Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2019

Pie Đệ Nhất - Phần VI (Ch 136 - Ch 150)

Pie Đệ Nhất

Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000

Chương 136

Người ta đặt tên lại cho thành Notebo là Sluxenburg: thành phố - chìa khóa, rồi lấp lỗ hổng, lợp mái gỗ lên các tháp đã bị đốt cháy. Một đạo quân đồn trú ở đó.
Quân đội đến đóng ở các doanh trại mùa đông.
Vua Piotr trở về Moskva.
Ở cửa ô Miaxniskie, các đại thương gia, cờ phướn đi đầu ra tiếp đón Sa hoàng trong tiếng chuông nhà thờ rộn rã. Phố Miaxniskaia trải dạ đỏ trên một quãng dài một trăm xagien. Các thương nhân vừa tung mũ lên không vừa hô một tiếng nước ngoài: “Vạn tuế!”.
Vua Piotr đứng trên một cỗ xe thếp vàng có hình thần Mars (Thần chiến tranh); phía sau, những lá cờ Thụy Điển kéo lê dưới đất, rồi đến đám tù binh, đầu cúi gằm.
Trong một cỗ xe ngựa cao bốn bánh. Nikita Zotov, đại vương trùm đạo, cưỡi trên mình một con sư tử gỗ, đầu đội mũ tế bằng sắt tây áo choàng bằng vải bông đỏ, tay cầm một thanh gươm và một chai vodka.
Moskva tiệc tùng phè phỡn hai tuần ròng rã: âu cũng là một dịp đáng ăn mừng. Nhiều vị tai to mặt lớn ốm và chết vì quá chén. Tại Hồng trường, người ta nướng bánh, khoản dãi dân các đại xã và dân thành phố. Tiếng đồn là Sa hoàng đã ra lệnh phát bánh quế làm ở Viazma và khăn tay, nhưng bọn đại thần đã lừa dân chúng, dân các làng xa xôi kéo về để lấy bánh.
Đêm đêm, pháo thăng thiên vọt lên trời, bên trên các tháp của điện Kreml; những pháo hoa hình “mặt trời” đỏ rực quay tít trên các tường thành.
Hội hè, vui chơi quá đỗi đến nỗi một đám cháy lớn bùng ra vào ngày lễ Cầu xin Đức Thánh Mẫu. Lửa cháy tại điện Kreml, ở khu Kitaigorod, gió thổi mạnh, tàn lửa bay qua sông Moskva. Lửa lan ra khắp thành phố, hết đợt nảy đến đợt khác. Dân chúng bỏ chạy về phía các cửa ô.
Vua Piotr, giữa đám khói lửa mù mịt phi ngựa kéo một máy bơm chữa cháy của Hà Lan.
Chẳng làm sao cứu được gì. Điện Kreml cháy thành tro, trừ điện Nizni Dvor và lâu đài họ Kokoskin. Lâu đài cũ cũng cháy, người ta chỉ vừa kịp đưa công chúa Natalia và hoàng tử Aleksey ra ngoài; tất cả các bộ, các tu viện, các kho đạn dược đều làm mồi cho lửa, các quả chuông ở tháp Ivan Veleki rơi xuống; quả chuông lớn nhất nặng tám nghìn pud nứt ra.
Về sau, người ta nói trên đống tro tàn: “Cứ trị vì đi Sa hoàng, rồi còn được thấy nhiều đám cháy nữa!”.
Để mừng con trai Gavrila từ Hà Lan về, Brovkin đã họp tất cả gia đình lại sau buổi lễ chầu: Aleksey mới được thăng trung tá; Yakov làm hoa tiêu ở Voronez, tính lầm lì, tiếng nói ồm ồm, người sặc mùi thuốc lá; Artamon và vợ là Natalia, anh ta làm phiên dịch và tùy viên của Safirov tại Bộ các sứ thần. Natalia có mang lần thứ ba, đã đẫy ra, đẹp và lười nhác.
Ivan Artemist không ngừng ngắm nghía cô con dâu; có cả Roman Borisovich với các con gái.
Mùa thu năm ấy, người ta đã gả được Antonida cho trung úy Benkin, dòng dõi hèn kém nhưng được Sa hoàng trọng hậu, hiện nay Benkin ở Ingri. Còn Olga thì vẫn mòn mỏi với số phận gái chưa chồng.
Roman Borisovich đã già đi trong vòng mấy năm gần đây chính vì phải uống rượu nhiều quá. Lão không có thì giờ ngủ một giấc sau một bữa tiệc, - một người lính cầm lệnh đã đứng chờ lão ở bếp từ sáng: ngày hôm đó lão phải có mặt chỗ ấy chỗ nọ.
Roman Borisovich đeo bộ ria gai - chính lão đã phát minh ra cái trò này - cầm một thanh gươm gỗ rồi đi phục vụ Sa hoàng.
Những vị “đại thần hầu bàn” gồm có sáu người, tất cả đều dòng dõi danh gia thế phiệt, người được tuyển vì ngu ngốc, người vì đã đê hèn tố giác ai đó, và dùng để mua vui cho Sa hoàng. Đứng đầu cà bọn là vương hầu Sakhovxkoi, một lão già gầy đét, nhỏ bé, hay vu oan giá họa, đồ đệ Lưu linh và lúc nào cũng muốn hại người.
Công việc chẳng có gì là đặc biệt vất vả: thường thường, sau món ăn thứ năm, khi mọi người nốc rượu đã nhiều, Piotr Alekseevich đặt tay lên bàn, vươn cổ ra nhìn tứ phía và nói to:
- Ta thấy Ivasko Khmenniski tấn công ta dữ lắm đấy, liệu đừng có chùn!
Tức thì Roman Borisovich rời bàn đứng dậy, đeo bộ ria gai vào, cưỡi lên một con ngựa gỗ nhỏ có bánh xe. Người ta đưa lão một cốc rượu, lão phải giơ cao thanh gươm, hăng hái nốc cạn rồi nói:
- Chết thì chết nhưng ta không chịu đầu hàng.
Bọn lùn, bọn ngốc, bọn hề, bọn gù ùa lại, miệng kêu the thé, và kéo Roman Borisovich ngồi trên mình ngựa chạy quanh bàn. Và như thế là xong, trừ phi Sa hoàng bày ra một trò chơi khác.
Hồi đó, Ivan Artemist vui: gia đình lão đủ mặt, công việc làm ăn phát đạt chẳng thể nào hơn, ngay cả đám cháy cũng không bén đến nhà họ Brovkin. Chỉ còn thiếu có cô con gái cưng của lão là Alekxandra. Chính Gavrila, một thanh niên điềm tĩnh vừa tốt nghiệp trường hàng hải ở Amsterdam, đang nói chuyện về chị.
Alekxandra lúc đó sống ở La Hay với phái đoàn của sứ thần Andrey Artamonovich Matveev, nhưng hai vợ chồng không ở tại sứ quán, họ thuê một nhà riêng. Họ có ngựa nòi, xe ngựa bốn bánh và cả một chiếc du thuyền hai cột buồm...
“Thế kia à?”, Ivan Artemist ngạc nhiên, mặc dù chính lão đã giấu Sa hoàng bí mật gửi cho Xanka những số tiền lớn để mua ngựa và du thuyền.
Vợ chồng Volkov đã rời khỏi Warsawa từ hơn một năm nay, khi vua Auguste chạy trốn trước quân Thụy Điển. Họ dừng lại Berlin, nhưng không lâu lắm. Alekxandra không ưa triều đình vua Đức: nhà vua thì keo bẩn, nàng nói vậy, nhưng người Đức thì sống một cuộc đời tẻ ngắt, họ hà tiện, đếm từng miếng.
- Ở La Hay, nhà Alekxandra lúc nào cũng đầy khách, - Gavrila kể. - Chẳng có ai là khách sang trọng, phần lớn toàn hạng người chẳng ra gì: những kẻ giang hồ, họa sĩ, nhạc sĩ, bọn Ấn Độ biết phép trừ vận hạn... Chị ấy đi chơi thuyền với họ trên kênh, ngồi trên boong, trên ghế đẩu và gẩy thụ cầm.
- Nó đã học gẩy đàn kia à? - Ivan Artemist vừa kêu lên vừa chắp hai tay lại và đưa mắt nhìn cả gia đình.
- Khi chị ấy ra phố, mọi người đều chào nhưng chị chỉ gật đầu đáp lại, như thế này. Ít khi chị ấy cho phép Vaxili ra tiếp khách, và Vaxili lại lấy thế làm bằng lòng, anh ta trở nên dịu dàng, mơ mộng, tay luôn luôn cầm một cuốn sách, đọc cả tiếng La-tinh, đi thăm các công trường đóng tàu, các nhà bảo tàng và Sở giao dịch chứng khoán, quan sát.
Trước khi Gavrila trở về, Xanka có nói với em là ngay cả La Hay, nàng cũng đã chán rồi; người Hà Lan lúc nào cũng chỉ nói đến buôn bán và tiền, họ không có phong cách lịch sự với phụ nữ; khi khiêu vũ, họ dẫm cả lên chân phụ nữ... Nàng muốn đi Paris.
- Nó cứ nhất định nhảy điệu nhịp ba với vua Pháp? A, con bé mới gớm chứ, - Ivan Artemist nói to; nhưng đôi mắt lão nhếch lên vì thích thú. - Nói cho ta biết, thế nó định bao giờ mới trở về nhà?
- Đôi lúc khi đã chán bọn giang hồ, chị ấy bảo con: Griska, em biết không, chị muốn ăn phúc bồn tử ở vườn nhà quá... Chị sẽ đánh đu dây trong vườn, bên bờ sông Moskva.
- Thế ra chẳng có gì làm lòng người ta quên được đất nước.
Ivan Artemist sẵn sàng nghe kể chuyện về cô con gái Alekxandra suốt cả ngày.
Vua Piotr và Melsikov đến giữa bữa ăn. Ít lâu nay Sa hoàng thường đến đây luôn. Nhà vua gật đầu chào mọi người và nói với Roman Borisovich lúc ấy đang run bần bật:
- Cứ ngồi yên, hôm nay nhà ngươi được tự do. - Nhà vua dừng lại trước cửa sổ và ngắm nhìn hồi lâu những dấu vết của đám cháy. Ở các phố mới đây còn đông đúc nhộn nhịp, chỉ còn nhô lên trên đống gạch vôi đổ vỡ những cột ống khói, những ngôi nhà thờ nhỏ đã bị cháy mất nóc. Một cơn gió mạnh thổi tung từng đám mây tro.
- Một nơi hoang tàn, - nhà vua nói dằn từng tiếng.- Ở nước ngoài, các thành phố đứng vững hàng nghìn năm, còn thành phố này thì cứ cháy mãi..., Moskva!
Sa hoàng buồn rầu ngồi vào bàn, ăn nhiều và chẳng nói một lời. Nhà vua gọi Gavrila và nghiêm nghị hỏi, đã học được những gì ở Hà Lan, đã đọc những sách gì, rồi bảo anh lấy giấy bút vẽ các bộ phận của một chiếc tàu, các loại buồm, sơ đồ một pháo đài bờ biển. Có một lúc, vua Piotr bác những ý kiến của Gavrila, nhưng anh cứ khăng khăng không chịu. Nhà vua vỗ vào đầu anh.
- Ta thấy cha ngươi nuôi ngươi ăn học không phải là uổng công.
Nghe câu nói đó, Ivan Artemist ứa nước mắt, khịt khịt mũi vì sung sướng. Vua Piotr châm tẩu thuốc và đi về phía cửa sổ, nói:
- Này, Artemist, phải xây dựng một thành phố mới!
- Tâu bệ hạ, ta sẽ xây chứ, một năm nữa, nhà cửa sẽ lại được dựng lên.
- Không phải ở đây.
- Thế thì ở đâu, tâu bệ hạ? Đây là chốn cũ, quen thuộc, nói cho cùng đây là Moskva. - Lão ngẩng đầu lên, người béo lùn, chân ngắn, lão chớp chớp mắt. - Tâu bệ hạ, hạ thần đã bắt tay vào việc rồi... hạ thần đã mộ năm ngàn mugic đốn cây... Chúng thần sẽ chuẩn bị gỗ tròn sẵn sàng dọc sông Setxna, sông Selon và sẽ cho xuôi về bằng bè, chỉ còn việc dựng lên, lắp tại chỗ. Một ngôi nhà gỗ, có hàng rào, cống cái và cửa nhỏ sẽ chỉ tốn có năm rúp... Còn gì hơn nữa. Alekxandr Danilys là người chung vốn với hạ thần.
- Không làm ở đây, - vua Piotr vừa nhắc lại vừa nhìn qua cửa sổ, - Phải xây dựng một thành phố trên bờ hồ Ladoga, trên bờ sông Neva... Ngươi cần đưa thợ đốn gỗ đến đấy!
Những cánh tay ngắn của Ivan Artemist tự dưng rút ra sau lưng, xoay xoay hai ngón tay cái:
- Có thể làm được... - Lão khẽ trả lời.
* * *
- Myn Herz, mụ già Monx lại đến tìm thần. Mụ khóc lóc van xin cho phép mụ và con gái chỉ đến nhà thờ đi lễ thôi. - Melsikov đắn đo nói.
Tối hôm đó, nhà vua và Melsikov cùng ở nhà Brovkin về, đi qua những phố bị cháy. Gió hất tàn tro vào thành chiếc xe ngựa bọc da. Vua Piotr ngồi thụt vào trong cùng làm như không nghe thấy Alexaska nói.
Sau trận Sluxenburg, trở về Moskva, Sa hoàng chỉ nói đến Anna Monx có một lần; nhà vua đã ra lệnh cho Alexaska đến nhà nàng để lấy lại bức chân dung của mình, bức chân dung nạm kim cương nàng vẫn đeo ở cổ; nàng có thể giữ lại các vật trang sức khác và tiền, rồi sống ở nơi nàng đang ở, nếu nàng muốn, nàng có thể về sống ở nông thôn, nhưng nàng không được ra khỏi nhà, không được đi đến bất cứ nơi nào.
Nhà vua đã dứt người đàn bà ấy ra khỏi lòng mình, như dứt một túm cỏ dại, cả rễ, vấy máu. Nhà vua đã quên nàng. Và giờ đây, ở trong xe, không một thớ thịt nào trên mặt nhà vua rung động.
Anna Ivanovna viết thư cho nhà vua, nhà vua không trả lời. Nàng cho mẹ đem quà đến gặp Melsikov, van nài Melsikov cho phép nàng sụp xuống chân hoàng thượng mà nàng vẫn yêu dấu suốt đời... Còn về chiếc trái tim đựng ảnh, nàng bảo là Kornigxeg đã đánh cắp của nàng. (Nàng không biết người ta đã tìm thấy những thư của nàng trên người Kornigxeg).
Melsikov nhận thấy nhà vua rất cần được đàn bà vuốt ve ôm ấp. Bọn lính hầu của Sa hoàng, tất cả đều là tay chân của Melsikov, cho biết Piotr Alekseevich khó ngủ: nhà vua thở dài, đập đầu gối vào tường. Nhà vua không phải chỉ cần một người đàn bà mà thôi, mà còn cần có một người đàn bà tốt. Alexaska chỉ đả động đến Anna Monx với mục đích thăm dò. Vua Piotr lặng thinh. Chiếc xe rời khỏi con đường lát gỗ tròn để đi vào một con đường đất mềm, đột nhiên Alexaska khẽ cười thầm quay đầu đi.
Vua Piotr lạnh lùng bảo hắn.
- Thật ta không hiểu tại sao ta còn chịu để nhà ngươi bên cạnh, điều đó làm ta rất ngạc nhiên.
- Nhưng thần có làm gì đâu? Thần xin cam đoan...
- Hễ có bất kỳ cơ hội nào là nhà ngươi ăn cắp ngay... Giờ đây nhà ngươi cũng lại quanh co, lương tâm nhà ngươi không yên ổn.
Alexaska khịt khịt mũi. Xe yên lặng chạy một lát rồi hắn vừa cười gằn vừa nói:
- Thần vừa mới cãi nhau với Boris Petrovich. Thế nào lão cũng sẽ đến than phiền với bệ hạ... lão khoe cô quản gia nhà lão... Lão bịa ra là đã mua cô ta của một tên long kỵ binh, giá một rúp... “Giờ đây, có trả tôi đến mười ngàn rúp, tôi cũng chẳng nhường cho ai. Nàng thật là lanh lợi, tươi vui, thật cứ như lửa reo. Nàng biết làm đủ mọi việc...”. Thế là thần đến thăm lão, uống rượu với lão rồi bảo: Đưa cô ta ra cho tôi xem nào. Lão ngần ngừ rồi nói: “Cô ta đi đâu rồi ấy, tôi cũng chẳng biết nữa”. Nhưng thần cứ nài mãi. Lão già không biết làm thế nào. Lão cứ nói quanh nói co rồi lão gọi cô ta ra. Thoạt nhìn cô ta, thần đã ưa rồi: cô ta không đẹp như tranh đâu, không. Nhưng cô ta ưa nhìn, giọng nói trong trẻo, đôi mắt linh lợi, tóc cuốn thành búp... Thần bảo cô ta: “Vì tôi là khách của cô, cô phải mời tôi một cốc rượu theo lối cổ, với một cái hôn lên môi”. Thần nói với Boris Petrovich: “Bán cho tôi cô gái này, Tôi sẽ tặng ông dinh thự của tôi, tôi sẽ lột cho ông đến chiếc áo lót cuối cùng, Làm sao ông có thể thỏa mãn cô ta được? Phải có một người đàn ông trẻ để vuốt ve cô ta, Ông thì chỉ làm cô ta bị khích động lên một cách vô ích thôi... Hơn nữa, đó là một tội lỗi; ông đã có vợ con rồi... Lại còn phải xem Piotr Alekseevich nhìn nhận chuyện trác táng này của ông như thế nào”. Thần đã dồn lão đến chân tường. Lão thở hổn hển: “Alekxandr Danilys, ông cướp mất của tôi niềm vui cuối cùng...”. Lão chán ngán khoát tay rồi òa lên khóc. Thật là chết cười được, thần xin thề với bệ hạ như vậy. Lão bỏ vào buồng ngủ, khóa trái lại, nằm một mình. Thần đã nhanh chóng điều đình với cô quản gia, cho gọi xe ngựa đến, vứt đồ đạc của cô ta lên xe rồi đưa cô ta về nhà thần... Hôm sau, thần đưa cô ta về Moskva. Cô ta sụt sùi khóc tám ngày ròng, nhưng có lẽ theo thần hiểu, cô ta làm ra thế thôi. Giờ đây cô ta sống như con chim non trong dinh thự của thần.
Nhà vua có nghe hay không? Làm sao mà biết được? Alexaska kể xong, nhà vua húng hắng ho, Alexaska thừa biết rõ tất cả các kiểu ho của nhà vua. Hắn hiểu: Piotr Alekseevich đã chăm chú nghe.

Chương 137

Brovkin, Xvesnikov, thương nhân Zatrapezny và các thương nhân khác của Sa hoàng: Dubrovski, Segolin và Evreinov xây dựng trên sông Yauza và sông Moskva những xưởng dệt dạ, vải và tơ lụa, xưởng giấy và xưởng bện thừng. Những làng nhỏ thuộc Bộ thổ địa (lãnh địa của các chúa đất chết trận hoặc bị truất đều thuộc về tay Bộ này) được sáp nhập vĩnh viễn vào số lớn những xưởng máy đó.
Các thương nhân đã tỉnh giấc mơ màng... Đến tụ họp trên thềm lớn của nhà Hội đồng xã trưởng đã được nhanh chóng xây dựng lại sau vụ cháy, họ chỉ nói đến miền Ingri mới chiếm được, nơi mà, đến mùa hạ này, phải đặt chân vững chắc ở đấy, bên bở biển. Họ đào trong các hầm nhà moi lên những cái nồi lớn của ông cha để lại, chứa đầy tiền vàng. Họ phái đám thư ký của họ đến các chợ và các quán rượu để mộ thợ.
Mùa đông năm đó, Ivan Artemist mở rộng thêm công việc kinh doanh. Có Melsikov làm tay trong, lão đã xin được phép lấy tù nhân trong các nhà giam của Romodanovski ra để làm nông nô; người thì lão xích lại, người thì lão cho làm việc tự do tại các xưởng dệt dạ và vải; guồng bánh xe của các xưởng đó chạy bằng nước, quay rào rào trên sông Yauza. Lão đã mua với giá bảy trăm rúp anh thợ rèn trứ danh Zemov vốn trực thuộc Bộ Đại hình và đã đưa anh ta từ Voronez về bằng xe tam mã; bây giờ Zemov đặt ở nhà máy cưa mới ở Ivan Artemist, tại Xokolniki, một cái máy phát lửa, chưa ai từng thấy, chạy bằng một nồi hơi.
Đâu đâu cũng thiếu nhân công. Để tránh sa vào cái kiếp nô lệ mới, từng đám đông nông dân các làng phụ thuộc chạy trốn đến những nơi xa xôi hoang dã của đất nước. Làm lụng trong làng, đi phu thật là khổ cực, ngựa còn sung sướng hơn kiếp người mugic. Nhưng đối với những người thợ bị xiềng xích lẫn những người thợ được tự do, cảnh nô lệ ở các nhà máy có vẻ còn kinh khủng hơn, còn tệ hơn là nhà tù. Xung quanh nhà máy bốn bề là một hàng rào cao; ở cổng có bọn canh gác còn dữ tợn hơn cả giống chó. Trong những căn nhà tối om, thợ thuyền cúi xuống những máy dệt chạy ầm ầm; không được cất tiếng hát - tên đốc công ngoại quốc sẽ phang gậy ngay lên vai anh và dọa nhốt vào hầm. Ở trong làng, về mùa đông, ngửời nông dân ít ra còn được ngủ no mắt ở trên bếp lò. Ở đây, ngày cũng như đêm, mùa hạ cũng như mùa đông, phải cho con thoi chạy. Tiền công, quần áo, tất cả đã đem ra uống rượu hết trước từ lâu. Thân phận nô lệ.
Nhưng những lời đồn đại ghê rợn nhất là những lời đồn đại về các xưởng máy và các mỏ của Akinfi Demidov ở Ural; tại các quận trực thuộc vào hắn, mọi người sợ hãi điên cuồng, đã bỏ trốn.
Bọn thư ký mộ thợ của Akinfi Demidov đi đến các chợ và các quán, thết đãi mọi người rất hậu hĩ, tả cuộc sống dễ dàng ở Ural dưới những màu sắc hấp dẫn nhất. Chúng nói là ở đó có nhiều đất, muốn bao nhiêu cũng có, làm việc một năm lấy tiền khâu vào trong lần lót mũ rồi đi đâu thì đi, chúng tôi chẳng bó buộc ai phải ở lại. Và nếu muốn thì cứ đi mà tìm vàng, ở đấy sẵn vàng như phân dưới chân.
Tên thư ký đó, sau khi làm cho người kia say mềm, thuyết phục hoặc lừa gạt người ấy ký vào một bản hợp đồng nghiệt ngã. Trước mặt tên chủ quán làm nhân chứng, hắn bảo:
- Này anh bạn, vạch bằng mực vào đây một chữ thập.
Vừa ký xong, thế là người kia đi đời. Anh ta bị vứt ngay lên xe; nếu giãy giụa thì bị xích liền, họ đưa anh ta đi xa hàng ngàn dặm, sang tận bên kia sông Volga, bên kia những cánh đồng cỏ xứ Kirghizi có những cây xtipa mọc, bên kia những rặng núi cao rừng rậm um tùm - tới xưởng Neviansk, tới các mỏ. Rất ít người trở về. Tới nơi, anh ta bị xích vào bên lò. Ai mà tỏ vẻ bướng bỉnh là bị đánh đập đến chết.
Trốn đi đâu được? Bọn Cô-dắc cưỡi ngựa, tay cầm dây thòng lọng, canh gác các nẻo đường và các con đường mòn trong rừng. Và những người tìm cách nổi loạn, đều bị đày xuống giếng sâu trong mỏ, hoặc dìm chết tại các hồ ao.
Sau lễ Noen, người ta lại mộ người cho quân đội. Tại tất cả thành phố, những người đi mộ lính cho Sa hoàng tuyển thợ mộc, thợ nề, thợ đấu. Từ Moskva đến Novgorod, ai nấy đều phải đăng ký đi phu vận tải, không trừ một ai.

Chương 138

- Này, tại sao ngươi không đưa Catherine ra ta xem?
- Myn Herz, cô ấy ngượng... Cô ta say mê thần, tha thiết với thần đến nỗi chẳng muốn nhìn ai nữa. Thần đành là lấy cô ta làm vợ thôi.
- Thế sao nhà ngươi không làm lễ cưới đi?
- À không, dù sao...
Melsikov ngồi xổm trên sàn gỗ đánh xi, trước lò sưởi: hắn quay mặt đi, cời những thanh củi đang cháy rừng rực. Gió gào thét trong ống khói, làm mái nhà bằng sắt tây lay động ầm ầm. Gió thổi tuyết đập vào những tấm kính của cánh cửa sổ cao. Ngọn lửa nhỏ của hai ngọn sáp trên bàn chập chờn nghiêng ngả.
Vua Piotr ngồi hút thuốc, uống rượu, lấy khăn lau bộ mặt ửng đỏ và mớ tóc nhớp nháp mồ hôi. Nhà vua vừa từ các xưởng ở Tula về và không qua Preobrazenskoe, đi thẳng về nhà Melsikov; ở đó nhà vua đã tắm hơi nước trong ba giờ đồng hồ. Mặc quần áo lót thơm nức của Alexaska, khoác áo lụa, không quấn khăn quàng, áo sơ mi phanh ngực. Sa hoàng ngồi ăn bữa tối, nhà vua đã ra lệnh không cho ai vào trong phòng ăn nhỏ, ngay cả người hầu; nhà vua hỏi Alexaska những chuyện đâu đâu, cười cười nói nói. Rồi đột nhiên, nhà vua đòi Catherine ra mắt. Từ buổi chuyện trò trên xe ngựa, đây là lần đầu tiên nhà vua nói đến nàng.
- Lấy vợ ư? Piotr Alekseevich, với dòng dõi hèn kém của thần, đi lấy một người tù... Thần chẳng biết nghĩ sao... - Hắn ngoáy chiếc que cời than, tia lửa bắn tung tóe - Có người dạm thần lấy Avdochia Arxenieva. Gia đình này dòng dõi lâu đời, từ thời Rợ Vàng... Dù sao thì điều đó cũng sẽ che đậy được những vết nhơ nhỏ của thần. Khách nước ngoài thường đến thăm thần tại nhà riêng. Trước hết, họ hỏi tiện nội là ai, chức tước của thần là gì. Đám đại thần nhà ta, những gã đít to, dòng dõi cao sang ấy, không bao giờ bỏ lỡ dịp thầm thì: người ta đã nhặt được hắn ở ngoài đường đấy!
- Ừ mà thế thật, - vua Piotr nói. Nhà vua lấy khăn lau mặt, đôi mắt sáng long lanh.
- Giá như ít ra được cái tước bá, thì thần cũng còn có một tước vị. - Alexaska vứt que cời than, lấy một bình phong bằng đồng che ngọn lửa rồi trở lại bàn. - Bão tuyết mới ghê chứ, thật là khủng khiếp. Myn Herz, bệ hạ không trở về cung được đâu, bệ hạ đừng có nghĩ đến chuyện đó, vô ích.
- Nhưng nào ta có ý định ấy đâu!
Melsikov ngồi đấy, mất nhìn xuống, cầm lấy một cốc rượu; tay hắn run run.
- Không phải ta khơi ra câu chuyện này mà chính là ngươi, - vua Piotr nói. - đi tìm cô ta ra đây!
Alexaska tái mặt. Hắn vùng đứng dậy, bước ra. Vua Piotr ngồi lại, chân đung đưa. Ngôi nhà lặng ngắt, chỉ có gió gào thét dưới nóc nhà. Nhà vua lắng nghe, lông mày nhướn cao. Chân nhà vua đung đưa như có máy đẩy. Có tiếng chân bước đi, vội vã, bực bội. Alexaska dừng lại trên ngưỡng cửa, hắn cắn môi:
- Cô ta sắp đến ngay đấy ạ.
Tai vua Piotr dán vào đầu: trong ngôi nhà tĩnh mịch, nhà vua nghe thấy tiếng chân nhẹ nhàng của phụ nữ bước đi như bay, hân hoan, vô tư lự, gót giầy nhỏ gõ giòn giã.
- Cứ vào đừng sợ. - Alexaska né mình nhường cho Catherine đi qua. Nàng khẽ chớp đôi mắt, từ trong bóng tối của hành lang bước vào phòng, nàng bị lóa mắt trước ánh sáng của những ngọn nến. Nàng đưa mắt dò hỏi Alexaska. Với tóc nâu, đôi lông mày động đậy, nàng đứng tới vai hắn, vẫn bước đi nhẹ nhàng ấy, không bẽn lẽn, nàng đến trước mặt Sa hoàng, cúi rạp xuống chào nhà vua, rồi cầm lấy bàn tay to lớn của nhà vua đặt trên bàn, như cầm lấy một vật gì, và hôn. Nhà vua cảm thấy đôi môi ấm áp và hàm răng lành lạnh, đều đặn, trãng bóng. Nàng đặt hai tay chéo nhau dưới tấm tạp dề nhỏ trắng và dừng lại trước ghế bành nhà vua ngồi. Dưới váy, đôi chân đã nhẹ nhàng đưa nàng tới đây hơi choạc ra một chút. Nàng nhìn nhà vua chằm chặp, cặp mắt hân hoan và trong sáng.
- Ngồi xuống, Catherine.
Nàng trả lời bằng thứ tiếng Nga lơ lớ nhưng giọng nghe mới dịu dàng làm sao, đến nỗi đột nhiên nhà vua cảm thấy lò sưởi nóng nực, căn phòng ấm cúng hẳn lên, tương phản với tiếng gió đang gào thét; tai nhà vua giãn ra, chân không đung đưa nữa. Nàng đáp:
- Cảm ơn bệ hạ, tiện tì xin ngồi. - Nàng ngồi ghé ngay xuống ghế, tay vẫn đặt trên bụng, dưới tạp dề.
- Uống được rượu chứ?
- Xin cảm ơn bệ hạ, uống được ạ.
- Sống trong cảnh giam cầm thế này, không khổ lắm chứ?
- Dạ, không đến nỗi, xin cảm ơn bệ hạ.
Alekxaska bước lại gần, vẻ mặt sầu não, và rót rượu vào ba cốc:
- Nhà ngươi chỉ biết nói: cảm ơn, cảm ơn. Hãy kể ta nghe chuyện gì chứ.
- Làm sao tiện tì nói được, họ không phải là một con người bình thường.
Nàng rút tay ra khỏi tạp dề, cầm lấy cốc và đưa cặp mắt linh lợi nhìn Sa hoàng, mỉm cười:
- Chính họ cũng phải biết gợi chuyện thế nào chứ?
Vua Piotr phá lên cười. Đã lâu nhà vua không cười sảng khoái như vậy. Nhà vua bắt đầu hỏi Catherine: quê ở đâu, đã sống ở những nơi nào, đã bị bắt ra sao. Để trả lời, nàng ngồi lại ngay ngắn trên ghế và đặt đôi cánh tay để trần lên khăn trải bàn, đôi mắt đen sẫm long lanh, mớ tóc nâu quăn búp óng ả như lụa, hai búp tóc xõa xuống ngực đang nhè nhẹ phập phồng.
Cũng nhẹ nhàng như nàng vừa xuống thang gác, nàng đã vượt qua mọi nỗi đắng cay của cuộc đời còn non trẻ.
Alexaska luôn tay rót rượu vào cốc. Hắn cho thêm củi vào lò. Gió gào thét như thường vẫn gào thét vào lúc nửa đêm. Vua Piotr vươn vai, nhăn cái mũi ngắn, nhìn Catherine.
- Nào, đi ngủ thôi chứ? Ta đi đây... Katiusa, cầm nến, soi đường cho ta.
* * *
Fetka Mõm bẩn, gã mugic lầm lì này, một dấu ấn đỏ mới thích trên trán, đứng giạng hai chân không giầy, bị xích, trên một giàn giáo cao, tay cầm cái cán dài của chiếc vồ bằng gỗ sồi, nặng nề nện xuống đầu cọc. Thân hình hắn lực lưỡng. Những gã khác - người thì buông chiếc xe cút kít, người thì đứng dưới nước đến thắt lưng, râu vểnh lên, người thì hất chiếc rầm gỗ đang vác trên vai xuống, - nhìn chiếc cọc, sau mỗi nhát vồ, thụt dần xuống bờ sông lầy lội.
Người ta đóng chiếc cọc đầu tiên của hàng cọc bên bờ hòn đảo nhỏ Jant-xaari - tiếng Phần Lan có nghĩa là đảo thỏ rừng. Ba tuần trước đây, cách đó hai dặm, về mé thượng lưu sông Neva, quân Nga đã buộc pháo đài đắp bằng đất ở Niensanz phải đầu hàng.
Quân Thụy Điển rời bỏ hai bên bờ sông Neva rút về bên kia sông Xextra.
Hạm đội Thụy Điển, sợ mắc cạn vào các bãi cát, đã dong những cánh buồm sắc sẫm trong vịnh bên kia dải nước rực rỡ ánh sáng mặt trời, gió thổi gợn sóng lăn tăn.
Hai chiếc tàu nhỏ mạo hiểm vào cửa sông Neva, tới tận đảo Hirvi-xaari, ở đó có khẩu đội pháo của đại úy Vaxiliev, nấp sau một đống cây đổ ngổn ngang - nhưng các chiếc thuyền đã vây lấy chúng và tiến lại sát, xông sang đoạt được cả hai chiếc tàu.
Sau bao cố gắng đẫm máu, con đường từ hồ Ladoga đi ra biển cả đã thông suốt. Rất nhiều đoàn xe, nhiều đám thợ thuyền và tư nhân bị xiềng xích, từ phía Đông kéo đến đây.
Vua Piotr viết thư cho Romodanovski:
Chúng ta cần rất nhiều nhân công. Nhà ngươi hãy ra lệnh tập hợp tất cả bọn cướp ở tất cả các thành phố, ở các bộ và các nhà giam, cho giải chúng tới đây”.
Hàng ngàn thợ đã được chở bằng bè và thuyền vượt qua hàng ngàn dặm đến hữu ngạn sông Neva, đến đảo Koiby-xaari: ở đó lều lán được dựng bên bờ nước, hàng đống lửa bốc khói um, tiếng rìu nện chan chát, tiếng cưa kéo xoàn xoạt. Thợ ùn ùn liên tục kéo tới nơi cùng trời cuối đất này, không hy vọng trở về.
Để bảo vệ nơi mọi ngả đường thương mại của đất nước Nga đổ vào này và đã phải trả giá cao mới đoạt được, người ta xây một tòa thành với sáu pháo đài trước Koiby-xaari - trên sông Neva - tại hòn đảo lầy Jant-xaari.
Sáu người đứng đầu phụ trách công việc xây dựng: pháo thủ Piotr Alekseyev sẽ xây dựng pháo đài thứ nhất; Melsikov, pháo đài thứ hai; vương hầu Trubetxkoi, pháo đài thứ ba; đại vương trùm đạo Zotov, pháo đài thứ tư...
Trước khi đặt viên đá đầu tiên, trong bữa tiệc lớn tổ chức tại lều vua Piotr, giữa tiếng chạm cốc lanh canh và tiếng súng đại bác nổ vang; người ta quyết định đặt tên cho thành này là thành Petersburg.
Từ đây ra biển cả chỉ có một với tay. Gió thổi mặt biển gợn sóng lăn tăn nom vui mắt. Ở phía Tây, đằng sau cánh buồm của các tàu Thụy Điển, những đám mây ngoài biển, tựa như những đám khói của một thế giới khác, lững lờ trên trời cao. Chỉ có những binh lính Nga gác trên đảo Kotlin hiu quạnh, đứng nhìn những đám mây không phải của nước Nga kia, dải nước mênh mông và những ánh sáng ghê rợn đỏ rực như lửa cháy của buổi hoàng hôn chạng vạng. Ở đây thiếu bánh mì; từ miền Ingri bị tàn phá tan hoang bánh mì không còn tới nữa, vì miền đó đang phát bệnh dịch hạch. Mọi người phải ăn rễ và vỏ cây giã nhỏ.
Vua Piotr viết thư cho vị vương hầu chấp chính, yêu cầu gửi thêm người tới:
tại đây nhiều người; và nhiều người đã chết”.
Các đoàn xe, thợ thuyền, tù nhân bị xiềng xích vẫn ùn ùn kéo đến không ngừng.
Fetka Mõm bẩn hất mạnh mái tóc xõa trên trán nóng rực và nhớp nháp mồ hôi, cứ nện, nện mãi chiếc vồ gỗ sồi lên các cọc.

Chương 139

Moskva trở nên ảm đạm, im lìm. Giữa trưa vào những ngày oi bức tháng bảy, chỉ có lũ chó cụp đuôi chạy rông các phố quanh co, đánh hơi những rác rưởi dân chúng vứt ra ngoài giậu. Không còn tiếng la hét lẫn các đám đông ồn ào tại những nơi công cộng, nơi xưa kia người thị dân đạo mạo còn bị các chủ hiệu kéo áo mời vào cửa hàng hoặc chưa kịp mua bán gì đã bị mất cắp nhanh như chớp trong đám người lúc nhúc ấy.
Trước kia, từ các ngoại ô - Arbat, Xukharepka và Zamoxvoresie, chưa rạng đông người ta đã kéo đến những xe bò đầy ắp. Các thứ hàng: vải vóc quý giá, da thuộc, đồ sắt, hũ vại, bát đĩa, hoa quả, kẹo giòn, rau đủ mọi loại; người bán hàng rong vác những cây sào nặng trĩu giầy gai bện hoặc những mẹt bánh nhân thịt và bánh ngọt; mọi người hối hả xếp xe ngựa lại thành từng dãy rồi dọn cửa hàng trên các quãng trống.
Ngày nay, các xloboda của bọn xtreletz vắng tanh, cỏ tầm ma dại mọc đầy sân những căn nhà đổ nát. Giờ đây nhiều người làm việc tại các xưởng máy mới thành lập, bên cạnh những nông nô và bọn tù khổ sai. Vải, dạ dệt ra được chuyển thẳng đến bộ Preobrazenski. Tại tất cả các lò rèn ở Moskva, người ta rèn gươm, giáo, bàn đạp ngựa và đinh thúc ngựa. Không làm sao mua nổi một sợi dây nhỏ ở Moskva, có bao nhiêu gai đều bị Ngân khố trưng mua hết.
Không còn nghe thấy tiếng chuông bính boong gióng giả nữa, những quả chuông lớn của nhiều nhà thờ đã bị tháo ra, chở đến Nhà máy đúc để làm đại bác. Ở nhà thờ Pimen Già, khi quân long kỵ binh, người nồng nặc mùi thuốc lá, đến lấy quả chuông lớn, lão bõ giữ đồ thánh đã uống rượu say rồi định treo cổ vào một thanh xà; giờ bị trói chặt nằm dài trên một cái hòm, lão la lên trong cơn mê sảng là từ nay, Moskva vốn vẫn lừng danh vì những hồi chuông nhạc, sẽ mòn mỏi trong cảnh im lìm u uất.
Xưa kia, trước cổng mỗi dinh thự của lớp quý tộc, đám đày tớ xấc láo và ngạo nghễ, mũ đội lệch một bên tai, chơi sấp ngửa, chơi xavaika(1), hoặc trêu trọc những người đi bộ, đi ngựa qua; chúng cười giễu họ, túm áo họ lôi lại.
Ngày nay, các cửa đều đóng chặt, cái sân rộng lặng ngắt như tờ; bọn gia nhân nhà quý tộc đều ra trận, lớp con trai lớn, con rể đóng hạ sĩ quan ở một trung đoàn nào đấy hoặc có nhiệm vụ ở nước ngoài, bọn con nhỏ thì học nghề hàng hải, xây dựng pháo đài hoặc học toán tại các trường chuyên khoa.
Chỉ còn lão quý tộc vô công rồi nghề ngồi trước cửa sổ mở toang, hoan hỉ vì Sa hoàng Piotr tạm thời đi vắng, ít ra trong một thời gian, sẽ không bắt lão phải hút thuốc lá, cạo râu hay ra vào phải ngoáy chân khuỵu gối, bắp chân bó chặt trong đôi tất trắng, và trên đầu lù lù bộ tóc giả bằng tóc đàn bà dài đến tận rốn.
Âu sầu thay những ý nghĩ của lão quý tộc ngồi kia, khuỷu tay chống lên cửa sổ!
- Muốn ra sao thì ra, nhất định là không có để cho thằng Miska học toán... Xây dựng Moskva nào có cần gì đến toán học đâu; nhờ ơn Chúa, người ta đã sống năm trăm năm nay chẳng cần đến toán học mà vẫn sung sướng hơn bây giờ! Cuộc chiến tranh này chắc sẽ chẳng đem lại gì khác là sự sụp đổ vĩnh viễn; cứ việc tha hồ mà đem các thần Thủy tề, Vệ nữ dị giáo diễu khắp thành phố trên các xe thếp vàng để mừng chiến thắng oanh liệt trên sông Neva. Thế nào quân Thụy Điển cũng sẽ đánh bại quân ta và bọn rợ Tarta chỉ chờ có thất bại ấy là xông ngay ra khỏi vùng Krym, tràn sang bên kia sông Oka... Thật là bất hạnh cho chúng ta!
Lão quý tộc chìa ngón tay béo múp míp về phía một đĩa quả dâu. A! những con ong khốn khiếp nhung nhúc trong đĩa và ngay cả trên bậu cửa sổ! Lão ngắm nhìn ra sân, uể oải lần tràng hạt ô-liu đem từ núi Otox về.
Cảnh mới tiêu điều làm sao! Đã bao năm nay chỉ vì những dự định và trò chơi của Sa hoàng, chẳng ai còn có thì giờ nghĩ đến công việc riêng của mình. Chuồng gà thì xộc xệch, hầm chứa nước đá phủ cỏ thì sụt mái, cỏ dại lan ra khắp chốn...
- Đến con gà ngày nay chân cũng dài quá, vịt nở ra bé hơn trước, lợn con gù lưng nối đuôi nhau đi theo mẹ thì gầy gò, cáu bẩn. Thật là thảm hại!
Lão quý tộc thừa biết là phải gọi mụ chăn lợn và chị chăm nom gà vịt đến vén váy họ lên, đét cho họ một trận nên thân, ngay tức khắc mới phải. Nhưng thời tiết oi bức này mà phải nhúc nhích thì thật là mệt quá!
Lão ngước mắt lên nhìn qua giậu, nhìn ra phía bên kia những cây bồ đề đầy hoa trắng hoe hoe vàng vo vo tiếng ong. Cách đó không xa, người ta trông thấy những bộ lũy sụp lở của điện Kreml, cỏ, cây mọc đầy ngay giữa các lỗ châu mai.
Chẳng biết nên cười hay nên khóc nữa: đấy, Sa hoàng Piotr đã đốn mạt đến thế rồi đấy! Hào xung quanh điện Kreml, từ cổng Ba Ngôi, rác rưởi chất đống đến đây, đã ngập bùn, một con gà cũng có thể bước qua và sao mà hôi thối thế! Dòng sông Neglinka cũng bị cát bồi đầy, bên hữu ngạn là chợ quần áo cũ, nơi buôn bán hàng trộm cắp, bên tả ngạn, dưới chân tường thành, bọn trẻ con, áo sơ mi bẩn thỉu, thả cần câu cá mà cũng chẳng ai nghĩ đến chuyện đuổi chúng đi.
Tại Hồng trường, bọn thương nhân móc những chiếc khóa to nặng vào cửa hiệu; họ đi ăn trưa; kệ công việc buôn bán, nào có ăn thua gì. Lão bõ cũng đóng cổng nhà thờ lại, hất hàm lắc bộ râu dê về phía đám ăn mày đứng trên thềm và thong thả trở về nhà húp một đĩa xúp lạnh nấu hành tươi, cá khô với nước kvas rồi ra hóng gió dưới bụi hương mộc. Đám ăn mày, cùng khổ và tàn tật, thất thểu bước xuống bậc thềm nhà thờ, bỏ đi mỗi người mỗi ngả dưới ánh nắng buổi trưa.
Quả là đã đến lúc dọn bữa ăn trưa để xua đuổi cái tâm trạng thẫn thờ uể oải đang xâm chiếm lấy lòng người vì quá chán chường.
Đột nhiên lão quý tộc trợn tròn mắt, vươn cổ trề môi, đang ngồi trên ghế đẩu nhổm cả người lên, bàn tay che ngang trên mắt: trên chiếc cầu gạch bắc ngang qua sông Neglinka giữa cổng Ba Ngôi và chợ quần áo cũ, bon bon một cỗ xe ngựa bốn bánh lắp kính loang loáng dưới ánh mặt trời, đóng bốn con ngựa xám; trên lưng một con, có gã đày tớ mặc chế phục kiểu Hungary màu đỏ tươi. Đó là công chúa Natalia, cô em cưng của Sa hoàng Piotr, hiếu động chẳng kém gì ông anh, đang đi trên đường.
Lạy Chúa tôi!
- Lệnh bà đi đâu vậy?
Lão quý tộc vung chiếc khăn tay rối rít để xua ong, cúi ra ngoài cửa sổ, réo gọi một thằng bé mặc áo sơ-mi dài bằng vải thô, túi đỏ, đang vầy chân trong một vũng nước gần giếng.
- Grisutka, chạy đi ngay lập tức, mà chạy cho nhanh, không mày sẽ biết tay tao! Đuổi cho kịp cỗ xe ngựa thếp vàng ở phố Tverskaia, bám sát lấy, rồi quay về nói cho tao biết xe rẽ đường nào.
-------------
Chú thích:
(1) Trò chơi khéo tay làm thế nào cắm được một chiếc đinh đầu to vào giữa một cái vòng đặt dưới đất.

Chương 140

Cỗ xe đóng bốn con ngựa xám, trên trán cắm những chùm lông đỏ, yên cương có đính nhạc và núm đồng, nặng nề phóng qua bãi cỏ rộng rồi dừng lại trước thềm tòa lâu đài cổ ở Izmailovo. Lâu đài này do cố Sa hoàng Aleksey Mikhailovich xây dựng; nhà vua đã giở đủ mọi trò ngông cuồng trong làng Izmailovo của mình; ngày nay người ta còn thấy cả gấu nuôi dưới những hố sâu, những con nai cái đã thuần thục gặm cỏ giữa đàn bò, những con công đi đi lại lại trong sân nuôi gà vịt và mùa hè bay lên đậu trên cây. Chẳng ai đếm được tòa lâu đài xây bằng gỗ tròn này mà thời gian đã phủ rêu xanh lên tường có bao nhiêu mái trên các phòng, các hành lang, các thềm: mái màu sặc sỡ hoặc đồng màu, bằng đồng tráng thiếc; hình thùng rượu hoặc hình kokosnic(1) mái dốc đứng hình vây lưng cá.
Trong không khí oi ả giữa buổi trưa, những con én nhát người bay liệng vun vút trên những mái nhà đó. Tất cả các cửa sổ của tòa lâu đài đều đóng kín mít. Một con gà trống già đứng một chân ngủ gà ngủ gật trên thềm. Cỗ xe chạy tới gần, con gà nhớn nhác, kêu một tiếng rồi bỏ chạy; lập tức dưới các thềm, đàn gà mái liền cục tác ầm ĩ như kêu cháy. Một cửa ra vào nhỏ ở tầng dưới mở ra và người gác, cũng già nua, xuất hiện. Nhìn thấy cỗ xe, lão chậm rãi quỳ xuống và cúi chào, trán chạm đất.
Công chúa Natalia thò đầu ra ngoài cửa xe, nóng nảy hỏi:
- Này lão, các tiểu thư đâu cả?
Ông già đứng dậy, bộ râu xám chĩa ra phía trước và thưỡi môi ra, vừa nói vừa trìu mến nhìn công chúa dưới bộ lông mày che lấp cả mắt:
- Xin kính chào lệnh bà, xin kính chào lệnh bà Natalia Alekseyevna kiều diễm... Thưa lệnh bà dịu dàng và xinh đẹp, lệnh bà hỏi các tiểu thư đâu, có phải không ạ? Cái đó thần nào có biết, thần không thấy các tiểu thư đâu cả.
Natalia xuống xe, bỏ chiếc vương miện nặng hình lưỡi liềm đính ngọc trai, cởi áo gấm: nàng chỉ mặc theo kiểu cổ Moskva khi ra phố, Vaxilixa Miaxnaia thị nữ của công chúa, đặt những thứ đó vào trong xe. Natalia dong dỏng cao và nhanh nhẹn, mặc áo nhẹ kiểu Hà Lan, đi qua bãi cỏ tới một khu rừng nhỏ. Đến dưới bóng cây mát mẻ, nàng nhắm mắt, ngây ngất vì mùi thơm hắc của những cây bồ đề đang trổ hoa.
- A-u! - Natalia hú lên.
Cách đấy không xa, dưới cành lá về phía mặt trời chiếu xuống chói lòa mặt nước, một giọng phụ nữ uể oải đáp lại. Sát ngay hồ, trên bãi cát trước chiếc cầu, có một lều vải sặc sỡ; dưới bóng lều, bốn cô gái, người rời rã vì oi bức, nằm dài trên nệm. Mệt mỏi, bím tóc sổ tung, họ vội vã đứng dậy ra đón Natalia. Người nhiều tuổi nhất trong bọn, Anixia Tolstaia, thân hình béo lùn, mũi dài, chạy về phía công chúa trước tiên, chắp hai tay lại, trố cặp mắt soi mói, thốt lên:
- Ánh sáng của thần thiếp, Nataliuska, công chúa chí tôn của thần thiếp... Ồ! bộ quần áo nước ngoài mới đẹp làm sao! Ồ! thật là tuyệt diệu!
Còn hai cô nữa, Marfa và Anna, là các em gái của Alekxandr Danilovich Melsikov; theo lệnh Sa hoàng, mới đây hai cô đã rời khỏi nhà cha mẹ đến ở lâu đài Izmailovo để học tập những phong cách lịch sự và tập viết dưới sự trông nom của Anixia Tolstaia; hai cô là những trinh nữ thân hình nở nang, hãy còn thô kệch; hé đôi môi căng mọng, họ ngắm nhìn công chúa với cặp mắt mở to, trong suốt. Bộ áo của Natalia gồm có một chiếc xiêm rộng màu đỏ bằng len mỏng, gấu có ba đường viền vàng, một chiếc áo chẽn bó sát người, - mà hai chị em Melsikov chưa được thấy bao giờ - để hở cổ vai và hở tay đến tận khuỷu. Natalia cũng tự biết rằng người ta chỉ có thể ví nàng với một nữ thần, nữ thần Diana chẳng hạn. Khuôn mặt công chúa đầy đặn, mũi ngắn và hếch như mũi anh, tai nhỏ, miệng xinh xinh, tất cả mọi cái trên người công chúa đều trong trắng, trẻ trung và kiêu kỳ.
- Ta nhận được bộ áo này hôm qua. Chính Xanka, Alekxandra Ivanovna Volkova, đã gửi từ La Hay về cho ta... Đẹp lắm và mặc vào rất thoải mái... Lẽ dĩ nhiên, bộ áo này không phải để mặc trong các buổi chiêu đãi lớn mà chỉ để vui chơi trong rừng, trên bãi cỏ.
Natalia quay người để các cô gái ngắm mình được dễ dàng hơn. Cô gái thứ tư đứng riêng ra một chỗ, hai tay buông thõng và khiêm tốn chắp lại, cái miệng tinh nghịch với đôi môi tươi mát như quả anh đào, khẽ mỉm cười. Mắt cô ta cũng giống quả anh đào và dễ sáng ngời lên, đôi mắt rất đàn bà. Nóng bức làm đôi má tròn ửng hồng, mái tóc nâu quấn búp đượm mồ hôi.
Natalia vừa quay đi quay lại dưới những tiếng à! ồ! trầm trồ khen ngợi, vừa nhìn cô ta nhiều lần và chề môi dưới ra một cách nghịch ngợm, chưa xác định được rõ ràng tình cảm của mình; người thiếu phụ bị bắt ở Marienburg kia, - người ta nhặt được cô ta ở dưới gầm một chiếc xe, vai khoác áo lính, rồi đưa về nhà đại nguyên soái Seremetiev, sau đó đại nguyên soái đã nhượng lại cho Melsikov, rồi một đêm, trước ngọn lửa ấm cúng và một cốc rượu, Melsikov lại ngoan ngoãn chuyền cho vua Piotr, - công chúa không rõ mình thấy cô ta dễ thương hay đáng ghét!
Natalia còn là trinh nữ, khác hẳn hai bà chị cùng bố khác mẹ: Katka và Maska, tức là em gái bà nhiếp chính Sofia hiện đang bị giam giữ trong một tu viện, mà cả Moskva công khai nhạo báng. Natalia vốn tính nóng nảy và cố chấp. Nhiều lần Natalia đã gọi Katka và Maska là đồ đĩ và ngựa cái, thậm chí trong một cơn giận dữ đã tát hai ả. Tại cung riêng của mình công chúa đã bãi bỏ những phong tục tập quán cũ của chế độ Terem(2), cấm những chuyện tục tĩu của các mụ già thuộc đủ các hạng người thường vẫn thì thà thì thầm với nhau. Có lần công chúa trách mắng cả ông anh vì sau khi phế bỏ mụ sủng phi Anna Monx vô liêm sỉ, Sa hoàng đã tỏ ra quá dễ dãi trong vấn đề đàn bà.
Mới đầu Natalia tưởng là với cô này rồi cũng vậy; cô gái do một người lính bắt được trong khi cướp phá một thành phố, đối với nhà vua sẽ chỉ là một chuyện thích thú nhất thời: nhà vua tiêu khiển cho qua ngày rồi sẽ quên đi. Nhưng không, vua Piotr đã không quên buổi tối ở nhà Melsikov, cái buổi tối gió gào thét dữ dội. Catherine cầm nến vào phòng ngủ của Sa hoàng. Sau đó, có lệnh mua cho người nữ quản gia của Melsikov một ngôi nhà nhỏ ở phố Arbat, Alekxandr Danilovich đích thân đưa chăn đệm, bọc gói và hòm xiểng của Catherine đến đó; rồi một thời gian sau, người đàn bà trẻ tuổi ấy được chuyển tới lâu đài Izmailovo, dưới sự trông coi của Anixia Tolstaia.
Tại đây, Catherine sống một cuộc đời trong trẻo, luôn luôn vui vẻ, tươi tắn và ngây thơ, mặc dù nàng đã có lúc lăn vào gầm một cỗ xe ngựa của lính tráng. Sa hoàng Piotr lợi dụng mọi cơ hội để gửi cho Catherine những lá thư ngắn, đùa cợt, khi thì từ bờ sông Xvia, nơi nhà vua khởi công xây dựng hạm đội Baltic, khi thì từ thành phố mới Petersburg, khi thì từ Voronez. Nhà vua buồn nhớ Catherine. Còn nàng thì đánh vần từng chữ trong thư nhà vua viết về và ngày càng đẹp ra. Natalia càng tỏ mò muốn biết người đàn bà này đã làm gì để mê hoặc được anh mình.
Công chúa nghiêm nghị nhìn Catherine, hỏi:
- Nhà ngươi có muốn ta may cho một bộ áo như của ta để đón Sa hoàng không?
Catherine cung kính cúi chào và thẹn thùng khẽ nói:
- Ồ vâng, tiện thiếp muốn lắm... Xin cảm tạ lệnh bà!
- Nataliuska kính mến, lệnh bà làm cô ta sợ đấy. - Anixia Tolstaia thì thào. - Xin lệnh bà đừng quắc mắt nhìn cô ta, mà hãy tỏ ra khoan dung hơn. Thần thiếp chỉ có nói đến lòng tốt của lệnh bà thế mà cô ta cứ một mực bảo rằng: “Công chúa thì trong trắng, còn tôi, tôi là một con người tội lỗi, tôi đã chẳng làm được gì để xứng đáng với lòng tốt của công chúa. Sa hoàng thương tôi, điều đó thật là lạ như thể sét đánh giữa trời quang mây tạnh, đến nay tôi vẫn còn chưa hết ngạc nhiên...”. Đã thế, hai con bé ngốc nghếch kia lại cứ hỏi dồn cô ấy, muốn biết tất cả mọi việc xảy ra trong đời cô ta, những là tại sao, như thế nào. Ấy là thần thiếp đã nghiêm cấm các cô không được nói đến chuyện đó, thậm chí nghĩ đến cũng không được, mà còn thế đấy. Thần thiếp đã bảo họ; các cô đã có những chuyện tình duyên của các vị thần Hy Lạp đem ra mà nói với nhau. Nhưng không, chẳng lảm sao cho hai con bé quê mùa kia thôi lải nhải mãi những lời thô lỗ... Từ sáng đến tối, thần thiếp uổng công nhắc đi nhắc lại với họ: các cô sinh ra làm nô lệ, nay đã trở thành những nữ thần rồi đấy!
Trong đám cỏ đã cắt nóng sực, châu chấu kêu inh ỏi ù cả tai. Xa xa, bên kia hồ, những ngọn cây đen ngòm của một khu rừng thông như hoà tan vào một ảo ảnh. Chuồn chuồn đậu trên cỏ tranh, nhện nước đứng im trên mặt hồ bàng bạc.
Natalia bước vào lều, cởi áo chẽn ngoài, quấn những bím tóc màu hạt dẻ quanh đầu, cởi xiêm để rơi xuống rồi bước qua và trụt chiếc áo lót mỏng; đoạn, y hệt như trong các bức tranh Hà Lan mà Bộ Nội điện thỉnh thoảng vẫn gửi tới cùng với sách, công chúa bước lên chiếc cầu nhỏ không chút e thẹn về sự trần truồng của mình.
- Mọi người đi tắm tất cả. - Natalia quay về phía lều vải ra lệnh và quấn lại các bím tóc.
Marfa và Anna còn làm bộ làm điệu mãi không chịu cởi áo cho đến khi Anixia Tolstaia phải thét lên:
- Này hai cô béo phị kia, các cô làm gì mà cứ ngồi xổm thế, chẳng ai động chạm gì đến những cái xinh giòn của các cô đâu.
Catherine nhận thấy Natalia nhìn mình chằm chằm cũng cảm thấy ngượng. Đối với nàng, công chúa hình như vừa e ngại lại vừa cảm phục. Khi Catherine nghiêng mái tóc cuốn búp, chậm rãi dẫm lên đám cỏ đã cắt, ánh mặt trời láng hồng thân hình nàng, khỏe mạnh, ngồn ngộn sức sống, với đôi vai tròn đường hông cong cong. Natalia thầm nghĩ quả thật là anh mình đang đóng tàu ở miền Bắc hẳn phải buồn nhớ người đàn bà này và qua làn khói tẩu, mơ thấy nàng đang ôm chặt một đứa bé vào bên vú nở trong đôi cánh tay ngọc ngà... Natalia thở mạnh ra rồi nhắm mắt lại, nhảy xuống làn nước lạnh...
Ở chỗ này, có những dòng suối ngầm từ dưới đáy hồ phun nước lên, Catherine thong thả bước lên chiếc cầu nhỏ, xuống về phía bên và dấn mình vào nước mỗi lúc một mạnh bạo hơn, phá lên cười giòn giã. Giờ đây công chúa mới hiểu là mình sẵn lòng mến nàng, như công chúa đã mơ hồ cảm thấy. Công chúa bơi về phía Catherine và đặt tay lên đôi vai rám hồng của nàng.
- Catherine, ngươi đẹp lắm, ta rất hài lòng là anh ta yêu ngươi.
- Xin cảm ơn lệnh bà!
- Cứ gọi ta là Natasa!
Công chúa hôn lên bên má đầy đặn lạnh và ướt của Catherine, rồi nhìn vào tận đáy đôi mắt anh đào của nàng.
- Catherine, phải ngoan nhé, ta sẽ là bạn của ngươi.
Marfa và Anna hết nhúng chân này xuống nước lại nhúng chân kia, vẫn sợ và kêu lí nhí, không dám rời khỏi chiếc cầu nhỏ. Anixia Tolstaia phát cáu, đẩy mạnh hai cô béo tròn xuống nước. Đám nhện nước bỏ chạy mất, chuồn chuồn vụt rời khỏi các cọng cỏ tranh, phất phơ bay qua bay lại, va đụng vào nhau ngay trên đầu các nữ thần đang tắm.
-------------
Chú thích:
(1) Mũ của phụ nữ Nga thời xưa.
(2) Terem: phần trên của một ngôi nhà Nga cổ, nơi riêng biệt của phụ nữ.

Chương 141

Natalia hất mớ tóc ướt lên, ngồi dưới bóng lều vải, thưởng thức các món giải khát vừa được đưa từ dưới hầm lên, nào nước kvas hơi hơi chua, nào lê ngâm rượu mật ong, nước dâu và các thứ hoa quả khác. Đưa miếng bánh quế nhỏ lên miệng, công chúa nói:
- Tình trạng vô học của chúng ta thật đáng buồn. Nhờ ơn Chúa, chúng ta chẳng ngu đần gì hơn các dân tộc khác ở nước ta, người phụ nữ cũng xinh đẹp như ở bất cứ nơi nào khác, điều đó người nước ngoài đều đồng tình công nhận; phụ nữ ta đều có thể học hành được và theo được các phong cách lịch sự. Biết bao năm nay, anh ta ra sức lôi kéo mọi người ra khỏi cái Terem, dứt họ ra khỏi những lề thói cũ rích... Người ta cưỡng lại nhà vua, không phải các cô thiếu nữ, mà là cha mẹ các cô cưỡng lại. Khi lên dường ra đi chinh chiến, Sa hoàng đã khẩn khoản yêu cầu ta: “Natasa, em ạ, đừng để cho cái bọn râu xồm cổ lỗ sĩ được một lúc nào ngơi... Hãy làm cho chúng phải điêu đứng nếu chúng không chịu vui vẻ tuân theo... Nếu không cái đám bùn ấy sẽ làm ta sa lầy đấy...”. Ta đấu tranh nhưng ta đơn độc... May mà có công chúa Praxkovia(1) giúp đỡ ta trong những thời gian gần đây. Dù khó khăn lắm mới dứt bỏ được những phong tục quán cũ, công chúa cũng đã đề ra một lề lối sống mới cho các cô con gái: cứ đến chủ nhật, sau buổi lễ nhà thờ, mọi người mặc quần áo kiểu Pháp đến sum họp ở cung công chúa, uống cà phê, nghe nhạc và chuyện trò về thế sự... Mùa thu tới, ta sẽ cho các ngươi xem cái mới ở nơi ta ở, tại điện Kreml.
- Cái mới ư, cái gì thế, nàng tiên của chúng thần?
Anixia Tolstaia vừa hỏi vừa lau đôi môi dính đường.
- Cái mới này sẽ thực sự là mới... Một nhà hát. Chắc chắn sẽ chẳng hoàn toàn được như ở triều đình Pháp... Ở Vecxay, có những kịch sĩ nổi tiếng thế giới và những nghệ sĩ múa, những họa sĩ, nhạc sĩ. Còn ở đây, ta chỉ có một thân một mình, chính ta phải dịch các bi kịch Pháp ra tiếng Nga, tự ta soạn ra những cái gì thiếu và hướng dẫn các kịch sĩ sẽ tập tành.
Natalia vừa nói hai chữ “nhà hát” thì hai em gái Melsikov, Anixia Tolstaia và Catherine - đang vừa nghe vừa nhìn, cặp mắt đen láy như nuốt lấy công chúa - đưa mắt nhìn nhau và chắp tay lại.
- Trước hết để tránh làm cho mọi người quá e dè, sợ sệt chúng ta sẽ trình bày “Bí mật của cái lò lửa” với các tiết có hát... Rồi nhân dịp năm mới, khi Sa hoàng cùng những người ở Petersburg về dự hội, ta sẽ diễn “Đạo đức của chàng Đông Juan phóng túng vô hạnh hoặc quả đất đã nuốt chửng hắn ta như thế nào”... Ta sẽ ra lệnh cho mọi người tới nhà hát và nếu họ cưỡng lại ta sẽ cho long kỵ binh đi tìm khán giả... Tiếc rằng Alekxandra Ivanovna Volkova không có mặt ở Moskva, không thì nàng sẽ có thể giúp ta một tay rất đắc lực. Đấy là một thí dụ. Nàng thuộc dòng dõi gia đình nông dân, nghèo hèn, cha nàng thắt lưng bằng dây gai, chính nàng đã học đọc, học viết khi đã có chồng rồi. Thế mà giờ nàng nói thông thạo ba thứ tiếng, làm thơ; trong lúc này, nàng đang ở La Hay, bên sứ thần Andrey Artamonovich Matveev của chúng ta. Nhiều chàng công tử đã đọ gươm vì nàng, có kẻ đã bị đâm chết... Và nàng lại còn ý định đi Paris để khoe tài tại triều đình vua Louis XIV. Các ngươi đã hiểu lợi ích của việc học tập chưa?
Anixia Tolstaia liền huých thật mạnh vào sườn Marfa và Anna.
- Các cô có nghe thấy câu hỏi không? Và nếu Sa hoàng có đến và có ý giới thiệu một chàng công tử lịch sự nào đó với một trong hai cô thì chẳng lẽ hoàng thượng lại phải trông thấy các cô bẽn lẽn đứng ỳ ra đấy sao?
- Thôi hãy mặc đấy, Anixia, trời nóng quá, - Natalia nói. - Nhưng ta phải đi đây. Tạm biệt. Ta còn phải đến xloboda Đức. Người ta lại kêu ca về các bà chị ta. Ta e tiếng đồn sẽ đến tai Sa hoàng. Ta phải mắng họ một trận tàn tệ mới được.
-------------
Chú thích:
(1) Công chúa Praxkovia Fedorovna là con Sa hoàng Fedor Alekseevich (anh cùng bố khác mẹ của Sa hoàng Piotr Alekseevich).

Chương 142

Đã từ lâu ngay sau khi công chúa Sofia bị giam vào tu viện Novodevichi, hai cô em công chúa là Maria và Catherine đã bị trục xuất ra khỏi điện Kreml và đưa đi đày khuất mắt mọi người tại Pokrovka. Bộ Nội Điện cấp tiền cho họ sinh sống và vui chơi, trả tiền cho các ca nhân, mã phu, và tất cả bọn tôi tớ trong nhà nhưng không đưa tiền mặt cho các công chúa, vì họ quá ngu dại, làm như vậy chẳng những vô ích mà lại còn nguy hiểm nữa.
Katka(1) xấp xỉ bốn mươi, Maska(2) kém chị một tuổi. Ai ai ở Moskva cũng biết cuộc sống ngu độn của họ tại Pokrovka. Họ dậy muộn, ngồi lì ra suốt sáng trước cửa sổ, đầu tóc rũ rượi, ngáp ngắn ngáp dài đến chảy nước mắt. Vừa chập tối, các ca nhân mang đàn domra(3) và sáo đến tận buồng hai ả; các công chúa trang sức lòe loẹt, trát son lên mặt dày đến một tấc, lông mày tô than đen ngòm, ngồi nghe ca hát, uống rượu ngọt và khiêu vũ đến tận đêm khuya, múa may quay cuồng rung chuyển cả ngôi nhà cũ bằng gỗ. Người ta nói là các công chúa ăn nằm với bọn ca nhân rồi có con đưa đi nuôi vú tại thành phố Kimri.
Những ca nhân đó lên mặt vương tôn công tử đến nỗi ngày thường trong tuần, chúng cũng mặc áo sơ mi lụa màu đỏ, đội mũ cao bằng lông cáo, và đi ủng da dê.
Chúng luôn luôn bòn rút tiền của nhân tình rồi đem tiêu xài ở quán rượu cửa ô Pokrovskie.
Để có tiền cho những khoản chi phí đó, các công chúa cho một mụ người hầu tên Domna Vakhrameeva, quê quán ở Kimri, sống trong một buồng xép ở gầm cầu thang tại nhà các công chúa, đến Chợ quần áo cũ. Mụ này đem quần áo cũ của hai chị em công chúa đi bán, nhưng tiền bán được không đủ chi tiêu, Katka liền mơ ước tìm thấy một kho chôn của, để làm việc đó, ra lệnh cho Domna Vakhrameeva phải nằm mơ để biết những nơi giấu tiền. Domna mơ thấy thế thực, khiến hai công chúa ôm ấp hy vọng một ngày kia sẽ trở nên giàu có.
Từ lâu, Natalia đã có ý định mắng các bà chị cùng bố khác mẹ một trận tàn tệ nhưng công chúa chẳng có dịp; lúc thì trời mưa như trút, sấm sét ầm trời, khi thì có việc rắc rối bất ngờ xảy ra làm Natalia lãng đi.
Hôm qua, người ta đã kể nàng nghe những “thành tích” mới của hai bà công chúa bây giờ lại hay lui tới xloboda Đức. Hai ả đã đi xe mui trần đến nhà sứ thần Hà Lan.
Trong khi viên sứ thần kinh ngạc, vội chụp bộ tóc giả lên đầu, mặc áo và đeo gươm vào thì Katka và Maska, ngồi trên ghế trong phòng khách, cười đùa và chuyện trò to nhỏ. Khi sứ thần cúi chào hai công chúa, mũ quét sàn gỗ lia lịa đúng theo phép đối xử với hạng người cao quý, hai ả không biết đáp lễ, chỉ nhổm đít lên khỏi ghế rồi lại ngồi phịch ngay xuống, hỏi luôn tắp lự:
- Mụ chủ hàng người Đức bán đường và kẹo ở đâu?
Hai ả đến tìm viên sứ thần chỉ để hỏi có thế thôi. Vị sứ thần lịch sự dẫn các công chúa tới cửa hàng bánh, đến đó hai ả sờ mó vào mọi thứ, chọn kẹo, bánh ngọt, đường, táo và bánh hạnh nhân, giá tất cả là chín rúp.
- Bà cho đem mau ra xe cho tôi, - Mari nói.
- Không được, bà phải trả tiền đã, - mụ chủ hàng bánh đáp lại.
- Thế bà cho gói và đóng dấu lại cho chúng tôi, lát nữa chúng tôi sẽ cho người đến lấy, - hai ả bực bội nói, sau khi đã thì thầm bàn bạc với nhau.
Nhục hết nước, hai ả rời cửa hàng bánh đến nhà nguyên sủng phi Anna Monx hiện vẫn ở ngôi nhà của Sa hoàng Piotr đã xây cho trước kia. Người ta để hai ả đợi chán chê; hai ả đập cửa mãi hồi lâu trong khi chó sủa ầm ĩ trong sân. Anna Monx nằm trên giường tiếp hai công chúa; ả định tránh không gặp họ.
Các công chúa nói:
- Chào Anna Ivanovna thân mến. Chúng tôi biết chị cho vay lấy lãi, chị có thể cho chúng tôi vay được không, độ một trăm rúp thôi cũng được, tuy chúng tôi cần những hai trăm kia.
- Có gì đem cầm thì tôi mới cho vay, - ả Monx gay gắt trả lời làm Katka phát khóc.
- Than ôi! Chúng tôi chẳng có gì đem cầm cho chị, chúng tôi cứ tưởng chị sẽ giúp chúng tôi.
Và hai công chúa tiu nghỉu ra về.
Nhưng các ả lại muốn ăn. Các ả cho xe dừng lại trước một ngôi nhà, cửa sổ để ngỏ trông thấy rõ đám khách khứa đông đúc đang ăn uống vui vẻ: vợ viên đội Danila Yudin, - trước kia hắn đã đi ra trận ở Livoni - vừa đẻ sinh đôi và mọi người đang ăn mừng lễ rửa tội. Hai công chúa vào nhà, nghiễm nhiên ngồi vào bàn ăn và được khoản đãi một cách trịnh trọng.
Khoảng ba giờ đồng hồ sau, khi hai ả từ nhà vợ viên đội đi ra thì thương nhân người Anh William Pin, đang đi trên đường, nhận ra hai công chúa ngồi trên xe: xe đỗ lại và hai ả hỏi hắn có vui lòng đãi các ả ăn bữa chiều không. William Pin tung mũ lên trời, vui vẻ trả lời: “Rất hân hạnh”. Hai công chúa bảo đánh xe về nhà hắn, đánh chén no nê, uống vodka và rượu bia Anh.
Một giờ trước khi mặt trời lặn, từ giã chủ nhân ra về, hai ả vừa dạo xe qua xloboda vừa nhìn vào cửa sổ các nhà có ánh đèn. Catherine còn muốn ăn gạ bữa tối nữa, nhưng Maria can là không nên. Hai ả đã vui chơi như thế cho đến tối mịt.
-------------
Chú thích:
(1) Gọi Catherine vắn tắt.
(2) Gọi Maria vắn tắt.
(3) Đàn dây của dân tộc Nga.

Chương 143

Cỗ xe của Natalia bon bon nước đại qua xloboda Đức, qua những ngôi nhà nhỏ bằng gỗ sơn giả gạch, những khu vườn nhỏ cây cối cắt xén một cách kỳ quặc, những kho hảng dài bằng gạch thấp bè bè, cánh cửa đóng nẹp sắt. Chỗ nào cũng có những biển cửa hàng sặc sỡ nhô ra đường; đủ mọi loại hàng hóa treo ở các cửa hiệu mở toang.
Natalia ngồi trong xe, chẳng nhìn ai, môi mím chặt, nom tựa một con búp bê với vương miện trên đầu, áo gấm khoác trên vai. Nhiều người đàn ông to béo mặc quần chẽn có dây đeo lên vai, đội mũ bông, cúi chào nàng khi xe chạy qua; nhiều bà đạo mạo đội mũ rơm chỉ trỏ cỗ xe cho con; đôi khi một công tử bột gấu áo loe rộng ngang hông, vội nhảy sang một bên, lấy mũ che bụi.
Natalia nuốt những giọt nước mắt hổ thẹn, nàng biết là Maska và Katka đã làm trò cười cho cả xloboda; nàng hình dung những người đàn bà Hà Lan, Anh, Đức, Thụy Sĩ này hẳn đã đi kể vung lên rằng các bà chị Sa hoàng Piotr là đồ man rợ, là bọn ăn xin chết đói.
Nàng nhác thấy chiếc xe mui trần của hai ả đỗ trong một ngõ quanh co trước cổng kẻ sọc đỏ và vàng của sứ thần nước Phổ Keyzeclinh. Có tin đồn là hắn muốn lấy Anna Monx làm vợ nhưng còn sợ Sa hoàng Piotr.
Natalia lấy ngón tay đeo đầy nhẫn gõ vào tấm kính trước mặt; người đánh xe quay bộ râu đen nhánh về phía nàng và thét to: “Nào, các chú mày?”. Bầy ngựa xám dừng lại, hai bên sườn phập phồng. Natalia nói với người hầu gái:
- Vaxilixa Matveevna, vào nói với sứ thần Đức là ta rất cần gặp các công chúa Catherine và Mari. Và đừng để các bà ấy ăn một miếng nào, cứ việc dùng sức lôi họ ra đây nếu cần!
Vaxilixa Miaxnaia khẽ thở dài xuống xe. Natalia ngồi lui vào tận cùng xe và vừa đợi vừa bẻ ngón tay kêu răng rắc. Lát sau, sứ thần Keyzeclinh tất tả chạy xuống bậc thềm. Người nhỏ bé, gầy còm, lông mi như lông bê, mũ và gậy vội vã vớ theo ôm chặt trước ngực, cứ mỗi bậc hắn lại cúi chào, chân đi tất đỏ choạc ra hình chữ bát; hếch cái mũi nhỏ nhọn hoắt một cách hợm hĩnh, hắn trân trọng mời công chúa quá bộ vào nhà uống một cốc bia lạnh thì hắn rất lấy làm hân hạnh.
- Ta không có thì giờ. - Natalia gay gắt đáp lại. - Vả chăng ta không vào nhà ngươi để uống bia... Ngươi đã cư xử một cách vô liêm sỉ. - Và không để hắn kịp mở miệng. - Vào tìm các công chúa đưa ra đây cho ta ngay tức khắc.
Cuối cùng Catherine và Mari xuất hiện trên thềm, to xù xù như đống rạ trong bộ áo rộng xếp nếp hình tổ ong và xếp chun, sự hoảng hốt lộ trên gương mặt tròn xoe và ngô nghê, trát bự phấn; hai ả đội những bộ tóc giả cao đen nhánh, ngọc quấn đầy xung quanh.
Nhìn thấy các ả, Natalia không khỏi rên lên một tiếng khe khẽ. Ánh nắng làm hai ả hấp háy cặp mắt húp; đàng sau hai ả, Vaxilixa Miaxnaia càu nhàu:
- Đừng chuốc nhục thêm nữa, lên xe mau.
Keyzeclinh cúi chào lia lịa, mở cửa xe. Hai công chúa lên xe, quên cả chào chủ nhân và chật vật lắm mới ngồi được vào chiếc ghế dài trước mặt Natalia. Lát sau, cỗ xe xóc chồm chồm, phóng nước đại băng qua một bãi đất trống chạy về nẻo Pokrovka, bánh xe sơn đỏ cuốn bụi bay mù mịt.
Suốt dọc đường, Natalia không nói nửa lời. Hai ả công chúa kinh ngạc, lấy khăn tay phe phẩy, Mãi đến khi tới phòng riêng của hai ả. Natalia mới ra lệnh khóa cửa lại rồi trút hết tất cả những điều chứa chất trong lòng:
- Thế nào, đồ vô liêm sỉ, các ngươi đã hoàn toàn mất trí hay các ngươi muốn bị giam vào nhà tu kín? Tai tiếng các ngươi để lại ở Moskva chưa đủ sao? Mà lại còn đi chuốc thêm sỉ nhục trước mặt mọi người nữa? Ai xui các ngươi tới nhà các sứ thần? Các ngươi hãy nhìn vào gương xem: má thì béo nứt ra, lại còn muốn nếm mùi thức ăn Đức, Hà Lan! Đầu óc các ngươi ra thế nào mà lại đến ăn mày mụ Anna Monx hai trăm rúp, cái ả giang hồ ấy? Chắc nó lấy làm hài lòng hả dạ lắm đã đuổi được các ngươi ra cửa, đồ ăn mày! Nhất định là Keyzeclinh sẽ tâu chuyện ấy lên vua Phổ rồi vua Phổ sẽ kháo ầm khắp châu Âu cho mà xem! Các ngươi đã định ăn quỵt của mụ hàng bánh - các ngươi có ý định ấy, đừng có chối! Cũng may mà mụ đã tinh ý không bán chịu cho các ngươi. Trời ơi, rồi đây Sa hoàng của chúng ta sẽ nói sao? Sau những chuyện này, hoàng thượng còn coi các ngươi ra thế nào nữa, đồ ngựa cái! Chỉ còn cách bắt các ngươi đi tu, tống cổ các ngươi vào tu viện Puxtozesk trên sông Petsora thôi.
Đầu đội vương miện, mình mặc áo gấm, Natalia đi đi lại lại trong phòng, bàn tay nắm chặt vì xúc động, quắc mắt nhìn Katka và Maska. Trước còn đứng, sau thấy chân bủn rủn, hai ả ngồi xuống; mũi hai ả đỏ tía, bộ mặt béo nung núc run lên, bạnh ra, muốn kêu lên một tiếng mà không dám.
- Sa hoàng làm việc hết sức vất vả khó nhọc để kéo dân ta ra khỏi vực thẳm. - Natalia nói tiếp. - Hoàng thượng không ngủ, ăn không đủ no, kéo cưa và quai búa, xông pha nơi lửa đạn, tất cả chỉ nhằm mỗi mục đích là làm cho thần dân trở thành người... Kẻ thù của hoàng thượng rình mò mọi cơ hội để phỉ báng và làm hại hoàng thượng. Còn các ngươi? Kẻ thù độc ác nhất của hoàng thượng cũng không tìm được thủ đoạn nào tai quái hơn để hại hoàng thượng... Ta không tin các ngươi đã tự ý làm việc này. Ta sẽ tìm ra kẻ nào xúi giục các ngươi tới xloboda Đức, Đồ gái già, đồ ngu!
Đến đây, Katka và Maska hé đôi môi sưng vều, òa lên khóc.
- Chẳng ai xui chúng tôi hết, - Katka gào lên, - tôi mà nói dối thì tôi chết ngay lập tức!
- Không, ngươi nói dối! - Natalia quát - Thế đứa nào đã mách các ngươi biết mụ bán bánh? Đứa nào bảo các ngươi là mụ Monx cho vay lãi?
Đến lượt Maska gào lên:
- Chính là một mụ hầu của chúng tôi, mụ góa ở Kimri, Domma Vakhrameeva đã nói ra. Mụ đã nằm mơ thấy mụ bán bánh ấy và chúng tôi thì mụ nói gì chúng tôi cũng tin: điều đó đã làm chúng tôi thấy thèm ăn bánh hạnh nhân.
Natalia chạy ra cửa, mở toang ra, một lão hề già của triều đình, ăn mặc giả phụ nữ, vội lùi lại và thế là một lũ người hình thù kỳ quái, những mụ già nhăn nheo, những mụ điên, những mụ dở hơi, đầu tóc bù xù bám đầy cỏ gai, lốc nhốc tháo lui. Natalia túm lấy tay một mụ béo ị, ăn mặc sạch sẽ quàng khăn đen:
- Mi là mụ goá ở Kimri phải không?
Mụ béo trịnh trọng cúi chào, người gập lại làm đôi:
- Tâu lệnh bà, quả có vậy, tiện tì quê ở Kimri, người đàn bà goá hèn mọn Domma Vakhrameeva.
- Chính mi đã xui các công chúa đến xloboda Đức phải không? Trả lời đi?
Gương mặt tái mét của mụ Domma run lên, đôi môi thưỡi co rúm lại:
- Tâu lệnh bà, kẻ tiện tì chỉ là một con mụ ăn phải bùa mê lá ngải, nói năng những lời bậy bạ trong lúc tâm thần thảng thốt. Các vị ân nhân của tiện tì, các công chúa, thích nghe những chuyện ngớ ngẩn, ngộ nghĩnh của tiện tì, và điều đó làm tiện tì vui sướng. Đêm đến, tiện tì thấy những giấc mơ kỳ lạ, nhưng tiện tì không dám quả quyết rằng các vị ân nhân của tiện tì có tin hay không... Cả đời tiện tì chưa hề bước chân tới xloboda Đức và cũng chưa hề thấy mụ bán bánh ngọt nào bao giờ.
Sau khi lại cúi chào Natalia một lần nữa, mụ góa Vakhrameeva đứng đờ ra đó, tựa như hóa đá, hai tay vắt chéo trên bụng, dưới tấm khăn quàng; có dùng lửa tra khảo, mụ cũng không nói gì hơn.
Natalia hầm hầm nhìn hai bà chị, Katka và Maska khó chịu vì nóng bức, chỉ khe khẽ rên rỉ. Lão hề già thò đầu qua cửa, môi lão cong cớn, râu ria xồm xoàm, mũi chỉ còn là hai cái lỗ:
- Hê! Có phải làm trò cười cho các lệnh bà không đấy?
Mari phẩy chiếc khăn tay tỏ ý bực bội, ra hiệu cho lão lui ra. Nhưng chừng mươi bàn tay đã níu lấy cánh cửa phía ngoài và các mụ hề, trông gớm guốc, đầu tóc xõa sợi, quần áo rách mướp hoặc bận những chiếc áo cộc tay nom nhố nhăng kỳ cục và đội mũ kokosnic bện bằng vỏ gai, xô lão hề già vào rồi ùa vào theo.
Lanh lẹn và trơ tráo, cả bọn liền nhảy nhót múa may, chạy lồng lên, vả nhau, túm tóc nhau đánh lộn. Lão hề cưỡi lên lưng một mụ già gù, để thò ra đôi giầy gai, dưới cái váy vá đụp hàng trăm miếng, gào lên the thé:
- Và đây là một tên Đức cưỡi trên lưng một mụ Đức đi uống bia...
Giữa lúc đó, các ca nhân chạy đến và đứng ở cửa, hát vang một điệu múa đệm tiếng huýt sáo. Domma Vakhrameeva kéo khăn quàng sụp xuống tận lông mày và đứng tránh ra một chỗ sau bếp lò. Trong cơn thịnh nộ, Natalia dậm mạnh chân đi giầy đỏ xuống sàn:
- Cút ra ngay! - nàng thét đuổi tất cả cái bọn đê tiện khốn nạn này đang xô đẩy nhau dưới mắt nàng. - Cút ra ngay!
Nhưng lũ điên rồ dở hơi lại càng la hét dữ hơn.
Một mình nàng làm thế nào được với cả bày quỷ đó! Moskva đầy rẫy bọn chúng, nhà tên quý tộc nào cũng có, sân trước nhà thờ nào cũng có, đâu đâu cũng thấy bộ mặt nhăn nhó của lũ người âm phủ này...
Vẻ ghê tởm, Natalia nâng xiêm lên, nàng hiểu rằng cuộc nói chuyện với hai bà chị đến đây phải dừng lại. Nhưng mặt khác, nếu bỏ đi ngay thì cũng không được. Nhất định Katka và Maska sẽ thò cổ ra cửa sổ tiễn đưa cỗ xe của nàng bằng những chuỗi cười.
Thình lình giữa cảnh huyên náo và lộn xộn đó có tiếng vó ngựa và tiếng xe lăn ầm ầm ngoài sân.
Ở cửa, bọn ca nhân im bặt. Lão hề già nhe răng kêu lên: “Trốn đi thôi!”
Như một đàn chuột, các mụ điên rồ dở hơi lốc nhốc ùa ra cửa. Phút chốc, ngôi nhà lặng ngắt như tờ.
Các bậc thang gác kêu răng rắc dưới một bước chân nặng nề. Một người to béo, tay cầm gậy bịt bạc và đội mũ lông thú, hổn hển bước vào phòng. Lão mặc chiếc áo phủ ngoài rộng màu huyết dụ dài sát đất, theo kiểu Moskva cổ. Gương mặt bè bè, da sạm, râu cạo nhẵn nhụi, bộ ria đen vểnh lên theo kiểu Ba Lan, hai con mất sáng, ướt, lồi như mắt tôm, lão lặng lẽ cúi chào Natalia, mũ chạm sát đất, rồi nặng nề quay lại và cũng cúi chào các công chúa Catherine và Mari, đang sợ đờ cả người.
Đoạn lão ngồi xuống một chiếc ghế dài, đặt gậy và mũ bên cạnh.
- Úi dà! - lão nói. - Giờ mới tới nơi!
Lão rút trong ngực ra một chiếc khăn tay lớn, thấm thấm mồ hôi trên mặt, trên cổ, lau mớ tóc nhớp nháp xõa xuống trán. Đó là con người đáng sợ nhất Moskva, vương hầu chấp chính Fedor Yurievich Romodanovski.
- Nghe nói ở đây đã xảy ra nhiều chuyện... nhiều chuyện không hay... Ai... ai... ai.
Vị vương hầu nhét chiếc khăn tay vào ngực, và trợn mắt nhìn sang các công chúa Catherine và Mari:
- Á à? Ra chúng ta đã thèm ăn bánh hạnh nhân thì phải... sự ngu dại, như tục ngữ đã nói, còn tai hại hơn là trộm cắp... Chuyện này tai tiếng ầm ĩ lắm đây.
Như một pho tượng thờ, lão quay khuôn mặt to bè bè về phía Natalia:
- Có người đã sai các công chúa đến xloboda Đức để lấy tiền. Như thế có nghĩa có kẻ nào đó cần tiền. Xin đừng trách thần: thần sẽ phải cho người đến gác nhà các bà chị của lệnh bà: các công chúa có chứa chấp trong nhà, dưới gầm cầu thang, một mụ đàn bà ở Kimri. Ngày ngày mụ này bí mật đem một hũ thức ăn để vào trong một căn nhà tắm hơi nước nhỏ bỏ không, ở giữa một bãi đất hoang, sau vườn rau. Một kẻ trốn tránh sống trong căn nhà cũ nát ấy, một giáo sĩ đã phá giới tên là Griska.
Nghe đến đây, Catherine và Mari tái mét, đưa tay lên che mặt.
- Tên Griska ở đó, pha chế các bùa yêu, cùng những thứ thuốc uống chống thụ thai và phá thai. Thế đấy! Thần được biết là tên giáo sĩ phá giới này còn ở trong nơi ẩn náu của nó viết những bức thư đê tiện đem lưu hành khắp thành phố; thần còn biết là đêm đến, nó tới nhà một vài sứ thần ở xloboda Đức, và hay lui tới nhà một vãi, mụ này vẫn đến lau sàn ở tu viện Novodevichi, dặc biệt là ở phòng cựu nữ nhiếp chính Sofia... - Vương hầu nói chậm rãi và không hề cao giọng, tuy nhiên mọi người trong phòng đều nín thở. - Vậy thì thần sẽ ở lại đây một thời gian và tâu lệnh bà Natalia Alekseyevna kính mến, xin lệnh bà đừng dính vào những việc này cho bẩn tay, mời lệnh bà về cung, dạo này buổi tối trời lạnh.

Chương 144

Ba anh em Brovkin ngồi ở bàn: Aleksey, Yakov và Gavrila. Hồi bấy giờ thật hiếm khi có thể đoàn tụ được như vậy để chuyện trò cởi mở trước một cốc rượu. Thời buổi ấy, người ta lúc nào cũng vội vã, không được một lúc nào rảnh: hôm nay ở đây, ngày mai đã lại nằm dưới một chiếc áo lông cừu, vùi mình trong rơm, tận trong cùng một chiếc xe trượt tuyết đưa ta đến một nơi cách xa đây hàng ngàn dặm... Tình hình cho thấy là ít người quá: thiếu tay làm!
Yakov từ Voronez tới, Gavrila từ Moskva tới. Cả hai đều được lệnh xây trên tả ngạn sỏng Neva, phía thượng lưu cửa sông Foltanka, những nhà kho, nhà chứa hàng, bến tàu, bến nổi và đóng cừ cho vững khắp bờ sông, để đón những chiến thuyền đầu tiên của hạm đội Baltic, mà người ta đang đóng cấp tốc trên sông Xvia, gần Lodeynoie Pole.
Năm ngoái, Alekxandr Danilovich Melsikov đã tới đây sai người đốn rừng và trong tuần lễ thánh, hắn đã đặt nền móng cho xưởng đóng tàu đầu tiên. Người ta đã đưa tới đây những thợ mộc nổi tiếng của quận Oloretz và những người thợ rèn ở Uxtiuzina Zelezopondis. Những nhà hàng hải trẻ tuổi được đào tạo ở Amsterdam, những thợ già bậc thầy ở Voronez và Arkhagensk, những danh sư của Anh và Hà Lan, đang đóng trên sông Xvia những chiến thuyền mang hai mươi khẩu đại bác, những chiến thuyền chạy bằng buồm hoặc bằng mái chèo đủ các cỡ lớn nhỏ, những thuyền có boong, những thuyền đáy phẳng kiểu Hà Lan. Cả Sa hoàng cũng đi xe trượt tuyết tới công trường, trước mùa tuyết tan và người ta đợi nhà vua chẳng bao lâu nữa sẽ về đây, tại Petersburg này.
Nhân ngày chủ nhật, Aleksey không mặc áo chẽn, chỉ mặc có chiếc sơ mi mới bằng vải Hà Lan, cổ tay áo viền đăng ten xắn lên, đang băm thịt ướp muối trên bàn băm. Mấy anh em ngồi trước một lon xúp bắp cải nóng bỏng, một chai vodka và ba chiếc cốc bằng thiếc, trước mặt mỗi người để một khoanh bánh lúa mạch nguội.
- Xúp bắp cải và thịt muối thì ở Moskva không thiếu. - Aleksey nói, mặt hắn đỏ hồng hồng, cằm cạo nhẵn nhụi, bộ ria hoe hoe vàng vểnh lên như hai cái móc, tóc cắt ngắn. - bộ tóc giả của hắn treo ở móc gỗ trên tường. - Còn như ở đây chỉ những ngày hội mới được chén thịt muối. Dưa cải bắp thì chỉ có trong hầm nhà Alekxandr Danilovich, nhà Bruxơ và nhà anh là có thôi... Mà có được thì cũng chỉ vì mùa hè vừa qua, bọn này đã có sáng kiến trồng lấy bắp cải. Phải, đời sống hiện nay gay go lắm, rất gay go. Cái gì cũng đắt, chẳng mua được gì cả.
Aleksey đổ chỗ thịt băm vào lon xúp và rót rượu vào đầy các cốc. Mấy anh em cúi đầu chào nhau, thở dài một cái, nốc cạn cốc rượu, rồi bắt đầu ăn một cách từ tốn.
- Mọi người sợ đến nơi đây, đàn bà thì hầu như quanh đây không có lấy một mống; quả thực cứ như sống ở sa mạc vậy... Mùa đông còn khả dĩ, chỉ toàn là cảnh bão tuyết khủng khiếp, tối tăm mù mịt: vả lại ở đây mùa đông này bận lắm... Nhưng khi gió xuân mát mẻ bắt đầu thổi như ngày hôm nay chẳng hạn, thì trong đầu óc lại nảy ra những ý nghĩ kỳ cục mà chẳng ai dám nói đến... Và ở đây trách nhiệm của bọn anh rất nặng nề.
- Phải, vùng này xem ra chẳng lấy gì làm vui lắm. - Yakov vừa nói vừa gặm một miếng sụn.
Khác với anh và em, Yakov ăn mặc cẩu thả, chiếc áo ngoài màu nâu đứt hết khuy, đầy vết bẩn, một chiếc cà vạt nhớp nhúa quấn quanh cái cổ lông lá, người hắn sặc mùi thuốc lá. Tóc chải bờm xờm - hắn không mang tóc giả - dài xuống tận vai.
- Chú nói sao, - Aleksey đáp - về phía dưới hạ lưu một chút, gần bờ biển, về phía ấp Dudechev phong cảnh trông vui mắt lắm chứ. Ở đấy có những rừng phong rất đẹp, cỏ mọc cao đến ngang thắt lưng, lúa mạch mọc rất tốt, cả rau, quả nữa... Ở cửa sông Neva thì chỉ toàn là bãi hoang và sình lầy, quả có thế. Nhưng Sa hoàng lại quyết định lập thành phố của Người ngay tại đó. Địa điểm ấy rất thuận lợi về phương diện chiến lược. Chỉ có cái phiền là bọn Thụy Điển không ngừng quấy nhiễu chúng ta. Năm ngoái chúng đã tấn công ta về phía sông Xextra trong khi hạm đội của chúng tấn công ta bằng đường biển; ta đã bị khốn đốn với chúng, nhưng rồi cũng đánh lui được chúng. Bây giờ thì chúng sẽ không dám đụng đến ta về phía biển nữa. Tháng giêng, ta đã đặt những thùng đổ đầy sỏi xuống dưới băng, gần đảo Kotlin và suốt mùa đông, ta đã chở đá đổ xuống đáy nước. Trước khi băng trên sông tan, ta sẽ hoàn thành việc xây dựng một pháo đài hình tròn có đặt năm mươi khẩu đại bác. Piotr Alekseevich đã từ Voronez gửi đến những bản thiết kế công trình ấy cùng với một mô hình bằng gỗ do chính hoàng thượng tự tay làm và ra lệnh cho bọn anh đặt tên pháo đài đó là Kronstat.
- Ấy em cũng biết được đôi chút về chuyện ấy, - Yakov nói. - Thậm chí chính Sa hoàng và em đã từng cãi nhau về cái mô hình đó. Em bảo hoàng thượng rằng pháo đài thấp quá, khi nước biển dâng lên to, nước sẽ tràn ngập các lỗ súng, phải xây tường cao thêm lên hai mươi versok. Để trả lời em hoàng thượng đã nện em bằng gậy tầy. Sáng hôm sau, hoàng thượng cho gọi em đến. “Yakov, - hoàng thượng bảo, - ngươi nói đúng, chính ta sai”. Nói rồi, hoàng thượng cho em một cốc vodka và một cái kẹo giòn. Hoàng thượng và em đã làm lành với nhau. Và hoàng thượng đã tặng em cái tẩu này đây.
Yakov rút trong túi áo đựng đầy các đồ vặt vãnh ra một cái tẩu cặn thuốc bóng đen, cán tẩu bằng gỗ anh đào, đầu bị nhấm nham nhở. Hắn nhồi thuốc vào tẩu rồi vừa đánh bật lửa vừa khụt khịt. Bỗng Gavrila, người em út cao lớn và lanh lẹn hơn hai anh, môi mờ mờ một vệt ria nhỏ màu nâu, giống người chị là Xanka ở cặp má của một gã thiếu niên và đôi mắt to, vẩy cái thìa và đột ngột nói:
- Aliosa này, em vừa bắt được một con gián.
- Đâu nào, đồ ngốc, mảnh than đấy chứ.
Aleksey nhặt trong thìa của em, một cái gì đen đen vứt lên bàn. Gavrila ngả đầu ra đằng sau, phá lên cười, để lộ hai hàm răng trắng như đường:
- Thật giống mồ ma mẹ chúng ta như lột. Nhiều lần bố vứt thìa đi, kêu lên: “Kinh quá! Một con gián trong xúp!”. Thế là mẹ đáp liền: “Đâu nào, ông nó, mảnh than đấy chứ!”. Thật là vừa ngộ vừa buồn. Aliosa, hồi ấy anh đã lớn rồi nhưng Yakov hẳn còn nhỏ, chúng ta đã nằm suốt mùa đông trên ổ ở bếp lò, quần chẳng có. Xanka kể chuyện làm chúng ta sợ. Tất cả những cái đó nghĩ sao mà xa thế.
Ba anh em đặt thìa xuống và tì khuỷu tay lên bàn ngồi đăm chiêu tư lự một lát, như thể thấm thía nỗi buồn của dĩ vãng. Aleksey rót rượu đầy các cốc và câu chuyện lại tiếp tục, thong thả, từ tốn. Aleksey than phiền: hắn chịu trách nhiệm trông coi công việc trong thành, nơi xẻ ván cho nhà thờ Piotr và Paul đang xây. Thiếu cưa, thiếu rìu, ngày càng khó kiếm ra bánh mì, kê và muối cho thợ; nạn thiếu rơm cỏ làm chết những con ngựa kéo xe trượt tuyết chở đá, chở gỗ làm kèo làm cột từ bờ vịnh Phần Lan đến. Bây giờ xe trượt tuyết không thể đi lại được nữa, lẽ ra phải có xe có bánh nhưng lại thiếu bánh xe.
Rồi, sau khi rót rượu, ba anh em điểm qua tình hình chính trị châu Âu. Họ ngạc nhiên và chê trách. Những nước hình như là rất thuần phong mỹ tục, lẽ ra phải làm ăn yên lành và buôn bán lương thiện, ấy thế mà không. Vua Pháp đánh nhau trên đất liền, trên mặt biển chống lại người Anh, người Hà Lan và Hoàng đế Áo và chẳng biết bao giờ cuộc chiến tranh ấy mới chấm dứt. Người Thổ Nhĩ Kỳ, người Vơnidơ và người Tây Ban Nha tranh nhau Địa Trung Hải và đốt cháy hạm đội của nhau. Chỉ có Frederich, vua nước Phổ là ngồi yên lúc này, hít gió đánh hơi, rình một miếng nào béo bở có thể chiếm được mà không khó nhọc mấy. Xứ Xăc, xứ Xilezi nước Ba Lan và Lidva đều cháy bùng bùng khắp chốn vì chiến tranh và những cuộc xung đột nội bộ.
Cách đây hai tháng, vua Charles đã ra lệnh cho người Ba Lan, người thì về phe Auguste, người thì theo cánh Xtanixlav, và trong nghị hội toàn quốc và nghị hội các tỉnh, các quận, họ bốc lên, rút gươm choảng nhau; mỗi ông chúa lại lập ra một đám quý tộc nghèo phục vụ cho mình, đi đốt lãnh địa, làng mạc của đối phương. Còn vua Charles thì kéo quân đi hoành hành khắp trong nước, bắt dân chúng nuôi quân lính của mình, cướp phá các thành phố và đe rằng, một khi đã khuất phục được Ba Lan, sẽ quay sang đánh Sa hoàng Piotr, thiêu cháy Moskva và tàn phá nước Nga, xong đâu đó, ông ta sẽ tự xưng là một Alekxandr của Maxêđoan(1) mới. Phải, có thể nói được rằng: toàn thế giới đã phát điên, phát rồ rồi!
Thình lình, bên ngoài, một băng nhũ lớn rơi xuống, kêu choang choang. Mấy chàng thanh niên quay đầu lại; qua cửa sổ có bốn ô kính nhỏ, ăn sâu vào trong tường, họ trông thấy bầu trời thăm thẳm, một màu lam ướt như chỉ ở đây, trên bờ biển mới có; họ nghe thấy tiếng nước từ trên mái nhà nhỏ giọt rơi xuống lộp độp, dồn dập và tiếng chim sẻ ríu rít trên bụi cây trụi lá. Khi ấy họ thổ lộ tâm sự với nhau:
- Chúng ta đây là ba anh em, - Aleksey thốt lên, tư lự - Ba gã khốn khổ không vợ. Anh có thằng lính hầu giặt áo sơ mi cho anh, khi cần thì đính lại cho anh một chiếc khuy, nhưng dẫu sao thì cũng không phải thế... không phải là một bàn tay đàn bà... Vả lại, mặc thây cái áo sơ mi, đó không phải là cái chủ yếu... Cái mà anh muốn là người đàn bà đó đợi anh ở cửa sổ, nhìn anh ở ngoài phố đi về. Đáng lẽ thế thì anh lại trở về nhà, mệt nhừ, rét cóng, nằm lăn ra cái giường cứng, vùi mũi vào gối, trơ trọi một thân một mình như một con chó... Nhưng mà đấy, tìm đâu ra người đàn bà đó?
- Phải, đúng thế, tìm đâu ra? - Yakov nói; hắn đặt khuỷu tay lên bàn và liên tiếp thở ra ba hơi khói thuốc lá. - Về phần em thì vấn đề đã dứt khoát. Không đời nào em lấy một ả ngốc nghếch có đuôi có chóp, không biết đọc biết viết gì cả, nói chuyện gì với một ả như vậy được? Còn như tiểu thư con nhà quý tộc, bàn tay trắng muốt, vào hạng những cô ả mà ta phải tuân lệnh Sa hoàng dẫn nhảy trong các cuộc hội hè, vừa nhảy vừa khen nịnh, thì cô ta lại chẳng thèm đến cái thứ mình... Vì thế cho nên em bằng lòng với bất cứ cái gì, khi nào thấy cần, chỉ riêng môn toán học đối với em còn đáng quý hơn tất cả các phụ nữ trên trái đất này.
- Hai cái đó có phải không dung hòa được với nhau đâu, - Aleksey nhẹ nhàng nói.
- Ấy thế mà hình như lại không dung hòa được đấy. Hãy trông con chim sẻ đậu trên bụi cây kia: nó chẳng có việc gì khác là nhảy lên con sẻ cái của nó. Còn như Chúa sinh ra con người ta là để suy nghĩ. - Yakov liếc mắt nhìn đứa em út rồi rít mạnh cái tẩu. - Mà này, chàng Gavriuska(2) của chúng ta đây hẳn là phải thạo cái khoa này.
Cả khuôn mặt Gavrila đỏ bừng lên, từ cổ cho đến tận chân tóc. Môi hắn từ từ giãn ra, mỉm một nụ cười nửa miệng, cặp mắt ươn ướt; trong lúc bối rối, hắn không còn biết đưa mắt nhìn đi đâu. Yakov thân mật huých em một cái:
- Kể đi. Tao ưa những chuyện ấy lắm.
- Để yên em nào... Em chẳng có chuyện gì kể cả. Em hãy còn trẻ quá.
Nhưng Aleksey và Yakov cố nài:
- Anh em nhà với nhau cả mà, thế nào, chú sợ cái gì, đồ ngốc?
Gavrila khăng khăng hồi lâu rồi thở dài sườn sượt và sau đây là câu chuyện rốt cuộc hắn đã tâm sự với hai anh:
Đúng trước ngày lễ Noen, vào buổi tối, một tên liên lạc của hoàng cung đã tới nhà Ivan Artemist để báo rằng: “Gavrila Ivanovich Brovkin được lệnh phải tới trình diện ở điện Kreml ngay lập tức”.
Thoạt đầu Gavrila từ chối; tuy còn trẻ, hắn đã tự cảm thấy mình là một nhân vật được Sa hoàng quý trọng, hơn nữa, hắn đang bận tô mực Tầu bản đồ họa kỹ thuật đã hoàn thành, thiết kế một chiếc thuyền hai cầu, để gửi cho các xưởng đóng tàu ở Voronez; hắn muốn đưa cho học trò của hắn ở Trường hàng hải xem bản thiết kế đó; trường đặt trong tháp Xukharepskaia, nơi hắn theo lệnh Sa hoàng dạy cho đám vương tôn công tử nghệ thuật đóng tàu.
Nhưng Ivan Artemits nghiêm nghị bảo con: “Gavriuska, mặc ngay cái áo ngoài kiểu Pháp của con vào và đi tới nơi con được lệnh đến: không có đùa với những chuyện ấy được”.
Gavrila mặc áo ngoài bằng lụa trắng, thắt đai lưng, kéo mớ đăng ten lòa xòa dưới cằm, xức dạ hương vào bộ tóc giả đen như lông quạ, khoác lên vai một chiếc áo choàng dài đến tận đinh thúc ngựa rồi đi tới điện Kreml trên chiếc xe tam mã của bố mà cả Moskva đều ao ước thèm muốn.
Người liên lạc dẫn hắn đi qua những cầu thang hẹp và hành lang tối om om, lên tầng gác trên, tới cái Terem cổ kính bằng đá mà vụ cháy lớn đã chừa lại. Ở đó, tất cả các gian phòng đều thấp, trần hình vòm, tường vẽ hoa cỏ lạ trên nền vàng hoặc nền đỏ và xanh lá cây; thoang thoảng mùi sáp và hương trầm đã lâu ngày, những con mèo to giống Angora lười biếng lim dim ngủ trên những lỏ sưởi bằng sứ tỏa hơi nóng ngột ngạt. Sau những cánh cửa gắn mica của những tủ đựng bát đĩa, những bình có quai và những cốc sáng lấp lánh; có lẽ xưa kia Ivan Hung đế đã uống bằng những cốc đó, nhưng ngày nay người ta không dùng đến nữa. Gavrila, khinh thị tất cả những thứ đồ cổ lỗ ấy, nện đinh thúc ngựa ở giầy choang choang trên các phiến đá chạm trổ. Tới cửa cuối cùng, hắn cúi xuống, bước vào và ngay tức khắc cảm thấy mê mẩn vì một phép thần mạnh mẽ, dường như có một hơi lửa thổi vào người hắn.
Dưới vòm trần mạ vàng mờ, dưới ánh sáng những ngọn sáp là một cái bàn có những hình quái vật có cánh, mình sư tử đầu chim ưng đỡ lấy; một phụ nữ trẻ tuổi đang ngồi viết, hai khuỷu tay để trần tì lên những tờ giấy bề bộn, một chiếc áo lót lông thú khoác trên đôi vai để trần, ánh sáng dịu dàng tỏa trên gương mặt thanh tao, tròn trĩnh; vứt cái bút lông thiên nga, đưa bàn tay đeo đầy nhẫn lên mái tóc màu hạt dẻ để sửa lại bím tóc nặng quấn quanh đầu, nàng ngẩng cặp mắt nhung đen lên nhìn Gavrila. Đó là công chúa Natalia Alekseyevna.
Gavrila không quỳ gối trước mặt nàng như tập quán dã man bắt buộc mà theo đúng quy tắc của phép lịch sự Pháp, đưa chân trái lên trước, dẫm mạnh xuống đất và ngả mũ cúi chào, những búp tóc quăn của bộ tóc giả đen như hạt huyền xòa xuống che kín mặt. Công chúa khẽ nhếch cái miệng xinh xinh mỉm cười, từ sau bàn đi ra, nâng hai bên xiêm rộng bằng sa tanh màu trân châu xám, cúi rạp xuống chào lại.
- Nhà ngươi là Gavrila, con của Ivan Artemist phải không? - nàng hỏi, cặp mắt sáng long lanh dưới ánh nến nhìn hắn từ dưới lên trên vì hắn rất cao, bộ tóc giả gần chạm tới vòm trần nhà. - Ta có lời chào ngươi. Ngươi hãy ngồi xuống. Chị ngươi, Alekxandra Ivanovna có gửi từ La Hay về cho ta một bức thư nói rằng ngươi có thể giúp ta được nhiều trong công việc đang làm ta bận tâm. Ngươi đã có qua Paris rồi phải không? Ngươi đã thấy các nhà hát ở Paris rồi chứ?
Gavrila phải kể lại cho nàng nghe, cách đây hai năm, hắn đã từ La Hay đi thăm Paris trong dịp hội hóa trang cùng với hai chuyên viên hàng hải như thế nào; hắn tả lại những kỳ quan đã được thưởng ngoạn, từ các nhà hát cho đến các trò hóa trang ngoài phố. Natalia Alekseyevna muốn biết tường tận tất cả mọi thứ: nàng sốt ruột gõ gót giầy xinh xinh xuống đất, khi Gavrila lúng túng không biết diễn tả thế nào cho rõ ý nghĩ của mình; trong lúc mải mê vui thích, nàng tiến sát lại gần, mắt mở to nhìn Gavrila chằm chặp, thậm chí còn hơi hé miệng, ngạc nhiên về các phong tục của người Pháp.
- Xem đấy, - nàng nói, - nhân dân nước đó không có sống như ma xó, họ không đóng chặt cửa lại người nào ở nhà người nấy, họ biết vui chơi và làm vui người khác, họ nhảy múa ở ngoài phố và ưa xem diễn kịch... Ở ta, cũng phải làm như thế mới được. Người ta bảo ngươi là kỹ sư, vậy ta trao trách nhiệm cho ngươi xây lại một phòng trong cung, ta đi chọn phòng đó để làm nhà hát. Ngươi hãy cầm lấy cây nến đi theo ta.
Gavrila cầm cái giá nến nặng có cắm một cây nến đang cháy; chiếc áo dài sột soạt, Natalia Alekseyevna đi trước, dáng đi lướt như bay, qua các gian phòng trần hình vòm có những con mèo Angora thức giấc trên các lò sưởi nóng rực, cong lưng rồi lại uể oải nằm xuống; đây đó trên vòm cao, những Sa hoàng xứ Moskovi, nét mặt khắc khổ đưa con mắt cực kỳ nghiêm nghị nhìn theo nàng công chúa đang đâm đầu vào nơi sa đọa và kéo luôn cả chàng thanh niên đội bộ tóc giả có sừng như ác quỷ kia, cùng tất cả thuần phong mỹ tục của Moskva xuống địa ngục.
Hai người đang đi xuống một chiếc cầu thang dốc và hẹp đâm sâu vào bóng tối dày đặc thì Natalia bỗng hoảng sợ và luồn cánh tay để trần vào dưới khuỷu tay Gavrila; hắn cảm thấy hơi nóng của vai nàng, hít hương thơm của mái tóc và áo lông thú của nàng; dưới gấu xiêm thò ra chiếc giầy nhỏ bằng da dê thuộc, mũi vuông và nàng cúi nhìn vào bóng tối đen ngòm, đi xuống mỗi lúc một thận trọng hơn; lòng Gavrila khẽ rung động và giọng hắn trở nên nghẹn ngào; xuống tới bên dưới Natalia chăm chú nhìn thẳng vào cặp mắt chàng trai trẻ.
“Mở cửa này ra”, nàng nói và trỏ một cái cửa thấp phủ da đã bị mối ăn. Công chúa bước qua ngưỡng cửa cao, đi vào trước; bóng tối ấm áp phảng phất mùi bụi bậm và mùi chuột.
Gavrila giơ thật cao cái giá nến và trông thấy một căn phòng rộng rãi, trần hình vòm dựa trên bốn cột to và lùn.
Đó là phòng ăn của Mikhail Feodorovich, nơi vị Sa hoàng hiền lành ấy xưa kia ăn uống với các ủy viên trong Zemski Sbor(3). Những bức bích họa vẽ trên cột và trên vòm đã long lở nước sơn, ván trên sàn nhà kêu cót két. Ở cuối phòng, treo trên đinh có những bộ tóc giả bằng xơ gai, những chiếc áo bào của vua bằng giấy và đủ các thứ đồ đạc áo quần của bọn diễn viên; trong một góc phòng, chất đống các mũ miện và áo giáp bằng sắt tây, đó là tất cả những gì còn lại của gánh hát Đức Johan Kunxte, trên Hồng trường, mới bị đóng cửa vì “đã diễn những vở ngu xuẩn và chướng tai gai mắt”.
Natalia nói: “Nhà hát của ta sẽ đặt ở đây. Bên này ngươi sẽ dựng một sân khẩu cho diễn viên, với màn và đèn lồng và ở chỗ kia, ngươi sẽ đặt ghế cho khán giả. Cần phải trang trí các vòm trần bằng những bức tranh đẹp cho thật vui mắt”.
Theo con dường cũ, Gavrila đưa công chúa trở về tẩng gác trên và nàng đã cho hắn về sau khi đưa tay cho hắn hôn. Gavrila về tới nhà lúc đã quá nửa đêm; chẳng buồn cởi quần áo, cứ để nguyên bộ lễ phục và bộ tóc giả, hắn lăn ra giường, hai mắt nhìn lên trần như thể, dưới ánh nến đang tàn, hắn vẫn còn trông thấy khuôn mặt bầu bĩnh, cặp mắt nhung có cái nhìn soi mói, cái miệng xinh xinh đang nói, đôi vai thanh tú khoác hững hờ những bộ lông thú thơm phức; hắn không ngừng nghe tiếng xiêm màu xám trân châu xếp nếp dày sột soạt bay lượn trước mặt hắn trong bóng tối ấm áp.
Tối hôm sau, công chúa Natalia lại cho triệu Gavrila đến và mãi tới khuya, đọc cho hắn nghe “Bí mật của lò lửa”, vở kịch nàng viết dở chưa xong, nói về ba chàng trai trẻ trong một cái lò lửa cháy rừng rực. Gavrila nghe nàng ngâm những câu thơ nhịp nhàng, lắc lư chiếc bút lông thiên nga đánh nhịp, hắn tường chừng như mình là một trong ba chàng trai trẻ đó, trần trụi trong lò lửa rừng rực cháy, sắp kêu lên vì sung sướng, thét lên như một gã điên khùng.
Gavrila hăng hái bắt tay vào việc xây dựng hai gian phòng cũ, không kể gì đến những trở ngại của bọn thơ lại ở Bộ Nội điện đã tìm cách gây ra cho hắn ngay từ đầu, không kể gì chuyện chúng cố tình chậm chạp trong việc cung cấp gỗ làm kèo làm cột, vôi, đinh và các vật liệu khác.
Ivan Artemist lặng thinh mặc dầu lão biết con trai lão đã bỏ các bản vẽ và không tới trường hàng hải nữa; trong bữa ăn, chẳng buồn đụng đến thìa, chàng thanh niên đưa con mắt ngơ ngác nhìn chằm chặp vào một điểm nào đó trong không gian và đêm đến khi ai nấy đã ngủ cả, hắn đốt hết cả một cây nến đáng giá đến ba kopeik. Chỉ có mỗi một lần, Ivan Artemist, quay quay ngón tay sau lưng và cắn môi, đã đánh bạo nói:
- Cha chỉ nói với con một điều thôi, Gavriuska ạ, con đang đùa với lửa, cẩn thận đấy!
Trong tuần chay, Sa hoàng Piotr rời Voronez để tới bờ sông Xvia, đã phóng qua Moskva như một cơn lốc và ra lệnh cho Gavrila cùng với người anh là Yakov tới Petersburg để xây dựng cảng.
Đối với Gavrila, công việc xây dựng nhà hát đã chấm dứt như vậy... Và hắn đã kết thúc câu chuyện của mình như vậy.
Hắn đứng dậy, ra khỏi bàn, cởi các khuy đinh rất nhiều trên cái áo kiểu Hà Lan, phanh ngực ra và hai tay đút túi chiếc quần chẽn ngắn và phồng ống, đi đi lại lại từ cửa sổ đến cửa ra vào trong gian phòng trát vữa không xoa nhẵn.
Aleksey hỏi:
- Và chú không quên được nàng?
- Không... và em không muốn quên, dù người ta có đặt đầu em lên bục xử trảm!
Yakov gõ gõ móng tay xuống mặt bàn, nói:
- Chính mẹ chúng ta đã để lại cho chúng ta trái tim mê say đó... Cả Xanka cũng như thế... Chẳng làm thế nào cưỡng lại được, chẳng có thuốc nào chữa nổi. Này, anh và chú, ta hãy nâng cốc để tưởng nhớ tới người mẹ đã quá cố của chúng ta là Avdochia Evdokimovna!
Vừa lúc đó, ở ngoài cửa ra vào có tiếng đinh thúc ngựa kêu lanh canh và tiếng ủng người ta đang cạo bùn; cánh cửa bỗng mở toang và một người choàng áo khoác đen lấm bùn, mũ đen có lon bạc hiện ra. Đó là Alekxandr Danilovich Melsikov, trung úy pháo thủ của trung đoàn Preobrazenski, tổng trấn Sluxenburg và toàn quyền xứ Careli, xứ Ingri và xứ Estonia.
- Trời ơi! Thật là một tiệm hút thuốc? Ấy, cứ ngồi yên, đừng có khách khí với ta. Chào các chú! - Alekxandr Danilovich nói với một vẻ vui đùa ồn ào. - Này, hay là ta đi ra bờ sông, hả? - Hắn cởi áo choàng, bỏ mũ và bộ tóc giả to sù rồi ngồi vào bàn; hắn nhìn những khúc xương đã gặm vương vãi trên bàn và nhìn vào cái lon không. - Vì buồn quá, ta đã ăn sớm, - hắn nói, - rồi đánh một giấc chừng non một giờ đồng hồ, khi tỉnh dậy thì chẳng còn ma nào trong nhà nữa: khách khứa và người nhà đã bỏ ta mà chuồn sạch... Ông toàn quyền đang ngủ mà có chết đi thì có lẽ cũng chẳng ai hay biết gì hết.
Hắn nháy mắt với Aleksey:
- Này ông trung tá, ông thết một ít vodka có bỏ hạt tiêu và dưa cải bắp được chứ: ta nhức đầu quá. Còn các chú, những người anh em xây dựng, công việc thế nào? Cần phải khẩn trương lên, thời giờ gấp lắm rồi. Ngày mai, ta sẽ đi ngó qua công việc của các chú.
Một lát sau, Aleksey trở ra với một đĩa dưa bắp cải và một chai vodka. Alekxandr Danilovich, cong ngón tay út được trau chuốt cẩn thận, có đeo một chiếc nhẫn kim cương to, thong thả rót một cốc rượu, nhón một ít dưa trong đĩa có lẫn những mảnh nước đá nhỏ, uống một hơi, hai mắt lim dim rồi mở mắt ra, nhai dưa cải bắp rau ráu.
- Thật ra không gì chán bằng ngày chủ nhật, những ngày chủ nhật sao mà buồn thế, không thể tưởng tượng được. Hay là mùa xuân ở đây đối với ta không tốt? Ta bị nhức nhối và ê ẩm khắp người... Chắc là tại thiếu đàn bà... Chiến sĩ gì chúng ta? Những cuộc chinh phục của chúng ta mới hay hớm làm sao? Chúng ta đã dựng lên một thị trấn nhưng một thị trấn mà không có đàn bà thì còn ra cái quái gì nữa? Thực đấy, ta sẽ đệ đơn từ chức lên Piotr Aleksee vich. Kệ thây cái chức toàn quyền! Thà bán bất cứ cái gì trong một cửa hiệu và sống một cách nhỏ mọn ở Moskva còn hơn... vì trái lại, ở đấy có những cô gái mới tuyệt chứ! Những thần Vệ nữ! Những cặp mắt long lanh, tinh quái, những đôi má hồng hồng, lại dịu dàng, tươi vui... Thôi nào, ta ra bờ sông đi, ở đây ngạt thở lắm!
Alekxandr Danilovich không thể ngồi lâu được một chỗ, hắn lúc nào cũng vội, cũng như tất cả những ai làm việc với Sa hoàng Piotr; hắn nói một việc khác.
Thật khó mà chiều lòng hắn, hơn nữa, hắn lại là một con người nguy hiểm. Hắn ấn lên đầu bộ tóc giả cùng với mũ, khoác lên vai chiếc áo choàng lót lông hắc điêu và cùng với ba chàng thanh niên ra khỏi căn nhà nhỏ.
Tức khắc, một ngọn gió xuân dữ dội, mát và ẩm ướt, thổi vào mặt họ. Trên khắp hòn đảo, xưa kia tên là đảo Fomin, bây giờ mang tên là đảo Petersburgskaia Xtorona, những cây thông tỏa ra một tiếng rì rào vừa dịu dàng vừa hùng mạnh, nghe như một ngọn suối từ bầu trời xanh sâu thẳm tuôn xuống... Bầy quạ đen vừa kêu vừa bay lượn trên những cây phong hiếm hoi, trơ trụi.
Căn nhà nhỏ của Aleksey ở tận cuối quảng trường Troiskaia - đã được đốn cây và đào gốc - cách những quán chợ bằng gỗ mới dựng không xa bao nhiêu; các cửa hàng đều đóng ván hình chữ X bịt kín, vì các thương nhân chưa tới; bên phải, sừng sững những bức tường thành bằng đất và những pháo đài của tòa thành, đã sạch tuyết; trong lúc này chỉ có mỗi pháo đài của pháo thủ Piotr Alekseyev là đã được lát đá đến lưng chừng. Ở đó, trên cột cờ, phấp phới lá cờ trắng mang hình chữ thập của thánh Andre như lá cờ tiên phong của hạm đội mà mọi người đang mong ngóng.
Trên khắp quảng trường, gió thổi gợn các vũng nước. Không buồn nhìn xuống chân, Alekxandr Danilovich mang ủng cao, lội bì bõm đi xiên về phía sông Neva. Quảng trường lớn ở Petersburg chỉ mới có trên lời nói và trên các bản đồ Sa hoàng Piotr vẽ trong sổ tay của mình; trong khi chờ đợi, nơi đó chỉ có một ngôi nhà thờ nhỏ bằng gỗ, tường vít kín bằng rêu, - nhà thờ Ba Ngôi - và cách đó không xa, gần sông là ngôi nhà nhỏ của Piotr Alekseevich, một căn nhà xoàng xĩnh hai gian, bằng gỗ xúc, làm rất kỹ; lớp ván gỗ bọc ngoài sơn giả gạch; đỉnh nóc nhà đặt một khẩu súng cối và hai quả trái phá, trông như đã châm ngòi, tất cả đều bằng gỗ sơn.
Phía bên kia quảng trường có một tòa nhà thấp, theo lối Hà Lan trông rất ưa nhìn: một ngọn khói nhỏ xoáy trôn ốc không ngừng từ ống khói uốn khúc bay lên; qua cửa sổ gắn kính mờ, trông thấy bên trong có những bình bằng thiếc và những khúc đồi lợn treo lủng lẳng trên trần nhà; trên cửa ra vào vẽ lòe loẹt hình một tay thủy thủ già mặt mũi gớm chết, râu như một tên hải tặc, một tay cầm cốc bia, tay kia cầm ống gieo súc sắc: bên trên cửa, cót két ở đầu một thanh sắt, lủng lẳng một tấm biển đề: “Quán bốn cuộc đua thuyền”.
Ra tới sông, gió thổi tung những tà áo khoác, những búp tóc trên bộ tóc giả của họ. Băng trên sông Neva xanh biếc, có những khoảng rộng mảu trắng và những con đường phủ một lớp lầy tuyết bẩn lẫn phân súc vật.
Bỗng Alekxandr Danilovich nổi cáu:
- Chúng ta chỉ được chi có hai ngàn rúp cho tất cả mọi công việc! A! đồ cạo giấy, đồ đạo đức giả, đồ hà tiện són ra một chút là đã buốt ruột! Ta cóc cần tất cả những bọn thơ, bọn lại ấy, với tất cả những ban bệ của chúng. Ở Moskva, chúng cò kè từng kopeik một nhưng chúng lại không sợ phí giấy! Ở đây, ta là chúa tể! Ta có tiền, có ngựa, ta có thể kiếm được thợ lành nghề, cần bao nhiêu cũng có; tìm đâu cho ra, đó là việc của ta... Còn các chú, anh em nhà Brovkin, các chú cần phải nhớ kỹ trong đầu rằng các chú đến đây không phải là để nghỉ ngơi... Hãy bớt ăn, bớt ngủ đi, nhưng tất cả các bến tàu, các cầu nổi, các kho đều phải sẵn sàng vào cuối tháng năm... Và không phải chỉ có bên tả ngạn, như trước đây đã có lệnh cho các chú, mà cả ở đây nữa, trên Petersburgskaia Xtorona này, để các tàu lớn có thể cập bến được.
Alekxandr Danilovich rảo bước đi theo dọc bờ sông, trỏ cho những người cùng đi nơi nào phải đóng cọc sâu, nơi nào phải xây bến tàu đậu.
- Giả thử như, sau một trận hải chiến thắng lợi, chiếc kỳ hạm của thủy sư đô đốc, buồm bị bắn thủng lỗ chỗ, vừa tiến vào vừa nổ hàng loạt súng, thì chẳng lẽ lại để nó bỏ neo ở cửa sông Foltanka sao? Không, phải bỏ neo ngay tại đây này! - hắn dẫm chân lên một vũng nước - Và nếu như có một phú thương nào từ Anh hay từ Hà Lan tới thì đây là nhà của Piotr Alekseevich, đây là nhà ta, xin chào mừng các ngài.
Ngôi nhà của Alekxandr Danilovich, hay là dinh toàn quyền, cách ngôi nhà nhỏ của Sa hoàng một trăm xagien về phía thượng lưu, đã được xây dựng một cách vội vã bằng đất trộn rơm, trát vữa giả đá hoa, mái nhà cao theo kiểu Hà Lan, đi trên sông Neva, từ xa đã trông thấy; thềm có hai trụ vuông đỡ cái mi nhà, nằm giữa mặt nhà; trên gờ dốc bên phải có tượng Thủy tề nằm nghỉ bằng gỗ thếp vàng, tay cầm đinh ba; trên gờ dốc bên trái, một nữ thủy thần với cặp vú đồ sộ, tựa khuỷu tay trên cái bình đổ; trên mặt đầu hồi đắp những hoa tự “A.M.” có một con rắn quấn quanh; trên nóc nhà, bay phấp phới trên đỉnh cột lá cờ của ông toàn quyền; trước thềm đặt hai khẩu đại bác:
- Cái nhà này có đưa người ngoại quốc đến xem cũng không đến nỗi phải hổ thẹn, có phải không? Những vị thủy thần của ta đẹp đấy chứ? Trông cứ như là vừa mới ở dưới biển lên nằm trên thềm nhà ta ấy... và khi hạm đội từ sông Xvia tới, diễu qua, bao nhiêu buồm căng lên hết, ta sẽ nổ đại bác thì phải biết là khói um... Phải biết là đẹp!
Alekxandr Danilovich, cặp mắt màu lam nhấp nháy, ngắm nghía lâu đài của mình mãi không biết chán. Rồi hắn quay lại và càu nhàu bực dọc nhìn sang bên tả ngạn xa xa, gió đang lay động các ngọn thông trơ trọi mọc giữa những gốc cây đã bị đốn và những khoảng rừng thưa nham nhở.
- Thật đáng tiếc! Trong lúc vội vàng, ta đã làm hỏng phong cảnh mất đôi chút! - Hắn giơ gậy trỏ nơi sông Neva chia ra làm nhiều nhánh hình thành sông Foltanka. - Xưa kia, từ cửa sổ nhà ta nhìn ra, viễn cảnh mới đẹp làm sao, rừng thông vươn lên như một bức tường thành, ở đó lẽ ra có thể cất được một ngôi nhà nghỉ mát mùa hè... Cánh rừng ấy, người ta đã đốn mất rồi! Khỉ thật! bao giờ cũng vậy... Các chú biết thế nào không? Hãy về cả nhà ta uống một chén và có gì ăn nấy.
- Thưa ngài toàn quyền, - Aleksey nói. - ngài có trông thấy những xe trượt tuyết đang chạy trên sông Neva từ phía thượng lưu tới không? Có lẽ là Sa hoàng chăng?
Melsikov đưa mắt nhìn và reo lên: “Đúng rồi!”.
Lập tức hắn làm náo động cả lên. Anh em nhà Brovkin đi ngay các ngả để truyền đạt mệnh lệnh; còn chính ông toàn quyền thì chạy về nhà, oang oang gọi kẻ ăn người ở.
Một lát sau, hắn đã lại ra bờ sông, đứng trên bến con, không choàng áo khoác, chỉ mặc bộ quân phục của trung đoàn Preobrazenski, có những lai tay áo rộng bản màu đỏ thêu chỉ vàng, đai lụa buộc chéo qua vai và bên sườn đeo một thanh gươm, chính thanh gươm hai năm trước đây hắn đã cầm trong tay xung phong sang một chiến thuyền Thụy Điển tại cửa sông Neva.
Trên mặt sông đóng băng gồ ghề, trông phát sợ, một đoàn dài xe trượt tuyết đang tới gần. Chừng năm chục long kỵ binh thúc những con ngựa đã mệt lử, phóng về phía bờ, vì sợ băng có những khe nứt. Theo sau là một chiếc xe trượt tuyết nặng có mui kín bằng da; chiếc xe rẽ ngoặt trên mặt băng ngập nước và đỗ lại trước bến tàu. Đúng lúc từ trong xe, từ dưới tấm da gấu thò ra một cẳng chân dài đi ủng to, thì hai khẩu đại bác trước nhà ông toàn quyền nổ vang như sấm. Sau chiếc ủng, hiện ra hai ống tay áo của một chiếc áo cầu ngắn bằng lông cừu, từ trong ống tay áo thò ra những ngón tay có móng tay cứng, nắm chặt lấy riềm xe, trong khi một giọng trầm trầm kêu lên:
- Danilys, giúp ta một tay... Quỷ thật! ta không ra được...!
Alekxandr Danilovich nhảy từ trên bến xuống nước ngập đến đầu gối, kéo Piotr Alekseevich ra khỏi xe. Vừa lúc đó tất cả các pháo đài trên thành Piotr và Paul nổ súng, khói bốc mù mịt, tiếng nổ ầm ầm vang dội trên mặt sông. Một lá cờ leo lên đỉnh cột cờ trên căn nhà nhỏ của Sa hoàng.
Piotr Alekseevich leo lên bến, đứng thẳng người, vươn vai, hất cái mũ lông ra đằng sau, và thoạt tiên nhìn Danilys với khuôn mặt dài, đỏ ửng lên vì sung sướng và cặp lông mày động đậy. Sa hoàng ôm lấy má hắn vào hai lòng bàn tay, siết chặt và nói:
- Chào bạn! Ngươi đã không thèm đến thăm ta mà ta thì cứ đợi ngươi mãi. Thế thì ta đến vậy... Cởi cho ta cái áo cầu. Đường đi xấu lắm, suýt nữa thì bọn ta chết đuối, ở mé dưới Sluxenburg; suốt dọc dường ta bị xóc dữ quá, tê cả chân.
Piotr Alekseevich chỉ còn mặc cái áo bằng dạ lót lông sóc; khuôn mặt tròn, không cạo râu, ria mép vểnh lên lởm chởm chìa ra hứng gió, nhà vua đưa mắt nhìn theo những đám mây ùn ùn trên bầu trời mùa xuân, bóng lướt nhanh qua các hồ ao, vũng nước và mặt trời rực rỡ vẫn chiếu sáng, lấp ló giữa các khe mây, phía bên kia đảo Vaxilievski. Lỗ mũi nhà vua mở to, hai bên mép lõm xuống thành lúm đồng tiền.
- Thật là một thiên đường! - Sa hoàng nói. - Danilưts, đây quả thực là cảnh bồng lai, cảnh thiên đường trên trái đất... Ngửi thấy mùi biển cả...
Nhiều người đang chạy trên quảng trường, làm các vũng nước bắn tung tóe. Đằng sau họ, binh lính các trumg đoàn Preobrazenski và Xemionovski, hàng ngũ chỉnh tề, binh phục màu xanh lá mạ bó sát người, ủng trắng, nặng nề tiến bước, súng cắm lưỡi lê chĩa ra phía trước.
-------------
Chú thích:
(1) Tức Alekxandr đại đế thời cổ Hy Lạp lừng lẫy vì nhữcg chiến công oanh liệt.
(2) Gọi Gavrila một cách thân mật.
(3) Hội đồng do giai cấp quý tộc bầu ra.

Chương 145

- Tại Warsawa, ở bàn ăn của hồng y giáo chủ Ratziezevski, hắn đã tuyên bố: “Ta sẽ không để cho một chiếc thuyền nhỏ nào lọt vào sông Neva, người Moskva hãy vứt bỏ mọi hy vọng có đường thông ra biển đi. Trị xong Auguste thì việc chiếm lấy thành Petersburg đối với ta cũng chỉ đơn giản như cắn vỡ một hột anh đào rồi nhổ ra mà thôi”.
- Chó thật, sao mà nó ngu ngốc thế? - Alekxandr Danilovich trần truồng, ngồi trên ghế dài, đang xoa xà phòng lên đầu - Thần mà vớ được nó ở ngoài chiến trường, thần sẽ cho nó xơi hột anh đào ngay, cái thằng anh hùng rơm ấy.
- Hắn lại còn nói thêm: “ta sẽ không để một chiếc tàu Anh nào lọt vào Arkhangensk, hàng hóa của bọn lái buôn Moskva sẽ mục ra trong kho của chúng”.
- Ở ta, hàng hóa đâu có mục đâu, phải không, Myn Herz? Phải không?
- Một đoàn tàu Anh gồm ba mươi hai chiếc, có bốn chiến thuyền đi hộ tống, nhờ ơn Chúa đã cặp bến Arkhangensk bình yên vô sự. Họ đã mang tới cho chúng ta sắt, thép, đồng đen để đúc đại bác, thuốc lá đựng trong thùng và rất nhiều các thứ khác ta không cần đến, nhưng vẫn bắt buộc phải mua.
- Không sao, Myn Herz, ta cũng không sợ lỗ đâu. Họ cũng cần phải có lãi chứ: họ đã dũng cảm vượt biển. Bệ hạ có muốn thần gọi lấy nước kvas không? Nartov! - Alekxandr Danilovich gọi to, và lội bì bõm trên sàn gỗ mới bào, ẩm ướt, đi ra phía cửa thấp thông sang buồng ngoài. - Nartov! Đâu rồi? Mi chết ngạt rồi sao? Lấy một bình kvas, rót nhiều vào!
Piotr Alekseevich nằm trên chiếc ghế dài của buồng tắm hơi nước, sát với trần nhà. Đầu gối gầy gò co lên, nhà vua cầm cái chổi nhỏ làm bằng cành phong phe phẩy quạt. Nartov, gã hầu cận của nhà vua, đã hai lần cọ sát và vẩy nước lạnh buốt lên người nhà vua và bây giờ Sa hoàng nằm nghỉ. Ngay sau khi tới nơi, nhà vua đã đi tắm để ăn bữa tối cho thêm ngon miệng. Buồng tắm làm bằng gỗ bồ đề, thoáng đãng. Piotr Alekseevich không muốn rời khỏi buồng tắm, mặc dầu nhà vua để khách khứa ngồi đợi, mệt rũ cả người, đã hai tiếng đồng hồ trong phòng ăn của ông toàn quyền, chờ Sa hoàng ra mời họ ngồi vào bàn ăn.
Nartov mở cánh cửa nhỏ bằng đồng của cái lò đốt, vừa nhảy né sang một bên, vừa hắt cả một bình đầy kvas lên những tảng đá đã được nung nóng ở tít trong tận cùng lò. Một mùi vừa nhẹ vừa nồng, mùi bánh mì thơm, từ trong lò bốc ra, và hơi nóng phủ lấy thân thể những người đang tắm. Piotr Alekseevich khoan khoái làu nhàu và cầm cái chổi lá phong phe phẩy quạt ngực.
- Myn Herz, Gavrila Brovkin kể rằng ở Paris, chẳng hạn, người ta không hiểu tắm bằng hơi nước là thế nào, lại có thêm cả nước kvas thì họ lại càng không hiểu. Mà theo lời hắn thì dân ở đấy, người nào cũng nhỏ bé.
- Ngược lại, ở đấy, họ hiểu biết những cái mà chúng ta cũng rất nên hiểu biết, - Piotr Alekseevich nói. - Bọn thương gia của chúng ta thật là những đồ dã man mọi rợ. Chúng đã gây cho ta nhiều khó khăn ở Arkhangensk. Tên lái buôn nào cũng muốn bán trước những hàng hóa hư hỏng của nó. Trong ba năm trời, nó sẽ nói dối, khóc lóc thề sống thề chết tìm mọi cách đẩy cái của thối nát ấy đi cho đến khi tới lượt các thứ hàng tươi tốt cũng lại mục nốt... Ở sông Dvina miền Bắc có nhiều cá lắm, các đàn cá mòi đặc đến nỗi giả sử cắm một chiếc mái chèo xuống nước, mái chèo sẽ cứ đứng thẳng không đổ... ấy thế mà, không thể nào đi ngang qua các nhà kho được, thối quá... Ta đã nói cho chúng nghe tại Hội đồng các xã trưởng, thoạt đầu ta đã định nói ngọt với chúng nhưng rút cuộc cũng phải nổi giận.
Alekxandr Danilys buồn bực, thở dài:
- Vâng, Myn Herz, có những chuyện như thế ở ta. Biết làm thế nào, đầu óc chúng vô học... Nếu cứ để mặc chúng, bọn con buôn quỷ quái ấy rồi sẽ làm xấu hổ cả nước... Nartov, đem bia lạnh vào đây!
Piotr Alekseevich, đôi cẳng dài buông thõng, ngồi trên ghế, cúi đầu xuống; từ những món tóc nâu quăn, mồ hôi nhỏ giọt.
- Được - nhà vua nói, - được lắm... Phải, như thế đấy người bạn tâm tình của ta ơi... Không có Petersburg thì chúng ta chỉ là một cái xác không hồn.

Chương 146

Tại bàn ăn của Melsikov, trong tòa lâu đài xây dựng ở biên cảnh đất Nga, bên bờ cái vịnh đã chiếm lại được, tụ tập những con người mới, những con người chỉ nhờ ở tài năng của mình, - Sa hoàng Piotr đã ra lệnh “từ nay đánh giá đám quý tộc theo công lao” - mà đã ngoi ra được khỏi những túp lều ám khói, đổi giầy gai lấy giầy có khóa, mũi vuông, làm bằng da Nga. Đáng lẽ phải ngồi mà than vãn, tự hỏi: “Lạy Chúa, tại sao Chúa bắt con phải chịu cảnh kêu gào vì đói trong căn nhà giá lạnh này” thì họ lại ngồi trước những đĩa thức ăn đầy như tối nay chẳng hạn, suy nghĩ và bàn luận về công việc quốc gia, dù muốn hay không cũng vậy. Có mặt anh em nhà Brovkin; các nhà đóng tàu nổi tiếng Fedorxey Xkliaev và Gavrila Melsikov đã đi theo Piotr Alekseevich từ Voronez tới tận bờ sông Xvia; nhà thầu khoán Ermolai Negomorski ở Novgorod, cặp mắt ban đêm sáng như mắt mèo; Terenti Buda, chuyên chế tạo mỏ neo; và Efrem Tarakanov nhà điêu khắc gỗ và mạ vàng nổi tiếng.
Khách khứa không phải tất cả đều là nguồn gốc hạ lưu: ngồi bên trái Sa hoàng là Roman Brux, người xứ Scotland tóc hoe hoe đỏ, dòng dõi hoàng tộc, khuôn mặt xương xẩu, môi mỏng, mím chặt một cách dữ tợn, - một nhà toán học và đọc sách không biết mệt cũng như người em ông ta là Jakov; cả hai anh em đều đẻ ở Moskva, tại xloboda Đức, họ đã đi theo Sa hoàng từ hồi nhà vua còn niên thiếu và coi sự nghiệp của nhà vua như sự nghiệp của bản thân họ.
Còn có một người dáng điệu uể oải, kiêu kỳ, mắt như đại bàng, mũi thanh tú điểm một vệt ria nhỏ: đó là đại tá cận vệ Mikhail Mikhailovich Golixyn, đã từng nổi danh trong trận xung phong đánh chiếm Sluxenburg; cũng như mọi người, hắn uống rất nhiều, mặt mỗi lúc một tái mét và gõ đinh thúc ngựa choang choang dưới gầm bàn.
Còn có phó thủy sư đô đốc của hạm đội Baltic mà mọi người đều đang mong đợi, Cornelix Cruyx, một con sói biển mặt sạm sương gió, hằn những nếp nhăn sâu và nghiêm nghị, mắt màu xanh lờ lờ, trông kỳ lạ và lạnh lẽo như những vực thẳm của biến cả; còn có trung tướng Samber, người chắc nịch, mặt đầy đặn, mũi khoằm khoằm, cũng là một tay lão luyện, một trong số những người tin tưởng vào vận mệnh của Sa hoàng Piotr, đã đem tất cả những gì họ có ra phục vụ nhà vua: thanh gươm của họ, lòng dũng cảm và danh dự quân nhân của họ; ở đó còn có Gavrila Ivanovich Golovkin, nội thị của Sa hoàng, một người có đầu óc khôn ngoan và sắc sảo, tính tình lặng lẽ, trợ tá của Melsikov trong công việc xây dựng thành phố và pháo đài.
Đã đến lúc khách khứa cùng nói một lúc, bô bô ầm ĩ, có người cố ý gào to lên để Sa hoàng nghe thấy. Phảng phất mùi vữa ẩm trong gian phòng cao; trên tường quét vôi trắng, những cây nến đang cháy trong những chiếc đèn vách ba chạc, có chụp hắt ánh sáng bằng đồng; cũng có rất nhiều nến cắm vào các chai rỗng đặt trên khăn trải bàn màu sặc sỡ; giữa những đĩa bằng đất nung và bằng thiếc, bày la liệt các món ăn mà ông toàn quyền đã kiếm được để thết khách; giăm-bông, lưỡi bò, dồi sấy, ngỗng, thỏ, dưa cải bắp và tân đại căn, dưa chuột muối, tất cả những thứ đó đều là do nhà thầu khoán Negomorski biếu Melsikov.
Người ta cãi nhau, la hét, nhất là về vấn đề phân phát lương thực và cỏ ngựa: ai cũng buộc tội người khác là vơ bừa về phần mình. Thực phẩm được chuyên chở từ Novgorod, từ Tổng cục tiếp tế đến bằng thuyền vào mùa hè, qua sông Volkhov và hồ Ladoga, và mùa đông thì qua con đường mới phá xuyên qua các khu rừng rậm. Lương thực được đưa tới Sluxenburg bỏ vào kho, có những tường thành vững chãi của pháo đài bảo vệ; ở đó tại các kho, các nhân viên được lựa chọn trong số nhân viên sở thuế tin cẩn nhất, theo lệnh trưng thu, trao cho Petersburg các thực phẩm cho binh sĩ đóng tại “Thành phố trên đất liền”, cho khu Vyborskaia Xtorona, cho các cơ quan hành chính điều khiển các công trình xây dựng, và cho đám nông dân bị bắt làm các công việc tạp dịch - đào đất, đốn gỗ, thợ mộc, thợ nề, thợ lợp mái - đến đây làm việc, luân phiên thay nhau ba đợt từ tháng tư đến tháng chín.
Đoạn đường từ Novgorod đến Sluxenburg rất khó đi, trong vùng này, bị chiến tranh tàn phá, không sao kiếm ra được cái gì, lương thực dự trữ cạn rất nhanh và Brux, Samber, Cruyx, cũng như các nhân vật khác địa vị thấp hơn, dành giật nhau tất cả những gì có thể lấy được. Tối hôm đó, tại bàn ăn, họ nổi hung lên, trả miếng nhau.
Người ta dâng Piotr Alekseevich một món ăn nóng: súp nấu mì ống. Lính tráng được phái đi các ngả đã moi được một con gà trống trong một cái trại nhỏ, bên bờ sông Foltanka, tại nhà một người dân chài Phần Lan; người này đã thừa cơ bắt bí đòi trả con gà già ấy mười lăm kopeik.
Ăn xong, Piotr Alekseevich đặt lên bàn hai cánh tay dài có những bàn tay to khỏe, mạch máu căng lên sau bữa tắm. Nhà vua nói ít và chăm chú nghe, đôi mắt lồi nghiêm nghị, trông đáng sợ nữa là khác; nhưng khi nhà vua cúi nhìn xuống để nhồi tẩu hay vì một lý do gì khác thì bộ mặt với cặp má tròn trĩnh, mũi ngắn, miệng nhỏ và tươi cười, nom lại có vẻ rất hiền hậu: hãy lại gần đây, đừng sợ, hãy chạm cốc với nhà vua: “Chúc sức khỏe Ngài pháo thủ”. Và tùy theo người đến gặp, đối với người này thì nhà vua không thèm trả lời, đối với người khác thì nhà vua niềm nở hất đầu đáp lại, lắc những món tóc tơ, quăn trên trán. “Chúc mừng thần Baccux!”, nhà vua nói, giọng trầm trầm, rồi hất cốc rượu vào mồm theo kiểu bọn hoa tiêu và thủy thủ đã dạy nhà vua ở Hà Lan.
Hôm đó, Piotr Alekseevich rất lấy làm hài lòng là Danilys đã cất được ngay trước mũi bọn Thụy Điển, một tòa nhà đẹp như thế này, trên có dựng tượng vua Thủy tề và một tiên nữ của biển khơi; nhà vua vui vẻ nghĩ rằng, tất cả đám khách khứa ngồi bên cạnh đều là người của mình, đang sôi nổi bàn cãi về một công cuộc lớn lao, không hề bận tâm đến nguy hiểm, cũng không hề cân nhắc về khả năng thành công.
Nhưng cái làm nhà vua sung sướng hơn hết là thấy tất cả những điều nhà vua đã ghi chép nguệch ngoạc để khỏi quên vào một cuốn sổ tay dày bỏ trong túi cùng với một mẩu bút chì gậm nham nhở, cái tẩu và túi đựng thuốc lá, tất cả những điều đó đã được thực hiện tại chốn này, nơi kết thúc những mơ ước xa xăm và những dự định táo bạo của mình. Phải, giấc mơ xưa kia đã trở thành hiện thực; gió lay động lá cờ treo trên pháo đài của tòa thành, bờ sông lầy tua tủa mái chèo; khắp nơi, ai nấy đều hối hả, mải mê với những lo nghĩ và công việc của họ, và thành phố đã vươn lên, tuy hiện nay còn chưa lấy gì làm to lớn lắm, nhưng cũng đã có một nhịp sống đều đều hàng ngày.
Piotr Alekseevich nhấm nhấm cái tẩu bằng hổ phách, lơ đãng nghe Brux tính hay cáu kỉnh đang càu nhàu với nhà vua về vấn đề cỏ mốc và Samber, say mèm, đang hét ầm lên và cố chạm cốc của hắn vào cốc của Sa hoàng... Ra là đây, mảnh đất thân yêu, mảnh đất xiết bao mong ước. Tất nhiên, đi trên biển Azop nước ấm và bàng bạc, phải mất bao nhiêu nỗ lực gian khổ mới chinh phục được, cũng thú vị: đi trên Bạch Hải, sóng nước lạnh lẽo, bập bềnh dưới màn sương mù dày nặng, cũng thú vị nhưng không gì có thể so sánh được với biển Baltic, con đường rộng thênh thang dẫn tới các thành phố kỳ diệu, những vùng trù phú. Ở đây ngay cả đến trái tim cũng đập khác, tư tưởng mở rộng đôi cánh và sức lực như tăng lên gấp bội.
Alekxandr Danilovich thỉnh thoảng lại liếc nhìn Myn Herz, hắn thấy lỗ mũi nhà vua mỗi lúc càng nở to thêm, và khói thuốc từ tẩu bay ra mỗi lúc một thêm dày đặc.
- Thôi đủ rồi! - hắn bỗng hét lên với khách khứa. - Lúa mạch, kê, lúa, mạch, kê, các ngài chỉ biết nói mãi có thế! Ngài pháo thủ tới đây không phải để nghe nói về lúa mạch và kê.
Và Melsikov, nháy mắt một cái làm cả một bên má nhăn lại, ra hiệu cho một gã béo phị, mặc áo ngắn, tà áo loe rộng, đang mỉm cười ngọt sớt:
- Fenten, rót rượu đi, rượu sông Ranh, cái thứ nhà ngươi biết đấy!
Rồi hắn quay về phía Piotr Alekseevich và chờ đợi. Cũng như mọi lần, Melsikov đã đoán được, đã nhìn thấy trong cặp mắt tối sầm lại của Sa hoàng là đã đến lúc tất cả những gì vốn từ lâu âm ỉ, sôi sục trong lòng Piotr Alekseevich, tất cả những gì từ lâu vẫn day dứt nhà vua, đã kết hợp lại với nhau bằng đủ mọi cách trong đầu óc nhà vua, và hiện rõ dần thành một ý chí dứt khoát, không gì lay chuyển nổi. Từ lúc đó trở đi thì không còn bàn cãi gì được nữa, không còn có thể ngăn trở ý chí của nhà vua được nữa.
Mọi người im bặt. Chỉ nghe thấy tiếng rượu từ một cái vò chảy ồng ộc vào các cốc. Piotr Alekseevich, hai bàn tay vẫn đặt trên mặt bàn ngả người vào lưng ghế thếp vàng.
- Vua Charles can đảm nhưng kém thông minh, mà lại rất kiêu ngạo, tự phụ, - nhà vua nói, kéo dài từng lời theo lối nói của Moskva. - Năm 1700, hắn đã bỏ lỡ mất vận may. Nếu như hắn biết nắm lấy thời cơ đó, thì chúng ta đã chẳng còn được ngồi đây mà uống rượu sông Ranh nữa. Trận thua ở Narva đối với chúng ta rất có ích. Càng rèn, sắt càng cứng và con người ta cũng dày dạn lên. Chúng ta đã học được nhiều điều mà trước kia chúng ta thậm chí cũng không hề nghĩ tới. Các tướng lĩnh của chúng ta, cùng với Bois Petrovich Seremetiev và Anikita Ivanovich Repnin, đã chứng tỏ cho toàn thế giới thấy rằng không có câu chuyện thần kỳ Thụy Điển, rằng bọn Thụy Điển, ta có thể đánh bại được chúng ở đồng bằng cũng như trên các chiến lũy của một thành trì. Các ngươi, mà ta rất quý mến, các ngươi đã chinh phục và xây dựng cái nơi tốt lành này. Thần Thủy tề, người vỗ sóng của biển cả, đã nằm trên mái nhà của chủ nhân đây chở đợi những chiến thuyền mà chúng ta đang đóng đến thành chai tay. Nhưng sau khi đã bám chắc được Petersburg, mà lại cứ phải không ngừng đẩy lui những cuộc đột kích của bọn Thụy Điển trên sông Xextra và trên đảo Kotlin thì như thế có hợp lý không? Chẳng lẽ ta cứ ngồi chờ vua Charles chán cảnh chinh chiến với những mộng mị và mơ tưởng của hắn, rút quân ở châu Âu về để quay lại đánh ta sao? Khi ấy thì có lẽ ngay chính thần Thủy tề cũng chẳng cứu nổi chúng ta. Đây là trái tim của chúng ta, và chính tại biên cương xa xôi, trong những pháo đài hùng mạnh, chúng ta sẽ phải đương đầu chọi nhau với vua Charles. Chúng ta cần phải liều mà nắm lấy thế tấn công. Ngay sau khi băng đã tan hết, cần phải tiến đánh Kexhom, chiếm lấy của bọn Thụy Điển, để cho hồ Ladoga thuộc hẳn về ta như xưa kia, và hạm đội của ta có thể chạy từ phía Bắc xuống mà không phải e ngại gì hết. Cần phải vượt qua sông Narva và chiếm lấy Narva, lần này thì chúng ta sẽ không để bị đánh bại. Các bạn, chúng ta phải chuẩn bị cho chiến dịch này ngay tức khắc. Mọi chậm trễ đều có nghĩa là chết!

Chương 147

Qua cửa sổ, qua làn khói từ các tẩu tỏa ra, Piotr Alekseevich nhìn thấy vầng trăng khuyết từ nãy vẫn chạy hoài giữa những mảng mây mù, lúc này đã dừng lại lơ lửng trên trời.
- Danilys, cứ ngồi yên đấy, không cần phải đưa ta ra, ta đi hóng gió một lát rồi ta sẽ trở lại.
Nhà vua đứng dậy và bước ra ngoài thềm, đứng dưới tượng thần Thủy tề và cô tiên nữ vú to tựa tay trên cái bình thếp vàng. Một làn gió mát vật vờ, nồng nồng, sộc vào lỗ mũi nhà vua. Piotr Alekseevich đút tẩu vào túi. Từ sau cái cột, một người rời bức tường tiến ra, đầu trần, mặc áo vải thô, chân đi giầy gai: người đó quỳ xuống, hai tay nâng một tờ giấy lên quá đầu.
- Mi muốn gì? - Piotr Alekseevich hỏi. - Mi là ai? Đứng dậy, mi không biết lệnh của ta sao?
- Muôn tâu hoàng thượng cao minh, - người lạ mặt nói với một giọng nhẹ nhàng, thấm thía, - dưới chân hoàng thượng đây là kẻ hạ thần hèn mọn của hoàng thượng. Andriuska Golikov, nghèo và mang công mắc nợ, chẳng có ai là chủ mà cũng chẳng có ai che chở... Muôn tâu Sa hoàng cao cả hãy rủ lòng thương, kẻ hạ thần đang chết, không sao chịu nổi được nữa!
Piotr Alekseevich giận dữ, khịt khịt mũi; nhà vua giận dữ cầm lấy lá đơn thỉnh cầu, rồi lại ra lệnh cho hắn đứng dậy.
- Mi sợ làm việc ư? Hay là mi ốm? Họ có phát vodka nấu bằng quả thông cho mi như ta đã ra lệnh không?
- Muôn tâu Sa hoàng cao cả, kẻ hạ thần vẫn khỏe mạnh, không có lười nhác gì trong công việc, kẻ hạ thần đào đất, đẩy xe chở đá hộc, cưa các xà gỗ... Nhưng trong người kẻ hạ thần có một sức mạnh kỳ diệu đang mai một đi... Kẻ hạ thần là một nghệ sĩ thuộc dòng họ Golikov, những người vẽ tranh thánh ở Palekh. Kẻ hạ thần biết vẽ chân dung, mặt trông như người sống, không già đi mà cũng không thể chết được vì trong đó đã có cái thần vĩnh cửu... Kẻ hạ thần có thể vẽ sóng biển, có chiến thuyền ở trên, các cánh buồm rộng mở, khói súng đại bác bao phủ, rất khéo.
Piotr Alekseevich lại thở, nhưng lần này không giận dữ nữa:
- Mi biết vẽ chiến thuyền à? Nhưng có gì chứng minh là mi không dối ta?
- Kẻ hạ thần lẽ ra có thể chạy đi lấy các bức tranh của kẻ hạ thần đã vẽ đề trình lên hoàng thượng xem, nhưng khốn nỗi tranh lại vẽ lên tường, lên vách đất, không phải vẽ bằng màu mà chỉ vẽ bằng than... Kẻ hạ thần không có bút lông, không có thuốc màu. Đêm đêm, kẻ hạ thần luôn luôn mơ thấy những cái đó... Chỉ cần vài lọ màu thôi, dù chỉ nhỏ bằng một cái bao ngón tay để khâu và vài cái bút lông thì, muôn tâu Sa hoàng cao cả, kẻ hạ thần xin đem hết tâm huyết phục vụ hoàng thượng, sẵn sàng nhảy vào lửa.
Lần thứ ba, cái mũi ngắn của Piotr Alekseevich lại khụt khịt:
- Theo ta!
Và ngẩng mặt nhìn vầng trăng soi sáng những vũng nước phủ một lượt băng mỏng vỡ lạo xạo dưới gót ủng, nhà vua theo thói quen, phóng đi rất nhanh. Andrey Golikov chạy gần theo sau: mắt liếc nhìn bóng Sa Hoàng, dài một cách lạ thường, hắn cố chú ý không dẫm chân lên trên. Họ qua quảng trường, đi vào dưới những rặng thông thưa thớt và tới bờ sông Nepka lớn; ở đó những lều đất thấp lè tè, lợp cỏ của thợ làm nhà sắp thành từng dẫy.
Golikov hết sức xúc động, dừng lại trước một căn nhà; vừa cúi chào, vừa ấp úng, hắn mở cánh cửa làm bằng ván bìa. Piotr Alekseevich cúi xuống, bước vào. Có chừng hai chục người nằm trên những phản gỗ; những cẳng chân để trần thò ra dưới những chiếc chiếu gai và những tấm da cừu dùng làm chăn cho những người đang ngủ. Một người râu xồm, cởi trần, ngồi vá áo trên ghế đẩu trước cái giá cắm một mảnh gỗ vụn đang cháy.
Không hề ngạc nhiên khi trông thấy Sa hoàng Piotr, người đó cắm kim vào áo, đặt áo xuống, đứng dậy và thong thả cúi chào như chào bộ mặt tối sầm của một bức tranh thánh ở nhà thờ.
- Mi phàn nàn cái gì? - Piotr hỏi, sẵng giọng. - Thức ăn tồi ư?
- Tồi ạ, tâu Sa hoàng. - người kia bình thản trả lời.
- Quần áo bọn mi được phát đủ không?
- Mùa thu vừa rồi, chúng thần có được phát quần áo nhưng như bệ hạ thấy đấy, chúng thần dùng đã hỏng cả trong mùa đông rồi.
- Có ai ốm không?
- Rất nhiều người ốm, tâu Sa hoàng, ở đây khí hậu độc lắm.
- Ở nhà thuốc người ta có chữa chạy cho bọn mi không?
- Chúng thần cũng có nghe thấy nói đến nhà thuốc, có thế thật.
- Bọn mi không tin ở nhà thuốc sao?
- Biết nói thế nào với bệ hạ? Có lẽ chúng thần cứ tự khắc khỏi thôi.
- Mi từ đâu tới? Mi đến đây đợt nào?
- Thần thuộc đợt thứ ba, đợt mùa thu... Thần quê ở thành phố Kerensk, khu nhà buôn. Vả lại, ở đó, ai ai cũng là người tự do cả.
- Tại sao mi lại ở đây mùa đông?
- Về nhà vào mùa rét thần ngán lắm, cũng vậy thôi, có về thì cũng đến nằm trên bếp lò mà gào lên vì đói. Cho nên thần đã xin chân đánh xe chở gỗ, được Nhà nước nuôi. Nhưng bệ hạ hãy xem bánh mì người ta phát cho chúng thần đây. - Người đó móc trong tấm da cừu ra một mẩu bánh đen, dùng ngón tay cứng nhắc bóp và bẻ mẩu bánh. - Mốc xì hết. Thế này thì nhà thuốc làm gì được.
Andrey Golikov lặng lẽ cắm một mảnh vỏ bào gỗ thông mới vào giá đèn; căn phòng thấp, tường trát đất sét và chỉ quét vôi loang lổ từng chỗ, sáng hơn lên. Mấy người nằm dưới chiếu gai ngóc đầu dậy. Piotr Alekseevich ngồi lên mép phản và hai tay ôm lấy một đầu gối, cặp mắt sắc sảo nhìn thẳng vào mặt người râu xồm:
- Thế ở Kerensk mi làm gì?
- Thần bán rượu mật ong pha gia vị. Nhưng bây giờ mọi người ít uống lắm, hồi này chẳng ai có tiền cả.
- Lỗi tại ta, ta đã lột hết của mọi người, có phải không?
Người râu xồm nhún đôi vai để trần lên rồi lại hạ xuống, đồng thời cây thập tự đồng đeo trên bộ ngực giơ xương của hắn cũng nhô lên, rơi xuống; rồi người đó lắc đầu cười gằn:
- Bệ hạ muốn moi thần nói sự thật ra ư? Chúng thần không sợ nói sự thật đâu, chúng thần đã từng trải qua nhiều cảnh ngộ rồi... Tất nhiên thời trước, đời sống nhân dân có dễ chịu hơn. Không phải đóng nhiều thuế má như bây giờ... Còn như ngày nay, chúng thần chỉ có móc túi xì tiền ra hoài... Xưa kia, phải đóng thuế nhà, thuế bếp, thuế cày, nhưng thường thường bằng cách tương trợ bảo lãnh cho nhau, người ta vẫn có cách thỏa thuận với nhau, miễn cho nhau một vài khoản thuế, được điều kiện đóng thuế dễ dàng... Ngày nay, bệ hạ đã ra lệnh bắt đóng thuế thân ở khắp nơi, ghi tên tất cả dân chúng vào sổ thuế và người nào cũng có ông cò, ông thu thuế lượn quanh ra lệnh: “Nộp thuế đi!”. Hơn nữa, những năm gần đây, lại phải gửi đến cho bệ hạ, đến Petersburg này, ba kíp thợ trong mùa hè. Bốn mươi ngàn con người, bệ hạ tưởng dễ kiếm đấy chắc! Ở nơi chúng thần, cứ mười hộ tuyển một người, đem theo rìu, tràng hoặc xẻng và một cái cưa vạn năng. Chín hộ kia, mỗi hộ phải đóng bốn mươi mốt kopeik để nuôi người đó... Nhưng số tiền đó thì cũng còn phải kiếm đâu ra cho có chứ... Thế là người ta ra chợ gào đến khản cổ: “Rượu mật ong nóng đây!”. Kể ra cũng nhiều người muốn uống đấy, nhưng túi tiền của họ lại chỉ đựng có quỷ ở trong. Bệ hạ đã bắt các con trai thần vào long kỵ binh. Ở nhà chỉ còn có mụ vợ già của thần với bốn đứa con gái, những đứa trẻ ranh, cao chỉ bằng ngần này thôi... Chắc hẳn, bệ hạ là Sa hoàng, ở địa vị bệ hạ nhìn sự việc bao quát hơn.
- Đúng thế, ở địa vị ta nhìn sự việc bao quát hơn! - Piotr Alekseevich gay gắt nói. - Đưa ta mẩu bánh mì. - Nhà vua cầm lấy miếng bánh mì mốc, bẻ ra, ngửi rồi đút miếng bánh vào túi. - Ngay sau khi sông Neva tan hết băng, ta sẽ đem đến cho bọn mi quần áo mới, giầy gai, bột mì. Sẽ cho làm bánh mì ngay tại đây.
Nhà vua đi ra cửa, quên bẵng mất Golikov, nhưng Golikov lao lại một cách tuyệt vọng, mắt nhìn nhà vua khẩn khoản đến nỗi Piotr Alekseevich đổi ý và khẽ nhếch mép cười, nói:
- Thế nào! Gã vẽ tranh, chỉ cho ta xem nào.
Giữa các tấm phản gỗ, có một mảnh tường được cạo thật phẳng và quét vôi trắng cẩn thận, trên phủ một manh chiếu gai. Golikov thận trọng bỏ manh chiếu xuống, gí sát cái giá đèn trên có mảnh vỏ bào đang cháy, đốt thêm một mảnh nữa và tay run run cầm cái giá đèn nặng, hắn nói the thé, đều đều như tụng kinh;
- Trận chiến thắng rất mực vẻ vang trên mặt biển tại cửa sông Neva ngày 10-5-1703: chiến thuyền địch Axtren mang mười bốn khẩu đại bác và chiếc kỳ hạm Gedan mang mười khẩu đại bác đã đầu hàng ngài pháo thủ Piotr Alekseevich và trung úy Melsikov.
Trên bức tường đất có vẽ hai chiến thuyền Thụy Điển trên mặt sóng ngầu bọt, phủ kín trong khói súng đại bác, thuyền quân Nga xúm xít vây quanh, lính Nga đang nhảy sang thuyền địch; nét vẽ bằng than rất tinh vi nghệ thuật. Bên trên các chiến thuyền, từ trong một đám mây thò ra hai bàn tay cầm một dải băng dài trên có ghi những dòng chữ đã được nói lên trên đây.
Piotr Alekseevich ngồi thụp xuống. “Chà chà, chà!”, nhà vua lẩm bẩm. Mọi chi tiết đều rất chính xác, từ dây dợ, trục cột cho đến cánh buồm căng phồng, cờ xí. Nhà vua còn nhận ra cả Alexaska đang leo thang xung phong, tay cầm gươm và súng lục và nhận ra cả mình, quần áo quá lộng lẫy nhưng đứng ở mũi một chiếc thuyền, đúng như hôm đó nhà vua đã đứng, ngay dưới đuôi một chiến thuyền địch, miệng hò hét, tay ném thủ pháo.
- Chà, chà, chà! Tại sao mi lại biết được trận chiến thắng này?
- Tâu bệ hạ, khi đó hạ thần chèo thuyền của bệ hạ.
Piotr Alekseevich lấy ngón tay quệt vào bức vẽ: quả đúng là vẽ bằng than thực. Sau lưng nhà vua, Golikov khe khẽ rên rỉ.
- Nếu vậy, có lẽ ta sẽ cử mi sang Hà Lan học. Nhưng mi sẽ không đem tài năng dìm vào trong rượu đấy chứ? Là vì ta biết bọn mi lắm, đồ chết tiệt!
Piotr Alekseevich trở về nhà ông toàn quyền và ngồi vào chiếc ghế thếp vàng. Nến đã lụi hết, khách khứa đều say mèm. Ở cuối bàn, đám kỹ sư đóng tàu, đầu gục xuống, đang hát một bài bi ca. Riêng chỉ có Alekxandr Danilovich còn giữ được hoàn toàn tỉnh táo. Nhận ngay thấy bên mép Myn Herz giật giật, hắn cố đoán ra nguyên nhân thật nhanh.
- Này, hãy nếm xem! - Bỗng Piotr Alekseevich quát lên, móc phăng mẩu bánh mốc ở trong túi ra. - Ông toàn quyền, ông hãy ăn cái này đi cho thơm miệng.
- Myn Herz, thần không dính gì vào việc này cả, chính Golovkin phân phối bánh mì, cầu sao cho hắn chết nghẹn vì mẩu bánh mì này! A! đồ kẻ cướp! A! quân phản phúc!
- Ăn đi! - mắt Piotr Alekseevich trợn lên một cách dữ tợn. - Ngươi nuôi người bằng cứt thì ngươi hãy ăn đi. Thủy tề! Ngươi phải chịu trách nhiệm về tất cả chuyện này! Về từng mạng người một.
Alekxandr Danilovich ngước con mắt đau đớn và hối hận nhìn Myn Herz rồi nhai mẩu cùi bánh, làm ra bộ nuốt rất khó khăn như thể nghẹn ngào nước mắt.

Chương 148

Piotr Alekseevich về ngủ ở ngôi nhà nhỏ của mình vì ở nhà ông toàn quyền, các phòng đều cao, mà Sa hoàng thì lại ưa trần thấp, những căn buồng ấm cúng. Trong thời gian ở Xaacdam, nhà vua ngủ với bác thợ rèn Kixter trong một cái giường như hình cái tủ đến nỗi không duỗi được chân vậy mà nhà vua vẫn thích.
Nartov, hầu cận của Piotr Alekseevich đã đốt nóng lò sưởi; trên cái bàn đặt trước cửa sổ thấp và dài, phải cúi xuống mới nhìn qua được, hắn đã bày sách, vở, giấy và mọi thứ cần dùng để viết, cùng với những túi compa, túi dụng cụ của nhà phẫu thuật và của thợ mộc, những ống nhòm, địa bàn, thuốc lá và các tẩu thuốc, đựng trong những túi da to. Trên tường căng vải buồm. Ở một góc dựng chiếc đèn hiệu bằng đồng cao đến ngang người, sẽ dùng cho cột đèn báo hiệu của pháo đài Piotr và Paul. Trên sàn có để những neo thuyền, dây thừng tẩm hắc ín và những con ròng rọc bằng gỗ dương.
Người ta tưởng rằng sau khi tắm và ăn một bữa ngon, Piotr Alekseevich chụp cái mũ vải lên đầu là sẽ ngủ một giấc ngủ ngon lành trên cái giường cột vặn và treo rèm vải gai xanh.
Nhưng nhà vua không buồn ngủ. Gió thổi giật từng cơn trên mái nhà, gào thét trong ống khói lò, lay động các cánh cửa chớp. Ngồi dưới đất trên một tấm thảm bằng nỉ, bên cạnh để một cái đèn tròn đục những lỗ nhỏ, anh chàng Alexaska không thể thiếu được, đang trình bày suốt lượt những nỗi khó khăn về tiền nong của vua Auguste, do sứ thần của Sa hoàng tại triều đình vua Auguste là vương hầu Grigori Fedorovich Dolgoruki báo cáo về đều đặn cho biết, bằng thư hoặc bằng liên lạc đặc biệt.
Vua Auguste bị các nhân tình lột nhẵn, lúc này hoàn toàn khánh kiệt; ở Xăc, dân đã nộp hết cho nhà vua tất cả những gì họ có thể nộp được, theo như người ta đồn thì không tài nào vay nổi lấy một trăm rixdan(1) ở xứ này. Ở Nghị hội Xandomia, dân Ba Lan đã từ chối không nộp tiền ngự dụng cho nhà vua. Vua Auguste đã bán mất lâu đài của mình cho vua Phổ, rẻ chỉ có nửa tiền, vậy mà bây giờ lại có một người đàn bà nữa xuất hiện trên đường đi của nhà vua (chẳng biết là ma quỷ hay vua Charles xui khiến ra như vậy), hoa khôi của châu Âu, nữ bá tước Oro xứ Konixmac, và nhà vua đã đem hết tiền phung phí vào các cuộc pháo hoa và vũ hội để nghênh tiếp nữ bá tước; khi bà này biết chắc là túi nhà vua đã rỗng tuếch, bà ta liền kiếu lui và bỏ đi đem theo một xe chở đầy nhung lụa và bát đĩa bằng bạc.
Vua Auguste thậm chí chẳng còn gì mà ăn nữa. Nhà vua tìm đến vương hầu Grigori Fedorovich Dolgoruki, đánh thức ông này dậy rồi ngồi phịch xuống một chiếc ghế bành, rên la than thở:
- Đã gần hai tuần lễ nay, quân đội xứ Xăc của trẫm chỉ còn có bánh khô để ăn; còn quân đội Ba Lan thì không được lĩnh lương, phải sống bằng trộm cắp vặt... Dân Ba Lan hoàn toàn mất trí rồi: từ xưa đến nay, chưa bao giờ trong nước lại thấy có những chuyện say sưa rượu chè, những chuyện lục đục nội bộ như thế; đám quý tộc lớn cũng như bọn quý tộc nhà quê đánh lộn nhau, đốt làng, chiếm các thành phố và các lâu đài, phá phách tệ hại hơn cả bọn Hung nô. Chúng nó thiết gì đến quốc gia Ba Lan! Ôi trẫm thật là một ông vua bất hạnh! Ôi, thà rút gươm ra mà tự vẫn còn hơn!
Vương hầu Dolgoruki, vốn dễ thương cảm, nghe câu chuyện bi thảm ấy mà nhỏ lệ và đã bỏ tiền túi ra đưa cho nhà vua mười ngàn eccus(2) không đòi giấy biên nhận. Vua Auguste lập tức trở về nhà, có bà nhân tình mới là nữ tước Koxenxka đang làm những chuyện ngông cuồng, và thế là lại yến tiệc, hội hè linh đình.
Alekxandr Danilovich kéo cái đèn sát lại gần, rút ra một bức thư, ghé lại gần những lỗ ánh sáng rồi ngập ngừng đọc lên vì hắn đọc còn chưa được thạo lắm:
- Myn Herz, đây chẳng hạn, vương hầu Grigori Fedorovich Dolgoruki đã viết từ Xandomia về như sau: “Quân đội Ba Lan trước một cốc rượu đầy, trong các tửu quán, thì đánh nhau rất giỏi, nhưng thật khó mà thúc được họ tiến đánh quân địch ngoài chiến trường... Quân đội xứ Xăc của vua Auguste thì giỏi nhưng họ không thật sự căm ghét người Thụy Điển. Còn bọn Thụy Điển thì chúng đã hoàn toàn tàn phá một nửa nước Ba Lan, chẳng kiêng nể gì nhà thờ hay mồ mả. Nhưng các chúa đất Ba Lan mặc kệ: người nào cũng chỉ biết lo phận người nấy. Thần không hiểu làm sao một quốc gia như vậy có thể tồn tại được! Nó chẳng giúp ích gì cho ta, nếu không phải là giúp ta làm lạc hướng quân thù”.
- Ta chỉ mong có thế thôi, - Piotr Alekseevich nói, - Còn như Dolgoruki thì ta đã viết thư cho hắn bảo hắn liệu mà xoay xở lấy, tự đòi lấy chỗ mười ngàn eccus ấy, ta không chịu trách nhiệm gì hết... Với số tiền đó, lẽ ra có thể đóng được một chiến thuyền đấy! - Nhà vua ngáp, hai hàm răng va nhau lập cập. - Chà! Cái bọn đàn bà! Chúng làm người ta mới lao đao chứ! Ở Amsterdam, có một con bé ở quán rượu bên cạnh vẫn hay sang nhà ta, con bé thật là trí trá, láu lỉnh... Nhưng chẳng sao, con bé kháu lắm. Nó cũng làm cho ta tốn khối tiền.
- Myn Herz, về mục này, liệu bệ hạ có thể ganh đua với vua Auguste được không? Riêng một mình Oro xứ Konixmac đã làm vua Auguste tốn mất một nửa triệu đấy. Còn bệ hạ thì bệ hạ đã cho con bé ở quán rượu ấy - cái này thần nhớ rất rõ - ba trăm hay năm trăm rúp là cùng, không hơn!
- Năm trăm rúp à? Nhiều thế ư? Chà, vậy ra không có ai cho ta một trận đòn cẩn thận sao? Auguste không phải là một cái gương nên theo. Chúng ta đây, chúng ta phục vụ quốc gia, chúng ta không có tiền riêng. Cẩn thận đấy, Alexaska, với chỗ “không hơn” của ngươi! Tiền công quỹ, ngươi nói đến có vẻ tùy tiện lắm.
Sau một lát im lặng, nhà vua nói tiếp:
- Ở đây ngươi có một người đánh xe chở gỗ. Chúa đã phú cho nó có tài.
- Bệ hạ muốn nói đến Andriuska Golikov?
- Chỗ của nó không phải ở đây... Cần phải đưa nó về Moskva... Ta muốn nó họa chân dung một người. - Vua Piotr lườm Alexaska vì thấy hình như hắn đang cười thầm. - Liệu hồn đấy anh bạn, ta rất có thể đứng dậy, lấy cái gậy tuốt xương sườn nhà ngươi cho hết cười đi. Ta nhớ Catherine thì đã sao? Mỗi khi nhắm mắt lại, ta lại trông thấy nàng như sống thật và khi mở mắt ra, ta ngửi thấy mùi người nàng ngào ngạt xông đầy mũi... Ta đã tha thứ hết thảy mọi lỗi cho nàng, ta tha thứ cho nàng về tất cả những kẻ đã ngủ với nàng, kể cả nhà ngươi nữa... Một người đàn bà, nói thế là đủ hiểu rồi.
Piotr Alekseevich bỗng im bặt và quay ra phía khung cửa sổ dài mờ mờ xám dưới ánh rạng đông. Alekxandr Danilovich, ngồi trên thảm nỉ, nhanh nhẹn, đứng phắt dậy. Bên ngoài, át cả tiếng gió thổi, một tiếng động khác đang nổi lên, tiếng băng nổ, xô nhau ầm ầm, nặng nề.
- Sông Neva tan băng, Myn Herz!
Piotr Alekseevich bỏ chân dưới tấm da gấu ra:
- Thật ư? Nếu vậy thì không còn là lúc ngủ nữa!
-------------
Chú thích:
(1) Tiền bằng bạc thời xưa lưu hành ở Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Ba Lan, xứ Flendre, Thuỵ Sĩ.
(2) Tiền cổ.

Chương 149

Cuộc tiến quân đánh Kexhom bị dừng lại ngay từ đầu. Bộ binh và xe cộ đi trước, chưa tới nửa đường đi Sluxenburg, kỵ binh vừa mới vượt qua sông Okhota, những thuyền nặng có mái chèo, ở chỗ quân lính của các trung đoàn Xemionovski và Preobrazenski vừa mới đi chưa được năm dặm mé thượng lưu sông Neva thì một kỵ sĩ từ một bãi thông đổ ngổn ngang trên bờ phóng ra, vẫy mũ rối rít. Piotr Alekseevich đi thuyền buồm theo sau đoàn chiến thuyền. Nghe thấy người đó gọi: “Ôhê! các bạn chèo thuyền! Sa hoàng đâu? Có thư trình Sa hoàng!”, nhà vua lái thuyền rẽ vào bờ. Người kỵ sĩ từ trên lưng ngựa nhảy xuống, chạy tới bên bờ nước, đưa hai ngón tay lên đập vào chỏm mũ sĩ quan bằng nỉ và ngẩng bộ mặt hồng hào, trong con mắt lộ vẻ vội vã xen lẫn sợ hãi, dõng dạc nói, giọng khàn khàn:
- Thưa ngài pháo thủ có thư của Piotr Matveevich Apraxin, đại thần hoàng cung.
Hắn rút trong lai tay áo đỏ lấm bùn, một bức thư có đóng dấu và khâu chỉ xuyên từ bên này sang bên kia, đưa cho Sa hoàng rồi lùi lại một bước. Đó là trung úy Paska Yaguzenski.
Piotr Alekseevich lấy răng cắn đứt sợi chỉ, đọc thư rồi chăm chú đọc lại và cau mày. Nhà vua nheo mắt nhìn về phía những con thuyền chở nặng đang lướt trên mặt sông gợn sóng lóa nắng trong tiếng mái chèo đập nhịp nhàng.
- Đưa ngựa cho một thủy thủ giữ rồi xuống thuyền của ta. - nhà vua bảo Yaguzenski, đột nhiên nhà vua gay gắt quát. - Lội xuống nước kia! Nhà ngươi cũng thấy là thuyền ta mắc vào một bãi cát chứ! Đẩy thuyền ra rồi nhảy lên.
Suốt cuộc hành trình, thuyền vát ngược chiều gió trở về tận Petersburgskaia Xtorona, Piotr Alekseevich, không hề hé răng. Nhà vua khéo léo lái thuyền cập bến, hai thủy thủ vội vã hạ cánh buồm lớn xuống và lao về phía mũi thuyền, tiếng giầy lộp cộp; cánh buồm tam giác ở mũi thuyền đập phành phạch vì sợi dây buộc buồm bị vướng. Piotr Alekseevich quắc mắt, yên lặng nhìn cho tới khi họ cuốn xong buồm cẩn thận và buộc chặt các dây dợ theo đúng quy tắc. Lúc đó nhà vua mới đi về căn nhà nhỏ của mình.
Melsikov, Golovkin, Brux và phó thuỷ sư đô đốc Cruyx vội vã tới ngay, trong bụng rất lo lắng. Piotr Alekseevich hé cánh cửa sổ để gió thổi vào căn buồng chật hẹp, ngột ngạt, rồi ngồi xuống bàn và đọc cho mọi người nghe bức thư của Piotr Matveevich Apraxin, tư lệnh thành Jamburg, một cứ điểm cách Narva hai mươi dặm về phía Bắc:

Muôn tâu Sa hoàng, theo như lệnh hoàng thượng đã truyền vào đầu mùa xuân, thần đã rời Jamburg với ba trung đoàn bộ binh và năm đại đội kỵ binh, tiến về phía cửa sông Narova; thần đã đóng quân tại chỗ con sông đó gặp con sông nhỏ Roxonhơ. Chẳng bao lâu năm chiến thuyền Thụy Điển xuất hiện và ngoài khơi, trên mặt biển, còn thấy nhiều cánh buồm khác. Thuận theo gió nhẹ, hai chiến thuyền lọt vào cửa sông và bắn phá xe cộ của ta. Ơn Chúa, các khẩu pháo dã chiến của ta đã trả lời lại một cách anh dũng, đạn đại bác của ta đã phá tan một chiến thuyền Thụy Điển và quân ta đã đánh bật quân địch ra khỏi cửa sông Narova.
“Từ sau trận giao chiến đó, đã hai tuần lễ nay, quân Thụy Điển vẫn bỏ neo cách bờ không xa mấy: năm chiến thuyền và mười một thuyền vận tải; tình hình đó không khỏi khiến thần hết sức lo ngại. Thần cho kỵ binh tuần tiễu không ngừng ở dọc bờ, để ngăn quân Thụy Điển đổ bộ. Thần cũng phái quân long kỵ binh đi trên đường Revan, tiến tới tận Narva và đánh chiếm các đồn địch. Theo lời bọn tù binh thì ở Narva thiếu thốn đủ mọi thứ, và chúng rất lấy làm lo phiền về nỗi quân ta, theo những mệnh lệnh rất sáng suốt của hoàng thượng, đã chiếm đóng cửa sông Narova.
“Quân cảm tử của ta ban đêm đã lọt vào tới tận cửa thành Narva và bắt được một tên liên lạc hỏa tốc mang thư viết bằng mật mã của thống đốc Revan gửi cho tướng Horner, tư lệnh cứ điểm Narva. Tên liên lạc hỏa tốc đó lại chính là một gã quý tộc dòng dõi thế phiệt, tên là Xtaen Von Honxten, đại úy cận vệ, sủng thần của vua Charles. Thoạt đầu hắn từ chối không chịu trả lời, nhưng sau khi thần đã hơi to tiếng thì hắn nói rằng chẳng bao lâu đích thân Slipenbac sẽ tới Narva, dẫn đầu một đạo quân lớn và quân Thụy Điển đã phái đi một đoàn gồm ba mươi lăm chiếc thuyền to chở bánh mì, mạch nha, cá mòi, cá sấy và thịt ướp. Đoàn thuyền này đặt dưới sự chỉ huy của phó thủy sư đô đốc De Pru, một người Pháp, cánh tay trái của hắn bị đạn đại bác bắn bay đi mất, đã được thay thế bằng một cánh tay giả bằng bạc. Thuyền của hắn được trang bị hơn hai trăm khẩu đại bác và chở lính đánh bộ của hải quân.
“Thần không biết có nên tin những lời nói của viên đại úy Honxten và công cuộc to lớn và ghê gớm ấy không, nhưng tâu hoàng thượng, ngày hôm nay, vào buổi sáng sớm gió đã xua tan sương mù trên mặt biển, để lộ rõ chân trời đặc cánh buồm và bọn thần đếm được trên bốn mươi lá hạm kỳ. Lực lượng của thần không đủ, kỵ binh lại rất ít và chỉ có chín khẩu đại bác mà một khẩu hôm nọ, trong khi bắn đã bị vỡ... Thần không chờ đợi gì khác hơn là một thất bại hoàn toàn... Muôn tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng hãy cứu lũ thần”.

Đọc xong, Piotr Alekseevich hỏi:
- Thế nào, các ngươi nghĩ sao?
Brux, vẻ mặt dữ tợn, ấn cằm vào trong chiếc cà vạt đen, Cornelix Cruyx không để lộ gì trên khuôn mặt rám nắng, chỉ có tròng mắt hắn nhỏ lại, như thể hắn thực sự nhìn thấy gần năm chục hạm kỳ Thụy Điển trong vịnh Narva; ngay đến Alekxandr Danilovich, xưa nay vốn ứng đối linh lợi, lúc này cũng nín lặng, mặt sa sầm.
- Ta xin hỏi các ngài trong hội đồng quân sự: liệu chúng ta có phải thừa nhận rằng trong cái trò chơi tế nhị này, vua Charles đã lấy mất của ta một quân cờ rồi chăng? Rằng, với một cuộc hành binh khéo léo đánh vào Narva, hắn đã khiến cho ta không thể lấy được Kexhom chăng? Hay là chúng ta cứ cho quân cận vệ tiến đánh Kexhom và bỏ Narva cho Slipenbac.
Cornelix Cruyx lắc đầu và lấy trong hộp ra một nhúm thuốc lá to sợi của thủy thủ, tẩm rượu “rhoom” pha hạt tiêu Cayen và bỏ vào mồm, bên cạnh má - trông thật chẳng thích hợp tí nào với tư cách thủy sư đô đốc của hắn.
- Không! - hắn nói.
- Không! - Brux nói, giọng cương quyết.
- Không! - Alekxandr Danilovich vừa nói vừa đấm nắm tay vào đầu gối.
- Chiếm lấy Kexhom không phải là khó, - Gavrila Ivanovich Golovki nhẹ nhàng nói dằn từng tiếng, - nhưng rất có thể trong thời gian đó, vua Charles lại lấy mất của ta một quân cờ khác mà lần này lại là quân hoàng hậu(1).
- Chính thế! - Piotr Alekseevich nói.
Không cần phải bàn cũng hiểu được rằng để cho Slipenbac và đạo quân của hắn vào được Narva sẽ có nghĩa là từ bỏ việc chiếm lấy những thành chủ yếu - Narva và Yuriev - mà không có những thành này thì vùng lân cận của Petersburg sẽ trống tuếch. Như vậy là không thể để chậm một giờ nào nữa.
Chỉ một lát sau, các liên lạc viên đã phi ngựa như bay trên đường đi Sluxenburg và dọc sông Neva, để truyền lệnh cho quân lính và hạm đội lộn trở lại Petersburg.
Trung úy Paska Yaguzinski, đã ba ngày ba đêm không rời lưng ngựa, chỉ kịp xin gã hầu cận Nartov một cốc vodka pha hạt tiêu của Sa hoàng và một mẩu bánh mì rắc muối, trước khi lên đường trở về doanh trại của Piotr Matveevich Apraxin. Lệnh truyền cho ông này phải tin tưởng ở Chúa và cùng quân lính giữ vững chống lại hạm đội Thụy Điển dù cho có phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Khi từ biệt Yaguzinski, Piotr Alekseevich cầm lấy tay hắn, kéo lại ôm vào ngực, hôn lên trán:
- Nhà ngươi hãy nói miệng lại với tư lệnh là, một tuần lễ nữa, ta cùng với toàn bộ đại quân sẽ tới trước thành Narva.
-------------
Chú thích:
(1) Trong cờ vua, quân hoàng hậu là quân mạnh nhất.

Chương 150

Tiếng con gà trống gáy vang đánh thức vua Charles dậy; nhà vua mở mắt và trong ánh tranh sáng tranh tối trong lều, lắng tai nghe con gà gân cổ lên gáy, lấy hơi một cách ầm ĩ; nó được chở theo cùng với hành lý của quân đội và đến đêm người ta đặt lồng gà bên cạnh lều nhà vua. Rồi tiếng kèn thong thả thổi báo thức và nhà vua như nhìn thấy trong tưởng tượng một khe núi mù sương, nghe thấy tiếng kèn săn, tiếng chó sủa và nhớ lại nỗi nóng ruột của mình muốn chọc tiết con vật...
Ngay cạnh lều, một con chó con lên tiếng sủa, cứ nghe tiếng sủa cũng biết là loại chó nhách các bà thường đem theo trong xe ngựa... Có người bắt con chó im đi, nó rên lên ư ử. Nhà vua ghi lại: “Hỏi xem con chó nhách ở đâu mà ra?”.
Cách đó không xa, lũ ngựa bị buộc dây dậm chân và một con hí lên một cách man rợ. Nhà vua lại ghi: “Đáng tiếc, nhưng cần phải thiến con Neptun”.
Những tiếng chân nặng nề, đều bước, nện thình thịch trên mặt đất. Nhà vua lắng tai nghe tiếng hô của viên chỉ huy trạm gác đang đổi phiên gác.
Chim chóc sải cánh bay qua bên trên lều, rẽ gió vun vút. Nhà vua nhận xét: “Hôm nay sẽ đẹp trời”.
Tiếng động và tiếng người nói mỗi lúc một rõ. Cái thứ âm nhạc nhộn nhịp và hùng tráng của doanh trại đang thức giấc nghe thật du dương hơn cả mọi tiếng phong cầm, thụ cầm và đàn thất huyền ở trên đời này.
Nhà vua cảm thấy sảng khoái sau giấc ngủ trên chiếc giường vải, đắp chiếc áo choàng quân sự sực mùi mồ hôi ngựa và bụi đường. Quả thực, thức giấc với tiếng gà gáy mà lại có quân địch ở cuối cánh đồng kia, có gió đưa lại mùi khói lửa trại của chúng qua đám sương mù ẩm ướt thì có lẽ nhà vua sẽ thấy khoan khoái gấp ngàn lần...
Ôi, choàng đứng dậy, xỏ nhanh ủng vào, nhảy lên ngựa... Rồi cưỡi ngựa đi bước một, cố tìm cách làm dịu bớt ánh mắt long lanh, tiến về phía các đội quân đã bày thành thế trận sẵn sàng, về phía những con người quả cảm rậm râu, đứng hiên ngang, hùng dũng.
Chó thật! sau trận đánh ở Klixov, vua Auguste mất hết tất cả đại bác và cờ xí, một năm nay cứ lùi mãi, chạy vòng vèo khắp đất nước Ba Lan mênh mông, như một con thỏ... Ôi, đồ hèn nhát, đồ dối trá, mưu mẹo, trụy lạc! Nó sợ một cuộc chạm trán, nó buộc đối thủ phải phung phí cái vinh quang rực rỡ đã dành được ở Narva, Riga và Klixov vào những cuộc truy kích vô hiệu quả đuổi theo những tên lính đói khát của xứ Xăc và những tên kỵ binh Ba Lan lúc nào cũng say... Nó buộc kẻ thù phải nằm ườn trên giường suốt sáng như một con đĩ...
Vua Charles đưa hai ngón tay lên môi và huýt sáo. Lập tức rèm vén lên: bước vào trong lều là nam tước nội thị Bijoockenjem có cái mũi nhỏ hếch lên, điểm thêm một hạt cơm; và người hầu cận vừa là vệ sĩ của nhà vua, một gã cao lớn, đầu chạm tới nóc lều: hắn mang vào đôi ủng đã đánh xi và một cái áo màu xanh lá cây xẫm, vá mạng nhiều chỗ, ghi rõ những vết đạn và mảnh trái phá.
Vua Charles ra khỏi lều và giơ hai bàn tay ra cho gã hầu cận thận trọng rót nước đựng trong một cái bình bạc. Vua Charles quen với đạn trái phá bay trên đầu không khó khăn gì nhưng lại rất sợ nước lạnh chảy vào cổ hay sau mang tai... Vứt cái khăn lau tay cho gã hầu cận, nhà vua chải bộ tóc cắt ngắn, không buồn nhìn vào chiếc gương mà nam tước Bijoockenjem giơ ra. Nhà vua xốc lại áo cài khuy lên tận cổ và đưa mắt nhìn khắp các lều cắm thành hàng đều đặn trên sườn ngọn đồi rậm cỏ đổ xuống suối. Phía sau các lều, không khí bận rộn như thường lệ xung quanh lũ ngựa buộc ở cọc; một đám lính pháo thủ lấy giẻ lau chùi các nòng súng đại bác bằng đồng đen. Vua Charles khinh bỉ nhận xét:
- Giá súng lấm bùn và đồng đen ám khói thuốc súng đen sì sẽ đẹp hơn biết bao nhiêu!
Dưới chân đồi, quân lính giặt giũ áo lót ở suối và phơi lên cành những cây liễu cằn cỗi. Trên bờ bên kia, những con sếu, giống như những giáo sư thần học, nghiêm trang đi tản bộ trong cánh đồng lầy. Xa hơn một chút, sừng sững những ống khói của một làng bị đốt cháy, và xa hơn nữa, trên một ngọn đồi, đằng sau một hàng cây cổ thụ, hai ngọn tháp long lở của một ngôi nhà thờ Thiên Chúa giáo điểm lên một vệt vàng.
Vua Charles đã chán ngấy cái phong cảnh tiêu điều luôn luôn gặp thấy này! Mất ba năm rong ruổi trên các nẻo đường của đất nước Ba Lan khốn kiếp! Ba năm lẽ ra đã có thể đem lại cho nhà vua một nửa thế giới, từ sông Vixtuyn đến dẫy núi Ural.
- Bệ hạ định dùng bữa sáng chưa ạ? - Nam tước Bijoockenjem nói, bàn tay chăm chút cẩn thận của hắn trỏ rèm cửa lều đã vén lên, với một cử chỉ duyên dáng.
Bên trong, trên một thùng thuốc súng rỗng, trải khăn trắng tinh, người ta đã dọn ra những lát bánh mì cắt mỏng đặt trên đĩa bạc, một bát cà rốt luộc và một liễn súp nấu bằng thứ lúa mì cứng của lính. Chỉ có thế thôi.
Nhà vua bước vào, ngồi xuống và trải khăn ăn lên đầu gối. Nam tước đứng sau lưng nhà vua và một lần nữa hắn lại ngạc nhiên về tính khí kỳ quặc của ông vua bướng bỉnh, cố chấp này: làm hại sức khỏe của mình với cái lối ăn uống đạm bạc đến như thế! Có lẽ phải làm như vậy mới có thể được ghi chép vào sử xanh sau này chăng? Nhà vua có nhiều tham vọng... Người ta đã rót nước suối, tanh mùi ếch nhái vào một cái cốc mạ vàng, tác phẩm của nhà nghệ sĩ bậc thầy Benvenuto Xelini, trong bộ sưu tập của vua Auguste, đã rơi vào tay quân Thụy Điển sau trận Klixov. Gánh vác vinh quang thế giới quả là nặng nề thật!
Vua Charles nhai một củ cà rốt, hỏi:
- Cái con chó rách sủa trong doanh trại ở đâu ra vậy? Có ai mới tới chăng?
- Tâu bệ hạ, nữ bá tước Koxenxka, sủng khanh của vua Auguste tới doanh trại đêm qua, khi đã khuya, hy vọng là bệ hạ sẽ gia ân tiếp bà ta.
- Bá tước Pipe có biết việc này không?
Nam tước trả lời là có. Vua Charles ăn một bữa ăn buồn rứt, mạnh bạo nốc hết cốc nước, vò nhàu cái khăn ăn rồi bước ra khỏi lều, chụp lên đầu cái mũ nhỏ ba cạnh, không có dải tết. Sau khi hỏi xe của nữ bá tước ở đâu, nhà vua đi về phía một bụi cây dẻ; giữa các cành cây, tượng thần ái tình mạ vàng và những con chim bồ câu trang điểm nóc xe lấp lánh dưới ánh nắng.
Nữ bá tước Koxenxka ngủ trong xe, trên một đống đệm và đăng ten. Bà ta là một phụ nữ còn tươi tắn, mũm mĩm, da trắng ngần, những búp tóc quăn, vàng óng xõa ra ngoài chiếc mũ ngủ đêm nhàu nát. Sực tỉnh vì tiếng con chó con kêu oăng oẳng - nó vô phúc lại xuất hiện ngay trước mũi ủng của nhà vua - nữ bá tước mở cặp mắt to của giống người Slav, màu ngọc bích mà vua Charles rất khinh nếu là đàn ông và rất ghét nếu là mắt đàn bà. Trông thấy ngay bên kính cửa xe một bộ mặt xám xịt và hốc hác, có cái miệng khinh khỉnh của một gã thiếu niên và cái mũi to, dày, nữ bá tước khẽ kêu lên một tiếng và lấy hai tay che mặt.
- Bà đến đây làm gì? - nhà vua hỏi. - Cho đóng ngựa ngay lập tức rồi quay trở về cho nhanh nếu không người ta sẽ coi bà là một tên nữ gián điệp của cái thằng Auguste bẩn thỉu vô liêm sỉ ấy... Bà có nghe thấy ta nói không?
Nhưng nữ bá tước vốn là người Ba Lan, nên không dễ gì để cho ai dọa. Hơn nữa, ngay từ đầu, nhà vua đã khiến câu chuyện xoay ra bất lợi cho mình vì đã bắt đầu bằng những lời lẽ thiếu lịch sự và những lời hăm dọa... Nữ bá tước bỏ tay che mặt ra, dang hai cánh tay mũm mĩm, để trần đến tận khuỷu, nhỏm dậy trên đống nệm và mỉm cười với vua Charles, vẻ ngây thơ rất dễ thương:
- Bonjour, Sire(1), - bà ta nói với giọng duyên dáng. - Xin bệ hạ hãy rủ lòng tha lỗi cho tiện thiếp đã kêu lên để bệ hạ sợ hãi. Lỗi là tại con “Của Quý”, con chó con của tiện thiếp; nó làm tiện thiếp rất đỗi phiền lòng vì đã vụng về rơi vào chân của... Tiện thiếp đã cho nó ra ngoài xe để đi kiếm một mẩu bánh hay một miếng xương gà gì đó. Tâu bệ hạ, cả thiếp và nó đều đói đến chết mất... Hôm qua, xe tiện thiếp suốt ngày đã chạy qua một bãi sa mạc thực sự, qua những làng xóm bị tàn phá và những lâu đài bị đốt cháy... Không làm sao kiếm được một mẩu bánh mì, mặc dù tiện thiếp đã trả một duca(2) một quả trứng gà. Những người dân Ba Lan ấy, không biết ở hang hốc nào chui ra, chỉ giơ hai tay lên trời... Tâu bệ hạ, tiện thiếp muốn được ăn sáng... Tiện thiếp muốn tự đền bù lại tất cả những nỗi kinh hoàng của chuyến đi vừa rồi, tiện thiếp kêu gọi lòng tốt, lòng đại lượng của bệ hạ! A, tâu bệ hạ! Xin cho phép tiện thiếp được ăn sáng với bệ hạ.
Vừa bi bô bằng một thứ tiếng Pháp rất sõi, như thế suốt đời sống ở Vecxay(3), nữ bá tước đã có thì giờ sửa lại mái tóc, thoa son lên môi, sức nước hoa và thay cái mũ ngủ đêm bằng một chiếc khăn vuông kiểu Tây Ban Nha viền đăng ten... Trong khi nhà vua cố nói xen vào mà không được, nữ bá tước nhẹ nhàng nhảy ra khỏi xe và khoác tay vua Charles.
- Ôi tâu bệ hạ! Toàn châu Âu say mê bệ hạ, chẳng còn ai nói đến vương hầu Ogien xứ Xavoa, cũng như quận công Marlbro nữa. Ogien và Marlbro buộc phải nhường vinh quang cho vua Thụy Điển. Sự bối rối của tiện thiếp kể cũng đáng tha thứ; để được nhìn thấy bệ hạ một chút thôi, nhìn thấy người anh hùng thiếp mơ ước, thiếp sẵn sàng hiến cả cuộc đời mình... Bệ hạ buộc thiếp tội gì cũng được, cuối cùng được nghe thấy tiếng nói của bệ hạ là thiếp sung sướng rồi.
Nữ bá tước lanh lẹn nhặt con chó nhỏ, mũi tẹt, lông xù đang quẩn ở chân, và bám chặt vào khuỷu tay nhà vua đến nỗi nếu nhà vua tìm cách gỡ những ngón tay siết chặt của bà ta ra thì thật là lố bịch. Nhà vua nói xẵng:
- Ta chỉ ăn rau và uống nước lã thôi. Ta e rằng sau những bữa yến tiệc linh đình của Auguste, bà khó mà có thể bằng lòng với những cái đó được... Mời bà lại lều ta!
Cả doanh trại quân Thụy Điển ngạc nhiên không ít khi thấy nhà vua lôi ở trong bụi cây trăn ra một mỹ nhân mũm mĩm, xiêm nhẹ và đăng ten tung bay trước gió lớn, Nhà vua đưa nữ bá tước đi, mũi hếch lên trời một cách tức tối. Hai người đợi trước lều của vua: nam tước Bijoockenjem, cứng nhắc trong một tư thế lịch sự, đầu đội bộ tóc giả to xù xụ, tay cầm một cái kính hai mắt, bằng vàng, và bá tước Pipe, cục mịch, to lớn, nặng nề, vẻ mặt giễu cợt một cách lạnh lùng.
Khi đã đưa nữ bá tước vào trong lều, vua Charles nói qua kẽ răng bảo bá tước Pipe:
- Ta sẽ không tha cái tội này cho nhà ngươi đâu. - Rồi quay sang Bijoockenjem. - Đi tìm một đĩa thịt gì đó cho người này chứ!
Nhà vua ngồi xuống một cái trống đối diện với nữ bá tước ngồi trên mấy cái nệm mà ông nam tước đã đưa ra. Bữa ăn sáng dọn trên thùng thuốc súng vượt quá mọi sự chờ đợi: thịt ngỗng, chả đựng trong bát sành, thịt thú nguội, chiếc cốc trạm trổ của Benvenuto Xelini đầy rượu vang. Nhà vua bặm môi, nhận xét: “Khá lắm! Bây giờ ta đã biết được gã Bijoockenjem vô tích sự kia ăn gì trong lều của hắn...”
Nữ bá tước ăn rất ngon lành và vứt xương cho con chó con, vừa ăn vừa tiếp tục ríu rít:
- Đức Chúa Trời ơi! Việc gì mà phải vờ vẫn vô ích? Tâu bệ hạ, bệ hạ đã đọc thấy rất rõ trong ý nghĩ của thiếp... Tiện thiếp đến đây với hy vọng độc nhất là cứu nước Ba Lan... Đó là một sứ mệnh mà con tim đã vạch ra cho thiếp... Thiếp muốn trả lại cho đất nước của thiếp cái niềm vô tư, vui vẻ, những bữa yến tiệc huy hoàng, những cuộc đi săn tuyệt mỹ... Đất nước Ba Lan điêu tàn lắm rồi. Tâu bệ hạ, xin bệ hạ đừng cau mày, chính cái tính nông nổi nhẹ dạ của Auguste là nguyên nhân gây ra tất cả tình trạng đó. Ôi, ngày nay hắn hối hận không biết bao nhiêu là đã nghe lời tên ác quỷ Johan Patkun vào một giờ xấu, và trở thành kẻ thù của bệ hạ... Xin bệ hạ hãy tin thiếp, cuộc chiến tranh bất hạnh ở Livoni không phải do ý xấu của vua Auguste gây ra mà chỉ vì Patkun, nó thật đáng tội tứ mã phanh thây. Patkun chỉ có Patkun thôi là kẻ đã tạo ra sự liên minh phản lại tự nhiên giữa vua Auguste, vua Đan Mạch và tên quái vật man rợ kia, Sa hoàng Piotr... Nhưng lỗi lầm không thể sửa chữa được sao? Lòng đại lượng chẳng phải là đức tính cao thượng nhất tất cả sao? Ôi, tâu bệ hạ, bệ hạ là người cao cả, đại lượng.
Cặp mắt dòng giống Slav của nữ bá tước lúc này giống như hai viên ngọc bích ướt. Nhưng bà ta không hề ăn kém đi chút nào. Ý nghĩ của bà ta chạy nhanh như ngựa đến nỗi vua Charles phải chật vật mới theo nổi: nhà vua vừa định trả lời bằng một câu nói thật đau thì đã lại phải đối phó với một câu mới. Bijoockenjem cố nén những tiếng thở dài. Pipe đứng tại một góc lều, đôi chân to nặng giạng ra, cái cặp da ôm chặt vào bụng, mỉm cười ra vẻ thông hiểu.
- Vua Auguste muốn hòa bình, chỉ muốn có hòa bình mà thôi, và sẵn sàng khoan khoái mà xé bỏ cái hiệp ước đáng hổ thẹn đã ký kết với Sa hoàng Piotr. Nhưng chính đám phụ nữ như tiện thiếp đây mới ráo riết cầu xin bệ hạ hãy giảng hòa... Ba năm chiến tranh và rối loạn, thật quả là quá nhiều đối với cuộc đời ngắn ngủi của con người ta.
- Không, không giảng hòa được mà phải đầu hàng! - Cuối cùng vua Charles thốt lên, giương cặp mắt màu vàng nhạt nhìn chòng chọc vào nữ bá tước. - Ta muốn đàm phán với Auguste không phải ở đây, trên cái đất Ba Lan này không còn là của hắn nữa, mà là tại thủ đô xứ Xăc. Thưa bà, bà đã no chưa? Bà không còn có gì trách móc ta nữa chứ?
- Tâu bệ hạ, thiếp thật là lú lẫn, - nữ bá tước vội vàng nói, và lấy lưỡi liếm những ngón tay nhỏ, hồng hồng, sau khi đã xơi hết một con chim dẽ quay rất khéo. - Thiếp quên không nói với bệ hạ việc quan trọng nhất, đã khiến thiếp phải cho xe chạy như bay về đây. - Bà ta mở một cái hộp nhỏ xíu bằng vàng buộc vào cái xuyến đeo ở cổ tay, rút ra một ống giấy nhỏ và mở ra. - Tâu bệ hạ, bức thư này, do một con chim câu đưa thư mang tới, nhận được sáng hôm qua. Sa hoàng Piotr dẫn đầu những lực lượng rất lớn, đang tiến về Narva. Bổn phận của thiếp là phải báo cho bệ hạ biết cuộc hành binh nguy hiểm này của tên bạo chúa ở Moskva.
Bá tước Pipe không mỉm cười nữa; ông ta lại gần nhà vua và cả hai người lần đọc những giòng chữ nhỏ li ti của bức thư.
Nữ bá tước đưa đôi mắt đẹp nhìn Bijoockenjem, khẽ thở dài rồi nâng cái cốc của Venvenuto Xelini lên, uống một ngụm rượu.
-------------
Chú thích:
(1) Kính chào hoàng thượng (tiếng Pháp trong nguyên bản).
(2) Tiền vàng.
(3) Cung điện của vua Pháp.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét