra ngoại thành, bên kia đường sắt, và không nói lấy
một lời buộc tội nào, chúng bắn chết cả năm người.
Lúc bấy giờ Xôrôkin đứng trên trạm bằng ở đầu
tòa riêng đỗ trước ga Lermôntôvô. Ông ta nghe thấy năm phát súng nổ trong đêm
khuya tĩnh mịch. Một lát sau có tiếng người thở hổn hển và viên đội trưởng đội
vệ binh vừa liếm môi vừa bước tới.
- Thế nào? - Xôrôkin hỏi.
- Đã thanh toán xong, - viên đội trưởng
đáp, rồi nhắc lại tên những người bị giết.
Đoàn tàu chuyển bánh. Bây giờ tổng tư lệnh
như mọc cánh bay ra mặt trận. Nhưng tin về cái tội ác không tiền khoáng hậu của
ông ta còn bay nhanh hơn nữa. Mấy người cộng sản trong ủy ban địa phương, đã được
Ghymza cảnh cáo từ hôm qua, đã lên xe rời Pyatigorxk trước cả Xôrôkin. Ngày mười
ba tháng mười họ triệu tập ở Nêvinnômyxxkaia một cuộc họp của toàn thể mặt trận.
Và trong khi Xôrôkin xuất hiện trước các đơn vị của quân đoàn mình, lộng lẫy
như một vị vương bá phương đông, có hàng trăm vệ binh theo sau, có lính kèn thổi
hiệu lệnh báo động, có quân kỳ riêng của tổng tư lệnh phi ở phía trước, - thì
cuộc họp của toàn thể mặt trận ở Nêvinnômyxxkaia nhất trí đặt Xôrôkin ra ngoài
pháp luật, quyết định bắt ngay ông ta giải về Nêvinnômyxxkaia và đưa ra tòa xử.
Những binh sĩ của quân đoàn Taman đi tàu ra
mặt trận, khi gặp Xôrôkin, đã mở cửa toa đen quát chõ ra cho ông biết tin này.
Xôrôkin liền trở lại ga và cho gọi các cấp chỉ huy sư đoàn lại. Không một ai đến.
Ông ta ngồi ở nhà ga đợi đến tối, ra lệnh đóng ngựa và cùng với viên đội trưởng
vệ binh phi vào thảo nguyên.
Ở Hội đồng quân sự cách mạng, nay chỉ còn lại
ba người, đang lâm vào một tình trạng hoang mang đến cực độ: tổng tư lệnh đã mất
hút trên thảo nguyên, quân đội thì không còn nghĩ gì đến tấn công nữa, chỉ đòi
xét xử và hành hình Xôrôkin. Nhưng cái bộ máy gồm hai mươi vạn con người vẫn tiếp
tục khai triển, không còn gì có thể ngăn nó lại được nữa. Và đến ngày hai mươi
tháng mười đã bắt đầu cuộc tấn công của quân đoàn Taman vào Xtavrôpôl và đồng
thời là cuộc phản công của bạch quân. Ngày hai mươi tám, tất cả các chỉ huy sư
đoàn đều cho biết là đang thiếu đạn đại bác cũng như đạn súng trường, và nếu
ngày mai không chở đến kịp cho họ thì không thể nào mong thắng trận được. Hội đồng
quân sự cách mạng trả lời là không làm gì có đan đại bác và đạn súng trường, “hãy
đánh chiếm Xtavrôpôl bằng lưỡi lê trần...”. Đêm rạng ngày hai mươi chín, hai đạo
quân được chọn làm mũi nhọn xung kích. Dưới sự yểm hộ của pháo binh đang bắn nốt
những quả đạn cuối cùng, họ tiến về làng Tatarxkaia, cách Xtavrôpôl mười lăm dặm,
nơi bắt đầu chiến tuyến của bạch quân. Một vầng trăng lớn mọc trên thảo nguyên,
trông như làm bằng đồng - đó là hiệu lệnh xuất kích, vì trong quân đội chẳng
còn quả pháo hiệu nào nữa... Đại bác im bặt... Những đội xung kích Taman không
một phát súng xông tới các chiến hào tiền duyên của địch, nhảy xuống đánh lưỡi
lê. Bấy giờ kèn của đội nhạc binh và trống trận nổi lên, và những đám xung kích
dày đặc của hai đạo quân xông tới trong tiếng nhạc thay cho đạn và thủ pháo, vượt
lên trước các đội nhạc binh, ngã gục hàng trăm dưới làn đạn súng máy, thọc sâu
vào tuyến công sự chính của địch. Bạch quân rút lên mấy quả đồi, nhưng xung
kích cũng chiếm luôn cả các cao điểm ấy trong một đà xung phong không gì cưỡng
nổi. Quân địch chạy về phía thành phố. Những đội bách cơ cô-dắc đỏ rượt theo họ.
Sáng ngày ba mươi tháng mười quân đoàn Taman tiến vào Xtavrôpôl.
Ngày hôm sau trên phố chính người ta thấy tổng
tư lệnh Xôrôkin cưỡi ngựa đi cùng với viên đội trưởng đội vệ binh, vẻ rất bình
thản, chỉ có sắc mặt xanh xao và mắt nhìn xuống đất. Những người lính hồng quân
trông thấy ông thì há hốc mồm ra và lùi lại: “Quỷ từ thế giới bên kia hiện về
chắc?”.
Xôrôkin xuống ngựa trước trụ sở Xô viết,
trước cổng còn lủng lẳng tấm biển đã bị giật đứt một nửa đề “Đại bản doanh tướng
quân Skurô”. Đây là nơi tụ họp của các đại biểu và ủy viên Chấp ủy hãy còn sống
sót. Ông ta mạnh dạn bước lên thang gác, hỏi một quân nhân đang hối hả lùi lại
khi trông thấy ông ta: “Hội nghị toàn thể họp ở đâu?” - rồi xuất hiện trong
phòng họp, bên bàn chủ tịch đoàn, kiêu hãnh ngẩng cao mái đầu lên và nói với cử
tọa đang sửng sốt bối rối:
- Tôi là tổng tư lệnh. Quân của tôi đã đánh
dập đầu lũ giặc Đênikin và phục hồi chính quyền Xô viết trong thành phố và
trong tỉnh. Hội nghị quân sự họp một cách tự tiện ở Nêvinnômyxxkaia đã trắng trợn
tuyến bố đặt tôi ra ngoài pháp luật. Ai cho hội nghị ấy cái quyền làm như vậy?
Tôi yêu cầu phải thành lập một ban điều tra về những cái gọi là “tội ác” của
tôi. Trước khi có kết luận của ban điều tra tôi sẽ không từ bỏ quyền tổng chỉ
huy của tôi...
Nói xong, ông ta ra khỏi trụ sở để lên ngựa.
Nhưng xuống đến cầu thang bỗng có sáu người lính hồng quân của trung đoàn 3
quân đoàn Taman nhảy xổ vào vặn trái tay ông ta lại.
Xôrôkin lặng lẽ chống cự, vùng vẫy điên cuồng,
trung đoàn trưởng Vixlenkô vung roi ngựa quất vào đầu ông ta, quát: “Này, xử tử
Martynôv này, con rắn độc!...”
Xôrôkin bị tống ngục. Binh sĩ Taman náo động
lên, sợ Xôrôkin vượt ngục hay có cách gì thoát khỏi vụ án. Hôm sau, khi Xôrôkin
được đưa đi hỏi cung, ông ta thấy Ghymza ngồi ở bàn chủ tịch và hiểu rằng mình
đã tận số. Bấy giờ trong người ông ta lại dấy lên một lần nữa tất cả niềm khao khát
được sống. Ông đập bàn chửi vung lên.
- Chính tao cũng sẽ xét xử chúng mày như thế
này, quân ăn cướp! Phá kỷ luật, vô chính phủ, phản cách mạng ngấm ngầm! Tao sẽ
trừng trị chúng mày như đã trừng trị tên khốn kiếp Martynôv...
Ủy viên Vixlenkô ngồi bên cạnh Ghymza, mặt
tái nhợt ra như tờ giấy, thò tay rút từ sau lưng ra một khẩu browning cỡ lớn bắn hết cả một băng đạn.
Phần tiếp theo của kế hoạch - tiến từ
Xtavrôpôl đến sông Volga - không thể thực hiện được nữa. Đoàn kỵ binh lang sói
của Skurô đột nhập vào hậu phương và cắt đứt quân đoàn Taman ra khỏi căn cứ của
nó là Nêvinnômyxxkaia. Đênikin tập trung tất cả lực lượng bao vây Xtavrôpôl,
cho điều từ Kuban về các đạo quân của Kazanôvits, Đrojđôvxki, Pokrôvxki, đoàn kỵ
binh của Ulagai và sư đoàn kỵ binh Ukrain mới thành lập, người chỉ huy vốn là một
kỹ sư mỏ, bắt đầu tòng ngũ với chức hạ sĩ quan hồi chiến tranh thế giới, và bây
giờ là tướng Vrangel.
Quân đoàn Taman chiến đấu hai mươi tám
ngày. Hết trung đoàn này đến trung đoàn khác bị tiêu diệt trong vòng đai sắt của
quân địch được vũ trang rất đầy đủ. Mùa mưa bắt đầu. Quân đoàn không có áo
khoác, không có ủng, không có đạn. Chẳng biết trông mong cứu viện từ đâu đến nữa:
phần còn lại của Hồng quân Kavkaz, bị cắt ra khỏi Xtavrôpôl, đã rút về phía
đông.
Quân Taman lồng lộn trong vòng đai, những đợt
phản kích của họ rất khủng khiếp và đổ máu. Quân đoàn trưởng Kôjukh nằm liệt
giường vì bệnh sốt phát ban. Hầu hết các sĩ quan ưu tú đều tử trận hay bị
thương. Vào giữa tháng một, quân Taman mới chọc thủng được chiến tuyến. Quân
đoàn Taman anh dũng nay chỉ còn lại những đám tàn quân thiểu não, không có
giày, không có áo. Khi rời Xtavrôpôl, họ rút về phía đông-bắc, đi về
Blagôđatnôiê. Không có đơn vị Bạch quân nào truy kích họ: mùa mưa đã bắt đầu,
thời tiết mùa thu làm cho cuộc tấn công của bạch quân phải dừng lại.
12
Một năm về trước, vào tháng mười, các dân tộc
trên đất Nga đã đòi kết thúc chiến tranh. Hàng triệu tiếng rên la và gào thét:
đã đảo chiến tranh, đả đảo giai cấp tư sản kéo dài chiến tranh, đả đảo đẳng cấp
quân phiệt chỉ đạo chiến tranh, đả đảo giai cấp địa chủ nuôi dưỡng chiến tranh,
- đã hòa lại làm một trong phát đại bác quyết liệt từ tuần dương hạm “Rạng đông”
bắn vào Cung điện Mùa Đông.
Khi phát đại bác này xuyên thủng cái mái
nhà nặng trĩu oan cừu, được trang trí bằng những bức tượng chì và những dãy
bình đen, rồi nổ tung trong căn phòng ngủ của Sa hoàng với chiếc giường hãy còn
hơi ấm, nơi Kêrenxki rút ngắn bớt những đêm mất ngủ vì loạn thần kinh; có ai dè
đâu cái tiếng hô tưởng chừng như cuối cùng đó của cách mạng tuyên chiến với các
tòa lâu đài và đem hòa bình lại cho các nếp nhà tranh, lại vang đi vọng lại mãi
trên khắp đất nước rộng mênh mông, tiếng vọng ngày càng dữ dội thêm, nhiều thêm
lên, to lớn thêm lên mãi rồi bùng ra thành một trận bão điên cuồng.
Ai có dè đâu đất nước vừa mới buông vũ khí
xuống đã lại cầm vũ khí đứng lên trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp với giai cấp,
giữa dân nghèo với kẻ giàu... Ai có ngờ rằng cái dúm sĩ quan của Kornilôv lại
bành trướng ra thành đạo quân khổng lồ của Đênikin; rằng cuộc nổi loạn của các
đoàn tàu chở lính Tiệp lại làm cho chiến tranh bao trùm khắp miền Volga trên một
mặt trận dài hàng nghìn dặm, và chuyển sang Xibiri để bành trướng ra thành nền
dân chủ của Koltsak; rằng cuộc phong tỏa sẽ bọc xung quanh đất nước Xô viết như
một vòng tay sắt, và trên khắp thế giới, những tấm bản đồ địa lý và những quả địa
cầu mới xuất bản đều để lại một phần sáu diện tích của thế giới không tô màu,
coi như đó là một chỗ trống, một chỗ không tên, xung quanh vạch một đường viền
đậm nét.
Ai có dè đâu nước Đại Nga, bị cắt đứt liên
lạc với các đại dương, với các tỉnh có lúa mì, với than đá và dầu hỏa, đói
khát, bần cùng, lên cơn sốt phát ban, vẫn không chịu khuất phục: nghiến răng lại,
hết đợt này đến đợt khác nó lại gửi con cái của nó vào những trận ác chiến... Một
năm về trước, quần chúng trốn khỏi mặt trận, đất nước dường như đã trở thành một
đầm lầy vô chính phủ, không còn nguyên lý tồn tại, nhưng sự thật không phải như
thế: trong nước đã xuất hiện những sức đoàn kết mãnh liệt, và ở bên trên sự tồn
tại phôi thai đã bay bổng lên những ước mơ vĩ đại về công bằng. Xuất hiện những
con người phi thường trước kia chưa hề thấy, và khắp nơi bắt đầu truyền tụng những
hành vi của họ một cách ngạc nhiên và sợ hãi.
Ở bên trong, đất nước Xô viết rung chuyển
lên vì những cuộc nổi loạn. Cùng một lúc với cuộc phiến loạn ở Yaroxlavl (sau
đó lan tới Murôm, Arzamax, Roxtôv, Vêliki và Rybinxk) ở Moxkva lại bùng ra cuộc
phiến loạn của bọn “xã hội cách mạng cánh tả”. Ngày mồng sáu tháng bảy, hai người
trong nhóm này, cầm những tờ giấy có chữ ký giả mạo của Đzerjinxki, đã đến gặp
đại sứ Đức Mirbach và trong khi nói chuyện đã bắn vào ông ta và ném một quả
bom. Viên đại sứ đã bị viên đạn sau cùng bắn trúng gáy chết ngay trong khi ông
chạy ra khỏi phòng. Cũng tối hôm ấy trong khu Tsixtyê Pruđy và đại lộ Yauzxki
xuất hiện những đội thủy thủ võ trang và bộ binh hồng quân. Họ chặn những chiếc
xe hơi và những người qua đường lại lục soát, tước đoạt vũ khí và tiền bạc, rồi
giải đến tòa biệt thự của Morôzôv trong ngõ Triôkhxvyatitelxki - đại bản doanh
của tư lệnh quân phiến loạn. Ở đây người ta đã bắt giam Fêlikx Đzjerjinxki khi
ông thân hành đến biệt thự này để tìm cho ra kẻ đã giết Mirbach. Những cuộc bắt
bớ diễn ra suốt buổi tối và diễn kéo dài đến hai ba giờ sáng. Quân phiến loạn
chiếm nhà bưu điện. Nhưng họ chưa dám bắt tay vào những hành động quyết liệt để
đánh vào thành Kremlim. Họ có khoảng hai nghìn người, lập chiến tuyến từ khu
Yauza đến khu Tsixtyê Pruđy.
Phương tiện bảo vệ Kremlim đêm hôm ấy là điện
thoại và những bức thành cổ. Quân đội đóng doanh trại ở bãi Khođynxkôiê, một bộ
phận đã về nghỉ phép nhân dịp lễ thánh Ivan Kupala. Tình hình trong thành
Kremlim trở nên hết sức khẩn trương. Tuy vậy đến gần sáng hồng quân cũng huy động
được khoảng tám trăm chiến sĩ, ba đội pháo binh và một số xe bọc sắt: đến bảy
giờ sáng bộ đội mở cuộc tấn công và dùng đại bác bắn sập tòa biệt thự của
Morôzôv ở ngõ Trikhôxvyatitelxki. Trận chiến đấu khá ồn ào, nhưng chẳng có mấy
người thương vong - “quân đội” xã hội cách mạng cánh tả chạy qua các ngõ hẻm,
các sân sau và trốn đi đằng nào không rõ. Người chỉ huy họ là Popôv, một gã
thanh niên có đôi môi dày và đôi mắt điên dại, đã trốn ra khỏi Moxkva. Một năm
sau hắn xuất hiện trong hàng ngũ của Makhnô với tư cách trưởng ban phản gián và
nổi tiếng là tàn ác một cách tinh vi.
Cuộc phiến loạn đó đã bị đập tan ở Moxkva
và trên sông Volga. Nhưng nó vẫn âm ỷ khắp nơi: dân Nga liên tiếp nổi lên chống
quân bolsêvik, chống quân Đức, chống bạch vệ. Các làng mạc kéo nhau đi cướp phá
các thành thị. Các thành thị lật đổ chính quyền Xô viết. Bắt đầu một thời đại của
những nước cộng hòa độc lập, mọc lên và đổ xuống như những cây nấm sau cơn mưa,
có những nước cộng hòa có thể cưỡi ngựa đi từ sáng đến chiều là hết một vòng
biên giới.
Chính quyền Xô viết cố dùng mọi biện pháp đề
khắc phục tình trạng hỗn loạn. Và thời gian này nó lại bị giáng một đòn khủng
khiếp nữa: ngày ba mươi tháng tám, sau cuộc mít tinh ở nhà máy Mikhelxôn, sau
trạm kiểm soát Butyrxkaia, một nữ đảng viên “xã hội cách mạng cánh hữu” tên là
Kaplan (trong tổ chức của người có chiếc kim găm cavát hình sọ người) đã bắn
vào Lênin và làm cho ông bị thương nặng.
Ngày ba mươi mốt, trên các phố Moxkva người
ta thấy một tốp người mặc y phục toàn bằng da đen từ đầu đến chân xếp thành
hàng ngũ đi chính giữa phố, cầm một tấm biểu ngữ chỉ đề hai chữ “Khủng bố”...
Ngày đêm ở các nhà máy Moxkva và Pêtrôgrađ công nhân đều họp mít tinh đòi thi
hành những biện pháp quyết liệt nhất
Ngày mồng năm tháng chín, các báo cáo
Moxkva và Pêtrôgrađ ra với một dòng chữ ghê rợn sau đây:
KHỦNG
BỐ ĐỎ
“... Nay chỉ thị cho tất cả Xô viết phải tiến
hành bắt ngay bọn xã hội cách mạng cánh hữu, những phần tử thuộc giai cấp tư sản
lớn và thuộc giới sĩ quan, giữ họ lại làm con tin... Hễ có dấu hiệu tỏ ra có ý
định trốn tránh hay mưu đồ nổi loạn, phải lập tức đem bắn hàng loạt không xét xử...
Chúng ta cần đảm bảo tức thời và vĩnh viễn cho hậu phương chúng ta khỏi bị bọn
bạch vệ khốn kiếp quấy nhiễu... Không được chần chừ một phút nào trong việc thực
hiện chính sách khủng bố đỏ...”
Thời gian này trong các thành phố điện được
cung cấp rất dè xẻn, tối đến có từng khu phố liền không có ánh sáng. Và dân cư
các khu phố khá giả đều kinh hãi khi trông thấy những sợi dây trong các bóng
đèn điện đỏ lên mờ mờ... Những đội công nhân vũ trang thường ghé vào những nhà
có cái ánh sáng báo hiệu giờ chết ấy...
Năm mười tám sắp kết thúc trong trận cuồng
phong dữ dội đang hoành hành trên đất Nga. Nước mưa nặng trĩu trên những đám
mây thu ảm đạm. Mặt trận lan ra khắp nơi - ở vùng cực bắc xa xôi, ở vùng thượng
lưu sông Volga gần Kazan, ở vùng hạ lưu sông Volga gần Txaritxyn, ở vùng Bắc
Kavkaz, ở các biên giới của vùng bị quân Đức chiếm đóng. Các chiến hào kéo dài
hàng nghìn dặm liên tục. Mùa thu sang không gieo chút vui nào vào lòng các chiến
sĩ, và nhiều người nhìn lên những đám mây từ phương bắc trôi về mà nghĩ đến quê
hương, nơi gió đang thổi tung lớp rạ lợp trên mái nhà, sân thì mọc đầy ké dại,
khoai tây thì bỏ thối ở ngoài đồng. Trong khi đó chiến tranh vẫn chưa biết đến
bao giờ mới kết thúc. Trước mặt họ là những đêm trường tối như bưng, và trong
đêm tối họ mường tượng trông thấy ánh đèn nhựa thông từ đời xưa để lại leo lét
trong những căn nhà thân thuộc, nơi những cụ già và những đứa trẻ đang mỏi mắt
chờ con, chờ bố về mà mãi vẫn chẳng thấy, và nghe kể chuyện về những sự việc khủng
khiếp đến nỗi trẻ con nằm trên lò sưởi phải khóc thét lên.
Sau khi nước cộng hòa đã dẹp yên những cuộc
phiến loạn, để đối phó với cái tâm trạng buồn chán rã rời mà mùa thu đã gieo
vào lòng binh sĩ, Trung ương Đảng huy động ở Moxkva, ở Pêtrôgrađ, ở Ivanôvô -
Vôznexenxk những đảng viên cộng sản kiên định nhất và phái họ về quân đội. Những
chuyến xe lửa chở các đảng viên trung kiên tiến về các mặt trận, dọc đường luôn
luôn đối phó với những hành động phá hoại cố ý hay vô tình của các nhân viên đường
sắt. Chế độ khủng bố khắc nghiệt cũng thấm vào quân đội. Từ những đơn vị rã rời
tơi tả người ta un đúc thành những binh đoàn phục tòng ý chí thống nhất của hội
đồng quân sự. Lòng dũng cảm và chí kiên cường trở thành bổn phận tất yếu của mỗi
người. Sự đớn hèn đước xếp ngang hàng với sự phản bội. Thế rồi mặt trận đỏ chuyển
sang tấn công. Sau một trận đánh ngắn gọn, họ chiếm Kazan, rồi Xamara. Các đơn
vị bạch vệ hoảng hốt bỏ chạy trước cuộc khủng bố đỏ. Ở gần Taritxyn, nơi Xtalin
làm việc với tư cách ủy viên hội đồng quân sự cách mạng của đạo hồng quân thứ
mười, đã diễn ra một trận huyết chiến rất lớn với quân đoàn cô-dắc trắng của thủ
lĩnh Kraxnôv được bộ tổng tham mưu Đức trang bị và động viên...
Nhưng tất cả những sự kiện đó đều chỉ là đoạn
mở đầu của một cuộc đấu tranh vĩ đại, một cuộc biểu dương sức mạnh trước khi bước
vào những biến cố chủ yếu của năm mười chín.
Ivan Ilyts Têlêghin đã hoàn thành nhiệm vụ
của Ghymza giao. Trong những trận đánh ở Kazan chàng đã được giao nhiệm vụ chỉ
huy một trung đoàn và là một trong những chiến sĩ đầu tiên tiến vào Xamara.
Vào một ngày thu nồng nực, chàng cưỡi con
ngựa nhỏ lông dài đi bước một ở phía trước trung đoàn trên phố Đvoiyanxkaia.
Đoàn quân đi qua cái quảng trường có tượng Alekxanđr đệ nhị (người ta đã vội vã
lấy ván đóng kín nó lại). Và đây là ngôi nhà thứ hai kể từ góc phố... Ivan
Ilyts cúi đầu, - chàng biết mình sẽ trông thấy gì, nhưng tim chàng vẫn se lại,
bồi hồi xót xa. Ở nhà bác sĩ Bulavin tất cả các cửa sổ ở tầng hai đều đã vỡ
toang. Trên lưng ngựa chàng có thể nhìn thấy tất cả: đây là cánh cửa gỗ dẻ nơi
Đasa đã hiện ra như trong một giấc chiêm bao, đây là căn phòng làm việc, cái tủ
sách đã đổ xuống, bức chân dung Menđêlêyev lệch nghiêng về một bên, kính đã rạn
nứt...
Đasa bây giờ ở đâu? Nàng ra sao? Dĩ nhiên
chẳng có ai trả lời được.
Hết Tập II
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét