Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019

Con Đường Đau Khổ - Tập II (tiếp)

Con Đường Đau Khổ - Tập II

Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976

Tập II - Năm 1918 (tiếp)

Ba lần dìm xuống nước,
Tắm trong máu ba lần
Ba lần luộc trong kiềm,
Ta trong sạch hơn những gì trong sạch nhất.

7

Akaterina Đmitrieva ngồi trong căn phòng khách trần thấp bên chậu cây cảnh, tay nắm chặt chiếc khăn mùi-soa nhỏ đã ướt đẫm nước mắt. Nàng đang viết thư cho Đasa, em nàng.
Mưa hắt rào rào trên cánh cửa sổ lắp những tấm kính đầy bọt hơi. Ngoài sân, mấy cây xiêm gai đung đưa nghiêng ngả... Ngọn gió đang lùa những đám mây đen từ biển Azôv về thổi tung những tấm giấy hoa đã bong hết hồ bay phần phật trên vách.
Katya viết:

“Đasa ơi, Đasa ơi, nỗi tuyệt vọng của chị không còn biết đâu là bờ bến nữa. Vađim đã chết. Hôm qua ông chủ căn nhà chị đang ở, thượng tá Tyôtkin, đã cho chị biết tin đó. Chị không tin, chị hỏi: ai báo cho ông biết? Ông liền cho chị cái địa chỉ của Valêrian Ônôli, một người ở quân đoàn Kornilôv mới về. Đang đêm chị vội chạy đến khách sạn hắn ở. Chắc lúc ấy hắn đang say. Hắn lôi chị về buồng, rót rượu ra mời chị... Khủng khiếp quá...Em không thể tưởng tượng được những con người ở đây họ như thế nào... Chị hỏi: “Chồng tôi chết rồi ư?”. Em hiểu không, Ônôli là bạn đồng ngũ của anh ấy, cùng đi chiến đấu với anh ấy... Hai người gặp nhau hằng ngày... Hắn trả lời nhạo báng: “Phải, bị bắn chết rồi, cứ yên chí, cô bé ạ, chính mắt tôi trông thấy xác anh ta bâu đầy ruồi nhặng...”. Rồi hắn lại nói: “Ở chỗ chúng tôi Rôstsin đang bị nghi ngờ, chết trong chiến đấu như vậy là một cái may cho anh ấy...”. Hắn không nói rõ ngày, cũng không nói rõ địa điểm nơi Vađim đã bị bắn chết... Chị khóc lóc, van xin hắn... Hắn quát lên: “Tôi làm sao nhớ hết được những ai chết ở những đâu”. Rồi ngỏ lời xin thay thế Vađim... Chao ôi! Đasa! Sao lại có những con người như thế!... Chị phát điên phát cuồng lên chạy ra khỏi khách sạn... Chị không thể tin rằng Vađim không còn nữa... Nhưng không tin cũng không được: người ấy nói dối để làm gì? Cả ông thượng tá cũng cho là có lẽ hắn nói đúng... Suốt thời gian qua chị chỉ nhận được một lá thư của Vađim từ mặt trận gửi về - một bức thư rất ngắn và chẳng giống anh ấy chút nào... Ấy là sau tiết Phục sinh độ hai tuần. Đầu bức thư chẳng thấy gọi chị là gì cả. Anh ấy viết nguyên văn như thế này: “Anh gửi ít tiền cho em... Anh không thể gặp em được... Anh nhớ những lời em nói khi chia tay... Anh không biết liệu một con người có thể không còn là một kẻ sát nhân nữa không... Anh không hiểu vì đâu anh lại trở thành kẻ sát nhân... Anh cố gắng không nghĩ ngợi, nhưng có lẽ rồi cũng phải nghĩ ngợi và phải làm một cái gì. Bao giờ tình trạng này qua đi - nếu đến một nơi nào đó nó có thể qua đi được -lúc bấy giờ chúng ta sẽ gặp nhau...” Chỉ có thế. Đasa ạ, chị đã khóc hết không biết bao nhiêu là nước mắt. Anh ấy đã bỏ chị ra đi để tìm cái chết... Chị còn biết làm cách gì để giữ anh ấy lại, kéo anh ấy về, cứu anh ấy? Chị có thể làm được những gì? Lấy hết hơi sức mà ôm chặt anh ấy vào lòng. May ra cũng chỉ làm được như thế... Nhưng thời gian sau anh ấy có để ý gì đến chị đâu. Cách mạng đang choán hết tâm trí anh ấy. Ôi, chị không còn hiểu ra làm sao nữa. Liệu tất cả chúng ta có cần sống nữa không? Tất cả đã sụp đổ tan tành... Như những con chim trong cơn lốc, chúng mình cứ đi vất vưởng trên đất Nga... Để làm gì? Nếu bấy nhiêu máu phải đổ ra, bấy nhiêu đau khổ, đày đọa phải trải qua để trả lại cho chúng mình ngôi nhà, căn phòng ăn sạch sẽ, những người quen đến đánh bài... thì liệu chúng mình có hạnh phúc trở lại được không? Dĩ vãng đã chết rồi, nó đã vĩnh viễn chết đi rồi, Đasa ạ... Đời chúng ta thế là hết. Thôi, để rồi sẽ có những người khác đến. Những con người cường tráng hơn, tốt đẹp hơn...”.

Katya đặt bút xuống và đưa chiếc khăn mùi soa vò nát lên lau mặt. Rồi nàng nhìn những giọt mưa đang chảy ròng ròng trên bốn tấm kính cửa sổ. Ngoài sân cây xiêm gai uốn mình, nghiêng ngả như thể bị cơn gió giận dữ giật mạnh mái tóc. Katya lại cúi xuống viết tiếp:

“Vađim đã ra mặt trận. Mùa xuân đã đến. Cả cuộc sống của chị chung quy là để đợi anh ấy. Thật là đáng buồn, thật là vô bổ... Chị còn nhớ có một chiều chị nhìn ra cửa sổ. Cây xiêm gai đang trổ lá, chồi non đang nở tung ra. Một bầy chim sẻ bay nhảy rối rít ngoài sân... Chị thấy tủi quá, thấy mình bơ vơ quá... Mình là một người lạ, một kẻ lạc loài trên đất này... Chiến tranh đã qua, cách mạng rồi cũng sẽ qua. Nước Nga sẽ khác hẳn. Người ta đang đánh nhau, đang chết chóc, đang đau khổ. Trong khi đó cây xiêm gai vẫn trổ lá đâm chồi như mùa xuân năm ngoái, như bao nhiêu mùa xuân trước. Và cây xiêm gai này, đàn chim sẻ ấy - tất cả thiên nhiên - đều đã rời chị lùi vào một nơi nào xa tắp để sống cuộc sống riêng của nó, một cuộc sống mà chị không thể hiểu được... Đasa, bấy nhiêu nỗi thống khổ của chúng ta sẽ đưa đến cái gì? Chẳng lẽ lại chẳng để làm gì hết? Đàn bà chúng mình, như em và chị, chỉ biết có cái thế giới con con của mình mà thôi... Nhưng những việc đang diễn ra xung quanh, cả đất nước Nga này, thật là một lò lửa đang bốc cháy dữ dội vô cùng! Từ đấy chắc phải nẩy sinh một niềm hạnh phúc mới... Nếu những con người đang dấn thân vào đây không tin vào niềm hạnh phúc này, làm sao họ lại có thể căm thù nhau, tiêu diệt nhau như vật được? Chị đã mất hết... Chị đã trở thành vô nghĩa đối với bản thân chị... Nhưng rồi chị vẫn sống, bởi vì gối đầu lên đường xe lửa, buộc sợi thừng lên cái móc chị thấy xấu hổ lắm, không phải là sợ, mà là xấu hổ. Ngày mai chị sẽ lên đường đi khỏi Rôxtôv, để đừng có gì nhắc chị nhớ lại nữa... Chị sẽ đến Êkatêrinôxlav... ở đấy chị có mấy người quen. Họ khuyên chị nên vào làm ở một cửa hàng bánh kẹo. Có lẽ em cũng sẽ về miền Nam chăng... Nghe nói ở Piter gay go lắm phải không? Khác nhau là ở chỗ này: dù đến ngày tận thế người đàn bà cũng không bao giờ ruồng bỏ người yêu... Còn Vađim thì đã bỏ đi... Anh ấy đã từng yêu chị, khi anh ấy hãy còn tự tin... Em có nhớ hồi tháng sáu ở Pêterburg không? Rực rỡ biết chừng nào vầng thái dương đã rọi lên hạnh phúc của Vađim và chị!... Cho đến chết chị sẽ không bao giờ quên ánh nắng nhợt nhạt của phương bắc... Chị không còn giữ lại của Vađim lấy được một tấm ảnh nào, một vật nhỏ nào làm kỷ niệm... Cứ như thể tất cả chỉ là một giấc mơ... Chị không hiểu nổi Đasa ạ, chị không sao hiểu nổi là anh ấy đã chết... Có lẽ rồi chị đến phát điên mất... Đời chị trôi đi buồn bã và vô vị quá chừng...”.

Katya không viết được nữa... Chiếc khăn mùi soa nhỏ đã ướt sũng. Tuy vậy vẫn phải kể cho em biết những chuyện vặt vãnh hàng ngày mà người ta vẫn quý hơn cả trong những bức thư... Giữa tiếng mưa rơi rả rích, nàng viết thêm vài dòng, không đặt vào đấy một chút tâm tư, tình cảm nào... Về giá cả các thức ăn, về sinh hoạt đắt đỏ...

“Chẳng có lấy một thứ hàng gì, chỉ cũng không thấy bán... Một cái kim trị giá một ngàn rưỡi rúp hay là hai con lợn con... Cô hàng xóm cùng sân, một cô bé mười bảy tuổi, một đêm chạy về nhà trần truồng, mình mẩy thâm tím: cô bị lột hết ở ngoài đường. Bây giờ hiếm nhất là giầy...”

Nàng viết thêm là quân Đức tổ chức biểu diễn quân nhạc thường xuyên ở vườn hoa thị xã, ra lệnh cho dân quét các đường phố, còn bột mì, mỡ lợn, trứng thì họ chở từng đoàn xe lửa về Đức... Dân nghèo và thợ thuyền rất căm thù chúng, nhưng họ vẫn lặng thinh, vì chẳng còn biết trông mong ai cứu giúp cho được. Tất cả những chuyện ấy là do đại tá Tyôtkin kể lại cho nàng nghe.

“Ông ta rất đáng mến, nhưng hình như cũng phiền lòng vì phải nuôi thêm một miệng ăn... Vợ ông ta thì bây giờ không còn nể nang gì nữa, cứ nói toạc chuyện ấy ra”.

Katya lại viết thêm:

“Hôm kia chị vừa đúng hai mươi bảy tuổi, nhưng trông cứ như... Thôi nói làm gì... Bây giờ chuyện ấy còn có nghĩa lý gì nữa đâu... Nó chẳng cần cho ai hết...”.

Rồi nàng lại cầm khăn mùi soa lên.
Bức thư này Katya trao cho Tyôtkin. Ông ta hứa là hễ có dịp sẽ gửi đi Pêtrôgrad ngay. Nhưng Katya ra đi đã khá lâu mà nó vẫn còn nằm yên trong túi ông. Liên lạc với miền bắc rất khó. Bưu vụ không hoạt động. Thư từ đều do những người chuyên đi lại chuyển giúp. Đó là những kẻ hết sức liều lĩnh, và đòi tiền công rất đắt.
* * *
Trước khi lên đường, có được mấy thứ đồ dùng lặt vặt từ Xamara mang đi, Katya đều đem bán hết; chỉ còn lại một món tư trang nhỏ: một chiếc nhẫn mặt ngọc bích của gia đình tặng nàng nhân ngày sinh nhật. Đã lâu lắm rồi, vào một buổi sáng mùa xuân ở Pêterburg, hồi trước chiến tranh. Buổi sáng ấy đã lùi sâu vào dĩ vãng, trở thành một kỷ niệm xa xôi đến nỗi bây giờ không còn có gì gắn bó Katya với cái thành phố phủ sương mù mà nàng đã sống qua thời thơ ấu. Hôm ấy Đasa, Nikôlai Ivanôvits và Katya đi ra đại lộ Nevxki... Họ chọn mua chiếc nhẫn mặt ngọc bích này. Nàng đeo đốm lửa xanh biếc ấy lên ngón tay, và đó là vật duy nhất mà nàng đem theo từ cuộc sống cũ của nàng...
Từ nhà ga Rôxtôv có mấy chuyến xe lửa cùng xuất phát một lúc. Katya bị chen lấn một lát rồi bị đẩy lên một toa hạng ba. Nàng ngồi bên cửa sổ, đặt lên đùi cái khăn gói đựng mấy thứ áo quần đã mạng nhiều chỗ. Ngoài cửa sổ trôi qua những cánh đồng cỏ ngập nước, những bãi lầy ven sông Đôn, những đám khói bốc lên ở chân trời, những đường viền mờ mờ của làng Bataixk không chịu khuất phục trước quân Đức. Dưới bờ sông dốc thẳng có những làng chài ngập một nửa dưới nước, những túp lều vách đất, những mảnh vườn, những chiếc thuyền úp sấp lại, những đứa trẻ cầm lưới đánh cá. Rồi biển Azôv trải rộng ra trước mắt, phủ dưới một màn sương màu sữa, xa xa có mấy cánh buồm nghiêng nghiêng. Rồi đến những ống khói đã nguội lạnh của các công xưởng Taganrôg. Những cánh thảo nguyên. Những đống gò. Những khu mỏ bị bỏ hoang. Những làng mạc rộng lớn trên những sườn đồi đá vôi. Những con diều hâu lượn trên nền trời xanh ngát. Tiếng còi tàu cũng buồn man mác như những khoảng đồng không mông quạnh này. Những người mu-gích cau có đăm chiêu ở các sân ga. Những cái mũ sắt của lính Đức...
Katya nhìn ra cửa sổ, người khom rom như bà già. Chắc gương mặt nàng lúc bấy giờ buồn và đẹp lắm, đến nỗi một người lính Đức ngồi đối diện phải nhìn mãi hồi lâu người đàn bà Nga không quen biết này, khuôn mặt gầy gò và mệt mỏi của hắn ta sau đôi kính gọng kền dường như cũng dần dần đượm buồn theo.
- Những kẻ thủ phạm sẽ phải đền tội về tất cả những tai họa do họ gây ra, bà ạ, sẽ đến lúc, - người lính nói khẽ bằng tiếng Đức - Ở nước tôi cũng sẽ như thế, trên khắp thế giới đều sẽ như thế: sẽ có phiên tòa vĩ đại... Sozialismus: đó sẽ là tên quan tòa.
Lúc đầu Katya không biết là người ta đang nói với mình. Nàng ngước mắt lên nhìn đôi kính gọng kền to mặt, rất trong của hắn. Người Đức thân thiện gật gật đầu với nàng:
- Bà nói được tiếng Đức chứ ạ?
- Vâng.
- Khi con người đau khổ nhiều, thì nguồn an ủi của nó là nhận thức tính chất hợp quy luật của những nguyên nhân đã làm cho nó đau khổ, - người Đức vừa nói vừa thu gọn đôi chân lại dưới ghế và cúi đầu xuống, thành thử mặt hắn bây giờ nhìn Katya qua vành trên đôi kính. - Tôi đã nghiên cứu lịch sử nhân loại khá nhiều. Sau một thời gian yên tĩnh kéo dài, ta lại bước vào một thời kỳ đổ vỡ. Kết luận của tôi như thế này: chúng ta đang chứng kiến bước đầu đi đến diệt vong của một nền văn minh vĩ đại. Đã có một lần thế giới Ariên trải qua một hiện tượng tương tự. Đó là vào thế kỷ thứ tư, khi các man tộc phá hủy thành La-mã. Nhiều tác giả sẵn sàng nêu lên một thế song hành với thời đại ta. Không đúng đâu. Thành La-mã đã bị các tư tưởng cơ đốc giáo làm tan rã từ trước rồi. Các man tộc chỉ xâu xé cái xác của thành La-mã mà thôi. Nền văn minh hiện đại sẽ được chủ nghĩa xã hội tổ chức lại. Kia là phá hủy, còn đây là xây dựng. Những tư tưởng có sức phá hoại mạnh nhất của đạo cơ đốc là: sự bình đẳng giữa người và người, chủ nghĩa quốc tế và tính ưu việt tinh thần của sự nghèo khổ đối với sự giàu sang. Đó là tư tưởng của những man tộc đã nuôi sống con ký sinh trùng khổng lồ - thành La-mã ngập ngụa trong xa hoa trụy lạc. Chính vì thế mà người La-mã sợ những người cơ đốc giáo và truy nã họ một cách tàn ác như vậy. Nhưng trong đạo cơ đốc không có một tư tưởng có tác dụng xây dựng, nó không tổ chức được lao động. Trên thế gian nó chỉ biết làm công việc phá hoại, còn tất cả các thứ khác thì nó đều hứa hẹn là sẽ có trên thiên đường. Đạo cơ đốc chỉ là một thanh gươm phá hoại và trừng trị. Và ngay trên thiên đường, trong cuộc sống lý tưởng, nó cũng không hứa hẹn được một cái gì ngoài cái chế độ tôn ty giai cấp và quan liêu của đế quốc La-mã mà nó đem lộn trái đi. Những sai lầm cơ bản của đạo cơ đốc là như vậy. Đối lập lại với nó, La-mã đề ra tư tưởng trật tự. Nhưng lúc bấy giờ trạng thái vô trật tự nhất - cõi hỗn mang phổ quát chính là mơ ước thiết tha của các man tộc đang chờ đến giờ xung phong lên các thành quách La-mã. Giờ ấy đã đến. Những đô thành cũ chỉ còn là những đống hoang tàn bốc khói. Xác chết ngổn ngang trên các đường đi, cái thì đóng cọc, cái thì bị xe bò của người man di nghiền nát. Không có cách gì cứu vãn được, vì châu Âu, vùng Tiểu Á và châu Phi đều bốc lửa ngùn ngụt khắp nơi khắp chốn. Người La-mã như một đàn chim mất tổ, chạy tan tác trên đám cháy đã bao trùm cả thế giới. Họ bị người man di giết chết, bị thú rừng xé xác, họ chết trên các bãi sa mạc vì đói, vì nóng, vì lạnh. Tôi có đọc một đoạn tự sự của một người đương thời, kể lại rằng Proba, vợ của một quận trưởng La-mã, đang đêm đưa hai cô con gái lên thuyền trốn khỏi thành La-mã, vừa bị những toán rợ German của Alarich đột nhập vào. Trong khi thuyền trôi trên sông Tiber, mấy người đàn bà La mã ấy trông thấy ngọn lửa đang thiêu hủy Đô-thành Vĩnh cửu. Đó là cảnh tận thế...
Người lính Đức mở cái túi đựng đồ ra, thò tay vào tận đáy túi lấy ra một cuốn sổ tay dày cộp, bìa da đã sờn và lần giở các trang một lát, miệng mỉm cười dè dặt:
- Đây, - hắn vừa nói vừa chuyển sang ngồi bên cạnh Katya, - để bà có thể hình dung rõ hơn người La-mã trước khi diệt vong như thế nào, xin mời bà nghe một đoạn văn của Ammianux Marcellinux. Ông đã miêu tả những vị chúa tể của vũ trụ này như sau:
“Những tấm áo dài bằng vải điều và lụa bay phất phới trước gió, cho phép nhìn thấy ở bên trong một chiếc áo tu-ních sang trọng có thêu hình nhiều loài thú vật. Có một đoàn tùy tùng gồm năm mươi gia nhân theo hầu, những cỗ xe mui của họ phóng trên đường phố với một tốc độ phi thường, rung chuyển cả mặt đường và các nhà lân cận. Nếu trong bọn họ có ai vào các nhà tắm, thường ăn thông với các nhà hàng, nhà ăn và những nơi đi dạo, người ấy sẽ cất tiếng hách dịch đòi phải đưa những đồ dùng công cộng cho mình dùng riêng một mình. Khi rời nhà tắm, người ấy đeo vào tay những chiếc nhẫn và những chiếc vòng giát ngọc, khoác lên mình một tấm áo choàng đắt tiền mà chỗ hàng đã dùng để may nó có thể đủ để may áo cho mười hai người. Sau đó người ấy mặc những bộ y phục có thể làm thỏa mãn niềm tự ái của mình, không quên lấy một dáng bộ uy nghi mà ngay đến Marcellux vĩ đại, người đã chinh phục thành Xyracuza cũng không nên có. Vả chăng, chính Marcellux đôi khi cũng tiến hành những chuyến du hành táo bạo có một lũ tùy tùng đông đúc đi theo, gồm những người hầu, những đầu bếp, những kh ách hàng và những hoạn nô đã bị cắt mũi xẻo tai một cách đáng kinh tởm, đi về những trang viên của ông ta ở xứ Italya để giải sầu bằng cách đi săn chim và săn thỏ. Nếu tình cờ, nhất là vào một buổi trưa hè nồng nực, ông ta có đủ can đảm ngồi trên một chiếc thuyền thiếp vàng đi qua hồ Lucrin để đến ngôi biệt thự xây trên bờ biển, về sau ông ta sẽ so sánh chuyến đi này với những cuộc hành quân của Cêsar và Alekxanđr. Nếu chẳng may có một con ruồi lọt qua tấm rèm tơ trên khoang thuyền hay có một tia nắng xuyên qua các nếp màn, ông ta sẽ than trách số phận sao không cho mình ra đời ở những xứ sở Cymmeri, nơi trị vì của bóng tối vĩnh cửu. Những người khách được ưa chuộng nhất là những kẻ ăn bám và xu nịnh có tài vỗ tay tán thưởng mỗi lời mỗi tiếng của chủ nhân. Họ hân hoan kính phục ngắm nghía những dẫy cột cẩm thạch trong các phòng và những tấm nền có ghép hình trang trí. Trong bữa ăn, những con chim và những con cá có kích thước phi thường khiến cho mọi người trầm trồ kinh ngạc. Họ sai đem cân ra để biết chắc trọng lượng của những món ăn này, và trong khi những vị khách biết điều ngoảnh mặt đi không muốn nhìn cái cảnh này, thì bọn ăn bám lại lớn tiếng yêu cầu gọi một viên trước bạ đến để lập biên bản xác nhận những kỳ quan ấy”.
- Phải, sic transit...[sic transit gloria mundi - Hư vinh của trần thế trôi đi như vậy đấy (tiếng la tinh] - người lính Đức vừa nói vừa gập cuốn sổ tay lại. - Những con người ấy lang thang đi tìm cái ăn trên những con đường cái, trong những thành phố hoang tàn. Trong khi đó những đợt sóng man di vẫn từ phương đông tràn tới, đi đến đâu phá sạch đến đấy. Trong dăm mươi năm nữa, đế quốc Nga-la-tư sẽ không còn để lại một dấu vết nào. Thành La-mã vĩ đại cỏ đã mọc rậm rì, giữa những lâu đài tan hoang mấy con dê đứng gặm cỏ. Đêm tối trùm lên châu Âu trong gần bảy thế kỷ. Sở dĩ như vậy là vì đạo cơ đốc chỉ biết phá hoại chứ không biết đến những tư tưởng tổ chức lao động. Trong các kinh bổn của họ, không hề nói đến lao động. Những quy tắc luân lý của nó thích hợp với một con người không gieo, không gặt, vì đã được nô lệ gieo hộ, gặt hộ cho. Đạo cơ đốc đã trở thành tôn giáo của những bậc đế vương và những kẻ đi chinh phục. Lao động vẫn không được tổ chức và vẫn ở bên ngoài luân lý. Những man tộc mới sẽ phá tan thành La-mã thứ hai và sẽ đưa lại cho thế giới cái tôn giáo của lao động. Bà đã đọc Spengler chưa? Đó là một người La-mã từ đầu đến chân, ông ta chỉ nói đúng có một điều, là trên cái châu Âu của ông ta hoàng hôn đang xuống dần. Nhưng đối với chúng ta thì đây là buổi bình minh. Ông ta sẽ không lôi được giai cấp vô sản thế giới đi theo mình xuống mộ. Loài thiên nga cất tiếng kêu trước khi chết. Thế thì giai cấp tư sản đã làm cho Spengler cất tiếng kêu như con thiên nga... Đó là con chủ bài duy tâm cuối cùng của nó. Răng của đạo cơ đốc đã sâu hết rồi. Còn răng của ta lại là răng bằng thép... Đối lập với đạo cơ đốc, ta có cách tổ chức lao động xã hội chủ nghĩa... Người ta bắt chúng tôi đi đánh nhau với những người bolsêvik... Ô hô! Bà tưởng chúng tôi không hiểu rõ ai thúc ép cánh tay của chúng tôi và bắt chúng tôi đánh lại ai đây sao? Ồ, chúng tôi hiểu rõ hơn là người ta có thể tưởng nhiều. Trước kia chúng tôi khinh miệt người Nga. Bây giờ chúng tôi bắt đầu ngạc nhiên và khâm phục họ...
Rúc lên một hồi còi dài, đoàn tàu đi qua một thôn ổ sầm uất. Ngoài cửa sổ thấp thoáng những ngôi nhà vững chãi lợp mái tôn, những cây rơm cao, những khu vườn có hàng rào gỗ bao bọc, những tấm biển treo trên các cửa hiệu. Song song với đoàn tàu, trên con đường cái bụi bặm, một người mu-gích mặc áo sơ-mi bộ đội không thắt nịt, đội mũ lông cừu, đứng chạng chân trên một chiếc xe giàn nhỏ bốn bánh bịt sắt, quay quay đầu mũi dây cương. Con ngựa cao lớn, no nê chuyển sang nước đại, cố vượt đoàn tàu. Người mu-gích quay mặt về phía cửa sổ toa và nhoẻn miệng reo lên một câu gì không rõ, hai hàng răng trắng nhe ra.
- Đây là Gulai-Pôlê, - người lính Đức nói, - một thôn ổ rất trù phú.
Dọc đường phải chuyển tàu mấy lần. (Katya đã ngồi nhầm lên một đoàn tàu không phải là tàu suốt). Cảnh nhộn nhịp chen chúc, những lúc ngồi chờ ga, những bộ mặt mới lạ, những cánh thảo nguyên mênh mông mà trước kia nàng chưa hề thấy đang trôi chầm chậm ngoài cửa sổ toa, làm cho nàng khuây khỏa bớt những tâm tư phiền não. Người lính Đức đã xuống từ lâu. Lúc chia tay, hắn nắm chặt tay Katya lắc lắc rõ mạnh. Con người ấy tin chắc như đanh đóng cột vào tính quy luật của những biến cố đang diễn ra, và có vẻ như đã xác định được một cách chính xác phần tham gia của mình vào những biến cố ấy. Cái tinh thần lạc quan điềm tĩnh của hắn khiến cho Katya kinh ngạc và lo âu. Cái mà mọi người đều cho là sự diệt vong, là sự kinh hoàng, là cảnh hỗn mang, thì đối với con người ấy lại là sự khởi đầu đã mong đợi từ lâu của một kỷ nguyên vĩ đại.
Suốt năm qua Katya chỉ nghe toàn những tiếng nghiến răng bất lực và những tiếng thở dài tuyệt vọng đến cùng cực, chỉ trông thấy toàn những bộ mặt méo mó nhăn nhở, những quả đấm xiết chặt lại, như trong buổi sáng tháng ba hồi nào ở nhà cha nàng. Quả tình, thượng tá Tyôtkin không thở dài mà cũng chẳng nghiến răng, nhưng ông ta là người “phước lộc” [người “phước lộc” là hạng người hơi ngây dại mà tín ngưỡng dân gian coi là những người được Thượng đế chọn lựa cho cuộc sống diễm phúc trên thiên đường] như người ta vẫn nói, và chào mừng cách mạng vì một lòng tin “phước lộc” nào đấy vào sự công bằng.
Tất cả những người sống xung quanh Katya đều thấy cách mạng là sự diệt vong hoàn toàn của nước Nga và của nền văn hóa Nga, là sự sụp đổ của cả cuộc sống là cảnh tao loạn của toàn thế giới, là cảnh Apocalypxix [Apocalypxix (ngày tận thế) - là một thiên trong kinh Thánh, tả những cảnh hoang đường, quái đản] đã trở thành hiện thực. Trước kia là nền đế chế, bộ máy của nó hoạt động một cách phân minh, dễ hiểu. Mu-gích thì cày, thợ mỏ than thì đào than, các nhà máy chế tạo ra những mặt hàng rẻ và tốt, các thương gia mua bán sầm uất, các viên chức làm việc răm rắp như những chiếc bánh xe trong máy đồng hồ. Ở bên trên, có những người nhờ đó mà có được một sinh hoạt sung sướng xa hoa. Người ta cũng đã nói rằng một chế độ như vậy là một chế độ bất công. Nhưng biết làm thế nào được: thượng đế đã xếp đặt như vậy. Rồi đột nhiên mọi thứ đều bị tung hê lên, đổ vỡ tan tành và cả nền đế chế chỉ còn là một cái tổ kiến vỡ... Thế là người dân thị thành, bàng hoàng như kẻ hóa dại, thất thểu ra đi, đôi mắt trắng dã ra vì hãi hùng...
Đoàn tàu dừng lại rất lâu ở một ga xép vắng lặng. Katya chồm ra cửa sổ. Vòm lá của một cây cao rì rào trong bóng tối. Bầu trời đầy sao trông sâu thẳm lạ lùng trên dải đất xa lạ, bí ẩn này.
Katya tựa khuỷu tay lên khung cửa sổ. Tiếng lá rì rào, những vì sao, mùi đất ấm áp khiến nàng nhớ lại một đêm nào ở Pari, trong một công viên... Mấy người quen thân, đều là dân Pêterburg, đã rủ nhau đi hai chiếc xe hơi đến đấy... Dưới giàn nho ở bên hồ, nơi họ ngồi ăn tối, hẳn ai cũng phải thấy dễ chịu. Bên bờ hồ, những cây lệ liễu soi mình xuống nước, trông như những đám mây óng ánh bạc.
Trong số những người cùng ăn có một người Katya không quen, một người Đức kiều ở Nga. Người ấy mặc y phục dạ hội, không đội mũ. Dáng gầy, khuôn mặt dài dài, có cái vẻ đăm chiêu của một người dễ xúc động, vầng trán cao, hơi hói, đôi mắt nghiêm trang, hai mi nặng. Người ấy ngồi yên lặng, lấy ngón tay dài đặt lên đáy một chiếc cốc uống rượu vang úp lại. Khi Katya thấy có thiện cảm với một người nào, không khí xung quanh tự dưng trở nên ấm áp và êm ả. Đêm tháng sáu trên hồ như mơn man trên đôi vai để hở của nàng. Qua đám lá nho leo trên giàn thấp thoáng mấy vì sao. Mấy ngọn nến tỏa một ánh sáng ấm lên mặt các bạn bè, lên mấy con bướm đêm đậu trên khăn trải bàn, lên gương mặt trầm ngâm của người không quen biết. Katya cảm thấy người ấy trở nên tư lự mỗi khi nhìn nàng. Chắc tối hôm ấy nàng đẹp lắm.
Khi mọi người đã rời bàn ăn đi theo con đường trồng cây hai bên tối om như đi dưới những vòm cao của một dãy hành lang cổ kính, dẫn ra cái sân lãm thúy ở cuối công viên, để ngắm những ánh đèn lấp lánh trên đô thành Pari, người Đức đi bên cạnh Katya.
- Thưa bà, bà có thừa nhận rằng sắc đẹp là một cái gì không thể chấp nhận được... Không thể dung thứ được không? - người ấy nói, giọng nghiêm khắc, như muốn nêu rõ rằng mình không muốn cho những lời này có một ý nghĩa nước đôi. Katya đi chầm chậm. Người ấy đã bắt chuyện với Katya, và tiếng nói của người ấy không át mất tiếng rì rào của vòm cây tối sẫm: điều đó làm cho nàng thích thú. Đi bên tay trái Katya, người ấy nhìn thẳng trước mặt, về phía cuối lối đi, nơi hiện lên mờ mờ cái vầng ánh sáng màu hoa cà trùm trên thành phố. - Tôi là kỹ sư. Cha tôi rất giàu. Tôi làm việc trong những xí nghiệp lớn. Tôi phải giao thiệp với hàng chục vạn người. Tôi được thấy và biết nhiều điều mà bà không biết. Xin lỗi, tôi nói chuyện như thế này có làm cho bà thấy chán không?
Katya quay đầu về phía người ấy, im lặng mỉm cười. Trong ánh sáng mờ mờ từ những ánh đèn xa xa hắt lại, người ấy nhìn kỹ đôi mắt và nụ cười của nàng rồi nói tiếp:
- Chúng ta chẳng may sống vào buổi giao thời giữa hai thế kỷ. Thế kỷ trước đang tàn lụi dần, lộng lẫy tráng lệ. Thế kỷ sau đang ra đời giữa tiếng máy chạy ầm ầm và những dãy phố đơn điệu và khắc khổ bao quanh các công xưởng. Đại diện của thế kỷ này là quần chúng, là khối người vô danh, trong đó mọi sự khác nhau đều bị thủ tiêu. Con người chung quy là hai bàn tay thông minh, biết điều khiển máy móc. Ở đây có những quy luật khác, một cách tính thời gian khác, một chân lý khác. Thưa bà, bà là người cuối cùng của thế kỷ trước. Chính vì vậy mà tôi rất buồn khi nhìn gương mặt bà. Nó không cần thiết cho thế kỷ mới, cũng như tất cả những cái gì vô ích, duy nhất, có khả năng thức tỉnh những tình cảm đang tiêu vong: tình yêu, sự hy sinh, thi vị, những giọt nước mắt vui sướng... Đẹp!... Để làm gì? Đó là một cái gì đáng lo ngại, đó là một cái gì không thể chấp nhận được... Tôi xin cam đoan với bà rằng trong tương lai người ta sẽ ban hành những đạo luật cấm sắc đẹp... Bà có bao giờ nghe nói đến lối làm việc dây chuyền chưa? Đó là phát minh mới nhất của Mỹ. Cái triết lý của công việc bên băng dây chuyền cần phải được quần chúng thấm nhuần... Trộm cắp, giết người phải được coi là ít tội lỗi hơn một giây lơ đãng bên dây chuyền... Bây giờ bà thử tưởng tượng xem: khi sắc đẹp - một cái gì khiến lòng người xao xuyến - bước vào những xưởng máy đầy sắt thép ấy thì sẽ thế nào? Những thao tác sẽ rối loạn, những bắp thịt sẽ run rẩy, tay sẽ có những giây chậm trễ, thiếu chính xác... Những giây ấy sẽ được dây chuyền nhân lên thành những giờ, những giờ chuệch choạc ấy sẽ gây nên thảm họa... Nhà máy của tôi sẽ cho ra những sản phẩm thua kém nhà máy bên cạnh... Xí nghiệp sẽ phá sản... Đâu đó sẽ có một nhà băng vỡ nợ... Đâu đó nhà chứng khoán phản ứng với tình trạng tiền sụt giá bằng một hành động đột ngột... Một người nào đấy sẽ bắn một viên đạn vào tim... Và sở dĩ xẩy ra tất cả những thảm họa đó chẳng qua cũng vì trong một xưởng máy đã có một người đàn bà xinh đẹp một cách tội lỗi đã đi qua trong tiếng áo dài sột soạt.
Katya cười phá lên. Nàng không biết chút gì về phương pháp dây chuyền. Nàng chưa bao giờ vào trong một xưởng máy, chỉ trông thấy những cái ống khói đen thui làm hỏng cả phong cảnh... Quần chúng - đám đông - thì nàng rất thích khi họ dong chơi trên đại lộ, và nàng chẳng thấy họ có gì là ghê gớm cả. Trong những người quen của nàng ngồi ăn tối bên bờ hồ, có hai đảng viên xã hội dân chủ. Như vậy về phương diện lương tâm mọi sự cũng đều ổn thỏa cả. Những điều mà người đang đi cạnh nàng vừa nói trong khi bước chầm chậm trong bóng tối ấm áp của con đường rợp bóng cây, đầu ngửa cao lên, đều lý thú và mới mẻ, cũng như những bức tranh lập thể treo ở phòng khách Katya dạo nào... Nhưng tối hôm ấy nàng chẳng thiết gì triết lý...
- Chắc ông đã bị đàn bà đẹp làm khổ nhiều, cho nên ông mới thù ghét họ đến thế, - nàng nói rồi lại cười khe khẽ, tâm trí mãi nghĩ đến một cái gì khác... Cái gì khác ấy nó mơ hồ như buổi tối hôm nay phảng phất mùi hoa và mùi lá, lấp lánh những ánh sao lọt qua các ngọn cây - đó là bóng dáng huyền ảo của tình yêu đang đến gần trong một cảm giác ngất ngây êm dịu. Không phải tình yêu đối với con người cao lớn đang đi cạnh nàng, nhưng cũng có thể là đối với người ấy. Người ấy đã làm cho nàng thấy thèm yêu. Cái mà mới gần đây thôi còn có vẻ khó khăn và thậm chí vô hy vọng, bây giờ đã đến gần và đã tràn vào lòng nàng một cách dễ dàng...
Không biết trong những ngày ấy ở Pari còn có những gì nữa có thể đến với nàng... Nhưng đột nhiên tất cả đều đứt đoạn giữa chừng... Tiếng súng của chiến tranh thế giới đã nổ... Katya không còn gặp lại người Đức ấy nữa. Người ấy có biết chiến tranh sắp nổ ra không hay chỉ phỏng đoán? Trong câu chuyện tiếp theo bên dãy lan can bằng đá, trong khi đứng ngắm những ánh đèn của thành Pari rải rác khắp chân trời tối mịt, lấp lánh đổi màu như những hạt kim cương, người ấy đã mấy lần nói với nỗi lo âu đau đớn về một thảm họa nào sắp tới. Người ấy như luôn luôn bị ám ảnh vì một ý nghĩ không sao xua đuổi đi được: tất cả những điều vô ích sẽ phí hoài: vẻ đẹp huyền ảo của đêm hôm ấy, cũng như nhan sắc kiều diễm của Katya.
Nàng không nhớ nàng đã nói với ông ấy những gì chắc toàn những chuyện không đâu. Nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng. Người ấy đứng chống khuỷu tay lên lan can, má gần chạm vào vai Katya. Katya biết rằng pha lẫn vào hương đêm có mùi nước hoa của nàng, mùi da thịt nàng, mùi tóc nàng... Có lẽ lúc ấy - hay bây giờ nàng mới có cảm giác như thế thì không rõ - nếu người ấy đặt bàn tay to lên lưng nàng, nàng sẽ không tránh đi... Nhưng không hề xảy ra một cái gì như thế cả...
Gió thổi mạnh trên má nàng, trên tóc nàng. Những tia lửa đỏ từ đầu máy xe lửa bay vút qua. Đoàn tàu đi qua thảo nguyên. Katya rời cửa sổ ngồi lùi vào trong, mắt vẫn chưa trông thấy gì trong toa. Ngồi nép vào gốc ghế dài, nàng bóp chặt mấy ngón tay lạnh giá.
Bây giờ nàng thấy hối hận quá. Như thế là thế nào? Nàng được tin Vađim chết chưa được một tuần, mà đã làm một cái gì còn tệ hơn cả phụ tình, tệ hơn cả phản bội... Nàng đã mơ tưởng đến một người tình nhân không hề có... Người Đức ấy dĩ nhiên là đã chết trên chiến trường. Người ấy là sĩ quan dự bị. Người ấy chết rồi, chết rồi... Mọi người đều đã chết, mọi thứ đều đã tiêu vong, đều đã bị xé nát, đều đã bị xua tan, cũng như cái đêm hôm ấy trong công viên, trên sân lãm thúy, bên bờ sông - tất cả đều đã mất đi không bao giờ còn trở lại nữa.
Katya mím chặt môi để đừng rên lên. Nàng nhắm mắt. Một nỗi buồn nhức nhối đang vò xé lồng ngực nàng... Trong toa tàu bẩn thỉu leo lét ánh đèn nến run rinh, hành khách không đông lắm. Trên thành toa chập chờn những cái bóng đen hắt ra từ một cánh tay giơ lên, một bộ râu rối bù, một đôi chân đã cỡi giày buông lủng lẳng từ giường trên. Không một người nào ngủ, tuy đêm đã khuya. Họ nói chuyện khe khẽ.
- Khu vực này tệ nhất đây, thật đấy...
- Sao? Ở đây mà cũng không an toàn à?
- Xin lỗi, ông vừa nói thế nào ạ? Ở đây cũng có cướp ạ? Thế thì lạ thật đấy, sao quân Đức họ cứ để mặc? Họ có bổn phận bảo đảm an toàn cho hành khách chứ... Đã chiếm đóng thì phải giữ trật tự chứ!
- Quân Đức ấy à, nói vô phép, chúng nó nhổ toẹt vào... Cứ việc lo lấy, các bạn Nga thân mến ạ, các bạn gây ra, các bạn phải chịu lấy... Phải. Cái thói cướp bóc nó đã ăn sâu vào bản chất dân ta rồi... Dân nó chó má lắm...
Một giọng tự tin đáp:
- Cả nền văn học Nga đều phải sổ toẹt, đem đốt hết trước mặt thiên hạ... Hay ho lắm đấy! Nó chỉ làm hỏng dân ta. Có lẽ trên khắp đất Nga không có lấy một người lương thiện... Tôi còn nhớ hồi tôi ở Phần-lan, có lần để quên đôi giày bọc ngoài ở khách sạn... Thế là họ cho một người cưỡi ngựa cầm đôi giày đuổi theo tôi, giày thì rách rồi chứ có quý báu gì. Và họ cũng đã trừng trị cộng sản, nói chung là trừng trị người Nga, thật ra trò. Ở thành phố Abo, sau khi đã dập xong cuộc nổi loạn, người Phần-lan đã dùng lửa tra tấn tên chỉ huy Xích vệ ở địa phương. Đứng bên cửa sổ có thể nghe rõ tiếng kêu gào của tên bolsêvik này.
- Ôi, lạy Chúa, biết đến bao giờ ở ta mới có được chút trật tự gọi là?...
- Xin lỗi, tôi đã đến Kiev - Các nhà hàng bây giờ rất sang trọng, trong các tiệm cà-phê đều có nhạc... Các cô các bà công khai đeo kim cương. Cuộc sống thật tưng bừng. Các thương điếm mua vàng bạc rất đông khách... Sinh hoạt phố hè rất phồn vinh... Thật là một thành phố kỳ diệu...
- Nhưng một miếng vải may quần đã hết nửa năm lương rồi. Bọn đầu cơ bóp cổ chúng ta... Mà các vị có biết không: bọn chúng đều tốt béo, bảnh bao, đều mặc com-lê len Sêviôt... Chúng nó ngồi trong các hiệu cà-phê buôn giấy phép chở hàng... Buổi sáng thức dậy, đi mua bao diêm cũng không có: cả thành phố không còn một bao nào. Hay như kim khâu chẳng hạn. Tôi đã từng tặng vợ tôi hai cây kim và một cuộn chỉ để mừng ngày sinh nhật. Trước kia tôi phải tặng hoa tai kim cương kia. Giới trí thức đang chết dần chết mòn...
- Phải bắn hết bọn đầu cơ, không thương tiếc...
- Thôi đi, thưa ngài đồng chí, ở đây có phải là vùng cộng sản đâu...
- Thế ở Kiev có tin đồn gì không? Quan thống lĩnh vẫn đứng vững đấy chứ?
- Trong khi quân Đức còn ở đây thì vẫn vững... Nghe nói vừa có thêm một người dòm ngó quyền cai quản xứ Ukrain: Vaxili Vysivanny. Ông ta là hoàng thân Áo thuộc dòng Habxburg, nhưng lại mặc y phục dân tộc Ukrain.
- Các vị ơi, ngủ đi thôi. Tắt nến đi.
- Tắt nến là thế nào? Đây là toa xe lửa kia mà...
- Tắt đi an toàn hơn... Giữa đồng các cửa sổ trông rất rõ...
Trong toa lập tức im phăng phắc. Tiếng bánh xe gõ trên đường ray nghe rõ hẳn lên. Những tia lửa đỏ ở đầu máy phun ra bay vào đêm tối thảo nguyên. Có ai nói giọng khàn khàn, giọng bực tức đến cùng cực:
- Ai bảo tắt nến đấy? (Im lặng một lát. Không khí trở nên rờn rợn). Ừ, tắt đèn đi, còn mình thì tha hồ lục va-ly của người khác. Bây giờ thử tìm xem ai nói, rồi đẩy cha nó xuống đường tàu, thế mà hay...
Có tiếng chắt răng chán chường. Một giọng sợ sệt nói:
- Tuần trước tôi đi tàu, - có một bà bị nó lấy móc khoèo mất hai cái tay nải.
- Đúng là bọn Makhnô rồi.
- Bọn Makhnô nó thèm đi khoèo hai cái tay nải cho anh đấy. Cướp cả đoàn tàu: việc của chúng nó là thế kia.
- Các ngài ạ, có ai biết chuyện bọn này, ta kể lên nghe cho qua đêm nào...
Thế là họ bắt đầu kể chuyện, chuyện nọ khủng khiếp hơn chuyện kia. Họ nhắc lại những sự việc nghe mà sởn cả gáy. Và đến đây mọi người mới vỡ nhẽ ra rằng cái nơi đoàn tàu đang thong thả kéo qua chính là một ổ cướp lừng danh mà ngay quân Đức cũng phải tránh. Té ra ở ga vừa qua ngay đến đội cảnh vệ đi theo đoàn tàu cũng đã phải xuống rồi... Trong các làng ven đường sắt, mu-gích mặc áo khoác lông hải ly, con gái mặc toàn nhung lụa. Ngày nào cũng vậy, hoặc đoàn tàu bị xả súng máy bắn như mưa, hoặc các toa sau bị tháo rời ra và kéo bằng tời về một nơi nào đấy, hoặc tàu đang đi nhanh thì cửa toa bỗng mở toang, và mấy gã râu ria bước vào, tay cầm rìu hay súng cưa nòng: giơ tay lên! Người Nga thì chúng lột sạch, còn nếu tóm được một thằng Do thái...
- Do thái cái gì? Tự nhiên lại đưa chuyện Do thái ra đây làm gì? - một người mặt cạo nhẵn, mặc bộ com-lê len Sêviốt xanh, chính cái người lúc nãy ca ngợi thành Kiev, bỗng quát lên, giọng man dại - Tại sao cái gì cũng đổ lên đầu người Do thái?...
Tiếng quát này làm cho không khí trong toa ghê rợn hẳn lên. Những tiếng xôn xao im bặt. Katya lại nhắm mắt lại. Nàng chẳng có gì để mà mất cướp cả, may ra cũng chỉ có chiếc nhẫn ngọc bích. Nhưng nàng cũng vẫn thấy lo sợ bồn chồn. Để thoát khỏi cái cảm giác khó chịu là cứ thấy tim mình lịm đi, nàng lại cố hồi tưởng cái không khí huyền diệu của buổi tối dang dở hồi nào. Nhưng nàng chỉ nghe thấy tiếng bánh xe dằn đều đều trong cõi hư không mịt mùng: Ka-tyen-ka, Ka-tyen-ka, thế-là-hết, thế-là-hết...
* * *
Đột nhiên, như thể vừa đâm vào một vách núi, toa tàu đứng sững lại, những bộ phanh rít lên một tiếng thép chói chang, xích sắt kêu loảng xoảng, cửa kính rung lên lách cách, mấy chiếc va-ly từ trên giá nặng nề rơi phịch xuống. Lạ hơn cả là không có ai ồ lên một tiếng nào. Họ đứng vụt dậy nhìn quanh, nghe ngóng. Và tuy không ai nói với ai một câu nào, mọi người đều hiểu rõ rằng mình đã gặp phải chuyện chẳng lành.
Trong bóng tối có tiếng súng trường bắn đì đùng! Người mặc bộ com-lê len Sêviốt cuống quít chạy dọc toa, rúc cả người vào nấp kín ở một xó nào đấy. Ngoài cửa sổ có những bóng người chạy sát dưới đường tàu đắp cao. Đoành, đoành - mắt lóa đi vì ánh chớp, tai ù lên vì tiếng nổ... Một giọng dữ tợn quát lên: “Không được thò đầu ra ngoài!”. Một quả lựu đạn nổ đánh oàng một tiếng. Toa xe tròng trành. Các hành khách run lên cầm cập. Có tiếng người bước lên, tiếng báng súng nện vào cửa toa. Rồi khoảng mười người đội mũ lông cừu xô nhau ập vào, tay cầm lựu đạn giơ ra dọa, súng ống va vào nhau trong bóng tối. Từ lồng ngực họ đưa ra những tiếng thở hổn hển.
- Thu đồ đạc, xuống tàu đi ra đồng.
- Nhanh lên, nếu không...
- Miska, cho một quả lựu đạn vào lũ tư sản kia...
Hành khách giạt ra. Một gã thanh niên tóc vàng nhạt có gương mặt xanh tái, hung ác, lao cả người ra phía trước, giơ cao quả lựu đạn lên và giữ nguyên tư thế đó trong một giây...
- Chúng tôi ra đây, chúng tôi ra đây, - đám hành khách lao xao. Rồi không phản kháng gì nữa, không nói lấy một lời, họ rời toa xe lửa đi xuống, người thì xách chiếc va ly con, người thì chỉ vớ lấy cái gối hay cái ấm đun nước... Một người đeo kính cặp mũi, bộ râu cằm bị xô lệch sang một bên, lại còn mỉm cười trong khi len qua mấy tên cướp.
Đêm hôm ấy hơi lạnh. Trên thảo nguyên, các vì sao rải khắp bầu trời thành một tấm thảm lộng lẫy. Katya cầm cái gói nhỏ ngồi xuống một chồng tà-vẹt đã mục. Chúng đã không giết ngay lúc đầu, thì bây giờ chúng chẳng giết nữa đâu. Nàng cảm thấy mệt lả ra như sau khi bị ngất. Nàng nghĩ thầm: “Ngồi trên đống gỗ này hay nhịn đói đi lang thang ở Êkarinôxlav cũng thế thôi...” Hai vai nàng lạnh buốt. Nàng ngáp dài. Trong toa xe, những người mu-gích cao lớn đang lôi những chiếc va-ly ở trên giá xuống, vứt qua cửa sổ ra ngoài. Người đeo kính cặp mũi toan leo lên đường tàu:
“Các ông ơi, các ông ơi, trong ấy có mấy thứ dụng cụ vật lý của tôi, xin các ông nhẹ tay cho, dễ vỡ lắm...”.
Bọn cướp quát mắng thậm tệ, nắm lấy vạt sau chiếc áo mưa của người đeo kính lôi hắn ta lại và đẩy vào đám hành khách. Lúc bấy giờ từ trong đêm tối có một đội kỵ mã phi tới, vó ngựa nện rầm rập, vũ khí va loảng xoảng... Người đi đầu, phi cách toàn đội khoảng hai thân ngựa, là một người to lớn vạm vỡ phi thường, đầu đội chiếc mũ lông cao, người nhấp nhổm trên mình ngựa. Đám hành khách tránh giạt ra. Đội kỵ mã, gươm súng giơ cao lên, dừng lại bên toa xe. Người dẫn đầu quát, giọng lanh lảnh:
- Không có tổn thất gì chứ, các chú?
- Không, không... Đang dỡ hàng xuống... Cho xe lại đây, - mấy người đáp.
Người vạm vỡ đội mũ lông cao quay ngựa lại và xấn vào đám hành khách:
- Trình giấy tờ, - hắn vừa ra lệnh vừa cho con ngựa nhún nhẩy, nước bọt trong mõm ngựa bắn vào những đôi mắt giương to lên vì sợ hãi của các hành khách. - Đừng sợ. Các người đang ở dưới sự che chở của quân đội nhân dân của thủ lĩnh Makhnô. Chúng tôi chỉ bắn bọn sĩ quan, bọn cảnh vệ, - hắn to giọng lên, vẻ dọa nạt và bọn đầu cơ tài sản của nhân dân.
Người mặc áo mưa lại bước ra, tay sửa cặp kính.
- Xin lỗi, tôi có thể cam đoan rằng trong chúng tôi không có ai thuộc hai loại người nói trên cả... Ở đây chỉ có những người dân phố hiền lành... Tôi là Ôbrutsev, thầy giáo dạy vật lý...
- Thầy giáo, thầy giáo, - người vạm vỡ thốt lên, giọng trách móc, - thầy giáo mà lại chung đụng với đủ các hạng khốn kiếp. Đứng ra một bên. Mấy chú kia, không được động đến ông này. Ông ta là thầy giáo đấy.
Họ lấy cây nến trong toa tàu ra. Cuộc kiểm tra giấy tờ bắt đầu. Quả nhiên không có ai là sĩ quan hay cảnh vệ cả. Người mặc com-lê len Sêviốt ban nãy lăng xăng ngay ở chỗ kiểm soát, gần ngọn nến hơn ai hết... Nhưng bây giờ hắn không mặc com-lê len nữa, mà lại mặc một bộ áo quần nông dân nhàu nát, đầu đội mũ lưỡi trai bộ đội. Không sao hiểu nổi hắn đã kiếm đâu ra mấy thứ này, chắc là hắn mang theo sẵn trong va-ly. Hắn vỗ vai mấy tên cướp hung tợn, ra vẻ thân thiện lắm:
- Tôi là ca sĩ, tôi rất hân hạnh được làm quen với các anh. Phàm là nghệ sĩ thì cần phải tìm hiểu cuộc sống, tôi là nghệ sĩ...
Hắn dặng hắng cho trong giọng, định nói tiếp nhưng có một tên cướp đã nói với hắn, giọng bí hiểm:
- Rồi sẽ biết anh là thứ nghệ sĩ gì, chớ mừng vội...
Mấy chiếc giàn nhỏ, bốn bánh bịt sắt, được đánh lại. Bọn Makhnô quăng va-ly, làn giỏ, tay nải lên xe rồi ngồi lên đống đồ đạc ấy. Mấy tên đánh xe huýt lên theo kiểu dân thảo nguyên, những cỗ tam mã béo tốt phóng nước đại kéo xe đi và cả đoàn mất hút vào thảo nguyên trong tiếng huýt và tiếng vó ngựa phi rầm rập.
Đội kỵ mã cũng đã phi đi. Chỉ còn mấy tên cướp đi đi lại lại trên toa xe. Bấy giờ đám hành khách dùng lối đưa tay biểu quyết, bầu lên một phái đoàn đại biểu để xin phép bọn Makhnô lên tàu đi tiếp. Một gã trẻ tuổi tóc vàng nhạt, người đeo đầy bom, đến gần bọn họ. Món tóc quăn lòa xòa dưới cái vành lưỡi trai che lấp một mắt. Mắt kia, một con mắt xanh và trong, nhìn đám người một cách trâng tráo.
- Cái gì thế? - hắn vừa hỏi vừa nhìn từ đầu đến chân từng người đại biểu một - Đi đâu? Đi bằng gì? Chà, ngốc quá... Thằng tài xế bỏ toa máy chạy vào thảo nguyên từ lâu rồi còn gì, bây giờ hắn đang ngồi gãi cách đây đến mươi dặm là ít. Tôi không thể bỏ mặc đồng bào ở lại đây trong lúc đêm hôm khuya khoắt thế này được, những phần tử vô tổ chức đi lang thang trên thảo nguyên có phải ít đâu... Đồng bào nghe lệnh đây... (Hắn bước từ trên đường tàu xuống, sửa lại cái thắt lưng nặng trĩu. Mấy tên còn lại cũng hất súng ra sau vai xuống theo). Đồng bào, xếp hàng tư... Mang cả đồ đạc đi vào thảo nguyên, bước!
Đi ngang chỗ Katya, hắn cúi xuống khẽ chạm vào vai nàng.
- Này, cô nàng... Đừng buồn, chẳng ai làm gì cô đâu... Cầm lấy cái gói rồi đi với tôi, không phải xếp hàng đâu.
Tay cầm gói quần áo, khăn kéo sụp xuống tận mày. Katya đi trên cánh thảo nguyên bằng phẳng. Gã thanh niên có món tóc quăn trước trán bước bên tay trái nàng, chốc chốc lại ngoái đầu nhìn đám người bị bắt đang lặng lẽ và u sầu thất thễu bước đi. Hắn huýt sáo khe khẽ qua kẽ răng:
- Cô là ai, ở đâu đến thế? - Hắn hỏi Katya. Nàng quay mặt đi, không đáp. Bây giờ nàng không thấy sợ, cũng không lo lắng gì, chỉ một tâm trạng hoàn toàn dửng dưng. Nàng thấy mọi việc đều như đang diễn ra trong một trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Gã thanh niên hỏi lại lần nữa:
- Thế ra cô không muốn hạ mình xuống nói chuyện với một tên kẻ cướp phỏng. Rất đáng tiếc, cô tiểu thư ạ. Có điều là ở đây phải bơn bớt cái lối kiêu ngạo của bà lớn đi một chút. Bây giờ chẳng phải như trước đâu.
Bỗng hắn quay lại, bỏ khẩu súng trên vai xuống cầm lăm lăm ở tay, cất tiếng giận dữ quát một bóng người mờ mờ đang bước khập khiễng cách đám tù một quãng:
- Này, thằng khốn kiếp, hễ tụt lại sau là tao bắn.
Bóng người hấp tấp nhập vào đám đông. Gã thanh niên cười hả hê.
- Ngốc thật, trốn đi đâu được mà trốn?... Có lẽ hắn muốn đi ngoài cũng nên. Cơ sự nó thế đấy cô ạ... Cô không muốn nói chuyện, nhưng làm thinh lại đáng sợ hơn... Cô em đừng sợ, tôi không say đâu. Tôi mà say thì cứ lầm lì không nói... Những lúc ấy thì liệu hồn... Ta hãy làm quen với nhau đi, - hắn đưa hai ngón tay lên vành lưỡi trai, - tôi là Miska Xôlômin, lính hồng quân đào ngũ... Đúng hơn; một tên cướp bẩm sinh, cần phải hiểu như vậy. Một kẻ hung đồ gian ác. Vừa rồi cô không nhầm đâu...
- Bây giờ đi đâu thế này? - Katya hỏi.
- Về làng, về ban tham mưu trung đoàn. Người ta sẽ kiểm tra lại, sẽ hỏi cung, cho một số về chầu trời, một số khác thì thả. Cô là phụ nữ còn trẻ chẳng sợ gì đâu... Hơn nữa đã có tôi đây.
- Tôi đã thấy rõ rằng chính anh mới đáng sợ hơn cả. - Katya nói, đoạn liếc nhanh sang nhìn hắn. Nàng không ngờ câu nói của mình lại làm cho hắn phẫn uất đến thế. Hắn rướn người lên, mũi thở phì phò, khuôn mặt dài dài nhăn nhúm lại, tái nhợt dưới ánh sao mờ mờ. “Đồ chó”, - hắn thì thào. Hai người bước im lặng. Miska vừa đi vừa quấn điếu thuốc sâu kèn, châm lửa hút.
- Cô có chối trời tôi cũng biết thừa cô là hạng người gì rồi. Cô ở trong một gia đình sĩ quan.
- Đúng, - Katya nói.
- Dĩ nhiên chồng cô đang ở trong hàng ngũ bạch vệ.
- Đúng... chồng tôi chết trận rồi.
- Tôi không dám chắc là không phải đạn của tôi cho hắn ăn đất.
Hắn nhe răng ra cười. Katya đưa nhanh mắt sang nhìn hắn, vấp ngã. Miska đỡ lấy khuỷu tay nàng. Nàng gỡ ra, lắc đầu. Hắn nói tiếp:
- Tôi ở mặt trận Kavkaz về mà... Mới ở đây được bốn tuần, cứ đánh nhau suốt với bọn cướp trắng. Khẩu súng này đã cho khá nhiều đạn vào những thân hình quý tộc.
Katya lại lắc đầu. Hắn im lặng bước đi một lát, rồi cười lớn.
- Chà, ở ga Umanxkaia chúng tôi bị một phen đến là điêu đứng. Trung đoàn Varnavxki chúng tôi đã tan ra thành khói. Chính ủy Xôkôlôvxki tử trận, trung đoàn trưởng Xapôjkôv chỉ thoát được với đúng một dúm binh sĩ, đều bị thương nặng hết... Còn tôi thì luồn qua chiến tuyến Đức về với thủ lĩnh Makhnô. Ở đây vui hơn. Không có ai đè đầu cưỡi cổ ai - quân đội nhân dân mà. Chúng tôi là du kích cô ạ, chứ không phải là kẻ cướp đâu. Chúng tôi tự bầu ra chỉ huy, và tự mình truất họ xuống: chỉ cần lấy súng lục bắn đoàng một phát vào đầu... Chỉ có một người đứng đầu cả bọn: đó là thủ lĩnh Makhnô... Cô tưởng chúng tôi cướp đoàn tàu thế rồi đem nướng vào quán rượu hết chắc? Không đâu. Bao nhiêu của đem về đại bản doanh hết. Về đấy mới phân phối. Một phần cho nhân dân, một phần cho quân đội. Các đoàn tàu chính là ban quân nhu của chúng tôi. Còn chúng tôi, quân đội nhân dân, tức cũng là nhân dân, đang ở trong tình trạng chiến tranh với Đức. Vấn đề đặt ra như thế đấy. Chúng tôi sẽ thịt hết bọn địa chủ. Bọn cảnh vệ, bọn sĩ quan của thống lĩnh thì đừng lọt vào tay chúng tôi là hơn: chúng tôi sẽ tiêu diệt chúng nó bằng dao, kiếm. Những đơn vị nhỏ của quân Áo và quân Đức thì chúng tôi dồn về Êkatêrinoxlav. Loại kẻ cướp chúng tôi là như thế đấy.
Trên thảo nguyên, những vì sao chi chít khắp trời. Phía trước mặt, chân trời đã bắt đầu nhuốm một màu lục phơn phớt. Katya càng đi càng hay vấp, và mỗi lần như vậy nàng lại cố nén một tiếng thở dài. Còn Miska thì cứ điềm nhiên như không; hắn có thể khoác súng đi hàng ngàn dặm như thế. Katya bây giờ chỉ có một nỗi bận tâm: làm sao đừng để cho hắn thấy nàng kiệt sức, để cái gã ba hoa khoác lác ấy đừng quay ra thương hại nàng...
- Các anh tốt lắm nhỉ! - Nàng dừng lại sửa cái khăn trùm để thở một chút, rồi lại bước giữa những bụi ngải đắng, những lỗ hang chuột chũi.
- Ước gì các anh có con để cho họ giết con các anh thử xem. Không được giết người, chỉ có thế thôi.
- Cái điệu hát ấy nghe nhiều rồi. Đó là một điệu hát cổ lỗ của đàn bà, - Miska nói, không cần nghĩ lấy một phút. - Về chuyện này, chính ủy của chúng tôi thường nói: “Hãy nhìn trên quan điểm giai cấp...”. Anh giương súng lên: trước mặt anh không phải là một con người, mà là một hiện tượng giai cấp. Hiểu chưa? Ở đây thương hại chẳng được cái tích sự gì, mà lại là một cảm xúc thuần túy phản cách mạng nữa. Có một vấn đề khác, cô bạn ạ...
Giọng hắn bỗng khác đi một cách kỳ dị, nó âm ấm, như thể hắn đang lắng nghe mình nói:
- Tôi không phải cứ thế này cầm khẩu súng đi loanh quanh mãi khắp các mặt trận đâu. Họ thường nói: Miska là một thằng nát rượu, một thằng nghiện ngập, hắn sẽ chết rấp dưới một cái rảnh nào đấy. Đúng, nhưng không đúng hẳn... Tôi chưa có ý định chết ngay mà lại rất không muốn chết ngay nữa là khác... Viên đạn sẽ giết chết tôi bây giờ chưa đúc xong đâu.
Hắn hất món tóc quăn trên trán lên:
- Con người bây giờ là cái gì: một cái áo ca-pốt và một khẩu súng? Không, không phải thế... Như tôi đây, tôi muốn gì thì có ma nó biết! Mà bản thân tôi cũng chẳng biết nốt... Tôi thử nghĩ xem: một xe tiền chăng? Không phải. Cái con người ở trong tôi nó đau khổ lắm. Huống hồ thời buổi lại thế này nữa: cách mạng, nội chiến. Tôi chịu rét, chịu khổ, chịu chảy máu chân, chịu đau vì những vết thương - đều là một cách vô ý thức, vì giai cấp mình chịu đựng... Hồi tháng ba đã có lần trong một phiên gác tôi phải nằm dưới một lỗ thủng trên mặt băng đến nửa ngày dưới hỏa lực súng máy... Như thế tôi là một anh hùng trước mặt đơn vị chứ gì? Nhưng trước mặt bản thân, khi một mình ngồi tư vấn, thì tôi là cái gì? Tôi nốc rượu vào thật nhiều và trong một cơn giận điên cuồng đối với bản thân, tôi rút con dao nhọn trong ủng ra...
Miska lại vươn vai hít thở khí lạnh ban đêm. Gương mặt hắn rầu rĩ, trông gần như một gương mặt phụ nữ. Hắn thọc sâu hai tay vào túi áo khoác rồi nói tiếp, không phải nói với Katya nữa, mà như thể nói với một cái bóng nào đang bay trước mặt hắn:
- Tôi biết, tôi đã được nghe nói đến học thức... Trí óc tôi nó man rợ lắm. Con cái tôi sẽ có học thức. Còn tôi bây giờ thì vẫn chỉ là một hung đồ... Cái chết của tôi là ở chỗ ấy... Về những người trí thức, người ta viết chuyện tiểu thuyết. Chao ôi, bao nhiêu là từ ngữ hay ho. Nhưng tại sao lại không viết một cuốn tiểu thuyết về tôi? Các người tưởng chỉ có bọn trí thức mới phát điên chắc? Đang ngủ tôi nghe một tiếng thét... Tôi tỉnh dậy, sẵn sàng giết người một lần nữa...
Từ trong bóng tối có mấy người cưỡi ngựa phi tới, từ xa đã quát: “Đứng lại, đứng lại...”. Miska kéo súng xuống cầm lăm lăm: “Đứng lại cái mả mẹ mày! Người nhà cũng không nhận ra nữa à?...”. Hắn để Katya đứng đấy, ra gặp bọn cưỡi ngựa, và hai bên bàn bạc gì với nhau hồi lâu.
Đám người bị bắt đứng nói chuyện thì thầm với nhau, vẻ lo lắng. Katya ngồi xuống đất, mặt úp xuống hai đầu gối. Từ phương đông, nơi ánh bình minh xanh biếc đã tỏ hơn, đưa lại một làn khí ẩm phảng phất mùi phân ngựa khô đun bếp, cái mùi ấm cúng của một xóm quê.
Những ngôi sao của cái đêm vô tận đã bắt đầu phai nhạt, tắt dần. Lại phải đứng dậy đi. Chẳng bao lâu đã nghe thấy tiếng chó sủa, đã thấy lố nhố những đụn rơm, những cái cần múc nước giếng cao lêu đêu, những mái nhà lúp xúp trong xóm. Một đàn ngỗng đang ngủ nổi bật lên trên bãi cỏ như những nắm tuyết.. Ráng bình minh màu san hô soi bóng trên một mặt hồ. Miska lại gần, cau mày:
- Đừng đi với người khác, tôi sẽ thu xếp cho cô một chỗ riêng.
- Được, - Katya đáp. Nàng nghe những câu nói của hắn như từ rất xa vẳng lại.
Đi đâu mà chẳng được, miễn là được nằm xuống, ngủ thiếp đi...
Qua đôi mi ríu lại, Katya trông thấy những bông hoa hướng dương to tướng và phía sau là hai cánh cửa chớp sơn màu xanh lá cây có vẽ hoa hòe và chim chóc. Miska lấy móng tay gõ vào tấm cửa kính đầy bọt hơi trên bức tường trắng của ngôi nhà, cánh cửa từ từ mở và một cái đầu bờm xờm của một lão mu-gích thò ra. Bộ ria của lão vểnh ngược lên, cái miệng đầy những răng là răng há hốc ra ngáp. “Thôi được, - lão nói - vào đi...”.
Katya bước lảo đảo vào ngồi nhà nhỏ. Mấy con ruồi bị kinh động bay lên vù vù. Lão mu-gích đưa từ gian bên sang một chiếc áo tu-lúp và một chiếc gối: “Cô ngủ đi” - rồi bỏ ra ngoài. Katya thấy mình nằm trên một cái giường kê sau bức vách. Hình như Miska cúi xuống sửa cái gối dưới đầu nàng. Nàng khoan khoái buông mình chìm hẳn vào hư vô...
... Tiếng bánh xe cứ quấy rầy giấc ngủ của nàng. Nó cứ lăn ầm ầm ở bên ngoài. Hình như có rất nhiều xe ngựa kéo qua. Và ánh nắng từ cửa kính những ngôi nhà rất cao phản chiếu lại hắt vào những xe cộ ấy từ bên kia đường. Những mái nhà bằng đá xám hình khum khum. Pari. Những cỗ xe ngựa phóng qua, trên xe là những người đàn bà ăn mặc sang trọng. Có ai cứ quát tháo không ngớt, quay lại nhìn, chỉ trỏ... Mấy người đàn bà khua khua mấy chiếc dù viền đăng ten... Xe ngựa phi qua mỗi lúc một nhiều. Trời ơi! Đây là một cuộc săn đuổi!... Mà lại ở Pari, trên đại lộ! Họ đây rồi. Những cái bóng khổng lồ cưỡi những con ngựa lông lá xù xì trong ánh bình minh màu lục. Không sao cựa quậy được, không sao chạy trốn được! Tiếng vó ngựa ầm ĩ quá! Tiếng quát tháo dữ dội quá! Ngợp quá!...
... Katya ngồi dậy. Ngoài cửa sổ, tiếng ngựa hí lanh lảnh. Qua những cửa vách không treo rèm nàng trông thấy nhiều người vào ra, mình đeo đầy vũ khí. Trong nhà tiếng người nói, tiếng ủng nện nhức cả óc. Nhiều người chen chúc quanh bàn xem một cái gì để ở trên ấy. Họ văng ra những câu rất tục. Trời đã sáng hẳn, qua những khung cửa sổ hẹp, mấy tia nắng xen vào làn khói thuốc lá xanh xanh trong ngôi nhà.
Không ai buồn để ý đến Katya. Nàng sửa lại áo và tóc, nhưng vẫn ngồi yên trên giường. Hình như vừa có những đội quân mới vào làng. Qua tiếng nói ồn ào và lo lắng trong nhà có thể hiểu được rằng có một việc gì nghiêm trọng đang được chuẩn bị. Một giọng gay gắt hơi ngắc ngứ, có một âm hưởng lảnh lói như giọng đàn bà, quát lên hách dịch:
- Quỷ bắt cha nó đi! Gọi cái thằng mạt kiếp ấy về đây!
Và họ thi nhau chõ mồm ra sân, quát về phía có những cỗ xe giàn thắng ba ngựa, những con ngựa đóng yên cương, những tốp lính, thủy thủ, nông dân vũ trang.
- Pêtritsenkô.... Pêtritsenkô đâu?... Chạy đi gọi hắn về đây...
- Thì mày chạy đi có được không nào, hở con lợn... Này, anh kia, gọi đại tá cho tôi một tí... Nhưng mà hắn ở đâu thế nhỉ? A kia rồi, nằm ngủ trên cái xe kia kìa, say bí tỉ... Xối cho thằng quỷ ấy một xô nước đi... Này, thằng kia, chạy ra giếng múc xô nước đi, - không đánh thức nổi cái thằng đại tá này đâu... Ê, thôi đừng xối nước nữa, lấy hắc ín trát vào mồm đi... Hắn tỉnh rồi, hắn tỉnh rồi... Báo với hắn là thủ lĩnh đang cáu lắm đấy... Hắn đến kia rồi... đến kia rồi...
Một phút sau, người vạm vỡ đội mũ lông cao tối qua bước vào nhà. Hình như hắn ngủ say đến nỗi trên gương mặt râu ria, đỏ bừng của hắn khó lòng nhìn rõ được đôi mắt húp híp. Hắn vừa làu bàu vừa chen vào bàn và ngồi xuống.
- Mày làm sao đấy hở thằng khốn kiếp, mày định bán cả quân đội đấy à? Chúng nó mua được mày rồi! - giọng nói lanh lảnh, ngắc nhứ ban nãy cất lên đay nghiến.
- Thì sao? Ừ thì tôi ngủ quên, chỉ có thế chứ gì? - đại tá nói ồ ồ, giọng trầm và vang nghe như thể hắn đang ngồi trong thùng ton-nô nói ra.
- Thì sao à, thì thế đấy chứ còn sao... Thì thế đấy! - cái giọng lanh lảnh như bị sặc - Thì sao à? Thì mày đã ngủ quên để cho Đức nó đến lúc nào không biết.
- Để cho Đức đến là thế nào? Chả để thằng nào đến cả! - Các trạm gác của mày ở đâu? Chúng tao đi cả đêm chẳng gặp một tay nào... Tại sao quân đội lại bị dồn vào bị?
- Làm gì mà thét lác ghê thế? Làm thế chó nào biết được quân Đức ở đâu đến?... Thảo nguyên rộng như thế...
- Chỉ tại mày, đồ khốn nạn!
- Ơ kìa, ơ kìa...
- Tại mày hết!
- Đừng hòng động vào tao!
Trong căn nhà lập tức ắng lặng đi. Những người đứng quanh bàn giãn ra. Có tiếng vật nhau huỳnh huỵch, tiếng thở hổn hển. Một bàn tay cầm súng lục vung cao lên. Mấy bàn tay khác vội giữ lấy. Một tiếng súng nổ, Katya bịt tai, nằm vật xuống gối. Vữa trên trần rơi lộp bộp. Và tiếng người lại nhao nhao lên, lần này nghe rất vui vẻ. Đại tá Pêtritsenkô đứng dậy, cái mũ lông cừu gần chạm tới trần, và khệnh khạng bước ra đường cùng với một lũ anh chị.
Ngoài cửa sổ bắt đầu nhộn nhịp hẳn lên. Bọn Makhnô lên yên ngựa, nhảy lên các xe tatsanka. Roi quất đen đét, trục bánh xe kêu ken két, tiếng chửi rủa ầm ĩ. Căn nhà trống hẳn đi, và bây giờ Katya mới hiểu tại sao nảy giờ nàng không trông thấy người nói giọng lanh lảnh hách dịch. Đó là một người rất nhỏ bé. Hắn ngồi bên bàn, lưng quay về phía Katya, hai khuỷu ta chống lên một tấm địa đồ.
Mái tóc dài, sợi thẳng, màu hạt dẻ buông xuống đôi vai hẹp như vai thiếu niên mới lớn. Cái áo dạ đen thắt ngang dọc những nịt da, ở thắt lưng đeo hai khẩu súng lục và một thanh gươm, hai chân đi đôi ủng bảnh bao có cựa bắt chéo vào nhau ở dưới ghế. Cái đầu lắc lắc làm cho những món tóc bóng nhẫy tuột xuống vai, hắn viết lia lịa, ngòi bút bắn mực ra tung tóe và cào rách cả giấy. Từ ngoài sân, lão mu-gích ban nãy đã nhường giường cho Katya rón rén bước vào.
Mặt lão đỏ ửng, vẻ xun xoe. Trên tóc lão bám mấy cọng rơm. Lão vừa nhay nháy cặp mắt một cách ngốc nghếch vừa ngồi xuống chiếc ghế dài, đối diện với người đang viết, đút hai bàn tay xuống dưới vế và lấy bàn chân không bên này gãi bàn chân không bên kia.
- Lúc nào cũng lo lắng bận rộn, lúc nào cũng thấy ông lo lắng bận rộn, Nextor Ivanôvits ạ... thế mà tôi cứ hy vọng là ông sẽ ở lại ăn bữa chiều. Hôm qua nhà thịt con bê, cứ như thể tôi có linh tính báo là ông sẽ ghé về...
- Không có thì giờ... Đừng quấy người ta...
- À vâng... (lão mu-gích lặng thinh, không nháy mắt. Mắt lão trở nên thông minh, nằng nặng. Lão nhìn theo cây bút đang chạy trên tờ giấy một lát). Nextor Ivanôvits ạ, thế ông có định ứng chiến trong làng này nữa không?
- Còn xem sao đã...
- À phải, dĩ nhiên là như thế, việc quân cơ mà... Số là tôi muốn liệu xem, nếu ứng chiến ở đây, về cái món gia súc...Lùa ra khu trại có được không ạ?
Người tóc dài bỏ bút xuống, luồn bàn tay nhỏ bé vào mái tóc rồi đọc lại mấy dòng chữ đã viết. Lão mu-gích thấy ngứa trong chòm râu, ngứa dưới nách. Lão bắt đầu gãi sồn sột. Và như vừa sực nhớ ra, lão hỏi:
- Nextor Ivanôvits ạ, thế còn chỗ vải vóc kia thì chúng tôi được sử dụng như thế nào đây ạ? Ông đã cấp dạ cho chúng tôi, dạ tốt lắm. Dạ của quân nhu đấy, trông là biết ngay... Sáu xe cả thảy.
- Ít quá phỏng? Các anh chưa vừa ý à? Ít phỏng?
- Ơ kìa, sao ông lại nói thế, ít thế nào... Cứ ngần ấy chúng tôi đã không biết lấy gì cảm ơn ông rồi... Ông cũng biết đấy, làng chúng tôi đã gửi cho ông bốn mươi chiến sĩ... Cả con tôi cũng đi, hắn nói là “con phải đổ máu vì sự nghiệp của nông dân bố ạ”. Nếu còn thiếu người, cánh già chúng tôi cũng sẽ đi... Ông cứ việc chiến đấu, chúng tôi sẽ ủng hộ ông... Còn như chỗ dạ kia, thì nếu có chuyện gì, - ấy, nói dại nhỡ quân Đức hay bọn cảnh vệ nó đến thì, ông cũng biết chúng nó sẽ làm cỏ chúng tôi như thế nào. Ấy vậy thì chúng tôi phải thế nào ạ: có thể biết chắc về trận sắp tới không ạ?
Lưng người có bộ tóc dài rướn thẳng ra. Hắn bỏ bàn tay trên mái tóc xuống, nắm lấy gờ bàn. Có thể nghe rõ tiếng hắn thở phì phì. Đầu hắn ngửa ra phía sau. Lão mu-gích bắt đầu thận trọng nhích nhích cái đít dọc chiếc ghế dài lần về phía cửa, rút hai tay lót dưới vế ra và đi len lén ra khỏi nhà.
Chiếc ghế tựa của người tóc dài lảo đảo. Hắn lấy chân đá chiếc ghế đi. Katya giật mình khi trông thấy mặt con người nhỏ bé mặc bán quân phục đen này. Trông hắn giống như một ông thầy tu cải trang. Dưới đôi vành lông mày gồ cao lên, hai con mắt nâu nhạt, điên dại, cứng đờ nhìn trừng trừng vào Katya. Mặt hắn hơi rỗ, râu cạo rất nhẵn, nước da phơn phớt vàng, trông như mặt đàn bà, và trên gương mặt ấy có một cái gì như thể chưa trưởng thành mà lại hung hãn, như mặt một thiếu niên mới lớn. Chỉ trừ đôi mắt già dặn và thông minh.
Katya hẳn còn giật mình hơn nữa nếu nàng biết rằng người đứng trước mặt nàng chính là thủ lĩnh Makhnô. Hắn nhìn kỹ người thiếu phụ ngồi trên giường, chân đi đôi giày phủ bụi, mình mặc tấm áo lụa nhàu hãy còn trang nhã, đầu trùm chiếc khăn màu thẫm thắt theo kiểu nông dân, và hình như không sao đoán ra được nàng là hạng người gì mà lại lạc vào căn nhà này. Môi trên của hắn nhếch một bên mép lên thành một nụ cười để lộ mấy cái răng thưa. Hắn hỏi xẵng:
- Của ai?
Katya không hiểu ra, chỉ lắc đầu. Nụ cười vụt tắt trên môi hắn, và gương mặt hắn biến sắc đi, đến nỗi môi Katya run lên.
- Mày là ai? Gái điếm phỏng? Nếu mày có tim la thì tao sẽ bắn ngay! Sao? Mày có biết nói tiếng Nga không thế hả? Ốm à? Khỏe à?
- Tôi là một tù nhân - Katya nói rất khẽ.
- Mày biết làm gì? Có biết trau móng tay không? Ta sẽ cấp đồ dùng cho.
- Được, - nàng nói khẽ hơn nữa.
- Nhưng không được gieo rắc trụy lạc trong quân đội đấy... Hiểu chưa? Cứ ở lại đây. Đến tối tao đi đánh nhau về, mày sẽ trau móng tay cho tao.
* * *
Trong dân gian có rất nhiều chuyện lưu truyền về thủ lĩnh Makhnô. Người ta kể lại rằng hồi bị đày khổ sai ở ngục Akatui, hắn đã nhiều lần tìm cách vượt ngục và cuối cùng đã trốn được, nhưng lại bị quân lính phát hiện trong một nhà chứa củi, phải dùng rìu đánh nhau với họ. Hắn bị báng súng nện gãy hoặc giập hết cả xương, rồi bị xích thường xuyên trong ngục; ba năm ròng hắn mang xích như vậy, cứ lặng thinh như con chồn mòng, suốt ngày đêm tìm cách tháo đôi khóa tay bằng sắt, nhưng không sao tháo được. Ở chỗ giam tù khổ sai hắn kết bạn với Asinov-Marin, một người theo chủ nghĩa vô chính phủ, và trở thành học trò của người này.
Nextor Makhnô là con một người thợ mộc, sinh trưởng ở vùng Êkatêrinôxlav, trong làng Gulai-Pôlê. Hắn bị đánh đập từ hồi còn nhỏ, khi hắn đi ở cho một cửa hiệu tạp hóa, và cũng chính từ hồi ấy hắn có cái biệt hiệu chồn mòng, vì cái tính độc ác và đôi mắt màu nâu nhạt của hắn. Một hôm sau khi bị đòn, hắn giội nước sôi vào người lão chạy hàng chính của cửa hiệu. Nextor bị đuổi. Hắn liền tụ tập một bọn học trò, phá phách các vườn rau, các vườn cây ăn quả, giở trò du côn, sống đầu đường xó chợ cho đến khi bố hắn cho hắn vào làm ở một nhà máy in. Người ta nói rằng ở đây hắn có gặp Vôlin, một người theo chủ nghĩa vô chính phủ, mười tám năm sau sẽ trở thành tham mưu trưởng và là đầu não của tất cả cái sự nghiệp của Makhnô. Người ta lại nói rằng Vôlin có cảm tình với thằng bé đến nỗi đã ra công dạy cho nó học đọc học viết và truyền chủ nghĩa vô chính phủ cho nó, rồi cho nó vào trường học, và Makhnô đã trở thành một giáo viên. Nhưng điều đó không đúng sự thật. Makhnô không hề làm giáo viên bao giờ cả, và hình như mãi về sau hắn mới biết Vôlin, còn chủ nghĩa vô chính phủ thì hình như hắn được biết qua Arsinôv hồi ở nhà tù khổ sai.
Từ năm 1903 Makhnô lại bắt đầu giở quẻ ở Gulai-Pôlê, nhưng đối tượng không còn là các vườn tược nữa mà là các trang viên của địa chủ và các kho hàng của bọn lái buôn: khi thì hắn bắt trộm ngựa, khi thì hắn vét sạch một hầm chứa đồ, khi thì hắn viết thư nặc danh cho một lão chủ hiệu buôn, bắt phải để tiền dưới một hòn đá để hắn đến lấy. Giữa cảnh sát với hắn lúc bấy giờ có một tình bằng hữu kỳ quặc, sặc mùi vôđka.
Người ta bắt đầu sợ Makhnô thực sự, nhưng nông dân vẫn dung túng hắn, vì càng gần đến cách mạng 1905 hắn càng quấy rối bọn địa chủ một cách táo tợn hơn. Rồi đến khi các dinh thự của địa chủ bắt đầu bốc cháy, khi nông dân đã ngang nhiên đến cày cho mình trên đất địa chủ, Makhnô lại chuyển sang hoạt động ở các thành thị trên quy mô lớn. Đầu năm 1906 hắn dẫn đầu một tốp anh chị đánh vào kho bạc ở Berlyanxk, bắn chết ba người công chức, chiếm lấy kết bạc, nhưng sau đó hắn bị một đồng lõa tố giác và bị đày đi Akaitui.
Mười hai năm sau, được cuộc cách mạng Tháng Hai phóng thích, hắn lại xuất hiện ở Gulai-Pôlê, nơi mà nông dân, không nghe theo những mệnh lệnh của Chính phủ lâm thời, đã đuổi các trang chủ đi và đem ruộng đất chia cho nhau. Makhnô nhắc nhở lại những công lao của mình ngày trước và được bầu làm phó chủ tịch hội đồng tự quản hàng tổng. Hắn lập tức hướng hẳn theo đường lối xây dựng “chế độ nông dân tự do”, trong phiên họp của ban quản trị địa phương hắn đã gọi các ủy viên hội đồng tự quản là những tên tư sản và những tên ca-đê; nổi khùng lên trong khi tranh cãi, hắn bắn chết ngay trong cuộc họp một ủy viên quản trị và tự đề bạt làm chủ tịch và chính ủy quận.
Chính phủ lâm thời không làm gì được hắn hết. Một năm sau quân Đức đến, Makhnô phải bỏ chạy. Hắn đi lang thang khắp nước Nga một thời gian, rồi đến mùa hè năm 1918 hắn đến Moxkva, lúc bấy giờ đang đầy rẫy những tên vô chính phủ... Ở đây có cả ông già Arsinôv đang buồn rầu ngồi chiêm nghiệm những biến cố của cuộc cách mạng mà do một sự trớ trêu của số phận rất khó hiểu đối với ông ta đã được đặt dưới sự lãnh đạo của bolsêvik, có cả nhà lý luận và rường cột vững vàng của chế độ vô chính phủ - “mẹ của trật tự” - là Vôlin, con người từ khi cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ chải tóc và chải râu, có cả Barôn, con người hám danh và hay sốt ruột, có cả Arten, có cả Têper, cả Rakôv, cả Kraxnôkutxki, cả Glagzôn, cả Trintxiner, cả Tsernyak, và nhiều vĩ nhân khác không tài nào đi theo cách mạng được. Họ ngồi ở Moxkva không có lấy một xu dính túi, hàng ngày mở hội nghị với một chương trình nghị sự duy nhất: “Hệ thống tổ chức và các vấn đề tài chính”... Về sau trong số này có những người trở thành lãnh tụ trong đảng vô chính phủ của Makhnô, một số khác tham gia vào vụ nổ mìn mưu sát Ủy ban bolsêvik thành Moxkva trong ngõ Lêôntyev.
Chắc chắn là sự xuất hiện của Makhnô đã gây nên một ấn tượng mạnh mẽ trong đám người theo chủ nghĩa vô chính phủ đang ngồi buồn thiu trong các hiệu cà-phê ở Moxkva. Makhnô là một con người hành động mà là một con người hành động quyết liệt. Họ bèn nghĩ cách cử Makhnô về Kiev để bắn chết thống lĩnh Xkôrôpađxki và các tướng tá của hắn.
Cùng với một tên vô chính phủ khác đi theo trợ thủ, hắn vượt biên giới Ukrain sau khi đánh lừa được tinh thần cảnh giác của viên chính ủy Xaienkô khét tiếng đang kiểm soát các đường xe lửa ở đấy. Hắn cải trang làm một sĩ quan, nhưng rồi nghĩ thế nào lại không đi Kiev nữa, làn gió phóng khoáng của thảo nguyên đã lọt vào mũi hắn, và hắn thấy hoạt động bí mật chẳng hợp khẩu vị mình chút nào. Thế là hắn đi thẳng về Gulai-Pôlê.
Về đến cố hương, hắn chiêu nạp năm gã thanh niên đáng tin cậy. Cả bọn cầm rìu, dao găm và súng cưa nòng phục trong cái khe gần dinh thự lão trang chủ Reznikôv, đang đêm lẻn vào nhà và giết chết một cách khá êm lặng lão trang chủ cùng với ba người em trai của lão làm ở sở cảnh sát của chính quyền Kiev, rồi phóng hỏa đốt nhà. Trong vụ này hắn thu được bảy khẩu súng trường, một khẩu súng lục, mấy con ngựa, mấy bộ yên cương và một số quân phục cảnh binh.
Bây giờ hắn không để mất thì giờ nữa. Được vũ trang đầy đủ và có ngựa cưỡi, hắn đưa cả tốp năm tên đồng lõa đi đốt phá các trang trại. Đội của hắn đông dần lên. Với một niềm hăng say điên cuồng, hắn xông xáo khắp huyện, quét sạch bọn địa chủ. Cuối cùng hắn quyết định làm một việc về sau đã làm cho danh tiếng hắn lừng lẫy khắp vùng.
Bấy giờ là vào tiết lễ Ba ngôi. Một lãnh chúa vùng thảo nguyên là trang trại chủ Mirgôrôđxki làm lễ cưới cho con gái lấy một đại tá quân đội thống lĩnh. Đến dự lễ cưới có một số trang chủ trong vùng lân cận, không sợ cái hiểm tượng phải đi xe ngựa qua thảo nguyên giữa cái thời buổi tao loạn này. Có cả những tân khách từ tỉnh lỵ và từ Kiev về.
Dinh thự của họ Mirgôrôđxki được một đội cảnh vệ khá mạnh canh phòng cẩn mật. Trên gác xép tòa nhà có đặt một khẩu liên thanh. Chú rể đến đám cưới với các bạn đồng ngũ toàn là những gã thanh niên cao lớn mặc quần xanh ống rộng may theo kiểu cổ truyền, đũng quần thụng xuống đến sát đất, bên trên là những bộ áo bằng nỉ đỏ, đầu đội mũ lông Axtrakhan có tua vàng buông xuống đến sát thắt lưng. Ai nấy đều đeo bên sườn một thanh gươm cong, khi đi thì chạm lách cách vào đôi ủng da dê mũi uốn cong lên.
Cô dâu mới ở Anh về được ít lâu (cô ta đi học trong một nhà trường có ký túc) và đã nói được tiếng Ukrain khá sõi. Cô mặc áo lụa rộng ống thêu, đeo vòng cườm, thắt dải lụa và đi ủng da đỏ. Ông bố đã đặt may riêng ở Kiev một chiếc áo jupan bằng nhung lót da lông, đúng hệt như trong bức chân dung nổi tiếng của thống lĩnh Mazepa. Họ muốn cử hành đám cưới theo kiểu cổ truyền, và tuy món mật ong để một trăm năm là món khó kiếm ở trên đất Ukrain đang bốc lửa này, mọi thứ cũng đã được chuẩn bị thừa thãi cho một bữa tiệc linh đình.
Sau buổi xem lễ họ dẫn cô dâu đi qua khu vườn lớn của trang viên đến một ngôi nhà thờ đá mới xây. Mấy cô phù dâu, đang vừa đi bên cạnh cô dâu vừa hát, đều đẹp lộng lẫy, còn cô dâu thì hệt như từ trong những bài dân ca cô-dắc bước ra. Mấy chàng phù rể đứng đợi bên hàng rào nhà thờ thốt lên: “Cha! Rõ ràng là thời xưa êm đẹp đã trở về với xứ Ukrain rồi!”. Sau buổi lễ thành hôn, trên sân nhà thờ người ta rắc mấy nắm lúa kiều mạch lên đầu cô dâu chú rể. Ông bố cô dâu mặc chiếc áo jupan hệt như Mazepa cầu phúc lành cho đôi trẻ bằng một bức tượng thánh cổ đưa từ Méjigoriê về. Hai họ uống sâm banh và tung hô: “Hai jivê!” rồi xán vỡ cốc đi. Hai vợ chồng mới cưới lên xe hơi ra ga, còn tân khách thì ở lại dự tiệc.
Đêm đã xuống trên khoảng sân rộng của tòa dinh thự, nơi có một đàn nô tỳ và cảnh vệ đang nhảy những điệu dân vũ rắc rối. Tất cả các cửa sổ trên tòa nhà đều sáng trưng ánh đèn hoan hỉ. Dàn nhạc Do Thái đưa từ Alekxanđrôvka về ra sức cưa, gẩy, thổi, gõ. Ông bố cô dâu đã nhảy xong một điệu hopak điên cuồng và đang uống nước xô-đa. Các cô các bà đã bắt đầu ra đứng cạnh các cửa sổ mở rộng để hóng mát, còn các chàng phù rể - đều là những sĩ quan cô-dắc đã trở về đứng quanh các bàn dọn thức nhắm, gươm vỗ lách cách, lớn tiếng hẹn nhau là sẽ đi dẹp hết bọn Môxkali [dân Moskva - tiếng địa phương] đáng nguyền rủa và kéo quân đến tận Moxkva.
Lúc bấy giờ trong đám khách dự tiệc xuất hiện một viên sĩ quan thấp bé mặc quân phục cảnh binh của chính quyền thống lĩnh. Cảnh binh ghé vào dinh thự trong một ngày như thế này cũng chẳng có gì là lạ. Viên sĩ quan đi vào phòng một cách nhũn nhặn, im lặng nghiêng mình chào, im lặng đưa mắt nhìn lên giàn nhạc. Chỉ có đôi người nhận thấy bộ quân phục của hắn mặc hình như hơi rộng, với lại có một phu nhân lo lắng hỏi cô bạn đứng cạnh: “Ai thế? Trông sợ quá!...”. Tuy viên sĩ quan lạ mặt lúc nào cũng cố nhìn xuống đất, đôi mắt của hắn vẫn sáng quắc lên như mắt quỷ... Nhưng khi người ta say thì chuyện huyễn hoặc gì mà chẳng tưởng tượng ra được?...
Sau những điệu mazurka và những điệu valse, giàn nhạc bắt đầu chơi một điệu tango. Hai ba người mặc áo jupan đỏ hãy còn đứng vững được liền mời các bà các cô ra nhảy. Có ai ra lệnh tắt mấy chùm đèn treo trên trần đi. Trong ánh sáng dìu dịu, trong những âm thanh lả lướt tưởng như từ đáy sâu của những năm tháng dĩ vãng vẳng về, những đôi vũ khách ôm thân nhau nghiêng ngả, bước rã rời như kiệt sức, đê mê trong điệu nhạc thể hiện những khoái cảm của giờ hấp hối.
Và ngay lúc ấy súng bắt đầu nổ vang. Đám tân khách sững sờ ra. Makhnô trong bộ quân phục sĩ quan cảnh binh đứng sau cái bàn bày thức nhắm bên cạnh cánh cửa hé mở, dùng hai khẩu súng lục bắn vào những tấm áo jupan đỏ. Một viên thượng tá cao lớn, mặt đỏ gay, vốn là bạn thân của chú rể, giang rộng hai cánh tay rồi nặng nề ngã sấp ra bàn, lôi nó đổ sập xuống. Đám phụ nữ hét lên inh ỏi. Một sĩ quan khác tuốt gươm ra, nhưng gươm chưa ra khỏi vỏ thì hắn đã ngã chúi xuống mặt úp lên tấm thảm trải sàn... ba người nữa cũng vung gươm xông vào Makhnô. Hai người lập tức ngã xuống, người thứ ba nhảy ra cửa sổ, miệng kêu oai oái. Ở các khung cửa đối diện xuất hiện thêm hai người nữa cũng mặc quân phục cảnh binh, vẻ mặt hung ác, tóc để chỏm dài, nổ súng vào các tân khách. Đám phụ nữ chạy cuống cuồng, nhiều người ngã lăn ra. Ông bố của cô dâu không sao rời ghế bành đứng dậy được, Makhnô liền đến cạnh bắn một viên đạn vào mồm ông ta. Súng nổ vang dội cả ngoài sân, cả trong khu vườn lớn, nơi các vị khách vừa nhảy ra cửa sổ đang chạy tán loạn. Một số ít người đã nấp được vào các bụi cây, vào đám lau sậy mọc quanh hồ. Đám gia nô và cảnh binh đều bị giết sạch. Bọn Makhnô thắng ngựa vào các xe của nhà chủ và suốt đêm chất của cải và vũ khí lên xe cho đến tảng sáng. Mặt trời mọc trên tòa dinh thự đang bốc cháy ngùn ngụt.
Ở Gulia-Pôlê vụ cướp táo bạo này đã gây được một ấn tượng rất mạnh. Vào thời kỳ ấy nông dân đã oán giận đến cùng cực ách thống trị của quân Đức, của bọn địa chủ mới, của bọn cảnh binh thuộc chính quyền thống lĩnh vốn động một tí gì cũng thẳng tay đàn áp họ. Vì không dám tin nông dân, bọn địa chủ không chịu phát canh cho họ và không những đòi họ phải nộp thu hoạch mùa hè năm nay, mà còn bắt họ phải đền lại bằng thóc những khoản thất thu năm ngoái nữa. Nông dân chỉ còn cách kêu gào chửi rủa số phận mình nữa mà thôi. Lúc bấy giờ Makhnô đã xuất hiện và tuyên bố mở cuộc khủng bố. Trong các làng mạc thôn ổ có tin đồn là dân vùng này đã tìm được một thủ lĩnh.
Nông dân vững dạ trở lại. Các dinh thự thi nhau bốc cháy. Những đống thóc trên thảo nguyên cũng lần lượt bị thiêu ra tro. Những đội du kích tấn công một cách xấc xược những chuyến tầu thủy và sà lan chở lúa mì về Đức. Những cuộc dấy động lan sang hữu ngạn sông Đniepr. Các đạo quân Đức và Áo được lệnh trấn áp ngay những vụ phiến loạn. Hàng trăm đội tiễu phỉ được điều đi khắp xứ sở Ukrain. Lúc bấy giờ Makhnô, với một đội quân ít ỏi nhưng vũ trang đầy đủ, liền chủ động tấn công trước vào quân Áo.
Quân đội của thủ lĩnh Makhnô lúc bấy giờ chưa lấy gì làm lớn. Nòng cốt thường xuyên không bao giờ tẩu tán - của nó gồm hai ba trăm tay anh chị hết sức liều lĩnh. Ở đây có cả những lính thủy Hắc hải, cả những thủ lĩnh nhỏ đã đem quân đến sáp nhập với Makhnô, cả những người vô gia cư, đi đánh nhau chỉ vì thích mạo hiểm, thích sống một cuộc đời thú vị.
Cũng vào thời kỳ ấy quân đội Makhnô bắt đầu thu nạp cả những tên vô chính phủ hoạt động lẻ loi, gọi là những “chiến sĩ” đã được nghe đồn về những toán cướp mới xuất hiện cưỡi ngựa rong ruổi tự do trên thảo nguyên. Đi bộ đến đại bản doanh của Makhnô, đói và rách, túi áo bên này đựng một quả bom, còn túi kia một cuốn Krôpôtkin, các “chiến sĩ” nói với thủ lĩnh Makhnô:
- Chúng tôi nghe nói đâu anh là một cá nhân thiên tài. Hừm! Để xem thử.
- Cứ xem đi, - Makhnô đáp.
- Được thôi, nếu anh quả đúng là người như thế, anh sẽ có tên trong lịch sử thế giới. Biết đâu anh lại chẳng trở thành một Krôpôtkin thứ hai?
- Có thể, - Makhnô đáp.
Bọn vô chính phủ ấy bắt đầu đi theo Makhnô trong đoàn xe tải, uống rượu với hắn, nói với hắn những câu cách ngôn kỳ quái mà hắn vốn rất thích nghe, về lịch sử và danh vọng. Và dần dần trong bọn họ có mấy người bắt đầu được đưa lên những cương vị phụ trách và chỉ huy. Và chưa chi mỗi người đã có một chiếc xe tatsanka chở chiến lợi phẩm đi theo: một thùng cô-nhắc, một cái ton-nô con đựng vàng, một cái bị đựng áo quần. Trong số những người này có Tsalđôn, Xkôrôpiônôv, Yugôlôbôv, Tsêređnyak, Engaretx, “Frantxuz” và nhiều người khác nữa. Ở những trạm nghỉ lâu họ đi kiếm từng bầy con gái về làm thành cả một xóm nhà thổ, và tổ chức những “đêm Athen”, nói quả quyết với thủ lĩnh rằng một cách xử lý như vậy đối với vấn đề tình dục nam nữ có tác dụng giải phóng sinh hoạt ra khỏi những sự gò bó cổ hủ, còn như bệnh giang mai thì chỉ là chuyện vặt vãnh, nhảm nhì, một khi tự do tuyệt đối đã được thực hiện. Makhnô gọi bọn vô chính phủ này là một lũ bò sát bẩn thỉu, đã mấy lần dọa đem bắn họ, nhưng rốt cục vẫn dung thứ cho họ vì đó là những con người sách vở, hiểu rõ thế nào là danh vọng thế giới.
Quân đội không có đại bản doanh cố định. Tùy nhu cầu từng thời kỳ, nó được di chuyển từ đầu đến cuối tỉnh trên lưng ngựa và trên xe tatsanka. Mỗi khi dự tính một vụ cướp phá hay chuẩn bị tác chiến, Makhnô phái người vào làng mạc để báo tin và thân hành đến những nơi tụ tập đông người đọc một bài diễn văn bốc lửa, sau đó thuộc hạ của hắn đứng trên xe ném vào đám đông những súc dạ và vải hoa. Trong vòng một ngày, xung quanh cái nòng cốt của quân đội hắn đã có thêm một số du kích nông dân đông đảo. Đánh nhau xong, đám quân tình nguyện ấy lại giải tán ai về làng nấy một cách cũng nhanh chóng như thế, cất giấu vũ khí đi rồi như thể biến thành người khác: họ ra đứng ở cổng gãi lưng gãi gáy một cách lười biếng khi pháo binh Đức rầm rộ kéo qua làng để đi tìm địch quân. Những đội quân Đức và Áo đi truy kích Makhnô bao giờ cũng đấm vào không khí, và bao giờ con quỷ có phép tàng hình cũng bất thần xuất hiện ở hậu phương của họ. Giống như những toán cướp du mục ngày xưa, quân du kích của Makhnô không bao giờ chịu ứng chiến một trận quyết định, họ vừa reo hò, huýt sáo, vừa bắn vừa chạy tán loạn trên lưng ngựa và trên xe tatsanka, rồi lại tập hợp ở một nơi mà không ai ngờ họ có thể đến, và tấn công bất thình lình.
Trong làng vắng hẳn đi. Makhnô cũng đã ngồi lên chiếc xe giàn lợp tấm thảm có ba ngựa kéo, đi theo quân đội. Lúc bấy giờ đã vào giữa trưa. Một cô con gái to béo, mắt còn sưng húp vì khóc nhiều, váy xắn cao lên, đang quét nhà bằng cái chổi ngải đắng. Lão chủ nhà ngồi bên khung cửa sổ nhỏ mở rộng nhìn ra mấy ngọn đồi, nơi bộ binh và kỵ binh vừa kéo đi và bây giờ chỉ thấy có hai cái chòi xay gió đang quay mấy cánh quạt một cách thanh bình. Chốc chốc lão lại thở dài: hình như cuộc nói chuyện ban nãy với Makhnô không làm cho lão yên tâm.
Katya ra giếng rửa ráy và sửa sang lại một chút. Chủ nhà gọi nàng ra ăn trưa. Nàng ăn hai chiếc bánh nướng, uống một ít sữa. Và bây giờ, tuyệt nhiên không còn biết mình phải làm gì và chờ đợi cái gì nữa, nàng ra ngồi ở khung cửa sổ bên kia. Trời rất nóng nực. Ngoài đường có rất nhiều gà đi lang thang giữa những bãi phân ngựa hãy còn ướt. Trong các mảnh vườn, những cây quỳ đung đưa mấy đóa hoa vàng óng, mấy cây anh đào nặng trĩu những quả mọng. Một con diều hâu lượn vòng trên xóm làng. Lão chủ nhà vẫn ngồi rên ư ử và thở dài.
- Mày cứ tốc váy lên đến tận đầu ấy, con mặt dày, - lão nói với cô con gái mắt húp híp - Nó sờ mó như thế thì đã sao chưa... Mày chẳng phải là đứa đầu tiên.
Cô con gái bật khóc lên, vứt cái chổi và buông váy xuống che đôi bắp chân mập mạp và trắng trẻo. Lão chủ nhà nhìn cái chổi một lát.
- Thằng nào thế? Cháu cứ nói đi, đừng sợ, Alekxanđra ạ.
- Cháu có biết tên hắn là gì đâu, cái thằng chết tiệt ấy.... Không phải người ở đây... Hắn đeo kính trắng.
- Thấy chưa, - lão chủ nhà nói nhanh, như thể mừng rỡ. - Đeo kính à... Thế thì một thằng trong cái bọn ấy đấy, bọn vô chính phủ ấy mà - lão quay về phía Katya. - Con Alekxanđra cháu tôi đấy... Tôi sai nó ra ngoài kho lấy rơm... Cô có biết nhà kho ở đâu không? Sáng ra nó về, quần áo rách bươm. Đến tởm!...
- Hắn say. Hắn giơ súng ra dọa. Cháu còn biết làm thế nào? nào? - Alekxanđra khóc khe khẽ.
Lão chủ nhà giẫm mạnh bàn chân không xuống nền nhà quát:
- Mày xéo đi. Ở đây cũng chẳng biết làm thế nào mà sống sót được.
Cô con gái chạy ra ngoài. Lão chủ nhà lại nhìn ra mấy ngọn đồi, rên ư ử.
- Còn biết làm thế nào? Nuôi cái bọn kẻ cướp ấy, chúng tôi sướng lắm đấy hẳn? Cứ nói cái chuyện ngựa chẳng hạn: chúng nó bắt đi kéo xe tatsanka cho chúng. Mà chúng nó phi đến tám mươi dặm liền ấy chứ... Ngựa có phải là máy đâu, phải thương yêu vỗ về nó... Ngựa của chúng tôi bây giờ thành ra què quặt, ốm dở hết rồi... Chao ôi, chiến tranh!
Cái thông phong của cây đèn treo trên bàn rung lên, kính cửa sổ khẽ đập lách tách. Làn không khí nồng nực như thể cất tiếng thở dài. Một tiếng sấm xa xa vang rền trên mặt đất. Lão chủ nhà cuống quít chồm nửa người ra ngoài cửa sổ và nhìn hồi lâu lên mấy quả đồi, nơi có một người cưỡi ngựa đứng một mình cạnh hai cái chòi xay gió. Rồi lão quay vào bức tranh thánh nhỏ đặt ở góc nhà làm dấu chữ thập, ngón tay chỉ rất đúng từng chỗ “cha” “con” và “thánh thần”.
- Pháo Đức đang dội vào cánh ta đấy, - lão nói rồi lại luồn tay vào trong chiếc áo phai bạc gãi sồn sột. - Chao ôi, thời với buổi! - Lão cầm cái chổi lên, ném vào góc nhà và đi ra ngoài ánh nắng chang chang sực mùi phân ngựa.
Lúc bấy giờ ở ngoài đường có một đám người kéo qua, dáng lo âu sợ sệt. Đó là những hành khách đi tàu hôm qua. Người đi trước là ông giáo vật lý Ôbrutsev; ông ta vừa đi vừa nhìn qua vành trên cái kính cặp mũi; ông vẫn mặc áo đi mưa bằng vải dầu, đi giày bọc và trông ra dáng một người cầm đầu: đám hành khách tín nhiệm ông ta.
- Ra đây với chúng tôi đi! - ông ta quát gọi Katya. Nàng lại gần. Đám hành khách người nào cũng phờ phạc, mặt gầy hẳn đi. Hai người đàn bà có tuổi mặt húp híp vì khóc. Gã đầu cơ cải trang chẳng thấy đâu nữa.
- Trong nhóm chúng ta có một người mất tang: chắc là bị bắn rồi, - Ôbrutsev nói, giọng phấn chấn. - Tất cả chúng ta sẽ chung số phận với người ấy, các vị ạ, nếu ta không có đủ nghị lực cần thiết. Ta phải giải quyết ngay lập tức vấn đề sau đây: nên đợi trận đánh ngã ngũ, hay nên thừa lúc không có ai canh giữ ta cả (hay hình như thế) cố gắng đi bộ ra đến đường tàu... Ai phát biểu xin giới hạn trong một phút đồng hồ.
Bây giờ mọi người liền nhao nhao lên một lúc. Người thì nêu lên rằng nếu bọn cướp đuổi kịp họ giữa đồng không mông quạnh, chắc chắn là chúng sẽ giết sạch cả lũ. Người thì nói rằng bỏ đi trốn may ra còn có cơ thoát nạn. Người thì tin chắc rằng quân Đức sẽ thắng, và bàn nên đợi cho xong trận đánh đã. Đến khi sau dãy đồi lại có tiếng đại bác vang rền, mọi người im bặt và nhăn nhó nhìn về phía ấy. mặc dầu chẳng trông thấy gì ngoài hai cái chòi xay gió đang lười biếng quay mấy cánh quạt. Ôbrutsev đọc một bài diễn văn ngắn gọn và minh xác, trong đó ông ta phân tích tất cả các mối mâu thuẫn của tình thế. Hai bà có tuổi nhìn hau háu vào mồm ông ta như nhìn một vị truyền giáo. Chẳng quyết định được gì, đám hành khách vẫn đứng tần ngần giữa lũ gà và chim sẻ trên con đường làng vắng tanh, nơi mà chẳng có lấy một linh hồn nào nẩy ra ý thương xót lấy những đồng bào người Nga của mình... Họ có thiết gì! Đằng kia một mụ đàn bà tóc xõa dòm ra cửa sổ, ngáp dài rồi quay đi. Từ sau một góc nhà, một gã nông dân mặc áo không thắt lưng bước ra, vẻ cáu kỉnh. Hắn không thèm nhìn đám hành khách lấy một giây, cúi xuống nhặt một cục đất sét, lấy hết hơi sức ném thật mạnh vào con lợn của một nhà khác. Và mấy con diều hâu đang lượn vòng trên trời cũng nhìn xuống một cách dửng dưng như vậy cái đám người thị thành bị cướp sạch, chẳng có nghĩa lý gì đối với ai ở đây cả.
Từ phía sau quả đồi bốc lên một đám bụi. Người cưỡi ngựa đứng bên hai chòi xay gió thúc ngựa phi xuống và khuất mất ở bên kia đồi. Trong đám hành khách có mấy người bàn nên quay lại trụ sở ban quản trị hàng tổng, nơi họ ngủ lại đêm qua. Hai bà có tuổi bỏ đi trước tiên. Đến khi từ sườn đồi bên kia nhô lên mấy cỗ tam mã phi hết tốc lực, những người còn lại cũng đi nốt. Trên đường làng chỉ còn lại một mình Katya và ông giáo vật lý đang khoanh tay dưới tấm áo mưa, dáng rất hiên ngang.
Có cả thảy bốn năm cỗ xe phi lại, vòng qua cái hồ rồi xuất hiện ở đầu làng. Đó là xe chở thương binh về. Cỗ xe đi trước dừng lại bên cửa sổ một ngôi nhà. Người đánh xe, một người du kích cao lớn mặc áo da cừu phanh ngực, quát lớn:
- Nađejđa, gã của chị trở về rồi đây này.
Từ trong nhà một người đàn bà vừa chạy ra vừa giật bỏ cái tập đề, cất cái giọng ồ ồ kêu lên mấy tiếng rồi gieo mình lên chiếc xe tatsanka. Từ trên chiếc xe bước xuống một thanh niên mặt xanh như tàu lá, giơ tay quàng cổ người đàn bà, đầu gục xuống, người cúi lom khom, lê vào nhà. Cỗ xe đến trước một nhà khác. Từ trong nhà nhảy xổ ra ba người con gái mặc áo màu sặc sỡ.
- Dắt về đi, các cô mình, bị thương nhẹ thôi, - người đánh xe vui vẻ reo lên, đoạn cho ngựa quay lại đi bước một, mắt nhìn xem nên chở người bị thương còn lại trên xe đi đâu bây giờ. Người bị thương ấy là Miska Xôlômin. Hắn ngồi trên xe, mắt nhắm nghiền, đầu quấn những tấm giẻ ở áo sơ mi xé ra, máu ứa ra đỏ lòm, hai hàm răng nghiến chặt. Bỗng người đánh xe ghìm ngựa lại:
- Prrr... Trời ơi, chị đấy à! Êkatêrina Đmitrievna đấy à?
Thế này thì thật Katya không thể nào ngờ được. Ngạt thở vì xúc động, Katya chạy đến bên xe. Người đang đứng trên xe hai chân dạng rộng, một tay chống cạnh sườn, tay kia cầm cương, chính là Alekxêy Kraxilnikôv. Quanh khuôn mặt anh ta loăn xoăn bộ râu quai nón, đôi mắt trong sáng ánh lên mừng rỡ. Trên thắt lưng anh đeo một chùm lựu đạn, một băng đạn súng máy bắt chéo qua tấm áo da cừu, khoác sau vai là một khẩu súng trường kỵ binh.
- Êkatêrina Đmitrievna... Làm sao chị lại đến đây? Chị ở nhà ai? Nhà này à? Nhà Mitrofan à? Ông anh họ tôi đấy, cũng họ Kraxilnikôv... Chị xem này, khổ thân thằng Miska quá: đầu nó gần bay mất một nửa vì đạn.
Katya bước bên cạnh cỗ xe tatsanka, Alekxêy hãy còn say sưa hồi hộp vì trận đánh vừa qua. Đôi mắt, hàng răng, nụ cười đều ánh lên sáng ngời:
- Bọn tôi đánh quân Đức tan ra như cám rồi!... Cái quân ngu thật... Ba lần chúng nó lao vào súng máy bọn tôi. Bây giờ mấy ông bạn nằm ngổn ngang khắp cả cánh đồng... Bây giờ bố Makhnô tha hồ mà cấp quân trang cho bộ đội... Prrrr... - anh ta quát ngựa, - Mitrôfan, ra đây nào, cứ ru rú trong hang thế à? Ra đây mà đón một anh hùng bị thương... Còn chị thì bây giờ phải thế này, Êkatêrina Đmitrievna ạ. Chị chớ đi đâu ra khỏi nhà này. Ở đây không hay ho gì lắm đâu...
Trên tháp chuông buông xuống một tiếng đồng ngân nga. Khắp làng có tiếng cổng mở ra đóng vào lạch cạch, những cánh cửa sổ mở toang, đàn bà chạy ùa ra đường, rồi đàn ông cũng thận trọng bước ra, không hiểu từ đâu dổ ra lắm người thế. Họ vừa nói chuyện, hát hò, vừa đi ra đồng đón quân đội Makhnô chiến thắng trở về.
Có Katya giúp sức, Alekxêy Kraxilnikôv khiêng Miska vào nhà Mitrofan, đặt hắn nằm lên giường Alekxanđra, trong gian phòng mùa hạ. Bấy giờ hắn đã gần như mê man đi, dở sống dở chết. Katya loay hoay tìm cách băng bó lại cho hắn, chật vật lắm mới gỡ được miếng giẻ máu đông cứng dính bết vào mái tóc. Miska chỉ nghiến răng ken két. Khi họ bắt đầu rửa cái vết thương khủng khiếp bên phải sọ, Alekxanđra, lúc bấy giờ đang bưng cái chậu đứng một bên, kêu lên một tiếng và lảo đảo suýt ngã, Alekxêy cầm lấy chậu và ẩy cô ta ra. Anh ta nói với Katya:
- Chị thấy không, có mẩu xương nhòn nhọn trồi ra một bên kia kìa. Xaska, đưa cái cặp gắp đường ra đây.
- Ôi, không có đâu, nó gẫy mất rồi.
Katya dùng móng tay cặp mẩu xương thòi lên trên vết thương thử rút nó ra. Miska gầm lên một tiếng. Chắc chắn đó là một mẩu xương bị vỡ. Móng tay nàng cứ tuột đi. Nàng cố đưa móng tay vào sâu hơn. Lần này nàng đã rút nó ra được.
Alekxêy thở dài đánh phào một tiếng, cười lớn:
- Bọn tôi đánh nhau như thế đấy: kiểu mu-gích mà!...
Họ lấy một miếng vải sạch băng đầu cho Miska. Người ướt đầm mồ hôi, hắn nằm dưới tấm áo tu lúp, run cầm cập. Một lát sau hắn mở mắt ra. Alekxêy cúi xuống người hắn hỏi:
- Thế nào. liệu có sống được không?
- Hôm qua tôi khoác lác với cô ấy, bây giờ lại thế này - Miska phều phào, miệng mỉm cười nhợt nhạt. Hắn đưa mắt nhìn về phía Katya. Nàng đã rửa tay xong và cũng đến cúi xuống bên cạnh hắn. Hắn mấp máy đôi môi:
- Aliôsa, cậu hãy trông nom cô ấy.
- Biết rồi, biết rồi.
- Tôi đã nghĩ bậy về cô ấy... Phải đưa cô ấy về tỉnh thành.
Hắn lại nhìn Katya đăm đăm với đôi mắt gần như điên dại. Hắn trấn áp cảm giác đau và cơn sốt như thể đó chỉ là một chuyện bực mình vặt vãnh không đâu. Hơi thở của thần chết đang mon men đến gần đã quét sạch tất cả những luồng dục vọng, tất cả những mối mâu thuẫn trong người hắn. Giây phút ấy hắn cảm thấy mình không phải là một thằng say rượu, một kẻ gian ác, mà là một tâm hồn Nga đang vật vã quằn quại như con chim trong giông bão, và đối với những sự nghiệp anh hùng hắn cũng có khả năng không kém bất kỳ ai: hắn cũng cao ngang tầm những sự nghiệp cao cả ấy.
Alekxêy nói khẽ:
- Bây giờ cứ để cho hắn ngủ. Không sao đâu: chàng trai này hăng say lắm. Hắn sẽ khỏi.
Katya đi với Alekxêy ra sân. Nàng vẫn ở trong cái trạng thái kỳ lạ của một người chiêm bao giữa cái thực, dưới bầu trời mênh mông, giữa cánh thảo nguyên nóng hừng hực phảng phất cái mùi khói phân khô cổ kính này, nơi mà sau một thế kỷ dừng chân con người lại lên ngựa phi nước đại nhoẻn rộng miệng cười với ngọn gió tự do, nơi những ước vọng nhiệt thành được thỏa mãn trọn vẹn như người đang khát được cốc nước đầy.
Nàng không thấy sợ. Nỗi buồn của nàng đã xe lại thành một cuộn nhỏ chẳng còn có nghĩa lý gì đối với ai ở đây cả, ngay đối với bản thân nàng cũng vậy. Bây giờ nếu có ai kêu gọi nàng hy sinh, hay đi lập một kỳ công, nàng cũng sẽ đi ngay cũng dễ dàng như thế, không suy nghĩ đắn đo gì. Nếu có ai nói với nàng: cần phải chết, thì nàng cũng ưng thuận ngay, chỉ thở dài ngước đôi mắt trong sáng lên nhìn trời.
- Vađim Pêtrôvits chết rồi, - nàng nói. - Tôi sẽ không về Môxkva đâu: Ở đấy tôi chẳng còn ai cả... Chẳng còn gì hết... Em tôi bây giờ ra sao tôi cũng không biết... Tôi cũng định kiếm một nơi nào... có lẽ tôi sẽ đến Êkatêrinôxlav...
Alekxêy đứng chạng hai chân nhìn xuống đất. Anh lắc đầu:
- Thật đáng tiếc. Vađim Pêtrôvits là người rất tốt...
- Vâng, vâng, - Katya nói, nước mắt rưng rưng. - Anh ấy tốt lắm...
- Hồi ấy anh chị không chịu nghe tôi. Dĩ nhiên chúng tôi có mục đích của chúng tôi, anh chị có mục đích của anh chị. Ở đây chẳng có gì phải mếch lòng. Nhưng làm sao đánh lại nhân dân được? Đời nào chúng tôi chịu hàng phục!... Hôm nay chị đã trông thấy mấy anh mu-gích chưa?... Dù sao anh ấy cũng là người rất chính trực...
Katya nói, mắt nhìn một cành anh đào nặng trĩu nghiêng ra ngoài bờ rào:
- Alekxêy Ivanôvits ạ, anh khuyên tôi đi: bây giờ nên làm gì? Vì dù sao cũng phải sống... -Nàng nói, rồi chợt thấy sợ: lời nàng như mất hút vào khoảng không.
Alekxêy không trả lời ngay:
- Làm gì ư? Chà, thật là câu hỏi quý tộc. Sao thế nhỉ? Chị là một người đàn bà có học, biết nói nhiều thứ tiếng, lại đẹp nữa, mà lại đi hỏi một thằng mu-gích xem phải làm gì!
Gương mặt anh ta tỏ ý khinh bỉ. Anh xóc xóc mấy quả lựu đạn đeo trên thắt lưng, làm cho nó khẽ kêu lách cách. Katya rúm cả người lại. Alekxêy nói:
- Chị ra tỉnh thành khắc kiếm được việc làm. Có thể đến quán rượu mà hát hay khiêu vũ, có thể đi làm tiền, cũng có thể vào một công sở nào mà đánh máy. Chị không chết đói đâu mà sợ.
Katya cúi đầu. Nàng cảm thấy Alekxêy đang nhìn mình, và cái nhìn ấy làm cho nàng không ngẩng đầu lên được. Và cũng như tối hôm qua với Miska, nàng chợt hiểu tại sao cái nhìn của Alekxêy đặt lên gáy nàng lại hằn học như vậy. Bây giờ không phải là lúc tha thứ, xót thương. Đã không phải là người của mình thì tức là kẻ thù. Nàng đã hỏi xem nên làm gì để mà sống. Nàng đã đem cái đó ra hỏi một chiến binh hãy còn hừng hực say sưa vì tiếng đạn réo, tiếng vó ngựa và vì hơi men chiến thắng... Sống như thế nào ư? Katya chợt thấy rõ câu hỏi này kỳ quặc đến nhường nào. Giá nàng hỏi xem nên phóng xe tatsanka qua thảo nguyên với người bạn nào, vì nền tự do nào, thì hẳn mắt anh ta sẽ ánh lên vì một cảm tình nồng hậu...
Katya đã hiểu. Như một con thú rừng nhỏ yếu, nàng quay ra mưu mẹo. Trong mấy ngày qua, đây là lần đầu tiên nàng tìm cách tự bào chữa:
- Anh chưa hiểu ý tôi, Alekxêy Ivanôvits ạ. Tôi bị cuốn đi đây đó như chiếc lá khô trước gió thế này, có phải tại tôi đâu. Tôi biết yêu thương cái gì? Tôi biết quý chuộng cái gì? Anh không dạy cho tôi, thì cũng đừng vặn tôi. Hãy dạy cho tôi biết đã (Alekxêy không xóc xóc cho mấy quả lựu đạn kêu lách cách nữa: như thế nghĩa là anh ta đã chú ý, đã muốn lắng nghe) Vađim Pêtrôvits đã bất chấp những lời khuyên can của tôi mà bỏ đi với quân bạch vệ. Tôi thật không muốn thế. Và anh ấy đã nặng lời trách móc tôi là không biết căm thù... Tôi thấy hết, tôi hiểu hết đấy Alekxêy Ivanôvits ạ, nhưng tôi cứ đứng ra ngoài. Như thế rất khủng khiếp. Cái khổ của tôi là ở đấy cả... Chính vì vậy mà tôi hỏi anh xem nên làm gì, sống như thế nào...
Nàng im lặng một lát rồi nhìn vào mắt Alekxêy Ivanôvits một cách thẳng thắn, cởi mở. Anh ta chớp chớp đôi mắt. Gương mặt anh ta trở nên ngờ nghệch, thật thà và lộ vẻ bối rối, như thể vừa bị chơi khăm. Anh bất giác đưa tay lên gáy gãi gãi.
- Kể cũng gay thật đấy, chị nói đúng đấy, - anh ta nhăn mũi lại nói - Đối với chúng tôi thì sự tình nó đơn giản lắm. Thằng em tôi nó giết chết một thằng Đức ở sân nhà, thế là chúng tôi đốt nhà và ra đi. Đi đâu? Đi tìm thủ lĩnh. Còn chị là người trí thức... Quả thật cũng gay...
Cái mẹo của Katya đã thành công. Alekxêy Ivanôvits hình như có ý định giải quyết ngay tại chỗ cái vấn đề chết tiệt này: những người như Katya - không có đất, không có ngựa - phải đấu tranh cho chân lý nào? Đó là một công việc bạc bẽo.
Katya đứng yên bên hàng dậu nhìn lên cây anh đào. Nàng muốn bứt hai quả anh đào đã chín thâm lại, treo lủng lẳng như đôi hoa tai, nhưng rồi nàng vẫn lặng yên đứng trước mặt Kraxilnikôv, duy trong đôi mắt to phản chiếu ánh trời xanh của nàng thoáng lóe lên những tia trào phúng.
- Một khi nông dân chúng tôi nuôi sống những người thành thị như chị, thì tất nhiên những người như chị phải đứng về phía chúng tôi, - Alekxêy Ivanôvits vừa nói vừa làm một cử chỉ cương quyết để tăng thêm sức thuyết phục - Nông dân chúng tôi chống lại quân Đức, chống lại bọn bạch vệ, chống lại bọn cộng sản, nhưng ủng hộ các xô viết nông thôn tự do. Chị hiểu chứ?
Nàng gật đầu. Alekxêy lại nói tiếp. Nàng bèn kiễng chân lên và giơ tay trái -vì bên tay phải áo nàng bị tuột chỉ ở dưới nách - bứt hai quả anh đào, rồi cho một quả vào mồm, còn một quả kia nàng cầm đầu cuống vê cho nó quay tít đi.
- Giá tôi là người nông thôn, mọi thứ sẽ rõ ràng ngay, - nàng nói đoạn nhổ cái hột anh đào ra. - Đã bao nhiêu lần tôi nghe đến tổ quốc, đến nước Nga, đến nhân dân, nhưng đó là cái gì thì bây giờ tôi mới nhìn thấy lần đầu. - Nàng ăn nốt quả anh đào thứ hai, liếc sang nhìn Alekxêy Kraxilnikôv, nhìn bộ râu óng ánh dưới nắng, cái áo da phanh ngực, đôi chân lực lưỡng, những vũ khí dữ dội anh đeo trên người.
- Nhân dân, nhân dân, - anh ta lẩm bẩm, mỗi lúc một thêm bối rối - dĩ nhiên cũng chẳng phải là cái gì lạ lùng lắm đâu. Nhưng cái gì của chúng tôi thì đừng hòng chiếm đoạt. - Anh ta nắm lấy cái cọc nhô lên trên dãy rào, lay thử xem có chắc không. - Chúng tôi sẽ chiến đấu rất ác liệt, dù có phải đánh nhau với cả thiên hạ... Êkatêrina Đmitrievna ạ, thứ tôi thì nói cho cô nghe chẳng ra gì đâu, cô phải nghe mấy tay vô chính phủ của chúng tôi nói cơ, họ nói mới tuyệt... Chỉ có điều...(Đôi lông mày anh ta nhích nhích, đôi mắt anh nhìn quanh qua Katya một lượt như muốn cân nhắc điều gì). Khốn nỗi bọn họ chơi bời vong mạng, rượu chè phóng đãng chết người đi được... Có lẽ chẳng nên để cho họ trông thấy chị làm gì...
- Chuyện vặt! - Katya nói.
- Chuyện vặt là thế nào?
- Là thế thôi. Tôi chẳng còn bé bỏng gì, không dở trò với tôi được đâu.
- Chị nói hay đấy nhỉ...
Cằm Katya rung rung; miệng mỉm cười, nàng lại giơ tay với cành anh đào. Nàng cảm thấy nắng thấm vào khắp người nàng, mơn man trên da thịt nàng, và đó cũng là chiêm bao giữa cõi thực.
- Nhưng tôi có thể làm việc gì ở đây bây giờ? - Nàng nói, - Anh nghĩ thế nào hở Alekxêy Ivanôvits?
- Làm công tác văn hóa ấy... Thủ lĩnh có một phòng chính trị... Nghe nói ông ta đang muốn ra một tờ báo riêng.
- Thế anh thì sao?
- Tôi ấy à?... (Anh ta lại nắm lấy cái cọc, lay lay) Tôi là một chiến sĩ thường, đánh xe tatsanka chở đại liên. Vị trí của tôi là ở chiến trường... Êkatêrina Đmitrievna ạ, chị phải nghĩ cho chín đi đã, đừng quyết định ngay. Tôi sẽ đưa chị về chỗ cô Matriôna em dâu tôi. Chúng tôi sẽ nhận chị vào gia đình chúng tôi, chứ còn gì nữa nhỉ.
- Ông thủ lĩnh Makhnô dặn tôi tối nay phải đến chuốt móng tay cho ông ta đấy.
- Sao?! - Alekxêy lập tức đưa hai tay nắm chặt lấy cái thắt lưng dưới vạt áo da; thậm chí mũi anh ta còn nhọn hoắt ra nữa. - Móng tay à? Thế chị trả lời thế nào?
- Tôi trả lời rằng tôi là một tù nhân, - nàng đáp, giọng điềm tĩnh.
- Thôi được. Ông ta cho người đến gọi thì chị cứ đi đi. Nhưng tôi sẽ có mặt ở đấy...
Vừa lúc ấy cô Alekxanđra béo tốt từ trên thềm chạy xuống, tay rũ rũ cái tạp đề.
- Về kia rồi, về kia rồi! - cô ta vừa reo vừa chạy ra mở cổng.
Xa xa có tiếng “u-ra”, tiếng súng lẻ tẻ, tiếng vó ngựa rầm rập.
Thủ lĩnh Makhnô đã kéo quân về. Katya và Alekxêy đi ra đường. Trên thảo nguyên tung lên những đám bụi lớn. Trên mấy quả đồi, từng đoàn người cưỡi ngựa và xe tam mã phóng qua hai cái chòi xay gió.
Tiền quân đã vào làng. Trẻ con cuống quít ở xung quanh. Mấy cô gái chạy hai bên đường. Những con ngựa ướt đẫm, sủi bọt mồ hôi phi tới, sườn phập phồng. Bọn Makhnô đứng trên các xe giàn, mồ hôi nhễ nhại, bụi bám đầy người, mũ đội vẹo vọ.
Makhnô đi một chiếc xe tatsanka che tấm thảm Ba-tư rìa bay phấp phới. Hắn ngồi trên một cái thùng đạn, tay chống lên đùi, khuỷu tay khuỳnh ra, chiếc mũ lông cừu đặt trên đùi. Gương mặt xanh xao của hắn cứng đờ, các thớ thịt căng thẳng, đôi môi khô nẻ mím chặt.
Trên chiếc xe giàn đi theo sau xe hắn có sáu người dáng dấp như người thành thị, mặc áo vét tông, đội mũ phớt nỉ hay mũ rơm, người nào cũng để tóc dài, để râu cằm nhọn, đeo kính: đó là những tên vô chính phủ trong ban tham mưu và phòng chính trị.

8

Năm tháng ròng Đasa ở một mình trong mấy căn phòng trống trải. Khi ra đi, Ivan Ilyits có để lại cho nàng một nghìn rúp, nhưng số tiền này tiêu chẳng được bao lâu. May thay ở tầng dưới có một người ngoại quốc rất láu lỉnh tên là Mattê dọn đến ở căn nhà của một viên đại thần Pêterburg đã đem cả gia đình đi trốn hồi tháng giêng. Cái ông Mattê ấy chuyên mua lại những bức tranh, những thứ đồ gỗ và đủ các thứ linh tinh khác.
Đasa bán cho ông ta cái giường đôi, mấy bức tranh khắc, mấy thứ đồ trang trí bằng sứ. Nàng từ giã một cách dửng dưng những đồ đạc còn giữ lại những kỷ niệm đau đớn như giữ lại một mùi hương cũ. Nàng đã đoạn tuyệt với dĩ vãng, đoạn tuyệt hẳn rồi.
Bằng số tiền bán đồ, nàng sống qua mùa xuân và mùa hạ. Thành phố đang vắng dần. Cách Pêterburg một tiếng đồng hồ đi xe ngựa, bên kia sông Xextra, là chiến tuyến. Chính phủ đã dời về Moxkva. Những tòa cung điện nhìn xuống sông Nêva bằng những khung cửa sổ trống hoác bị đạn bắn lỗ chỗ. Tối đến, ngoài phố không có đèn. Dân quân chẳng thiết gì bảo vệ an ninh cho đám dân tư sản: dù sao trước sau họ cũng không sao thoát khỏi cái số phận hẩm hiu của họ. Tối đến, trên các đường phố lại xuất hiện những con người đáng sợ mà trước kia không hề thấy có. Họ dòm vào các cửa sổ, đi tha thẩn trên những cầu thang gác tối tăm, vặn thử nắm đấm ở các cửa phòng. Thật đáng lo ngại cho những ai không biết đề phòng, không khóa cửa cho kỹ và cài hàng năm sáu lượt then chốt vào. Ngoài hành lang có tiếng sột soạt khả nghi, rồi mấy người lạ mặt ùa vào nhà. “Giơ tay lên!”, họ xông vào những người ở trong nhà, dùng dây điện trói lại rồi thong thả gói đồ đạc mang đi.
Trong thành phố có dịch tả. Đến mùa hoa quả nạn dịch càng hoành hành kinh khủng. Nhiều người ôm bụng ngã lăn ra giữa phố, giữa chợ. Khắp nơi xì xào bàn tán. Người ta chờ đợi một tai họa chưa từng thấy. Người ta nói với nhau rằng hồng quân đeo trên mũ một ngôi sao năm cánh chổng ngược: đó chính là phù hiệu của Ma vương phản cơ đốc, và đâu như trong ngôi nhà thờ bỏ hoang trên cầu trung úy Smiđt bắt đầu thấy xuất hiện “con ma trắng” báo hiệu một trận lụt khủng khiếp. Người ta đứng trên các cầu chỉ ra những ống khói nhà máy nguội lạnh: trên nền trời chiều đỏ rực ở phía tây, những cái ống khói ấy chĩa lên đen ngòm như mấy “ngón tay của quỷ sứ”.
Các nhà máy đều đóng cửa. Công nhân sung hết vào các đội tiếp tế, hoặc đi về nông thôn. Trên các phố, ở những kẽ đá lát đường cỏ nhú lên xanh rì.
Đasa vài ngày mới ra khỏi nhà một lần, mà cũng chỉ vào buổi sáng, để đi chợ. Ngoài chợ, mấy bà nông dân vô liêm sỉ đổi chục kí khoai tây lấy một cái quần. Xích vệ càng ngày càng hay đột nhập vào chợ bắn chỉ thiên để xua đuổi những tàn tích của chế độ tư sản: mấy bà nông dân đem khoai tây đổi lấy quần và rèm, và mấy cô tiểu thư cầm quần và rèm đi đổi lấy khoai tây. Càng ngày càng khó kiếm thức ăn. Đôi khi lại phải nhờ đến cái ông Mattê nọ cứu vãn tình thế cho: ông ta lúc nào cũng sẵn sàng đổi đồ hộp và đường lấy các thứ đồ cổ.
Đasa cố gắng ăn thật ít để đỡ phải lo lắng chạy vạy. Nàng dậy rất sớm, Nàng khâu vá nếu kiếm được chỉ, hoặc cầm lấy cuốn sách in từ năm mười ba hay mười bốn, đọc chỉ để đừng phải nghĩ ngợi; nhưng phần lớn thì giờ nàng ngồi bên cửa sổ suy nghĩ mông lung: hay nói cho đúng hơn, ý nghĩ của nàng cứ luẩn quẩn xung quanh một điểm tối tăm. Sự chấn động tâm thần vừa qua, nỗi tuyệt vọng, tâm trạng u uất - tất cả dường như đã vón lại thành một cuộn nho nhỏ ở trong óc, dấu tích của cơn bệnh cũ. Nàng gầy đi đến nỗi trông giống như một cô bé mười sáu tuổi. Vả lại con người nàng, nàng cũng cảm thấy như đã quay trở lại thời con gái, nhưng không còn chút gì là thanh thản nhởn nhơ như thời ấy nữa.
Mùa hè trôi qua. Những đêm trắng đã hết, và những buổi chiều tà trên Krôstađt đã nhuộm một mầu ảm đạm hơn. Đứng bên cửa sổ từng năm có thể nhìn ra rất xa: những dãy phố vắng vẻ đêm đang buông xuống dần, những khung cửa sổ tối om trên các nhà. Không thấy đâu thắp đèn lên. Thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng bước chân của một người qua đường.
Đasa nghĩ: rồi đây sẽ ra sao nữa? Đến bao giờ cái tình trạng mụ mằn ngưng trệ này mới chấm dứt? Chẳng bao lâu nữa sẽ sang thu, mùa mưa sẽ đến, gió rét sẽ lại rít trên các mái nhà, củi thì không có. Áo choàng lông đã bán đi rồi. Có lẽ Ivan Ilyits sẽ về... Nhưng rồi lại vẫn cái tình trạng buồn chán ấy, lại phải sống cuộc đời thừa như cũ.
Làm sao có được đủ sức để lay chuyển cái tình trạng mụ mẫm tê liệt này, đi cho khỏi cái nhà đang chôn sống đời nàng, đi cho khỏi cái thành phố đang hấp hối này!... Lúc bấy giờ sẽ diễn ra một cái gì mới mẻ trong cuộc sống... Lần đầu tiên trong năm ấy Đasa đã nghĩ đến một cái gì “mới mẻ”. Càng bất chợt thấy mình có ý nghĩ này, nàng ngạc nhiên, bồi hồi xúc động như thể sau tấm màn của nỗi chán chường vô vọng đã hé ra những hồi quang của một khoản rộng bao la tràn đầy ánh sáng - khoảng rộng mà nàng đã có lần mơ thấy trên chuyến tàu thủy trên sông Volga.
Và từ đấy bắt đầu những ngày buồn bã nhớ nhung: nàng bắt đầu thấy nhớ Ivan Ilyits, nàng thấy thương chàng với một nỗi xót xa mới mẻ nỗi xót xa của một người em gái. Nàng xót xa nhớ lại những sự săn sóc ân cần và nhẫn nại của chàng, cái tính đôn hậu thật thà của chàng mà xét cho cùng chẳng hề làm phiền ai cả.
Đasa lục trong tủ sách tìm ra ba tập thơ bìa trắng của Bexxônôv - một kỷ niệm đã phai nhòa từ lâu. Nàng đọc những bài thơ ấy vào lúc chiều tà, trong im lặng, khi những con én bay qua ngoài cửa sổ như những mũi tên. Trong những câu thơ ấy nàng tìm thấy những lời nói về nỗi buồn của nàng, về cảnh cô đơn, về làn gió tối tăm sẽ thổi hun hút trên mộ nàng... Đasa mơ mộng một lát, rồi khóc, Sáng hôm sau nàng mở hòm lấy tấm áo cưới sực mùi băng phiến ra và bắt đầu chữa nó lại. Cũng như hôm qua, én bay vun vút ngoài cửa sổ, mặt trời chiếu xuống một ánh sáng nhợt nhạt. Trong cõi im lặng, thỉnh thoảng lại nghe vang lên những tiếng ì ầm thưa thớt, đôi khi có tiếng gì răng rắc, tiếng một vật gì nặng nề đổ xuống mặt đường: chắc họ đang phá đổ ngôi nhà gỗ trong ngõ.
Đasa thong thả khâu. Chiếc đê của nàng tuột ra khỏi ngón tay gầy, có một lần suýt rơi ra ngoài cửa sổ. Nàng nhớ là mình đã đeo chiếc đê này ngồi trên cái rương ở phòng ngoài nhà chị nàng ăn mứt dẻo với bánh mì. Ấy là vào năm mười bốn. Katya có chuyện xích mích với chồng, bỏ nhà đi Pari. Chị nàng đội một chiếc mũ chụp xinh xắn có cắm lông chim trông bướng bỉnh một cách dễ thương lạ lùng. Ra đến cửa chị nàng quay lại; trông thấy nàng ngồi trên cái rương, chị nàng như vừa sực nhớ ra: “Đasa, em đi với chị đi”. Đasa đã không đi... Và bây giờ... Giá được ở Pari nhỉ... Đasa biết Pari qua những bức thư của Katya: một đô thành màu thiên thanh, làm bằng lụa, thơm như cái hộp đựng nước hoa... Nàng vừa khâu vừa thở dài, lòng bồi hồi xúc động. Pari... Nghe nói là không có tàu... Bây giờ họ không cho phép ra nước ngoài... Giá có thể đi bộ, vai khoác khăn gói đi qua rừng, qua núi, qua đồng, qua những con sông xanh, đi từ nước này sang nước khác, đến tận chốn đô thành hoa lệ, diễm huyền ấy...
Mấy giọt nước mắt nhỏ xuống tấm áo. Vớ vẩn quá đi mất, chỉ toàn nghĩ vớ vẩn! Đâu đâu cũng có chiến tranh. Quân Đức đang dùng một thứ đại bác rất lớn bắn vào Pari. Nàng đã thả hồn bay theo những mơ ước quá hão huyền! Sao người ta không chịu để cho con người sống yên lành, vui vẻ nhỉ? Thử hỏi như thế có chính đáng không?... “Mình có tội tình gì đối với họ?...”. Cái đê tuột ra, rơi xuống ghế, ánh sáng nhòe đi qua làn nước mắt, và mấy con chim én bay qua trong một tiếng huýt trống rỗng: chúng nó thì có cần gì nhiều, miễn có được vài con ruồi, dăm con muỗi... “Thế nhưng mình cũng sẽ bỏ đi, mình sẽ đi!” - Đasa khóc...
Ở phòng ngoài có mấy tiếng gõ cửa thong thả và cương quyết. Đasa đặt cây kim và cái kéo lên bậu cửa sổ, lấy miếng mụn vải vò nhầu lau mắt, ném nó lên mặt ghế rồi ra cửa...
- Đây có phải là nhà cô Đarya Đmitrievna Têlêghina không ạ?
Đasa không trả lời, cúi xuống lỗ khóa. Người đứng ở bên kia cánh cửa cũng cúi xuống, và qua lỗ khóa một giọng dè dặt nói:
- Cô ấy có thư ở Rôxtôv gửi về...
Đasa lập tức mở cửa ra. Một người lạ mặt bước vào, mình mặc áo ca-pốt lính nhàu nát, đầu đội mũ lưỡi trai rách, Đasa đâm hoảng, bước lùi lại, giơ hai tay ra phía trước như để chống đỡ. Người kia vội nói:
- Kìa cô, xin cô đừng... Đarya Đmitrievna, cô không nhận ra tôi ư?
- Không, không...
- Tôi là Kulitsek, Nikanor Yurêvits... trợ lý trạng sư. Cô có nhớ dạo ở Xextrôretxk không?
Đasa bỏ hai tay xuống, nhìn kỹ gương mặt gầy đã lâu ngày không cạo, có cái mũi nhọn nhọn. Những nếp nhăn quanh đôi mắt chăm chú và linh lợi cho biết đó là một con người đã quen thận trọng, cái miệng không đều nét báo hiệu tính cương quyết và tàn nhẫn. Người ấy giống như một con thú rừng nhỏ đánh hơi thấy nguy cơ.
- Chẳng lẽ cô quên rồi à? Đarya Đmitrievna... Hồi ấy tôi là trợ lý của Nikôlai Ivanôvits Xmôkôvnikôv, người chồng quá cố của chị cô... Hồi ấy tôi yêu cô, và đã bị cô cự cho một mẻ đích đáng... Cô nhớ ra chưa? - Hắn bỗng mỉm cười như đã quên giữ gìn thận trọng, một nụ cười “tiền chiến”, thật thà chất phác, và Đasa đã nhớ ra hết: dải bờ phẳng phiu, hơi nắng mờ mờ trên cái vịnh ấm áp và phẳng lặng một cách lười biếng, hình ảnh bản thân nàng, cô con gái “nhà lành”, không ai được đụng đến, chiếc nơ to tướng thắt trên chiếc áo dài con gái, anh chàng Kulitsek si tình mà nàng đã khinh miệt với tất cả niềm kiêu ngạo của một trinh nữ... Mùi hương của những cây thông cao vút ngày đêm cất tiếng rì rào trang trọng trên các cồn cát...
- Anh thay đổi nhiều quá, - Đasa nói, giọng run run, và đưa tay ra cho Kulitsek bắt. Hắn cầm lấy tay nàng một cách khéo léo, và đặt một chiếc hôn lên đấy. Tuy hắn mặc chiếc áo ca-pốt tồi tàn, vẫn có thể thấy rõ ngay rằng mấy năm qua hắn tòng ngũ trong một đơn vị kỵ binh.
- Cô cho phép tôi chuyển bức thư này. Cô cho phép tôi ngồi ở đâu đây để cởi đôi ủng một chút... Vì, xin lỗi cô, ở bên trong tôi quấn xà cạp. - Hắn đưa về phía Đasa một cái nhìn ngụ nhiều ý nghĩa và theo nàng đi vào một căn phòng trống trải ngồi xuống giữa sàn rồi nhăn mặt kéo đôi ủng lấm bùn ra.
Bức thư đó là của Katya, chính bức thư nàng đã chuyển cho thượng tá Tyôtkin.
Ngay từ mấy dòng đầu Đasa đã kêu lên một tiếng, đưa tay bưng lấy cổ - Vađim chết rồi ư!... Nàng lướt nhanh qua bức thư, mắt không kịp đọc từng chữ. Nàng háo hức đọc lại một lần nữa. Nàng bủn rủn tay chân, buông mình xuống tay vịn ghế bành. Kulitsek kín đáo đứng cách đấy một quãng xa xa.
- Nikanor Yurêvits, anh có gặp chị tôi không?
- Không ạ. Bức thư này do một người chuyển lại cho tôi cách đây mười hôm; người ấy cho biết rằng Êkatêrina Đmitrievna đã rời Rôxtôv được hơn một tháng...
- Trời ơi! Thế bây giờ chị ấy ở đâu? Chị ấy có làm sao không?
- Rất tiếc là tôi không hỏi kỹ được.
- Anh có biết chồng chị ấy không? Vađim Rôstsin ấy!... Anh ấy chết rồi... Katya có viết... ôi, khủng khiếp quá!
Kulitsek ngạc nhiên giương cao đôi lông mày. Bức thư cầm trong tay gầy gò của Đasa cứ run bắn lên, đến nỗi Kulitsek phải cầm lấy, đọc lướt qua mấy dòng nói chuyện Valêrian Ônôli báo tin chồng Katya chết... Khóe môi Kulitsek nhếch lên, vẻ hiểm hóc.
- Tôi xưa nay vẫn nghĩ rằng Ônôli có thể làm những việc hèn hạ...Theo lời hắn thì Rôstsin chết vào tháng năm. Phải không ạ? Điều đó rất kỳ lạ... - hình như tôi có gặp anh ấy sau đó ít lâu...
- Bao giờ? Ở đâu?
Nhưng đến đây Kulitsek nghển cái mũi diều hâu lên, nhìn Đasa xoi mói. Tuy vậy điều đó chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Đôi mắt Đasa sáng bừng lên vì xúc động, mấy ngón tay nhỏ nhắn của nàng, giá lạnh và co quắp lại, cho Kulitsek thấy rất rõ rằng mình có thể yên tâm; tuy là vợ của một sĩ quan đỏ, Đasa sẽ không đời nào phản bội. Kulitsek tiến đến sát Đasa, nhìn vào mắt nàng hỏi:
- Trong nhà này không có ai nữa đấy chứ? (Đasa hối hả gật đầu mấy cái). Cô nghe đây, Đarya Đmitrievna ạ, những điều tôi sắp nói ra đây sẽ đặt tính mạng tôi vào tay cô...
- Anh là sĩ quan của Đênikin à?
- Vâng.
Đasa bẻ ngón tay kêu răng rắc, thẫn thờ nhìn ra cửa sổ - nhìn vào màu xanh sâu thẳm kia...
- Với tôi anh không có gì phải sợ...
- Tôi cũng biết chắc như thế... Tôi muốn xin cô cho tôi trọ ở đây mấy hôm.
Hắn nói câu này bằng một giọng rắn rỏi, gần như có ý hăm dọa. Đasa cúi đầu.
- Được.
- Nhưng nếu cô sợ... (Hắn lùi lại một bước) Không chứ? Cô không sợ chứ? (Hắn lại tiến tới sát nàng) Tôi hiểu, tôi hiểu... Nhưng cô chẳng có gì phải sợ đâu... Tôi là người rất thận trọng... Tôi chỉ ra khỏi nhà vào ban đêm thôi... Không có một ai biết tôi đang ở Pêterburg... (Hắn rút từ trong một nếp gấp của chiếc mũ lưỡi trai ra một tấm thẻ quân nhân) Đây... Ivan Xvisev. Chiến sĩ Hồng quân. Giấy thật đấy. Chính tay tôi móc ra... Thế cô muốn biết về Vađim Pêtrôvits à? Theo tôi, ở đây có một sự lầm lẫn gì đấy...
Kulitsek nắm lấy hai tay Đasa, xiết chặt:
- Thế ra cô đứng về phía chúng tôi à, Đarya Đmitrievna? Cảm ơn cô. Toàn thể giới trí thức, tất cả giới sĩ quan bị lăng nhục, hành hạ đang tập hợp lại dưới ngọn cờ thiêng liêng của quân tình nguyện. Đó là một quân đội của những kẻ anh hùng. Và cô sẽ thấy: nước Nga sẽ được cứu thoát, sẽ được những bàn tay trắng trẻo cứu thoát. Còn những quân đê mạt kia sẽ bị quét sạch khỏi nước Nga! Dẹp hết cái thói đa cảm đi. Hừ! Nhân dân lao động! Vừa rồi tôi đã đi một nghìn rưởi dặm trên nóc toa xe lửa. Tôi đã nhìn thấy nhân dân lao động! Thật là một lũ thú vật! Tôi xin khẳng định: chỉ có chúng tôi, một dúm anh hùng rất ít ỏi, mang nước Nga chân chính trong tim mình. Và chúng tôi sẽ lấy lưỡi lê găm đạo luật của chúng tôi lên cổng lâu đài Tavrich...
Đasa choáng váng trước dòng từ ngữ tuôn ra như thác ấy... Kulitsek giơ cái móng tay đen kịt lên xoi mói vào khoảng không, hai bên mép hắn bắn nước bọt ra tung tóe. Chắc hẳn hắn đã phải im lặng quá lâu trên nóc toa.
- Đarya Đmitrievna ạ, tôi sẽ không giấu cô làm gì... Tôi đã được phái đến miền Bắc này để làm tình báo và chiêu nạp thêm những người cùng chí hướng. Hiện nay có nhiều người chưa hình dung được lực lượng của chúng tôi... Trong các báo ở đây chúng tôi chỉ là những toán bạch vệ, chỉ là một nhúm người thảm hại mà nay mai người ta sẽ quét sạch khỏi mặt địa cầu... Cho nên không có gì là lạ nếu giới sĩ quan chưa dám đi... Nhưng cô có biết những gì đang diễn ra ở vùng sông Đôn và sông Kuban không? Đạo quân của vị thủ lĩnh vùng sông Đôn đang lớn mạnh lên nhanh chóng. Ở tỉnh Vôrônej đã quét sạch hết quân đỏ. Xtavrôpôl đang bị uy hiếp... Chỉ nay mai thủ lĩnh Kraxnôv sẽ tiến ra sông Volga, chiếm Txaritxyn... Quả tình ông ta cũng có thậm thụt với quân Đức, nhưng cái đó chỉ là chuyện nhất thời... Chúng tôi, quân của Đênikin, tiến về phía nam Kuban như đi duyệt binh. Torgôvaia, Tikhôretxkaia và Velikonnyajexkaia đã lọt vào tay chúng tôi. Xôrôkin bị chúng tôi đánh tan không còn manh giáp. Tất cả các làng cô-dắc đều hân hoan đón mừng Quân tình nguyện. Ở Bêlaia Glina chúng tôi đã đánh một trận y hệt như ở lò sát sinh, chúng tôi đi trên một đống xác dày đến nỗi người đang hầu chuyện cô đây quân phục từ thắt lưng trở xuống đều như nhúng vào chậu máu...
Nhìn sâu vào đôi mắt hắn, Đasa tái mặt đi. Kulitsek cười ngạo nghễ.
- Cô tưởng thế là hết chắc? Đó chỉ mới là đoạn mở đầu của cuộc trấn áp. Đám cháy đang lan rộng ra khắp đất nước. Các tỉnh Xamara, Ôrenburg, Ufim, khắp vùng Ural đều ngập trong máu lửa. Bộ phận ưu tú trong nông dân đã tự động tổ chức những đội bạch quân. Cả miền trung lưu sông Volga đều đã lọt vào tay quân Tiệp. Từ Xamara đến Vladivoxtok là một tuyến khởi nghĩa liên tục. Giá không có bọn Đức chết tiệt kia, thì cả xứ Tiểu Nga đã đứng dậy nhất tề. Các thành phố vùng thượng lưu sông Volga là những kho thuốc nổ chỉ còn đợi châm ngòi... Bọn bolsêvik không thể sống qua một tháng nữa. Chúng nó chẳng đáng để cho ai đánh cá lấy một đồng xu rỉ. Kulitsek run lên vì kích động. Bây giờ hắn không còn giống một con thú nhỏ yếu nữa. Đasa nhìn gương mặt sắc sảo của hắn, một gương mặt giãi dầu nắng gió thảo nguyên, tôi luyện trong lửa chiến đấu. Đó là cả một cuộc sống sôi nổi đột nhập vào cảnh cô đơn trống trải của nàng. Đasa thấy hai thái dương nhoi nhói lên; tim nàng đập mạnh. Khi Kulitsek nhếch môi trên liếm điếu thuốc lá mộc cuốn, để lộ mấy cái răng cửa nhỏ nhỏ, Đasa hỏi:
- Các anh sẽ thắng. Nhưng dù sao chiến tranh cũng không thể kéo dài vĩnh viễn được... sau đó sẽ ra sao?
- Sau đó ấy à? - hắn nheo nheo đôi mắt, nói đai giọng ra - Sau đó sẽ tiếp tục chiến tranh với quân Đức cho đến thắng lợi cuối cùng, sẽ có đại hội toàn thế giới, trong đó chúng tôi sẽ bước vào với tư cách những bậc anh hùng vĩ đại nhất, và sau đó nữa, với sự đồng tâm hiệp lực của các nước đồng minh, của toàn thể châu Âu, chúng tôi sẽ phục hồi nước Nga - phục hồi lại trật tự, pháp chế, chế độ đại nghị, nền tự do. Đó là chuyện tương lai - Còn trong những ngày sắp tới...
Hắn bỗng đưa tay lên ngực, phía bên phải, lần tìm một vật gì dưới áo khoác. Hắn thận trọng rút ra một miếng các tông gấp đôi lại một cái nắp hộp thuốc lá, - xoay xoay trên đầu ngón tay một lát. Rồi lại nhìn trừng trừng vào Đasa, xoi mói.
- Tôi không thể liều lĩnh được... Số là thế này, Đarya Đmitrievna ạ... Ở đây đi ngoài phố hay bị khám xét lắm... Tôi sẽ giao cho cô một cái này. - Hắn thận trọng mở miếng các-tông lấy ra một hình tam giác nhỏ cắt từ một tấm danh thiếp ra. Trên cái hình tam giác ấy có viết bằng tay hai chữ O và K. - Cô cất hộ cái này. Đarya Đmitrievna ạ, cô phải giữ nó như giữ một thánh tích... Tôi sẽ bày cho cô cách sử dụng nó... Xin lỗi cô... không sợ chứ?
- Không.
- Cô cừ lắm, cừ lắm!
Thế là chỉ vì bị một ý chí mãnh liệt lôi cuốn, Đasa đã vô tình lọt vào trung tâm một âm mưu của cái gọi là “Liên minh bảo vệ tổ quốc và tự do” đang hoạt động ở kinh đô và cả một loạt thành phố khác trên lãnh thổ Đại Nga.
Cách xử sự của Kulitsek, đặc phái viên của đại bản doanh Đênikin thật là nông nổi, hầu như vô lý: mới trao đổi vài câu chuyện qua loa mà đã tin ngay một người đàn bà không quen biết mấy, lại là vợ một sĩ quan hồng quân. Nhưng ngày trước hắn đã từng yêu Đasa, và giờ đây, nhìn vào đôi mắt xám của nàng, hắn không thể không tin được khi đôi mắt ấy đã nói: “anh hãy tin”.
Hồi ấy, ý chí của con người ta chịu sự chi phối của những cảm xúc bồng bột trong chốc lát, chứ không phải của những suy tính điềm đạm. Cơn gió lốc của những biến cố dồn dập đang gầm thét, đại dương nhân loại đang cuộn sóng ào ạt, mỗi người đều cảm thấy mình là cứu tinh của con tàu đang lâm nguy, và đứng trên chiếc cầu chỉ huy tròng trành, vung súng lục lên bắt lái tàu sang trái hay sang phải. Và lúc bấy giờ tất cả đều chỉ là cảm giác: những ảo ảnh bạch vệ đang chờn vờn xung quanh nước Nga mênh mông bát ngát. Mắt người ta mờ đi vì căm thù. Những điều người ta mong ước đều hiện lên trong những bức tranh vân cẩu của ảo giác.
Chẳng hạn, sự diệt vong sắp tới của phe Bolsêvik lúc bấy giờ có vẻ như một điều không còn có thể hồ nghi nữa; tưởng chừng như những đạo quân can thiệp từ khắp bốn phương trời đang vượt biển đến giúp các đạo quân bạch vệ; tưởng chừng như một trăm triệu mu-gích Nga sẵn sàng cầu nguyện cho Quốc hội lập hiến; tưởng chừng như tất cả các thành phố của đế quốc Nga thống nhất thành một khối không có gì chia cắt nổi chỉ còn đợi một hiệu lệnh là sẽ đứng lên đánh đuổi các xô viết đại biểu và hôm sau sẽ hồi phục trật tự và nền pháp chế đại nghị.
Mọi người đều tự lừa dối bằng những ảo ảnh: từ cô tiểu thư Pêterburg chạy về miền Nam mà chỉ đem theo mấy thứ đồ lót, cho đến giáo sư Mêlyukôv thông thái tuyệt vời, mỉm cười ngạo nghễ đợi cho các sự cố diễn biến và kết thúc theo những phương hướng do chính ông vạch ra trong viễn cảnh lịch sử.
Trong số những người tin vào những ảo ảnh đầy sức an ủi đó có nhóm “Liên minh bảo vệ tổ quốc và tự do”. Nhóm này do Bôrix Xavinkôv thành lập vào đầu mùa xuân năm 1918, sau khi thủ lĩnh Kalêđin tự sát và quân đoàn Kornilôv rút ra khỏi Rôxtôv, nó dường như là một tổ chức bất hợp pháp của Quân tình nguyện.
Người đứng đầu liên minh là Xavinkôv, con người đã phủ quanh mình một bức màn bí mật, ẩn hiện bất kỳ như một bóng ma. Hắn đi lại trong thành phố Moxkva với một bộ ria nhuộm, mặc một chiếc áo va-rơi kiểu Anh, đi ghệt và khoác bành tô màu ngụy trang. Liên minh được tổ chức theo kiểu quân sự; nó có bộ tham mưu, phiên chế thành sư đoàn, đại đoàn, trung đoàn, nó có ban phản gián và đủ các thứ tổ chức hậu cần. Người cầm đầu bộ tham mưu là đại tá Perkhurôv.
Việc chiêu nạp thành viên cho liên minh được tiến hành theo những quy tắc giữ bí mật hết sức nghiêm ngặt. Mỗi người tham gia liên minh chỉ có thể biết được bốn người khác. Trong trường hợp bại lộ, chỉ có thể bắt được một tổ năm người, chứ không thể khai triển rộng thêm. Nơi đóng bộ tham mưu và tên họ các lãnh tụ là một điều bí mật đối với mọi người. Mỗi khi có người muốn vào liên minh, mỗi viên thủ trưởng trung đoàn hay một cấp chỉ huy thấp hơn đến tận nhà người ấy, hỏi chuyện, cấp một số tiền tạm ứng và ghi địa chỉ mật mã của người ấy vào một mảnh bìa. Những tấm thẻ này, có in những vòng tròn chỉ số thành viên và có ghi địa chỉ, hàng ngày được đưa về bộ tham mưu. Việc điểm duyệt các lực lượng của liên minh được tổ chức trên các đại lộ, gần các đài kỷ niệm: đến giờ hẹn, các thành viên phải đến với chiếc áo khoác để hở ngực theo một kiểu đặc biệt nào đấy, hoặc đính một dải lụa nhỏ ở một chỗ nhất định trên áo khoác. Những người làm nhiệm vụ liên lạc được cấp một mảnh danh thiếp hình tam giác có ghi hai chữ cái, một chỉ khẩu lệnh, một chỉ tên thành phố. Khi xuất trình, hình tam giác này được đem lắp thử vào tấm danh thiếp bị cắt xem có khớp không. Liên minh có một lực lượng tình báo đáng kể. Vào tháng tư, trong một cuộc họp bí mật, liên minh đã quyết định chấm dứt hoạt động phá hoại và tìm cách chui vào làm việc ở các cơ quan xô viết. Từ đây có nhiều thành viên của liên minh lọt được vào trung tâm của bộ máy nhà nước. Một bộ phận được cài vào các cơ quan cảnh vệ Moxkva. Một tình báo viên được đưa vào làm trong thành Kremlin. Một số nữa chui vào các cơ quan kiểm soát quân sự và ngay cả Hội đồng quân sự tối cao nữa. Thành Kremlin dường như bị bao bọc trong những mạng lưới dày đặc của liên minh.
Lúc bấy giờ việc quân đội Đức do thống chế Aishorn chỉ huy sắp đánh chiếm Moxkva được coi như một điều trước sau thế nào cũng phải xẩy ra. Và tuy trong đám thành viên của liên minh có một trào lưu thân Đức khá mạnh - số thành viên này chỉ tin vào lưỡi lê của quân Đức mà thôi - khuynh hướng chung của liên minh vẫn thiên về các nước đồng minh. Trong bộ tham mưu của liên minh người ta còn ấn định cả ngày quân Đức kéo vào Moxkva: ngày mười lăm tháng sáu. Cho nên họ quyết định là sẽ từ bỏ việc đánh chiếm thành Kremlin và Moxkva, điều các đơn vị vũ trang của liên minh tới Kazan, giật mìn phá tất cả các cầu cống và bể chứa nước ở ngoại ô Moxkva, phát động khởi nghĩa ở Kazan, Nijni, Kôxtrôma, Rybinxk, Murôm, bắt liên lạc với quân Tiệp và thành lập mặt trận miền đông, dựa vào vùng Ural và vùng lưu vực sông Volga trù phú.
Đasa tin từng lời từng chữ tất cả những điều Kulitsek nói với nàng: các nhà ái quốc Nga, hay như hắn mệnh danh cho họ - các hiệp sĩ của tinh thần, chiến đấu để vĩnh viễn quét sạch những mụ nhà quê láo xược đem đổi khoai tây ở các chợ, để cho các phố phường Pêterburg lại sáng trưng ánh điện và nhộn nhịp những đám người vui tươi, trang nhã, để vào những phút buồn chán có thể đội chiếc mũ chụp cắm lông chim lên đường sang Pari... Để cho bọn “cướp nhảy” không còn hoành hành ở quanh công viên mùa hạ nữa. Để cho gió thu đừng gầm rít trên mộ đứa con trai của nàng.
Tất cả những điều đó Kulitsek đều hứa hẹn với Đasa bên chén trà. Hắn ăn khỏe như chó đói, hắn ngốn hết một nửa số đồ hộp dự trữ, ăn cả bột sống với muối. Đến chặp tối hắn biến đi lúc nào không rõ, cầm theo cả chìa khóa cửa.
Đasa đi ngủ. Nàng buông rèm cửa sổ, nằm xuống đi văng, và như vẫn thường thấy trong những giờ mất ngủ nhọc nhằn, những ý nghĩ, những hình ảnh, những kỷ niệm, những điều phỏng đoán đột ngột, những nỗi day dứt đau đớn, cứ hiện lên loang loáng, chen lấn nhau, đuổi theo nhau... Đasa trở nghiêng mình lại, đút tay xuống dưới gối, nằm ngửa ra rồi lại trở sấp lại... Tấm chăn như nóng dẫy lên, mấy cái lò so đi-văng cứ chích vào hông, mấy tấm khăn lót giường cứ tuột xuống đất...
Một đêm trằn trọc khổ sở, dài đằng đẵng như cuộc đời. Cái vệt thâm thâm trong óc Đasa sinh động lên, đâm những múi rễ độc địa vào tất cả những nếp nhăn sâu kín nhất của bộ não. Nhưng tại sao lại sinh ra những nỗi day dứt, tại sao lại có cái cảm giác mình bất chính, mình có tội? Giá hiểu được thì còn nói làm gì!
Rồi mấy tiếng sau, khi tấm rèm cửa sổ đã ngả sang màu lam, Đasa mệt nhoài vì mải quay cuồng giữa điệu vũ quái đản của những ý nghĩ ấy, nàng lả đi, tâm hồn nàng lắng xuống, và nàng kết tội mình từ đầu đến cuối một cách giản dị và trung thực - nàng sổ toẹt cả con người mình.
Nàng ngồi dậy, búi tóc lại, găm cho chặt, buông thõng hai cánh tay gầy để trần xuống giữa hai đầu gối, rồi trầm ngâm suy nghĩ... Nàng là một kẻ sống cô độc, mơ mộng viễn vông, một người đàn bà lạnh lùng, không biết yêu thương ai hết: vĩnh biệt người đàn bà ấy, muốn chết rấp ở đâu thì chết, chẳng tiếc chút nào. Bọn cướp nhảy ở công viên mùa hạ dọa cho mình một mẻ như thế thật đáng đời: mà như thế cũng hãy còn ít, lẽ ra phải làm cho mình sợ hơn nữa kia!... Bây giờ thì thôi, tan biến đi cho xong. Bây giờ linh hồn ta hãy buông xuôi theo làn gió mà bay đi, bay đi, người ta bảo bay đến đâu thì bay đến đấy, người ta bảo làm gì thì làm nấy... Ý chí của mình không còn có nữa... mình chỉ là một trong muôn triệu người... Thật là yên ổn, thật là thanh thoát!...
* * *
Kulitsek đi suốt hai ngày đêm. Trong khi hắn đi vắng có mấy người đến, người nào cũng cao lớn, mặc áo vét tông sờn cũ, trông hơi ngơ ngác, nhưng hết sức nhã nhặn. Cúi xuống lỗ khóa, họ đọc khẩu lệnh. Đasa mở cửa cho họ vào nhà. Khi biết “Ivan Xvisev” không có nhà, họ không bỏ đi ngay, một người bỗng dưng quay ra kể lể những chuyện khổ tâm trong gia đình mình, một người khác xin phép hút thuốc rồi thận trọng như cầm một bảo vật, lấy từ trong chiếc hộp đựng thuốc lá có khảm tộc huy ra một điếu “thuốc hôi” xô viết, vừa quấn vừa cất cái giọng cổ mạt sát thậm tệ “bọn đại biểu của lũ chó má”. Một người thứ ba nói toạc ra một điều bí mật cá nhân: nào là mình đã chuẩn bị một chiếc xuồng máy ở đảo Krextôvxki, bên cạnh lâu đài của họ Bêlôxelxki-Bêlôzerxki, nào là đã rút được những đồ tư trang quý ra khỏi tủ sắt, nhưng bỗng dưng lũ trẻ lại rũ ra ho gà... Thật là rủi như chó!...
Có thể thấy rõ ràng cả bọn đều thấy thích thú khi được nói chuyện với người thiếu phụ mảnh khảnh xinh xắn có đôi mắt to này. Đasa chỉ lấy làm lạ có một điều: những con người hoạt động bí mật này sao thật ngờ nghệch quá, y như trong một vở hài kịch ngu xuẩn... Hầu hết đều dùng những lối nói rất thận trọng để dò xem “Ivan Xvisev” có mang tiền quỹ về không? Và rốt cục họ tỏ ra tin tưởng quả quyết cả mười phần rằng “câu chuyện tối ngu xuẩn với bọn bolsêvik” sẽ kết thúc rất chóng vánh. “Thật đấy, quân Đức mà đánh chiếm Pêtrôgrad thì chẳng phải hao hơi tổn sức gì đâu”.
Cuối cùng Kulitsek cũng về: lại đói run lên, người lấm bê bết, vẻ mặt lo âu. Hắn hỏi xem có ai đến trong khi hắn đi vắng không. Đasa thuật lại cặn kẽ cho hắn rõ. Hắn nhe răng ra cười gằn:
- Cái lũ đê mạt! Đến lấy tiền tạm ứng đấy mà... Thế mà cũng gọi là quân cận vệ! đôi mông quý tộc vốn ngại rời lòng ghế bành lắm. Chỉ mong quân Đức đến giải phóng cho thôi: xin mời chư vị, chúng tôi vừa treo cổ bọn bolsêvik xong, mọi việc ổn thỏa rồi ạ. Thật đáng giận!... Trong hai mươi vạn sĩ quan tham gia Quân tình nguyện, số những vị anh hùng tâm huyết chỉ có ba nghìn ở quân đoàn Đrôzđôvxki, tám nghìn ở quân đoàn Đênikin, và trong “Liên minh bảo vệ tổ quốc” của ta chỉ có ba nghìn. Tất cả chỉ được ngần ấy... Thế số còn lại ở đâu? Họ đã bán linh hồn và lương tâm cho hồng quân rồi... Còn nữa thì đi nấu xi đánh giầy, buôn thuốc lá... Hầu hết bộ tổng tham mưu đều chạy sang hàng ngũ bolsêvik... Thật nhục nhã!...
Hắn lấy bột mì ra trộn muối ăn thật no, uống nước rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, hắn đánh thức Đasa dậy sớm. Khi nàng khoác vội áo ngoài chạy vào phòng ăn, Kulitsek đang đi đi lại lại rất nhanh bên bàn, mặt mày nhăn nhó:
- A, cô đấy à? - hắn quát vào mặt Đasa, giọng sốt ruột. - Liệu cô có thể mạo hiểm, hy sinh nhiều thứ, chịu đựng hàng ngàn chuyện khó chịu, bất tiện không?
- Có, - Đasa nói.
- Ở đây tôi không dám tin ai cả... Vừa nhận được những tin tức đáng lo ngại... Cần có người đi Moxkva. Cô đi chứ?
Đasa chỉ nhấp nháy đôi mắt, lông mày giương cao lên... Kulitsek đến cạnh nàng, bảo nàng ngồi xuống bên bàn ăn, kéo ghế ngồi sát nàng đến nỗi đầu gối chạm cả vào chân nàng, và bắt đầu giảng giải cho nàng rõ là đến Moxkva cần phải gặp ai và phải truyền đạt bằng miệng những tin tức gì về các tổ chức ở Pêtrôgrađ. Hắn nói tất cả những chuyện đó một cách chậm rãi, giọng như giận dữ, cố nhồi từng chữ, từng câu vào trí nhớ Đasa. Hắn bắt nàng nhắc lại. Nàng ngoan ngoãn nhắc lại.
- Tuyệt! Cô thông minh lắm! Chính chúng tôi đang cần những người như thế. - Hắn đứng bật dậy, xoa lia lịa hai bàn tay vào nhau. - Bây giờ về căn nhà của cô thì thế nào đây? Cô sẽ lên nói với ban đại diện khối là sẽ đi Luga một tuần. Tôi ở lại đây vài hôm nữa rồi sẽ giao chìa khóa lại cho ông trưởng khối... Được không?
Những sự biến dồn dập này làm cho Đasa chóng mặt. Nàng kinh ngạc cảm thấy không còn buồn kháng cự gì nữa: đi đâu cũng được, bảo làm gì cũng làm... Khi Kulitsek nhắc đến căn nhà, nàng quay lại nhìn cái tủ búp-phê bằng gỗ mắt chim: “thật là một cái tủ xấu xí, buồn tẻ như một cỗ quan tài...”. Nàng nhớ đến những con én say sưa bay theo tiếng gọi của những chân trời xanh biếc. Và nàng thấy rằng thoát ra khỏi cái lồng bụi bặm này mà bay vào cuộc sống hoang dại, bát ngát, quả thật là một hạnh phúc...
- Nhà gì cơ? - nàng nói. - Có lẽ tôi cũng chẳng về đây nữa đâu. Anh muốn thu xếp thế nào cũng được.
Một trong những người đã đến nhà Đasa trong khi Kulitsek đi vắng đưa nàng ra tàu. Đó là một người cao lêu đêu, mặt dài, râu quặp, tính tình hòa nhã; hắn đưa Đasa lên một toa ghế cứng đã vỡ hết cửa sổ, rồi cúi xuống, ghé sát tai Đasa nói giọng trầm: “Công lao của cô sẽ được ghi nhớ” - Và đi lẫn vào đám dông. Trước khi tàu chuyển bánh có mấy người chạy dọc đoàn tàu, miệng cắn khăn gói leo vào cửa sổ toa. Trong toa chật hẳn đi. Mấy người kia leo lên giá để đồ, chui xuống gầm ghế và quẹt diêm châm thuốc lá mộc hút phì phèo, có vẻ hoàn toàn mãn nguyện.
Đoàn tàu chậm chạp lê qua những đầm lầy phủ sương mù với những dãy ống khói nhà máy nguội lạnh, qua những ao hồ phủ đầy rêu mốc. Xa xa đồi Pulkôvxkaia với đài thiên văn trên đỉnh thấp thoáng sau làn sương ngập nắng. Ở đây các nhà thiên văn học thông thái và bản thân ông già Glazênap bảy mươi tuổi, bị mọi người trên thế gian quên khuấy đi, vẫn tiếp tục tính toán đường chuyển động của các vì sao trong vũ trụ. Những khóm rừng thông, những cây bách, những ngôi biệt thự lướt dần về phía sau. Ở các ga, người ta đặt một đội cảnh vệ vũ trang không cho ai lên toa thêm nữa. Bây giờ tuy vẫn còn ồn ào, nhưng đã đỡ nhốn nháo.
Đasa ngồi ép chặt giữa hai người lính cựu. Trên cái giá để đồ ở phía trên có một cái đầu vui vẻ chõ xuống, luôn luôn xen vào câu chuyện.
- Ấy, thế rồi sao nữa hả? - Trên giá có tiếng hỏi, giọng nghẹn đi vì cười. - Thế các anh thì sao?
Ngồi đối diện với Đasa, giữa mấy người đàn bà tư lự và lầm lì, là một người nông dân gầy chột mắt, để bộ ria quặp, râu cằm mọc lởm chởm, đầu đội mũ rơm. Cái áo của hắn mặc khâu bằng bao bột, trên cổ buộc thắt lại bằng một sợi dây gai. Trên thắt lưng hắn giắt một cái lược con và một mẩu bút chì tím; trong ngực, dưới lần áo sơ mi, có giắt mấy tờ giấy.
Ban đầu Đasa không theo dõi câu chuyện của mấy người đi tàu. Nhưng những chuyện do người chột mắt kể ra hình như rất hấp dẫn. Dần dần hành khách ở các dãy ghế khác đều ngoảnh về phía hắn, trong toa im ắng hẳn đi. Một người lính đeo súng trường nói, giọng quả quyết:
- Phải rồi, tôi hiểu rồi, nói tóm lại, các anh là du kích, là quân của Makhnô chứ gì?
Người chột mắt im lặng một lát, mỉm cười tinh quái dưới chòm ria:
- Các chú cũng biết đấy, nhưng chưa tinh tường đâu. - Hắn đưa bàn tay khô nẻ sần sùi quệt qua bộ ria như để xóa nụ cười đi, rồi nói, giọng nghe còn có vẻ trang trọng nữa là khác. - Du kích của Makhnô là một tổ chức của kulak. Makhnô hoạt động ở vùng Êkatêrinôxlav kia. Ở đây nhà nào cũng có đến dăm chục mẫu đất. Còn chúng tôi lại là món khác. Chúng tôi là du kích đỏ...
- Thế các anh làm ăn ra sao?
- Khu vực hoạt động của chúng tôi là tỉnh Tsernigôv và các tổng ở phía bắc Nijin. Hiểu chưa. Chúng tôi là cộng sản. Đối với chúng tôi, quân Đức hay là ngài trang chủ, hay là lính haiđamak của thống lĩnh, hay là lão kulak trong làng, đều là một duộc cả... Cho nên không được lẫn lộn chúng tôi với bọn Makhnô. Hiểu chưa?
- Hiểu rồi, có ngu si gì mà chẳng hiểu, anh kể tiếp đi nào. - Cái đầu vui vẻ ở trên giá nói.
- Kể tiếp thì nó là thế này... Sau trận đánh nhau với quân Đức ấy, chúng tôi hơi mất tinh thần. Chúng tôi rút vào rừng Kosêlev, rúc vào những khu rậm rạp chỉ có chó sói ở. Chúng tôi nghỉ ngơi đôi chút. Người ở các làng bên bắt đầu chạy vào với chúng tôi. Trong làng không thể nào sống nổi, họ nói thế. Quân Đức thực sự bắt tay vào càn quét du kích trong vùng. Chúng nó có bọn haiđamak giúp sức: ngày nào bọn này cũng sục vào làng, cứ theo lời tố giác của bọn kulak mà bắt bớ đánh đập. Nghe những chuyện này bọn chúng tôi tức điên lên, đến nghẹn cả thở. Lúc bấy giờ có thêm một đội nữa đến chỗ chúng tôi. Trong rừng tập trung cả một đạo quân đến ba trăm năm mươi người. Chúng tôi bầu ra người chỉ huy chung là chuẩn úy Golta, một anh du kích ở Verkiev. Rồi chúng tôi mới nghĩ xem nên khai triển những cuộc hành quân sau về hướng nào, và quyết định kiểm soát con sông Đexna: vũ khí đạn dược chở cho quân Đức là theo con đường sông này. Thế là chúng tôi đi. Chúng tôi chọn những nơi tàu thủy phải đi men sát bờ, mai phục ở đấy...
- Chà thế rồi sao nữa? - Cái đầu trên giá hỏi.
- Thế rồi nó thế này nữa. Một chiếc tàu thủy đi qua. Hàng tiền tiêu hô: “Đứng lại”. Thuyền trưởng không thi hành mệnh lệnh. Bọn tôi liền bắn một loạt. Dĩ nhiên là tàu phải ghé vào bờ. Bọn tôi lập tức leo lên boong, đặt người gác, kiểm soát giấy tờ.
- Đúng kiểu đấy, - người lính cầm súng nói.
- Trên tàu có chở hàng: yên cương và dây thắng. Đi áp tải có hai viên đại tá, một đã già khọm, một nữa thì còn trẻ, trông oách lắm. Ngoài ra còn chở cả thuốc men nữa. Chính chúng tôi lại đang cần món ấy. Lúc ấy tôi đang đứng trên boong kiểm soát giấy tờ; bỗng thấy hai anh em Piôtr và Ivan Pêtrôvxki, là hai đảng viên cộng sản ở vùng Bôrôđian, trong đám hành khách. Tôi đoán ra được ngay, cho nên cứ tảng lờ đi, làm như không quen họ. Đến lượt họ, tôi cứ xử sự kiểu cửa công, lên giọng nghiêm khắc hỏi: “Giấy tờ đâu...”. Pêtrôvxki đưa hộ chiếu cho tôi, kèm theo một mảnh giấy quấn thuốc lá có viết: “Đồng chí Pyavka, hai anh em tôi rời Tsernigôv để đi về Nga đây, yêu cầu đồng chí xử với chúng tôi thật khắc nghiệt để xung quanh khỏi để ý, vì quanh đây có nhiều mật thám...”. Được... Kiểm soát giấy tờ xong, chúng tôi cho đưa yên cương thuốc men lên bờ, kèm theo mười lăm thùng rượu vang để bồi dưỡng cho anh em bị thương. Cũng phải công bằng mà thừa nhận rằng ông bác sĩ trên tàu đã xử sự rất anh hùng. Ông ta quát: “Tôi không thể để cho các ông lấy tủ thuốc đi được, làm như thế là trái mọi luật lệ, mà lại vi phạm công pháp quốc tế nữa”. Câu trả lời của chúng tôi rất gọn: “Chúng tôi đang có người bị thương, vậy thì không phải là công pháp quốc tế, mà là công pháp nhân đạo đòi hỏi ông phải trao tủ thuốc cho chúng tôi!...”. Chúng tôi bắt giữ mười viên sĩ quan đưa lên bờ, rồi cho tàu đi. Lên đến bờ lão đại tá già bắt đầu khóc lóc van xin đừng giết, nhắc nhở những công lao ngày xưa của mình trong quân đội. Chúng tôi nghĩ bụng: “Giết cái lão này làm gì, cứ để thế lão cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa”. Chúng tôi đã vì đại lượng mà tha cho lão. Lão lập tức chuồn vào rừng.
Cái đầu ở trên giá cười ha hả. Người chột mắt đợi cho mọi người cười thỏa thuê, rồi kể tiếp:
- Một tên khác, một sĩ quan văn phòng, cũng gây được ấn tượng tốt trong chúng tôi, hỏi gì hắn cũng trả lời rất láu lỉnh, tư thế rất ung dung. Chúng tôi cũng thả nốt... Những tên còn lại, chúng tôi dẫn vào rừng bắn vì trong bọn không có thằng nào chịu nói lấy một câu...
Đasa nín thở nhìn người chột mắt. Mặt hắn điềm tĩnh, đầy những nếp nhăn chua chát. Con mắt độc long, màu xanh xám, đồng tử nhỏ xíu, chắc là một con mắt đã từng chứng kiến rất nhiều chuyện đời, đang trầm ngâm nhìn mấy cây thông chạy vun vút ngoài cửa sổ. Một lát sau người chột mắt lại kể tiếp:
- Chúng tôi ở trên sông Đexna chẳng được bao lâu: quân Đức vây bọc chúng tôi, phải rút vào khu rừng Đrôzđôvxki. Chiến lợi phẩm thì đem chia cho nông dân; quả tình chỗ rượu vang kia chúng tôi chia nhau nốc hết, nhưng các thứ khác thì đưa vào bệnh xá. Lúc bấy giờ bên phía trái chúng tôi có một đội du kích lớn của Krapivianxki đang hoạt động, bên phải thì có Marunya. Nhiệm vụ chung của cả ba đội chúng tôi là làm thế nào đến Tsernigôv và đánh chiếm thị xã này. Giá ba đội liên lạc với nhau cho tốt thì hay quá rồi... Nhưng lại không có liên lạc thực sự, thành ra chậm chân mất. Quân Đức ngày nào cũng kéo bộ binh, pháo binh, kỵ binh đi rầm rập. Chả là bọn chúng tôi như cái gai trước mắt chúng nó. Chẳng hạn chúng nó vừa đi khỏi làng một cái là trong làng đã tổ chức ngay ủy ban cách mạng, và vài thằng kulak đã lủng lẳng trên cây phong... Một hôm tôi được cử sang bên Marunya lấy ít tiền: đồng đội đang cần quá... Số là chúng tôi vẫn trả tiền mặt cho dân khi mua thực phẩm: ở chỗ chúng tôi mà lấy không của dân thì xử tử ngay. Tôi ngồi lên xe đrôjki đi vào rừng Kosêlêvô nói chuyện công việc với Marunya, nhận của ông ta một nghìn rúp tiền Kêrenxki, rồi đánh xe trở về... Đến gần làng Jukôvka, tôi vừa đánh xe xuống một khoảng đất trũng thì có hai người cưỡi ngựa lao vào tôi. “Cậu đi đâu thế? Quân Đức đấy!...” - “Ở đâu?” - “Sắp vào Jukôvka rồi”. Tôi lùi xe lại, cho ngựa vào bụi, nhảy xuống. Chúng tôi bắt đầu bàn xem nên làm thế nào? Không nghĩ đến chuyện kháng cự trực diện với quân Đức được. Chúng có cả một binh đoàn, có pháo phiếc cẩn thận...
- Ba người mà chống lại một binh đoàn thì gay thật đấy, - người lính cựu nói.
- Gay quá đi chứ. Thế là chúng tôi quyết định chỉ dọa quân Đức một mẻ thôi. Chúng tôi bò đi trong đám lúa tiểu mạch. Chúng tôi nhìn thấy: kia là Jukôvka, và từ đây, ở trong khóm rừng con kéo ra một đoàn binh mã khoảng hai trăm người, hai khẩu đại bác và một đoàn xe, và gần phía chúng tôi hơn là một đội kỵ binh tuần tiễu. Rõ ràng là danh tiếng của quân du kích khá lẫy lừng: có thế mới đem cả pháo binh đi đánh chúng tôi. Chúng tôi nằm trong mấy mảnh vườn rau. Cả ba thằng đều cao hứng lắm: chúng tôi đang bấm bụng cười, thưởng thức trò vui sắp tới. Đội tuẩn tiễu chỉ còn cách có năm mươi bước. Tôi hô: “Toàn tiểu đoàn, bắn!”. Một loạt súng nổ, một loạt nữa... Một con ngựa lăn kềnh ra, thằng Đức bò vào đám bụi gai. Chúng tôi lại bắn, lại lên quy lát lách cách, cố làm cho thật ồn ào lên...
Cái đầu ở trên giá rung lên bần bật, cả đôi mắt cũng rung. Chủ nhân phải lấy tay bịt miệng lại để khỏi cười rống lên. Người lính cựu cười hể hả.
- Đội kỵ binh bỏ chạy về phía đại quân. Quân Đức lập tức khai triển đội hình, điều lên phía trước mấy đội xạ kích, tiến lên tấn công theo đúng nghi thức. Hai khẩu đại bác được tháo ra khỏi xe kéo và bắt đầu nã đạn bảy mươi lăm ly vào các vườn rau, nơi các bà nhà ta đang bới khoai tây... Đạn nổ ùng oàng, đất tung cả lên... Các bà nhà ta... (Người chột mắt kéo lệch mũ sang bên tai, hắn không nhịn được nữa, cũng phì cười. Cái đầu ở trên giá cười ngặt nghẽo). Các bà nhà ta như bầy gà mái bỏ chạy tán loạn... Quân Đức chạy về phía làng... Tôi mới bảo: “Các cậu ơi, đùa dai thế đủ rồi, chuồn thôi”. Chúng tôi lại bò trong đám lúa, đi ra chỗ đất trũng ban nãy. Tôi ngồi lên xe đrôjki đánh vào rừng Đrôzđôvxki an toàn. Về sau dân làng Jukôvka có kể lại: “Quân Đức tiến đến gần mấy mảnh vườn rau, sát bờ rào, rồi hét tướng lên: “Xung phong!”... Trong khi đó thì sau bờ rào chẳng có ai hết... Ai trông thấy cái cảnh ấy cũng phải cười lăn ra...”, Quân Đức chiếm đóng làng Jukôvka, lùng mãi chẳng thấy ủy ban cách mạng hay du kích đâu hết, bèn tuyên bố thiết quân luật trong làng. Chừng hai hôm sau, chúng tôi ở trong rừng Đrôzđôvxki có tin báo là có một đoàn xe chở đạn rất lớn của Đức kéo vào vùng làng Jukôvka. Mà đối với chúng tôi thì đạn dược là quí hơn cả... Chúng tôi bắt đầu bàn bạc, các cậu nhà ta rỏ giãi ra, bèn quyết định tấn công Jukôvka để chiếm lấy được chỗ đạn dược của quân Đức. Chúng tôi tập hợp khoảng một trăm người. Trong số đó có ba mươi chiến sĩ được điều ra đường cái để chặn đường rút lui của quân Đức về phía Tsernygôv. Còn lại thì kéo thành đoàn tiến về Jukôvka. Đến chập tối, chúng tôi bò đến phục ở một đám ruộng ở sát làng và phái bảy người đi trinh sát, để xem cách bố trí ở trong làng về báo với toàn đội, rồi đến khuya sẽ tấn công bất thình lình. Chúng tôi nằm im, hút thuốc cũng cấm. Trời mưa lâm thâm, buồn ngủ, ướt át... Đợi mãi, đợi mãi mà chẳng thấy gì. Trời đã bắt đầu hừng sáng, mà vẫn chẳng thấy động tĩnh gì cả. Thế này là cái quái gì? Mấy bà trong làng đã bắt đầu lùa gia súc ra đồng. Bấy giờ mới thấy bảy ông trinh sát bò ra... Té ra mấy ông tướng đêm qua bò vào đến chòi xay thì nằm lại nghỉ một chút, thế chó nào lại ngủ quên luôn đến sáng, mãi đến khi các bà lùa gia súc ra, suýt dẫm phải họ. Dĩ nhiên cuộc tấn công thế là đi đứt... Bọn chúng tôi cáu không biết lấy gì nói cho hết. Phải lập phiên tòa xét xử và trừng trị mấy cậu trinh sát. Anh em nhất trí quyết định xử bắn. Nhưng mấy cậu khóc òa lên xin tha và hoàn toàn nhận rõ tội mình. Mấy cậu đều trẻ cả, phạm lỗi lần này là lần đầu... Chúng tôi bèn quyết định tha thứ cho họ. Nhưng bắt họ hứa hễ có chiến đấu là phải lập công chuộc tội.
- Cũng có khi phải tha thứ chứ, - người lính cựu nói.
- Phải... Chúng tôi quay ra bàn bạc: thôi không chiếm Jukôvka ban đêm thì chiếm ban ngày vậy chứ sao? Một cuộc hành binh khá khó khăn, anh em đều hiểu mình dấn thân vào một trận đánh như thế nào. Chúng tôi bố trí rất thưa, đợi hễ có tiếng súng máy là xông lên, không bò toài gì hết, cứ phóng bừa lên.
- Hi hi! - Trên giá có tiếng cười bật ra.
- Thế nhưng quân Đức chẳng thấy đâu, chỉ thấy một lũ đàn bà xách lẵng đi ra phía chúng tôi: họ đi hái dâu rừng, hôm ấy chả là ngày hội. Họ trông thấy chúng tôi thì cười phá lên: các anh chậm chân mất rồi, họ bảo thế, đoàn xe tải của Đức đã ra đường cái đi Kulikôvô được hai tiếng đồng hồ rồi. Bấy giờ chúng tôi nhất trí quyết định đuổi theo quân Đức, có chết hết trong trận này cũng vui lòng. Chúng tôi mang cả xẻng đi để đào công sự tại chỗ, các bà trong làng đem bánh blin, bánh rán thịt ra cho chúng tôi ăn. Chúng tôi xuất phát, sau lưng kéo theo cả một đám đông nghịt - dĩ nhiên đi theo vì tò mò nhiều hơn - dễ đến một quân đoàn. Chúng tôi phát gậy cho đàn ông lẫn đàn bà và bố trí thành hai hàng, người này cách người kia khoảng hai mươi bước, xen kẽ người có súng với người cầm gậy cốt làm cho quân Đức thấy đông đâm hoảng. Cả đoàn kéo dài ra đến năm dặm. Tôi chọn mười lăm chiến sĩ, trong đó có cả bảy cậu trinh sát tai hại kia, lấy luôn cả hai viên sĩ quan do chính chúng tôi điều được, hai tên phản cách mạng ra mặt, nhưng cảnh cáo cho hai chú biết là phải tỏ ra xứng đáng với lòng tin cậy của chúng tôi mới mong thoát chết được. Nhóm chúng tôi chạy lên trước chặn đường đoàn xe Đức... Thế là một trận đánh nhau diễn ra không phải trong một ngày, cũng không phải hai... (Hắn khoát tay một cái, vẻ miễn cưỡng).
- Thế là thế nào? - người lính cựu hỏi.
- Là thế này... Nhóm tôi để cho đoàn quân lọt qua rồi đánh vào phần đuôi, vào xe tải ấy. Cướp được hai mươi xe súng đạn. Chúng tôi gấp rút trút đạn vào bị, phát súng trường cho mấy người nông dân vừa chạy lên kịp, và tiếp tục tấn công vào đoàn quân Đức. Chúng tôi cứ tưởng mình đang bao vây quân Đức, nhưng hóa ra chính quân Đức nó đang bao vây chúng tôi: chúng nó kéo tới chỗ ấy từ ba ngả khác nhau, có đủ các thứ binh chủng. Chúng tôi phân ra thành từng nhóm nhỏ, chui xuống các hố rãnh. Cũng may là quân Đức khai triển tác chiến theo đúng mọi quy tắc của một trận đánh chính quy, chứ không thì chúng tôi chẳng còn sống lấy một mống nào... Trong đội du kích chỉ còn tôi với lại khoảng mười người nữa sống sót. Chúng tôi bắn cho đến khi hết đạn mới thôi. Sau đó thấy là ở vùng này không thể nào thở nổi, phải vượt qua sông Đexna, đi sang vùng trung lập, sang đất Nga. Tôi giấu súng đi và giả vờ làm một tên tù binh đi về phía Novgorođ-Xeverxki...
- Thế bây giờ anh đi đâu?
- Đi Moxkva xin chỉ thị.
Pyavka còn kể nhiều chuyện nữa về quân du kích và về sinh hoạt ở thôn quê. “Hết nạn này lại ách khác - cuộc sống của chúng tôi là như thế đấy. Chúng nó đã đưa nông dân đến cái thế con sói bị dồn vào bước đường cùng: chỉ còn một cách nhảy lên cắn cổ”. Bản thân Pyavka là người vùng Nêjin, trước đây đi làm ở nhà máy củ cải đường. Anh ta mất một mắt thời Kêrenxki, trong cuộc tấn công tai hại hồi tháng sáu. Anh ta thường nói: “Kêrenxki đã móc mất một mắt của tôi”. Cũng vào dạo ấy, dưới chiến hào, anh ta đã làm quen với những người cộng sản. Pyavka bây giờ là ủy viên xô-viết Nêjin, có chân trong ủy ban cách mạng, bí mật hoạt động tổ chức phong trào khởi nghĩa.
Câu chuyện của Pyavka kể làm cho Đasa rất xúc động. Có thể thấy rõ rằng đó là chuyện thật, và tất cả các hành khách chú mục vào Pyavka đểu hiểu thế.
Phần còn lại của ngày hôm ấy, và cả đêm hôm ấy nữa, đã làm cho Đasa rất mệt. Nàng ngồi, chân thu gom lại dưới ghế, mắt nhắm nghiền, và suy nghĩ mãi đến nhức cả đầu, đến tuyệt vọng. Có hai chân lý: chân lý của người du kích chột mắt, của mấy người lính cựu ở mặt trận về, của mấy người đàn bà có bộ mặt chất phác, mệt mỏi đang ngủ gật trên toa, và cái chân lý mà Kulitsek lớn tiếng hô hào. Nhưng không làm gì có hai chân lý. Một trong hai cái chân lý đó là một sai lầm khủng khiếp, oan nghiệt, thảm hại...
Tàu đến Moxkva vào giữa trưa. Đasa lên một chiếc xe thuê cổ kính của một người xà ích già. Con ngựa chạy nước kiệu lúp xúp đưa nàng qua phố Myaxnitxkaia lầy lội và tồi tàn, hai bên chỉ trông thấy những cửa hàng trống trải, bùn từ lòng phố bắn lên lấm tấm trên các cửa kính. Quang cảnh hoang vắng của thành phố làm cho Đasa phải kinh ngạc, nàng hồi tưởng lại cảnh Moxkva trong những ngày mà hàng nghìn người cầm cờ vừa kéo đi từng đoàn trên những đường phố giá lạnh, chúc mừng nhau về cuộc cách mạng không hề đổ máu.
Trên quảng trường Lubyanxkaia, gió tung lên những cột bụi xoáy lông lốc. Hai người lính mặc áo sơ-mi không thắt nịt, cổ phanh ra, đang đi qua quảng trường. Một người gầy gò hom hem, mặt dài thưỡn, mình mặc áo vét nhung ngoảnh lại nhìn Đasa, quát với theo một câu gì không rõ, chạy theo xe một quãng, nhưng bụi tung lên tối tăm cả mặt mũi làm cho hắn đành tụt lại phía sau. Khách sạn “Mêtrôpôl” bị nhiều phát đạn đại bác bắn lở ra từng mảng, và đứng giữa các quảng trường bụi tung mù mịt này, người qua đường phải lấy làm lạ khi thấy trong cái công viên nhỏ nhỏ đầy những rác rưởi ở góc đường có một vồng hoa tươi tốt đang nở rộ, chẳng biết do ai trồng lên và trồng để làm gì.
Trên phố Tverxkaia, quang cảnh có sinh động hơn. Đó đây có dăm cửa hiệu nhỏ mở cửa bán rốn thêm ít nữa. Trước mặt trụ sở xô-viết đại biểu, ở chỗ trước kia có pho tượng Xkôbêlev bây giờ chỉ thấy một hình khối vuông khổng lồ làm bằng gỗ phủ vải đỏ. Đasa thấy nó dễ sợ quá. Ông lão đánh xe giơ roi chỉ vào phía ấy:
- Họ đã hạ bệ anh hùng rồi. Tôi đánh xe bao nhiêu năm ở Moxkva mà trước sau pho tượng vẫn đứng đấy. Nhưng đến ngày nay thì hình như nó không được vừa lòng chính phủ... Sống cách gì bây giờ? Cơ mầu này thì đến chết mất cô ạ. Cỏ khô hai trăm rúp một yến. Các ông lớn chạy đi đâu hết rồi, chỉ còn những đồng chí thôi; mà đồng chí thì cuốc bộ là phần nhiều... Cha! Nhà nước với chả nhà nước! - Ông lão kéo dây cương - Giá có được ông vua nào...
Sắp đến quảng trường Xtraxtnaia, phía dưới tấm biển đề “Cà-phê Bôm” ở bên trái đường, sau hai khung cửa kính có thể trông thấy mấy người thanh niên vô công rổi nghề và mấy cô thiếu nữ uể oải đang ngồi trên đi-văng hút thuốc và uống những thứ nước gì không rõ. Trước quán cà-phê có một người để tóc dài không chải, mặt cạo nhẳn, đứng tựa vai vào khung cửa hút tẩu thuốc. Trông thấy Đasa, hắn có vẻ như sửng sốt, bỏ tẩu thuốc xuống. Nhưng xe Đasa đã vượt qua. Đây là cái tháp hồng của nhà dòng Xtraxtnôi, và đây là tượng Puskin. Dưới khuỷu tay của nhà thơ vẫn còn miếng giẻ đã phai màu buộc ở đầu gậy găm vào tượng từ hồi diễn ra những cuộc mít-tinh rầm rộ. Mấy đứa trẻ gầy gò chạy trên cái bệ đá hoa cương. Trên một chiếc ghế dài có một bà đeo kính cặp mũi và đội cái mũ con con giống hệt như cái mũ Puskin đang cầm sau lưng.
Trên đại lộ Tverxkôi lơ lửng mấy đám mây thưa thớt. Một chiếc xe hơi vận tải chạy qua, thùng xe chở đầy lính. Ông lão xà ích nháy mắt về phía xe, nói:
- Đi cướp của đấy. Cô có biết ông Ôvxyanikôv không? Nhà triệu phú bậc nhất ở Moxkva đấy. Hôm qua cũng có một xe lính như thế kéo đến nhà ông ta vét sạch đồ đạc chở đi. Ông Ovxyanikôv chỉ lắc đầu rồi cứ thế nhắm mắt đi thẳng, chẳng cần biết đi đâu. Họ quên mất Chúa rồi, các cụ già thường bảo nhau như thế.
Ở cuối đại lộ hiện ra những bức tường đổ nát của tòa nhà Gagarin. Một người mặc áo gi-lê đứng chơ vơ trên một bức tường đổ, dùng cuốc chim bổ cho gạch rơi xuống đất. Bên trái, một khối nhà đồ sộ cháy đen thui nhìn lên bầu trời nhợt nhạt qua mấy khung cửa sổ trống hoác. Các nhà ở xung quanh đều lỗ chỗ vết đạn. Một năm rưỡi trước đây Đasa và Katya chạy trên vỉa hè này, đầu trùm khăn choàng rộng. Hôm ấy, lớp băng mỏng phủ trên mặt đường kêu lạo xạo ở dưới chân, mấy ngôi sao soi mình trong những vũng nước giá lạnh. Hai chị em chạy đến Câu lạc bộ trạng sư nghe bài báo cáo đặc biệt về những tin đồn nói rằng cách mạng đã bùng nổ ở Pêterburg. Đêm ấy làn không khí giá lạnh mùa xuân có sức làm cho lòng người ngây ngất, say sưa như một niềm hạnh phúc...
Đasa lắc mạnh mái đầu: “Thôi đừng nhớ nữa... Đã chôn vùi hết từ lâu rồi...”
Chiếc xe thuê đi ra phố Arbat rồi rẽ vào một ngõ hẹp ở bên trái. Tim Đasa đập mạnh đến nỗi ánh nắng tối sầm lại... Đây là ngôi nhà trắng hai tầng có cái chòi nhỏ ở trên mái, nơi nàng đã từng ở với Katya và người chồng quá cố của chị nàng từ năm mười lăm. Têlêghin trốn khỏi trại tù binh Đức cũng tức tốc về đây. Nơi đây Katya đã gặp Rôstsin. Hôm làm lễ cưới, bản thân Đasa đã bước ra từ cái cửa ọp ẹp này để được Têlêghin đỡ lên chiếc xe kiệu nhỏ thắng con ngựa xám bất kham đưa hai vợ chồng nàng đi trong bóng hoàng hôn nồng đượm khí xuân, giữa những ánh đèn hãy còn nhợt nhạt, trôi nhanh về hạnh phúc. Cửa sổ trên cái chòi con đã vỡ hết. Đasa nhận ra màu giấy hoa trong phòng nàng ngày trước, bây giờ đã trốc hồ rũ xuống từng mảng. Từ khung cửa sổ bay ra một con quạ nhỏ. Ông lão đánh xe hỏi nàng:
- Bây giờ rẽ sang phải hay sang trái đây cô?
Đasa lấy tờ giấy ra xem lại số nhà. Xe dừng bánh trước một tòa nhà nhiều tầng. Cánh cửa chính đã bị đóng ván từ bên trong. Thấy không có cách gì hỏi thăm ai được. Đasa bước lên mấy cầu thang gác tối om tìm căn nhà 112-A. Thỉnh thoảng có vài nhà nghe tiếng chân Đasa liền mở hé cánh cửa ra nhìn. Có thể ngỡ chừng như sau mỗi cánh cửa kia đều có một người đứng sẵn để báo cho các nhà khác biết có khách khả nghi.
Đến tầng thứ năm, Đasa gõ hai tiếng liền nhau rồi một tiếng nữa, theo đúng lời dặn. Bên trong có tiếng chân rón rén rồi một người phì phò sau lỗ khóa, dòm ra ngoài, nhìn kỹ Đasa. Cánh cửa mở ra, và một bà đứng tuổi cao lớn có đôi mắt lồi màu xanh đậm rất dễ sợ, hiện ra trên ngưỡng cửa. Đasa lặng lẽ đưa mảnh danh thiếp hình tam giác. Người đàn bà nói:
- À, cô ở Pêterburg về... Mời cô vào.
Họ đi qua một gian nhà bếp rõ ràng là đã không nấu nướng gì từ lâu, rồi bước vào một gian phòng lớn chăng rèm. Trong bóng tối mờ mờ, thấp thoáng những đường viền của những bộ bàn ghế sang trọng, những đồ trang trí bằng đồng đen bóng loáng, nhưng ở đây cũng có cái không khí giá lạnh, hoang vu của những nơi đã lâu không có người ở. Người đàn bà mời Đasa ngồi xuống ghế đi-văng rồi cũng ngồi xuống một bên, đôi mắt lồi dễ sợ mở rộng ra nhìn khách.
- Cô nói đi, - bà ta ra lệnh, giọng nghiêm khắc và hách dịch.
Đasa thành tâm cố tập trung tư tưởng, bắt đầu truyền đạt một cách thực thà những tin tức đáng buồn mà Kulitsek đã dặn nàng kể lại. Người đàn bà siết mạnh đôi bàn tay mỹ miều đeo đầy nhẫn lên hai đầu gối ép chặt vào nhau, vặn mấy ngón tay kêu răng rắc...
- Thế ra ở Pêtrôgrađ các người chưa biết gì hết ư? - bà ta ngắt lời nàng. Cái giọng trầm trầm của bà ta run run trong thanh quản. - Các người chưa biết là đêm qua họ đã đến khám nhà đại tá Xiđôrôv... Họ đã tìm ra một bản kế hoạch phân tán và bản danh sách động viên... Các người chưa biết là tảng sáng hôm nay Vilenkin đã bị bắt... - Rướn thẳng ngực ra, bà ta đứng dậy, vén tấm màn cửa, rồi ngoảnh về phía Đasa nói: - Mời cô vào đây. Có người sẽ nói chuyện với cô...
- Mật hiệu! - Một người đàn ông đứng quay lưng ra cửa sổ nói với nàng, giọng như ra lệnh. Đasa chìa cho hắn mảnh danh thiếp hình tam giác - Ai đưa cho cô cái này? (Đasa bắt đầu trình bày) Nói ngắn chứ!
Tay trái hắn cầm một chiếc khăn mùi soa lụa để bên miệng che một nửa khuôn mặt rám nắng hay cũng có thể là đã bôi một lớp hóa trang màu nâu. Đôi mắt nhờ nhờ, tròng trắng như tráng một lớp men vàng vàng nhìn trừng trừng vào Đasa, có ý sốt ruột. Hắn lại ngắt lời Đasa lần nữa.
- Cô có biết rõ là tham gia vào tổ chức, cô có thể nguy đến tính mạng không?
- Tôi sống đơn độc và tự do, - Đasa nói. - Tôi hầu như không biết chút gì về tổ chức. Nikanor Yurêvits giao việc cho tôi... Tôi không thể bó tay ngồi không được nữa. Xin các ông tin cho rằng tôi không sợ công việc, mà cũng không sợ...
- Cô còn trẻ quá. - Hắn nói, vẫn cái giọng nhát gừng như cũ, nhưng Đasa đã giương cao đôi mày thủ thế:
- Tôi đã hai mươi bốn tuổi rồi.
- Cô có chồng chưa? (Nàng không đáp). Trong trường hợp này, điều đó khá quan trọng. (Nàng gật đầu trả lời khẳng định). Cô không cần nói gì về bản thân, tôi thấy rõ cô rồi. Tôi tin cô. Cô ngạc nhiên không?
Đasa chỉ chớp mắt một cái. Những câu nói nhát gừng, đầy tự tin, cái giọng mệnh lệnh, đôi mắt lạnh lùng đã nhanh chóng buộc chặt cái ý chí đang lung lay của nàng lại. Nàng có cái cảm giác nhẹ nhõm như khi ông thầy thuốc ngồi xuống cạnh giường, đôi kính trắng uyên bác sáng long lanh, và nói với nàng: “Nào cô bạn quý, từ hôm nay ta sẽ theo chế độ sinh hoạt như thế này nhé...”.
Bây giờ nàng chăm chú nhìn người cầm mùi soa để bên miệng. Vóc người hắn hơi thấp, đầu hắn đội mũ phớt mềm, mình mặc chiếc áo măng tô màu ngụy trang may rất đẹp, chân đi ghệt da. Cách trang phục cũng như những động tác chính xác của hắn làm giống một người ngoại quốc. Hắn nói giọng Pêterburg, tiếng nói không rõ âm sắc, nghe như khàn khàn:
- Cô trọ ở đâu?
- Xuống ga tôi đến thẳng đây.
- Rất tốt. Bây giờ cô sẽ ra phố Tverxkaia, đến hiệu cà-phê “Bôm”. Cô sẽ ăn ở đấy. Sẽ có một người đến gặp cô: trên ca-vát người ấy có một cái kim găm hình sọ người. Khẩu lệnh: “Gửi Chúa, lên đường bình an”. Nghe khẩu lệnh xong, cô đưa cho người ấy xem cái này. (Hắn chìa miếng danh thiếp hình tam giác ra làm hai, đưa cho Đasa một nửa) Khi đưa phải cẩn thận đừng để ai trông thấy. Người kia sẽ chỉ dẫn cho cô những việc cần làm. Cô phải tuyệt đối phục tòng người ấy. Cô có tiền không?
Hắn rút trong ví ra hai tờ ngân phiếu của viện Đuma, mỗi tờ một nghìn rúp.
- Tiền chi tiêu sẽ có người trả hộ cô. Còn số tiền này cô cố giữ lấy đề phòng khi gặp tai nạn bất ngờ, khi cần hối lộ, khi phải đi trốn. Cô có thể gặp đủ các trường hợp bất trắc. Cô đi đi... Khoan... Cô đã hiểu những điều tôi dặn chưa?
- Hiểu rồi, - Đasa đáp sau một vài giây ngập ngừng, tay gấp hai tờ ngân phiếu lại năm sáu lần.
- Không hở ra một câu nào là đã gặp tôi. Không hở ra với ai là đã đến đây. Cô đi đi.
Đasa ra phố Tverkaia. Nàng vừa đói vừa mệt. Những hàng cây trên đại lộ Tverxkôi, những bóng người qua đường thưa thớt và âm thầm cứ chập chờn trước mắt nàng như qua một làn sương mù. Tuy vậy nàng vẫn thấy lòng thư thái vì cái tình trạng tê liệt mụ mẳm đã chấm dứt, và những sự biến không thể hiểu được đã cuốn nàng vào cái bánh xe ma quái của nó, ném nàng vào một cuộc sống kỳ ảo và dữ dội.
Hai người đàn bà đi dép cỏ đang đi ngược lại phía nàng như hai cái bóng ảo đăng. Họ quay lại nhìn nàng và khẽ nói.
- Thật không biết dơ, say đến nỗi đi không vững nữa.
Kế đến là một bà cao lớn có bộ tóc hoa râm quấn thành tổ chim, xung quanh đôi môi hum húp hằn lên những nếp nhăn bi đát, chiếc váy dài màu đen vá bằng một thứ hàng khác, trông như thể cố ý. Dưới tấm khăn san, một múi buông xuống tận đất, bà ta ôm một chồng sách. Đi ngang Đasa bà ta nói khẽ:
- Có Rôzanôv cô có lấy không, sách cấm đấy, có cả toàn tập Vlađimia Xôloviôv...
Đi một quãng nữa thấy một ông già đang cúi xuống một chiếc ghế đá đặt bên hè, làm gì không rõ. Khi đi ngang qua, Đasa thấy trên ghế có hai người lính hồng quân nằm kề vai nhau ngủ rất say, mồm há hốc, súng gác giữa hai bắp đùi; mấy ông già đang thì thầm chửi rủa họ những câu thậm tệ.
Sau rặng cây, một ngọn gió khô khan thổi bụi bay là là trên mặt đất. Một chuyến xe điện hiếm hoi khua mấy tiếng chuông rời rạc, cái bậc lên xuống đã gẫy kéo lê loẹt quẹt trên đá lát đường. Những chùm lính xám xịt bám trên các cửa xe, ngồi cả lên tấm lá chắn ở phía sau. Trên mái đầu đồng đen của Puskin nhảy nhót mấy con chim sẽ thờ ơ với cách mạng.
Đasa rẽ vào phố Tverxkaia. Từ phía sau một đám bụi phả vào nàng kéo theo cả một mớ giấy vụn bay lả tả quanh người nàng và cứ thế theo nàng đến tận hiệu cà-phê “Bôm”, thành trì cuối cùng của cuộc sống cũ vô tư lự.
Đây là nơi tụ tập của các nhà thơ thuộc đủ các trường phái, của những nhà báo giải nghệ, của những tay đầu cơ văn học, của những chàng thanh niên láu lỉnh đã thích nghi được với thời buổi một cách dễ dãi và tài tình, của những cô thiếu nữ đang tự đầu độc bằng nỗi chán chường, bằng thuốc phiện trắng, của những gã vô chính phủ tép riu đang đi tìm những cách xử trí thật chua cay, của những thị dân bình thường bị mấy chiếc bánh ngọt cám dỗ.
Đasa vừa mới ngồi xuống một cái ghế ở cuối phòng, dưới pho tượng bán thân của một nhà văn nổi tiếng, đã có một người nào đứng dậy hoa tay múa chân vượt qua đám khói thuốc lá mù mịt ngồi phịch xuống cạnh Đasa, miệng nhoẻn thành một nụ cười ướt át để lộ hàng răng siết. Đó là một người quen lâu đời, nhà thơ Alekxanđr Jirôv.
- Ban nãy ở phố Lubyanka tôi đã chạy theo xe cô mãi... Lúc ấy tôi đã biết chắc là cô rồi đấy, Đarya Đmitrievna ạ. Cô ở đâu đến thế? Duyên số nào run rủi vậy? Cô đi một mình à? Hay đi với chồng? cô có nhớ tôi không? Hồi trước tôi đã có dạo yêu cô đấy: Cô cũng biết thế, phải không nào?
Đôi mắt hắn như mới tráng một lớp dầu nhờn. Hiển nhiên là hắn không chờ đợi Đasa trả lời lấy một câu hỏi nào của hắn. Hắn vẫn như cũ: lúc nào cũng run lên vì khích động, chỉ có cái nước da ốm yếu của hắn nay đã xỉn lại, trên khuôn mặt gầy và dài, cái mũi hơi lệch, phần dưới bạnh ra, trông càng to hơn.
- Còn tôi, tôi đã thể nghiệm biết bao thế sự thăng trầm trong mấy năm qua... Thật là huyễn hoặc... Tôi mới về Moxkva được ít lâu... Tôi ở trong nhóm hình tượng chủ nghĩa: Xêriôja Yexênin, Burlyuk, Krutsevykh, chúng tôi đang đập phá... Cô có đi ngang qua quảng trường Xtraxnoi không? Cô có trông thấy hàng chữ cao một thước kẻ trên tường không? Đó là một trò xấc xược ở quy mô thế giới!... Ngay cả mấy chú bolsêvik cũng phải sửng sốt... Tôi với Yexêmin làm suốt đêm đấy... Chúng tôi đã chơi xỏ Đức Mẹ và Chúa Jêxu một keo điếng người... Cô ạ, thật là một cuộc báng bổ có quy mô vũ trụ: Tảng sáng có hai bà già đọc mấy hàng chữ ấy rồi lăn đùng ra chết tại chỗ đấy... Đarya Đmitrievna ạ, ngoài ra tôi lại tham gia cả nhóm “Diều đen” của phái vô chính phủ nữa... Chúng tôi sẽ đưa cô vào... Không, không, cô đừng hòng nói chuyện từ chối với tôi... Cô có biết thủ lĩnh của chúng tôi là ai không? Mamônt Đalxki đấy, phải, con người trứ danh ấy đấy... Một thiên tài... Một Kin [Kean Edmund, 1787-1833, diễn viên Anh nổi tiếng chuyên đóng các vai bi kịch của Shakespeare] tái thế... Một nhà cách tân vĩ đại... Chỉ vài tuần nữa thôi là cả Moxkva sẽ ở trong tay chúng tôi... Thế là sẽ bắt đầu một thời đại mới! Moxkva sẽ rợp bóng cờ đen. Chúng tôi định ăn mừng thắng lợi - cô có biết bằng cách gì không? Chúng tôi sẽ tuyên bố mở vũ hội hóa trang cho toàn dân... Bao nhiêu kho rượu cho ra phố hết, ở các quảng trường sẽ có nhạc binh. Một triệu rưỡi người dự vũ hội. Không còn nghi ngờ gì nữa: một nửa số người ấy sẽ xuất hiện trần truồng... Và thay cho pháo hoa, chúng tôi sẽ cho nổ các kho đạn đại bác ở đảo Lôxin. Trong lịch sử thế giới chưa từng có một cái gì tương tự như vậy.
Trong mấy ngày qua, đây là hệ thống chính trị thứ ba mà Đasa đã được làm quen. Bây giờ nàng chỉ thấy sợ. Thậm chí nàng quên cả đói. Rất hài lòng với cái ấn tượng đã gây được, Jirôv bắt đầu đi vào chi tiết.
- Chả nhẽ cô lại không thấy lộn ruột lên trước cái cảnh tầm thường ti tiện của thành phố hiện tại hay sao? Bạn tôi là Valet, một họa sĩ thiên tài - hẳn cô còn nhớ anh ta chứ - đã vạch dự án cải tạo hoàn toàn bộ mặt của thành phố... Đập phá hết và xây dựng lại hoàn toàn mới: hơi tiếc là không kịp làm việc đó xong trước ngày vũ hội... Chúng tôi quyết định cho nổ mìn một số di tích - trước hết dĩ nhiên là phải cho nổ Viện bảo tàng lịch sử, thành Kremlin, tháp Xukharev, tòa nhà của Pertxôv... Dọc hai bên phố chúng tôi sẽ dựng những tấm pa-nô cho che kín hai dãy vẽ những chủ đề kiến trúc tương lai theo một phong cách tối tân chưa từng thấy... Cây cối... - màu lá tự nhiên là một cái gì không thể chấp nhận được - thì chúng tôi sẽ dùng sơn xì nhuộm nhiều màu khác nhau.... Cô thử tưởng tượng mà xem: những dãy bồ đề đen nhánh trên đại lộ Pretsixtenxki, Đại lộ Tverxkôi một màu tím rùng rợn... Tuyệt! Chúng tôi cũng quyết định tổ chức một cuộc phỉ báng toàn dân đối với Puskin... Đarya Đmitrievna, chắc cô còn nhớ những buổi “báng bổ huy hoàng” và cuộc “đấu tranh chống nếp sinh hoạt hàng ngày” ở nhà Têlêghin nhỉ? Thế mà dạo ấy người ta lại nhạo báng chúng tôi kia chứ!
Cười rúc rích như run lên từng đợt lăn tăn vì ớn lạnh, Jirôv nhắc nhở thời xưa, ngồi dịch lại gần Đasa và đã mấy lần, trong khi hoa tay múa chân, chạm vào bộ ngực chỉ hơi nhú lên của Đasa...
- Cô có nhớ Elizaveta Kievna không? Cô gái có đôi mắt cừu ấy mà? Đang mê vị hôn phu của cô như điếu đổ mà lại đi với Bexxônôv. Chồng cô ta là Jađôv, một chiến sĩ kiệt xuất của phái vô chính phủ... Jađôv và Mamont Đalxki hiện nay là hai con chủ bài chính của chúng tôi. À này, cả Antôska Arnôlđôv cũng đang ở đây đấy! Hồi chính phủ lâm thời hắn nắm hết báo chí. Hai chiếc xe hơi riêng... Nhân tình toàn là những ả quý tộc. Trong số đó có một ả người Hung ở “Villa Rođê”, đẹp đến mức quái dị: hắn ngủ với ả ta mà cũng phải để sẵn súng lục một bên. Tháng Bảy năm ngoái hắn có sang Pari, hắn suýt được cử làm đại sứ đấy... Thằng cha ngu như con lừa!... Hắn không kịp tuồn ngoại tệ ra nước ngoài, thế là bây giờ đói rách như ăn mày ấy. Phải, Đarya Đmitrievna ạ, phải đi đều nhịp với thời đại mới được... Antôska Arnôlđôv chết vì căn nhà sang trọng ở phố Kirôtsnaia, vì mấy bộ bàn ghế thiếp vàng, vì mấy cái bình cà-phê, vì một trăm đôi giày của hắn. Phải đột phá, xé toang mọi thành kiến... Phải giành một sự tự do tuyệt đối, thú vật, toàn vẹn -thế mới được! Sau này sẽ không còn thời đại nào như thế nữa... Và chúng ta sẽ thực hiện một cuộc thí nghiệm vĩ đại. Tất cả những kẻ đi tìm sự yên ổn trưởng giả sẽ đè bẹp họ... Con người là một dục vọng không có gì hạn chế... (Hắn hạ giọng, ghé sát vào tai Đasa) Bọn bolsêvik như cứt ấy... Họ chỉ khá được một tuần hồi tháng mười... Sau đó lập tức quay ra ham chuộng tổ chức nhà nước. Nước Nga xưa nay vẫn là một nước vô chính phủ, người mu-gích Nga là người vô chính phủ tự bản chất... Bọn bolsêvik muốn biến nước Nga thành một công xưởng - xì! Không được đâu, chúng tôi có Makhnô... So với Makhnô, Piôtr đại đế chỉ là một con chó con... Makhnô ở miền Nam, Mamônt Đalxki và Jađôv ở Moxkva. Chúng tôi sẽ đốt phá từ hai mũi. Đêm nay tôi sẽ dẫn cô đến một nơi, cô sẽ được thấy tận mắt, cho biết cái quy mô đồ sộ của sự nghiệp chúng tôi... Đồng ý nhé? Đi nhé?
Đã mấy phút rồi có một người thanh niên xanh xao để bộ râu cằm nhọn đến ngồi ở bàn bên. Từ phía sau tờ báo, hắn chăm chú nhìn Đasa qua cái kính cặp mũi. Ù tai choáng óc trước những tưởng tượng hão huyền của Jirôv, nàng không hề nghĩ đến chuyện phản đối hắn: trong những đám khói thuốc lá nàng mường tượng thấy những ý đồ quái đản ấy nảy sinh ra như những làn chớp, và trước mắt nàng chờn vờn những bộ mặt kỳ dị với những mẩu thuốc lá cắn nát bét và những đôi đồng tử mở rộng... Nàng còn có thể nói gì để bác lại? Có chăng cũng chỉ phát ra được những tiếng chiêm chiếp ai oán như tiếng gà con để nói rằng trái tim bé nhỏ của nàng run sợ trước những cuộc thí nghiệm này, và dĩ nhiên tiếng cười quái đản, tiếng reo hò, tiếng suỵt chó, tiếng la ó ầm ĩ sẽ át tiếng chiêm chiếp của nàng.
Đôi mắt của người có bộ râu nhọn nhìn nàng mỗi lúc một xoi mói hơn. Nàng đã trông thấy cái kim găm hình sọ người trên cái cà vạt màu huyết dụ của hắn và đoán chắc đó là người mình phải gặp. Nàng toan đứng dậy nhưng hắn khẽ lắc đầu ra hiệu cho nàng ngồi yên. Đasa cau mặt, nghĩ kế. Hắn đưa mắt chỉ Jirôv. Nàng hiểu ý, liền yêu cầu Jirôv đi gọi món ăn cho nàng. Bấy giờ người có râu cằm nhọn lại gần nàng và nói, môi không mấp máy:
- Gửi Chúa, lên đường bình an.
Đasa mở ví lấy nửa hình tam giác ra. Người kia lắp nó vào nửa thứ hai, rồi xé vụn cả hai mảnh ra.
- Tại sao cô quen Jirôv? - hắn hỏi nhanh.
- Đã lâu rồi, hồi ở Pêterburg.
- Như thế cũng tiện. Cần làm cho người ta tưởng cô ở trong nhóm ấy. Hắn đề nghị cô cũng cứ bằng lòng đi. Rồi đến mai - cô nhớ kỹ nhé - cũng vào giờ này cô đến tượng Gôgôl ở đại lộ Prêtsixtenkxi. Cô ngủ lại ở đâu?
- Tôi chưa biết.
- Đêm nay thì cô ngủ ở đâu cũng được. Cô cứ đi với Jirôv.
- Tôi mệt lắm. - Mắt Đasa rưng rưng, tay nàng lẩy bẩy, nhưng nhìn bộ mặt lạnh lùng và cái sọ người trên cà-vạt của hắn, nàng nhẫn nhục cúi đầu.
- Cô nhớ kỹ là phải tuyệt đối bí mật. Nếu cô nói hở ra, dù là vô tình cũng vậy, trong giai đoạn quyết liệt này, chúng tôi sẽ phải thủ tiêu cô...
Hắn nhấn mạnh hai chữ này. Mấy ngón chân của Đasa co quắp lại. Lúc ấy Jirôv bưng hai đĩa thức ăn đi về bàn. Người có bộ râu nhọn đến cạnh hắn, đôi môi mỏng nhếch lên thành một nụ cười, và Đasa nghe hắn nói:
- Xinh nhỉ. Ai đấy?
- Thôi xin cậu đi, Yurka ạ, chẳng phải dành cho cậu đâu.
Jirôv nhìn theo hắn, hàm răng siết nhe ra, không biết để cười hay để dọa, rồi đặt xuống trước mặt Đasa một khúc bánh mì đen, mấy miếng xúc xích và một cốc nước gì nâu nâu.
- Tối nay thế nào? Cô rỗi chứ?
- Thế nào cũng được, - Đasa vừa đáp vừa cắn miếng xúc xích một cách ngon lành đến mức xót xa nhức nhối.
Jirôv mời Đasa về căn buồng của hắn thuê ở khách sạn “Lux” ở chênh chếch bên kia đường.
- Cô ngủ đi một chút, tắm rửa đi, rồi khoảng mười giờ tôi sẽ đến gọi cô.
Hắn lăng xăng cuống quít, vẻ còn hơi e dè trước mặt Đasa vì những kỷ niệm cũ. Cái giường của hắn - có mắc rèm gấm và trải thảm hồng trông khả nghi đến nỗi hắn cũng hiểu ra điều đó và bàn với Đasa dọn chỗ ở chiếc đi-văng. Sau khi dẹp hết những sách báo, bản thảo bừa bãi trên đi-văng, hắn trải một tấm khăn lót giường, phủ lên trên một tấm da lông màu đen tháo của một cái áo khoác đắt tiền nào đấy, cười hềnh hệch rồi đi ra. Đasa cởi giày. Hai bên hông, hai chân cả người nàng đều mỏi nhừ ra. Nàng nằm xuống và ngủ thiếp đi ngay, mình được ủ ấm dưới tấm da lông thoang thoảng mùi nước hoa, mùi thú rừng và mùi băng phiến. Nàng không nghe thấy tiếng Jirôv vào phòng và cúi xuống ngắm nàng, cũng không nghe thấy tiếng một người cao lớn, mặt cạo nhẵn, trông giống một người La Mã cổ đại, đang đứng ở ngưỡng cửa nói ồ ồ: “Thôi được, cứ đưa cô ấy đến, tôi sẽ viết cho mấy chữ”.
Trời đã tối hẳn từ lâu khi nàng thở dài một tiếng rồi tỉnh dậy. Mảnh trăng vàng nhạt trên mái nhà nhìn qua tấm kính cửa sổ lồi lõm không đều trông méo mó hẳn đi. Ánh điện ngoài hành lang lọt qua cái kẽ hở dưới cánh cửa vẽ thành một đường thẳng dài. Mãi lát sau Đasa mới nhớ ra là mình đang ở đâu, đi vội bít tất vào, sửa lại tóc, áo và đến cạnh la-va-bô. Cái khăn mặt bẩn đến nỗi Đasa ngần ngại mãi, nước nhỏ tong tong từ dưới đầu ngón tay xòe rộng, rồi cuối cùng nàng đành lau tay vào mặt trong chiếc váy đang mặc.
Nàng chợt thấy buồn chán đến xót xa trước cái cảnh bẩn thỉu này, cổ nàng se lại vì ghê tởm. Ước gì có thể chạy một mạch về nhà, về với khung cửa sổ sạch bóng, với đàn chim én của nàng!... Nàng quay đầu nhìn lên mảnh trăng - một lưỡi liềm khô cằn, méo mó, dễ sợ lơ lửng trên thành Moxkva. Không, không thể được... Đường về không còn nữa, không thể chết cô đơn trên chiếc ghế bành bên khung cửa sổ nhìn xuống đại lộ Kamenny Oxtrôv vắng tanh, trong khi lắng nghe tiếng đanh đóng chan chát vào những tấm ván bịt kín các cửa nhà... Không... Rồi có ra sao cũng đành...
Có tiếng gõ cửa, và Jirôv rón rén bước vào.
- Kiếm được phiếu rồi, cô Đarya Đmitrievna ạ, ta đi thôi.
Đasa chẳng buồn hỏi xem phiếu gì, và đi đâu. Nàng đội chiếc mũ chụp tự làm lấy, ép chặt cái ví đựng hai tờ giấy nghìn bên dùi, và theo Jirôv ra ngoài. Một bên phố Tverxkaia sáng mờ dưới trăng. Đèn đường không thắp. Một đội tuần tra âm thầm lê ủng đi chầm chậm trên phố vắng.
Jirôv rẽ ra đại lộ Tverxkôi. Ánh trăng chiếu xuống từng vệt mờ mờ trên mặt đất mấp mô. Dưới rặng bồ đề, bóng tối dày đặc đến nỗi nhìn vào mà rợn cả người. Phía trước hình như vừa có một bóng người chạy vụt vào cái khoảng tối mịt ấy. Jirôv đứng lại, trên tay lăm lăm một khẩu súng lục.
Hắn đứng yên một lát rồi huýt sáo khe khẽ. Từ trong bóng tối có tiếng huýt sáo đáp lại. “Polunđra” - hắn nói to hơn. “Đồng chí đi” - một giọng người đáp lại, rành rọt và uể oải.
Họ rẽ sang phố Malaia Đmitrôvka. Trước mặt có hai người mặc áo da đi nhanh qua phố. Họ nhìn Đasa và Jirôv rồi lặng lẽ tránh ra nhường lối. Bên cửa vào Câu lạc bộ Thương nghiệp - ở tầng hai, bên trên thềm nhà có treo một lá cờ đen - từ sau dãy cột bỗng có bốn người bước ra, tay lăm lăm mấy khẩu súng lục. Đasa giật mình suýt ngã. Jirôv gắt:
- Các đồng chí làm cái trò gì thế? Khỉ thật, chỉ được cái dọa người một cách vô ích. Tôi có phiếu của Mamônt đây.
- Đưa xem.
Dưới ánh trăng, bốn “chiến sĩ” vô chính phủ, cổ áo khoác dựng lên lấp cả hai má nhẵn nhụi, lưỡi trai sụp xuống che kín cả mắt, bắt đầu xem xét tấm phiếu. Gương mặt Jirôv cứng đờ ra trong một nụ cười gượng gạo, trông như một xác chết. Một trong bốn người kia hỏi giọng thô lỗ:
- Nhưng phiếu viết cho ai mới được chứ?
- Cho nữ đồng chí đây, - Jirôv nắm lấy tay Đasa, - đồng chí ấy là nữ nghệ sĩ ở Pêtrôgrađ mới đến... Cần phải trang phục... Đồng chí ấy vào nhóm ta...
- Thôi được, vào đi...
Đasa và Jirôv bước vào một căn phòng mắc áo tối mờ mờ, có đặt một khẩu súng máy ở dưới chân cầu thang. Người phụ trách kho từ phía trong bước ra. Đó là một sinh viên người thấp, má phính, mặc áo quần quân sự mà đội mũ fexka [Mũ hình cái xoong có ngù ở trên, thường dùng ở các nước Cận đông]. Hắn lật lên lật xuống đọc đi đọc lại tấm phiếu hồi lâu, rồi hỏi Đasa, giọng càu nhàu:
- Cần thứ gì?
Jirôv đỡ lời:
- Mamônt có ra lệnh là phải trang phục đầy đủ từ đầu đến chân: chọn những thứ sang nhất ấy.
- Mamônt có ra lệnh là thế nào?... Đồng chí nên biết rằng ở đây không có ai được ra lệnh cả... Đây không phải là cửa hiệu... (Hắn ngứa đùi quá, mặt nhăn như bị, với tay xuống gãi sồn sột). Thôi được, đi vào đây.
Hắn rút ra một cái chìa khóa và đi vào gian phòng trước kia dùng làm nơi treo quần áo, còn bây giờ là kho vật tư của trụ sở đảng Vô chính phủ.
- Đarya Đmitrievna ạ, cô chọn đi, đừng ngần ngại gì cả, toàn là tài sản của nhân dân cả đấy mà...
Jirôv vung rộng cánh tay chỉ những dãy giá treo san sát những bộ áo lông loại quý: lông chồn bạc, lông chồn hương, lông cáo đỏ, lông cáo nâu, lông sinsila, lông hải ly, lông vượn. Những thứ ấy còn để la liệt trên mấy cái bàn hay chất đống giữa sàn. Trong những chiếc va-ly mở nắp xếp bừa bộn những áo dài, đồ lót và hộp đựng giày. Dễ có đến mấy kho hàng xa xỉ phẩm chở đến dồn cả vào gian phòng này. Viên phụ trách kho hoàn toàn thờ ơ trước đống của phong phú đó, ngồi ngáp vặt trên một cái thùng.
- Đarya Đmitrievna ạ, cô thích thứ gì thì cứ lấy tự nhiên, tôi sẽ mang cho; ta sẽ lên trên kia thay trang phục.
Dù những cảm xúc và tư duy của Đasa lúc này có phức tạp đến đâu chăng nữa, thì trước hết nàng vẫn là người đàn bà. Má nàng ửng hồng lên. Một tuần trước đây, khi nàng đang tàn héo dần như một đóa hoa linh lan bên khung cửa sổ và thấy cuộc đời đã chấm dứt, không còn mong đợi gì nữa, có lẽ không có một thứ ngọc ngà châu báu nào có thể cám dỗ nàng. Nhưng bây giờ thì bốn bề đã mở rộng thênh thang - cái mà nàng vẫn tưởng là tê liệt đi, đã chết rồi, nay lại bắt đầu cử động. Nàng bước vào cái trạng thái kỳ lạ khi những ước muốn, niềm hy vọng mới bừng tỉnh đều hướng về lớp sương mù đầy lo lắng của ngày mai, còn hiện tại thì đổ nát, điêu tàn như một ngôi nhà bỏ hoang.
Nàng không nhận ra giọng nói của mình nữa, kinh ngạc trước những câu trả lời, những cử chỉ của mình, trước cái thái độ điềm tĩnh của mình khi cảm thụ những cảnh hoang đường huyễn hoặc đang quay cuồng ở xung quanh. Bằng thứ bản năng tự vệ nào đấy từ trước tới nay vẫn chìm trong giấc ngủ, nàng cảm thấy rằng bây giờ phải giương hết buồm lên và ném tất cả những hành lý cũ kỹ nặng nề xuống biển.
Nàng chìa tay về phía tấm khăn quàng bằng lông chồn bạc:
- Làm ơn cho tôi cái này.
Jirôv đưa mắt nhìn viên phụ trách kho. Hắn nhún vai. Jirôv lấy tấm khăn xuống, vắt lên vai. Đasa cúi mình trên một cái rương mở nắp. Rồi nàng thọc cánh tay vào mớ đồ lót. lút đến tận khuỷu.
- Đarya Đmitrievna, còn giày nữa chứ? Cô lấy cả giày đi mưa nữa đi. Áo mặc buổi tối trong tủ kia kìa. Đồng chí phụ trách ơi, cho mượn chìa khóa đi... Đối với một nữ nghệ sĩ, trang phục là công cụ sản suất đấy đồng chí ạ.
- Thôi thôi, muốn lấy gì thì cứ lấy đi - viên phụ trách nói.
Đasa và theo sau là Jirôv tay bê một mớ quần áo giày dép, đi lên tầng hai, vào một căn phòng nhỏ có tấm gương bị một viên đạn bắn thủng. Giữa những đường rạn nứt chạy chằng chịt như mạng nhện trên tấm kính mờ mờ, Đasa trông thấy một người đàn bà nào khác đang thong thả xỏ chân vào đôi bít tất lụa. Người ấy khoác lên mình một chiếc áo sơ-mi rất mịn, mặc chiếc quần lót viền đăng ten vào, lấy mũi giày hất đống quần áo mạng sang một bên, rồi khoác tấm da lông chồn lên đôi vai gầy... Cô là ai thế, cô bạn thân mến? Một con đĩ chăng? Hay là một con ăn cướp, một con ăn cắp? Dù sao cô cũng xinh đẹp quá... Thế là tất cả đều đang chờ cô ở phía trước. Thôi, rồi sẽ thử tìm cách phân giải sau...
* * *
Phòng ăn lớn của khách sạn “Mêtrôpôl” đã bị những trận pháo kích hồi tháng mười làm hư hỏng cho nên không mở cửa, nhưng khách sạn vẫn dọn thức ăn và rượu vang cho khách ở các phòng ăn riêng, vì một phần khách sạn được giành cho người ngoại quốc, phần đông là người Đức, và cho những thương gia liều lĩnh đã xoay xở được một tờ hộ chiếu ngoại quốc - Li-toan, Ba-lan hay Ba-tư. Trong các phòng ăn riêng ấy, người ta chè chén linh đình như ở Florenxya hồi có dịch hạch. Nếu có tay trong, người Moxkva chính cống cũng có thể được đưa vào cổng sau: đó phần lớn là những diễn viên biết chắc rằng các nhà hát ở Moxkva không thể nào thọ được đến cuối mùa: trước mắt nhà hát cũng như diễn viên là một cái chết vô phương cứu vãn. Thế là các diễn viên uống rượu tì tì, không hề biết tiếc thân.
Linh hồn của những bữa chén ban đêm này là Đamônt Đalxki, một diễn viên kịch nói, chuyên đóng bi kịch, mà mới gần đây thôi tên tuổi còn lừng lẫy không kém gì Rôxxi. Đó là một người tính khí rất kỳ quặc hung hãn, dung mạo tuấn tú, hay đánh bạc, điên rồ một cách có ý thức, oai vệ và xảo trá. Mấy năm gần đây hắn ít khi lên sân khấu, chỉ biểu diễn trong những chuyến đi lưu động. Người ta thường gặp hắn trong các sòng bạc ở hai kinh thành, ở miền nam, ở Xibiri. Người ta truyền tụng những canh bạc quái gở trong đó hắn thua những món tiền khó tưởng tượng nổi. Bây giờ hắn đã bắt đầu về già, và thường nói là mình sắp giải nghệ. Hồi đại chiến hắn có dính líu vào những vụ đầu cơ ám muội quanh cục quân nhu. Đến khi cách mạng bùng nổ, hắn xuất hiện ở Moxkva. Hắn đánh hơi thấy đây là một màn bi kịch khổng lồ, và nẩy ra cái ý muốn đóng vai chính trong vở “Anh em kẻ cướp” mới cải biên này. Với tất cả sức thuyết phục của một diễn viên thiên tài, hắn lên tiếng tuyên truyền cho chế độ vô chính phủ thần thánh và cho quyền tự do tuyệt đối, thuyết lý về tính chất ước định của các nguyên tắc luân lý và về quyền của mọi người được làm và được tất cả những gì mình muốn. Hắn gieo rắc sự kích động trong tâm trí người Moxkva. Khi có những nhóm thanh niên, được tăng cường bằng những phần tử tội phạm, bắt đầu nổi lên đi trưng dụng của cải trong các biệt thự, hắn đã tập trung những nhóm vô chính phủ rời rạc này lại, dùng vũ lực chiếm câu lạc bộ thương nhân làm trụ sở cho đảng vô chính phủ. Hắn tuyên chiến với chính quyền xô viết, nhưng chắc chắn là trí tưởng tượng của hắn còn đi xa hơn những căn nhà kho của Câu lạc bộ thương nhân và những cuộc chè chén ban đêm, khi hắn đứng trên cửa sổ trụ sở diễn thuyết trước dân chúng, và sau một cử chỉ đặc phong cách Hy La cổ đại, hắn ra lệnh cho thủ hạ gieo xuống đám đông đứng dưới sân nào quần, nào ủng, nào vải vóc, nào rượu cô-nhắc đóng chai.
Mamônt Đalxki chính là người mà Đasa nhìn thấy trước tiên khi cùng với Jirôv bước vào căn phòng riêng của khách sạn “Mêtrôpôl” - một gương mặt tối sẫm, như đúc bằng đồng đen, trên đó những dục vọng cuồng nhiệt và quãng đời đập phá hoang tàng, như một nhà điêu khắc vĩ đại đã chạm lên những nếp gấp, những nếp nhăn, những đường nét cương nghị của đôi môi, của cái cằm và những đường gân rắn rỏi trên cái cổ đóng khung trong chiếc áo sơ mi mềm, không còn sạch lắm...
Nắp dương cầm đã mở. Một người mảnh khảnh, mặt cạo nhẵn, mình mặc chiếc áo vét nhung, đầu ngửa ra đằng sau, mồm cắn điếu thuốc, đôi hàng mi lim dim phủ lên đôi mắt ướt mơ màng, đang dập lên phím đàn những hợp âm ai điếu. Quanh bàn ăn, mấy vĩ nhân lừng danh thế giới đang ngồi trước một mớ chai đã rót cạn. Một người mũi hếch, cái cằm cương nghị tựa lên lòng bàn tay, khiến cho cái mặt hơi nhão càng bẹt ra, cất cái giọng tenor thanh thanh hát phần của linh mục chủ lễ. Những người kia - một gã lý sự dung mạo như cái hũ, một diễn viên hài kịch có bộ mặt đưa đám, môi trề xuống; một vai anh hùng râu ba ngày chưa cạo, mũi nhọn hoắt, một gã tình nhân say khổ say sở; một vai chính diện công tử có vầng trán rực lửa và những nếp nhăn sâu, trông chẳng có vẻ gì là say hết - hễ đến lúc lại cùng cất tiếng hát phần đồng ca.
Ông thầy lễ của nhà thờ “Chúa cứu thế”, một con người đẹp trai đã về già, tóc hoa râm, đeo đôi kính gọng vàng nặng đến ba lạng do giới thương nhân Moxkva đánh riêng để biếu ông ta, đang đi đi lại lại trên tấm thảm, ống tay áo chùng phe phẩy, chốc chốc lại đệm vào những câu thánh ca. Cái giọng cực trầm vừa êm như nhung vừa dữ vội như tiếng thú gầm của ông làm cho những cốc tách pha lê để trên bàn rung lên lanh lảnh. Căn phòng ăn tường chăng lụa đỏ thẫm, với những bức rèm cửa bằng gấm, sát cửa ra vào có đặt một bức bình phong ba tấm.
Mamônt Đalxki đứng tựa khuỷu tay vào bức bình phong ấy. Trong tay hắn cầm một cổ bài. Hắn mặc một bộ y phục bán quân sự: một chiếc áo bốn túi kiểu Anh, một cái quần ngựa vá da, chân đi ủng đen. Khi Đasa vào phòng, hắn đang mỉm cười hằn học nghe bài hát cầu hồn.
- Ồ, đẹp quá, đẹp mê hồn! - người ngồi ở đàn dương cầm nhìn nàng thốt lên.
Đasa e thẹn đứng lại. Cả bọn đều đổ dồn vào nhìn nàng, trừ Đalxki. Ông thầy lễ nói:
- Một vẻ đẹp thuần túy Nga.
- Tiểu thư, lại đây với chúng tôi, - vai công tử chính diện nói, giọng êm như nhung.
Jirôv thì thầm:
- Cô ngồi xuống đi, ngồi xuống đi.
Đasa ngồi vào bàn. Cử tọa lần lượt đến cúi chào và hôn tay nàng, với những dáng dấp long trọng như đến chào một hoàng hậu Mary Xtuart tái thế. Sau đó họ lại tiếp tục hát. Jirôv tiếp cho nàng một ít trứng cá ướp, mấy món nhắm, cho nàng uống một thứ rượu gì ngòn ngọt, uống vào nóng ran cả người. Trong phòng ngột ngạt, khói thuốc lá mù mịt. Sau hớp rượu, Đasa thấy nóng, bèn cởi khăn choàng lông, để hai cánh tay trần lên bàn. Những hợp âm ảm đạm và những lời ca cổ kính làm nàng xao xuyến. Nàng chăm chú nhìn Mamônt không rời mắt. Vừa rồi, đi dọc đường Jirôv có kể chuyện hắn cho nàng nghe. Hắn vẫn đứng riêng ra một bên, cạnh bức bình phong, mặt mày trông rất dữ tợn, không biết là hắn đang giận điên lên hay đang say khướt:
- Thế nào đấy, các ngài, - hắn nói giọng trầm vang dội cả phòng. - Không có vị nào nhận lời à?
- Không, không ai muốn đánh với cậu đâu, thế này chúng mình cũng vui chán rồi, cậu đừng nài nữa, đừng lôi thôi nữa, - người có cái mặt nhão nói liến thoắng, giọng tenor rất mảnh. -Nào, Yasenka, đánh bài lễ thứ bảy đi.
Yasa ngồi trước dương cầm, đầu ngửa hẳn ra, mắt nhắm lại, ấn mười ngón tay lên phím đàn. Mamônt nói:
- Không đánh ăn tiền đâu... Tôi nhổ toẹt vào tiền của các ngài...
- Không ăn tiền cũng không đánh, đừng lôi thôi nữa, Mamônt ạ.
- Tôi muốn đánh cuộc một phát súng...
Sau câu này cả bọn lặng đi trong một phút. Vai anh hùng có cái mũi nhọn đưa lòng bàn tay lên vuốt trán và tóc, rồi đứng dậy, tay cài cái cúc áo gi-lê.
- Được, tôi nhận lời đánh cuộc một phát súng.
Anh diễn viên hài kịch lặng lẽ nắm lấy hắn, ấn cả tám mươi cân thịt lên người bắt hắn ngồi xuống.
- Tao đặt cuộc cả đời tao đây, - vai anh hùng quát lên, - bài của thằng Mamônt đểu cáng có dấu đấy... Nhưng tao đếch cần, hắn cứ trang bài đi... Buông tao ra...
Nhưng hắn đã kiệt sức. Vai lý sự, phần dưới khuôn mặt bạnh rộng ra, nói dịu dàng:
- Thế đấy, rượu cũng chẳng còn lấy một giọt, Mamônt, thế này thì tệ quá đấy anh bạn ạ...
Bấy giờ Mamônt ném lên cái bàn con đặt máy điện thoại một cỗ bài và một khẩu Browning. Khuôn mặt to với những đường nét như tạc của hắn tái mét đi vì tức giận.
- Không ai được ra khỏi nơi này, - hắn phát âm rõ từng tiếng một. - Sẽ đánh bài theo đúng ý của tôi... Cỗ bài này không có dấu gì hết.
Hắn hít mạnh không khí qua hai lỗ mũi rộng, môi dưới chìa ra. Ai nấy đều hiểu rằng đây là một phút rất nguy hiểm. Hắn nhìn qua mặt những người ngồi quanh bàn một lượt. Yasa dùng một ngón đánh khe khẽ bài “chim hoàng tước” trên đàn dương cầm. Bỗng đôi mày đen nhánh của Mamônt giương cao lên, đôi mắt tối sẫm của hắn thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. Hắn đã trông thấy Đasa. Nàng thấy tim mình lạnh toát đi dưới cái nhìn của hắn. Hắn bước vững vàng đến cạnh nàng, cầm lấy đầu ngón tay của nàng đưa lên đôi môi khô nẻ, nhưng không hôn, mà chỉ khẽ chạm vào đây.
- Các anh nói là không có rượu phải không... Sẽ có ngay...
Hắn rung chuông gọi người hầu bàn, mắt vẫn nhìn Đasa. Một người hầu bàn Tatar bước vào, dang hai tay tỏ vẻ bất lực: không còn lấy một chai nào, khách uống hết sạch, hầm rượu thì đã khóa chặt, viên quản lý cầm chìa khóa về nhà mất rồi. Mamônt liền nói:
- Thôi ra đi - Đoạn bước đến máy điện thoại, dáng dấp như đang đi trước mắt hàng nghìn khán giả. Hắn gọi số điện thoại: “Vâng... Tôi đây... Đalxki đây... Cho một đội đến ngay. Khách sạn “Mêtrôpôl”... Tôi đang ở đây... Việc khẩn... Phải... Bốn người là đủ...”.
Hắn thong thả đặt ống nghe xuống, dựa lưng vào tường và khoanh tay trước ngực. Chỉ mười lăm phút trôi qua là cùng. Yasa bắt đầu chơi khe khẽ một khúc nhạc của Xkryabin trên dương cầm. Đasa thấy choáng váng trước những âm thanh quen thuộc đang từ dĩ vãng xa xôi bay về. Thời gian đã biến mất. Lớp áo gấm ngân tuyến trên ngực Đasa phập phòng nâng lên hạ xuống, máu dồn lên tai nàng rần rật. Jirôv ghé tai nàng thì thầm mấy tiếng, nhưng nàng không nghe gì hết.
Nàng bồi hồi xao xuyến thể nghiệm niềm hạnh phúc của sự giải thoát, cái cảm giác nhẹ nhõm của tuổi thanh xuân. Nàng có cảm giác như mình đang bay lên lâng lâng như một quả bong bóng vừa tuột dây lìa khỏi chiếc xe nôi trẻ con, bay lên cao đến chóng cả mặt...
Vai công tử chính diện vuốt cánh tay để trần của nàng, lấy một giọng êm như nhung khuyên nhủ nàng:
- Đừng nhìn hắn một cách quá âu yếm như thế, con bồ câu của tôi ạ, kẻo mù mắt đi đấy.... Ở Mamônt chắc chắn là có một cái gì ma quái...
Bỗng một bên cửa ra vào vụt mở, và sau tấm bình phong hiện ra bốn cái đầu đội mũ lưỡi trai, bốn cánh tay mặc áo da vung cao bốn quả lựu đạn lên. Bốn tên vô chính phủ quát lớn, giọng hung hãn:
- Ngồi im! Giơ tay lên!
- Thôi ra đi, ổn cả rồi, - Đalxki điềm tĩnh nói giọng trầm. - Cám ơn các đồng chí. - Hắn lại gần tốp kia, chồm qua bình phong giảng giải khe khẽ cho họ một điều gì đấy. Họ gật đầu rồi lui ra. Một phút sau có mấy tiếng người nói lao xao, rồi một tiếng kêu nghèn nghẹn. Một tiếng nổ ầm ầm làm cho mấy bức tường khẽ rung lên. Mamônt nói:
- Mấy thằng chó con bao giờ cũng vẫn cứ phải gây ấn tượng để lòe thiên hạ. - Hắn lắc chuông. Lập tức một người hầu chạy vào phòng, mặt tái mét, hai hàm răng đập vào nhau cầm cập. - Dọn hết đi, trải khăn bàn sạch để dọn rượu! Mamônt ra lệnh. - Yaska, đừng làm khổ dây thần kinh tôi nữa, cho một bài gì phấn chấn lên nghe nào!
Quả nhiên mấy người hầu chưa kịp trải xong khăn bàn mới thì bốn chiến sĩ vô chính phủ đã lại xuất hiện, tay cắp một mớ chai. Sau khi đặt lên bàn nào cô-nhắc, nào whisky, nào rượu mùi, nào sâm banh, họ lui ra, cũng lặng lẽ như khi đem rượu vào. Quanh bàn lao xao những tiếng trầm trồ kinh ngạc và hân hoan. Mamônt giảng giải:
- Tôi đã ra lệnh là chỉ tịch thu trong các buồng trọ năm mươi phần trăm số chai rượu hiện có mà thôi. Còn một nửa để lại cho các chủ nhân. Lương tâm các ngài không việc gì phải bứt rứt, mọi việc đều ổn đáng.
Yasa gõ lên phím dương cầm một điệu nhạc binh rầm rộ. Nút sâm banh nổ bôm bốp. Mamônt ngồi xuống cạnh Đasa. Dưới ánh đèn bàn, những nét như tạc càng nổi rõ trên mặt hắn và càng có vẻ có ý nghĩa hơn. Hắn nói:
- Hôm nay tôi đã trông thấy cô ở khách sạn “Lux”, lúc ấy cô đang ngủ... Cô là ai?
Đầu choáng váng, nàng cười khanh khách đáp:
- Chẳng là ai cả... Một quả bong bóng con...
Hắn đặt bàn tay to và nóng lên cái vai để trần mát rượi của nàng, nhìn chăm chăm vào mặt nàng. Đasa điềm nhiên như không, chỉ cảm thấy hơi ấm của bàn tay đè nặng lên vai. Nàng cầm lấy cái chân cốc sâm banh mảnh dẻ và uống cạn cốc.
- Cô không thuộc về ai chứ? - hắn hỏi.
- Chẳng thuộc về ai hết.
Mamônt liền ghé sát vai nàng nói một giọng bi kịch ngân nga:
- Cô bé của ta ơi, hãy sống đi, hãy sống cho hết sức lực của tâm hồn... Em đã gặp ta: đó là diễm phúc của em... Em đừng sợ, ta sẽ không lấy tình yêu phá hỏng tuổi thanh xuân của em đâu... Những con người tự do không yêu và không đòi hỏi tình yêu... Ôthellô là một hỏa đàn trung cổ, là tòa giảo hình, là một bộ mặt nhăn nhó của địa ngục... Rômêô và Juliet... Ồ, ta biết lắm: em vẫn thầm thở dài nghĩ đến đôi uyên ương ấy... Nhưng đó chỉ là một mớ đồ cũ mốc meo... Chúng ta đang đập phá hết từ trên xuống dưới... Ta sẽ đốt hết các sách vở, sẽ phá hết các viện bảo tàng...Cần phải làm cho con người quên hết các thiên niên kỷ... Tự do chỉ có một: nền vô chính phủ thần thánh... Một hội pháo hoa vĩ đại của các dục vọng... Không! Hỡi mỹ nhân, chớ mong chờ tình yêu, chớ ước ao yên tĩnh... Ta sẽ giải phóng em... Ta sẽ phá tan những xiềng xích của sự ngây thơ trinh bạch đang trói buộc em... Ta sẽ cho em tất cả những gì em tưởng tượng ra giữa hai cuộc ái ân... Em xin đi!... Em hãy xin ngay bây giờ đi!... Biết đâu đến ngày mai thì đã quá muộn rồi...
Qua những lời mê sảng này, Đasa cảm thấy với tất cả da thịt của mình cái dục vọng nặng nề đang sôi sục lên sát bên cạnh nàng. Nàng thấy kinh hoảng như trong cơn ác mộng, khi mình không sao cử động được mà từ trong bóng tối của chiêm bao, đôi mắt đỏ ngầu của quái vật cứ dần dần tiến sát vào mình. Nó sẽ xô ngã, sẽ bóp nát, sẽ xéo lên nàng... Hãi hùng hơn nữa là trong bản thân nàng cũng dấy lên những thèm muốn chưa từng biết, nó thiêu đốt nàng, bóp nghẹt nàng... Nàng cảm thấy mình chỉ là một người đàn bà... Chắc bây giờ trong cơn xúc động nàng đẹp lắm, cho nên vai công tử chính diện nghiêng người về phía nàng, giơ tay ra chạm cốc với nàng và nói, giọng ghen tuông:
- Mamônt, anh đang hành hạ một đứa trẻ...
Như bị bắn thẳng vào mặt, Đalxki giật nẩy người đứng phắt dậy, nện quả đấm xuống bàn, mạnh đến nỗi mấy cái cốc nảy lên, đổ kềnh ra.
- Hễ động đến người đàn bà này, ta bắn chết ngay.
Hắn lao về phía cái bàn điện thoại nơi đặt khẩu súng lục. Tất cả những người ngồi quanh bàn đều đứng bật dậy, ghế đổ lỏng chỏng. Yasa chui xuống gầm bàn, Bấy giờ, tuy cũng chẳng hiểu mình đang làm gì, Đasa bíu chặt lấy cánh tay của Mamônt đang lăm lăm khẩu súng. Đôi mắt nàng nhìn hắn, van lơn. Hắn liền ôm lấy tấm lưng mảnh dẻ của nàng ở phía dưới hai bả vai, nhấc bổng nàng lên và áp môi lên môi nàng, chặt đến nỗi răng hắn chạm vào răng nàng. Đasa rên lên một tiếng. Vừa lúc ấy có tiếng chuông điện thoại. Mamônt thả Đasa xuống một chiếc ghế bành (nàng giơ tay lên che mắt) rồi cầm ống nghe lên:
- Vâng... có việc gì đấy? Tôi đang bận... À... Ở đâu? Phố Myaxnitxkaia à? Kim cương à? Có giá trị chứ? Mười phút nữa tôi sẽ...
Hắn đút khẩu súng vào túi sau, đến cạnh Đasa, giơ hai tay nâng mặt nàng lên, thèm khát hôn lên môi nàng mấy lần, rồi đi ra ngoài sau khi giơ cao tay lên chào như người La mã.
* * *
Phần đêm còn lại Đasa ngủ ở khách sạn “Lux”. Nàng ngủ như chết, chiếc áo gấm ngân tuyến vẫn mặc nguyên trên mình. (Jirôv thì ngủ trong buồng tắm vì sợ Mamônt). Sáng hôm sau, nàng ngồi buồn thiu bên cửa sổ cho đến giữa trưa. Nàng không nói chuyện với Jirôv, hắn hỏi gì nàng cũng không buồn trả lời. Khoảng bốn giờ chiều nàng ra phố và đến năm giờ nàng đã đứng đợi ở quảng trường phố Prêtsinxtenki, dưới tượng Gôgôl. Xung quanh nhà văn mũi dài, mấy đứa trẻ gầy gò đang lúi húi đắp cát và đất thành những chiếc bánh ga-tô và bánh nướng.
Đasa lại mặc chiếc áo dài cũ và đội chiếc mũ làm lấy. Ánh nắng sưởi ấm lưng nàng, chiếu lên cảnh sống nghèo nàn ở xung quanh. Mấy đứa trẻ đang chơi quanh pho tượng, đứa nào mặt cũng quắt lại, già cỗi vì đói. Không nghe thấy tiếng bánh xe lăn trên đường, không nghe thấy tiếng nói to. Xe đều ra mặt trận hết rồi, mà người qua đường thì lặng thinh. Gôgôl trên chiếc ghế bành bằng đá hoa cương so vai rụt cổ dưới sức nặng của tấm áo khoác bằng đồng loang lổ vết cứt chim sẻ. Hai người để râu dài đi qua không để ý đến Đasa: một người nhìn xuống đất, một người nhìn lên cây. Đasa nghe loáng thoáng:
- ... Thất bại hoàn toàn... Thật là khủng khiếp... Bây giờ biết làm thế nào?
- Nhưng đã chiếm được Xamara, chiếm được Ufa rồi kia mà?
- Bây giờ tôi không tin gì nữa hết... Chúng mình không sống qua được mùa đông này đâu...
- Nhưng Đênikin đang tiến về vùng sông Đôn...
- Tôi không tin, không có gì cứu nỗi nữa đâu... Babylon đã diệt vong, La Mã đã diệt vong, bây giờ đến lượt chúng ta...
- Nhưng Xavinkôv vẫn chưa bị bắt, Tsernôv cũng chưa...
- Toàn chuyện nhảm... Phải, nước Nga đã tiêu vong, tất cả đều tiêu vong...
Bà già tóc bạc hôm qua lại đi ngang, rụt rè đưa cho Đasa xem toàn tập Rôzanôv dưới tấm khăn san. Đasa quay mặt đi. Người trẻ tuổi có cái kính găm hình sọ người đi chênh chếch về phía ghế Đasa. Hắn đưa mắt nhìn quanh, sửa lại cái kính mũi, rồi ngồi xuống cạnh nàng:
- Đêm qua cô ở khách sạn “Mêtrôpôl” à?
Đasa cúi đầu, khẽ mấp máy đôi môi: vâng.
- Rất tốt. Tôi đã xếp buồng cho cô. Tối nay cô sẽ dọn đến. Chớ nói gì với Jirôv. Bây giờ nói chuyện công việc: cô có biết mặt Lê-nin không?
- Không.
Hắn rút ra mấy tấm bưu ảnh rồi đút vào ví Đasa. Hắn ngồi một lát, đưa mấy sợi râu vào mồm cắn. Rồi hắn cầm hai tay của Đasa rũ rượi trên đùi, lay mạnh.
- Vấn đề nó thế này... Chủ nghĩa bolsêvik và Lê-nin là một. Cô hiểu không? Ta có thể đánh Hồng quân, nhưng chừng nào Lê-nin còn ngồi trong điện Kremlin thì chưa thể thắng được. Hiểu không? Cái nhà lý luận ấy, cái sức mạnh ý chí ấy là nguy cơ lớn nhất đối với cả thế giới chứ không phải riêng gì chúng ta... Cô hãy nghĩ đi và trả lời tôi cho chắc chắn: cô có đồng ý hay không...
- Giết à? - Đasa vừa nhìn thằng bé hở bụng đang bước loạng choạng trên đôi chân vòng kiềng. Người trẻ tuổi cựa mình liếc sang bên phải, nheo nheo đôi mắt nhìn lũ trẻ rồi lại cắn cắn mấy sợi râu.
- Không ai lại đi nói điều đó ra... Nếu cô có nghĩ như thế thì cũng đừng hét tướng lên... Chúng tôi đã nhận cô vào tổ chức... Chả nhẽ cô chưa hiểu Xavinkôv nói chuyện gì?
- Ông ấy đã gặp tôi nói chuyện gì đâu... (Người trẻ tuổi cười nhạt) À, thế ra cái người cầm khăn mùi soa chính là...
- Khẽ chứ... Người ấy chính là Bôrix Viktorôvits... Cô đã được tin cậy đến mức kinh khủng... Chúng tôi đang cần những người mới. Vừa qua chúng nó bắt bớ rất dữ. Chắc cô đã biết là kế hoạch động viên ở Kazan đã thất bại... Công tác của trung ương đã chuyển sang một nơi khác... Nhưng ở đây vẫn còn để lại một tổ chức... Nhiệm vụ của cô là theo dõi những buổi ra mắt của Lê-nin, dự các cuộc mít-tinh, đến các nhà máy... Cô sẽ không phải hoạt động đơn độc... Sẽ có người báo cho cô biết trước những chuyến đi của hắn ra ngoài thành Kremlin và những buổi ra mắt đã dự kiến trước... Nếu cô làm quen được với bọn Cộng sản thì hãy xin vào đảng được như thế thì tốt nhất. Cô hãy theo dõi các báo và đọc sách vở cộng sản... Sáng mai cô đến đây nhận chỉ thị mới...
Đoạn hắn cho Đasa biết một địa chỉ bí mật để liên lạc khi cần, thông báo khẩu lệnh và đưa chìa khóa phòng cho nàng. Rồi hắn bỏ đi về phía cổng Arbat. Đasa rút một tấm ảnh ở trong ví ra nhìn hồi lâu. Đến khi gương mặt ấy nhòa đi và dần dần có một gương mặt khác hiện từ từ lên cái nền huyết dụ của những tấm màn cửa đêm qua, nàng bóp ví lại đánh tách một cái và cũng bỏ đi, đôi mày cau lại, môi mím chặt. Thằng bé có đôi chân vòng kiềng toan chạy theo nàng nhưng lại vấp ngã, tấm thân bé bỏng rơi đánh phịch một tiếng xuống cát. Nó òa lên khóc nức nở.
Căn phòng của Đasa ở trên phố Xitxex Vrajôk, trong một ngôi biệt thự cũ kỹ, cửa sổ trông ra sân sau. Ngôi nhà hình như đã bị bỏ hoang được ít lâu nay. Đasa đi vòng ra cửa sau, gõ mãi hồi lâu mới thấy một bà già thấp bé, bẩn thỉu, có đôi mi mắt lộn tròng, dáng chừng là vú em nhà này, ra mở. Hồi lâu bà ta vẫn không hiểu đầu đuôi ra sao cả. Nhưng rồi bà ta cũng cho Đasa vào nhà và dẫn nàng lên buồng, rồi bắt đầu kể lể những gì không sao hiểu nổi:
- Mấy con chim ưng tốt lành của tôi đi hết rồi - cả Yuri Yurits, cả Mikhail Yurits, cả Vaxili Yurits... Còn thằng Varenka thì chỉ về một lần năm mười sáu vào tiết lễ thánh Fôma... Tôi đã bắt đầu cầu nguyện cho linh hồn chúng nó được yên rỗi trên thiên đàng...
Bà ta toan dọn trà, nhưng Đasa từ chối. Nàng cởi áo ngoài chui vào tấm chăn bông và ép chặt gối vào miệng khóc rưng rức trong bóng tối.
Sáng hôm sau, bên cạnh tượng Gôgôl, nàng nhận chỉ thị mới và được lệnh hôm sau phải có mặt ở nhà máy. Nàng định về nhà, nhưng nghĩ thế nào lại ghé vào tiệm cà-phê “Bôm”. Ở đấy Jirôv cứ lăng xăng cạnh nàng hỏi nàng xem đi đâu mà mất tăm, tại sao nàng đi mà lại không lấy đồ đạc mang theo. “Tôi đang đợi Mamônt gọi điện, nếu Mamônt hỏi cô, tôi sẽ trả lời ra sao đây?” Đasa ngoảnh mặt đi để hắn khỏi trông thấy má nàng đỏ bừng lên... Nàng tự nhủ, trong khi bản thân nàng cũng thấy là mình nói dối: “Xét cho cùng, cứ theo chỉ thị khi cần tiếp tục làm quen với bọn này kia mà...”
- Tôi sẽ ghé về lấy đồ đạc, - nàng gắt, - rồi sẽ hay.
Nàng trở về căn buồng ở phố Xitxev Vrajôk, tay xách cái bọc đựng tấm khăn choàng lông quý giá, mấy thứ đồ lót và chiếc áo dài gấm hôm qua. Nàng giở bọc lấy các thứ ném lên giường. Ngồi nhìn các thứ đó, nàng bỗng run lên, răng va vào nhau cầm cập, vai nàng lại cảm thấy sức nặng của bàn tay ấy, và răng nàng lại cảm thấy sự tiếp xúc thô bạo của hàm răng ấy... Đasa ngồi thụp xuống trước giường và úp mặt vào tấm da lông thơm phức, miệng cứ nhắc đi nhắc lại một câu hỏi vô nghĩa: “Thế này là thế nào? Thế này là thế nào?”
* * *
Sáng hôm sau, nàng y lời dặn, mặc một chiếc áo vải hoa màu thẫm, trùm khăn theo kiểu vô sản (nàng phải giả vờ làm một chị hầu buồng trước kia làm cho một gia đình giàu có và đã bị ông chủ hãm hiếp; cái áo là do người thanh niên có cái kim găm cà-vạt hình sọ người mang đến cho nàng) và lên tàu điện đi đến nhà máy.
Nàng không có giấy vào cửa. Người gác cổng già nháy mắt bảo nàng: “Cô bé đi dự mít tinh đấy hả? Vào tòa nhà chính nhé”. Nàng bước trên mấy tấm ván mục, đi qua những đống sắt rỉ và xỉ than, qua những khung cửa sổ rất to đã vỡ mất kính. Chỗ nào cũng trống trải, hoang vắng. Trên nền trời không một bóng mây, mấy cái ống khói nhà máy yên lặng nhả ra từng đám khói nhẹ.
Người ta chỉ cho nàng một cánh cửa ọp ẹp bên ngách tường. Đasa bước vào một gian phòng dài xây bằng gạch. Cái mái lợp kính ám khói để lọt từ trên xuống một ánh sáng ảm đạm. Mọi thứ đều trơ trụi, dãi dầu. Từ trên các cầu lăn buông xuống lòng thòng những sợi xích cần cẩu. Phía dưới là những cái trục chuyển vận dài và những sợi cua-roa treo im lìm trên ròng rọc. Một con mắt không nhìn quen phải kinh ngạc trước những khung máy đen xì, những đường nét khi thì thấp, khi thì cao, khi thì vươn dài, khi thì cụt lủn của những bàn máy tiện, máy dập, máy phay, máy bào, của những đĩa mài lớn bằng gang. Sau một cái cổng vòm rộng, trong bóng tối mờ mờ, sừng sững cái khối sắt lớn của một bộ máy búa nặng hai mươi tấn, trông như một quái vật đứng chống nạnh.
Ở đây chế tạo những bộ máy và những cơ chế mà đến khi ra khỏi những bức tường ảm đạm của xưởng này sẽ làm cho cuộc đời tràn đầy ánh sáng, sức chuyển động, trí thông minh và vẻ hoa lệ. Ở đây sực nức mùi rỉ sắt, mùi dầu máy, mùi đất và mùi thuốc lá mộc. Một đám rất đông người đứng trước cái diễn đàn dựng bằng ván, nhiều người ngồi trên các khung máy, trên những bậu cửa sổ cao.
Đasa chen lên gần diễn đàn. Một anh thợ trẻ cao lớn quay lại nhìn nàng và nhoẻn rộng miệng cười để lộ hàng răng trắng muốt trên gương mặt đầy vết dầu máy, hất đầu chỉ cho nàng một cái bàn quay, chìa tay ra cho nàng. Đasa đứng trên cái bàn quay, dưới một khung cửa sổ. Xung quanh nàng lố nhố mấy nghìn cái đầu - những gương mặt lầm lì, những cái trán cau lại, những đôi môi mím chặt. Ngày ngày trên các đường phố, trên các toa xe điện, nàng vẫn thường trông thấy những gương mặt này - những gương mặt Nga bình thường, mệt mỏi, với khóe nhìn kín như bưng. Có lần - ấy là vào hồi trước chiến tranh - trong một chuyến đi dạo ngày chủ nhật trên các khu đảo ở Pêterburg, hai viên trợ lý trạng sư cùng đi với Đasa đã lấy chính những gương mặt này làm đề tài nói chuyện. “Đarya Đmitrievna ạ, cô cứ thử xem dân chúng trên các phố Pari chẳng hạn: họ vui vẻ, họ hiền lành, họ hớn hở... Còn ở ta thì người nào cũng gườm gườm như lang sói. Xem hai người thợ kia kìa. Bây giờ tôi thử đến nói đùa với họ một câu... Họ sẽ trạnh lòng, họ sẽ không hiểu... Dân Nga ta kỳ cục, khó tính lắm...”. Và giờ đây những con người không ưa đùa cợt ấy đang đứng đông nghìn nghịt trong xưởng máy, với những gương mặt lầm lì, xúc động, đăm chiêu và cương quyết. Cũng vẫn là những gương mặt ấy, nhưng đã xỉn lại vì đói, cũng vẫn những đôi mắt ấy, nhưng cái nhìn đã nóng lên, như có một cái gì thiêu đốt ở bên trong.
Đasa quên bẳng mục đích của nàng khi đến đây. Những ấn tượng của cuộc sống mà nàng đã lao vào từ cái khung cửa sổ hoang vắng trên phố Kraxnyê Zori đã cuốn nàng đi như trận bão thổi bạt một cánh chim. Và với một tấm lòng chân thành nguyên vẹn, nàng đã toàn tâm toàn ý buông mình vào những ấn tượng mới mẻ ấy. Nàng tuyệt nhiên không phải là một cô gái khờ khạo, nhưng cũng như nhiều cô gái khác, nàng chỉ có thể dựa vào bản thân, dựa vào cái kinh nghiệm nhỏ bé của mình. Trong tâm hồn nàng có một khát vọng vươn tới sự thật, sự thật của cá nhân, của người phụ nữ, của con người.
Báo cáo viên đang nói về tình hình ở các mặt trận. Chẳng có tin tức gì đáng phấn khởi. Cuộc vây hãm tiếp tế đang thắt chặt dần: quân Tiệp chặn đường tiếp tế lúa mì Xibiri, thủ lĩnh Kraxnôv chặn đường tiếp tế lúa mì vùng sông Đôn. Quân Đức trấn áp dữ dội phong trào du kích Ukrain. Hạm đội của bọn can thiệp uy hiếp Krônstađt và Arkhangelxk. “Nhưng cách mạng vẫn chiến thắng!” - báo cáo viên ném ra nhiều khẩu hiệu, lấy quả đầm ấn nó vào không khí, và vơ lấy cái cặp chạy xuống diễn đàn. Đám thợ vỗ tay uể oải - tình hình như thế thì còn ai thiết vỗ tay? Những mái đầu gục xuống, những đôi mắt nấp dưới bóng lông mày.
Người thợ trẻ có hàm răng trắng muốt - Đasa vừa bắt gặp cặp mắt anh ta - lại vui vẻ nhoẻn miệng cười với nàng:
- Gay thế đấy cô bé ạ: chúng nó muốn giam đói cho chúng mình chết như chuột... Rồi đây cô sẽ làm gì?
- Thế anh sợ à? - Đasa nói.
- Tôi ấy à? Sợ đến chết khiếp đi ấy chứ (Xung quanh có nhiều tiếng xuỵt tức giận: “khẽ chứ, đồ quỷ!”) Cô tên là gì?
Đasa nhìn anh ta: chiếc áo sơ mi đen không cài cúc để lộ ra một khoảng ngực gân guốc, cổ anh ta lực lưỡng như cổ bò mộng, gương mặt tươi cười, mấy món tóc quăn ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt tròn xoe trông rất lẳng, khắp người nhem nhuốc những vết dầu máy...
- Trông bảnh nhỉ! - Đasa nói. - Sao cứ nhe răng ra cười mãi thế?
- Chả hồi còn bé tôi bị mẹ đánh rơi từ trên ghế xuống mà. Thế còn cô thì thế này nhé! ngày kia cô đi với chúng tôi ra mặt trận đi. Đồng ý chứ? Dù sao ở cái xứ Moxkva này cô cũng đến chết thôi... Tôi mang cả phong cầm đi đấy, cô em ạ...
Tiếng nói của anh ta bị tiếng vỗ tay át đi. Một diễn giả mới đã lên diễn đàn. Đó là một người thâm thấp mặc vét tông xám, chiếc áo gi-lê ở bên trong hằn lên những nếp nhăn chạy ngang ngực. Cúi cái đầu hơi gồ ghề xuống, ông ta giơ giơ mấy tờ giấy, rồi cất tiếng nói, hơi pha giọng mũi: “Các đồng chí”. Bây giờ Đasa mới trông thấy gương mặt đăm chiêu của ông ta và đôi mắt nheo nheo như chói nắng. Hai tay ông chống lên bàn, đè lên mấy tờ ghi chép. Khi ông nói rằng chủ đề nói chuyện hôm nay là cuộc khủng hoảng trầm trọng đang trùm trên khắp các nước châu Âu và nhất là nước Nga, là nạn đói, ba nghìn người đứng dưới mái nhà ám khói nín thở lắng nghe ông.
Ông mở đầu bằng những nhận định khái quát, nói giọng đều đều, cố tìm cách bắt liên lạc thật chặt với người nghe. Mấy lần ông đi ra xa bàn rồi lại quay trở lại. Ông nói về cuộc chiến tranh thế giới mà hai tập đoàn kẻ cướp đang bóp cổ nhau không thể và không muốn kết thúc, nói về hoạt động đầu cơ điên cuồng dựa vào tình hình đói kém, kết luận rằng chỉ có cách mạng vô sản mới kết thúc được chiến tranh.
Ông nói về hai đường lối đấu tranh với nạn đói: một bên là thương mại tự do, đang làm giàu cho bọn đầu cơ một cách khủng khiếp, một bên là đường lối độc quyền nhà nước. Ông đứng sang một bên, cách bàn độ ba thước, và nghiêng mình về phía quần chúng, hai ngón tay cái thọc vào hai bên nách áo gi-lê. Vầng trán rộng và đôi bàn tay to nổi bật lên phía trước, - ngón tay chỏ hoen đầy những vết mực.
- ...Chúng ta đã sát cánh và sẽ sát cánh đến cùng với giai cấp đã cùng chúng ta phản đối chiến tranh, đã cùng chúng ta lật đổ giai cấp tư sản và đang cùng chúng ta chịu đựng tất cả gánh nặng của cuộc khủng hoảng hiện nay. Chúng ta phải giữ vững chủ trương độc quyền lúa mì cho đến cùng... (Nghe đến đây, anh thợ trẻ có bộ răng trắng buông một tiếng thở dài khoái chá). Nhiệm vụ trước mắt chúng ta là phải chiến thắng nạn đói hay ít nhất là giảm bớt khó khăn cho đến khi có vụ mùa mới, bảo vệ chính sách độc quyền lúa mì, bảo vệ quyền lực của nhà nước vô sản. Tất cả những chỗ lúa mì thừa ta đều phải gom góp lại và tìm cách đưa cho kỳ được đến những nơi đang cần, rồi phân phối cho hợp tình hợp lý... Đó là nhiệm vụ chủ yếu: phải bảo tồn nhân lực cho xã hội, và đồng thời đó cũng là một công việc hết sức khó khăn, chỉ có một cách giải quyết duy nhất: toàn dân phải tích cực nâng cao năng suất lao động...
Trong cái xưởng máy im phăng phắc bỗng có ai thở dài lên một tiếng rền rĩ: một tâm hồn nào đấy đã kiệt sức vấp ngã trên con đường dốc băng giá mà người mặc áo vét tông đang dắt đám thợ thuyền đi. Vầng trán người ấy cúi trên dân chúng; dưới hai vành lông mày, đôi mắt người ấy nhìn ra, chăm chú, khắc nghiệt:
- Chúng ta đang đương đầu với việc thực hiện các nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, và trước mắt chúng ta là những khó khăn phi thường. Đây là cả một thời đại nội chiến ác liệt... Chỉ có cách đánh giập đầu phản cách mạng, chỉ có cách tiếp tục thi hành chính sách xã hội chủ nghĩa đối với vấn đề đấu tranh với nạn đói, chúng ta mới có thể đánh bại nạn đói và đánh bại bọn phản cách mạng đang lợi dụng nạn đói này...
Bàn tay ông rút ra khỏi áo gi-lê phẩy vung ra phía trước như để tiêu diệt một kẻ nào trong không khí, rồi dừng lại trên đầu đám quần chúng.
- ...Khi thợ thuyền bị những khẩu hiệu của bọn đầu cơ lung lạc và quay ra nói chuyện bán lúa mì tự do, nhập cảng phương tiện vận tải, chúng ta trả lời rằng làm như thế là giúp một tay cho bọn kulak... Chúng ta sẽ không bước vào con đường ấy... Chúng ta sẽ dựa vào cái thành phần lao động đã cùng ta làm cách mạng tháng Mười, ta sẽ thực hiện cho kỳ được giải pháp của chúng ta bằng một biện pháp duy nhất là làm cho kỷ luật vô sản thấm nhuần vào các tầng lớp nhân dân lao động. Trước mắt chúng ta là một nhiệm vụ lịch sử, ta sẽ giải quyết nó... Vấn đề căn bản nhất của cuộc sống - vấn đề lúa mì - đã được đặt ra trong những sắc lệnh gần đây. Những sắc lệnh đó đều có ba ý chủ đạo. Ý thứ nhất là tập trung, hay nói cách khác là liên kết mọi người vào một công việc chung dưới sự lãnh đạo của trung ương... Phải, hiện nay chúng ta được biết rằng chính sách độc quyền lúa mì luôn luôn bị phá hoại vì hoạt động buôn chuyến và đầu cơ. Càng ngày càng hay nghe giới trí thức nói: chính bọn buôn chuyến giúp họ sống, chính họ nhờ bọn buôn chuyến mà có cái ăn... Phải... Nhưng bọn buôn chuyến cho người ta ăn theo kiểu kulak, chúng hành động đúng như người ta cần hành động khi muốn củng cố, xác lập, duy trì vĩnh viễn quyền lực của bọn kulak...
Bàn tay diễn giả cắt chéo không khí, gạch bỏ một cái gì sẽ không bao giờ còn tồn tại nữa.
- ...Khẩu hiệu thứ hai của ta là đoàn kết công nhân lại thành một khối. Công nhân sẽ đưa nước Nga ra khỏi cái tình cảnh khó khăn, tuyệt vọng hiện nay. Phải tổ chức ngay những đội công nhân, tổ chức dân nghèo đói ở những huyện không làm nông nghiệp; ta sẽ cầu cứu họ, ủy viên lương thực của ta sẽ kêu gọi họ: “Hãy tham gia chiến dịch lúa mì!”
Những tràng vỗ tay vang lên dữ dội. Đasa thấy diễn giả lùi lại, thọc hai tay vào túi áo làm cho hai vai nhô lên. Gò má ông đỏ bừng, đôi mi rung rung, trán ông xâm xấp mồ hôi:
- Chúng ta đang xây dựng nền chuyên chính.... Chúng ta đang dùng bạo lực đối với giai cấp bóc lột...
Mấy câu này cũng chìm trong tiếng vỗ tay. Diễn giả khoát tay: thôi đi nào!... và khi trong xưởng đã im lặng, ông nói tiếp:
- ....”Các ông chồng bị áp bức trên toàn thế giới, hãy đoàn kết lại” - đó là khẩu hiệu thứ ba của chúng ta. Trước mắt chúng ta là một nhiệm vụ lịch sử: ta cần giác ngộ cho một giai cấp lịch sử mới... Trên khắp thế giới các đội công nhân thành thị, công nhân công nghiệp đều đã được tập họp lại. Nhưng trên thế giới hầu như chưa nơi nào thấy có những cố gắng vô tư, tận tình và có hệ thống liên kết những người bị cảnh sống heo hút ở thôn quê đày đọa trong bóng tối của nền sản xuất tiểu nông. Đây là một nhiệm vụ có tác dụng liên kết vào một mục tiêu duy nhất cả cuộc đấu tranh chống nạn đói cũng như cuộc đấu tranh bảo vệ cơ cấu sâu xa và trọng yếu của chủ nghĩa xã hội. Đây là một trận chiến đấu đáng cho ta dốc hết sức lực vào, đáng cho ta đặt hết lên bàn cân, bởi vì đây là trận chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội, bởi vì đây là trận chiến đấu bảo vệ chế độ cuối cùng của những người lao động và bị bóc lột áp bức.
Ông đưa nhanh bàn tay lên lau trán rồi nói tiếp:
... - Hiện nay, xung quanh Moxkva cũng như ở các tỉnh lân cận - ở Kurxk, Ôrel, Tambôv, theo ước lượng của các chuyên viên thận trọng, chúng ta còn có đến mấy mươi triệu pút lúa mì dự trữ. Các đồng chí, chúng ta hãy cùng chung sức bắt tay vào việc. Chỉ có hiệp lực lại, chỉ có cách tập hợp tất cả những ai điêu đứng khổ sở nhất trong các thị xã và các huyện bị nạn đói, thì chúng ta mới thành công được, và chính đó là con đường mà chính quyền xô viết kêu gọi các đồng chí đi theo: tập hợp công nhân, tập hợp dân nghèo, tập hợp những đội tiên phong của họ lại để tuyên truyền tại chỗ cho cuộc chiến tranh lúa mì chống bọn Kulak...
Diễn gia càng hay đưa bàn tay lên vuốt trán, giọng của ông mờ đi, không vang được như trước: ông đã nói hết được những điều cần nói. Ông cầm một tờ giấy nhỏ để trên bàn lên xem qua, rồi dồn mấy tờ giấy kia lại:
- Cho nên, các đồng chí ạ, nếu ta tiếp thu tất cả những điều đó, nếu ta làm đúng như thế, nhất định ta sẽ thắng.
Và một nụ cười hồn hậu trong sáng bỗng bừng lên trên gương mặt ông, và mọi người đều hiểu rằng đây là người của mình, của mình! Họ reo hò, vỗ tay, giẫm chân. Người vừa nói chuyện rời diễn đàn thoăn thoắt bước xuống, cổ rụt lại. Người thợ trẻ có bộ răng trắng đứng cạnh Đasa gân cái cổ bò mộng lên hô to:
- Ilyits muôn năm!
* * *
Đasa chỉ có thể nói được một điều: nàng đã được thấy và nghe “một cái gì khác”... Dự mít tinh về, nàng ngồi trên giường, đôi mắt mở rộng nhìn trừng trừng lên những vòng tròn trên giấy hoa dán tường. Trên gối có một mảnh giấy của Jirôv: “Mamônt đợi ở “Mêtrôpôl” mười một giờ tối nay”. Giữa sàn, sát cánh cửa có một mảnh giấy khác: “Sáu giờ chiều cạnh tượng Gôgôl”...
Trước hết, cái “khác” ấy có một tính chất đạo đức nghiêm khắc, nghĩa là nó cao hơn... Người ấy nói đến lúa mì. Trước kia nàng biết lúa mì có thể mua hay đổi; giá cả của nó nàng cũng đã rõ: một pút mì là một cái quần lành. Nhưng bây giờ nàng mới biết rằng cách mạng giận dữ khước từ thứ lúa mì ấy. Đó là thứ lúa mì ô trọc. Thà chết còn hơn ăn thứ lúa mì ấy. Hôm nay đã có ba nghìn con người đói khổ khước từ lúa mì ô trọc.
Họ đã khước từ nó vì... (nhưng đến đây, trong cái trí óc tội nghiệp của Đasa mọi thứ lại rối tung lên)... Vì những người bị lăng nhục và áp bức...Có phải người ấy nói như vậy không nhỉ? Dốc hết sức lực ra, đặt hết lên bàn cân, hiến cả cuộc đời cho những người lao động bị bóc lột... Chính vì thế mà họ có vẻ khắc khổ bi thương ấy...
Kulitsek có nói rằng từ khắp bốn phương trên địa cầu người ta sẵn sàng chìa ra những bàn tay cứu giúp, những bàn tay đầy lúa mì... Miễn là tiêu diệt chế độ xô-viết... Tiêu diệt đi, rồi sẽ có lúa mì ngay... Với danh nghĩa nào? Với danh nghĩa cứu vớt nước Nga. Nhưng cứu vớt khỏi cái gì? Khỏi bản thân dân Nga... Nhưng dân Nga lại không muốn cứu vớt cái kiểu ấy chính nàng đã được thấy rõ điều đó...
Tội nghiệp thay cho cái trí óc của Đasa! Mày quan tâm đến chính trị muộn quá, Đasenka ạ... “Thư thả... - nàng tự nhủ, - hẵng thư thả đã nào”. Nàng chắp hai tay sau lưng và đi đi lại lại trong phòng, mắt nhìn xuống đất.
“Còn có thể có gì cao cả hơn là hiến đời mình cho những người bị lăng nhục và áp bức?... Thế mà Kulitsek lại nói rằng nước Nga tiêu vong vì bọn bolsêvik, và mọi người đều nói như thế...” - Đasa nhắm mắt lại, cố sức tưởng tượng nước Nga như một cái gì mà mình phải yêu hơn cả bản thân. Nàng nhớ lại một bức tranh của Xêrôv: hai con ngựa trên một sườn đồi, một giải mây ở phía mặt trời lặn và một mái tranh xơ xác... “Không, đó chỉ là cảnh của Xêrôv...”. Và trong đôi mắt nhắm nghiền của nàng hiện lên nụ cười vui và ngây ngô của người thợ trẻ có hàm răng trắng. Đasa lại đi đi lại lại trong phòng “Thế thì nước Nga là cái gì? Tại sao người ta cứ xâu xé nó, mỗi người lôi nó về một phía như vậy? Thôi mình ngu lắm, mình chẳng hiểu gì đâu... Ôi! Trời ơi!” - Đasa lấy khớp ngón tay đánh bồm bộp vào ngực. Nhưng cũng chẳng ăn thua gì - “Chạy đến hỏi Lê-nin chăng? Ồ không được, mình thuộc phe đối lập kia mà...”
Tất cả những mối mâu thuẩn và hoang mang khủng khiếp chỉ đưa đến cái kết quả là đến sáu giờ Đasa chụp vội cái mũ xuống tận mắt và đi ra tượng Gôgôl. Người có cái kim găm hình sọ người lập tức từ sau một thân cây bước ra:
- Cô ra chậm mất ba phút... Sao? Có đi dự không? Có nghe Lê-nin nói chứ? Cô kể thật vắn tắt những điểm chính đi... Hắn đến như thế nào? Đi với ai? Trên diễn đàn có người hộ vệ không?
Đasa im lặng, cố sắp xếp các ý nghĩ lại:
- Này, ông thử nói đi, người ta muốn giết ông ấy vì danh nghĩa gì?
- À ra thế đấy! Cô lấy chuyện ấy ở đâu ra thế nhỉ? Không ai có ý định ấy cả. - Thế đấy, thế đấy... Thế tức là cô đã bị tác động? Biết ngay mà... Chính vì thế mà hắn nguy hiểm đến như vậy.
- Nhưng ông ấy nói nhiều cái có lý lắm.
Hắn vươn dài cổ ra, dí sát một nụ cười tinh tế và ướt át vào tận mặt Đasa, rồi hỏi, giọng ngọt ngào.
- Có lẽ cô nên thôi đi thì hơn, nhỉ?
Đasa né ra. Nhưng cái cổ của hắn cứ vươn dài mãi ra như làm bằng cao su và những tia sáng lấp lánh trên đôi cặp kính mũi của hắn soi vào tận hai đồng tử của Đasa. Nàng thì thào:
- Tôi không biết gì hết... Tôi không hiểu gì nữa hết... Tôi phải tìm cho ra đã, tôi phải biết cho chắc đã...
- Lê-nin là một tên tay sai của bộ tổng tham mưu Đức, - người đeo kim găm hình sọ người nói. Sau đó hắn bỏ ra đến nửa giờ để giảng giải cho Đasa hiểu cái kế hoạch thâm độc của quân Đức: chúng phái đi khắp nơi những tên bolsêvik thuê với giá rất đắt chở trên những toa tàu hàn kín. Bọn bolsêvik ấy phá hoại quân đội, lừa bịp thợ thuyền, làm kiệt quệ nền công nghiệp và nông nghiệp của tổ quốc... Chỉ chừng một tháng nữa là quân Đức có thể tay không vào chiếm nước Nga...
- Hiện nay bọn bolsêvik đang mở rộng cuộc nội chiến, kêu gào về cuộc bao vây tiếp tế lúa mì và đồng thời xử bắn những người buôn chuyến cứu tinh của chúng ta... Họ tổ chức nạn đói một cách cố ý... Hôm nay cô đã nhìn thấy mấy nghìn thằng ngu nhìn hau háu vào mồm Lê-nin... Thật là đau đớn vô cùng... Hắn lừa bịp quần chúng, lừa bịp hàng triệu người, lừa bịp toàn dân... Về một phương diện, phương diện vật chất, hắn là một tên khiêu khích đại tài... Về một phương diện khác (hắn chồm sát tai Đasa thì thầm rất khẽ) hắn là Ma vương phản cơ đốc! Cô còn nhớ những câu sấm truyền chứ? Những thời hạn đã tiên đoán đều ứng nghiệm. Miền Bắc đã tiến đánh miền Nan. Những kỵ sĩ sắt của thần chết đã xuất hiện: đó là những xe tăng... Sao Ngải đã rơi vào Nguồn nước của thế gian: đó là ngôi sao năm cánh của bọn bolsêvik... Và hắn ta cũng nói với nhân dân như Chúa cơ đốc, chỉ có điều là tất cả đều bị đảo ngược lại... Hôm nay hắn đã cám dỗ cả cô nữa, nhưng chúng tôi không để cho cô lọt vào tay chúng đâu... Chúng tôi sẽ chuyển cô sang làm việc khác.
Vấn đề thứ ba vẫn chưa giải quyết được (Đasa đã lại về nhà, nằm lên giường, khuỷu tay che mắt). Nàng chợt thấy chán nghĩ quá: nghĩ mãi khổ lắm rồi... “Nào mình có sống trăm tuổi cho cam? Mình có xấu xa đến thế đâu? Tại sao cứ phải gò bó mình? Đã muốn đến Mêtrôpôl thì cứ đến... Tại sao lại phải giấu giếm tất cả những cái gì không hề muốn được giấu giếm, tại sao lại phải nén tiếng reo hạnh phúc trong lồng ngực? Vì ai mà cứ phải khép chặt đùi lại một cách khổ sở thế này? Để chờ ân ái của ai? Đồ ngốc, đồ hèn... Hãy vùng ra, lao tới... Đằng nào chả thế - nhổ toẹt vào tình yêu: nhổ toẹt vào bản thân mày...”.
Nàng đã biết chắc là nàng sẽ đến “Mêtrôpôl”. Nhưng sở dĩ nàng còn nghĩ chẳng qua là vì chưa đến giờ đi. Bấy giờ là buổi hoàng hôn, thời gian độc địa nhất đối với suy tư. Trong nhà đồng hồ điểm chín tiếng khoan thai như chuông đồng hồ tháp. Đasa nhảy vội xuống giường... “Hồi hộp cuống quít lên như thế này thì nhục quá, không thể như thế được!”.
Nàng vội vàng cởi quần áo, chỉ để chiếc áo lót chạy vào buồng tắm, nơi xếp ngổn ngang những bó củi, những chiếc hòm, những thứ đồ cũ. Nàng đứng dưới gương sen, vặn nước. Một làn mưa lạnh buốt trút xuống lưng nàng, làm nàng gần như tắt thở. Người ướt đầm đìa, nàng chạy về phòng ngủ, rút tấm khăn trải giường ra lau mình, răng đánh vào nhau cầm cập.
Và mãi đến phút này vẫn không thấy được một giải pháp nào: nàng hết nhìn chiếc áo cũ vứt giữa sàn, lại nhìn sang chiếc áo gấm hôm qua vắt trên lưng ghế. Và nàng lại thấy rõ ràng đây chỉ là một sự hèn nhát, một cách trì hoãn. Bây giờ nàng lập tức mặc áo vào. Trong phòng không có gương: cũng may. Nàng khoác tấm khăn choàng lông lên vai và đi ra phố, len lén như con ăn cắp. Bóng hoàng hôn đã dày đặc. Nàng đi qua các đại lộ. Mấy người đàn ông kinh ngạc quay lại nhìn theo nàng. Nàng nghe loáng thoáng mấy câu bình phẩm không có gì đáng yên tâm cho lắm. Từ dưới rặng cây có hai người mặc áo khoác lính nhô ra, quát gọi nàng: “Gượm đã, con ăn bám, mày chạy đi đâu?”.
Đến quảng trường Nikitxkaia, Đasa dừng lại, thở hổn hển, trống ngực đập thình thình. Hai toa xe điện thắp đèn sáng chạy qua, kéo chuông inh ỏi. Trên các bậc lên xuống đều có người bám chật. Ở toa trước có một người dùng tay phải bíu vào thanh vịn bằng đồng, tay kia xách một cái va-li con bằng da cá sấu hình dèn dẹt. Khi xe đi vượt qua Đasa, người ấy ngoảnh cái mặt cạo nhẵn về phía nàng. Đó chính là Mamônt. Đasa kêu lên một tiếng và cắm cổ chạy theo tàu điện. Hắn đã trông thấy Đasa, chiếc va ly con trong tay hắn rung giật lên. Hắn buông tay vịn ra nhảy xuống đường trong khi tàu điện vẫn lao nhanh, ngã lăn ra, tay chới với cố bíu vào khoảng không, một đế giầy to tướng vung cao lên, và vừa lúc ấy một nửa người hắn khuất dưới toa thứ hai, chiếc va ly lăn xuống chân Đasa. Nàng trông thấy hai đầu gối hắn vụt co lại, nàng nghe thấy tiếng xương vỡ răng rắc, tiếng đôi ủng đập trên đá lát đường. Tàu điện phanh rít lên, hành khách trên tàu đổ xô xuống.
Một ánh chì chập chờn trong mắt Đasa, mặt đường mềm nhũn ra như bông: nàng ngã xuống bất tỉnh, hai tay và má đè lên chiếc va ly con bằng da cá sấu.

9

Đợt chuyển sang phản công của Quân đoàn tình nguyện, thường gọi là “chiến dịch Kuban thứ hai”, mở màn bằng trận đánh vào nhà ga Torgôvaia. Chiếm được điểm nút hỏa xa này là một bước hết sức quan trọng: cả vùng Bắc Kavkaz sẽ bị cắt ra khỏi nước Nga. Ngày mười tháng sáu, quân đoàn gồm có một vạn bộ binh và kỵ binh, dưới quyền tổng chỉ huy của Đênikin, dàn thành bốn đạo tiến lên bao vây Torgôvaia.
Đênikin đi với đạo quân của Đrozđôvxki. Không khí hết sức căng thẳng. Ai nấy đều hiểu rằng kết quả của trận đánh đầu tiên này sẽ quyết định số phận của quân đoàn. Dưới hỏa lực của pháo địch, chỉ được một khẩu đại bác duy nhất bắn đạn bi yểm hộ, quân Đrôzđôvxki bơi qua sông Yegorlyk. Phía trước đội xạ kích thứ nhất, trung đoàn trưởng thượng úy Turkul vùng vẫy dưới nước như quả bóng, sặc sụa, luôn mồm chửi bới. Quân đỏ chống cự rất dữ dội, nhưng đã vụng về để cho địch quân có kinh nghiệm hơn bao vây. Những đội án ngữ đều bị đánh bật lui - từ phía nam do đạo quân của Borôvxki,, từ phía đông do đội kỵ binh của Erđêli. Những đơn vị lẫn lộn của hồng quân cùng những đoàn xe tải rất lớn đã rời bỏ Torgôvaia và bắt đầu rút lui về phía Bắc. Nhưng từ phía Sablievka họ gặp phải đạo quân của Markôv chặng ngang đường. Quân tình nguyện đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Những đội bách cơ cô-dắc của Erđêli phóng nước kiệu trên thảo nguyên, chém xả vào tàn quân đỏ đang bỏ chạy, bắt được nhiều tù binh và xe giàn chở đồ.
Hoàng hôn đã xuống. Tiếng súng đã lặng. Đênikin chắp hai bàn tay phốp pháp ra sau lưng, mặt đỏ gay và cau có, đi đi lại lại trên thềm ga, Một toán junker, cười đùa hả hê như người ta vẫn đùa sau khi đã trải qua một cơn nguy hiểm chết người, khuân những bao cát đến xếp trên các toa đĩa, đặt súng máy trên đoàn tàu bọc sắt tự chế. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng đại bác nổ xa xa: đó là tiếng súng của đoàn tàu bọc thép đỏ từ phía bắc, phía sau Sablievka, bắn về. Quả đạn cuối cùng rơi cạnh một cái cầu bắc qua sông Manyts, nơi tướng Markôv đang cưỡi con ngựa xám đi xem xét chiến trường.
Đã hai ngày hai đêm nay ông ta không ngủ, không ăn gì, và không hút thuốc. Ông rất bực mình vì trận đánh chiếm Sablievka đã không diễn ra theo đúng ý muốn của ông. Nhà ga có một đội hồng quân rất mạnh và có cả pháo binh và xe bọc thép chiếm đóng. Hôm qua, ngày mười một, và suốt ngày hôm nay đạo quân của ông, tiến theo đường vòng đến đây, đã chiến đấu rất kiên trì nhưng không thu được thắng lợi. Lần này vận may, vẫn thường giúp ông thành công nhanh chóng, đã phản bội ông. Số thương vong của đơn vị ông rất lớn. Mãi đến chiều, chắc là sau khi nhận định tình hình chung, quân bolsêvik đóng ở Sablievka mới rút lui.
Người hơi cúi trên yên, ông nhìn những đường viền mờ mờ của mấy xác chết nằm sóng soài còn giữ nguyên cái tư thế khi tử trận. Đó là những sĩ quan của ông, mỗi người khi lâm trận đáng giá cả một trung đội. Chỉ vì một sự uể oải nào đấy trong trí óc ông, mấy trăm chiến sĩ ưu tú đã chết và bị thương một cách vô ích.
Ông chợt nghe thấy một tiếng rên rỉ và những tiếng thở khò khè như của một người tỉnh cơn ác mộng. Từ dưới dãy hào ở đầu cầu có một người nhổm dậy rồi lập tức ngã sấp xuống bờ hào. Người ấy hì hục chống tay lên, khó nhọc tì chân vào miệng hào, trèo ra khỏi hào và đứng nhìn đăm đăm ngôi sao to và sáng nổi bật trên chân trời phía tây đang sẫm dần. Người ấy quay cái đầu cạo trọc, rên lên một tiếng, rồi tập tễnh bước đi. Trông thấy tướng Markôv, người ấy đưa tay lên vành mũ chào, rồi bỏ tay xuống.
- Thưa tướng quân, tôi bị choáng mạnh.
- Rõ.
- Tôi bị bắn từ sau lưng.
- Thật đáng tiếc.
- Tôi bị choáng mạnh ở đầu vì một phát súng lục bắn từ sau lưng, gần gáy tôi... Đội viên tình nguyện Valêrian đã chủ tâm giết tôi.
- Tên anh! - Markôv hỏi gắt.
- Thượng tá Rôstsin...
Vừa đúng lúc ấy, khẩu trăm linh hai đặt trên đoàn tàu bọc thép của hồng quân đang rút về phía bắc bắn một phát cuối cùng. Hòn đạn rú lên, bay trên thảo nguyên tối sẫm. Con ngựa của viên tướng lo lắng cụp tai ra phía sau và bắt đầu ngồi bệt xuống. Quả đạn từ trên trời lao xuống, rơi cách tướng Markôv năm bước.
Khi bụi và khói đã tan dần đi, Vađim Pêtrôvits Rôstsin, bị hơi đạn hất ra xa, trông thấy con ngựa xám đang giẫy giụa trên mặt đất, và bên cạnh là một thân hình bé nhỏ nằm sóng soài không nhúc nhích. Rôstsin nhổm dậy kêu lên:
- Cáng đâu! Tướng Markôv chết rồi!
* * *
Sau khi chiếm Torgôvaia, Quân đoàn tình nguyện quay sang hướng bắc tiến về phía Vêlikôknyajexkaia, nhằm hai mục đích: giúp thủ lĩnh Kraxnôv quét sạch quân bolsêvik trong quận Xalxki, và củng cố thêm hậu phương của mình về phía Txaritxyn. Họ chiếm Vêlikôknyajexkaia không tổn thất bao nhiêu, nhưng thắng lợi cũng không khuếch trương được, vì trong một trận đánh đêm, đội kỵ binh của Buđionny đã đánh tan các đơn vị của Erđêli và không cho chúng qua sông Manyts.
Gần đến sát nhà ga, đoàn tàu bọc thép đầu tiên của Quân tình nguyện suýt bị tiêu diệt. Những người đứng trên tàu trông thấy một cái đầu máy cắm cờ trắng chạy lại. Tưởng rằng đó là toán đại biểu cưỡi đầu máy đến thương lượng, họ liền ngừng bắn. Nhưng cái đầu tàu vẫn phóng tới, không giảm tốc độ, rúc còi giật giọng. Mãi đến phút cuối cùng trên tàu bọc thép mới có mấy người bắn vào cái đầu máy đã lao đến sát sườn. Nó húc vào đoàn tàu bọc thép làm vỡ tan một toa đĩa, rồi ngã lăn kềnh ra - nó chứa đầy dầu hỏa và xung quanh mắc đầy bom. Trong mấy phút đồng hồ cả chiến trường phải chú ý tới cái sự biến kỳ lạ này, giống hệt như một pha giật gân trong một cuốn phim Mỹ.
Sau khi trao khu này cho bộ chỉ huy vùng sông Đôn và phó cho các chi đội cô-dắc tự lĩnh lấy trách nhiệm tiêu diệt nốt những phần tử bolsêvik ở địa phương. Đênikin lại quay về phía nam để đánh chiếm một điểm nút tối quan trọng: nhà ga Tikhôretxkaia, là điểm nối liền vùng sông Đôn với vùng sông Kuban, vùng Hắc hải với vùng Kaxpiên. Đênikin sắp phải đương đầu với những nguy cơ lớn. Trên đường đi có hai thôn ổ lớn của dân tứ xứ - Pextsanôvxkôie và Bêlaia Glina - vốn là hai trung tâm bolsêvik. Dân làng đang hối hả đào công sự. Quân đoàn Kalnin cũng đang khẩn trương củng cố vị trí ở gần Tikhôretxkaia. Quân đoàn Xôrôkin, lúc bấy giờ đã hoàng hồn sau cơn hoảng loạn, cũng bắt đầu gây sức ép từ phía này. Những đơn vị hồng quân đã bị đánh tan trên sông Manyts đã tập hợp lại và chuyển sang tấn công từ hậu phương. Nhiều làng cô-dắc đã gửi dân quân đến.
Đênikin chỉ có thể trông mong vào một ưu thế duy nhất: tình trạng thiếu ăn ý trong cách hành binh của địch quân. Nhưng tình trạng đó cũng có thể thay đổi từng phút một. Cho nên ông ta cố hành quân thật nhanh. Có những nơi ông đã phải thân hành đến giục từng đơn vị đang nằm dài ra, hoàn toàn kiệt sức. Bộ binh được chở bằng xe giàn. Đi trước quân đoàn vẫn là đoàn tàu bọc thép cây nhà lá vườn của họ.
Ở gần Pextsanôvxkôie toàn thể dân làng đã chiến đấu bên cạnh hồng quân. Quân tình nguyện chưa bao giờ chứng kiến một tinh thần quyết chiến dữ dội như vậy. Từ sáng sớm cho đến tối mịt, thảo nguyên rung chuyển lên vì trận pháo kích. Hai trung đoàn Bôrôvxki và Đrozđôvxki xung phong hai lần bị đánh bật ra khỏi làng. Và mãi đến khi thấy mình bị bao vây tứ phía, mà lại không biết rõ lực lượng và trang bị của địch, quân đỏ mới rút hết ra khỏi làng. Bây giờ tất cả các đơn vị, tất cả các chi đội và các đám dân lánh nạn đều kéo về Bêlaia Glina.
Ở đây, làm nòng cốt cho đoàn quân đông đến vạn người là Sư đoàn Thép của Đmitri Jlôba. Tất cả các lứa tuổi đều được động viên. Họ đào cộng sự ở các lối vào làng. Lần đầu tiên quân đỏ tỏ ra có tổ chức và có hiểu biết về chiến thuật. Trong các buổi mít tinh, các diễn giả kêu gọi đồng đội chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Trước mắt họ là một đối thủ lão luyện: để chống lại lòng dũng cảm và sự liều lĩnh tuyệt vọng, nó vận dụng khoa học quân sự, nó nghiên cứu cặn kẽ từng chi tiết nhỏ và chuyển quân như trên một bàn cờ tướng, bao giờ cũng xuất hiện bất ngờ ở sau lưng đối phương. Quả tình, đợt đầu của cuộc tấn công không thu được kết quả gì. Đại tá Jêbrak, người chỉ huy quân Đrozđôvxki, đang tiến quân trong đêm tối thì vấp phải những đội tiền tiêu của hồng quân đóng trong một khu trại: bị hỏa lực đỏ bắn sát tầm ngay trước mặt, đại tá đã dẫn quân xung phong lên và bị bắn chết ngay. Quân Đrozđôvxki lùi lại và nằm rạp xuống. Nhưng đến chín giờ sáng, Kutêpôv dẫn quân Kornilôv phối hợp với một trung đoàn kỵ binh có xe thiết giáp yểm hộ, từ phía nam đánh vào Bêlaia Ghina. Từ phía nhà ga bị bạch quân chiếm lại có Borôvxki đem quân tiến sát vào làng. Một trận giáp lá cà diễn ra trên các đường làng. Quân đỏ cảm thấy mình bị vây hãm bốn phía, bắt đầu rối loạn. Chiếc xe thiết giáp lao bừa vào hàng ngủ họ. Những mái rạ bốc cháy ngùn ngụt. Bò và ngựa chạy tán loạn giữa đám lửa, dưới làn đạn, giữa những tiếng gào thét.
Sư đoàn Thép của Jiôba rút lui theo con đường duy nhất mà họ thấy là không bị chặn. Nhưng trên con đường ấy, bên một cái chòi bẻ ghi, Đênikin đang cưỡi ngựa đứng chờ. Ông ta đưa bàn tay lên miệng làm loa, quát tháo dữ dội, ra lệnh phải chặn ngay đường rút lui của đám tàn quân Sư đoàn Thép có cả quân du kích và toàn thể dân làng chạy theo. Kỵ binh của Erđêli phi nước đại rượt theo họ. Ngay đến lính áp tải của tổng tư lệnh cũng không cầm lòng được nữa, tuốt gươm đuổi theo để chém giết. Các sĩ quan tham mưu cứ quay cuồng trên yên ngựa, và như một đàn chó săn đuổi rượt theo mồi, họ cũng phi ngựa đến đây, chém xả vào đầu, vào lưng đám người đang bỏ chạy. Đênikin đứng lại một mình. Ông lấy mũ lưỡi trai quạt khuôn mặt nóng bừng vì khích động. Trận thắng này đã dọn sạch con đường đưa ông đến Tikhôretxkaia và Êkatêrinôđar.
Vào lúc nhá nhem, trong làng có những loạt súng ngắn nổ đây đó trước các sân nhà: đó là quân lính Đrozđôvxki đang trả thù cho Jebrak bằng cách đem bắn các tù binh hồng quân. Đênikin uống nước chè trong một căn nhà đầy ruồi nhặng. Tuy đêm hôm ấy trời oi bức, cái áo quân phục may rất sát của ông vẫn cài khuy đến tận cổ. Cứ sau mỗi loạt súng ông ta lại quay ra phía cái cửa sổ đã vỡ hết kính và đưa chiếc khăn mùi soa vò nát lên lau vầng trán và hai bên sống mũi.
- Vaxili Vaxiliêvits, anh bạn ơi, - ông ta nói với viên sĩ quan phụ tá của ông, - anh bảo Đrôzđôvxki đến gặp tôi nhé, dù sao thì làm như thế cũng không ổn.
Viên sĩ quan phụ tá cộp hai gót ủng vào nhau, cựa kêu lẻng xẻng, đưa tay lên vành mũ, bỏ tay xuống, rồi quay ngoắt lại và ra khỏi phòng. Đênikin rót nước trong xamovar ra ấm trà. Một loạt súng nữa nổ gần sát bên cạnh, làm cho mấy tấm kính rung lên lách cách. Rồi trong bóng tối có tiếng kêu kéo dài: u-u-u-u. Nước sôi tràn ra miệng ấm cùng với mấy búp trà. Antôn Ivanôvits đậy nắp ấm lại, miệng khẽ thì thầm: “Đến khổ! Đến khổ!”. Cánh cửa vụt mở. Một người trạc ba mươi tuổi, mặt tái mét, mình mặc chiếc áo va-rơi nhàu nát với đôi lon vai cấp tướng mềm cũng nhàu không kém. Ánh đèn dầu hỏa phản chiếu mờ mờ trên đôi mắt kính cặp mũi của hắn. Cái cằm vuông vức có một chỗ lúm nhỏ ở giữa dô ra phía trước, lởm chởm những râu, đôi má hóp cứ giật giật từng đợt. Hắn dừng lại trên ngưỡng cửa. Đênikin nặng nề rời ghế đứng dậy, chìa bàn tay ra đón khách:
- Mời ông ngồi xuống đây, Mikhail Grigôviêvits! Uống tí trà nhé?
- Xin cảm ơn tướng quân, tôi không có thì giờ ạ.
Đó là Đrozđôvxki, gần đây mới được đề bạt lên cấp tướng. Hắn biết rõ tổng tư lệnh gọi hắn để làm gì, và cũng như mọi khi - trong khi chờ đợi những lời nhận xét - hắn khổ sở nén cơn giận xuống. Đầu cúi gầm, Đrozđôvxki đưa mắt nhìn chéo sang một bên.
- Mikhail Grigôrievits ạ, tôi muốn nói chuyện với ông về những cuộc xử bắn ngoài kia đấy, ông bạn ạ...
- Tôi không đủ sức ngăn cản các sĩ quan của tôi đâu, - mặt càng tái nhợt đi, Đrozđôvxki nói giọng the thé rất khó chịu, cái giọng sắp vỡ của một người lên cơn động kinh. - Tướng quân cũng biết đại tá Jêbrak bị bọn bolsêvik hành hạ dã man như thế nào... Ba mươi lăm sĩ quan mà tôi đã đưa từ Rumani về... cũng bị tra tấn và phanh thây... Bọn bolsêvik giết và tra tấn tất cả mọi người... Phải, tất cả.... (Hắn nghẹn giọng, tắt thở). Tôi không thể giữ được... Tôi xin khước từ việc đó... Nếu tướng quân không hài lòng, tôi thiết tha xin tướng quân cứ cách chức tôi... Được làm lính thường, tôi coi đó là một vinh dự...
- Thật đến khổ, đến khổ - Đênikin nói. - Không nên nóng Mikhail Grigôrievits ạ... Ai lại đi nói chuyện cách chức bao giờ... Ông nên hiểu rằng đem tù binh ra bắn như vậy chính là làm tăng sức kháng cự của địch... Tin đồn về những vụ xử bắn sẽ lan rộng ra. Vậy thì việc gì lại tự mình gây tác hại cho quân mình? Ông có đồng ý với tôi không nào? Có đúng thế không nào? (Đrozđôvxki lặng thinh) Xin ông truyền đạt lại cho các sĩ quan của ông như vậy, đừng để cho những sự việc tương tự xảy ra một lần nữa.
- Xin tuân lệnh! - Đrozđôvxki quay ngoắt đi ra ngoài, đóng sập cửa lại sau lưng.
Đênikin còn ngồi suy nghĩ bên chén trà hồi lâu, chốc chốc lại lắc đầu. Xa xa vang lên một loạt súng cuối cùng rồi đêm tối chìm sâu trong im lặng.
* * *
Cuộc hành binh tiến đánh Tikhôretxkaia là một bộ phận trong kế hoạch khai triển hoạt động của quân đoàn trên một mặt trận rộng sáu mươi dặm. Việc phải làm trước tiên là quét sạch khỏi căn cứ bàn đạp những chi đội và đơn vị du kích lẻ tẻ. Việc này được giao cho viên tướng trẻ Borôvxki: trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ ông ta vừa chiến đấu vừa vượt qua một trăm dặm, chiếm đóng một loạt làng cô-dắc. Trong lịch sử nội chiến đó là cuộc hành quân “biệt kích” đầu tiên vào hậu phương của quân địch.
Sau đó quân đoàn tình nguyện khai triển đội hình trên khắp căn cứ bàn đạp đã được quét sạch. Ngày ba mươi, Đênikin phát ra một quân lệnh ngắn: “Ngày mai, mồng một tháng bảy, đánh chiếm nhà ga Tikhôretxkaia, sau khi đánh tan quân địch tập trung trong khu vực Ternôvxkaia...”. Đêm hôm ấy các đạo quân xuất phát, bao bọc Tikhôretxkaia giữa hai gọng kềm khổng lồ. Quân bolsêvik, sau một trận đọ súng ngắn, bắt đầu rút lui về phía vị trí có công sự.
Ở đây không hề thấy có sức kháng cự liều lĩnh, tuyệt vọng như một tuần về trước. Trận thất thủ Bêlaia Glina đã gieo sự bối rối vào hàng ngũ hồng quân. Cuộc tiến quân của Xôrôkin đã chùn lại. Cái số mấy ngàn binh sĩ đã ngã xuống trong trận huyết chiến ấy đã tỏ ra vô ích. Bạch quân đang tiến lên như một bộ máy khổng lồ. Trí tưởng tượng hoang mang khuếch đại thanh thế của quân tình nguyện lên mười lần. Người ta kể cho nhau nghe rằng từ khắp nước Nga hàng đoàn sĩ quan đang kéo về gia nhập quân đoàn Đênikin, rằng bọn Cađê không tha một người nào lọt vào tay chúng, rằng hễ chúng quét sạch nơi nào là quân Đức đến chiếm đóng ngay nơi ấy. Kalnin, tư lệnh cánh quân Tikhôretxkaia, ngồi lì trên toa tàu của mình ở ga Tikhôretxkaia như đã hoàn toàn tê liệt. Khi trông thấy quân Đênikin, từ khắp bốn phía tiến vào, ông ta đã mất tinh thần và ra lệnh rút lui. Đến chín giờ sáng tiếng súng đã ngớt, các đơn vị đỏ rút về các vị trí hình bán nguyệt. Kalnin vào buồng toa khóa trái cửa lại để ngủ một giấc, đinh ninh rằng hôm nay sẽ không phải tác chiến nữa. Trong khi đó quân tình nguyện tiếp tục chuyển quân trên cánh đồng lúa mì mọc rất rậm, tiến dần lên bao vây đối phương. Đến giữa trưa, hai cánh sườn ngoài cùng của họ gặp nhau và từ phía nam đánh vào hậu phương quân đỏ. Trung đoàn Kornilôv xông vào chiếm ga, không bị một tổn thất nào. Các nhân viên hỏa xa đều bỏ trốn. Kalnin đã biến đi đâu mất - trong buồng toa chỉ thấy cái mũ lưỡi trai và đôi ủng của ông ta vứt lăn lóc giữa sàn. Ở buồng bên cạnh họ tìm thấy tổng tham mưu trưởng của Kalnin là đại tá Zvêrêv: đại tá nằm sóng sượt giữa sàn, sọ bị bắn vỡ. Vợ ông nằm trên giường, đầu phủ tấm khăn san, ngực bị bắn thủng, hãy còn thở thoi thóp.
Sau đó các đạo quân tình nguyện chỉ còn có việc khép chặt gọng kìm tiêu diệt quân đỏ đã mất người chỉ huy và bị cắt ra khỏi mọi căn cứ và đường giao thông. Suốt cho đến tối bạch quân nã đại bác và súng máy vào họ. Trên trận địa hình bán nguyệt, binh sĩ hồng quân giãy giụa cuống cuồng dưới trận mưa chì quất vào mặt, vào lưng họ. Những con người đã hóa rồ từ dưới hào xông lên đánh lưỡi lê và đâu đâu cũng bị tiêu diệt sạch. Đến chiều Kutêpôv chặn con đường duy nhất còn để hở dẫn về phía bắc, rồi dùng hỏa lực và lưỡi lê tiêu diệt nhóm hồng quân đang tìm cách len qua vòng vây. Đến chặp tối bạch quân và hồng quân hàng ngũ lẫn lộn quần nhau trong đám lúa mì rậm rạp. Các cấp chỉ huy lủi đi trong đám lúa như những con gà gô, tập hợp các sĩ quan lại và ném họ vào cuộc chiến đấu. Ở một nơi, quân đỏ ở dưới hào buộc khăn trắng vào lưỡi lê khua lên. Kutêpôv và một nhóm sĩ quan phi tới lập tức được đón tiếp bằng một loạt súng trường kèm theo những tiếng chửi rủa cực kỳ dữ dội. Ông ta phải quay ngựa phi trở lại, người cúi rạp trên mình ngựa. Lệnh của quan tổng tư lệnh là không được bắn tù binh; nhưng không ai ra lệnh bắt sống tù binh cả.
Sáng hôm sau Đênikin cưỡi ngựa đi quanh chiến trường. Trên khắp cánh đồng, lúa đều bị dẫm rạp xuống. Trên nền trời một màu xanh lộng lẫy, mấy con kên kên lượn vòng. Đênikin nhìn qua những dãy chiến hào ngoằn ngoèo chạy giữa cánh đồng, băng qua những gò đống và những nấm mộ. Từ dưới hào nhô lên những cánh tay, những cẳng chân, những cái đầu, những thân hình nằm úp lên nhau như một đống bị. Tướng quân Đênikin lúc bấy giờ đang ở vào một tâm trạng trữ tình. Ông ta xoay người sang một bên để viên sĩ quan phụ tá phi ngựa lại đón lệnh, và cất tiếng nói, vẻ trầm ngâm.
- Dù sao cũng toàn người Nga cả. Thật khủng khiếp. Không bao giờ có được một niềm vui trọn vẹn, Vaxili Vaxiliêvits ạ...
Trận đánh đã thu được thắng lợi hoàn toàn. Đoàn quân ba vạn người của Kalnin đã bị đánh tan, thương vong mất một phần lớn, phải rút chạy tán loạn. Chỉ có bảy chuyến tàu của hồng quân kịp tháo về Êkatêrinôđar. Quân đoàn Xôrôkin bị cô lập. Có những cánh quân mất hẳn liên lạc với đại quân: đó là cánh quân Amavir và cánh quân duyên hải, tức quân đoàn Taman. Quân đoàn Đênikin chiếm được một số chiến lợi phẩm khổng lồ: ba đoàn tàu bọc sắt, nhiều xe thiết giáp, năm mươi khẩu pháo, một máy bay, nhiều toa súng trường, súng máy, đạn dược, cả một kho quân nhu rất phong phú.
Trận thắng đã gây được một ấn tượng rất mạnh, làm cho công luận sửng sốt. Thủ lĩnh Kraxnôv cho tổ chức một buổi lễ ở nhà thờ lớn Nôvôtserkaxxk và ra diễn thuyết trước ba quân cũng hay ho không kém gì ông bạn của ông ta là hoàng đế Vilhelm. Tuy trong ba tuần qua quân của Đênikin đã thương vong mất một phần tư quân số, đến những ngày đầu tháng bảy nó lại được tăng lên gấp đôi; những người tình nguyện nối tiếp theo nhau kéo về không ngớt từ Ukrain, từ Tân Nga-la-tư, từ trung bộ nước Nga; lần đầu tiên người ta thành lập những đơn vị gồm toàn tù binh hồng quân.
Sau hai ngày nghỉ ngơi. Đênikin chia quân đoàn ra làm ba đạo và tiến hành một cuộc tấn công trên ba mặt trận : đánh Xôrôkin ở phía tây, đánh cánh quân Amavir ở phía đông và truy kích tàn quân của Kalnin đang án ngữ đường về Êkatêrinôđar ở phía nam. Mọi việc đều đã được suy tính và chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng những định luật của khoa học quân sự cao cấp. Chỉ có một nhân tố duy nhất và tối quan trọng không được Đênikin tính đến: trước mặt ông không phải là một đội quân đối địch mà ông có thể ước lượng và cân nhắc sức mạnh và phương tiện, mà chính là nhân dân vũ trang, là những lực lượng mà ông không thể hiểu được. Ông không biết rằng đồng thời với những thắng lợi của ông, lòng căm thù và sự nhất trí trong các đạo quân của nhân dân này cũng tăng lên gấp bội, và cái thời diễn ra những cuộc mít tinh rầm rộ trong đó người ta truất bỏ những cấp chỉ huy không vừa lòng binh sĩ và giơ tay biểu quyết để quyết định tấn công, cái thời ấy qua rồi, nhường chỗ cho một kỷ luật mới, hãy còn hoang dã, nhưng càng ngày càng thêm vững mạnh, kỷ luật của thời nội chiến.
Mọi sự hình như đều báo trước một thắng lợi dễ dàng và nhanh chóng. Trinh sát báo cáo về những cuộc chuyển quân hoảng hốt của Xôrôkin đang rút về Êketêrinođar qua sông Kuban. Nhưng điều đó không đúng hẳn. Bọn trinh sát đã nhầm. Những đám quân vượt qua sông Kuban chỉ là những tốp lính đào ngũ và những chi đội nhỏ, cùng với những đoàn xe tải của dân lánh nạn. Đoàn quân ba vạn người của Xôrôkin đã loại bỏ tất cả những phần tử không có khả năng chiến đấu, đang củng cố hàng ngũ, hừng hực chí phục thù. Mặt trận Bataixk chống quân Đức bị bỏ trống, Hồng quân chờ đợi một cuộc chạm trán trên bình địa, diện đối diện với Đênikin. Và cơ sự đã xảy ra như thế nào mà Quân đoàn tình nguyện, được những thắng lợi vừa qua chắp cánh, chỉ còn với tay nữa là đạt đến đích, đã suýt bị tiêu diệt hoàn toàn trong trận huyết chiến mở màn một cách đột ngột và kéo dài mười ngày liền với quân Xôrôkin.
Đáp lại lời đề nghị của Chấp ủy Kuban - Hắc hải, Xôrôkin đã trả lời với một thái độ ngạo mạn theo kiểu Bônapartơ: “Tôi không cần cán bộ tuyên truyền. Quân lính của Đênikin đang tuyên truyền cho tôi. Lòng dũng cảm có một không hai trong lịch sử của quân đội tôi sẽ đạp đổ mọi chướng ngại vật phản cách mạng”. Chấm dứt được tình trạng hoảng loạn trong quân đội vào những ngày đầu cuộc tấn công của Đênikin, Xôrôkin như bừng tỉnh sau giấc ngủ mê man trong cảnh sống nhàn nhã và say sưa. Suốt ngày đêm ông ta kiểm tra mặt trận, khi thì đi tàu, khi thì đi goòng máy, khi thì cưỡi ngựa. Ông ta tổ chức những cuộc điểm binh, tự tay bắn chết trước hàng quân hai viên chỉ huy có thái độ lơ là với tình hình hiện tại. Đứng thẳng người trên bàn đạp, ông lớn tiếng phỉ báng những kẻ thù của nhân dân, chủi bới tục tằn, sùi cả bọt mép ra, môi méo xệch đi, đến nỗi binh sĩ hồng quân đồng thanh gầm lên như một đàn trâu dữ át cả tiếng ông ta. Ông tăng cường hoạt động của các tòa án binh và các ban đặc vụ, tuyên án xử tử những ai giữ súng không chu đáo và ban hành trong quân đoàn những bản nhật lệnh trong đó có nói: “Hỡi các chiến sĩ! Nhân dân lao động toàn thế giới đang khấp khởi hy vọng nhìn vào các đồng chí, họ sẽ ghi ơn các đồng chí với lòng thành kính muôn đời. Các đồng chí đang đi lên đón lấy buổi bình minh đẫm máu của lịch sử, mắt mở rộng, lồng ngực tràn đầy nhuệ khí. Bọn ăn bám, bọn rắn rết đê hèn, giặc Đênikin và toàn thể lũ chó má phản cách mạng phải bị quét sạch bằng lửa đạn. Hòa bình cho nhân dân lao động, tiêu diệt sạch bọn bóc lột, cách mạng toàn thế giới muôn năm!”.
Chính ông ta đã tự tay viết ra những bản nhật lệnh này trong một tâm trạng khích động như lên cơn sốt. Những bản nhật lệnh của ông đều được đem đọc trước từng đại đội. Những người mu-gích Ukrain, những người thợ mỏ sông Đôn, những cựu binh của quân đoàn Kavkaz, những người cô-dắc tứ xứ - cả đám người hỗn tạp, rách rưới, ồn ào, không tín ngưỡng ấy đều mê mẩn tâm thần trong khi nghe những lời lẽ khoa trương này.
Tham mưu trưởng Bêlyakôv, một quân nhân thông minh và từng trải, đã soạn ra một kế hoạch tấn công, hay nói cho đúng hơn, một mưu đồ đưa cả ba vạn quân lao lên chọc thủng vòng vây và rút ngay sang bên kia sông Kuban. Ít nhất đó cũng là ý nghĩ của viên tham mưu trưởng, vốn không hy vọng mảy may là sẽ giành được một thế thuận lợi nào trong cuộc chạm trán với Đênikin. Nơi được chỉ định để chọc thủng vòng vây là khu vực nhà ga Korênôvxkaia (giữa Tikhôretxkaia và Êkatêrinôđar). Sau khi chiếm Korênovxkaia có thể áp đảo dễ dàng hai đạo quân của Đrozđôvxki và Kazanôvits bấy giờ đã bị cắt ra khỏi đại quân ở phía nam, rồi quay về Êkatêrinôđar và đến đây sẽ tính sau: ý đồ của viên tham mưu trưởng là như vậy. Tình cảnh ông hết sức gay cấn: trong thâm tâm, khi mê cũng như khi tỉnh, ông vốn căm thù phe đỏ, nhưng số phận khốn nạn lại ràng buộc ông ta với những người bolsêvik. Nếu lọt vào tay Đênikin - người mà ông ta vẫn nghĩ đến với một niềm khâm phục đầy lo âu và ghen tị - thì chỉ có chết. Nếu Xôrôkin nghi ông ta không đủ nhiệt tình cách mạng và không căm thù Đênikin đúng mức - thì cũng chết nốt! Niềm hy vọng duy nhất - tuy nó cũng huyền hoặc như tất cả các sự việc khác trong thời buổi này - là lòng hám danh ngông cuồng của Xôrôkin. Đó là một con bài có thể đánh được: dùng đủ mọi cách để đưa Xôrôkin lên cương vị độc tài, rồi đến đấy hẵng hay!...
Dù sao thì ông ta cũng chuẩn bị cuộc tấn công rất ráo riết: những kho dự trữ đạn dược và lương thảo được đặt rải rác đến tận ga Timasêvô, những toa đạn được dỡ xuống, từng đoàn xe tải rất lớn kéo kìn kìn vào thảo nguyên. Quân đoàn được bố trí trong khu vực Timasêvô, mặt quay về phía đông nam, để có thể cùng một lúc đánh vào Korênôvxkaia và vào Vyxelki nằm về phía bắc ga này.
Rạng ngày mười lăm tháng bảy, dã pháo của hồng quân khai hỏa như vũ bảo vào Korênôvxkaia, và một giờ sau các đội bách cơ kỵ binh nối tiếp nhau lao từng đợt vào làng và vào nhà ga. Họ chém vun vút vào bọn cađê, thúc ngựa xéo bừa lên chúng, và chỉ bắt làm tù binh những tên đã vứt súng xuống từ xa. Các đơn vị bộ binh đi suốt đêm và đến Korênôvxkaia thì lập tức đào công sự không phải thành hình bán nguyệt như ở Bêlaia Glina, mà thành một vòng vây kín mít hình bầu dục.
Mặt trời trắng bạch mọc lên trong một đám bụi mù mịt và nóng bức. Cả thảo nguyên nhộn nhịp hẳn lên: những đội kỵ binh phi nước đại, những trung đoàn bộ binh trườn lên, những đội pháo binh lăn bánh ầm ầm, khắp nơi vang lên những tiếng quát tháo, những tiếng roi quất, những tiếng súng nổ, những tiếng ngựa hí, những tiếng hô mệnh lệnh khản đặc. Từng đoàn xe tải kéo dài đến tận chân trời. Trời nóng như lò lửa. Đi đến nửa đường, Xôrôkin rời khỏi bộ tham mưu và cưỡi con ngựa giống sủi bọt mồ hôi trắng xóa quay cuồng giữa các hàng quân. Từ chỗ ông ta chốc chốc lại thấy phóng ra những sĩ quan trực ban và những chiến sĩ liên lạc đem mệnh lệnh của ông ta chuyển tới các đơn vị.
Mũ ông ta đã rơi mất trong khi phi ngựa, chiếc áo Tserkex cũng đã cởi bỏ. Ông chỉ còn mặc trên người một chiếc sơ-mi lụa màu huyết dụ, ống xắn quá khuỷu tay, và cái quần kỵ binh thắt nịt da rất chặt. Khắp nơi binh sĩ đều có thể trông thấy gương mặt của ông đen xỉn lại vì mồ hôi và bụi, làm nổi bật hàm răng trắng nhởn. Ông đã thay đến con ngựa thứ ba. Giờ đây ông đi xem xét cách bố trí các trận địa pháo, thăm qua những dãy chiến hào mà các đơn vị bộ binh đang đào theo lối chuột chũi trên đất màu đen nhánh, rồi phi ra thảo nguyên qua các trạm thông tin, ghé vào những nơi dỡ đạn của các đoàn xe tải đang kéo đến, vung roi gọi các cấp chỉ huy lại, cúi người trên yên, mặt nóng bừng và hung hãn, mắt quắc lên dữ tợn, nghe họ báo cáo. Ông ta như người chỉ huy một dàn nhạc khổng lồ đang theo dõi các nhạc công của mình lên dây đàn cho trận chiến đấu đang mở màn. Ông phi ngựa ra ga, để con ngựa đang thở hổn hển ngoài sân rồi bước vào phòng điện báo, lấy chân gạt một cái xác sĩ quan bạch vệ bị vỡ sọ sang một bên cửa vào và cầm băng giấy điện báo đang từ từ tuôn ra khỏi máy lên đọc, trong lòng dấy lên một nỗi khích động say sưa, điên cuồng. Từ phía nam, quân của Đrozđôvxki và Kazanôvits vừa rời khỏi ga Đinxkaia đang tiến về đây để ứng chiến.
Quân Đrozđôvxki di chuyển bằng xe giàn: hàng trăm chiếc xe phi suốt ngày qua thảo nguyên trong những đám bụi nóng bỏng. Quân của sư đoàn Markôv do tướng Kazanôvits chỉ huy được chở bằng xe lửa cùng với một đội pháo binh, vượt lên trước, và rạng ngày mười sáu, từ các toa xe lửa xông thẳng vào công kích Korenôvxkaia.
Tướng Kazanôvits đứng trên thành giếng, bên cạnh một chòi bẻ ghi, và điềm tĩnh theo dõi những đợt di chuyển khéo léo của các đội xạ kích sĩ quan đang im lặng tiến lên, không nổ súng. Gương mặt thanh tú, trang nhã của ông, với đôi ria hoa râm để dài và bộ râu cằm húi ngắn (như râu của Sa hoàng bệ hạ), có một vẻ chăm chú đầy ý ngạo nghễ, đôi mắt rất đẹp của ông mỉm cười lạnh lùng, đượm một sắc thái lả lơi như mắt phụ nữ. Ông tin chắc ở kết quả của trận đánh đến nỗi không thèm đợi sư đoàn Đrozđôvxki một phút nào hết. Trên con đường đi tìm danh vọng, ông là kẻ kình địch của Đrozđôvxki, con người có một lòng tự ái bệnh tật, tính thận trọng và chín chắn đến mức chậm chạp, nhiều khi chỉ vì thế mà gây hại cho công việc chung. Kazanôvits yêu chiến tranh vì cái quy mô hùng tráng của nó, vì tiếng nhạc của chiến trận, vì cái vinh quang rầm rộ của những trận thắng.
Một vầng thái dương khổng lồ lăn lên trời từ phía sau mấy ngọn gò ở phía xa, chứa chất cái phong khí hung hãn của tháng bảy: ánh nắng chói chang chiếu thẳng vào mặt quân bolsêvik. Súng máy bắt đầu nổ từng tràng, xé tan cõi im lặng oi ả. Có thể thấy rõ những đội xạ kích địch dày đặc từ các chiến hào xông lên. Quân Markôv chạy về phía trước, không một ai khom lưng dưới làn đạn. Hàng nghìn bóng người từ phía trước bò lên đón họ. Kazanôvits đưa ống nhòm lên mắt. Lạ thật!
- Ba loạt đạn bi vào các “đồng chí”! - ông ra lệnh cho người điện thoại viên ngồi bên bờ giếng. Hai trận địa pháo khuất phía sau đường tàu khai hỏa. Từng chùm đạn bi nổ trắng xóa như những cuộn bông sát trên đầu các đội bộ binh địch. Những bóng người nghiêng ngả hỗn loạn, rồi lại siết chặt hàng ngũ, tiếp tục tiến lên. Bây giờ khắp cánh đồng đã vang rền tiếng súng. Các trận địa pháo của bolsêvik mãi đến giờ mới gầm lên. Kazanôvits băn khoăn cười nhạt một tiếng, chiếc ống nhòm run run trong bàn tay nhỏ nhắn. Lính của sư đoàn Markôv nằm rạp xuống hối hả đào công sự. Gương mặt rám nắng của Kazanôvits tái đi. Ông ta nhảy trên bờ giếng xuống, ngồi xổm bên thùng điện thoại và sai gọi tướng Timanôvxki.
- Các đội xạ kích không cất đầu lên được, - ông ta quát vào ống máy. - Bằng bất cứ giá nào cũng phải đánh bật cánh trái. Phải tranh thủ từng giây...
Lập tức từ phía sau đường tàu đội dự bị của Timanôvxki thuộc sư đoàn Markôv lao xuống dốc. Từng tốp một, hết đội này đến đội khác, cương quyết và khích động, họ khuất vào đám lúa đã sai hạt. Timanôvxki, trẻ trung, hồng hào, lúc nào cũng riễu cợt, mũ đội lệch, mặc chiếc áo sơ-mi vải bẩn thỉu với đôi lon cấp tướng đen kịt, tay lăm lăm thanh kiếm chạy ở phía sau các hàng quân. Trước mắt họ đang diễn ra một sự việc không thể nào hiểu được: các đội quân bolsêvik như luôn luôn bị đánh tráo đi - những giây phút mà lẽ ra họ không thể nào tránh khỏi nao núng đều đã trôi qua. Bây giờ khắp thảo nguyên đã lố nhố những bóng lính hồng quân đang tiến lên. Mấy khẩu súng máy của quân tình nguyện tha hồ nhả đạn từng tràng - những đợt sóng mới vẫn tràn lên thay thế những đợt đã ngã xuống.
Cuối cánh đồng lúa mì, các đại đội của Timanovxki cầm súng lắp lưỡi lê lần lượt lao lên. Kazanôvits người rướn thẳng như sợi dây đàn đứng trên thành giếng. Trong cái nhãn trường rất hẹp của đôi ống nhòm, ông trông thấy mấy cái gáy hung hãn của lính Markôv. Thật căng thẳng đến tột độ! Rụng rồi, rụng rồi! Ông đưa ống kính theo những người lính đang xông lên, và chợt trông thấy những cái miệng há hốc, những khuôn mặt rộng, những cái mũ lính thủy, những bộ ngực rám nắng để trần... Lính thủy bolsêvik!... Ngay sau đó tất cả quấn hết vào nhau thành một mớ hỗn độn: trận giáp lá cà bắt đầu. Một nụ cười đau đớn ngưng đọng trên đôi môi thanh tú của Kazanôvits... Lính Markôv không trụ nổi rồi! Tàn quân của đại đội một chạy vào đám lúa mì nằm rạp xuống. Đại đội hai chùn lại, và cũng nằm nốt.
Kazanôvits liền rời thành giếng nhảy xuống đất và chạy nhanh qua cánh đồng. Quân lính đã trông thấy ông ta. Ông ta quát: “Các ngài, các ngài, thật xấu hổ!”. Các hàng quân lần lượt nhổm dậy. Ông bắt họ xông lên đánh lưỡi lê, nhưng hỏa địch bắn rát và quân lính ngã xuống nhiều đến nỗi các hàng quân lại phải nằm xuống. Chẳng lẽ trận này thua mất hay sao?
Đến chín giờ sáng từ phía tây vẳng lại những tiếng súng đại bác của sư đoàn Đrozđôvxki. Một chiếc xe thiết giáp lắc lư xuất hiện trên thảo nguyên, trông như một con rùa xám. Sư đoàn Đrozđôvxki mở cuộc tấn công một cách điềm đạm, có quy củ. Lần thứ ba các hàng quân của Kazanôvits lại nhổm dậy. Quân tình nguyện bây giờ tiến lên thành một tuyến rộng hình cánh cung. Quân bolsêvik khó lòng chịu nổi đợt tấn công này.
Giữa các chiến hào của quân bolsêvik chợt thấy xuất hiện một người cưỡi ngựa phi điên cuồng, tay vung thanh gươm sáng loáng. Người ấy phóng lên một ngọn gò, kìm ngựa lại. Người cưỡi ngựa mặc một chiếc áo sơ-mi huyết dụ ống tay xắn cao, đầu hất ngửa ra quát tháo, rồi lại vung gươm lên. Thế là từng đợt kỵ binh lao vào các hàng quân của sư đoàn Đrozđôvxki đang tấn công. Ngựa của họ thấp bé, hung ác, phi là là sát đất. Những phát súng trường im bặt. Tiếng gươm chém vun vút, tiếng gào thét, tiếng vó ngựa vang dội cả một vùng thảo nguyên. Người kỵ mã mặc sơ mi đỏ từ trên gò lao xuống, bỏ hẳn cương ngựa phóng lên phía trước đoàn kỵ binh. Một đám bụi đen nghịt bốc lên, che kín cả chiến trường. Quân lính của sư đoàn Markôv và sư đoàn Đrozđôvxki không sao đương nổi đợt tấn công của kỵ binh đỏ, phải bỏ chạy. Họ dừng lại đào công sự cố thủ ở bên kia ngòi Kerpêli.
* * *
Ivan Ilyits Têlêghin, nhăn nhó và run rẩy vì đau, lấy túi cứu thương cá nhân ra băng đầu lại.
Vết xước chẳng có nghĩa lý gì, xương không bị chạm, nhưng đau quá thể, cứ như có một mũi khoan xoáy vào sọ. Chàng mệt lả đi vì phải cố gượng mãi, đến nỗi băng xong chàng phải ngả lưng nằm ngửa trên đám lúa một hồi lâu.
Tiếng dế kêu ri rỉ thanh bình như không có chuyện gì xảy ra cả, nghe thật kỳ lạ. Những con dế vô hình nấp đâu dưới kẽ đất, những vì sao sáng quắc của đêm phương nam và mấy bông lúa lún phún lông tơ treo im lìm ở khoảng giữa mắt chàng và bầu trời, - những cuộc xung phong đẫm máu, những tiếng gào thét và những tiếng gầm sắt thép của chiến trận đã kết thúc như vậy đấy. Lúc nãy, gần đâu đây cón có một người bị thương rên rỉ, nhưng bây giờ người ấy cũng đã im bặt.
Im lặng quả là một điều tốt lành, cơn đau chói chang trong đầu đã dịu đi, và chàng có cảm giác là chính cõi im lặng hùng vĩ, trang trọng này của đêm khuya đã xoa dịu nó. Trong ký ức chàng thoáng hiện lên những mảng sáng lóe của ngày qua, một ngày đã bị xé tan ra từng mảng vì tiếng gầm của đại bác, tiếng gào thét của những cái miệng mở hoác ra như miệng thú dữ, vì những phút căm thù bùng lên dữ dội, trong khi người ta chạy miết về phía trước, mắt chỉ nhìn thấy cái đầu lưỡi lê nhọn hoắt và gương mặt tái mét của người đang bắn vào mình. Nhưng những kỹ niệm ấy xói vào óc, khoan vào sọ một cách đau đớn đến nỗi Ivan Ilyits rên lên một tiếng: thôi nhanh lên, nhanh lên, sang một cái khác...
Nhưng chàng có thể nghĩ đến cái gì khác? Chỉ có thể một là những mảng rách khủng khiếp ấy của một biến cố dài dằng dẵng mà trí tưởng tượng không thể nào bao quát hết được - cách mạng, chiến tranh, - hai là giấc mơ hạnh phúc xa xôi mà chàng đã khóa chặt lại: Đasa! Chàng bắt đầu nghĩ đến nàng (thật ra chàng không lúc nào thôi nghĩ đến nàng), đến cái tình cảnh bơ vơ của nàng, chẳng được ai trông nom giúp đỡ, một thân một mình, vụng dại, yếu đuối, với những mộng tưởng viển vông của nàng... Đôi mắt thì nghiêm trang, giận dữ, nhưng trái tim thì như một con chim, nông nổi, bồng bột, - chỉ là một đứa trẻ, một đứa trẻ...
Trong bàn tay úp sấp lại, Ivan Ilyits nắm chặt một mô đất âm ấm. Mi mắt chàng khép lại. Nàng đã từ giã chàng, lòng tin chắc là sẽ vĩnh viễn xa chàng. Em dại lắm em ơi... Không ai sợ đôi mắt giận dữ của em đâu... Và sẽ không có ai yêu em chung thủy hơn anh, em bé dại dột của anh ạ... Em sẽ phải chịu đựng những nỗi nhục nhằn đắng cay, không thể nào quên được...
Dưới hàng mi của Ivan Ilyits trào ra mấy giọt nước mắt - vết thương của chàng đã làm cho chàng yếu đuối. Ngay sát dưới tai chàng một con dế bắt đầu cất tiếng kêu rả rích. Dưới ánh sao, cánh đồng đẫm máu bị xéo nát trông như giát bạc. Đêm bao trùm lên mọi vật... Ivan Ilyits nhổm dậy, ngồi một lát, hai tay bó gối. Tất cả đều như trong chiêm bao, như trong thời thơ ấu. Tim chàng xót xa, tim chàng lặng lẽ khóc... Chàng đứng dậy và bước đi, cố thật nhẹ cho những bước chân đừng dội vào óc.
Korenovxkaia cách đây một dặm. Về phía ấy lác đác có mấy đống lửa bập bùng trong đêm tối, gần hơn, dưới một khoảng đất trũng, một ngọn lửa không có khói nhảy múa trên mặt đất. Ivan Ilyits thấy khát, thấy đói, và rẽ về phía ngọn lửa.
Từ khắp cánh đồng có những bóng người đen đen cũng đang đi về phía ấy, người thì bị thương nhẹ, người thì lạc mất đơn vị đã tan vỡ, người thì kéo theo sau một gã tù binh. Họ gọi nhau í ới, cất tiếng chửi khàn khàn, cười ha hả... Quanh đống lửa nhóm bằng những thanh tà vẹt đang cháy rực, binh sĩ nằm la liệt.
Ivan Ilyits hít mạnh làn không khí thoang thoảng mùi bánh mì. Tất cả những con người phủ đầy bụi bặm ấy đều đang nhai. Gần đống lửa có chiếc xe giàn chở một mớ bánh mì và một cái thùng con. Một người đàn bà gầy gò, tiều tụy, đầu bịt khăn hộ lý màu trắng, đang múc nước vào ca cho binh sĩ uống.
Chàng uống nước và lĩnh một khoanh bánh mì rồi đứng tựa vào chiếc xe giàn, vừa ăn vừa ngắm mấy ngôi sao trên trời. Những người nằm quanh đống lửa có vẻ đã bình tâm lại, nhiều người đã ngủ say, nhưng những người đang từ ngoài đồng trở về thì còn sôi sục lên vì căm giận. Họ chửi rủa, giơ nắm tay dọa ai trong bóng tối, tuy chẳng ai nghe họ cả. Cô hộ lý phân phát bánh mì và múc nước vào ca đưa cho họ.
Một người râu đen, cởi trần, lôi một tù binh tới và xô hắn ngã ngồi xuống bên cạnh đống lửa.
- Đây, bắt được con chó này, thằng ăn bám này... Anh em hỏi cung nó đi...
Người râu đen lấy ủng hất tên tù binh đang nằm giữa đất một cái rồi lùi lại, hai tay xốc nịt quần. Cái ngực lép của hắn thở phập phồng. Ivan Ilyits nhận ra Tsertôgônôv. Chàng quay mặt đi. Mấy người xô về phía tên tù binh, cúi xuống...
- À, một tên tình nguyện... (Họ giật lon vai của hắn ném vào lửa).
- Oắt con, nhưng ác như rắn độc!
- Đi đánh nhau vì vốn liếng của bố đấy mà... Rõ ràng là con nhà giàu...
- Mắt cứ quắc lên thế kia kìa, cái thằng khốn kiếp...
- Còn xem gì nữa, để tôi cho...
- Khoan, có thể hắn có tài liệu gì cũng nên. Đưa đến bộ tham mưu đi...
- Giải lên bộ tham mưu đi...
- Không được! - Tsertôgônôv quát, rồi chồm tới. - Hắn bị thương nằm đấy, tôi lại gần -thấy đôi ủng của hắn chưa - hắn bắn tôi hai phát. Đừng hòng tôi buông tha hắn ra. - Rồi hắn quát tên tù binh, giọng dữ tợn hơn nữa. - Cởi ủng ra.
Ivan Ilyits lại liếc mắt nhìn về phía đống lửa. Cái đầu cạo nhẵn, tròn thu lu của tên tình nguyện quân trẻ măng được ánh lửa soi sáng rực. Răng hắn nhe ra. Trong hai con mắt thao láo, đôi đồng tử đảo lia lịa, cái mũi nhọn nhăn nhúm lại. Chắc hẳn hắn đã hoàn toàn mất tự chủ... Hắn vùng đứng dậy. Cánh tay trái của hắn bỏ thõng xuống im lìm trong ống tay áo rách đẫm máu. Từ các kẽ răng hắn khẽ phát ra một tiếng rít hằn học, cổ hắn vươn dài ra... Tsertôgônôv lùi lại, thảng thốt trước cái hiện thân của lòng căm thù này.
- E-hê! - trong đám đông có ai nói thốt lên, giọng ồm ồm. - Tôi biết thằng này, tôi trước có đi làm ở nhà máy thuốc lá của bố nó: đó là lão Ônôli, chủ nhà máy Roxtôv.
- Có biết, chúng tôi có biết đấy, - trong đám đông nhao nhao lên.
Valêrian Ônôli cúi đầu xuống, quay quay cái cổ sang hai bên, rồi thét lên, cái giọng khản khản vỡ ra the thé:
- Quân khốn nạn, quân rác rưởi, lũ chó má bolsêvik! Tao phải đánh vỡ mõm chúng mày, đánh vỡ mõm chúng mày! Người ta bắn giết chúng mày, treo cổ chúng mày như thế vẫn chưa đủ phỏng? Chúng mày vẫn thấy chưa đủ hả! Chúng tao sẽ treo ngược tất cả lũ chúng mày lên, đồ súc vật, đồ chó má!...
Rồi không biết gì nữa, hắn chộp lấy bộ râu xồm của Tsertôgônôv, đôi chân đi ủng đá lia lịa vào cái bụng để trần của người lính hồng quân...
Ivan Ilyits lập tức rời chiếc xe giàn. Đám binh sĩ gầm lên dữ dội, rồi một tiếng thét thất thanh cắt ngang cơn phẫn nộ mỗi lúc một dâng lên hừng hực của họ. Cái thân hình của Valêrian Ônôli, hai tay dang rộng, hai chân dãy dụa, bị nhấc cao lên trên đám đông và ném xuống.... Từ đống lửa, một bó tàn đỏ rực nhỏ lăn tăn vút lên cao...
* * *
Trên cánh thảo nguyên gần về sáng đã mát lạnh đi, mấy tiếng súng trường lẻ tẻ quất vào không khí như những phát roi, tiếng đại bác vang rền, long trọng. Đó là hai đạo quân của Đrozđôvxki và Borôvxki đang mở lại cuộc tấn công từ bên kia ngòi Kirpêli - một cố gắng tuyệt vọng nhằm xoay thế thắng về phía mình.
Cũng trong đêm ấy quân đoàn trưởng Xôrôkin nhận được một chỉ thị của chấp ủy Kavkaz - Kuban đang họp liên tục ở Êkatêrinôđar gửi về, chỉ định ông ta làm tổng tư lệnh tất cả các lực lượng hồng quân ở vùng Bắc Kavkaz.
Người đến báo tin này cho Xôrôkin là tham mưu trưởng Bêlyakôv: tay cầm băng điện báo, ông ta lao lên toa xe lửa của quân đoàn trưởng, hất đôi chân Xôrôkin ra khỏi giường, bật máy lửa dầu hỏa lên soi băng điện báo và đọc cho ông ta nghe bản chỉ thị. Xôrôkin không sao tỉnh dậy được. Ông ta giương mi mắt lên nhìn ngơ ngác rồi lại nằm vật xuống chiếc gối nóng hổi. Belyakôv nắm hai vai ông lay mạnh:
- Kìa dậy đi nào, quan lớn, đồng chí tổng tư lệnh... Bây giờ anh là chúa tể vùng Kavkaz, hiểu chưa? Anh là vua, là chủ, hiểu chưa?
Bây giờ Xôrôkin mới hiểu hết tầm quan trọng của tin này, hiểu hết cái vận mệnh thần kỳ của mình đã được ghi bằng những cái chấm và những cái gạch trên dải băng giấy hẹp đang uốn khúc ngoằn ngoèo trong mấy ngón tay của viên tham mưu trưởng. Ông ta nhanh nhẹn cài lại khuy quần, khoác áo Tserkex lên vai, thắt bao súng lục và thanh gươm vào người.
- Lập tức công bố lệnh này trong quân đoàn... Bảo đem ngựa lại cho ta ngay!
* * *
Tảng sáng, Ivan Ilyits Têlêghin, sau khi đã được băng bó, liền len lỏi giữa các xe cộ đi tìm ban tham mưu trung đoàn mình. Vừa lúc ấy từ phía ga có một toán vệ binh phi qua đường, mũ áo khoác bay phất phới sau lưng, phía trước là một người lính kèn, và kế đến là Xôrôkin đang ghì chặt cương con ngựa bờm dài và một người cô-dắc giơ cao quân hiệu tổng tư lệnh trên đầu ngọn giáo. Như những quỷ thần ban đêm trong đám bụi xoáy cuồn cuộn, toán người cưỡi ngựa phi về phía có tiếng súng.
Trên những chiếc xe giàn ướt đẫm sương đêm, những cái đầu ngái ngủ nhấc lên, những bộ râu thò ra, những giọng khàn khàn nói ú ớ. Và rất xa trên thảo nguyên, tiếng kèn của người nhạc binh đang phi ngựa hát lên, loan báo rằng tổng tư lệnh đang có mặt ở ngay đây, giữa trận tiền, dưới làn đạn... “Ta sẽ quật ngã quân thù, ta-ta-ta, - tiếng kèn hát lên - hãy tiến lên giành thắng lợi và vinh quang... Đối với người anh hùng, không làm gì có cái chết, chỉ có vinh quang muôn đời, ta-ta-ta...”.
Trong một căn nhà vách đất, cửa sổ mở tung, Ivan Ilyits tìm thấy Ghymza. Ngoài ra không thấy người nào của ban tham mưu trung đoàn ở đây nữa. Ghymza ngồi khom lưng trên chiếc ghế dài, người to lù lù, vẻ lầm lì, bàn tay cầm cái thìa gỗ bỏ thõng giữa hai bắp đùi chạng ra. Trên bàn có một cái liễn đựng bắp cải và bên cạnh là một cái cặp căng phồng lên - tất cả bộ máy của thủ trưởng ban đặc vụ.
Ghymza trông như đang ngủ gật. Ông ta không nhúc nhích, chỉ liếc mắt về phía Têlêghin:
- Bị thương à?
- Sướt xoàng thôi... nằm dài mất nửa đêm trên ruộng lúa... lạc đơn vị: chả nó cứ rối tung lên ấy... Trung đoàn ở đâu?
- Ngồi xuống đã, - Ghymza nói. - Có đói không?
Ông ta nặng nhọc nhấc bàn tay lên đưa thìa cho Têlêghin. Chàng vùi đầu vào cái liễn canh đã nguội, rên lên một tiếng. Trong một phút đồng hồ, chàng im lặng ăn lấy ăn để.
- Hôm qua đơn vị chúng tôi đánh khá lắm, đồng chí Ghymza ạ, chẳng cần phải thúc giục gì nữa: cách ba bốn trăm bước anh em đã lao lên đánh lê rồi...
- Được... Thôi ăn nhanh đi, - Ghymza nói. Têlêghin bỏ thìa xuống. - Cậu nghe nhật lệnh cho quân đoàn chưa?
- Chưa. - Xôrôkin được cử làm tổng tư lệnh. Hiểu chưa?
- Ờ, thì tốt chứ sao... Hôm qua anh có thấy ông ta không? Buông cương xông vào giữa đám lửa, cái áo đỏ nổi lên lồ lộ. Chiến sĩ trông thấy ông ta là hô ura! Hôm qua mà không có ông ấy thì không biết là... Hôm qua chúng tôi đã phải kinh ngạc đấy: thật là một Xêzar.
- Ấy, đúng là Xêzar đấy. - Ghymza nói. - Tôi tiếc là chưa bắn được hắn!
Têlêghin sửng sốt bỏ thìa xuống:
- Anh đùa đấy chứ?
- Không, tôi không đùa. Thôi, dù sao cậu cũng chẳng hiểu được những chuyện này đâu. -Ghymza đưa đôi mắt nặng nề nhìn Têlêghin không chớp. - Còn cậu, cậu không phản bội đấy chứ? (Têlêghin điềm nhiên nhìn thẳng vào mắt ông ta) Thôi được... Tôi muốn giao cho cậu một công việc khó khăn, Têlêghin ạ... Tôi nghĩ có lẽ cậu là người thích hợp nhất... Cần phải đi đến khu Volga...
- Vâng...
- Tôi sẽ viết cho cậu tất cả các giấy tờ cần thiết. Tôi sẽ đưa cho cậu một bức thư gửi chủ tịch Hội đồng Quân sự. Nếu cậu không hoàn thành nhiệm vụ, không đưa được bức thư, thì thà chạy sang quân bạch vệ còn hơn, chứ chớ vác mặt về đây nữa. Rõ chưa?
- Rõ.
- Đừng để bị bắt sống. Phải giữ gìn bức thư hơn cả tính mạng. Nếu rơi vào tay bọn phản gián, phải làm đủ cách... phải nuốt bức thư đi... Hiểu chứ? - Ghymza chồm tới, nện quả đấm xuống bàn, làm cho cái liễn nẩy lên. - Tôi nói cho cậu rõ, bức thư sẽ nói như thế này: quân đội đang tin tưởng ở Xôrôkin. Xôrôkin bây giờ là một anh hùng, hắn muốn dẫn quân đội đi đâu cũng được hết... Còn tôi, tôi yêu cầu xử bắn Xôrôkin. Ngay lập tức, trong khi hắn chưa nắm lấy yết hầu của cách mạng. Cậu nhớ chưa?
Ông im lặng một lát. Mấy con ruồi bò trên trán ông. Têlêghin nói:
- Được, tôi sẽ làm tròn.
- Thế thì cậu đi nhé... Không biết đi qua Xvyatôi Krext, theo đường Axtrakhan có tiện không? E xa quá... Tốt hơn là nên đi qua sông Đôn đến Txaritxyn. Nhân thể cũng trinh sát xem vùng địch hậu thế nào... Cậu lấy cái lon sĩ quan mà đeo, ăn mặc diện vào một chút... Cậu lấy lon gì, đại úy hay thượng tá?
Ông cười, đặt tay lên đùi Têlêghin vỗ vỗ như vỗ một cậu bé.
- Ngủ đi vài tiếng, trong khi đó tôi sẽ viết thư.

10

Cuối cùng Vađim Pêtrôvits Rôstsin cũng nhận được giấy cho nghỉ phép ba tuần. Lúc bấy giờ chàng đóng với đội trấn thủ của quân tình nguyện ở ga Velikôknyajexkaia, người mệt mỏi, ốm đau, bị những mối mâu thuẫn gay go giằng xé. Không thấy diễn ra những trận đánh lớn, tất cả các lực lượng hồng quân đều đã di chuyển về phía nam, đương đầu với đội chủ lực của Đênikin. Còn ở đây, dọc các làng cô-dắc ở ven sông Manyts và sông Xala, đó đây cũng nổ ra những cuộc dấy động, nhưng những chi đội trừng phạt của thủ lĩnh cô-dắc Kraxnôv đều nhanh tay trấn an được những đầu óc phiến loạn: nơi thì họ dùng vinh hoa, nơi thì họ dùng que thông nòng, nơi thì họ dùng giá treo cổ.
Vađim Pêtrôvits lấy cớ là vết thương còn đau để khỏi tham gia vào những cuộc hành quân trừng phạt. Trong chừng mực có thể, chàng tránh những cuộc chè chén mà các sĩ quan tổ chức để ăn mừng những trận thắng của Đênikin. Và lạ thay, ở đây, nơi đồn trú cũng như trong quân đội dã chiến, mọi người đối với Rôstsin đều có thái độ thủ thế và thù địch ngấm ngầm.
Có ai phao ra một dư luận nói về “cái quần lót đỏ” của Rôstsin, thế là từ đấy mấy tiếng này đã gắn liền vào chàng như một biệt hiệu.
Trong chiến hào ở Sablievka, tình nguyện quân Ônôli đã bắn vào chàng. Rôstsin nhớ rất rõ giây phút ấy: tiếng rú của quả tạc đạn từ đoàn tàu bọc sắt bắn ra, tiếng đại đội trưởng hô “nằm xuống”, tiếng đạn nổ ầm ầm. Rồi ngay sau đó là một phát súng lục. Chàng có cảm giác như có ai lấy gậy phang vào gáy mình, và trước mắt chàng thoáng qua đôi mắt xếch của Ônôli đang ánh lên hỉ hả.
Chỉ có một người có thể tin được lời nói danh dự của Rôstsin: đó là tướng Markôv. Nhưng ông ta đã chết, cho nên Rôstsin nghĩ là không nên khơi lên một vụ kiện đáng ngờ bằng cách tố cáo thằng oắt con ấy.
Chàng cứ băn khoăn dằn vặt: tại sao người ta lại thù ghét chàng đến như vậy? Chẳng lẽ họ không thấy rõ chàng là người trung thực, vô tư, rằng cái tư tưởng duy nhất chỉ đạo những hành động của chàng là chiến đấu cho sự vĩ đại của nước Nga? Chàng đi vào những cánh thảo nguyên đáng sợ này không phải để kiếm lấy đôi lon cấp tướng...
Rôstsin không có được một cách nhìn thật minh xác, lạnh lùng, tàn nhẫn đối với sự vật. Trí óc của chàng cứ tô vẽ cho thế giới và cho sự việc những màu sắc mà bản thân chàng cho là tốt đẹp nhất và quan trọng nhất. Cái gì không phù hợp với những lý tưởng ấy thì chàng bỏ qua; nếu nó quấy rầy dai dẳng quá thì chàng nhăn mặt ngoảnh đi. Và chàng hình dung thế giới như một hệ thống hoàn chỉnh. Sở dĩ như vậy có lẽ là vì cái bẩm tính quý tộc của chàng đã thừa hưởng của nhiều thế hệ trang chủ quen sống hồn nhiên và vô tư lự. Cái giống đã tuyệt diệt này đặt sự nhàn nhã vô tư lên trên mọi diễm phúc ở đời, và cứ gán ghép nó cho bất cứ cái gì và bất cứ ở đâu. Nếu viên quản lý dùng roi đánh một người mu-gích ở ngoài chuồng ngựa, thì họ nghĩ bụng: ờ, cũng không sao, anh chàng mu-gích ấy kêu la một lát, rồi sau đó mới biết hối lỗi, và bản thân anh ta sẽ sung sướng hơn, sau khi đã hối hận và cam lòng. Nếu có người đưa văn khế nợ ra, đưa trang viên của mình ra bán đấu giá, thì - biết làm thế nào được? Thôi thì ở trong dãy nhà phụ, giữa những bụi ngưu bàng và những lùm dây leo cũng xong. Không có tiệc tùng ồn ào cũng được. Có lẽ về già như thế lại yên tĩnh hơn... Dù số phận có cố gắng giở trò gì cũng không sao làm cho con người trang chủ vô tư lự ấy nao núng được. Và ở họ hình thành một nhãn quan đặc biệt mềm mỏng: ở cái gì cũng chỉ nhìn thấy những khía cạnh đẹp đẽ nhất và cao quý nhất mà thôi!
Vađim Pêtrôvits cũng vậy: chàng cũng không có được một cái nhìn sắc sảo và lạnh lùng đối với những con người và những hành vi. (Tuy những biến cố mấy năm gần đây đã lay chuyển rất mạnh cái tâm hồn lãng mạn của chàng, hay nói cho đúng hơn, cái tâm hồn lãng mạn ấy nay chỉ còn sót lại những mảnh vụn mà thôi). Bây giờ, chàng luôn luôn phải nhăn mặt lại. Chính vì vậy mà chàng tránh dự những buổi tụ họp của các sĩ quan.
Theo quan niệm của chàng, những con người ấy - cái nhóm nhỏ gồm những sĩ quan và junker - lẽ ra phải mặc áo quần vải trắng muốt như các chiến sĩ thập tự quân ngày xưa: vì họ đã tuốt gươm chống lại lũ dân đen nổi loạn, chống lại những lãnh tụ của lực lượng phi nghĩa hắc ám, những thủ hạ của Ma-vương phản cơ đốc hay của quân Đức gì đấy - là người ta vẫn nói thế, chứ có ma nó phân biệt được. (Rôstsin lần mò xuống vùng sông Đôn chính là với những tư tưởng như vậy).
Nhưng trong những bữa chén của sĩ quan chàng lấy làm quái dị trước những lời lẽ huênh hoang sàm sỡ trong tiếng cốc chén chạm vào nhau lanh canh, những câu khoa trương ầm ĩ tâng bốc những hành động anh chị trong khi chém giết đồng bào. Những gương mặt trẻ trung, xưa kia vốn trang nhã của các chiến sĩ “thập tự quân” ấy đã biến dạng, méo mó đi vì luôn luôn nóng lòng muốn giết chóc, trừng phạt, trả thù. Họ đứng đấy, tay cầm những ly rượu cồn chín mươi lăm độ, nghêu ngao hát bài ca ai điếu tưởng nhớ con người vô nghĩa nhất, kém cỏi nhất trong cả loài người, con người đã bị bắn, bị thiêu ra tro, bị tung ra cho gió thổi tán loạn khắp bốn phương trời như Đmitri Mạo-danh ngày trước, con người mà nếu có thể gom góp lại tất cả những vũng máu đã đổ xuống vì cái ý chí yếu hèn của hắn thì nhân dân nhất định sẽ dìm sống hắn xuống cái hồ ấy...
Hình như (chính đây là một điều mà Rôstsin phải nhắm mắt để khỏi nhìn thấy) điệu hát ấy là cái lý tưởng duy nhất của các chiến hữu của chàng. Quét sạch bọn bolsêvik trên đất Nga, tiến về Moxkva giữa tiếng chuông nhà thờ... Đênikin cưỡi ngựa bạch đi vào điện Kremlin. Phải, phải, tất cả những cái đó đều có thể hiểu được. Nhưng sau đó rồi sẽ thế nào nữa? - cái ấy mới là cái chính! Như về Quốc hội lập hiến chẳng hạn: trong cái giới sĩ quan này, chỉ nhắc đến nó thôi cũng đã chướng tai lắm rồi. Thế thì phải chăng lý tưởng của họ chung quy chỉ là một điệu hát tưởng nhớ một thây ma?
Cái gì đã lôi cuốn những người ấy vào con đường đấu tranh, chết chóc? Rôstsin nhắm mắt... Giơ ngực ra trước làn đạn hay uống rượu mạnh trong các toa chở hàng không còn là hành vi anh hùng nữa rồi: những cái đó đã trở nên lỗi thời. Những việc đó thì người can đảm hay kẻ hèn nhát cũng đều làm cả. Chế ngự nỗi khiếp sợ trước cái chết đã trở thành một chuyện thông thường, mạng người bây giờ đã quá rẻ.
Bản lĩnh anh hùng là ở chỗ hy sinh mình cho niềm tin và chân lý. Nhưng ở đây lại phải nhắm mắt, lúc nào cũng cứ phải nhắm mắt hoài... Các bạn đồng ngũ của chàng tin vào chân lý nào? Bản thân chàng tin vào chân lý nào? Vào lịch sử bi đát và vĩ đại của nước Nga chăng? Nhưng đó là một sự thật, chứ không phải là chân lý. Chân lý nớ ở trong sự vận động, trong sự sống, không phải trên những trang giấy bụi bặm của những pho sách cũ, mà chính là ở trong những cái gì đang chảy vào tương lai.
Nhân danh chân lý nào (nếu không kể tiếng chuông nhà thờ Moxkva, con ngựa bạch, những chùm hoa cắm trên lưỡi lê, vân vân) cần phải tàn sát những người mu-gích Nga. Vấn đề này bắt đầu lay động trong tâm trí Vađim Pêtrôvits, rung rinh như một hình bóng phản chiếu trên mặt nước vừa có một hòn đá ném xuống. Và từ đây cũng bắt đầu cái quá trình phân đôi đau đớn của chàng. Chàng là một người lạ giữa các bạn đồng ngũ, là “cái quần lót đỏ”, là một kẻ “gần như bolsêvik”.
Càng ngày, chàng lại càng hay nhớ lại cuộc nói chuyện cuối cùng với Katya, và mỗi lần như vậy tai chàng lại nóng bừng lên vì xấu hổ. Nàng xiết hai bàn tay vào nhau, nghẹt thở vì xúc động, như thể bở vực đang sụt lở dưới chân Vađim Pêtrôvits. “Vađim! Vađim! Phải làm một việc gì khác hẳn kia!”.
Chàng vẫn thấy khó lòng có thể thú nhận rằng Katya đúng, rằng mình đang lầm lẫn một cách vô hy vọng, rằng mình càng ngày càng khó hiểu nổi do đâu mà “lũ dân đen nổi loạn” lại có được một sức mạnh như vậy, tại sao sức mạnh ấy cứ lớn lên mãi như một cơn ác mộng: rằng cái lối giải thích nông cạn nói rằng nhân dân bị bọn bolsêvik lừa phỉnh là một lối giải thích ngu xuẩn đến mức khủng khiếp, vì hiện nay chưa biết rõ ai, bọn bolsêvik thúc đẩy cách mạng hay nhân dân thúc đẩy bọn bolsêvik, rằng giờ đây chàng không thể buộc tội ai được, trừ phi là bản thân chàng.
Katya đúng về mọi mặt. Rời cuộc sống cũ để dấn thân vào những nẻo đường đày ải của cái thời buổi rối ren này, Katya chỉ mang theo một bảo vật duy nhất để hộ thân: tình thương yêu và lòng trắc ẩn. Chàng hồi tưởng lại hôm nàng đi theo chàng trên các đường phố Rôvtôv, đầu trùm khăn, tay xách gói quần áo - người bạn đường dịu dàng nhẫn nhục của đời chàng... Ôi, nàng đáng yêu biết mấy, nàng đáng yêu vô cùng!... Giá được ngả mãi đầu lên lòng nàng, ép hai bàn tay mềm mại của nàng lên mặt, và chỉ nói: “Katya, anh kiệt sức rồi...”. Nhưng một niềm kiêu hảnh phi lý, kỳ quặc đã gò Vađim Pêtrôvits lại. Trên con đường làng bụi bậm, trong hàng quân, ở phòng sĩ quan, cái bóng dáng gầy gò của chàng hiện ra, như thể bị nẹp chặt trong một cái khung bằng sắt, mái đầu đã bạc trắng ngẩng cao lên một cách kiêu căng... Và bọn sĩ quan thầm bảo nhau: “Trông ghê chưa, giữ tư thế khá lắm, dáng dấp như một kỵ sĩ ngự lâm, cái thằng bộ binh quèn ấy!...”.
Chàng đã gửi cho Katya hai bức thư ngắn, nhưng chẳng thấy thư trả lời. Bấy giờ chàng quyết định viết thư cho thượng tá Tyôtkin. Nhưng vừa đúng lúc ấy chàng lại được nghỉ phép, cho nên Rôstsin lập tức lên đường đi Rôxtôv.
Đến giữa trưa chàng xuống tàu và thuê chiếc xe ngựa. Thành phố bây giờ không còn nhận ra được nữa. Phố Xađôvaia đã được quét dọn sạch sẽ, cây cối đều được xén tỉa gọn gàng, những bóng dáng phụ nữ thanh lịch mặc toàn áo đồ trắng dạo chơi dưới bóng cây, được phản chiếu lại trong những tấm cửa kính lớn của các nhà hàng.
Rôstsin nhấp nhổm trên xe, đưa mắt tìm Katya. Thế này là thế nào nhỉ? Những người đàn bà đi trên phố như từ một giấc chiêm bao đã quên từ lâu hiện ra, đội những chiếc mũ cắm lông chim kiểu cũ, mũ cói panama, choàng khăn trắng... những bàn chân trắng trẻo xinh xắn lướt đi thoăn thoắt trên mặt đường nhựa đã được những người phu lầm lì rửa sạch bóng, và trên những đôi bít tất trắng ấy không có lấy một vết máu nhỏ nào. Thế ra đội án ngự đóng ở Vêlikôknyajexkaia là để có được cảnh phố phường thanh lịch này đây! Đênikin đánh nhau với quân đỏ bốn tuần nay cũng vì thế! Cái chân lý đơn giản “như quả cam” của chiến tranh trắng là thế này đây!
Rôstsin cười chua chát. Trên các ngã tư đường có những tên lính Đức mặc những bộ quân phục màu xanh xám trông quen thuộc đến buồn nôn lên được, đầu đội mũ lưỡi trai mới tinh. Lính của ta đấy, người nhà đấy! À, kia, một thằng đang bỏ kính một mắt ra, hôn tay một giai nhân cao dong dỏng mặc áo trắng.
- Xà ích, nhanh lên nào!
Thượng tá Tyôtkin đứng trước cổng nhà. Vađim Pêtrôvits nhảy từ trên xe xuống, thấy Tyôtkin lùi lại, mắt tròn xoe, trông như muốn bật ra ngoài, bàn tay phốp pháp giơ lên huơ huơ về phía chàng như muốn làm dấu thánh.
- Chào thượng tá... Thượng tá không nhận ra tôi hay sao? Tôi... Katya thế nào? Có khỏe không? Tại sao không...
- Trời ơi, còn sống ư! - Tyôtkin kêu lên, giọng thanh thanh như giọng đàn bà. - Vađim Pêtrôvits, cậu đấy ư!
Và ông ta ôm chầm lấy Rôstsin, nước mắt chảy ướt cả má chàng.
- Có chuyện gì thế? Thượng tá... nói hết cho tôi biết ngay đi...
- Lòng tôi vẫn linh cảm là cậu còn sống... Nhưng khổ thân Êkatêrina Đmitrievna đã khóc hết bao nhiêu nước mắt! Tưởng chết đi được! - Và Tyôtkin bắt đầu kể chẳng có mạch lạc chút nào câu chuyện nàng đến tìm Ônôli và bị hắn lừa - chẳng hiểu để làm gì - nói là Rôstsin đã chết. Ông ta kể lể về nỗi đau khổ của Katya, và cho biết nàng đã ra đi.
- Ra thế, ra thế... - Rôstsin nói, giọng rắn rỏi, mắt nhìn xuống đất. - thế Êkatêrina đi đâu?
Tyôtkin giang hai tay, trên gương mặt phúc hậu của ông ta có thể thấy rõ ý muốn giúp đỡ chàng, một ý muốn thiết tha đến mức đau đớn.
- Tôi còn nhớ là chị ấy bảo sẽ đi Êkatêrinôxlav... Hình như lại còn định vào làm ở một hiệu bánh kẹo nào đấy nữa... Vì tuyệt vọng mà đi như thế... Tôi cứ chờ chị ấy viết thư về, nhưng không có lấy một dòng, biệt vô âm tín...
Ông ta mời Rôstsin ghé vào nhà uống cốc nước chè, nhưng chàng từ chối và lập tức quay ra ga. Chuyến tàu đi Êkatêrinôxlav đến tối mới chạy. Chàng vào phòng đợi của hành khách hạng nhất, ngồi xuống một chiếc ghế xô pha bằng gỗ sồi, tựa khuỷu tay lên cánh tay vịn, úp bàn tay lên mặt và cứ thế ngồi yên mấy tiếng liền không nhúc nhích...
Có ai thở phào một tiếng nhẹ nhõm rồi ngồi xuống một bên Vađim Pêtrôvits, hình như có ý định ngồi lâu. Trước đó cũng đã có nhiều người đến ngồi một lát rồi bỏ đi. Nhưng người này thì lại cứ ngồi rung đùi mãi, làm cho chiếc ghế cũng rung theo. Hắn không chịu đi đi cho, mà cũng không thôi rung đùi. Tay vẫn để nguyên trước mắt, Rôstsin nói:
- Này ông, ông làm ơn đừng rung nữa có được không ạ?...
Người kia sốt sắng trả lời:
- Xin lỗi ông, quả tôi có một thói quen rất xấu. - Rồi ngồi im.
Giọng nói của người ấy khiến Vađim Pêtrôvits giật mình: nó quen thuộc lạ lùng, như gắn liền với một cái gì rất xa xôi, một kỷ niệm diễm phúc nào... Rôstsin, vẫn không cất tay ra, liếc một mắt qua mấy ngón tay để hở nhìn người ngồi bên cạnh. Đó là Têlêghin. Duỗi dài đôi chân đi ủng lấm bùn, hai bàn tay bắt chéo để trên bụng, Têlêghin có vẻ như đang thiu thiu ngủ, gáy tựa vào thành ghế cao. Chàng mặc một chiếc áo quân phục bó sát người, nách quá chật, trên vai có đeo đôi lon trung tá mới tinh. Trên gương mặt gầy, rám nắng, mới cạo của chàng ngưng đọng lại một nụ cười thanh thản, nụ cười của một người đang được nghỉ ngơi sau một công việc mệt nhọc vô cùng...
Sau Katya, Têlêghin là người gần gũi nhất đối với Rôstsin: đó là một người em, một người bạn tốt. Têlêghin như mang trên người ánh hào quang của vẻ đẹp kiểu diễm của hai chị em Katya và Đasa... Vađim Pêtrôvits kinh ngạc đến nỗi suýt kêu lên, suýt vồ lấy Ivan Ilyits. Nhưng Têlêghin vẫn không mở mắt ra, không nhúc nhích. Một giây trôi qua. Rôstsin đã hiểu ra rằng trước mặt mình là một kẻ thù. Từ hồi cuối tháng năm chàng được biết rằng Têlêghin đã tự nguyện gia nhập Hồng quân và được các bạn đồng ngũ đánh giá rất cao. Bộ quân phục chàng đang mặc rõ ràng là của người khác, có thể là lấy của một sĩ quan nào chính chàng giết chết, lại đeo lon trung tá nữa (trước kia chàng chỉ là thượng úy trong quân đội Sa hoàng)... Rôstsin chợt cảm thấy trong lòng mình dâng lên một cảm giác ghê tởm nhầy nhụa, vẫn thường kết thúc bằng một cơn bột phát ghê gớm của chí căm thù: Têlêghin ở đây chỉ có thể là với tư cách một tên phản gián Bolsêvik...
Phải đi báo ngay cho viên tư lệnh thành. Giá phải hai tháng trước đây thì Rôstsin sẽ không hề phân vân lấy một khoảnh khắc. Nhưng giờ đây chàng đã dán chặt vào chiếc ghế: không sao đủ sức đứng dậy. Vả lại cái cảm giác ghê tởm ban nãy cũng dường như lắng xuống từ bao giờ... Ivan Ilyits là một sĩ quan đỏ. Chàng đang ngồi kia, ngay bên cạnh, vẫn như thế: mệt mỏi, cả con người toát ra một phong thái hiền lành, đôn hậu... Chàng vào Hồng quân hẳn không phải vì tiền, không phải để tâng công - nhảm nhí quá! Đó là một con người điềm đạm, biết suy nghĩ, vào Hồng quân là vì cho rằng sự nghiệp của họ là chính nghĩa... “Cũng như mình, đúng như mình... Bây giờ mình đi tố giác Têlêghin, để rồi một giờ sau chồng của Đasa, em của Katya, em mình, nằm phơi thây trên một đống rác cạnh hàng rào, chân không còn ủng...”.
Cổ Rôstsin se lại vì kinh hãi. Chàng rúm cả người lại... Thế thì biết làm thế nào? Đứng dậy, bỏ đi chăng? Nhưng Têlêghin có thể nhận ra chàng, sẽ mất bình tĩnh, sẽ cất tiếng gọi chàng. Làm thế nào cứu được Têlêghin?
Rôstsin và Ivan Ilyits cứ thế ngồi cạnh nhau trên chiếc ghế xô-pha bằng gỗ sồi, không cử động như đang ngủ. Vào giờ ấy nhà ga rất vắng. Người gác ra đóng các cửa thềm. Bấy giờ Têlêghin nói, mắt vẫn không mở ra:
- Cảm ơn, Vađim.
Tay Rôstsin run bắn lên. Ivan Ilyits nhẹ nhàng đứng dậy đi ra cửa ga, dáng đi điềm tĩnh, không ngoái lại. Một phút sau Rôstsin choàng dậy lao theo. Chàng chạy quanh quảng trường ga, với những con người nhem nhuốc đang ngủ gà ngủ gật bên mấy cái khay hàng, mấy xâu cá hun khói, dưới ánh nắng trắng bệch đang nung chảy cả nhựa đường, thiêu cháy cả lá cây, thiêu cháy cả làn không khí đầy bụi bặm của phố phường.
“Ôi, giá được ôm lấy cậu ấy, chỉ ôm lấy nhau một phút thôi!” - và những vòng tròn đỏ rực của khí nóng quay cuồng trước mắt Rôstsin. Têlêghin đã biến đi đằng nào không để lại một dấu vết.
Vào cái giờ mà ánh hoàng hôn trên thảo nguyên đã tắt ngấm, trong khi Rôstsin đã ngủ thiếp đi trên ngăn giường cao góc toa trong tiếng bánh xe dằn thình thình trên đường sắt, thì người mà chàng đang đi tìm, người mà tâm hồn chàng, đau đớn ê chề vì cảnh máu me và thù oán, đang nhớ nhung khoắc khoải, người vợ của chàng, Katya, đang ngồi trên chiếc xe tatsanka vượt qua thảo nguyên. Trên vai nàng quàng một tấm khăn san. Bên cạnh nàng là chị Matriôna Kraxilnikôva xinh đẹp. Những cái nẹp sắt trên xe rung lên cành cạch. Mấy con ngựa thở phì phò. Phía trước và phía sau còn rất nhiều xe khác nối đuôi nhau thành một chuỗi dài chìm dần trong bóng tối của một đêm thảo nguyên đầy sao.
Alekxêy Kraxilnikôv buông lỏng dây cương ngồi vắt vẻo trên càng xe. Xêmiôn ngồi ghé một bên xe, những bụi ngưu bàng và cỏ dại bên đường quật loạt soạt vào đôi ủng của anh. Không khí thoang thoảng mùi ngựa, mùi ngải đắng. Katya suy nghĩ vẩn vơ trong khi thiu thiu ngủ. Làn gió nhẹ thổi lành lạnh trên vai nàng. Thảo nguyên trải ra mênh mông không biết đâu là bờ bến: những nẻo đường thảo nguyên kéo dài xa tắp chẳng biết đến đâu mới tận cùng. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, những con ngựa cứ tiếp theo nhau đi mãi, những cỗ xe cứ lăn bánh cót két, và mãi đến bây giờ vẫn có những ngựa xe đi trên thảo nguyên như bóng dáng của những chuyến di cư cổ đại hiện về...
Hạnh phúc, hạnh phúc - đó là một nỗi nhớ nhung vĩnh viễn, đó là chỗ tận cùng của các thảo nguyên, là một bến bờ soi nền trời xanh biếc, là những làn sóng dịu dàng, là thanh bình, là sung túc...
Matriôna chăm chú nhìn gương mặt Katya, cười khe khẽ. Rồi sau đó chỉ còn nghe tiếng vó ngựa lóc cóc. Quân đội đang vượt vòng vây, Thủ lĩnh Makhnô ra lệnh phải hành quân im lặng. Đôi vai của Alekxêy so lại, lưng anh gù hẳn xuống: chắc anh buồn ngủ quá không gượng được nữa rồi, Xêmiôn nói khẽ:
- Không phải tôi muốn thoát cho xa anh, xa vợ ra đâu... Lúc nào cũng Xêmiôn ơi, Xêmiôn ơi... (Matriôna thở hắt ra một tiếng ngắn, quay đi, nhìn ra thảo nguyên). Từ dạo mùa xuân tôi đã nói với anh Alekxêy: không phải tôi quý gì cái dải lụa của lính thủy, tôi quý là quý cái sự nghiệp chung... (Alekxêy lặng thinh). Hạm đội bây giờ là của ai? Của ta, của nông dân chứ của ai. Nếu chúng tôi chạy tán loạn, mỗi người đi một ngả hết, thì còn ra cái gì? Vì chúng mình đấu tranh là đấu tranh cho một sự nghiệp chung, các anh ở đây, chúng tôi ở đấy...
- Thế họ viết cho anh những gì? - Matriôna hỏi.
- Họ viết là nhất thiết phải trở về khu trục hạm ngay, nếu không sẽ bị coi là kẻ đào ngũ, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật của cách mạng...
Matriôna nhún một bên vai. Người chị nóng bừng lên. Nhưng chị cố nhịn, không trả lời. Một lát sau Alekxêy rướn thẳng người trên càng xe, nghe ngóng một lúc rồi giơ cây roi ngựa chỉ vào đêm tối:
- Chuyến tàu suốt đi Êkatêrinôxlav...
Katya nhìn theo hướng cây roi, nhưng không trông thấy đoàn tàu đang đưa Vađim Petrôvits đi, trên ngăn giường trên của một toa hành khách. Nàng chỉ nghe thấy một tiếng còi dài và xa xăm, vang dội trong lòng nàng thành một nỗi buồn da diết.
* * *
Xuống ga Êkatêrinoxlav, Vađim Petrôvits lập tức đi khắp các hiệu bánh kẹo hỏi thăm Katya. Chàng ghé vào những hiệu cà-phê nóng hừng hực, ruồi bâu đen kịt trên những tấm kính cửa sổ bẩn thỉu và trên những tấm xô đậy bánh kẹo. Chàng đọc những tấm biển bằng vải trúc bâu đề: “Verxai”, “Elđôrađô”, “Quán Thanh Lịch”. Từ ngưỡng cửa những tiệm ăn nhỏ khả nghi này, những người da chì để ria mép dài nhìn chàng bằng đôi mắt lồi lên như hai cái lòng trắng trứng, sẵn sàng hễ có khách gọi là làm ngay một món saslyk bằng bất cứ thứ thịt gì. Ngay ở những tiệm này Rôstsin cũng hỏi thăm. Sau đó chàng bắt đầu đi khắp các cửa hàng một lượt.
Trời nắng chang chang. Một đám người đông đúc và pha tạp đủ màu sắc đang ồn ào chen chúc nhau trên hai lối đi rợp bóng những cây bàng sum suê của đại lộ Êkatêrinxki, những chiếc xe điện nhỏ ọp ẹp chạy qua, phát ra những tiếng loảng xoảng như sắt vụn. Trước chiến tranh thành phố này đang được kiến thiết thành thủ phủ mới của miền Nam Ukrain. Chiến tranh đã chận đứng quá trình mở mang ấy. Bây giờ, dưới chính quyền thống lĩnh và dưới sự kiểm soát của quân Đức, thành phố lại nhộn nhịp lên, nhưng theo một kiểu khác: thay cho những thương điếm, những nhà băng, những kho hàng, mọc lên những sòng bạc, những quán đổi tiền, những tiệm saslyk và những quầy nước chanh; tiếng ồn ào của một thành phố bận rộn và những hoạt động vận tải thương nghiệp nhường chỗ cho những chuyến chạy vạy điên cuồng của những tên buôn bạc râu ria không cạo, mũ hất ngược ra sau gáy, luồn lõi khắp các hiệu cà-phê và các ngã tư đường, cho những tiếng rao chào và vô số những trẻ đánh giầy và những người bán xi - ngành kỹ nghệ duy nhất thời bấy giờ, cho những câu nài ép trơ tráo của những tên ma-cà-bông dáng dấp gian xảo; cho những tiếng than thở của mấy dàn nhạc lèo tèo trong các “quán thanh lịch”, cho sự chen chúc vô tích sự của đám đông nhàn rỗi sống bằng nghề buôn bạc giả và buôn nước bọt.
Thất vọng vì tìm mãi mà chẳng có kết quả gì, váng tai đi vì tiếng ồn, người mệt lả ra, Vađim Pêtrovits ngồi xuống chiếc ghế dài dưới gốc cây xiêm gai. Đám người đi dạo phố vẫn trẫy qua bên cạnh chàng: những người đàn bà, ăn mặc trang nhã cũng có, ăn mặc lố lăng cũng có - người thì mặc áo may bằng màn cửa, người thì mặc y phục dân tộc Ukrain; - những người đàn bà với đôi mắt kẻ mi ướt đẫm vì nóng, với những dòng mồ hôi chảy trên đôi má trát phấn; những gã đầu cơ nhớn nhác hai tay giơ giơ ra phía trước đang len lỏi cuống cuồng giữa đám đàn bà đó; những anh công chức ngờ nghệch của chính quyền thống lĩnh đeo huy hiệu đinh ba trên mũ, đầu óc bận rộn vì những thủ đoạn chứng khoán và những mưu mô ăn cắp của công; những tên lính cô-dắc của quân đội thống lĩnh, cao lớn, rộng vai, gáy bò tót; những tên lính haiđamak để ria dài, đội mũ chụp to tướng chóp màu huyết dụ, mặc áo jupan màu xanh da trời và quần đũng thấp sát đất, ống rộng thùng thình trông rất cổ quái - thứ y phục mà đã hai thế kỷ nay các ông giáo trung học theo chủ nghĩa quốc gia và các nhà văn lãng mạn xứ Galitxi vẫn hằng nhớ nhung mơ ước. Giữa đám đông trôi lềnh bềnh mấy viên sĩ quan Đức bất khả xâm phạm đang nhìn qua đầu mọi người với nụ cười khinh khỉnh...
Rôstsin nhìn cảnh này mà lòng sôi sục lên vì căm giận. “Giá tưới dầu vào mà thiêu sống hết cái lũ chó má này...!”. Chàng ghé vào một cái quầy lộ thiên uống cốc nước quả rồi lại đi hỏi hết cửa hàng này đến cửa hàng khác. Mãi đến bây giờ chàng mới hiểu rõ những cuộc tìm kiếm của mình điên rồ đến nhường nào. Katya, tiền bạc chẳng có, bơ vơ một mình, vụng về, nhút nhát, đau khổ ê chề (với một nỗi kinh hoàng không sao chịu nổi, chàng nhớ đi nhớ lại mãi cái lọ con đựng thuốc độc trong căn nhà ở Moxkva) - Katya đang có mặt ở đâu đây, trong đám người dở khôn dở dại này... Những bàn tay nhớp nhúa của bọn buôn bạc, bọn ma cô, bọn bán saslyk đang chạm vào người nàng, những đôi mắt dâm ô đang sờ soạng trên người nàng...
Chàng thấy nghẹn thở... Hai khuỷu tay khuỳnh ra, chàng len thẳng vào đám đông, không thèm đáp lại những tiếng la ó và chửi bới. Đến tối chàng thuê một buồng khách sạn với giá rất đắt - gọi là buồng nhưng chỉ là một cái xó tối tăm chỉ vừa đặt một chiếc giường sắt, đệm dẹp lép. Chàng cởi ủng ra nằm xuống, và hai tay ôm chặt lấy mái đầu bạc trắng, chàng lặng lẽ khóc thầm, không nước mắt...
* * *
Đi bộ qua biên giới vùng sông Đôn. Têlêghin cất đôi lon trung tá vào cái túi đựng đồ; chàng lên tàu hỏa đi đến Txaritxyn rồi xuống một chiếc tàu thủy rất lớn, từ boong trên cho đến hầm tàu chật ních những nông dân, lính cựu, lính đào ngũ, dân đi lánh nạn. Đến Xaratôv, chàng vào ủy ban cách mạng trình giấy tờ rồi lên một chiếc tàu kéo đến Xyzran, nơi bắt đầu chuyến tuyến của quân Tiệp.
Sông Volga vắng vẻ hiu quạnh như những thời truyền thuyết xa xưa khi quân kỵ mã của Thành-cát-tư-Hãn dừng chân trên những bờ cát này để cho ngựa uống nước sông Ra vĩ đại. Mặt sông rộng phẳng lì như gương khoan thai trôi giữa đôi bờ cao phủ cát xen kẽ với những bãi cỏ xanh ngập nước. Những làng mạc thưa thớt bên sông trông như bỏ hoang. Về phía đông những cánh thảo nguyên bằng phẳng mất hút trong những làn sóng không khí nóng bỏng chập chờn những ảo quang. Những bóng mây soi trên sông từ từ trôi chảy dưới đáy nước. Và trong cõi im lặng chỉ có tiếng guồng bánh cần mẫn vỗ lép bép xuống làn nước xanh màu da trời.
Ivan Ilyits nằm dưới cái cầu chỉ huy của thuyền trưởng, trên mặt boong nóng hầm hập. Chàng đi chân không, mặc áo sơ mi nông dân bằng vải hoa không buộc thắt lưng ra ngoài; trên má chàng râu quai nón đã mọc lên một lớp khá dày màu vàng óng. Như một con mèo lười nằm phơi nắng, chàng tận hưởng cảnh tĩnh mịch của vùng sông, mùi hương ẩm ướt của những bông hoa đầm lầy, mùi hăng hăng của cỏ dại thảo nguyên từ dải bờ thấp thoảng tới, những luồng ánh sáng tràn trề trong không trung. Chàng chưa bao giờ cảm thấy mình được nghỉ ngơi một cách yên tĩnh trọn vẹn như vậy.
Chiếc tàu thủy này chở súng đạn cho quân du kích ở các huyện vùng thảo nguyên. Những người lính hồng quân đi theo áp tải, hít thở cái không khí quá trong lành của vùng sông, đâm ra lười biếng; người thì nằm ngáy khò khò, người thì ngủ mãi đã chán mắt quay ra ngồi nhìn làn nước mênh mông rồi cất tiếng hát nghêu ngao. Người chỉ huy đội áp tải là đồng chí Khvêđin, một thủy thủ Hắc hải, trong một ngày hôm ấy đã mấy lần phê bình khiển trách các chiến sĩ của mình về tội kém ý thức giác ngộ. Họ quây quần xung quanh người chỉ huy, kẻ thì ngồi, người thì nằm chống khuỷu tay kê má. Khvêđin nói với họ, giọng khàn khàn:
- Các chú phải hiểu rằng ta chiến đấu không phải với Đênikin, không phải với Kraxnôv, cũng không phải với quân Tiệp: chúng ta chiến đấu với toàn thể giai cấp tư sản đẫm máu trên cả hai bán cầu... Phải đánh giập đầu giai cấp tư sản thế giới trong khi nó chưa kịp hồi sức... Chúng ta, người Ng-nga (chữ này anh ta phát âm rất rõ và nhấn rất mạnh) được sự đồng tình của các anh em ruột thịt của chúng ta - những người vô sản ở khắp các nước. Họ chỉ chờ đợi có một điều: là chúng ta mau mau tiêu diệt xong bọn ăn bám trong nước và sang giúp đỡ họ một tay trong cuộc đấu tranh giai cấp của họ... Điều đó thì không cần nói các chú cũng hiểu được. Trên đời này không có gì dũng cảm cho bằng người lính Ng-nga, nếu không kể người thủy thủ của hạm đội đỏ, cho nên ta có đủ khả năng chiến thắng. Hiểu chưa, các chú điển trai kia? Tôi nói đây là chính xác một trăm phần trăm, như toán học vậy. Hôm nay có chiến sự ở Xamara, và ít nữa sẽ có chiến sự ở khắp năm châu...
Các chiến sĩ chăm chú lắng nghe. Một anh điềm tĩnh nhận xét:
- Đúng... Cánh ta làm ăn thật ra trò... Khắp thế giới sẽ biết tay!
Bên trái hiện lên xanh xanh dãy đồi Khvalynxkiê. Khvêđin đưa ống nhòm lên nhìn. Thị trấn Khvalynxk lười biếng và ngái ngủ, hiện lên rõ hơn sau mấy lùm cây. Đây là nơi tàu phải ghé vào lấy dầu.
Ông thuyền trưởng tóc bạc đứng cạnh người hoa tiêu. Chỗ này sông chia ra làm ba dòng chảy quanh những cồn cói, luồng lạch ở đây rất bất kỳ. Khvêđin lại gần thuyền trưởng.
- Trong thành phố chẳng có lấy một bóng người... Thế là thế nào nhỉ?
- Thế nào cũng phải vào lấy dầu. Tùy ông đấy, - thuyền trưởng nói.
- Đã cần thì cứ ghé thôi.
Tàu đi men một hòn dảo, sát đến nỗi những cành phong trên đảo chạm cả vào guồng bánh, rồi rú máy và bắt đầu quay mũi. Vừa lúc ấy từ những bụi cói rậm rạp ở trên đảo có mấy tiếng người quát thất thanh:
- Đứng lại! Đứng lại! Các người đi đâu?
Khvêđin rút súng lục. Đội áp tải lùi xa mạn tàu. Nước dưới guồng bánh sủi lên sùng sục.
- Đứng lại, đứng lại! - mấy tiếng người lại quát. Bụi cói xao xác: có mấy người đang rẽ cói đi ra bờ đảo. Một lát sau thấy hiện ra những gương mặt đỏ bừng, khích động, những cánh tay giơ lên vẫy vẫy. Cả tốp đều chỉ về phía thị xã. Ồn quá chẳng nghe thấy họ nói gì. Cuối cùng Khvêđin át hết mọi người bằng một tràng tiếng chửi của dân hàng hải. Nhưng rồi mọi sự cũng đã rõ ngay tức khắc: bên bến tàu của thị xã phụt ra mấy đám khói nho nhỏ, rồi mặt sông vang vọng những tiếng súng trường nổ. Khvalynxk đã bị quân bạch vệ chiếm. Những người ở trên đảo là tàn quân của đội trấn thủ đã bỏ chạy, trong đó một phần là du kích địa phương. Trong bọn họ có một số người có súng, nhưng đạn thì chẳng ai còn.
Mấy chiến sĩ hồng quân chạy vào ca-bin lấy súng. Khvêđin đứng ở cầu thuyền trưởng quát vang cả một khúc sông, văng ra những câu chửi rủa thậm tệ đến nỗi mấy người ở trên đảo yên tâm ngay, trên các gương mặt đều nở những nụ cười vui vẻ. Khvêđin đang nổi nóng, đã định tấn công vỗ mặt ngay vào thành phố, cho đổ bộ thẳng từ tàu lên và trừng phạt bọn bạch vệ một trận. Nhưng Têlêghin ngăn anh ta lại. Trong một cuộc tranh luận ngắn, chàng chứng minh rằng không thể tiến hành một cuộc tiến công chẳng hề có chuẩn bị gì như vậy, nhất thiết phải phối hợp cuộc tấn công trực diện với các cuộc hành binh đường vòng đánh thốc vào sau lưng địch, vả lại Khvêđin không biết rõ lực lượng của địch ra sao, và phải dè chừng chúng có cả pháo binh nữa.
Khvêđin chỉ nghiến răng ken két, nhưng cũng tán thành. Dưới làn đạn của địch, con tàu đi giật lùi xuống phía xuôi và ghé vào bờ phía tây của hòn đảo: ở đây có một khóm rừng che khuất thành phố. Tàu bỏ neo. Những người trên đảo chạy ùa ra bãi cát. Họ có khoảng năm mươi người, áo quần rách rưới, râu tóc rối bù.
- Kìa, các anh phải nghe cho ra đầu ra đũa đã chứ, đồ quỷ! - Họ quát.
- Zakharkin sắp đưa đội du kích Pugatsôv đến tiếp viện cho chúng tôi bây giờ... đây này.
- Chúng tôi đã cho người đi báo với Zakharkin từ ba hôm nay rồi.
Và họ kể lại là cách đây ba hôm, bọn tư sản địa phương đã vũ trang nổi dậy bất thình lình, chiếm trụ sở xô-viết đại biểu, nhà bưu vụ và sở điện báo. Các sĩ quan trong thị trấn gắn lon lên vai, xông vào các kho vũ khí lấy súng máy. Học sinh, lái buôn, công chức đều cầm vũ khí nổi dậy. Ngay cả ông thầy lễ trong nhà thờ lớn cũng cầm khẩu súng săn chạy giữa phố. Không ai ngờ tới vụ biến động này. Họ không kịp vớ lấy súng nữa.
- Bọn chỉ huy của chúng tôi chạy tán loạn hết, chúng nó bán rẻ chúng tôi...
- Chúng tôi cứ loay hoay chẳng khác một lũ cừu.
- Làm ăn như thế đấy! - Khvêđin nói gọn lỏn. - Dân đất liền có khác!
Trên bờ, hai bên họp chung một hội đồng quân sự. Họ bầu Têlêghin làm thư ký. Vấn đề đặt ra là: có nên chiếm lại Xvalynk trong tay bọn tư sản hay không? Họ quyết định là phải chiếm lại. Vấn đề thứ hai: đợi du kích Pugatsôv hay tự lực đánh chiếm thị xã? Ở đây có nhiều ý kiến khác nhau. Người thì nói là phải đợi, vì du kích Pugatsôv có đại bác, kẻ thì lại bảo không thể đợi được: bất cứ phút nào cũng có thể có tàu thủy bạch quân từ trên Xamara xuôi về.
Khvêđin nghe tranh luận mãi phát chán, khoát tay nói:
- Thôi ba hoa thế đủ rồi, các đồng chí ạ. Nhất trí quyết nghị: đến chiều phải chiếm xong Khvalynxk thôi! Đồng chí Têlêghin ghi vào biên bản đi.
Vừa lúc ấy ở tả ngạn, trên bờ dốc đứng, hiện ra mấy người cưỡi ngựa: lúc đầu hai rồi bốn. Trông chiếc tàu thủy, họ lại phóng đi. Một lát sau khắp dọc bờ sông đều kín mít những người ngựa, những ngọn giáo rộng bản làm bằng lưỡi hái lấp loáng dưới nắng. Tốp người Khvalynxk quát lớn:
- Ê-ê-ê, các anh là a-a-a-i?
Trên bờ đáp vọng xuống:
- Chi đội Zakharkin, quân đội nông dân Pugatsôv...
Khvêđin cầm loa gân cổ lên gào:
- Anh em ơi! Chúng tôi chở súng về cho anh em đây. Xuống đảo đi... Ta sẽ chiếm lại Khvalynxk...
Trên bờ đáp:
- Đồng ý... Chúng tôi có khẩu đại bác đây... Cho tàu ghé vào đi...
* * *
Những người cưỡi ngựa đứng trên bờ là một trong những đội du kích của quân đội nông dân đang chiến đấu trên các thảo nguyên Xamara chống lại các tổng đã công nhận chính quyền của chính phủ lâm thời Xamara.
Quân đội đã hình thành ngay sau khi quân Tiệp chiếm Xamara. Thành phố Pugatsôxvk - trước kia là Nikôlaievxk - trở thành trung tâm huấn luyện. Ở đây tập hợp tất cả những đầu óc hăng say thích cưỡi ngựa, tất cả những người bị tên buôn đất Sekhôbalôv nổi tiếng biến thành những người nông dân bần cùng, tất cả những ai có chuyện tranh chấp đất đai với bọn phú nông cô-dắc ở Ural, tất cả những ai có thừa nhiệt huyết vì tâm hồn đã sinh trưởng trên những cánh thảo nguyên mênh mông vô tận, nơi mà những đám lúa mì vàng óng cất tiếng rì rào khoáng đạt, nơi mà người mu-gích đi theo sau cái cày nặng trịch, luôn mồm thúc giục cặp bò mộng lề mề.
Quân địch len lỏi vào khắp nơi như những ảo ảnh mà ánh nắng thiêu đốt làm xuất hiện trên thảo nguyên. Trong một làng nào đấy có một hôm thấy triệu tập một cuộc họp: những gã phú nông, những hạ sĩ quan của quân đội Sa hoàng, những cán bộ tuyên truyền trá hình ở Xamara về thi nhau hò hét rằng không có cái luật ở đâu lại để cho thằng bần nông, thằng cố nông, thằng cầu bơ cầu bất không có tấc đất cắm dùi ngồi cai trị cả tổng, lấy không đất đai và lúa mì của nông dân khá giả. Thế là cuộc họp quyết định phái người sang các làng bên báo cho mọi người phải đào công sự phòng thủ. Lập tức cả tổng nổi dậy, lấy vũ khí ở những nơi cất giấu ra, lấy cày vạch mấy luống chạy suốt biên giới và đào một dãy chiến hào dài hàng chục dặm.
Có những nơi tuyên bố thành lập nền cộng hòa, chịu phục tùng chính phủ trung ương Xamara. Việc phòng thủ lãnh thổ được giao cho kỵ binh. Bộ binh thì chỉ huy động khi quân đỏ tấn công. Để vũ trang kỵ binh, họ lấy lưỡi hái lắp thẳng đứng vào những cái sào dài làm dáo. Những đội quân kulak ấy rất đáng sợ. Họ xuất hiện đột ngột trên thảo nguyên, từ trong sương mù lao thẳng vào các đội xạ kích và các ổ súng máy của hồng quân, vó ngựa tung bụi lên mù mịt. Ở đây toàn người nhà đánh nhau cả: anh em, bố con, bạn bè thông gia, cho nên họ không biết sợ hãi, không biết xót thương là gì. Sau mấy trận đánh với hồng quân có kết quả, kỵ binh được vũ trang bằng súng máy và súng trường, nhưng vẫn không bỏ mấy cây dáo làm bằng lưỡi hái.
Ngày nay không còn giữ lại được một pho sử biên niên hay một tài liệu lưu trữ quân sự nào có ghi lại cuộc chiến tranh nông dân vĩ đại này trên các thảo nguyên Xamara, nơi dân còn nhớ lại những cuộc hành binh của Emêlian Pugatsôv. Họa hoằn lắm, vào những ngày lễ thánh, bên vò rượu mới có những cặp bố con nhắc nhở lại những trận đánh năm xưa và chê bai nhau về những sai lầm về chiến lược. Ông bố sẽ nói:
- Yaska, mày còn nhớ cái dạo chúng mày nã đại bác vào chúng tao ở Kolđyban không hả? Hồi ấy tao biết ngay là thằng Yaska chó đẻ nó bắn mà... Chỉ tại tao không đe con cái cho ra trò từ tấm bé, cho nên mày mới thế... Nhưng chúng mày đã được một mẻ khiếp đảm... Cũng may cho mày là hồi ấy không rơi vào tay tao...
- Bố cứ tha hồ nói khoác nữa đi! Đằng nào thì hồi ấy bọn con vẫn át giọng.
- Không sao, nếu có dịp, ta lại sẽ gặp nhau trên chiến trường.
- Vâng, nếu có dịp... Bố đã là kulak thì không làm sao bỏ được cái quan điểm hiếu chiến kia được đâu.
- Nào, cạn chén đi con!
- Nào, mời bố cạn chén!
* * *
Chiếc tàu thủy ghé vào bờ bên trái. Ván cầu được bắc lên bờ và Zakharkin người chỉ huy đội dân quân Pugatsôv bước lên tàu. Đó là một người có cái mũ khoằm khoằm như mũi diều hâu, vóc người to lớn vạm vỡ đến nỗi mấy tấm ván cầu oằn xuống răng rắc dưới chân. Cái áo vét bạc màu của anh ta đã đứt hết chỉ ở hai bên nách. Một thanh gươm cong vỗ lách cách trên đôi ủng cao. Hai ông anh của Zakharkin, vốn là nông dân ở tổng Utevxkaia, bây giờ đã chỉ huy đến hàng sư đoàn.
Theo anh ta lên tàu có sáu người du kích nữa - ban chỉ huy đội, - trang phục khá độc đáo và ngoạn mục: những chiếc áo sơ mi rộng của nông dân đã bạc màu, đầy bụi và hắc in, cổ phanh rộng ra, người thì đi ủng dạ có cựa, người thì đi giầy cỏ, băng đạn súng máy khoác đầy người, lưng đeo lựu đạn; lưỡi lê dẹt kiểu Đức, súng cưa nòng.
Zakharkin và Khvêđin gặp nhau trên cầu thuyền trưởng, bắt tay nhau rất mạnh, mời nhau thuốc lá, Khvêđin vắn tắt trình bày tình hình quân sự. Zakharkin nói:
- Tôi biết kẻ nào gây rối ở Khvalynxk rồi: đó là thằng Kukuskin, chủ tịch ban quản trị nông phố... Tôi mà bắt sống được cái thằng khốn kiếp ấy thì...
- Thế còn khẩu đại bác của các anh thì sao? - Khvêđin hỏi, - Bắn tốt chứ?
- Bắn được, nhưng phải bắn thẳng, không quan trắc: chúng tôi cứ dòm vào nòng mà ngắm. Nhưng được cái khỏe lắm, cái khẩu chết tiệt ấy: oàng một phát là tháp chuông, tháp nước gì cũng bay.
- Tốt. Thế còn về chuyện đổ bộ và đánh luồn phía sau thì đồng chí thấy thế nào hả đồng chí Zakharkin?
- Chúng tôi sẽ cho kỵ binh sang bờ bên kia. Tàu này có chở được trăm người không?
- Nhiều hơn ấy chứ: chở hai chuyến.
- À, thế thì chẳng phải bàn gì nữa. Hễ sâm sẫm tối là đổ bộ kỵ binh lên phía trên thành phố một quãng. Đại bác thì đặt trên tàu. Đến tảng sáng là nổ súng.
Khvêđin giao cho Ivan Ilyits chỉ huy đội bộ binh đổ bộ có nhiệm vụ đánh vỗ mặt vào thị xã từ bến tàu. Đến chập tối chiếc tàu tắt đèn đi men theo nhánh sông phụ dọc bờ đảo. Trong im lặng chỉ nghe tiếng người thủy thủ đang dò chiều sâu.
Đội du kích Pugatsôv cũng men bờ đi theo tàu. Đội của thành phố Khvalynxk đã được phát súng, nằm phục trên bãi cát. Têlêghin đi đi lại lại sát bờ sông, kiểm tra không cho ai hút thuốc hay nhóm lửa. Trong đêm tối chỉ nghe tiếng sóng dạt dào xô rất khẽ vào bờ cát. Không khí thoang thoảng mùi hoa đầm lầy. Mấy con muỗi bay vo ve. Tốp người nằm trên cát đã im hẳn.
Đêm càng về khuya càng tối sẫm lại, mượt như nhung và lốm đốm những vì sao. Từ thảo nguyên đưa lại mùi hăng hắc của ngải đắng, văng vẳng tiếng gáy đơn điệu của một con đa đa... Ivan Ilyits đi đi lại lại bên mé nước, cố xua cơn buồn ngủ.
Khi bóng đêm đã loãng dần, mất hẳn màu đen mượt như nhung, và xa xa bên kia sông đã có tiếng gà gáy sáng, trên mặt sông phủ một làn sương mỏng bắt đầu có tiếng guồng bánh vỗ xuống nước. Con tàu ghé vào bờ. Ivan Ilyits xem lại ổ đạn súng lục, xốc lại thắt lưng và đi dọc tốp người nằm giữa cát, lấy cái gậy vỗ vỗ vào chân họ:
- Các đồng chí, dậy đi.
Họ giật mình, ngơ ngác choàng dậy, co ro vì hơi lạnh, vẫn còn ngái ngủ, chưa hình dung được mình sắp phải làm gì... Nhiều người vục đầu xuống sông uống nước. Têlêghin khe khẽ hô mệnh lệnh. Trước hết phải có bao cát để xếp trên mạn tàu. Các chiến sĩ cởi áo sơ-mi buộc kín lại, nhồi cát vào rồi đặt dọc lan can tàu. Họ làm lặng lẽ, chẳng ai buồn đùa bỡn lúc này.
Trời bắt đầu hừng sáng. Công việc chuẩn bị đã xong. Khẩu đại bác - một khẩu sơn pháo nhỏ đã han rỉ - được đặt ở mũi tàu. Năm mươi chiến sĩ lên tàu nằm sau các bị cát. Khvêđin đứng cầm bánh lái:
- Mở hết tốc lực, tiến lên!
Nước ở dưới guồng bánh sôi lên sùng sục. Con tàu vòng qua đảo rất nhanh rồi theo nhánh chính tiến thẳng về phía thị xã. Ở đấy lác đác có mấy ánh đèn vàng vàng nhấp nháy. Phía sau nổi lên mờ mờ những đường viền tối sẫm của mấy dãy núi chìm trong đêm. Bây giờ tiếng gà gáy nghe đã rất to.
Ivan Ilyits đứng cạnh khẩu đại bác. Chàng không thể nào hình dung rằng chỉ lát nữa sẽ phải nổ súng vào cõi tĩnh mịch vĩnh hằng này. Người lính Khvalynxk đã xung phong làm nhiệm vụ chỉ mục tiêu cho đại bác, một người dáng dấp hiền lành, giống như một anh thầy lễ hay đi câu cá, cất tiếng nói dịu dàng:
- Đồng chí chỉ huy thân mến, có lẽ nên nã vào nhà bưu vụ một tí nhỉ? Nã đúng vào chính giữa ấy... Đồng chí có trông thấy không: có hai ngọn đèn vàng vàng đấy...
- Mục tiêu: nhà bưu vụ! - tiếng Khvêđin oang oang trong loa - khẩu đội chuẩn bị! Nhắm thẳng qua nòng!
Anh pháo thủ ngồi xổm xuống dòm qua nòng súng, hướng nó vào hai ngọn đèn, rồi nạp đạn. Anh ta quay sang Têlêghin nói:
- Đồng chí thân mến, đồng chí lùi ra một tí, nhỡ cái của nợ nó này nổ toác ra...
- Bắn! - Khvêđin hô to.
Khẩu đại bác phụt lửa ra sáng lòa, giật lùi lại. Tiếng nổ vang rền chuyền đi trên mặt nước, vọng vào vách đá. Gần chỗ có hai ngọn đèn vàng vàng bùng lên một ánh chớp, và tiếng nổ thứ hai lại vọng vào vách núi.
- Bắn, bắn! - Khvêđin vừa quay bánh lái vừa quát. - Hỏa lực khẩn trương bên mạn trái, bắn! Bắn dồn từng loạt vào lũ khốn kiếp, bắn!
Anh ta dẫm chân thình thình, cuống cuồng lên mồm tuôn ra từng tràng từ ngữ siêu việt. Từ bên mạn tàu, các chiến sĩ bắn loạn xạ. Bờ sông gần lại rất nhanh. Anh pháo thủ nạp đạn rất cẩn thận, rồi bắn phát nữa. Có thể trông thấy những mảnh gỗ của một cái nhà kho nào đấy bay tung lên. Bây giờ đã trông thấy rõ nét những ngôi nhà gỗ, những mảnh vườn, những cái tháp chuông.
Phía dưới, ở các bến tàu bắt đầu lóe lên những tia lửa mảnh ở đầu nòng súng trường phụt ra. Rồi cái âm thanh mà Têlêghin vẫn e sợ bỗng nổi lên: một khẩu đại liên bắt đầu gõ từng tràng rất rõ, rất vội. Theo một phản ứng quen thuộc, mấy ngón chân chàng bất giác bám chặt xuống, cứ như thể bao nhiêu vi ti huyết quản trong người chàng đều co lại. Têlêghin ngồi xổm bên khẩu đại bác chỉ cho người pháo thủ một tòa nhà dài trên một ngọn đồi thâm thấp.
- Anh thử cố rót cho trúng vào cái góc nhà kia, nơi có mấy bụi cây ấy...
- Ế - ề, - người pháo thủ nói, - cái nhà ấy đẹp thế mà... Thôi được, kệ xác nó.
Khẩu đại bác bắn phát thứ ba. Tiếng súng máy im bặt một phút, rồi lại bắt đầu gõ ở một chỗ khác, cao hơn. Con tàu quay đột ngột, tiến thẳng vào bến. Đạn từ trên bờ bắn xuống bay rất cao, phạt vào cột tín hiệu, vào ống khói.
- Không cần đợi cặp bến, nhảy xuống! - Khvêđin quát. - Anh em ơi, xung phong!
Gờ cầu trên bến kêu lên răng rắc. Têlêghin nhảy xuống nước. Quay về phía đội Khvalynxk đang trèo qua lan can tàu, chàng hô lớn:
- Theo tôi, xung phong!
Chàng chạy trên ván cầu lao bên bờ. Sau chàng là một đám đông chiến sĩ vừa xông lên vừa reo hò. Họ vừa chạy vừa bắn, luôn luôn vấp ngã. Bờ sông vắng tanh. Dường như có mấy bóng người chạy bổ vào những đám cây trong một mảnh vườn. Đây đó có những phát súng bắn từ các mái nhà xuống. Rồi từ rất xa; trên mấy ngọn đồi, một khẩu súng máy bắn mấy tràng cách quãng, im bặt một lát, rồi lại bắn vài tràng nữa. Quân địch đã rút lui, không ứng chiến.
Têlêghin thấy mình đang đứng trên một quảng trường gồ ghề. Chàng thở hổn hển, đưa mắt nhìn quanh, tập hợp các chiến sĩ lại. Hai bàn chân không của chàng rát buốt, chắc vừa rồi vấp phải đá nhọn. Không khí sặc mùi bụi. Những ngôi nhà gỗ ở trước mặt đóng cửa kín mít. Ngay đến những khóm lá cây tử đinh hương và xiêm gai cũng không động đậy. Trên bao lơn một ngôi nhà hai tầng ở góc phố, phía trên có cái tháp theo hình nhà tỉnh lẻ, có bốn cái quần lót phơi trên một sợi dây. “Kẻ cắp nó rút mất thôi!” - Têlêghin nghĩ thầm. Thành phố có vẻ như đang ngủ say, và tiếng súng, tiếng quát tháo, cuộc xung phong ban nãy dường như chỉ diễn ra trong giấc mơ.
Têlêghin hỏi xem nhà bưu vụ, sở điện báo, tháp nước ở đâu và phái những chi đội đến đấy, mỗi đội mười người. Các chiến sĩ đi trên phố, vẫn còn hồi hộp thủ thế, hễ nghe một tiếng động khẽ là nhảy lùi lại chĩa súng ra. Quân địch chẳng thấy bóng dáng ở đâu hết. Sáo sậu đã bắt đầu hót líu lo, và mấy đàn bồ câu từ các mái nhà cất cánh bay lên.
Têlêghin dẫn một chi đội đến chiếm lĩnh trụ sở ủy ban - một tòa nhà bằng đá cột đã long lở. Các cửa đều mở toang. Trong phòng đợi ngổn ngang những súng ống. Têlêghin đi ra bao lơn. Phía dưới là những vườn cây um tùm, những mái nhà đã từ lâu không sơn lại, những ngõ hẻm bụi bặm, vắng tanh. Một không khí tĩnh mịch của tỉnh xép. Rồi bỗng xa xa có tiếng chuông báo động giật giọng vang khắp thành phố. Từ nơi phát ra tiếng kêu cứu bằng đồng ấy bắt đầu vẳng lại những tiếng súng trường bắn dồn dập, những tiếng lựu đạn nổ, những tiếng quát tháo, tiếng vó ngựa nặng nề và tiếng hét kéo dài. Đó là quân kỵ binh đổ bộ của Zakharkin chặn đường quân địch đang rút vào núi. Rồi đoàn kỵ binh phi qua phố trong tiếng vó ngựa rầm rập. Và mọi vật lại chìm trong im lặng.
Ivan Ilyits thong thả đi ra bờ sông, xuống bến tàu báo cáo là đã chiếm lĩnh thị xã. Khvêđin nghe báo cáo xong, nói:
- Chính quyền xô viết đã được phục hồi. Ở đây ta chẳng có nhiệm vụ gì nữa. Nhổ neo đi thôi. - Anh ta thân ái vỗ vỗ lên lưng ông thuyền trưởng già đã gần chết khiếp: - Thế là bác đã được ngửi mùi thuốc súng rồi đấy nhé. Nó thế đấy, ông bác ạ... Xin giao lại quyền chỉ huy cho bác, bác trở lại vị trí đi.
Trong tiếng máy xình xịch và tiếng nước reo róc rách bên mạn tàu. Têlêghin ngủ một giấc kéo dài cho đến chiều... Trên sông lơ lửng một ánh hoàng hôn xâm xẩm, trong suốt. Phía lái, mấy người ngồi hát khe khẽ, tiếng hát tan dần vào khoảng không tĩnh mịch. Vẻ đẹp lộng lẫy của buổi hoàng hôn lan tràn một cách phí hoài lên hai dải bờ, lên mặt sông, rót vào đôi mắt, vào tâm hồn.
- Ê, các cậu, sao mà buồn thiu ra thế? Đã hát thì phải hát bài gì cho nó vui vui tí chứ! - Khvêđin quát. Anh ta cũng đã ngủ đẫy giấc, uống một cốc rượu mạnh và bây giờ đang đi bách bộ dọc boong trên, tay xốc lại thắt lưng. - Giá chiếm thêm Xyzran nữa nhỉ! Thế nào hở đồng chí Têlêghin? Được thế thì chúng nó phải lác mắt đấy nhỉ!...
Anh ta nhe bộ răng trắng nhởn ra cười ha hả. Anh này có đếm xỉa gì đến nguy hiểm, đến cái thi vị đượm buồn của những buổi hoàng hôn trên sông Volga, đến viên đạn cuối cùng đang đợi mình ở một nơi nào đấy, giữa chiến trường hay từ sau một góc nhà... Chỉ có một sức sống mãnh liệt sôi sục trong người. Boong tàu kêu lên cót két dưới đôi chân không của anh.
- Cứ đợi đấy, chẳng bao lâu nữa ta sẽ chiếm cả Xyzran lẫn Xamara, sông Volga sẽ về ta...
Ánh hoàng hôn như phủ một lớp tro. Con tàu không lên đèn. Bóng đêm đã phủ lên đôi bờ, xóa nhòa các đường nét. Khvêđin không biết tiêu phí sức lực vào đâu, bèn rủ Têlêghin đánh bài:
- Nào, không thích đánh ăn tiền thì đánh ăn vỗ mũi vậy... Có điều là đã vỗ thì vỗ cho ra hồn đấy nhé.
Họ ngồi trong ca-bin thuyền trưởng đánh bài. Khvêđin nóng nảy đánh sơ hở thế nào thua đến ba trăm phát “vỗ mũi”, nóng mặt lên toan ăn gian, nhưng Ivan Ilyits rất tinh mắt: “Không xong đâu, anh bạn ạ, chẳng ai ngốc thế đâu”. Rốt cục chàng thắng. Ngồi lại cho thật thoải mái trên chiếc ghế đẩu, Têlêghin bắt đầu lấy cỗ bài cáu bẩn vỗ đen đét từng phát lên mũi Khvêđin. Chỉ mấy phút mà cái mũi đáng thương ấy đã đỏ như củ cà-rốt.
- Cậu học được ở đâu cái kỹ thuật ấy đấy?
- Ở trại tù binh của Đức - Têlêghin nói. - Đừng có quay mõm đi. Hai trăm chín bảy.
- Này liệu đấy... Phải đánh cho gọn... Nếu không tớ lấy chày ra tớ nện lại thì đừng kêu...
- Bậy nào, đúng lệ là ba phát sau cùng phải kéo dài.
- Thì đánh đi, đồ xỏ lá...
Nhưng Têlêghin chưa kịp đánh thì ông thuyền trưởng đã bước vào ca-bin, hàm run lên bần bật. Chiếc mũ lưỡi trai ông ta cầm ở tay. Trên cái trán hói bủng beo mồ hôi cứ đổ hột ra.
- Tùy các ngài đấy, các ngài đồng chí ạ, - ông ta nói, giọng tuyệt vọng. - Tôi xin sẵn sàng chịu hết... Nhưng các ngài muốn làm gì thì làm, chứ tôi không cho tàu đi nữa đâu... Đi là chết chắc chắn mười phần...
Khvêđin và Têlêghin bỏ bài đi ra ngoài boong. Về phía trước ở bên mạn trái, ánh đèn điện ở Xyzran sáng lấp lánh như một quần sao. Một chiếc tàu chiến rất lớn, thắp đèn sáng trưng, đang thong thả đi dọc bờ sông. Nhìn bằng mắt trần cũng có thể trông thấy lá cờ chữ thập chéo của hải quân Nga hoàng ở sau lái, những đường thẳng uy nghi của mấy khẩu đại bác và bóng mấy viên sĩ quan đang đi đi lại lại trên boong.
- Tôi không thể quay trở lại được các đồng chí ạ, - Khvêđin thì thầm. - Dù có thế nào cũng phải đi qua cho được. Cố ngược lên đến Batraki bỏ neo; sẽ dở hàng ở đấy...
Khvêđin ra lệnh cho toàn đội xuống hầm tàu, sẵn sàng chiến đấu. Họ kéo cờ ba sắc lên cột tín hiệu, bật các đèn hiệu lên. Trên chiến hạm đã trông thấy chiếc tàu kéo. Họ huýt mấy tiếng còi ngắn ra lệnh giảm tốc độ. Một giọng trầm gọi loa sang:
- Tàu của ai? Đi đâu?
- Tàu kéo “Thương nhân Kalasnikôv”. Đi Xamara, - Khvêđin đáp.
- Sao mãi mới bật đèn lên?
- Sợ bọn bolsêvik - Khvêđin hạ loa xuống nói khẽ với Têlêghin: - Chà, giá có quả ngư lôi nhỉ... Tôi đã viết về Axtrakhan, bảo gửi ngư lôi về... Thế mà họ cứ lờ tịt đi...
Sau một phút im lặng, từ bên chiến hạm thấy trả lời sang:
- Cho đi tiếp.
Ông thuyền trưởng tay run lẩy bẩy đội mũ lưỡi trai lên. Khvêđin nhe răng, nheo nheo đôi mắt nhìn những ngọn đèn trên chiến hạm. Đoạn anh ta nhổ nước bọt, đi vào ca-bin. Trong khi châm thuốc hút, anh ta đánh gẫy mấy que diêm liền.
- Nào đánh nốt đi nào, đồ quỉ! - anh ta bảo Têlêghin.
Một giờ sau Xyzran đã tụt lại phía sau. Gần đến Batraki họ cho một chiếc xuồng đưa Têlêghin vào bờ. Chàng ra ga Batraki, lên chuyến tàu mười hai giờ, và đến năm giờ chiều thì xuống ga Xamara, tìm đến nhà bác sĩ Bulavin. Chàng đã lại mặc chiếc áo quân phục nhàu nát có đính lon trung tá. Tay gõ nhè nhẹ lên thân ủng chiếc gậy nhỏ mà chàng đã dùng để đánh thức mấy người du kích ở Khvalynxk, chàng vừa đi vừa đọc một cách hết sức tò mò, như đang ngắm một cái gì đã không trông thấy từ lâu, những tấm áp-phích quảng cáo của nhà hát, những bản hiệu triệu, những tờ yết thị. Tất cả đều viết bằng hai thứ tiếng: tiếng Nga theo chính tả cũ, và tiếng Tiệp...
* * *
Tay cầm cốc nước chanh, Đmitri Xtêpanôvits Bulavin đứng dậy, rút tấm khăn ăn ra khỏi cổ áo gi-lê, môi nhóp nhép mấy cái cho thêm chững chạc, rồi bằng cái giọng quan trọng và thâm trầm mà ông đã có được trong thời gian làm thứ trưởng gần đây, ông mở đầu bài diễn văn:
- Thưa các ngài, xin các ngài cho phép tôi cũng được ngỏ mấy lời...
Bữa tiệc này do các nhân vật đại diện cho thành phố tổ chức để chào mừng cuộc hành quân thắng lợi của quân đội. Quốc hội lập hiến đang tiến về phía bắc Ximbirxk, và thành Kazan đã chiếm xong. Quân bolsêvik chừng như đã mất hẳn vùng trung lưu sông Volga. Ở gần Mêlêkes, những tàn dư của Quân đoàn kỵ binh đỏ, gồm ba nghìn rưỡi tay kiếm, đã phải mở con đường máu vượt ra khỏi vòng vây. Ở thành phố Kazan đã bị quân Tiệp tiến đánh chớp nhoáng, người ta tịch thu được hai mươi bốn nghìn pút vàng trị giá 600 triệu rúp - hơn một nửa số vàng dự trữ của nhà nước. Sự kiện này trọng đại và có vẻ hoang đường đến nỗi lúc bấy giờ người ta vẫn chưa quan niệm hết được những hậu quả khó lường nổi của nó.
Số vàng ấy đang ở trên đường đến Xamara. Nó chưa dứt khoát thuộc về quyền sử dụng của ai cả, nhưng hình như quân Tiệp đã quyết định giao nó cho ủy ban các thành viên Quốc hội lập hiến ở Xamara. Giới thương gia Xamara có một quan điểm riêng về số phận của mớ vàng ấy, nhưng hiện chưa phát biểu nó ra. Còn mối thiện cảm đối với quân Tiệp, kẻ đã chiến thắng oanh liệt trong chiến dịch vừa qua, thì đã đạt đến mức tột cùng của sự nồng nhiệt.
Bữa tiệc rất đông đúc và náo nhiệt. Các cô các bà của giới xã giao Xamara, trong đó có những ngôi sao sáng như Arzanôva, Kurlina và Sêkhôbalôva, những bà chủ của những nhà máy xay bột năm tầng, của những kho lúa mì, những công ty tàu thủy và những điền trang màu mỡ rộng hàng huyện, - các cô các bà đều đeo đầy những kim cương mỗi hạt to bằng một quả dẻ, mặc những bộ y phục nếu không được hợp thời trang cho lắm thì dù sao trước đây cũng đã được đưa từ Pari và Viên về; họ như một khóm hoa tươi cười vây quanh người anh hùng của thời sự là đại úy Tsetsek người chỉ huy quân đội Tiệp. Cũng giống như tất cả các vị anh hùng khác, ông ta cực kỳ giản dị và xuề xòa. Của đáng tội, với cái thân hình to béo của ông, ông cũng hơi thấy nóng bức, cái cổ áo quân phục may rất đẹp của ông cứ thít vào cái cổ đỏ gay, nhưng gương mặt trẻ trung hồng hào với bộ ria màu hung tỉa ngắn, với đôi mắt sáng long lanh, cứ như chào mời các cô các bà hôn vào cả hai cái má đỏ ong của ông. Nụ cười quyến rũ mê hồn không lúc nào rời môi ông, cứ như thể ông gạt xa mọi thứ vinh quang, danh vọng, cứ như thể sự có mặt của các cô các bà ở xung quanh đối với ông còn thú vị gấp nghìn lần tiếng sấm chiến thắng và công đánh chiếm các tỉnh lỵ với những đoàn tàu chở đầy vàng.
Ngồi đối diện với đại úy là một sĩ quan đứng tuổi, người đẫy đà, vai đeo dây lụa tết bím màu trắng. Cái sọ hình quả trứng của ông ta nhẵn nhụi và đồ sộ như thành trì của quyền lực. Trên cái mặt phì nộn cạo nhẵn, đáng chú ý hơn cả là đôi môi dày: những cơ thịt đều đặn quanh mồm ông ta cử động liên tục vì ông ta cứ ngồi nhai không lúc nào ngớt, mắt chăm chú nhìn các đĩa thức ăn nguội. Cái cốc nhỏ lọt thỏm trong bàn tay phốp pháp của ông: có thể thấy rõ rằng ông ta quen cầm cốc vại hơn. Ông ta uống từng ngụm ngắn, đầu hất ra phía sau. Đôi mắt gấu màu thiên thanh, nhỏ và thông minh của ông không dừng lại ở một người nào, cứ như thể ở đây ông phải luôn luôn thủ thế. Các tân khách quân nhân thường nghiêng người về phía ông với một vẻ chăm chú đặc biệt. Đó là một vị khách mới, một anh hùng của giới cô-dắc vùng Ural, thủ lĩnh Đutôv ở Ôrenburg.
Cách Đutôv không xa, một người mặc áo ja-két màu xám nhạt, bên trong là một chiếc sơ-mi trắng tinh, ngồi giữa hai người phụ nữ xinh xắn, một người tóc vàng, và một người tóc hạt dẻ. Đó là me-xừ Jannô, đại sứ Pháp. Cái mặt choăn choắt của ông ta, với bộ ria rất bảnh và cái mũi nhọn, mang rõ những vết tích của một cuộc đời trác táng. Ông ta nói giọng cổ liến thoắng, khi thì nghiêng người liếc trộm đôi vú để hở một nửa của cô tóc hạt dẻ (vì tội này ông ta đã bị cô ta lấy cái hoa đánh một phát vào tay), khi thì lại chạm vào cái vai tròn màu hồng mịn nõn nà của cô tóc vàng đang cười rú lên như thể bị ông ta cù. Cả hai cô đều nghe được tiếng Pháp, nhưng chỉ khi nào nói chậm. Có thể thấy rõ rằng những món hấp dẫn trên người hai cô đã làm cho ông Jannô đáng thương ấy mất trí. Tuy vậy điều đó cũng không cản trở ông thừa những lúc hưu chiến ngắn ngủi quay sang nói chuyện với ông chủ nhà máy xay Brykin bệ vệ mới ở Ômxk tới, hay nâng cốc ca ngợi những chiến công anh hùng của thủ lĩnh Đutôv. Sự quan tâm của me-xừ Jannô đối với bột mì Xibiri, đối với thịt và bơ Ôrenburg cho thấy rõ tấm lòng tận tụy nhiệt thành của ông đối với phong trào chống cộng; vào những lúc khó khăn về lương thực. đại sứ Pháp bao giờ cũng có thể đề nghị chính phủ nhận cho dăm chục toa bột và những thứ khác... Lúc bấy giờ cũng có những đầu óc hoài nghi khẳng định rằng lẽ ra chính phủ cũng nên đề nghị me-xừ Jannô trình những quốc thư ủy nhiệm toàn quyền, như bất cứ chính phủ nào biết tự trọng đều phải làm... Nhưng chính phủ đã chọn một đường lối khôn khéo hơn: hoàn toàn tin cậy vào đồng minh.
Bên bàn tiệc còn có một nhân vật ngoại quốc đáng chú ý nữa, đó là xinhor Piccôlômini (ông ta quả quyết rằng đó là tên thật của mình), một người có nước da ngăm ngăm đen, đôi mắt linh lợi. Ông đại diện một cách khá mơ hồ cho quốc gia Ý-đại-lợi, cho nhân dân Ý. Chiếc áo phẩm phục ngắn màu thiên thanh của ông có thêm một đường ngân tuyến, trên hai vai rung rinh hai bộ ngù vai cấp tướng. Ông đang thành lập ở Xamara một tiểu đoàn đặc biệt gồm toàn người Ý. Chính phủ chỉ biết so vai: “Ông ta tìm đâu ra được người Ý ở cái xứ này? Có ma nó biết”. Nhưng được cái ông ta đưa tiền cẩn thận: dù sao cũng là đồng minh. Trong các giới tư sản, ông ta chẳng có tín nhiệm gì lắm.
Trong bữa tiệc này không có vị đại biểu nào của chính phủ ngoài hai nhân vật không đảng phái là bác sĩ Bulavin và ông phó trưởng ban phản gián, Xemiôn Xemiônôvits Gôvyađin, một người đã leo lên khá cao trên thang công danh. Cái thời kỳ mà hai bên đang nhiệt thành tâng bốc nhau, khi hãy còn phải lật đổ phe bolsêvik, nay đã qua rồi. Chính phủ của ủy ban lập hiến - gồm toàn những đảng viên xã hội cách mạng kiên định - tán dương các thành quả của cách mạng một cách huyền hoặc đến nỗi chỉ có người Tiệp, vốn không hiểu đầu cua tai nheo gì về những công việc của nước Nga, mới còn có thể tin họ được. Dĩ nhiên trong giai đoạn đầu, khi đang đảo chính và đang cần phải làm cho thợ thuyền và mu-gích yên tâm, một chính phủ xã hội cách mạng cũng là một điều rất hay ho nữa là khác. Bản thân giới thương nhân Xamara đã lặp lại những khẩu hiệu xã hội cách mạng. Nhưng giờ đây sông Volga đã được giải phóng từ Khvalynxk cho đến Kazan, Đênikin đã chinh phục được gần hết miền bắc Kavkaz, Kraxnôv đang tiến về Txaritxyn, Đutôv đã quét sạch vùng Ural, và ở Xibiri mỗi ngày lại xuất hiện thêm những thủ lĩnh chống cộng đáng sợ - ấy thế mà những anh chàng khố rách đầu bù đang ngồi chễm chệ trong tòa lâu đài tráng lệ của đại biểu Quý tộc vùng Xamara - những Volxki, Brusvit, Klimuskin và đồng bọn - vẫn chưa yên tâm được: họ vẫn tìm cách nào đưa đến Quốc hội Lập hiến kia!... Đến chán! Thế là giới đại thương gia bắt đầu cương quyết chuyển sang những khẩu hiệu khác, giản dị hơn, mạnh hơn, dễ hiểu hơn...
Đmitri Xtêpanôvits nói, chủ yếu là để cho các vị khách ngoại quốc nghe:
- ...Con rắn đã mất nọc rồi. Cái sự kiện phi thường, có ý nghĩa đột biến này chưa được đánh giá đúng mức... Tôi muốn nói đến cái món sáu trăm triệu rúp ngày nay đã lọt vào tay chúng ta... (Hai cái ria của ông Jannô vểnh ngược lên. “Bravô”. - Ông reo to, tay lắc lắc cái cốc; mắt ông Piccôlômini nẩy lửa lên như mắt quỷ). Cái nọc vàng của bọn bolsêvik đã bị rút đi rồi, thưa các vị... Chúng còn có thể cắn được, nhưng chẳng còn chết ai. Chúng có thể dọa, nhưng chẳng ai sợ chúng nữa: chẳng qua cũng chỉ như thằng ăn mày què vung cái nạng lên dọa trẻ con... Chúng không còn vàng nữa, không còn gì nữa hết, ngoài cái bàn in bạc giấy...
Brykin, ông lái buôn ở Ômxk, bỗng há hốc mồm ra cười ha hả khi nghe xong câu này, rồi vừa lấy khăn ăn lau cổ vừa lẩm bẩm: “Chao ôi, tình hình, tình hình như thế thì...”.
- Thưa các ngài đại diện ngoại quốc - bác sĩ Bulavin nói tiếp, và trong giọng nói của ông có xen vào những tiếng thép mà trước đây không hề thấy có, - thưa các ngài đồng minh. Tình hữu nghị là một chuyện, tiền bạc là một chuyện. Mới hôm qua đây, đối với các ngài chúng tôi hãy còn là một tổ chức con rối, một thứ cấu tạo tạm bợ nào đấy, cũng ví như một cái u nổi lên một cách tất nhiên sau khi bị một vố nặng... (Tsêtsek cau mày, me-xừ Jannô và Piccôlômini phác những cử chỉ bất bình... Đmitri Xtêpanôvits mỉm một nụ cười ranh mãnh). Nhưng ngày nay thì cả thế giới đều biết rằng chúng tôi là một chính phủ có uy tín, chúng tôi là kẻ nắm giữ ngân khố quốc gia. Bây giờ thì chúng ta có thể thỏa thuận với nhau được, thưa các ngài đại diện ngoại quốc... (ông ta giận dữ gõ khớp ngón tay xuống bàn). Giờ đây tôi nói với tư cách một cá nhân giữa những cá nhân, trong một khung cảnh cực kỳ thân mật. Nhưng tôi đã thấy trước tất cả tầm quan trọng của những tư tưởng tôi vừa phát biểu ra...Tôi đã thấy trước những chuyến tàu thủy chở vũ khí và công nghệ phẩm đang tiến vào các bến tàu Nga... Tôi đã thấy trước những đạo bạch quân khổng lồ mọc lên khắp nơi. Tôi đã thấy trước thanh gươm trừng phạt tàn khốc bổ xuống đầu lũ kẻ cướp đang xưng hùng xưng bá trên đất Nga này... Sáu trăm triệu là một sức mạnh đủ để thực hiện những điều đó... Thưa các ngài đại diện ngoại quốc! Hãy giúp đỡ, hãy giúp đỡ một cách rộng rãi và đại lượng những người đại diện hợp pháp của nhân dân Nga!
Ông đưa cốc lên môi nhấp một ngụm rồi ngồi xuống thở phì phò, mặt cau có... Các tân khách vỗ tay nhiệt liệt. Ông lái buôn Brykin kêu lên:
- Cám ơn ông bạn... Thế mới đúng đấy, ông bạn ạ, thế mới đúng kiểu của chúng ta, không pha chủ nghĩa xã hội vào làm gì hết!
Tsêtsek đứng dậy, xốc lại nịt lưng bằng một động tác gọn ghẽ:
- Tôi sẽ nói rất ngắn... Chúng tôi đang hiến dâng và sẽ tiếp tục hiến dâng đời mình cho hạnh phúc của những người anh em cùng huyết tộc của chúng tôi: người Nga... Nước Nga vĩ đại, hùng cường muôn năm!
Đến đây cả bàn tiệc rung lên (theo nghĩa đen) vì những tiếng vỗ tay rầm rộ, những cánh tay phụ nữ xinh xắn vươn dài ra, vỗ đôm đốp giữa mấy lọ hoa.
Me-xừ Jannô đứng dậy. Mái đầu ông ta ngửa ra một cách tôn quý, bộ ria tuyệt mỹ làm cho gương mặt của ông thêm phần rắn rỏi, can trường:
- Mesdames et messieurs [Các quý bà và các quý ông - tiếng Pháp]! Chúng ta đều biết rằng quân đội Nga cao quý, vốn luôn luôn mơ tưởng đến vinh quang của các bậc tiền bối của họ, đã bị bọn bolsêvik lừa dối một cách xảo quyệt. Chúng tiêm nhiễm vào quân đội Nga những tư tưởng phản tự nhiên và những bản năng mông muội, cho nên quân đội ấy đã không còn là một quân đội nữa. Mesdames et messieurs, tôi xin thú thật là có một thời kỳ nước Pháp đã dao động trong niềm tin đối với lòng chân thành của nhân dân Nga... Cơn ác mộng ấy nay đã bị xua tan rồi... Ngày nay, ở đây chúng ta đã thấy rằng không phải như thế, một nghìn lần không! Nhân dân Nga lại ở bên cạnh chúng tôi... Quân đội đã nhận thức được những sai lầm của mình... Trang dũng sĩ bogatyr Nga giờ đây lại sẵn sàng ưỡn ngực ra trước làn đạn của kẻ thù chung của chúng ta... Tôi rất sung sướng với niềm tin mới mẻ của tôi.
Khi những tiếng vỗ tay đã ngớt, Piceôlômini đứng bật dậy, đôi ngù vai rườm rà rung lên lấp lánh. Vì trong cử tọa không có ai biết tiếng Ý, cho nên mọi người chỉ biết tin rằng ông ta ủng hộ mình, và ông lái buôn Brykin đến ôm hôn con người đen đủi và nhỏ bé ấy. Sau đó là những diễn văn của các đại biểu giới tư bản. Giới thương nhân phát biểu một cách lờ mờ và rối rắm, họ hướng về Xibiri nhiều hơn, vì họ cho rằng sự giải thoát sẽ từ đấy mà đến với họ. Cuối cùng người ta nài thủ lĩnh Đutôv nói đôi lời...Ông ta chối đây đẩy: “Ờ chịu thôi, tôi là con nhà võ, không biết nói gì đâu...”.
Tuy vậy ông ta cũng nặng nề đứng lên trong khi cử tọa lập tức im lặng, thở dài một tiếng rồi nói:
- Thì... cũng thưa các ngài! Đồng minh có giúp ta, thì cũng tốt, không giúp thì ta sẽ tìm cách tự lực dẹp bọn bolsêvik. Miễn là có tiền... Đấy, thưa các ngài, xin các ngài đừng xén cụt cánh của chúng tôi.
- Cứ lấy đi, thủ lĩnh ạ, lấy cả tấm thân chúng tôi, cả gan ruột chúng tôi đi cũng được, chúng tôi chẳng tiếc gì đâu, - Brykin gào lên, lòng hân hoan đến cực độ.
Bữa tiệc đã thành công. Sau phần long trọng, họ dọn cà-phê đen, thêm cả cô-nhắc ngoại và rượu mùi. Đêm đã khuya. Đmitri Xtêpanôvits chuồn theo kiểu Anh, không chào ai cả.
Khi Đmitri Xtêpanôvits xuống xe đi vào nhà mở cửa trước, một sĩ quan bước nhanh tới cạnh ông.
- Xin lỗi, ông có phải là bác sĩ Bulavin không ạ?
Đmitri Xtêpanôvits nhìn kỹ người lạ mặt. Lúc bấy giờ trên phố tối om, cho nên ông chỉ nhìn ra được đôi lon trung tá. Ông nhóp nhép đôi môi mấy cái rồi trả lời:
- Vâng, tôi là Bulavin.
- Tôi cần gặp ông có một việc rất quan trọng... Tôi hiểu rằng giờ này không được tiện... Nhưng tôi đã ghé nhà bấm chuông đến ba lần.
- Ngày mai ông đến bộ từ mười một giờ trở đi.
- Tôi van ông, xin ông cho tôi gặp bây giờ, vì tôi phải đi chuyến tàu thủy đêm nay.
Đmitri Xtêpanôvits lại im lặng. Trong phong thái của người lạ mặt có một cái gì hết sức thiết tha và bồn chồn lo lắng. Bác sĩ so vai:
- Xin nói trước là nếu về việc xin trợ cấp thì không thuộc quyền tôi đâu.
- Ồ không đâu ạ, tôi không cần trợ cấp đâu ạ!
- Hừm... Mời ông...
Từ gian phòng ngoài, Đmitri Xtêpanôvits đi trước vào phòng làm việc và lập tức đóng cánh cửa dẫn vào các phòng trong lại. Ở phía trong ấy có ánh đèn: có thể thấy rõ trong nhà còn có người chưa đi ngủ. Rồi bác sĩ ngồi vào bàn giấy, chỉ cho khách một chiếc ghế ở trước mặt, hầm hầm nhìn chồng giấy đang đợi lấy chữ ký ở trên bàn, đan mười ngón tay vào nhau:
- Nào, ông cần hỏi việc gì?
Viên sĩ quan áp mũ lưỡi trai vào ngực và nói khẽ, trong giọng có một âm sắc dịu dàng, thiết tha:
- Đasa ở đâu?
Bác sĩ lập tức ngồi thẳng dậy, tựa đầu lên cái lưng ghế chạm trổ. Bây giờ ông mới nhìn vào mặt người khách. Cách đây hai năm Đasa có gửi về một bức ảnh chụp lấy, có hình hai vợ chồng nàng. Đúng là người này. Bác sĩ chợt tái mặt đi, đôi mi dưới run lên. Ông ta hỏi, giọng khản đặc:
- Đasa à?
- Vâng... Tôi là Têlêghin.
Và nhìn vào mắt bác sĩ, chàng cũng tái mặt đi. Đmitri Xtêpanôvits đã trấn tĩnh lại. Nhưng ông không hề có cái thái độ niềm nở tự nhiên của một người được gặp con rể lần đầu tiên trong đời, mà lại vung hai tay lên thanh một cử chỉ rất kịch, phát ra một tiếng ư ử như thể đang nén một tiếng cười:
- A ra thế... Anh là Têlêghin... Thế dạo này anh thế nào?
Chắc vì quá đột ngột, ông ta cũng chẳng bắt tay Ivan Ilyits nữa. Ông đeo kính cặp mũi lên (không phải cái kính gọng kền đã rạn mặt ngày trước, mà là một cái kính gọng vàng rất chững chạc), rồi hấp tấp kéo ra đẩy vào cái ngăn kéo đầy giấy tờ một lúc, không biết để làm gì. Têlêghin, chẳng hiểu ra làm sao hết, sửng sốt nhìn theo những động tác của ông ta. Trước đây một phút chàng sẵn sàng kể hết chuyện mình cho Đmitri Xtêpanôvits - một người nhà, một người cha... Nhưng bây giờ chàng nghĩ: “Có trời biết được như thế nghĩa là thế nào - có lẽ ông ta cũng đoán... Có lẽ mình đã đặt ông ta vào một tình thế rất gay go: dù sao cũng là một ông bộ trưởng...”. Chàng cúi đầu, lần này nói rất khẽ:
- Đmitri Xtêpanôvits ạ, đã hơn nửa năm nay tôi không được gặp Đasa, thư không đến nơi... Tôi không được biết Đasa ra sao cả.
- Vẫn sống, vẫn sống, khỏe mạnh! - bác sĩ cúi xuống lục cái ngăn kéo cuối cùng, người gần lấp hẳn sau bàn giấy.
- Tôi ở trong quân tình nguyện. Tôi chiến đấu với cộng sản từ tháng ba đến nay. Hiện nay bộ tham mưu cử tôi đi công tác ở miền bắc, có giao một nhiệm vụ bí mật.
Đmitri Xtêpanôvits nghe chàng nói, vẻ hết sức ngỡ ngàng, rồi khi nghe mấy tiếng “nhiệm vụ bí mật” một nụ cười thoáng hiện dưới chòm ria của ông ta.
- À, ra thế, ra thế... Anh ở trung đoàn nào?
- Trung đoàn Xolđatxki ạ - Têlêghin cảm thấy máu dồn lên mặt.
- À... Té ra trong Quân đoàn tình nguyện có một trung đoàn tên như thế nhỉ. Anh ghé nhà chúng tôi có được lâu không ạ?
- Đêm nay tôi phải đi.
- Rất tốt. Cụ thể là đi đâu ạ? À xin lỗi nếu là bí mật quân sự thì xin miễn trả lời... Nói cách khác, anh đi làm công tác phản gián chứ gì?
Giọng Đmitri Xtêpanôvits nghe kỳ dị đến nỗi Têlêghin, tuy đang bồi hồi xúc động đến cùng cực, cũng phải giật mình chột dạ. Nhưng lúc ấy bác sĩ đã tìm ra cái vật nãy giờ ông cố tìm:
- Vợ anh rất khỏe mạnh... Đây có cái này có liên quan đến anh (Bác sĩ vứt ra trước mặt Têlêghin mấy tờ giấy chi chít những dòng chữ viết rất to của Đasa. Những nét chữ không đều, những nét chữ vô giá này cứ nhòa đi trước mắt Ivan Ilyits), Xin lỗi, tôi phải vào trong nhà một chút. Anh cứ ngồi cho thoải mái mà đọc nhé.
Bác sĩ ra ngay, đóng cửa lại. Câu nói cuối cùng mà Ivan Ilyits nghe được là một câu của bác sĩ trả lời một người nhà nào đấy:
-... Không, có ai đâu... à, một người đến hỏi việc...
Từ phòng ăn, bác sĩ đi vào một dãy hành lang tối, có đặt một cái máy điện thoại kiểu cũ. Ông đứng quay mặt vào tường, quay máy rồi khe khẽ hỏi số điện thoại của ban phản gián và yêu cầu gọi Xêmiôn Xêmiônôvits Gôvyađin ra máy.
Bức thư của Đasa viết bằng bút chì tím, càng về sau chữ càng to và phần cuối dòng càng chúc xuống.

“Ba ơi, con không biết rồi con sẽ ra sao... Cái gì cũng rối ren, mờ mịt quá... Ba là người duy nhất mà con có thể viết thư được... Con đang ở Kazan... Có lẽ đến ngày kia con sẽ lên đường, nhưng không biết có về được với ba không? Con rất muốn gặp ba. Ba sẽ hiểu hết. Ba khuyên như thế nào, con sẽ làm như thế... Con mà còn sống cũng là kỳ lạ... Con cũng không biết nữa - có lẽ sau cái việc đã xảy ra, con đừng sống nữa là hơn... Tất cả những điều người ta nói với con, người ta nhồi vào óc con, đều là dối trá, là một sự bỉ ổi phơi trần ra một cách vô liêm sỉ... Ngay cả Mikanor Yuriêvits Kulitsek cũng vậy... Con đã tin hắn, con đã nghe lời xúi giục của hắn mà đi Moxkva (khi nào gặp ba con sẽ kể chi tiết từ đầu). Thế mà ngay đến hắn ta hôm qua cũng nói trắng ra với con nguyên văn như thế này: “Ngoài kia người ta đang bắn hàng loạt, rồi đem lùa từng đống xuống đất; một viên đạn súng trường, đấy giá trị một con người chỉ có thế, cả thế giới đang sặc sụa trong máu, thế mà tôi lại còn phải giữ lễ nghi với cô nữa sao. Những người khác thì ngay điều đó họ cũng chẳng thèm nói nữa, mà cứ thế lôi thẳng cô vào giường”. Con đã chống cự, ba ạ, ba hãy tin con... Con không thể chỉ là một món tráng miệng sau một cốc rượu mạnh. Con chỉ còn giữ được có thế, mà bây giờ lại đem quẳng nốt đi, thì như thế nghĩa là chút ánh sáng cuối cùng sẽ tắt, và chỉ còn cách cho đầu vào thòng lọng nữa mà thôi. Con đã cố gắng tìm việc có ích mà làm. Ở Yarôxlavl con đã làm việc ba ngày dưới làn đạn với tư cách nữ y tá... Đêm ấy tay con đầy máu me, áo con cũng đầy máu me, con cứ thế nằm vật ra giường... Chợt có ai kéo váy con lên. Con choàng dậy kêu to. Một sĩ quan trẻ măng, bộ mặt của hắn lúc ấy, thật không thể nào quên được! Hắn như đã hóa thành thú vật, hắn chồm lên người con, im lặng nắm lấy hai tay con vặn trái ra... Thằng khốn nạn! Ba ạ, con đã lấy súng lục bắn hắn con cũng không hiểu việc ấy xẩy ra như thế nào nữa. Hình như hắn ngã vật ra - lúc bấy giờ con chẳng còn trông thấy gì nữa. Con không nhớ... Con chạy ra phố: trời đã rực lên, cả thành phố đang cháy, đạn đại bác nổ ầm ầm... Không biết tại sao con không phát điên trong đêm ấy! Và lúc bấy giờ con đã quyết định: trốn đi, trốn đi... Con muốn ba hiểu con, giúp con... Con muốn trốn ra khỏi nước Nga. Con có phương tiện để đi trốn... Nhưng xin ba giúp con thoát khỏi Kulitsek. Hắn theo con khắp nơi, nghĩa là hắn cứ lôi con đi với hắn khắp nơi, và đêm nào cũng lại dở cái chuyện ấy ra. Nhưng dù hắn có giết, con cũng không đời nào chịu...”

Ivan Ilyits dừng lại, thở một hơi dài, rồi chậm rải giở sang trang:

“Con tình cở có được một số báu vật rất đắt tiền... Trước mặt con ở cạnh cổng Nikitxki có một người bị tàu điện chẹt chết. Người ấy chết cũng vì con, con biết như thế... Khi con tỉnh dậy thì trong tay con có một chiếc va ly nhỏ bằng da cá sấu: chắc khi người ta khiêng con đi, có ai đã đút nó vào tay con... Mãi đến hôm sau con mới tò mò mở ra xem: chiếc va ly có đựng những đồ tư trang bằng kim cương và bằng ngọc trai. Những vật này, người ấy đã lấy trộm ở đâu đấy... Người ấy đi tàu điện đến chỗ hẹn gặp con... Ba có hiểu không? Người ấy lấy trộm để cho con... Ba ạ, con chẳng muốn phân tích phải trái, luật lệ gì ở đây hết - con đã giữ lại những vật ấy... Bây giờ nó là cách cứu vãn duy nhất của con. Nhưng nếu ba có chứng minh cho con thấy rằng con là một con ăn cắp, thì con vẫn cứ giữ... Con đã trông thấy cảnh chết chóc quá nhiều, cho nên con muốn sống... Con không còn tin ở dung mạo con người nữa... Những con người tuyệt vời luôn mồm nói chuyện cứu nước ấy chỉ là những kẻ đểu cáng, những con thú dữ... Ôi, con đã thấy những gì! Chúng nó thật đáng muôn đời nguyền rủa! Ba có hiểu không, lại xảy ra một chuyện như thế này: có một hôm Nikanor Yuriêvits đột nhiên đến tìm con rất khuya, hình như từ Pêtrôgrađ đến thẳng nhà con thì phải... Hắn đòi con phải rời Moxkva đi với hắn ngay. Té ra tổ chức của bọn hắn, “Liên minh bảo vệ tổ quốc và tự do” đã bị Tseka phát giác, và ở Moxkva đang có những vụ bắt bớ hàng loạt. Xavinkôv và cả bọn tham mưu của hắn chạy về vùng Volga. Ở đấy họ định tổ chức khởi nghĩa ở Rybinxk, ở Yaroxlavl và ở Murôm. Họ vội lắm: đại sứ Pháp không chịu đưa tiền nữa, đòi phải chứng minh thế lực của tổ chức bằng hành động. Họ hy vọng rằng tất cả tầng lớp nông dân sẽ chuyển sang phía họ hết. Nikanor Yuriêvits cho rằng ngày tận số của bọn bolsêvik đã sắp đến, - cuộc khởi nghĩa sẽ bao trùm hết miền Bắc, cả vùng bắc Volga, và nghĩa quân của bọn họ sẽ hợp được với quân Tiệp. Kulitsek quả quyết nói rằng tên con có ghi trong các danh sách của tổ chức, cho nên ở lại Moxkva rất nguy hiểm. Thế là con theo hắn đi Yaroxlavl.
Ở đấy mọi việc đã được chuẩn bị xong xuôi: trong quân đội, trong dân vệ, trong kho quân giới: đâu đâu thủ trưởng cũng là người của tổ chức do họ đưa vào cả. Kulitsek và con đến Yaroxlavl vào chập tối. Đến tờ mờ sáng con bừng tỉnh vì tiếng súng. Con chạy ra cửa sổ... cửa sổ này trông ra sân, phía trước là bức tường gạch của nhà ga-ra, một đống rác và mấy con chó đang chõ ra cổng mà sủa... Tiếng súng không thấy nổ lại nữa, xung quanh im phăng phắc, chỉ ở xa xa có tiếng xe bình bịch chạy và bóp còi giật giọng... Rồi bắt đầu nổi lên một hồi chuông dài vang khắp thành phố: tất cả các nhà thờ đều kéo chuông. Cổng sân nhà con trọ mở toang ra, và một nhóm sĩ quan kéo vào, họ đều đã đeo lon lên cả. Mặt người nào cũng bừng bừng khích động, tay người nào cũng cầm súng khoa lên. Họ áp giải một người to lớn mặc áo vét-tông xám, mặt cạo nhẵn. Người ấy không đội mũ, áo sơ-mi không đính cổ, áo gi-lê không cài khuy. Mặt người ấy đỏ bừng, giận dữ. Họ đánh vào lưng người ấy, làm cho đầu người ấy lắc mạnh. Người ấy giận điên lên. Hai sĩ quan đứng hai bên ga-ra giữ người ấy, còn thì đi tách ra một quãng bàn bạc gì với nhau. Vừa lúc ấy từ cửa sau nhà trọ, đại tá Perkhurôv bước ra - con trông thấy ông ta lần ấy là lần đầu -, ông ta là người đứng đầu tất cả các lực lượng võ trang của cuộc khởi nghĩa... Tất cả sĩ quan trong sân đều đứng nghiêm chào ông ta. Đó là một con người có nghị lực phi thường - mắt đen, rất sâu, mặt gầy, ăn mặc rất gọn, tay đi găng, cầm roi da. Con hiểu ngay: người mặc áo vét-tông kia chỉ có chết. Perkhurôv gườm gườm nhìn người ấy, môi hằn học nhếch lên để lộ mấy cái răng. Người kia tiếp tục chửi mắng, hăm dọa và đưa yêu sách. Perkhurôv ngẩng phắt đầu lên, ra một mệnh lệnh rồi lập tức bỏ đi... Hai người đang giữ người to béo kia liền tránh ra xa... Người kia giật bỏ chiếc áo vét-tông, cuộn lại và ném vào tốp sĩ quan đang đứng phía trước trúng vào mặt một người; mặt ông ta đỏ bầm, mồm lớn tiếng chửi mắng họ. Ông ta vung hai quả đấm lên hăm dọa họ, rồi đứng thẳng người, chiếc áo gi-lê phanh ngực, người to lớn, vẻ phẫn nộ đến cùng cực. Lúc bấy giờ họ bắn vào ông ta. Ông ta giật nẩy mình lên, giơ hai tay ra phía trước, bước tới một bước rồi ngã sấp xuống. Họ bắn thêm một lúc nữa vào cái hình người nằm giữa sân. Đó là chính ủy bolsêvik Nakhimxôn... Ba ạ, con đã chứng kiến một cuộc hành hình! Cho đến chết con cũng sẽ không quên được hình ảnh người bị giết há mồm cố hớp lấy không khí... Nikhanor Yuriêrits nói quả quyết với con rằng làm như thế là phải, rằng nếu họ không bắn người ấy đi, thì người ấy sẽ bắn họ...
Những gì kế tiếp theo sau, con không nhớ rõ; tất cả những việc diễn ra sau này chỉ là sự tiếp tục của cuộc hành hình này, tất cả đều phảng phất cái hình ảnh của những đợt co giật cuối cùng của một thân thể to lớn lực lưỡng không muốn lìa đời. Họ bảo con đến một tòa nhà dài sơn vàng, có nhiều cột, đánh máy những tờ chỉ thị và những lời hiệu triệu. Ngoài phố, xe bình-bịch phóng suốt ngày, bụi bay mù mịt... Chốc chốc lại có những người hớt hải chạy vào nổi giận, ra lệnh này lệnh nọ; động cái gì cũng thấy quát tháo ầm ỹ, ôm đầu rứt tóc. Khi thì hốt hoảng cuống cuồng lên, khi thì lại hớn hở hy vọng quá đáng. Nhưng khi nào Perkhurôv xuất hiện với đôi mắt lạnh lùng khắc nghiệt, ném ra mấy câu gọn lỏn thì có nhốn nháo mấy cũng im ngay tức khắc. Đến hôm sau từ phía ngoại thành có tiếng đại bác vang rền. Quân bolsêvik đang tiến đến. Ở cơ quan con làm việc, mấy hôm trước từ sáng đến tối dân phố lui tới đông nghịt, thế mà bây giờ bỗng vắng tanh. Thành phố như lịm đi. Chỉ có tiếng xe hơi của Perkhurôv rú máy phóng đi, những đội vũ trang kéo qua... Người ta chờ đợi những chuyến máy bay gì đấy của người Pháp, mong những đạo quân nào đấy từ miền bắc kéo về, những chuyến tàu thủy nào đấy chở đạn dược ở Rybinxk tới... Những mối hy vọng ấy đều tỏ ra hão huyền. Rồi vòng đai tác chiến bóp chặt lấy thành phố. Đạn đại bác nổ ùng oàng trên các phố xá... Những tháp chuông cổ kính, những tòa nhà cao thi nhau đổ xuống, khắp nơi đều có những đám cháy bốc lên, chẳng có ai mà đi dập, khói bốc ngùn ngụt che rợp cả ánh nắng. Thậm chí xác chết trên phố cũng không ai dọn đi. Về sau người ta mới biết rằng Xavinkôv cũng phát động một cuộc khởi nghĩa như vậy ở Rybinxk, nơi có nhiều kho đạn đại bác, nhưng cuộc khởi nghĩa bị binh lính dập tan; rằng các làng xung quanh Yarxôlavl không hề nghĩ đến chuyện cứu viện cho quân khởi nghĩa, rằng công nhân ở trong thành không chịu xuống chiến hào đánh nhau với cộng sản... Hãi hùng hơn cả là bộ mặt của Perkhurôv - mấy hôm nay con đi đâu cũng gặp ông ta. Đó chính là thần chết đang phóng xe hơi qua những cảnh hoang tàn đổ nát của thành phố, tất cả những việc xảy ra dường như đều là sự thể hiện của ý chí ông ta. Kulisek bắt con ở dưới nhà hầm mấy ngày liền. Nhưng ba ạ, trong tất cả những chuyện này con đều cảm thấy có phần lỗi của mình... Dù sao ở dưới hầm con cũng sẽ phát điên lên mất. Con đội khăn hồng thập tự lên và làm việc cho đến cái đêm mà có người đã định hiếp con...
Trước hôm Yarôxlavl thất thủ một ngày, con và Nikanor Yuriêvits lên thuyền trốn ra sông Volga... Suốt một tuần phải đi lén lút, tránh gặp người. Đêm thì ngủ dưới những đụn rơm - cũng may là tiết này đêm không lạnh. Giầy con rách tan ra, chân rớm máu. Nikanor Yuriêvits kiếm ở đâu ra được cho con một đôi ủng da - chắc chỉ rút trộm ở một bờ dậu nào đấy thôi... Một hôm - hôm nào con cũng không nhớ nữa, trong một khu rừng bạch dương Nikanor Yuriêvits và con trông thấy một người mặc áo khoác rách, chân đi dép cỏ, đội cái mũ chụp xù lông. Hắn đi rất nhanh, dáng lầm lì, cứ nhắm thẳng trước mặt mà bước như người mất trí, tay chống cái gậy rất to. Đó là Perkhurôv - cũng đã bỏ Yaroxlavl trốn đi. Trông thấy hắn, con sợ đến nỗi phải nằm úp sấp mặt xuống cỏ... Rồi Nikanor Yuriêvits đưa con đến Kôxtrôma, ở lại nhà một ông công chức ở ngoại ô có quen với Kulitsek, cho đến khi quân Tiệp chiếm Kazan... Nikanor Yuriêvits suốt ngày cứ săn sóc con như chăm con trẻ - con rất biết ơn hắn. Nhưng một hôm tình cờ hắn trông thấy mớ kim cương và ngọc trai - con bọc nó trong tấm khăn bỏ trong cái túi của con mà suốt trên đường đi Kulitsek bỏ trong túi áo vét-tông của hắn. Đi đến Kôxtrôma con mới sực nhớ đến cái gói. Đành phải kể cho Nikanor Yuriêvits nghe tất cả câu chuyện ấy. Con nói với hắn rằng con tự coi là một kẻ tội phạm. Nhân đó hắn ta thuyết trình ra cả một hệ thống triết học: té ra con không phải là kẻ tội phạm, mà chỉ vớ được một cái vé may mắn trong cuộc xổ số của cuộc đời. Kể từ đấy thái độ của hắn đối với con thay đổi, trở nên rất phức tạp. Còn một điều nữa cũng có ảnh hưởng là Kulitsek và con sống yên tĩnh và sạch sẽ trong một căn nhà xinh xắn ở một tỉnh lẻ, ngày ngày uống sữa, ăn dâu rừng và phúc bồn tử. Con bình phục dần. Có một lần vào lúc hoàng hôn, ngồi trong mảnh vườn con, Kulitsek bắt đầu nói về tình yêu nói chung, rồi nói rằng con sinh ra là để yêu đương, và bắt đầu hôn tay con. Và con cảm thấy rằng hắn tin chắc mười phần là chỉ một phút sau con sẽ hiến thân xác cho hắn trên chiếc ghế đá, dưới góc cây xiêm gai này... Sau tất cả bấy nhiêu việc đã xảy ra, mà lại có thể như thế ư? Ba thử nghĩ mà xem! Để khỏi phân trần gì lôi thôi, con chỉ nói: “Giữa anh và tôi, sẽ chẳng thành ra cái gì đâu. Tôi yêu Ivan Ilyits”. Và con nói như thế là không dối lòng chút nào đâu ba ạ...”.

Ivan Ilyits rút mùi soa lau mặt, rồi lau mắt, và đọc tiếp:

“Con không hề dối lòng... Con không quên Ivan Ilyits được. Giữa con với anh ấy chưa phải là không còn gì nữa hết... Chắc ba cũng biết, chúng con chia tay nhau hồi tháng ba, anh ấy đi Kavkaz vào hồng quân... Anh ấy rất được tin cậy, anh ấy là người bolsêvik thực sự, tuy không phải là đảng viên... Chúng con đã cắt đứt với nhau, nhưng dĩ vãng đã gắn bó chúng con quá mật thiết... Con không hề cắt đứt dĩ vãng... Còn Kulitsek thì nhìn nhận sự việc một cách rất đơn giản - nằm xuống, thế là xong... Ôi, ba ơi, cái mà trước kia ta gọi là tình yêu chẳng qua chỉ là bản năng tự bảo tồn. Ta vốn sợ sự quên lãng, sự tiêu vong... Chính vì thế mà ban đêm gặp đôi mắt của một cô gái giang hồ ở trên đường phố mới thấy ghê sợ đến như vậy... Đó chỉ là một cái bóng của người đàn bà... Nhưng con, con là người đang sống, con muốn được yêu, được nhớ tới, con muốn trông thấy mình trong đôi mắt của người yêu. Con yêu cuộc sống... Nếu một ngày kia con nẩy ra cái ý muốn hiến thân một cách giản dị, trong chốc lát thì dĩ nhiên khác hẳn... Nhưng bây giờ trong con chỉ có hằn học, ghê tởm và sợ hãi... Trong thời gian gần đây có một cái gì đấy đã diễn ra trong dung nhan của con - gương mặt, hình dáng. Con đã đẹp ra... Bây giờ con đi đâu cũng như người trần truồng, đâu đâu cũng gặp những con mắt đói khát... Sắc đẹp thật đáng nguyền rủa!... Ba ơi, con gửi cho ba bức thư này, đến khi gặp ba con sẽ không phải nói gì nữa... Con chưa ngã hẳn đâu, xin ba hiểu cho con...”.

Ivan Ilyits ngẩng đầu lên. Sau tấm cửa dẫn ra phòng ngoài có tiếng bước rón rén của một tốp người, tiếng nói thì thầm. Quả nắm cửa quay đi một vòng. Chàng lập tức đứng phắt dậy, đưa mắt nhìn các khung cửa sổ...
Theo tập quán kiến trúc ở tỉnh lẻ, cửa sổ nhà bác sĩ Bulavin cách mặt đất ở bên ngoài không cao. Cửa sổ giữa vẫn mở. Têlêghin chạy ra đứng ở cửa ấy. Trên mặt đường trải nhựa có một cái bóng người trải dài như cái com-pa, và một cái bóng dài hơn nữa của khẩu súng trường người ấy đang chống bên chân.
Tất cả những việc này xảy ra trong một giây đồng hồ. Quả nắm cửa quay hẳn một vòng và lập tức có hai người thanh niên sát vai nhau cùng bước vào một lúc, dáng dấp như hạng tiểu thị dân, đội mũ cát-két, mặc áo sơ mi thêu. Sau lưng họ thấp thoáng cái mặt bủng beo có bộ râu hung của Gôvyađin. Điều đầu tiên mà Têlêghin nhìn thấy khi họ xông vào phòng là ba cái nòng súng lục chĩa vào chàng.
Những việc sau đây diễn ra trong nửa giây đồng hồ kế theo. Với cái kinh nghiệm của một quân nhân, chàng hiểu ngay rằng nếu lùi trong khi sau vai mình là một đối thủ mạnh chưa hề bị tổn thương là một điều dại dột. Chuyển khẩu browning sang tay trái, chàng rút từ thắt lưng dưới áo ra một quả lựu đạn nhỏ có cài bức thư của Ghymza, và máu dồn lên mặt đỏ bừng, chàng quát lên như sấm, rách cả thanh đới:
- Bỏ súng xuống!
Tiếng quát rất rõ nghĩa này cũng như cả cái dáng dấp của Ivan Ilyits đều có một uy lực dữ dội đến nỗi bọn kia chột dạ lùi lại. Bộ mặt bủng beo vụt tránh sang một bên. Thế là đã tranh thủ thêm được một giây nữa... Tay giơ cao quả lựu đạn, Têlêghin chồm lên áp đảo đối thủ:
- Bỏ xuống!
Đến đây đã xẩy ra một việc mà tất cả những người có mặt trong phòng, nhất là Têlêghin, đều không thể nào ngờ được... Ngay sau tiếng quát thứ hai của chàng sau, tấm cửa một cánh bằng gỗ dẻ dẫn từ phòng làm việc vào các phòng trong bỗng vang lên một tiếng thét đau đớn, một giọng phụ nữ kêu lên mấy âm gì, âm sắc hoảng hốt tuyệt vọng... Cánh cửa gỗ dẻ mở toang ra, và Têlêghin trông thấy đôi mắt mở rộng của Đasa, mấy ngón tay thon thon vịn lên khung cửa, khuôn mặt gầy gò đang run bắn lên vì xúc động.
- Ivan!
Đmitri Xtêpanôvits bỗng hiện ra bên cạnh nàng, ôm ngang lưng nàng lôi vào, và cánh cửa đóng sập lại... Tất cả những việc đó trong nháy mắt đã đảo lộn hết những ý đồ tấn công và phòng ngự của Ivan Ilyits... Chàng lao về phía cánh cửa gỗ dẻ, dùng vai xô hết sức mạnh. Có cái gì kêu đánh tách một cái, cánh cửa mở toang ra, và chàng nhảy vào một gian phòng ăn... Tay chàng vẫn còn nắm hai thứ vũ khí giết người... Đasa đang đứng cạnh bàn, hai tay nắm lấy hai ve cổ chiếc áo ngủ kẻ sọc, cuống họng nàng nhích nhích như thể nàng đang cố nuốt vật gì. (Chàng nhìn thấy thế mà lòng đau nhói lên vì thương xót) Đmitri Xtêpanôvits lùi lại, vẻ hốt hoảng đến cùng cực, trông như con thú bị dồn đến bước đường cùng.
- Cứu tôi với! Gôvyađin! - Ông ta gọi thều thào, giọng vỡ ra. Nhanh như cắt, Đasa lao ra cánh cửa gỗ dẻ khóa nó lại.
- Trời ơi, khủng khiếp quá!
Nhưng Ivan Ilyits lại hiểu khác đi: quả thật xông vào nhà Đasa với những của nợ này thì thật là khủng khiếp. Chàng hối hả đút khẩu súng và quả lựu đạn vào túi. Bấy giờ Đasa nắm lấy tay chàng: “Đi, anh”, và lôi chàng vào một dãy hành lang hẹp tối om, rồi từ đấy đi vào một căn buồng nhỏ có thắp cây nến để trên chiếc ghế tựa. Căn buồng trơ trụi, chỉ thấy chiếc váy của Đasa treo trên cái đinh, và một cái giường sắt kê sát tường, khăn trải đệm nhàu nát.
- Em ở đây một mình à? - Têlêghin hỏi thầm thì. - Anh đã đọc bức thư của em.
Chàng đưa mắt nhìn quanh, một nụ cười nở trên đôi môi run rẩy. Đasa không đáp, kéo chàng đến khung cửa sổ mở rộng.
- Chạy đi, kìa chạy đi anh, anh điên rồi à?
Từ khung cửa sổ có thể trông thấy lờ mờ khoảng sân, những bóng cây và những mái nhà thấp dần về phía bờ sông, và dưới cùng là những ánh đèn trên bến tàu. Từ sông Volga đưa lại một làn gió ẩm thấp sực mùi mưa... Đasa đứng nép sát cả người vào Ivan Ilyits, ngẩng gương mặt sợ hãi lên nhìn chàng, miệng hé mở.
- Anh tha thứ cho em, anh ơi, anh chạy đi, đừng chần chừ nữa Ivan, - nàng nói lắp bắp, mắt nhìn vào tận đôi đồng tử của chàng.
Chàng làm sao mà rứt ra được? Con đường vòng dài dằng dặc của chia ly đã khép kín lại. Chàng đã vượt qua hàng nghìn cái chết và đã đến đây, nhìn khuôn mặt duy nhất trên ở trên đời này. Chàng cúi xuống hôn nàng.
Đôi môi lạnh giá của nàng không đáp lại, chỉ run lên bần bật.
- Em đã không phản bội anh... Em thề với anh như vậy... Chúng mình sẽ gặp nhau khi nào đã yên ổn hơn... Nhưng bây giờ thì anh trốn đi, anh trốn ngay đi, em van anh...
Chưa bao giờ, ngay cả những ngày diễm phúc ở Krym cũng thế, chàng lại thấy yêu Đasa mãnh liệt như bây giờ. Chàng cố cầm nước mắt nhìn lên mặt nàng:
- Đasa, đi với anh... Em ạ. Anh sẽ đợi em ở bên kia sông - tối mai...
Nàng lắc đầu, rên rỉ tuyệt vọng:
- Không... Em không đi đâu!
- Em không muốn đi ư?
- Em không thể đi được.
- Được, - chàng nói, - nếu thế thì anh ở lại. - Chàng lùi ra phía tường... Đasa kêu lên một tiếng, khóc nấc lên... Rồi bỗng như điên như dại, nàng xông vào nắm lấy tay chàng lôi ra cửa sổ lần nữa. Ngoài sân có tiếng mở cổng đánh két một cái, rồi tiếng chân bước rón rén trên cát... Đasa tuyệt vọng ép khuôn mặt nóng bừng lên hai tay Ivan Ilyits...
- Anh đã đọc bức thư của em, - chàng lại nói, - Anh đã hiểu hết.
Trong khoảng một giây, nàng không cố kéo chàng đi nữa. Nàng ôm lấy cổ chàng, áp sát mặt vào mặt chàng:
- Họ đã vào đến sân... Họ sẽ giết anh mất, họ sẽ giết...
Ánh nến làm cho mái tóc xõa của nàng ánh lên những đường cong vàng óng. Ivan Ilyits thấy nàng chỉ là một cô bé, một đứa trẻ, đúng như hình ảnh của nàng đêm nào, khi chàng bị thương nằm trên đám lúa, tay nắm mô đất ẩm và nghĩ đến trái tim bướng bỉnh và thảng thốt, trái tim bé bỏng, mong manh của nàng.
- Đasa, tại sao em không muốn đi với anh? Ở đây người ta sẽ làm khổ em. Em cũng thấy rõ những con người ở đây là hạng người gì... Thà chịu đủ thứ tai ương, nhưng anh có ở bên em... Em bé bỏng của anh... Dù sao em cũng luôn luôn ở bên anh trong cõi sống cũng như trong cõi chết, em ở trong anh, như chính trái tim của anh.
Chàng nói mấy câu ấy rất khẽ và rất nhanh, từ trong cái góc tối chàng đang đứng. Đasa ngửa đầu ra, tay vẫn không buông tay chàng. Nước mắt nàng chảy giàn dụa.
- Em sẽ trung thành với anh cho đến chết... Anh đi đi... Anh hiểu cho em: em bây giờ chưa được như người con gái mà anh yêu đâu... Nhưng em sẽ được như thế...
Chàng không nghe tiếp nữa; chàng ngây ngất trong niềm vui điên dại mà những giọt nước mắt, những lời lẽ và giọng nói tuyệt vọng của nàng đã rót ngập lòng chàng. Chàng xiết tay nàng mạnh đến nỗi mấy đốt xương của nàng kêu lên răng rắc.
- Em ạ, anh đã hiểu hết, từ biệt em, - chàng thì thầm.
Chàng chồm lên bậu cửa sổ nhìn ra ngoài, rồi một giây sau, như một cái bóng, chàng tụt xuống sân - chỉ nghe thấy tiếng đế ủng của chàng gõ khe khẽ lên cái mái gỗ của căn nhà kho phía dưới phòng Đasa. Đasa đầu thò ra cửa sổ, nhưng không thấy gì hết: chỉ thấy đêm tối mịt mùng và mấy ánh đèn vàng vàng ở phía xa. Nàng đưa hai tay lên ngực, nơi tim nàng đang đập thình thình. Bên ngoài không có lấy một tiếng động... Nhưng rồi từ trong tối có hai bóng người tiến lên, khom lưng chạy qua sân theo một đường chéo. Đasa kêu lên một tiếng chói tai, tiếng kêu khủng khiếp đến nỗi hai bóng người kia đang dở đà cũng đứng sững lại. Chắc là họ đang quay đầu nhìn lên cửa sổ nàng. Và lúc bấy giờ ở cuối sân nàng trông thấy Têlêghin đang trèo qua một nóc nhà bằng gỗ.
Đasa nằm vật xuống giường, mặt úp vào gối. Nàng nằm yên không nhúc nhích. Một lát sau nàng lại vùng dậy cũng một cách đột ngột như thế, sờ sẫm tìm chiếc giày vải rơi xuống chân giường rồi chạy ra phòng ăn.
Trong phòng ăn, bác sĩ, tay cầm khẩu súng lục nhỏ mạ kền và Gôvyađin lăm lăm khẩu mauser đang đứng giữ thế thủ, sẵn sàng chiến đấu. Họ cướp lời nhau hỏi Đasa: “Thế nào? Sao rồi?...” ... Nàng xiết chặt nắm tay, căm giận nhìn vào đôi mắt màu hung của Gôvyađin.
- Đồ khốn nạn, - nàng vừa nói vừa vung vung quả đấm trước cái mũi tái nhợt của hắn, - rồi có ngày họ sẽ bắn chết mày, đồ khốn nạn!
Cái mặt dài dài của hắn co rúm lại, càng nhợt nhạt hơn, bộ râu cằm rũ xuống như râu xác chết. Bác sĩ ra hiệu cho hắn, nhưng hắn đã giận run lên rồi, không còn để ý gì nữa.
 - Cô bỏ cái lối vung tay vung chân ấy đi, Đraya Đmitrievna ạ... Tôi tuyệt nhiên chưa hề quên rằng cô đã có lần có nhã ý đánh vào mặt tôi, hình như lại đánh bằng giày nữa... Cô cất cái nắm tay ấy đi... Và nói chung, tôi khuyên cô không nên cói thường tôi.
- Xemiôn Xemiônôvits, đừng để mất thì giờ, - bác sĩ ngắt lời hắn trong khi vẫn tiếp tục ra hiệu, nhưng không để cho Đasa trông thấy.
- Xin ông cứ yên tâm, Đmitri Xtêpanôvits ạ, Têlêghin không thoát được đâu...
Đasa nhảy chồm lên, thét:
- Đừng hòng! (Gôvyađin lập tức tránh ra sau một chiếc ghế).
- Được, để rồi xem thử... Đarya Đmitrievna ạ, tôi báo cho cô biết: ở cục an ninh họ rất chú ý đến cá nhân cô đấy... Sau sự việc vừa xảy ra hôm nay, tôi không dám bảo đảm gì nữa đâu. Cô có thể gặp nhiều chuyện rầy rà đấy.
- Kìa, hình như anh bắt đầu đi hơi xa rồi đấy, Xemiôn Xemiônôvits ạ. - bác sĩ nói, giọng bực tức, - như thế thì quá lắm...
- Tất cả đều tùy ở quan hệ cá nhân, Đmitri Xtêpanôvits ạ... Ông cũng biết rõ thiện ý của tôi đối với ông, và mối thiện cảm mà tôi đã có từ lâu đối với Đarya Đmitrievna...
Đasa tái mặt đi. Nụ cười ngạo nghễ làm cho mặt Govyađin méo mó đi như trong một tấm gương lồi lõm. Hắn cầm lấy mũ và đi ra, gáy lên gân thật căng để trông phía sau khỏi buồn cười. Bác sĩ ngồi xuống bên bàn nói:
- Cái anh Govyađin này thật là một con người đáng sợ.
Đasa đi đi lại lại trong phòng, bẻ ngón tay răng rắc. Rồi nàng dừng lại trước mặt bố:
- Bức thư của con đâu?
Lúc bấy giờ Đmitri Xtêpanôvits đang cố mở nắp cái hộp thuốc lá bằng bạc, thở phều phào qua kẽ răng; rốt cục lấy ra một điếu thuốc lá và vê vê nó trong mấy ngón tay phốp pháp hãy còn run run:
- Trong kia... Biết được?... Trong phòng làm việc, trên tấm thảm ấy.
Đasa sang phòng bên rồi trở về ngay, tay cầm bức thư, và lại đến đứng trước mặt Đmitri Xtêpanôvits. Ông ta châm thuốc - ngọn lửa cứ vờn xung quanh đầu điếu thuốc mãi không bén được.
- Ba chỉ làm tròn bổn phận, - Ông vừa nói vừa vứt que diêm xuống bàn (Đasa lặng thinh) - Con ạ, hắn là một tên bolsêvik, hơn nữa lại là một tên gián điệp... Con cũng biết đấy, cuộc nội chiến này không phải là trò đùa, ở đây ta phải hy sinh tất cả. Chúng ta được nắm quyền lực trong tay chính để làm như thế, nhân dân không khi nào dung thứ những thói nhu nhược. (Đasa, như thể đang mải nghĩ đi đâu, thong thả xé bức thư ra từng mảnh). Sự việc đã rõ như ban ngày: hắn đến đây để khai thác ở ba những tài liệu hắn đang cần, rồi để có dịp thuận lợi là hắn thịt ba luôn... Con đã thấy hắn vũ trang như thế nào chưa? Có cả bom nữa kia chứ. Năm chín mươi sáu, ở góc phố Moxkatelnaia, quan tỉnh trưởng Blôk bị một quả bom xé nát ngay trước mặt ba... Giá con trông thấy... Ông ta chỉ còn lại được cái ngực và một dúm râu. - Tay bác sĩ run lên. Ông ném điếu thuốc lá chưa châm được xuống đất, lấy một điếu khác. - Ba xưa nay vốn không ưa cái thằng Têlêghin của con, con cắt đứt liên lạc với hắn là phải... (Đasa vẫn làm thinh). Thế mà hắn đã mở đầu bằng một mưu mẹo thô sơ: hắn vờ hỏi thăm xem con ở đâu nữa kia chứ...
- Nếu Gôvyađin bắt được anh ấy...
- Chắc chắn là bắt được chứ! Tay chân Gôvyađin cừ lắm... Con ạ, con ăn nói với Gôvyađin gay gắt quá đấy... Gôvyađin là một người có thế lực... Người Tiệp cũng như bộ tham mưu ta, đều rất coi trọng anh ấy... Thời buổi này ta phải hy sinh những chuyện riêng tư... vì quyền lợi của đất nước - con hãy nhớ đến những tấm gương cổ điển... Con là con của ba; quả đầu óc con hơi viễn vông một chút - ông ta bật cười rồi ho húng hắng, - nhưng không đến nỗi khờ dại...
- Nếu Gôvyađin bắt được anh ấy, - Đasa nói, giọng khàn khàn - ba sẽ làm đủ cách để cứu anh ấy.
Đmitri Xtêpanôvits đưa mắt nhìn con gái, rồi bắt đầu thở phì phò. Nàng xiết chặt nắm mảnh vụn của bức thư trong tay.
- Ba sẽ làm, ba ạ!
- Không! - bác sĩ vỗ mạnh bàn tay xuống bàn quát lên, - không! Chỉ vớ vẩn! Ba muốn tốt cho con, cho nên ba không làm!
- Ba sẽ gặp khó khăn, nhưng ba sẽ làm ba ạ.
- Mày là con ranh con, mày ngu lắm! - bác sĩ rống lên. - Têlêghin là một thằng khốn nạn, một thằng phạm tội ác, hắn sẽ bị tòa án binh xử bắn.
Đasa ngẩng đầu lên, đôi mắt xám của nàng quắc lên dữ dội đến nỗi bác sĩ thở phì ra một tiếng rồi cụp mi mắt xuống. Nàng giơ nắm tay cầm mớ giấy vụn lên như để hăm dọa.
- Nếu những người bolsêvik đều như Têlêghin cả, - nàng nói, - thì tức là những người bolsêvik đúng.
- Đồ ngu!... Đồ ngu!... - Đmitri Xtêpanôvits nhảy chồm lên, giẫm chân thình thịch, mặt tím bầm, toàn thân run bắn lên. - Phải treo cổ hết bọn bolsêvik kể cả thằng Têlêghin của mày. Treo khắp các cột dây thép... Phải lột da sống chúng nó ra!
Nhưng tính khí Đasa có lẽ còn cục hơn cả Đmitri Xtêpanôvits. Nàng chỉ tái mặt đi, sấn đến sát người ông, đôi mắt dữ dội không rời mắt ông:
- Đồ khốn nạn, - nàng nói, - đừng giở trò hung hăng. Ông không phải là bố tôi, ông là một kẻ điên rồ, một con người thối tha!
Và nàng ném nắm giấy vụn vào mặt Đmitri Xtêpanôvits...
Ngay đêm hôm ấy, vào lúc tờ mờ sáng, có người gọi điện thoại cho bác sĩ. Một giọng thô lỗ và điềm đạm nói trong ống máy:
- Xin báo để ông biết rằng gần bến Xamoliôtxkaia, sau kho bột, mới tìm được hai cái xác - xác ông phó trưởng ban phản gián, và xác một nhân viên của ông ta...
Bên kia đầu dây, người gọi điện đã đặt ống máy xuống. Đmitri Xtêpanôvits há hốc mồm ra, hớp hớp không khí mấy cái và ngã xuống bên cạnh máy điện thoại trong một cơn đau tim hết sức dữ dội.

11

Quân đoàn Xôrôkin, sau khi đánh tan hai đơn vị ưu tú nhất của quân tình nguyện là sư đoàn Đrozđôvxki và sư đoàn Kazanovits, liền từ bỏ kế hoạch vượt sông Kuban đã vạch lúc đầu. Đến Korênôvxkaia, nó quay về phía bắc và mở cuộc tấn công vào ga Tikhoretxkaia, nơi đóng đại bản doanh của Đênikin.
Trận giao chiến ác liệt đã kéo dài đến ngày thứ mười. Được những thắng lợi đầu tiên cổ vũ, quân Xôrôkin quét sạch tất cả các đội quân án ngự trước vị trí Tikhoretxkaia. Có thể tưởng chừng như bây giờ không còn gì có thể chặn nổi cái đà tiến quân như vũ bão của họ nữa. Đênikin hối hả tập hợp các lực lượng tản mác khắp vùng Kuban lại. Hai bên chống chọi nhau quyết liệt đến nỗi mỗi cuộc đọ súng đều kết thúc bằng một trận giáp lá cà.
Nhưng trong quân đội của Xôrôkin đồng thời cũng diễn ra một quá trình tan rã không kém phần nhanh chóng. Mối cừu địch giữa các trung đoàn Kuban và các trung đoàn Ukrain ngày càng gay gắt. Lính mới và lính cựu trên đường hành quân cứ vào cướp sạch các làng cô-dắc, không phân biệt làng nào theo bạch quân, làng nào theo hồng quân.
Tất cả các khái niệm đều lẫn lộn hết. Dân làng hễ cứ thấy từ cuối thảo nguyên có một đoàn quân kéo đến trong những đám bụi bốc lên mù mịt, là đã sợ mất vía đi rồi. Đênikin thì ít ra cũng còn trả tiền cỏ ngựa, chứ quân Xôrôkin thì bao giờ cũng nhanh tay đoạt sạch. Thế là người trẻ thì lên ngựa sung vào quân Đênêkin, người già và phụ nữ thì đưa con cái và gia súc chạy ra khe núi.
Từng làng liền nổi dậy chống lại quân của Xôrôkin. Các trung đoàn Kuban kêu rên: “Chúng ta thì họ lùa vào lò sát sinh, còn đất đai chúng ta thì bọn dân tứ xứ cướp sạch!”. Tham mưu trưởng quân đoàn Bêlyakôv tuyệt vọng quay cuồng trong cơn lốc của các biến cố, thỉnh thoảng chỉ biết ôm lấy cái đầu: xem thử nó còn nằm nguyên trên cổ không. Còn phải nói! Chiến lược đã bị ném về nhà ma. Chiến thuật chung quy là mũi lê cho nhọn và nhiệt tình cách mạng cho cao. Kỷ luật đã được thay thế bằng cái đà chuyển động như vũ bão, không có gì cản nổi của những đám binh sĩ khổng lồ. Tổng tư lệnh Xôrôkin hồi này trông rất sợ: vào những ngày ấy ông ta chỉ sống bằng rượu mạnh và thuốc phiện trắng, mắt ông ta sưng húp lên, da mặt ông xạm đi, giọng ông vỡ ra, và như người mất trí, cứ xô quân đội tiến lên không ngừng.
Điều không sao tránh khỏi đã xảy ra.
Quân đoàn tình nguyện, đã được tôi rèn kỹ lưỡng bằng một kỷ luật sắt, tuy bại trận và đang phải rút lui, song vẫn răm rắp tuân theo ý chí của một bộ tư lệnh duy nhất như một cơ chế hoạt động đều, luôn luôn chuyển sang phản công, bám lấy từng gò đất có thể cố thủ được, điềm tĩnh và khéo léo chọn những chỗ yếu của địch quân. Thế rồi đến hai mươi bẩy tháng bẩy, sát làng Vixelki, cách Tikhoretxkaia năm mươi dặm, đã diễn ra ngày cuối cùng, ngày thứ mười của trận đánh.
Vị trí của hai sư đoàn Đrozđôvxki và Kazanôvits còn bất lợi hơn cả mấy ngày trước. Ở đây quân đỏ đã luồn được ra sau lưng địch, và quân tình nguyện bị rơi vào một cái bọc gần giống hệt như quân bolsêvik ở Belaia Glina. Nhưng quân của Xôrôkin không còn là đạo quân như cách đây chín ngày nữa. Tâm trạng say sưa căng thẳng đã sụp xuống, sức kháng cự ngoan cường của quân địch đã gieo rắc tâm trạng thiếu tin tưởng, nỗi ngờ vực, nỗi thất vọng: bao giờ mới kết thúc, mới thắng trận, mới được nghỉ ngơi?
Quá ba giờ chiều, quân Xôrôkin mở trận tấn công trên khắp chiến tuyến. Vố công kích hết sức ác liệt. Xung quanh, khắp chân trời đều vang ầm tiếng đại bác. Những đội xung kích dày đặc tiến lên kìn kìn không thèm nấp. Trạng thái căng thẳng sốt ruột; hăng máu đã lên đến giới hạn tột cùng...
Và đến đây bắt đầu diễn ra quá trình diệt vong của quân đoàn Xôrôkin. Đợt tiến công đầu tiên bị bắn rát rồi bị tiêu diệt trong một trận đánh lưỡi lê. Các đợt sau bị hỏa lực địch làm rối loạn, hàng ngũ lẫn lộn vào nhau giữa những xác chết, những người bị thương, những người đang ngã xuống. Và đến đây đã xảy ra một hiện tượng không thể nào lường trước được, không thể nào hiểu nổi, không thể nào chặn đứng lại được: trạng thái căng thẳng đột nhiên xẹp xuống ngay trong chốc lát. Không còn đủ sức, không còn đủ nhuệ khí nữa rồi.
Cái ý chí lạnh lùng của quân địch tiếp tục giáng những đòn chính xác đã được suy tính kỹ, làm tăng thêm tình trạng rối loạn... Từ phía bắc, sư đoàn Markôv và trung đoàn kỵ binh, từ phía nam, quân kỵ mã của Erđêli phóng thẳng vào giữa các trung đoàn đỏ lẫn lộn. Những chiếc xe thiết giáp bò tới, hỏa lực khoét từng mảng lớn trong hàng ngũ đối phương, những đoàn tàu bọc sắt của bạch quân phụt khói xông tới. Lúc bấy giờ quân Xôrôkin bắt đầu lùi lại, rồi bỏ chạy, làm mồi cho cuộc tàn sát.
Đến bốn giờ chiều khắp cánh thảo nguyên mênh mông trải rộng về phía tây chiến trường đều tràn đầy những tàn quân của quân đoàn Xôrôkin: kể từ nay, quân đoàn này, với tính cách một lực lượng thống nhất, không còn tồn tại nữa.
Tham mưu trưởng Bêlyakôv dùng sức mạnh ném tổng tư lệnh lên một chiếc xe hơi. Đôi mắt đỏ ngầu những tia máu của Xôrôkin lồi ra, mép ông sùi bọt, bàn tay đen sì vẫn còn nắm chặt khẩu súng lục đã bắn hết đạn. Chiếc xe hơi móp mép bị đạn bắn thủng lỗ chỗ phóng bừa qua các xác chết và khuất sau dãy đồi.
Bộ phận chủ yếu của đám tàn quân kéo về Êkatêrinôxlav. Từ bán đảo Taman, tập đoàn quân miền tây của Hồng quân, mệnh danh là quân đoàn Taman, do Kojukh chỉ huy, cũng bắt đầu rút về đấy. Trên đường vòng rút quân của nó, các làng cô-dắc lần lượt nổi dậy, và hàng nghìn dân tứ xứ chở đồ đạc và lùa gia súc chạy theo quân đoàn Taman để tránh sự trả thù của dân cô-dắc. Trên đường rút lui, quân Taman bị đạo kỵ binh của tướng Pokrôvxki chặn đánh. Trong một trận chiến đấu điên cuồng, họ đã đánh tan được kỵ binh trắng, đuổi nó chạy tán loạn, nhưng dù sao cũng không còn có thể tiếp tục rút về đến Êkatêrinôxlav nữa. Kojukh đành cho quân đội và đoàn xe của dân lánh nạn rẽ ngoặt về phía nam, đi vào những dãy núi vắng lặng và hiểm trở, hy vọng sẽ len lỏi được đến Nôvôrôxxixk, nơi đóng quân của hạm đội cộng sản Hắc hải.
* * *
Đênikin bây giờ không còn có gì ngăn chặn nổi nữa. Mở đường một cách dễ dàng, ông ta đem toàn quân tiến về Êkatêrinôđar đang do những đám tàn quân của quân đoàn Bắc Kavkaz đã bị tiêu diệt chiếm đóng, rồi sẵn đà chiếm luôn thành phố sau một trận xung kích ác liệt. Đến đây đã kết thúc cuộc “hành quân băng giá” do Kornilôv với một dúm sĩ quan khởi đầu cách đây sáu tháng.
Êkatêrinôđar trở thành thủ đô trắng. Các vùng đất trù phú ở ven Hắc hải vội vàng quét sạch hết những phần tử phiến loạn. Các tướng lĩnh, mới cách đây không lâu còn thân chinh ngồi bắt rận trong áo sơ-mi, bây giờ đã hồi phục lại những truyền thống đại cường quốc và cái quy mô hùng vĩ của thời đế chế.
Cái lối tiến hành chiến tranh theo kiểu tiểu thủ công trước kia, dựa vào việc kiếm chác vũ khí và đạn dược trong chiến trận hay bằng cách cướp kho của bolsêvik dĩ nhiên là không thể đem ứng dụng được cho những kế hoạch mới vốn có quy mô rất rộng. Cần phải có tiền, có những con đường nhập vũ khí và đạn dược với số lượng lớn, thiết lập một bộ phận hậu cần cho một cuộc chiến tranh đại quy mô, những căn cứ địa vững mạnh cho một cuộc tấn công thọc sâu vào đất Nga.
Thời kỳ huynh đệ tương tàn trong một nhà đã kết thúc, những lực lượng hùng hậu từ bên ngoài đã bắt đầu nhúng tay vào cuộc.
Một nguy cơ đặc biệt và bất ngờ hiện ra trước mắt bộ tổng tham mưu Đức ngay sau những trận thắng đầu tiên trong đợt hành quân tháng bảy của Đênikin. Phe bolsêvik đã bị hòa ước Bretx-Litôvxk trói chân trói tay. Đênikin là một kẻ thù chưa được điều tra nghiên cứu. Tiêu diệt được quân đoàn Xôrôkin, Đênikin đã mở được lối đi ra biển Azov và Nôvôrôxxixk, nơi tập trung toàn thể hạm đội Nga kể từ những ngày đầu tháng năm.
Mặt Hắc hải quân Đức không có gì bảo vệ. Chừng nào hạm đội còn nằm trong tay phe bolsêvik thì họ có thể yên tâm: hễ hạm đội có một hành động thù địch nào là họ sẽ trả đũa ngay bằng cách vượt biên giới Ukrain. Nhưng mười lăm khu trục hạm hải đoàn và hai tuần dương hạm hiện có mà lọt vào tay Đênikin thì sẽ phát sinh một nguy cơ nghiêm trọng là Hắc hải có thể biến thành một mặt trận của chiến tranh thế giới.
Ngày mồng mười tháng sáu nước Đức trao cho chính phủ Xô viết một tối hậu thư đòi trong thời hạn chín ngày phải đưa tất cả hạm đội Hắc hải từ Nôvôrôxxixk đến Xêvaxtôpôl nơi có một đội trấn thủ rất mạnh của Đức đóng. Nếu khước từ, nước Đức dọa là sẽ tấn công vào Moxkva.
Cũng vào lúc ấy từ Ođexxa tham mưu trưởng của quân đội chiếm đóng Áo viết thư về Viên cho tổng trưởng bộ ngoại giao như sau:

“Nước Đức theo đuổi ở Ukrain một mục đích kinh tế - chính trị nhất định. Nó muốn vĩnh viễn bảo đảm cho mình một con đường an toàn để đi sang Lưỡng Hà và A-rập qua Baku và Ba-tư.
Đường sang phương Đông đi qua Kiev, Êkatêrinôxlav và Xêvaxtôpôl, nơi xuất phát con đường biển đi Batum và Trapêzunđ.
Nhằm mục đích ấy, nước Đức có ý định giành lấy miền Krym làm thuộc địa, hay chiếm đóng nó dưới một hình thức nào khác. Họ sẽ không bao giờ buông bán đảo Krym quý giá ấy ra nữa. Ngoài ra, muốn được sử dụng toàn quyền con đường này, họ cần phải nắm lấy mạch giao thông đường sắt, và vì không thể đưa than từ Đức sang cung cấp cho con đường sắt này và vùng Hắc hải được, cho nên nước Đức phải nắm lấy những mỏ than quan trọng nhất của vùng Đonbaxx. Tất cả những điều đó, nước Đức sẽ thực hiện cho kỳ được bằng cách này hay cách khác...”.

Ngày mồng mười tháng sáu, khi ở Moxkva nhận được bức tối hậu thư của Đức, Lênin - cũng như trong mọi trường hợp khác, không hề do dự - lập tức giải quyết cái vấn đề khó khăn này, mà nhiều người khác cho là một vấn đề “không thể giải quyết được”. Cách giải quyết đó là: hiện nay chưa thể đánh nhau với Đức được, nhưng cũng không thể trao hạm đội cho Đức.
Từ Moxkva, đại diện của chính phủ Xô-viết là đồng chí Vakhramêyev đến Nôvôrôxxixk. Trước mặt các đại biểu của hạm đội Hắc hải và tất cả các cấp chỉ huy, ông trình bày cách trả lời duy nhất của những người bolsêvik đáp lại tối hậu thư: Hội đồng Ủy viên nhân dân gửi công văn vô tuyến điện công khai cho Hạm đội Hắc hải, ra lệnh đi đến Xêvaxtôpôl nộp chiến hạm cho Đức, nhưng hạm đội Hắc hải không thi hành lệnh đó và tự đánh đắm trên vịnh Nôvôrôxxixk.
Hạm đội Xô-viết - hai chiếc tuần dương hạm và mười lăm chiếc khu trục hạm, cùng với một số tàu ngầm và tàu phục vụ, bị hòa ước Bretx-Litôvxk buộc phải bất động, lúc bấy giờ đều đậu ở trong vịnh Nôvôrôxxixk.
Các đại biểu của hạm đội lên bờ nghe Vakhramêyev nói, mặt người nào cũng cau có lầm lì: Vakhramêyev đề nghị hạm đội tự sát. Nhưng chẳng còn cách gì khác: hạm đội không có than, cũng không có dầu. Quân Đức án ngự Moxkva, từ phía đông Đênikin đang tiến đến gần, trên vịnh đã thấp thoáng những đường bọt do kính tiềm vọng của tàu ngầm Đức rạch trên mặt nước, trên trời thì lấp lánh những chiếc máy bay phóng pháo Đức. Các đại biểu thảo luận rất lâu và rất sôi nổi... Nhưng lối thoát vẫn chỉ có một: tự đánh đắm... Tuy vậy trước cái việc khủng khiếp này các đại biểu cũng quyết định đặt số phận của hạm đội ra cho toàn thể thủy thủ biểu quyết.
Trong bến tàu Nôvôrôxxixk bắt đầu diễn ra những cuộc mít tinh đông hàng mấy nghìn người. Nhìn những chiến hạm khổng lổ màu thép xám bóng bỏ neo trong vịnh - hai chiếc tuần dương hạm kiểu dreadnought là chiếc “Vôlya” và chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya”, những chiếc khu trục hạm thần tốc lừng lẫy chiến công, nhìn những tòa tháp chỉ huy và quan trắc bằng thép và những cột tín hiệu đan vào nhau thành những đường ngang dọc phức tạp chồng chéo trên bến, vươn cao ngất trên đầu đám đông - nhìn cái cảnh ấy các thủy thủ khó lòng có thể tưởng tượng được rằng cái tài sản đầy mãnh lực dữ dội ấy của cách mạng, cả cái quê hương nổi này của thủy thủ lại có thể chìm xuống đáy bể mà không bắn một phát súng nào, không hề kháng cự.
Thủy thủ Hắc hải không có lòng dạ nào lại bình tĩnh đành tâm tự tiêu diệt đi như vậy. Họ đã gào lên bao nhiêu câu phản kháng phẫn nộ, họ đã xé rách bao nhiêu tấm áo sọc trên những lồng ngực xăm chàm của họ, đã đấm thùm thụp lên ngực họ biết bao nhiêu lần, họ đã uất ức giẫm nát bao nhiêu chiếc mũ có dải lụa phất phới ở phía sau của họ trong những ngày đau khổ ấy...
Từ mờ sáng cho đến sẩm tối, khi ánh mặt trời lặn nhuộm một màu đỏ rực lên làn nước tím thẫm của cái biển Đen đáng nguyền rủa bây giờ chẳng còn là của họ nữa, từng đám đông dày đặc gồm những thủy thủ, những lính cựu lục quân và những thợ bến tàu nhốn nháo lên suốt dọc bờ xây của hải cảng.
Các hạm trưởng và sĩ quan mỗi người nhìn nhận sự việc một cách: phần đông thì trong thâm tâm có xu hướng muốn đi đến Xêvaxtôpôl nộp tàu cho quân Đức; phần thiểu số, do hạm trưởng khu trục hạm “Kerst” là thượng úy Kukel đứng đầu, hiểu được cái thế không sao tránh khỏi việc tự hủy diệt và cái ý nghĩ lón lao của hành động này đối với tương lai. Họ nói:
“Chúng ta phải tự sát - nghĩa là tạm thời gấp cuốn lịch sử Hạm đội Hắc hải lại mà không để cho nó hoen ố...”
Trong những cuộc mít tinh hùng vĩ và rầm rộ như bão táp này, sáng người ta quyết định một đằng, chiều lại quyết định một nẻo. Được hoan nghênh nhất là những người ném mũ xuống đất quát lớn:
“... Các đồng chí! Chúng ta mặc xác bọn Moxkva. Chúng nó giỏi thì cứ tự vẫn. Chứ chúng ta nhất định không chịu nộp hạm đội. Chúng ta sẽ chiến đấu với quân Đức đến phát đạn cuối cùng...”
“Urrra!...” - tiếng hoan hô vang rền khắp hải cảng.
Thời hạn thi hành yêu sách của tối hậu thư còn bốn này nữa thì hết. Tình hình hỗn loạn trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi có hai nhân vật cao cấp từ Êkatêrinôđar cấp tốc phóng xe đến Nôvôrôxxixk: chủ tịch Chấp ủy Cộng hòa Hắc hải Rubin và đại biểu quân đội Pêrêbinôx -một người cao lớn phi thường, tướng mạo hung dữ, thắt lưng đeo bốn khẩu súng lục. Cả hai người - Rubin thì đọc một bài diễn văn dài đòng, còn Pêrêbinôx thì cất cái giọng trầm vang lên như sấm, tay vung súng lục - chứng minh rằng nộp hạm đội hay đánh đắm nó đi đều không thể được, rằng ở Moxkva người ta cũng chẳng hiểu bản thân mình nói gì, rằng nước cộng hòa Hắc hải sẽ cung cấp cho hạm đội tất cả những thứ cần thiết: dầu hỏa, đạn đại bác, thực phẩm.
- Tình hình ở mặt trận hết sức lạc quan... - Pêrêbinôx quát lớn. - Chỉ đến tuần sau ta sẽ dìm chết con chó Đênikin và bọn cađê của hắn xuống sông Kuban... Anh em chớ đánh đắm tàu, chúng tôi hiện đang cần như thế... Phải làm sao cho quân đội ở mặt trận cảm thấy ở sau lưng ta có một hạm đội hùng mạnh. Còn nếu anh em cứ đánh đắm, thì tôi thay mặt cho toàn thể quân đội cách mạng Kuban - Hắc hải dứt khoát tuyên bố rằng chúng tôi không thể dung thứ một hành động phản bội như vậy, và chúng tôi vì tuyệt vọng sẽ quay mặt trận của chúng tôi vào Nôvôrôxxixk với bốn vạn lưỡi lê, và chúng tôi sẽ xốc tất cả các anh em, không bỏ sót một mống nào, trên lưỡi lê của chúng tôi...
Sau cuộc mít tinh này mọi sự đều rối tung lên, tâm trạng hoang mang lên đến cực điểm. Các đội thủy thủ bắt đầu trốn khỏi tàu, mỗi người đi một nẻo. Trong đám đông ngày càng thấy xuất hiện nhiều nhân vật khả nghi, ban ngày thì hét to hơn ai hết: “chiến đấu với quân Đức đến quả đạn cuối cùng” còn ban đêm thì tụ tập từng tốp lần mò đến các khu trục hạm gần như bỏ không, sẵn sàng xông lên ném các thủy thủ xuống biển và cướp phá tàu.
Vào những ngày ấy Xêmiôn Kraxilnikvô trở về khu trục hạm “Kerst”.
Xêmiôn đang lau cột chân la bàn bằng đồng. Cả đội thủy thủ trên tàu làm việc từ sáng, lau rửa kỳ cọ chiếc khu trục hạm đang đậu sát bến khoảng hai mươi thước. Mặt trời nóng mọc lên trên những quả đồi xém nắng ở ven vịnh... Những lá hạm kỳ rũ im lìm trong không khí oi nồng không một hơi gió thoảng. Xêmiôn ra sức kỳ cọ cái cột đồng, cố tránh nhìn vào bến. Đội thủy thủ đang lau chùi chiến hạm của họ lần cuối trước khi nó đón lấy cái chết.
Trong cảng, những ống khói khổng lồ của tuần dương hạm “Vôlya” đang nhả khói. Những hàng đại bác đã tháo bạt ánh lên sáng loáng. Những cột khói đen bốc cao lên trời. Chiếc chiến hạm, những làn khói, những ngọn đồi với những nhà máy xi-măng ở dưới chân, đều được phản chiếu trên mặt vịnh phẳng lì như gương.
Xêmiôn đi chân không ngồi xổm trên sàn tàu, ra sức kỳ cọ lại cái cột đồng. Đêm qua anh phải phiên gác, lòng anh cay đắng nghĩ rằng mình đến đây thật uổng công. Chỉ tại anh không nghe lời Alekxêy và Matriôna... Bây giờ họ sẽ tha hồ cười anh: “Chà, đánh Đức khỏe nhỉ: các cậu đem hạm đội bán lấy tiền uống rượu hết rồi còn gì...”. Biết trả lời thế nào đây? Trả lời là mình đã tự tay lau chùi kỳ cọ cho sạch sẽ và đã đánh đắm chiến hạm “Kerts” rồi chăng?
Từ tuần dương hạm “Vôlya” một chiếc xuồng máy phóng về phía các tàu khác, khua cờ đánh tín hiệu. Khu trục hạm “Đerzki” rời bến, kéo theo chiếc “Bexpokôiny” và thong thả đưa nó ra vịnh. Theo sau nó là các khu trục hạm hải đoàn “Pôxpesny” “Jivôi”, “Jarki”, “Grômki”, đi còn chậm hơn nữa, lừ lừ như đau ốm, lần luợt trườn trên mặt nước phẳng như gương.
Sau đó có một thời gian ngừng di chuyển. Trong bến còn tám chiếc khu trục hạm. Trên các chiến hạm này không thấy động tĩnh gì. Bây giờ bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn hết vào cái khối thép khổng lồ của tuần dương hạm “Vôlya” màu ghi sáng, hai bên mạn tàu có những đường nước chảy gỉ sắt. Các thủy thủ bỏ bàn chải, bơm nước, khăn lau xuống, nhìn chiếc tuần dương hạm. Trên chiến hạm “Vôlya”, lá quân kỳ của tư lệnh hạm đội, thượng tá hải quân Tikhmênev, uể oải bay.
Trên chiếc “Kerts” các thủy thủ khe khẽ bảo nhau, giọng lo lắng:
- Để xem... Chiếc “Vôlya” đi về Xêvaxtôpôl mất...
- Anh em ơi, chả nhẽ họ tồi tệ đến thế?... Chả nhẽ họ không có chút lương tâm cách mạng nào sao?...
- Ấy, nếu chiếc “Vôlya” bỏ đi thì còn biết tin ai nữa hở các cậu?
- Cậu không biết Tikhmênev là người thế nào sao? Đúng là một kẻ địch, một con cáo già phản phúc.
- E nó đi mất! Chà, đồ phản bội!...
Phía sau chiếc “Vôlya”, tuần dương hạm “Xvobôđnaia Rôxxya” - em ruột của chiếc “Vôlya” đang bỏ neo đứng yên. Nhưng chiếc này thì hình như đang ngủ say, - phủ đầy vải bạt, trên boong chẳng thấy một bóng người nào. Từ dãy kè có mấy chiếc thuyền nhỏ chèo thục mạng về phía nó. Thế rồi trên bến tàu lặng gió nổi lên những tiếng còi rõ mồn một của thủy thủ trưởng trên chiếc “Vôlya”, những chiếc máy tời bắt đầu chuyển ầm ầm, những sợi dây xích buộc neo ướt đẫm phủ đầy rong biển từ từ kéo lên. Mũi chiếc tàu bắt đầu quay vòng, những đường nét rắc rối của các tháp quan trắc, cột tín hiệu, ống khói từ từ chuyển đi trên nền các mái nhà trăng trắng trong thành phố.
- Đi rồi... Đi về với quân Đức... Chao ôi, các cậu ơi... Đi nộp mình làm tù binh! Sao chúng mày nỡ làm như thế?...
Trên khu trục hạm “Kerts”, hạm trưởng bước ra cầu chỉ huy, mặt rám nắng đen thui, có cái mũi to khô nẻ. Đôi mắt sâu hoắm của ông theo dõi những chuyển động của chiếc “Vôlya”. Cúi người trên lan can cầu chỉ huy, ông ra lệnh:
- Kéo cờ tín hiệu...
- Rõ, kéo cờ tín hiệu! - Thủy thủ trưởng nhắc lại mệnh lệnh.
Các thủy thủ lập tức sôi nổi lên, lao vào cái thùng đựng cờ tín hiệu. Trên cột cờ tàu “Kerts” hiện lên một chuỗi cờ ngũ sắc bay phần phật trên nền trời xanh. Chuỗi cờ ghép như vậy có nghĩa là:
“Gửi các chiến hạm đang đi về Xêvaxtôpôl: nhục nhã thay những kẻ phản bội tổ quốc!...”
Trên chiếc “Vôlya” không thấy có tín hiệu trả lời, cứ như thể họ không trông thấy tín hiệu của chiếc “Kerts”... chiếc “Vôlya” mang nặng nỗi ô nhục, trên boong không có lấy một bóng người, trườn qua bên cạnh các chiến hạm vẫn giữ lòng trung thành với danh dự... “Họ trông thấy tín hiệu rồi!” - các thủy thủ bỗng kêu lên. Hai khẩu đại bác khổng lồ trên ổ súng phía sau của chiếc “Vôlya” giương nòng lên, các súng từ từ quay về phía chiếc khu trục hạm... Viên hạm trưởng đứng trên cầu chỉ huy của chiếc “Kerts”, hai tay nắm chặt lấy vành lan can, nghếch cái mũi to khô nẻ về phía chiếc “Vôlya”, sẵn sàng đón cái chết. Nhưng hai khẩu đại bác chỉ nhích lên nhích xuống một lát rồi nằm im.
Tuần dương hạm “Vôlya” tăng tốc độ đi vòng qua đập chắn sóng và chẳng bao lâu cái bóng dáng kiêu hãnh của nó đã chìm sau chân trời, để rồi mấy năm sau, bị tước hết khí giới, thân bị han gỉ đục khoét, đến bỏ neo trên cảng Bizert xa xôi với nỗi ô nhục muôn đời.
Tư lệnh hạm đội Tikhmênev đã khăng khăng một mực làm theo ý mình và đã thi hành đúng lời văn trong mệnh lệnh của Hội đồng Ủy viên nhân dân: tuần dương hạm “Vôlya” và sáu khu trục hạm hải đoàn đã đến Xêvaxtôpôl nộp mình cho quân Đức. Đội thủy thủ và các sĩ quan được trả tự do.
Thủy thủ giải tán mỗi người đi một nẻo họ về quê, ai về nhà nấy làm ăn. Dĩ nhiên họ kể lại rằng họ không nỡ tự tay đánh đắm tàu, và nhất là sợ bốn vạn lính hồng quân đã dọa sẽ dùng lưỡi lê xiên tất cả các thủy thủ ở Nôvôrôxxixk.
Tuần dương hạm “Xvobôđnaia Rôxxya” và tám khu trục hạm hải đoàn ở lại trong cảng Nôvôrôxxixk. Hôm sau là hết hạn thi hành tối hậu thư. Trên thành phố, máy bay Đức lượn vòng rất cao. Trên vịnh, giữa đàn cá heo đang nô giỡn, xuất hiện những ống kính tiềm vọng của tàu ngầm Đức. Ở Temryuk, cách đấy không xa, có thể nghe thấy tiếng tàu Đức đổ quân lên bờ. Trong khi đó, ở Nôvôrôxxixk những cuộc mít tinh náo nhiệt họp suốt ngày đêm không giải tán một lúc nào, trong đó có những nhân vật mặc thường phục kêu gào mỗi lúc một thêm hăng:
- Anh em thủy thủ, đừng tự hãm hại mình, đừng đánh đắm hạm đội...
- Chỉ có bọn sĩ quan là muốn đánh đắm hạm đội, tất cả bọn họ, không trừ một ai, đều bị đồng minh mua chuộc...
- Ở Xêvaxtôpôl hồi tháng chạp anh em đã ném bọn sĩ quan xuống nước, thế còn bây giờ anh em lại sợ à? Sao không làm lại một phen nữa?
Đến đây một cán bộ tuyên truyền nhảy lên thế chân gã to mồm kia, xé toạc ngực áo sơ mi:
- Các đồng chí đừng nghe lời bọn khiêu khích. Nếu trao hạm đội cho Đức, chúng sẽ dùng chính những khẩu pháo này bắn vào các bạn... Quyết không nộp vũ khí cho bọn đế quốc chủ nghĩa... Hãy cứu vãn cách mạng thế giới!...
Đấy, cứ thử lần cho ra xem: biết nghe ai bây giờ? Kế theo người cán bộ tuyên truyền là một anh cựu binh ở Ekatêrinôđar, người mang đầy vũ khí lỉnh kỉnh, vừa leo lên diễn đàn đã lại đưa bốn vạn lưỡi lê ra dọa dẫm... Và đến đêm mười bảy rạng ngày mười tám tháng sáu có nhiều đội thủy thủ không trở về hạm nữa - họ trốn đi, chạy đi, nấp biến đi, bỏ vào núi...
Suốt đêm hôm ấy khu trục hạm “Kerts” dùng tín hiệu bằng ánh sáng nói chuyện với các tàu bạn. Chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” trả lời là trên nguyên tắc nó sẵn sàng tự đánh đắm, nhưng đội thủy thủ hai nghìn người nay chỉ còn không đầy một trăm, cho nên dù chỉ còn không đầy một trăm, cho nên dù chỉ cho nổ máy để rời bến thôi cũng khó lòng làm nổi.
Khu trục hạm “Hađji-bêy” nháy đèn tín hiệu nói rằng trên tàu vẫn đang họp mít tinh sôi nổi, trong thành phố có một đoàn thiếu nữ mang rượu đến, chắc chắn là một phe nào đấy phái đến một cách có dụng ý: đây có thể là một âm mưu cướp tàu phá tàu này. Trên khu trục hạm “Kalykirya” chỉ còn lại có hạm trưởng và một người thợ máy tàu. Trên chiếc “Fiđonixi” còn lại sáu người. Các khu trục hạm “Thuyền trưởng Baravnô”, “Xmetlivy”, “Xtrêmitelny”, “Pronzitelny” cũng cho biết một tình hình tương tự. Chỉ có hai chiếc “Kerts” và “Trung úy Sextakôv” là còn nguyên số thủy thủ.
Đến nửa đêm có một chiếc thuyền con chèo đến gần chiếc “Kerts”, và một giọng xấc xược từ dưới thuyền gọi lên:
- Các đồng chí thủy thủ... Tôi là phóng viên báo “Tin tức” của Chấp Ủy... Chúng tôi vừa nhận được một bức điện của đô đốc Xablin từ Moxkva gửi về: đô đốc ra nghiêm lệnh tuyệt đối không được đánh đắm hạm đội và không đi Xêvaxtôpôl, mà phải đợi những chỉ thị tiếp theo...
Thủy thủ chồm trên lan can tàu, lặng lẽ nhìn xuống khoảng tối, nơi chiếc thuyền đang dập dình. Tiếng nói dưới thuyền tiếp tục chứng minh và thuyết phục... Thượng úy Kukel ra cầu chỉ huy, ngắt lời người đang nói:
- Đưa cho tôi xem bức điện của đô đốc Xablin.
- Đáng tiếc là tôi để quên nó ở nhà rồi đồng chí ạ, nhưng tôi có thể về lấy ngay...
Bấy giờ Kukel mới nói, kéo dài từng chữ ra để nghe cho rõ:
- Chiếc xuồng ở mạn hữu lùi ra cách hạm nửa cáp. Không được đến gần hơn.
- Xin lỗi đồng chí - giọng nói dưới thuyền vọng lên, trâng tráo - nếu đồng chí không muốn nghe lệnh của trung ương, tôi sẽ điện ngay lên...
- Nếu không lùi tôi sẽ bắn đắm thuyền. Ông thì tôi sẽ vớt lên tàu. Về hành động của thủy thủ sau đó, tôi không chịu trách nhiệm.
Dưới thuyền không thấy nói gì nữa. Sau đó có tiếng chèo vỗ khe khẽ. Bóng thuyền chìm dần vào đêm tối. Các thủy thủ cười phá lên. Viên hạm trưởng gày gò chắp hai tay sau lưng, dáng gù gù đi đi lại lại trên cầu chỉ huy như một con thú nhốt trong chuồng.
Đêm ấy không mấy ai chợp mắt. Thủy thủ nằm trên boong tàu ướt đẫm sương đêm. Chốc chốc lại có người nhấc đầu lên nói một đôi câu, thế là chẳng còn ngủ ngáy gì được nữa, cả đội bắt đầu nói chuyện khe khẽ... Sao đã bắt đầu nhợt nhạt đi. Rạng đông đã hửng sau dãy đồi. Từ trên bờ, thiếu úy Annenxki, hạm trưởng tàu “Trung úy Sextakôv” xuống báo rằng không những thủy thủ các khu trục hạm, các tàu kéo của cảng và các xuồng máy đang bỏ trốn, mà ngay trên các tàu buôn cũng không còn lấy một thủy thủ nào. Bây giờ chưa biết lấy gì mà kéo các chiến hạm ra vịnh.
Hạm trưởng chiếc “Kerts” nói:
- Thiếu úy Annenxki, đây là trách nhiệm của chúng ta, dù có phải trả giá thế nào, chúng ta cũng sẽ đánh đắm các chiến hạm.
Thiếu úy Annenxki gật đầu. Hai người im lặng một lát. Rồi thiếu úy bỏ đi. Khi ánh bình minh đã sáng bừng trên vịnh, chiếc “Trung úy Sextakôv” từ từ rời bến, kéo chiếc “thuyền trưởng Baranôv” theo sau, và bắt đầu đưa bạn ra vịnh ngoài, nơi nó sẽ bị đánh đắm. Trên cột tín hiệu của hai chiếc khu trục hạm đều bay phấp phới chuỗi cờ:
“Tôi chết chứ không đầu hàng”.
Chẳng bao lâu hai chiếc chiến hạm đã mất hút trong làn sương sớm. Tất cả các hạm khác bây giờ đều vắng tanh. Mấy con hải âu bay lượn trên cái khối thép khổng lồ của chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya”. Chiếc “Kerts” nhả khói. Tuy trời mới vừa sáng, những đám dân đông nghịt đã chạy đi chạy lại trên bờ xây, suốt cái đập chắn sóng đều đen nghịt những người, trông như bị ruồi bâu kín. Bên các chiến hạm đám đông xô lấn, trèo lên vai nhau, rơi cả xuống nước.
Xêmiôn Kraxilnikvô đứng gác ở cầu tàu. Quá năm giờ từ trong đám đông len ra một người thấp bé, mặt đỏ gay vì khích động, mặc chiếc áo quân phục hải quân màu đen không đeo lon. Người ấy nện gót bước lên cầu tàu. Khuôn mặt đỏ, với cái miệng nhăn nhúm, ướt đẫm mồ hôi.
- Thượng úy Kukel có ở đây không? - người ấy cất tiếng ồm ồm hỏi Xêmiôn, đôi mắt màu thiên thanh vui vẻ giương tròn ra nhìn người thủy thủ đang giơ lưỡi lê ra chặn đường mình. Người ấy vỗ vỗ nắn nắn lên hai vai bên hông, rồi lên ngực, rút ra một tờ công lệnh đưa cho Xêmiôn. Tờ công lệnh cho biết người ấy là đồng chí Sakhôv, đại diện của chính quyền Xô-viết trung ương. Người thủy thủ hầm hầm chúc lưỡi lê xuống:
- Đồng chí Sakhôv, đồng chí có thể lên tàu.
Kukel ra đón Sakhôv và bắt đầu trình bày cái tình hình gần như vô hy vọng hiện nay ở bến tàu. Ông nói rành mạch, thong thả. Mắt Sakhôv cứ đảo tròn, vẻ sốt ruột:
- Chuyện vặt! Trong những công việc thuộc loại này, nhiều khi còn gay hơn... Tôi đã nói chuyện với thủy thủ, tinh thần họ rất tốt... Tôi sẽ kiếm tàu kéo ngay cho các anh, và tất cả những gì cần thiết... Ta sẽ tổ chức một cuộc mít-tinh... sẽ ổn hết cho mà xem.
Ông ta bảo đưa xuồng máy, xuống xuồng đi sang tàu “Xvobôđnaia Rôxxya”, rồi từ đấy đi hết tàu này sang tàu khác. Xêmiôn trông thấy cái thân hình ngăn ngắn của ông ta lủng lẳng trên thang dây của mấy chiếc tàu buôn; rồi ông ta nhảy lên bờ, len lỏi vào giữa đám đông, và từ đấy có những tiếng reo hò, những cánh tay vung lên. Ở một nơi, hàng ngàn tiếng người hô “ura” vang dậy.
Mấy chiếc thuyền chở đầy thủy thủ rời bến, đi đến một chiếc tàu chạy hơi nước đã han rỉ đậu ở cuối cảng, và chỉ lát sau một cột khói dày đặc bốc lên từ mấy cái ông khói của nó. Chiếc tàu nhổ neo đi về phía tuần dương hạm “Xvobôđnaia Rôxxya”. Trên một chiếc tàu buồm kiểu schooner có cả máy hơi, hàng chục cánh buồm giương lên, rung phần phật trước gió. Chiếc “Trung úy Sextakôv” quay trở lại kéo một khu trục hạm nữa ra vịnh ngoài.
Quá chín giờ, một đám đông xúm xít bên cầu tàu “Kerts”. Dân chúng dường như lại quay trở lại cái tâm trạng phẫn uất trước đây. Mấy người ăn mặc rách rưới chen về phía tàu, mỗi người đều cầm xúc xích, bánh mì, thịt mỡ ướp. Họ cười nhăn nhở, nháy mắt với các thủy thủ, tay chỉ chỉ mấy chai rượu mạnh cắp dưới nách. Kukel liền ra lệnh kéo cầu lên và tháo dây buột tàu. Chiếc “Kerts” ra giữa cảng, tránh xa những sự cám dỗ ma quái ấy, và bỏ neo tại đấy để theo dõi việc kéo các khu trục hạm ra vịnh ngoài.
Chiếc tàu han rỉ chạy hơi nước, trông bé nhỏ và mong manh như cái vỏ hạt dẻ, phun khói đen ngòm, thở ì ạch, lôi căng dây cáp một hồi lâu chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” mới bắt đầu chuyển mình, và chiếc tuần dương hạm khổng lồ uy nghi lướt chầm chậm trước mặt các đám đông. Nhiều người bỏ mũ ra như trước một cỗ quan tài. Chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” đi qua các phao, qua cổng bến, qua cảng và ra giữa vịnh. Người ta tưởng thế nào máy bay Đức cũng đến, nhưng trời và biển đều yên tĩnh. Trong cảng chỉ còn lại khu trục hạm “Fiđônixi”.
Trong đám đông lại nhốn nháo lên, và cái đám lố nhố như một đĩa trứng cá đen tràn về phía bến nơi chiếc “Fiđônixi” đậu. Lúc bấy giờ chiếc schooner vừa chạy buồm vừa chạy máy đang tiến lại gần để kéo nó đi. Trong đám đông bắt đầu có những hòn đá ném vào chiếc schooner, và mấy tiếng súng lục nổ đôm đốp. Một người tóc bạc leo lên cột đèn thét lớn:
- Quân phản quốc! Chúng nó bán đứt Nga rồi... Chúng nó bán đứt quân đội rồi... Anh em!... Thế này mà cứ khoanh tay đứng nhìn à?... Chúng nó bán rẻ hạm đội cuối cùng của ta...
Đám đông gầm lên, cúi xuống gỡ đá lát đường. Mấy người nhảy lên boong tàu “Fiđônixi”. Chiếc “Kerts” liền tiến nhanh vào bờ, chuông báo động chiến đấu vang lên lanh lảnh, các ổ đại bác quay hết về phía đám đông, hạm trưởng quát vào loa phóng thanh:
- Lùi ngay! Tôi ra lệnh khai hỏa!
Đám người lùi lại, giạt ra, những người bị giẫm kêu í ới. Bụi tung lên, và một lát sau trên bến chẳng còn bóng người nào. Chiếc schooner móc cáp vào chiếc “Fiđônixi” kéo ra vịnh.
Chiếc “Kerts” thong thả đi theo, cho đến nơi tất cả các chiến hạm đang nằm im trên mặt nước gợn lăn tăn. Xêmiôn nhìn lên mấy con hải âu đang bay rất cao ở phía lái, rồi nhìn sang viên hạm trưởng đang vịn cả hai tay lên vành lan can cầu chỉ huy.
Lúc bấy giờ là ba giờ chiều. Chiếc “Kerts” đi vòng qua mạn hữu chiếc “Fiđônixi”. Viên hạm trưởng chỉ hô một tiếng gọn lỏn: Một quả ngư lôi đen ngòm phụt ra khỏi ống phóng, một dảy bọt chạy dài trên mặt nước gợn lăn tăn, rồi phần chính giữa chiếc “Fiđônixi” nhô cao lên, toát ra làm đôi, một cái núi nước và bọt xù xì từ dưới biển sâu phọt lên cao ngất, một tiếng nổ nặng nề truyền đi rất xa trên mặt biển. Khi cái núi nước ấy đã xẹp xuống, trên mặt nước không còn thấy chiếc “Fiđônixi” đâu nữa, chỉ thấy một dải bọt trắng xóa. Cuộc tự đánh đắm của hạm đội Hắc hải đã bắt đầu.
Các đội thủy thủ mở các cửa ngầm dưới suờn tàu và các cửa ngăn của các khu trục hạm, rồi mở tất cả các cửa sổ tròn bên mạn tàu đang nghiêng xuống. Và trước khi leo xuống xuồng để rời khỏi chiếc tàu đang chìm dần, họ châm ngòi thuốc súng dẫn đến quả mìn hai cân đặt ở tuyếc-bin và xi-lanh dưới hầm máy.
Chẳng mấy chốc các khu trục hạm đã chìm nghỉm xuống đáy vịnh sâu hàng trăm thước. Hai mươi phút sau vịnh đã vắng hẳn đi.
Chiếc “Kerts” mở hết tốc lực lao về phía chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” và phóng ra mấy quả ngư lôi. Thủy thủ từ từ bỏ mũ xuống. Quả ngư lôi thứ nhất trúng vào lái - chiếc tuần dương hạm lắc lư giữa đám sóng cuộn lên dữ dội. Quả thứ hai trúng vào giữa mạn tàu. Qua đám bọt và khói có thể thấy rõ cột tín hiệu đung đưa. Chiếc tuần dương hạm vật vã quằn quại như một sinh vật, bóng dáng càng uy nghi và hùng vĩ hơn nữa trên mặt biển cuồn cuộn và giữa những tiếng nổ sấm sét. Mặt các thủy thủ đều giàn dụa nước mắt. Xêmiôn đưa hai bàn tay lên bưng lấy mặt.
Hạm trưởng Kukel như đã khô tóp lại trong những phút ấy, chỉ còn có cái mũi vươn về phía chiếc chiến hạm đang hấp hối. Đến quả ngư lôi cuối cùng, chiếc “Xvobôđnaia Rôxxya” từ từ lật úp lại... Nó cố gượng một lần nữa, trông như nhổm người lên trên mặt nước, rồi chìm xuống rất nhanh trong luồng nước xoáy sủi bọt.
Rời khỏi nơi tang tóc, chiếc “Kerts” mở hết tốc lực phóng về phía Tuapxê. Tảng sáng, các thủy thủ được đưa xuống xuồng. Rồi chiếc “Kerts” đánh đi một bức điện vô tuyến:
“Gửi tất cả... Tôi chết sau khi đánh đắm bộ phận còn lại của hạm đội Hắc hải gồm những chiến hạm đã chọn cái chết, thà chìm xuống đáy bể chứ không cam chịu nỗi ô nhục phải nộp mình cho quân Đức. Khu trục hạm hải đoàn “Kerts”.
Chiếc tàu mở các cửa ngầm, cho mìn nổ dưới hầm máy và chìm xuống đáy bể sâu sáu mươi thước.
Trên bờ, Xêmiôn Kraxilnikov bàn bạc với các bạn xem bây giờ nên đi đâu. Họ nghĩ đi nghĩ lại một lát rồi rủ nhau đi về Axtrakhan, về sông Vôlga: nghe nói ở đấy Sakhôv đang thành lập một hạm đội giang thuyền để chiến đấu với bạch vệ.
* * *
Lần theo những con đường mòn trong núi và băng qua những quãng chẳng có đường sá gì, bị bạch quân đuổi sát gót, bị các làng cô-dắc nổi dậy vây quanh, quân đoàn Taman do Kôjukh chỉ huy rút thành một đường vòng cố len lỏi đến vùng thượng lưu sông Kuban.
Đường rút lui của họ đi qua Nôvôrôxxixk đã bị quân Đức chiếm đóng sau khi hạm đội tự đánh đắm. Những đơn vị của quân đoàn Taman đột ngột tiến vào. Vừa diễu qua thành phố vừa hát. Đội trấn thủ Đức không hiểu họ có ý định gì, liền chạy xuống tàu và từ đấy nã đại bác cỡ lớn vào đạo hậu quân, nã luôn cả vào những đội cô-dắc say rượu đang lồng lộn lên như thú dữ đuổi sát theo họ.
Để phòng xa, quân Đức rút ra khỏi Nôvôrôxxixk. Khi Kôjukh đã kéo quân đi, thành phố bị quân Cô-dắc chiếm đóng, rồi sau đó những đơn vị chính quy của bạch quân kéo vào và cướp phá sạch.
Họ treo cổ những thủy thủ, những binh sĩ hồng quân và cả những người dân phố bình thường nữa lên các cột dây thép, không xét xử gì hết. Trong những ngày ấy những người đánh xe ngựa tải đã chở ba nghìn xác chết trút xuống biển, Nôvôrôxxixk trở thành một hải cảng trắng.
Dọc miền duyên hải nghèo đói, quân đoàn Taman với đoàn xe cồng kềnh của mười lăm nghìn dân lánh nạn kéo đến Tuapxê và từ đấy rẽ ngoặt về phía đông. Phía sau thì quân Đênikin đuổi, phía trước thì tất cả các hẻm núi và các cao điểm đều bị quân khởi nghĩa chiếm đóng. Mỗi ngày đều chuyển thành một trận đánh gian khổ. Luôn luôn phải đánh trả, máu chảy đến kiệt sức, gần chết đói, quân đoàn bò vào các khe núi, leo lên những sườn đồi dốc đứng, càng đi thương vong càng nhiều, cố lao lên mở lấy một đường thoát.
Một hôm người ta dẫn tới cho Kôjukh một tù binh hồng quân được tướng Pokrôvxki thả ra để đưa về cho ông một bức thư viết với giọng văn giản dị của nhà binh:

“Thằng khốn nạn, mày đã làm ô danh tất cả các sĩ quan của quân đội và hải quân Nga khi mày cả gan gia nhập hàng ngũ bọn bolsêvik, bọn trộm cướp và lưu manh; mày nên nhớ rằng mày và lũ côn đồ của mày đã đến ngày tận số. Tao đã nắm chắc số phận mày trong tay, thằng khốn nạn ạ, và không đời nào buông ra nữa. Nếu mày muốn hưởng khoan hồng, nghĩa là chỉ phải đền tội bằng án đày khổ sai chung thân thôi, thì mày phải thi hành mệnh lệnh của tao: ngay hôm nay phải hạ hết vũ khí và đưa cả lũ giặc cỏ của mày đến cách ga Bêlôretsenxkaia bốn năm dặm về phía tây, không được một đứa nào mang vũ khí. Sau khi đã thực hiện điều này, phải lập tức báo cho ta biết ở chòi bẻ ghi thứ tư...”.

Kôjukh vừa đọc bức thư này vừa uống nước chè trong một cái hộp sắt tây. Ông nhìn người lính hồng quân đi chân đất, áo sơ-mi không có nịt, đang đứng buồn thiu trước mặt ông.
“Anh ngốc quá đấy anh bạn ạ, - Kôjukh nói, - ai lại chuyển cho tôi những bức thư như thế này? Thôi về đơn vị đi...”.
Ngay đêm hôm ấy Kôjukh giáng vào quân Pokrôvxki một vố khủng khiếp, đánh tan và dùng kỵ binh truy kích các đơn vị của nó. Ông chọc một mũi vào Bêlôretsenxkaia và ra khỏi vòng vây. Đến cuối tháng chín quân đoàn Taman xuất hiện ở gần Armavir đang bị quân Đênikin chiếm đóng, dùng xung kích chiếm lấy thị trấn này và hợp được với tàn quân của Xôrôkin ở Nêvinnômyxxkaia.
Xôrôkin, sau cuộc bại trận ở Vyxelki và Êkatêrinôđar, đã mất hẳn uy tín trong quân đội. Sau khi đã say sưa nếm mùi men của chiến công lừng lẫy rồi lại thể hiện nỗi uất ức đắng cay của chiến bại, Xôrôkin ngày càng lùi xa mãi về phía đông, quay cuồng như một mảnh vỏ bào trên luồng nước xoáy của cái mà mới cách đây ít lâu còn được gọi là những sư đoàn, những đại đoàn, những trung đoàn. Bây giờ đó chỉ còn là những đám đông hễ nghe tiếng súng của địch là bỏ chạy. Trong khi rút lui, họ quét sạch tất cả trên đường đi. Họ chỉ mong có một điều: làm sao thoát cho nhanh khỏi cái chết đang treo lơ lửng sau gáy họ, rồi nhắm mắt bước thẳng. Những đoàn lính đào ngũ dài vô tận đi thất thểu trên những cánh thảo nguyên vùng Têrek, dọc theo con đường thiên lý của các dân tộc cổ đại phủ đầy ngải trắng và mộ cổ.
Từ Êkatêrinôđar ra đi có khoảng hai mươi vạn binh sĩ và dân lánh nạn. Những người ở lại đều bị quân cô-dắc chém chết, treo cổ, tra tấn. Trong thôn cô-dắc nào cũng có những xác chết treo lủng lẳng trên những cây phong hình chóp nhọn. Bây giờ người ta trả thù quân đỏ không thương tiếc vì không còn sợ họ trở lại nữa. Khắp vùng, người ta tiêu hủy cả cái danh từ bolsêvik.
Xôrôkin là một con người do cách mạng đẻ ra. Bằng một bản năng dã thú, ông ta cảm biết được những sự thăng trầm của nó. Bây giờ ông ta không đứng ra điều khiển cuộc rút lui nữa; có làm như thế cũng vô ích. Một sức mạnh tự phát đang dồn đoàn người về phía đông: sức mạnh đó chỉ ngừng thôi thúc khi sức ép của bạch quân đang truy kích giảm bớt đi.
Ông ta chỉ còn có cách hầm hầm nhìn ra cửa sổ của toa tàu đang lăn bánh qua những cánh thảo nguyên cháy xém, qua những nấm mồ chung đắp tùm lum lên như ngọn gò của người Pelajghi, người Celti, người German, người Xlavi, người Khojar. Đoàn tàu của ông ta có một đội vệ binh riêng bảo vệ, vì binh sĩ đi qua đều quát lớn:
- Anh em ơi, bọn chỉ huy đã bán rẻ chúng ta uống rượu hết rồi, hãy giết chết chúng nó đi, chúng tôi đã giết mấy thằng chỉ huy của chúng tôi rồi.
Tham mưu trưởng Bêlyakôv bước vào ngăn toa, thở dài, rồi bắt đầu ướm thử những câu nói mù mờ gợi ý rằng hiện nay không thể nào tiếp tục đấu tranh được nữa. “Cách mạng có những giai đoạn của nó, - ông ta luôn luôn nhắc đi nhắc lại, tay xoa xoa lên cái trán rộng, - cao trào đã qua, bây giờ các lực lượng tự phát đã nổi lên chống lại ta. Bây giờ ta đấu tranh không phải chỉ với bọn sĩ quan, mà với toàn dân. Cần phải kịp thời cứu vãn những thành quả của cách mạng... Dù có phải ký một hòa ước thỏa hiệp cũng phải ký...”. Và ông đưa ra những dẫn chứng hết sức tiêu biểu trong lịch sử...
“Mày định giả tao bao nhiêu tiền để mua cái thân tao đấy, thằng khốn nạn?” - Xôrôkin chỉ trả lời như vậy. Bây giờ mà Đênikin lọt vào tay ông ta thì ông ta nuốt sống. Nhưng ông ta căm nhất là các đồng chí của mình - cái ủy viên Chấp Ủy Kuban - Hắc hải lúc bấy giờ đã bỏ Êkatêrinôđar chạy về Pyatigorxk. Họ chỉ lo “tìm ra những biện pháp đối phó với những ý đồ độc tài của Xôrôkin...”. Họ không chịu thi hành những mệnh lệnh khẩn cấp, việc gì cũng can thiệp vào, họ đem cái ông Mác của họ len lỏi vào tận tâm hồn tổng tư lệnh.
Trong toa tiếp khách của Xôrôkin lại thấy xuất hiện cô Zinka tóc hung, - ở đây người ta cảm thấy có bàn tay ân cần của Bêlyakôv nhúng vào. Zinka vẫn tươi thắm và đầy sức quyến rũ như xưa, chỉ có giọng cô hơi khàn đi; bao nhiêu váy lụa của cô và cả cây đàn ghi ta của cô nữa, đều bị mất cắp trong cuộc hành quân. Cách cư xử của cô đối với tổng tư lệnh bây giờ có phần tự thị hơn trước.
Đêm đêm, khi những bức rèm trên các cửa sổ toa đã buông xuống và Xôrôkin đã rơi vào cái trạng thái cuồng loạn ảm đạm của ma túy, Zinka tay dạo trên phím đàn balalaika, lại giở những luận điệu y hệt như Bêlyakôv ra: cô ta nói lảm nhảm về sự cáo chung sắp tới của cách mạng, về cái vận mệnh huy hoàng của Napôlêông, bậc vĩ nhân đã biết cách bắc cầu từ chế độ khủng bố Jacôbanh sang nền đế chính. Mắt Xôrôkin bắt đầu bốc lửa, tim ông ta bóp mạnh, dồn lên óc một luồng máu nóng rực pha rượu cồn đến một nửa... ông ta giật tấm rèm đi và đưa mắt ra cửa sổ, nhìn vào bóng đêm chập chờn những hồi quang của trí tưởng tượng đang lên cơn sốt của ông ta.
Sức ép của bạch quân đã giảm bớt. Hồng quân sau một thời gian dài đã bám được vào tả ngạn sông Kuban về phía thượng lưu, cố thủ trong các chiến hào. Lúc bấy giờ Đmitri Jlôba, sư đoàn trưởng Sư đoàn thép, đưa một đoàn xe hơi vận tải từ Txaritxyn về qua các thảo nguyên Kirghizi. Ông chở về hai mươi vạn viên đạn và chuyển đạt mệnh lệnh của Hội đồng Quân sự Cách mạng gửi cho đạo quân ở Kavkaz: tiến quân về phía Bắc cứu viện cho Txaritxyn đang bị quân đoàn cô-dắc trắng của thủ lĩnh Ukraxnôv vây hãm.
Xôrôkin dứt khoát khước từ việc thi hành mệnh lệnh. Các trung đoàn Ukrain, đã chán ngấy cái cảnh phải chiến đấu trên đất người, đã nổi loạn và tự ý rời mặt trận. Họ không thèm đếm xỉa đến những lời khuyên nhủ và hăm dọa của Xôrôkin. Và chỉ có Jlôba, vốn quê ở Poltava, ngăn chặn được một bộ phận của quân đội. Ông nói với binh sĩ một cách từ tốn phải chăng, theo lối mu-gích, ông khen ngợi họ, khen ngợi mình. Lính Ukrain thấy rằng người đang nói chuyện với họ là một batkô - một thủ lĩnh đồng hương của họ, chứ không phải một cha căng chú kiết nào, cho nên đã nghe lời Đmitri Jlôba. Ông đưa họ vào chiến trận, và ở Nêvinnômyxxkaia hồng quân đã đánh tan được một đạo quân rất mạnh của sĩ quan. Việc này làm cho Xôrôkin căm thù ông dữ đội.
Sau khi mừng công Jlôba, Xôrôkin cử ông làm tư lệnh một bộ phận của mặt trận và ngay hôm ấy cũng bí mật ra lệnh tước hết vũ khí các đơn vị của ông, và đem bắn ông cùng với toàn thể các cấp chỉ huy thuộc quyền ông. Khi được biết mật lệnh này, Jlôba đưa cả Sư đoàn thép của ông, lúc bấy giờ đã được bổ sung thêm nhiều đơn vị Ukrain, ra khỏi mặt trận, và kéo qua các thảo nguyên đất mặn và các cồn cát lớn tiến về Txaritxyn, thi hành mệnh lệnh của Hội đồng quân sự cách mạng của Đạo Hồng quân thứ mười. Xôrôkin liền tuyên bố đặt ông ra ngoài vòng pháp luật, giao nhiệm vụ cho mỗi đội viên hồng quân phải bắn chết ông và cấm không ai được cung cấp lương thảo cho Sư đoàn thép. Nhưng Jlôba vẫn đi, và không một bàn tay nào dám sát hại ông. Dọc đường, mỗi khi cần lương thảo, ông cưỡi ngựa vào làng, ngả mũ ra, và nước mắt rưng rưng, ông xin ủy ban hành chính thôn cấp cho ông một ít cỏ khô, thóc tiểu mạch, lúa mì và phân trần rằng không phải ông, Jlôba, là kẻ phản bội, mà chính tổng tư lệnh Xôrôkin mới là một tên cướp bạch vệ và là kẻ phản trắc.
Chỉ ít lâu sau lòng tự ái của Xôrôkin lại phải chịu một phen thử thách thứ hai nữa: từ sau dãy núi, Kôjukh mà người ta tưởng là đã bị tiêu diệt, đột nhiên xuất hiện và chiếm Armavir như trở bàn tay, đánh bạt bạch quân sang bên kia sông Kuban. Quân Taman miễn cưỡng thi hành những mệnh lệnh của Xôrôkin, có khi không thèm thi hành nữa. Quân đoàn Taman, được tôi luyện trong cuộc hành quân vô cùng gian khổ, đã làm thành một nòng cốt vững chắc cho đoàn quân tơi tả của Xôrôkin. Bây giờ nó đã củng cố được vị trí trên suốt tuyến đường Armavir - Nêvinnômyxxkaia - Xtavrôpôl.
Ấy là vào mùa thu. Trên tuyến này đang diễn ra những trận huyết chiến kéo dài để giành giật Xtavrôpôl, một thành phố rất trù phú. Ở chỗ nào quân Taman cũng chiến đấu ở hàng đầu.
Bên phía Đênikin cũng xuất hiện một lực lượng mới - đội du kích trắng của Skurô, một kẻ giang hồ và đạo tặc, sống hết sức phóng đãng và liều mạng đã chiêu nạp đủ các phần tử lưu manh lại thành một đội bách cơ hung dữ như lang sói.
Đại bản doanh của Xôrôkin dời về Pyatigorxk. Xôrôkin không xuất hiện trên mặt trận nữa: lúc bấy giờ đã có những kỷ cương mới, chính quyền Moxkva đã trực tiếp chỉ đạo vùng Kavkaz, và mỗi ngày quyền chỉ đạo ấy một thêm vững chắc. Để mở đầu, đảng ủy địa phương ra quyết nghị thành lập một hội đồng quân sự cách mạng. Xôrôkin không dám lôi thôi với Moxkva, đành phải phục tòng. Những người được bầu vào hội đồng toàn là những người mới. Quyền của tổng tư lệnh được chuyển cho một tập thể phụ trách. Xôrôkin hiểu rằng đây là một vấn đề sinh tử của mình, liền bắt tay vào đấu tranh quyết liệt.
Trong những phiên họp của Hội đồng quân sự cách mạng, ông ta ngồi im, vẻ mặt lầm lầm; mỗi khi phát biểu, ông ta bảo vệ từng chữ một trong những ý kiến của mình. Và ông ta đã làm cho tất cả những ý kiến đó được thông qua, vì ở Pyatigorxk tập trung những đơn vị trung thành với ông. Người ta rất kiêng dè Xôrôkin và như vậy không phải là vô cớ. Ông ta vẫn tìm cơ hội để biểu dương quyền lực, và cuối cùng đã tìm ra cơ hội đó. Martynôv, tư lệnh lữ đoàn thứ hai của quân đoàn Taman, trong đại hội binh sĩ ở Armavir có tuyên bố rằng ông khước từ việc thi hành những mệnh lệnh chiến đấu của tổng tư lệnh. Xôrôkin liền đòi Hội đồng phải xử tử Martynôv. Ông ta dọa là nếu không xử tử Martynôv, quân đội sẽ lâm vào tình trạng vô chính phủ hoàn toàn. Không có cách gì cứu được Martynôv. Họ triệu Martynôv đến Pyatigorxk, bắt giam ông rồi đưa ra bắn trước mặt hàng quân. Một cơn bão phẫn uất nổi lên trong các trung đoàn Taman, họ tuyên thệ sẽ trả thù.
Một bộ tham mưu mới được thành lập bên cạnh tổng tư lệnh. Bêlyakôv bị gạt hẳn ra ngoài, và Xôrôkin không bênh vực gì ông ta. Viên tham mưu trưởng bàn giao công việc và tiền quỹ, rồi đến nhà người bạn cũ để giãi bày lần cuối cùng. Xôrôkin đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng. Trên bàn có một cây đèn bằng sắt tây đang cháy leo lét, mấy đĩa thức ăn chưa đụng đến, một chai vôđka mới uống được mấy ngụm. Ngoài cửa sổ, trong ánh chiều tà hanh khô, ngọn núi Masuk phủ rừng sừng sững hiện lên thành một khối đen sẫm...
Xôrôkin đưa mắt rất nhanh liếc nhìn người mới vào, rồi lại tiếp tục đi đi lại lại. Bêlyakôv ngồi xuống cạnh bàn, đầu cúi gầm. Xôrôkin đứng lại trước mặt ông ta, hất một bên vai:
- Uống tí vôđka nhé? Chén rượu tiễn biệt mà. - Ông ta cười khàn khàn, nhanh nhẹn rót ra hai cốc, nhưng không uống mà lại quay ra đi bách bộ như cũ. - Thời anh đã hết rồi anh bạn ạ... Và tôi khuyên anh nên liệu bề đi khỏi nơi này... Tôi sẽ không bênh anh đâu... Ngày mai tôi sẽ chỉ định một ủy ban để soát lại những hành tung của anh, anh hiểu chưa? Chắc là sẽ xử bắn...
Bêlyakôv ngẩng đầu lên nhìn ông ta, một gương mặt xám ngoét, hốc hác, đưa tay lên vuốt trán rồi buông thõng xuống.
- Một con người nhỏ bé, vô nghĩa... anh là thế đấy, - Bêlyakôv nói. - Tôi hết lòng với anh chỉ uổng phí tâm sức. Anh là một thằng hèn... Thế mà mình lại tấn phong hắn lên làm Napôlêông kia chứ... Loài chấy rận...!
Xôrôkin cầm cốc lên, - răng ông ta chạm côm cốp vào miệng cốc thủy tinh - rồi uống cạn. Đoạn lại đi bách bộ, hai tay đút vào túi áo Tserkex. Một lát sau ông đứng phắt dậy:
- Sẽ không tiến hành việc soát lại nữa. Xéo đi. Sở dĩ tao không bắn mày ngay bây giờ là vì còn nhớ đến công lao của mày. Mày nhớ lấy, và phải biết đánh giá điều đó cho đúng, hiểu chưa?
Hai cánh mũi ông ta phập phồng hít không khí, đôi môi tím bầm đi, toàn thân run cầm cập, cố trấn áp nỗi căm giận điên cuồng.
Bêlyakôv biết quá rõ tính khí của Xôrôkin. Mắt không rời viên tổng tư lệnh, ông ta lùi dần ra khỏi cửa và nhanh nhẹn đóng sập nó lại sau lưng, rồi cứ thế đi giật lùi qua sân. Ngay đêm ấy ông ta trốn khỏi Pyatigorxk.
Hết giờ này sang giờ khác, cạn hết chén này đến chén khác. Xôrôkin suy nghĩ suốt đêm. Người bạn cũ của ông ta, đã đầu độc ông ta bằng một giọt khinh bỉ, nhưng giọt thuốc độc ấy thật khủng khiếp, làm cho ông ta đau đớn không sao chịu nổi...
Ông ta đưa tay lên bưng mặt... Đúng, Bêlyakôv nói đúng... Hồi tháng sáu quả ông ta đã có được một quy mô hùng vĩ như Napôlêông, thế mà bây giờ cơ sự lại kết thúc bằng những buổi họp trong Hội đồng quân sự, luôn luôn phải kiêng dè bọn phái viên Moxkva... Điều Bêlyakôv nói ra chẳng phải là ý riêng của hắn... Trong quân đội, trong đảng chúng nó đều nói thế tất. Và Đênikin nữa, ôi Đênikin! ông ta sực nhớ tới cái bài đăng trong tờ nhật báo của bạch vệ ở Êkatêrinôđar, và giờ đây nó đâm sâu nọc vào suốt tim ông. Đó là một bài phỏng vấn Đênikin: “Tôi cứ tưởng trước mặt mình là một con sư tử, nhưng té ra đó chỉ là một con chó sợ sệt đội lốt sư tử... Vả chăng điều đó cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên. Xôrôkin trước kia và bây giờ cũng vẫn chỉ là một anh sĩ quan cô-dắc tầm thường, dốt nát, một anh trưởng cơ quèn”. Ôi, Đênikin! Hãy đợi đấy... Sẽ có ngày...: Mi sẽ hối hận.
Xôrôkin nắm chặt hai tay, nghiến răng ken két. Lao ra mặt trận, lôi cuốn toàn quân, đánh tan quân chúng nó, xéo nát bọn sĩ quan dưới vó ngựa, đốt sạch các làng cô-dắc, đột nhập vào Êkatêrinôđar... Ra lệnh giải Đênikin đến - bắt hắn ngay trên giường ngủ, đang mặc quấn lót... “À, Antôn Pavlôvits, có phải ngài đã ba hoa trên báo về cái chức trưởng cơ quèn đấy không? Đây, anh trưởng cơ ấy đang đứng trước mặt ngài đây, quan lớn ạ... Bây giờ thì thế nào nhỉ? Nên xẻo từng miếng thịt sau lưng ngài ra, hay chỉ nghìn rưỡi phát que thông nòng là đủ?”
Xôrôkin rên lên mấy tiếng, cố xua đuổi cơn mê sảng cứ ám ảnh ông ta... cõi thực thì quá tối tăm, bất định, nhục nhã, đầy lo âu... Phải quyết định một cái gì. Người bạn cũ, viên tham mưu trưởng, hôm nay đã giúp ông một việc cuối cùng... Xôrôkin ra cửa sổ. Một làn gió nhẹ đưa lại mùi hương khô khan, hăng hắc của những cánh thảo nguyên mọc đầy ngải đắng. Một dải sáng màu huyết dụ sâm sẫm nổi lên mờ mờ trên nền trời ảm đạm: đã sắp rạng đông. Và cái khối sừng sững màu tím của ngọn Masuk lại hiện lên mờ mờ... Xôrôkin cười nhạt: thôi thì cũng cảm ơn mày, Bêlyakôv ạ... Phải, phân vân do dự mà làm gì... Và ngay đêm ấy Xôrôkin đã quyết định đánh “được ăn cả ngã về không”.
Sau một thời gian do dự rất lâu, Hội đồng quân sự cách mạng của quân đoàn Kavkaz biểu quyết ra lệnh tấn công. Hậu cần được chuyển đến Xvyatôi Krext, quân đội tập trung ở Nêvinnômyxxkaia, và theo kế hoạch, sẽ xuất phát từ đấy tiến về Xtavrôpôl và Axtrakhan để hợp với Đạo Hồng quân thứ mười đang chiến đấu ở Txaritxyn. Đó cũng chính là cái kế hoạch mà Jlôba đưa từ Txaritxyn về.
Việc đánh chiếm Xtavrôpôl được giao cho quân đoàn Taman. Toàn quân bắt đầu chuyển động: hậu cần xuất phát về phía đông bắc, quân trực chiến xuất phát về phía tây bắc. Các chính trị viên và cán bộ tuyên truyền hét khản cả giọng, cổ vũ tinh thần các đơn vị, tung ra những khẩu hiệu bốc lửa. Các cấp chỉ huy đều ra mặt trận. Pvatigorxk vắng tanh. Ở lại đấy chỉ còn chính phủ địa phương - Chấp ủy Cộng hòa Hắc hải, và Xôrôkin với bộ tham mưu và đội vệ binh của ông ta. Trong lúc xuất quân khẩn trương không ai để ý thấy rằng chính phủ thật ra đang nằm trong tay tổng tư lệnh.
Một buổi tối nọ, Xôrôkin cưỡi ngựa phóng nước kiệu về nhà với một người cần vụ. Khi rẽ từ công viên thành phố lên con đường dốc, ngựa ông ta vấp phải một người vạm vỡ, lưng hơi gù, mặc chiếc áo va-rơi da. Người ấy lảo đảo đưa tay lên ôm bụng, nơi có đeo một khẩu súng lục lớn. Xôrôkin giận dữ cau mày, và nhận ra Ghymza. Lẽ ra giờ này Ghymza phải ở ngoài mặt trận... Ghymza bỏ tay xuống. Cái nhìn của đôi mắt sâu, lấp một nửa sau đôi lông mày, trông rất kỳ dị... Cái nhìn của Bêlyakôv trong buổi nói chuyện cuối cùng vừa qua cũng y như thế... Trên gương mặt đen bóng như thân ủng của Ghymza bỗng ánh lên một hàng răng trắng. Xôrôkin lặng người đi: cả thằng này nữa cũng cười!...
Xôrôkin ép cựa ủng vào sườn ngựa mạnh đến nỗi con vật thở đánh phì một tiếng, lồng lên và phi nước đại lên con đường dốc lát đá, trên đó một đàn cừu đi ăn cỏ về đang vừa kéo đi vừa kêu be be, đuôi phe phẩy, mùi lông xông lên nồng nặc. Đó là vào đêm rạng ngày mười ba tháng mười, Xôrôkin gọi đội trưởng đội vệ binh đến. Người này vừa liếc ra cửa sổ vừa thì thầm báo cáo rằng quả nhiên hôm nay Ghymza đã về Pyatigorxk đề nghị điều hai đại đội từ mặt trận về bảo vệ Chấp ủy... “Một thằng ngu cũng thừa hiểu những biện pháp này nhằm đối phó với ai, đồng chí Xôrôkin ạ!”
Khi những ngôi sao mùa thu đã lấp lánh với những tia sáng lộng lẫy nhất của nó trên quả núi Masuk và thành Pyatigorxk tối tăm đang yên giấc, đội vệ binh của Xôrôkin lặng lẽ lẻn vào nhà chủ tịch Chấp ủy Rubin, vào nhà hai ủy viên Vlaxôv và Đunaievxki, vào nhà ủy viên Hội đồng quân sự Krainy và vào nhà chủ tịch ủy ban mật vụ Rôjanxki, lôi họ ra khỏi giường và dí lưỡi lê vào lưng đưa họ ra ngoại thành, bên kia đường sắt, và không nói lấy một lời buộc tội nào, chúng bắn chết cả năm người.
Lúc bấy giờ Xôrôkin đứng trên trạm bằng ở đầu tòa riêng đỗ trước ga Lermôntôvô. Ông ta nghe thấy năm phát súng nổ trong đêm khuya tĩnh mịch. Một lát sau có tiếng người thở hổn hển và viên đội trưởng đội vệ binh vừa liếm môi vừa bước tới.
- Thế nào? - Xôrôkin hỏi.
- Đã thanh toán xong, - viên đội trưởng đáp, rồi nhắc lại tên những người bị giết.
Đoàn tàu chuyển bánh. Bây giờ tổng tư lệnh như mọc cánh bay ra mặt trận. Nhưng tin về cái tội ác không tiền khoáng hậu của ông ta còn bay nhanh hơn nữa. Mấy người cộng sản trong ủy ban địa phương, đã được Ghymza cảnh cáo từ hôm qua, đã lên xe rời Pyatigorxk trước cả Xôrôkin. Ngày mười ba tháng mười họ triệu tập ở Nêvinnômyxxkaia một cuộc họp của toàn thể mặt trận. Và trong khi Xôrôkin xuất hiện trước các đơn vị của quân đoàn mình, lộng lẫy như một vị vương bá phương đông, có hàng trăm vệ binh theo sau, có lính kèn thổi hiệu lệnh báo động, có quân kỳ riêng của tổng tư lệnh phi ở phía trước, - thì cuộc họp của toàn thể mặt trận ở Nêvinnômyxxkaia nhất trí đặt Xôrôkin ra ngoài pháp luật, quyết định bắt ngay ông ta giải về Nêvinnômyxxkaia và đưa ra tòa xử.
Những binh sĩ của quân đoàn Taman đi tàu ra mặt trận, khi gặp Xôrôkin, đã mở cửa toa đen quát chõ ra cho ông biết tin này. Xôrôkin liền trở lại ga và cho gọi các cấp chỉ huy sư đoàn lại. Không một ai đến. Ông ta ngồi ở nhà ga đợi đến tối, ra lệnh đóng ngựa và cùng với viên đội trưởng vệ binh phi vào thảo nguyên.
Ở Hội đồng quân sự cách mạng, nay chỉ còn lại ba người, đang lâm vào một tình trạng hoang mang đến cực độ: tổng tư lệnh đã mất hút trên thảo nguyên, quân đội thì không còn nghĩ gì đến tấn công nữa, chỉ đòi xét xử và hành hình Xôrôkin. Nhưng cái bộ máy gồm hai mươi vạn con người vẫn tiếp tục khai triển, không còn gì có thể ngăn nó lại được nữa. Và đến ngày hai mươi tháng mười đã bắt đầu cuộc tấn công của quân đoàn Taman vào Xtavrôpôl và đồng thời là cuộc phản công của bạch quân. Ngày hai mươi tám, tất cả các chỉ huy sư đoàn đều cho biết là đang thiếu đạn đại bác cũng như đạn súng trường, và nếu ngày mai không chở đến kịp cho họ thì không thể nào mong thắng trận được. Hội đồng quân sự cách mạng trả lời là không làm gì có đan đại bác và đạn súng trường, “hãy đánh chiếm Xtavrôpôl bằng lưỡi lê trần...”. Đêm rạng ngày hai mươi chín, hai đạo quân được chọn làm mũi nhọn xung kích. Dưới sự yểm hộ của pháo binh đang bắn nốt những quả đạn cuối cùng, họ tiến về làng Tatarxkaia, cách Xtavrôpôl mười lăm dặm, nơi bắt đầu chiến tuyến của bạch quân. Một vầng trăng lớn mọc trên thảo nguyên, trông như làm bằng đồng - đó là hiệu lệnh xuất kích, vì trong quân đội chẳng còn quả pháo hiệu nào nữa... Đại bác im bặt... Những đội xung kích Taman không một phát súng xông tới các chiến hào tiền duyên của địch, nhảy xuống đánh lưỡi lê. Bấy giờ kèn của đội nhạc binh và trống trận nổi lên, và những đám xung kích dày đặc của hai đạo quân xông tới trong tiếng nhạc thay cho đạn và thủ pháo, vượt lên trước các đội nhạc binh, ngã gục hàng trăm dưới làn đạn súng máy, thọc sâu vào tuyến công sự chính của địch. Bạch quân rút lên mấy quả đồi, nhưng xung kích cũng chiếm luôn cả các cao điểm ấy trong một đà xung phong không gì cưỡng nổi. Quân địch chạy về phía thành phố. Những đội bách cơ cô-dắc đỏ rượt theo họ. Sáng ngày ba mươi tháng mười quân đoàn Taman tiến vào Xtavrôpôl.
Ngày hôm sau trên phố chính người ta thấy tổng tư lệnh Xôrôkin cưỡi ngựa đi cùng với viên đội trưởng đội vệ binh, vẻ rất bình thản, chỉ có sắc mặt xanh xao và mắt nhìn xuống đất. Những người lính hồng quân trông thấy ông thì há hốc mồm ra và lùi lại: “Quỷ từ thế giới bên kia hiện về chắc?”.
Xôrôkin xuống ngựa trước trụ sở Xô viết, trước cổng còn lủng lẳng tấm biển đã bị giật đứt một nửa đề “Đại bản doanh tướng quân Skurô”. Đây là nơi tụ họp của các đại biểu và ủy viên Chấp ủy hãy còn sống sót. Ông ta mạnh dạn bước lên thang gác, hỏi một quân nhân đang hối hả lùi lại khi trông thấy ông ta: “Hội nghị toàn thể họp ở đâu?” - rồi xuất hiện trong phòng họp, bên bàn chủ tịch đoàn, kiêu hãnh ngẩng cao mái đầu lên và nói với cử tọa đang sửng sốt bối rối:
- Tôi là tổng tư lệnh. Quân của tôi đã đánh dập đầu lũ giặc Đênikin và phục hồi chính quyền Xô viết trong thành phố và trong tỉnh. Hội nghị quân sự họp một cách tự tiện ở Nêvinnômyxxkaia đã trắng trợn tuyến bố đặt tôi ra ngoài pháp luật. Ai cho hội nghị ấy cái quyền làm như vậy? Tôi yêu cầu phải thành lập một ban điều tra về những cái gọi là “tội ác” của tôi. Trước khi có kết luận của ban điều tra tôi sẽ không từ bỏ quyền tổng chỉ huy của tôi...
Nói xong, ông ta ra khỏi trụ sở để lên ngựa. Nhưng xuống đến cầu thang bỗng có sáu người lính hồng quân của trung đoàn 3 quân đoàn Taman nhảy xổ vào vặn trái tay ông ta lại.
Xôrôkin lặng lẽ chống cự, vùng vẫy điên cuồng, trung đoàn trưởng Vixlenkô vung roi ngựa quất vào đầu ông ta, quát: “Này, xử tử Martynôv này, con rắn độc!...”
Xôrôkin bị tống ngục. Binh sĩ Taman náo động lên, sợ Xôrôkin vượt ngục hay có cách gì thoát khỏi vụ án. Hôm sau, khi Xôrôkin được đưa đi hỏi cung, ông ta thấy Ghymza ngồi ở bàn chủ tịch và hiểu rằng mình đã tận số. Bấy giờ trong người ông ta lại dấy lên một lần nữa tất cả niềm khao khát được sống. Ông đập bàn chửi vung lên.
- Chính tao cũng sẽ xét xử chúng mày như thế này, quân ăn cướp! Phá kỷ luật, vô chính phủ, phản cách mạng ngấm ngầm! Tao sẽ trừng trị chúng mày như đã trừng trị tên khốn kiếp Martynôv...
Ủy viên Vixlenkô ngồi bên cạnh Ghymza, mặt tái nhợt ra như tờ giấy, thò tay rút từ sau lưng ra một khẩu browning cỡ lớn bắn hết cả một băng đạn.
Phần tiếp theo của kế hoạch - tiến từ Xtavrôpôl đến sông Volga - không thể thực hiện được nữa. Đoàn kỵ binh lang sói của Skurô đột nhập vào hậu phương và cắt đứt quân đoàn Taman ra khỏi căn cứ của nó là Nêvinnômyxxkaia. Đênikin tập trung tất cả lực lượng bao vây Xtavrôpôl, cho điều từ Kuban về các đạo quân của Kazanôvits, Đrojđôvxki, Pokrôvxki, đoàn kỵ binh của Ulagai và sư đoàn kỵ binh Ukrain mới thành lập, người chỉ huy vốn là một kỹ sư mỏ, bắt đầu tòng ngũ với chức hạ sĩ quan hồi chiến tranh thế giới, và bây giờ là tướng Vrangel.
Quân đoàn Taman chiến đấu hai mươi tám ngày. Hết trung đoàn này đến trung đoàn khác bị tiêu diệt trong vòng đai sắt của quân địch được vũ trang rất đầy đủ. Mùa mưa bắt đầu. Quân đoàn không có áo khoác, không có ủng, không có đạn. Chẳng biết trông mong cứu viện từ đâu đến nữa: phần còn lại của Hồng quân Kavkaz, bị cắt ra khỏi Xtavrôpôl, đã rút về phía đông.
Quân Taman lồng lộn trong vòng đai, những đợt phản kích của họ rất khủng khiếp và đổ máu. Quân đoàn trưởng Kôjukh nằm liệt giường vì bệnh sốt phát ban. Hầu hết các sĩ quan ưu tú đều tử trận hay bị thương. Vào giữa tháng một, quân Taman mới chọc thủng được chiến tuyến. Quân đoàn Taman anh dũng nay chỉ còn lại những đám tàn quân thiểu não, không có giày, không có áo. Khi rời Xtavrôpôl, họ rút về phía đông-bắc, đi về Blagôđatnôiê. Không có đơn vị Bạch quân nào truy kích họ: mùa mưa đã bắt đầu, thời tiết mùa thu làm cho cuộc tấn công của bạch quân phải dừng lại.

12

Một năm về trước, vào tháng mười, các dân tộc trên đất Nga đã đòi kết thúc chiến tranh. Hàng triệu tiếng rên la và gào thét: đã đảo chiến tranh, đả đảo giai cấp tư sản kéo dài chiến tranh, đả đảo đẳng cấp quân phiệt chỉ đạo chiến tranh, đả đảo giai cấp địa chủ nuôi dưỡng chiến tranh, - đã hòa lại làm một trong phát đại bác quyết liệt từ tuần dương hạm “Rạng đông” bắn vào Cung điện Mùa Đông.
Khi phát đại bác này xuyên thủng cái mái nhà nặng trĩu oan cừu, được trang trí bằng những bức tượng chì và những dãy bình đen, rồi nổ tung trong căn phòng ngủ của Sa hoàng với chiếc giường hãy còn hơi ấm, nơi Kêrenxki rút ngắn bớt những đêm mất ngủ vì loạn thần kinh; có ai dè đâu cái tiếng hô tưởng chừng như cuối cùng đó của cách mạng tuyên chiến với các tòa lâu đài và đem hòa bình lại cho các nếp nhà tranh, lại vang đi vọng lại mãi trên khắp đất nước rộng mênh mông, tiếng vọng ngày càng dữ dội thêm, nhiều thêm lên, to lớn thêm lên mãi rồi bùng ra thành một trận bão điên cuồng.
Ai có dè đâu đất nước vừa mới buông vũ khí xuống đã lại cầm vũ khí đứng lên trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp với giai cấp, giữa dân nghèo với kẻ giàu... Ai có ngờ rằng cái dúm sĩ quan của Kornilôv lại bành trướng ra thành đạo quân khổng lồ của Đênikin; rằng cuộc nổi loạn của các đoàn tàu chở lính Tiệp lại làm cho chiến tranh bao trùm khắp miền Volga trên một mặt trận dài hàng nghìn dặm, và chuyển sang Xibiri để bành trướng ra thành nền dân chủ của Koltsak; rằng cuộc phong tỏa sẽ bọc xung quanh đất nước Xô viết như một vòng tay sắt, và trên khắp thế giới, những tấm bản đồ địa lý và những quả địa cầu mới xuất bản đều để lại một phần sáu diện tích của thế giới không tô màu, coi như đó là một chỗ trống, một chỗ không tên, xung quanh vạch một đường viền đậm nét.
Ai có dè đâu nước Đại Nga, bị cắt đứt liên lạc với các đại dương, với các tỉnh có lúa mì, với than đá và dầu hỏa, đói khát, bần cùng, lên cơn sốt phát ban, vẫn không chịu khuất phục: nghiến răng lại, hết đợt này đến đợt khác nó lại gửi con cái của nó vào những trận ác chiến... Một năm về trước, quần chúng trốn khỏi mặt trận, đất nước dường như đã trở thành một đầm lầy vô chính phủ, không còn nguyên lý tồn tại, nhưng sự thật không phải như thế: trong nước đã xuất hiện những sức đoàn kết mãnh liệt, và ở bên trên sự tồn tại phôi thai đã bay bổng lên những ước mơ vĩ đại về công bằng. Xuất hiện những con người phi thường trước kia chưa hề thấy, và khắp nơi bắt đầu truyền tụng những hành vi của họ một cách ngạc nhiên và sợ hãi.
Ở bên trong, đất nước Xô viết rung chuyển lên vì những cuộc nổi loạn. Cùng một lúc với cuộc phiến loạn ở Yaroxlavl (sau đó lan tới Murôm, Arzamax, Roxtôv, Vêliki và Rybinxk) ở Moxkva lại bùng ra cuộc phiến loạn của bọn “xã hội cách mạng cánh tả”. Ngày mồng sáu tháng bảy, hai người trong nhóm này, cầm những tờ giấy có chữ ký giả mạo của Đzerjinxki, đã đến gặp đại sứ Đức Mirbach và trong khi nói chuyện đã bắn vào ông ta và ném một quả bom. Viên đại sứ đã bị viên đạn sau cùng bắn trúng gáy chết ngay trong khi ông chạy ra khỏi phòng. Cũng tối hôm ấy trong khu Tsixtyê Pruđy và đại lộ Yauzxki xuất hiện những đội thủy thủ võ trang và bộ binh hồng quân. Họ chặn những chiếc xe hơi và những người qua đường lại lục soát, tước đoạt vũ khí và tiền bạc, rồi giải đến tòa biệt thự của Morôzôv trong ngõ Triôkhxvyatitelxki - đại bản doanh của tư lệnh quân phiến loạn. Ở đây người ta đã bắt giam Fêlikx Đzjerjinxki khi ông thân hành đến biệt thự này để tìm cho ra kẻ đã giết Mirbach. Những cuộc bắt bớ diễn ra suốt buổi tối và diễn kéo dài đến hai ba giờ sáng. Quân phiến loạn chiếm nhà bưu điện. Nhưng họ chưa dám bắt tay vào những hành động quyết liệt để đánh vào thành Kremlim. Họ có khoảng hai nghìn người, lập chiến tuyến từ khu Yauza đến khu Tsixtyê Pruđy.
Phương tiện bảo vệ Kremlim đêm hôm ấy là điện thoại và những bức thành cổ. Quân đội đóng doanh trại ở bãi Khođynxkôiê, một bộ phận đã về nghỉ phép nhân dịp lễ thánh Ivan Kupala. Tình hình trong thành Kremlim trở nên hết sức khẩn trương. Tuy vậy đến gần sáng hồng quân cũng huy động được khoảng tám trăm chiến sĩ, ba đội pháo binh và một số xe bọc sắt: đến bảy giờ sáng bộ đội mở cuộc tấn công và dùng đại bác bắn sập tòa biệt thự của Morôzôv ở ngõ Trikhôxvyatitelxki. Trận chiến đấu khá ồn ào, nhưng chẳng có mấy người thương vong - “quân đội” xã hội cách mạng cánh tả chạy qua các ngõ hẻm, các sân sau và trốn đi đằng nào không rõ. Người chỉ huy họ là Popôv, một gã thanh niên có đôi môi dày và đôi mắt điên dại, đã trốn ra khỏi Moxkva. Một năm sau hắn xuất hiện trong hàng ngũ của Makhnô với tư cách trưởng ban phản gián và nổi tiếng là tàn ác một cách tinh vi.
Cuộc phiến loạn đó đã bị đập tan ở Moxkva và trên sông Volga. Nhưng nó vẫn âm ỷ khắp nơi: dân Nga liên tiếp nổi lên chống quân bolsêvik, chống quân Đức, chống bạch vệ. Các làng mạc kéo nhau đi cướp phá các thành thị. Các thành thị lật đổ chính quyền Xô viết. Bắt đầu một thời đại của những nước cộng hòa độc lập, mọc lên và đổ xuống như những cây nấm sau cơn mưa, có những nước cộng hòa có thể cưỡi ngựa đi từ sáng đến chiều là hết một vòng biên giới.
Chính quyền Xô viết cố dùng mọi biện pháp đề khắc phục tình trạng hỗn loạn. Và thời gian này nó lại bị giáng một đòn khủng khiếp nữa: ngày ba mươi tháng tám, sau cuộc mít tinh ở nhà máy Mikhelxôn, sau trạm kiểm soát Butyrxkaia, một nữ đảng viên “xã hội cách mạng cánh hữu” tên là Kaplan (trong tổ chức của người có chiếc kim găm cavát hình sọ người) đã bắn vào Lênin và làm cho ông bị thương nặng.
Ngày ba mươi mốt, trên các phố Moxkva người ta thấy một tốp người mặc y phục toàn bằng da đen từ đầu đến chân xếp thành hàng ngũ đi chính giữa phố, cầm một tấm biểu ngữ chỉ đề hai chữ “Khủng bố”... Ngày đêm ở các nhà máy Moxkva và Pêtrôgrađ công nhân đều họp mít tinh đòi thi hành những biện pháp quyết liệt nhất
Ngày mồng năm tháng chín, các báo cáo Moxkva và Pêtrôgrađ ra với một dòng chữ ghê rợn sau đây:

KHỦNG BỐ ĐỎ

“... Nay chỉ thị cho tất cả Xô viết phải tiến hành bắt ngay bọn xã hội cách mạng cánh hữu, những phần tử thuộc giai cấp tư sản lớn và thuộc giới sĩ quan, giữ họ lại làm con tin... Hễ có dấu hiệu tỏ ra có ý định trốn tránh hay mưu đồ nổi loạn, phải lập tức đem bắn hàng loạt không xét xử... Chúng ta cần đảm bảo tức thời và vĩnh viễn cho hậu phương chúng ta khỏi bị bọn bạch vệ khốn kiếp quấy nhiễu... Không được chần chừ một phút nào trong việc thực hiện chính sách khủng bố đỏ...”

Thời gian này trong các thành phố điện được cung cấp rất dè xẻn, tối đến có từng khu phố liền không có ánh sáng. Và dân cư các khu phố khá giả đều kinh hãi khi trông thấy những sợi dây trong các bóng đèn điện đỏ lên mờ mờ... Những đội công nhân vũ trang thường ghé vào những nhà có cái ánh sáng báo hiệu giờ chết ấy...
Năm mười tám sắp kết thúc trong trận cuồng phong dữ dội đang hoành hành trên đất Nga. Nước mưa nặng trĩu trên những đám mây thu ảm đạm. Mặt trận lan ra khắp nơi - ở vùng cực bắc xa xôi, ở vùng thượng lưu sông Volga gần Kazan, ở vùng hạ lưu sông Volga gần Txaritxyn, ở vùng Bắc Kavkaz, ở các biên giới của vùng bị quân Đức chiếm đóng. Các chiến hào kéo dài hàng nghìn dặm liên tục. Mùa thu sang không gieo chút vui nào vào lòng các chiến sĩ, và nhiều người nhìn lên những đám mây từ phương bắc trôi về mà nghĩ đến quê hương, nơi gió đang thổi tung lớp rạ lợp trên mái nhà, sân thì mọc đầy ké dại, khoai tây thì bỏ thối ở ngoài đồng. Trong khi đó chiến tranh vẫn chưa biết đến bao giờ mới kết thúc. Trước mặt họ là những đêm trường tối như bưng, và trong đêm tối họ mường tượng trông thấy ánh đèn nhựa thông từ đời xưa để lại leo lét trong những căn nhà thân thuộc, nơi những cụ già và những đứa trẻ đang mỏi mắt chờ con, chờ bố về mà mãi vẫn chẳng thấy, và nghe kể chuyện về những sự việc khủng khiếp đến nỗi trẻ con nằm trên lò sưởi phải khóc thét lên.
Sau khi nước cộng hòa đã dẹp yên những cuộc phiến loạn, để đối phó với cái tâm trạng buồn chán rã rời mà mùa thu đã gieo vào lòng binh sĩ, Trung ương Đảng huy động ở Moxkva, ở Pêtrôgrađ, ở Ivanôvô - Vôznexenxk những đảng viên cộng sản kiên định nhất và phái họ về quân đội. Những chuyến xe lửa chở các đảng viên trung kiên tiến về các mặt trận, dọc đường luôn luôn đối phó với những hành động phá hoại cố ý hay vô tình của các nhân viên đường sắt. Chế độ khủng bố khắc nghiệt cũng thấm vào quân đội. Từ những đơn vị rã rời tơi tả người ta un đúc thành những binh đoàn phục tòng ý chí thống nhất của hội đồng quân sự. Lòng dũng cảm và chí kiên cường trở thành bổn phận tất yếu của mỗi người. Sự đớn hèn đước xếp ngang hàng với sự phản bội. Thế rồi mặt trận đỏ chuyển sang tấn công. Sau một trận đánh ngắn gọn, họ chiếm Kazan, rồi Xamara. Các đơn vị bạch vệ hoảng hốt bỏ chạy trước cuộc khủng bố đỏ. Ở gần Taritxyn, nơi Xtalin làm việc với tư cách ủy viên hội đồng quân sự cách mạng của đạo hồng quân thứ mười, đã diễn ra một trận huyết chiến rất lớn với quân đoàn cô-dắc trắng của thủ lĩnh Kraxnôv được bộ tổng tham mưu Đức trang bị và động viên...
Nhưng tất cả những sự kiện đó đều chỉ là đoạn mở đầu của một cuộc đấu tranh vĩ đại, một cuộc biểu dương sức mạnh trước khi bước vào những biến cố chủ yếu của năm mười chín.
Ivan Ilyts Têlêghin đã hoàn thành nhiệm vụ của Ghymza giao. Trong những trận đánh ở Kazan chàng đã được giao nhiệm vụ chỉ huy một trung đoàn và là một trong những chiến sĩ đầu tiên tiến vào Xamara.
Vào một ngày thu nồng nực, chàng cưỡi con ngựa nhỏ lông dài đi bước một ở phía trước trung đoàn trên phố Đvoiyanxkaia. Đoàn quân đi qua cái quảng trường có tượng Alekxanđr đệ nhị (người ta đã vội vã lấy ván đóng kín nó lại). Và đây là ngôi nhà thứ hai kể từ góc phố... Ivan Ilyts cúi đầu, - chàng biết mình sẽ trông thấy gì, nhưng tim chàng vẫn se lại, bồi hồi xót xa. Ở nhà bác sĩ Bulavin tất cả các cửa sổ ở tầng hai đều đã vỡ toang. Trên lưng ngựa chàng có thể nhìn thấy tất cả: đây là cánh cửa gỗ dẻ nơi Đasa đã hiện ra như trong một giấc chiêm bao, đây là căn phòng làm việc, cái tủ sách đã đổ xuống, bức chân dung Menđêlêyev lệch nghiêng về một bên, kính đã rạn nứt...
Đasa bây giờ ở đâu? Nàng ra sao? Dĩ nhiên chẳng có ai trả lời được.

Hết Tập II

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét