Thứ Tư, 20 tháng 11, 2019

Pie Đệ Nhất - Phần IV (Ch 91 - Ch 120)

Pie Đệ Nhất

Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000

Chương 91

Vua Piotr dùng xe trạm đi trước đoàn sứ thần; không hề ghé lại nơi nào, nhà vua đi qua Berlin, Brandeburg, Hanbestat. Nhà vua chỉ tạt ngang một lần để thăm các xí nghiệp luyện thép nổi tiếng của Inxenbua
Tại đó, người ta cho nhà vua Piotr xem một mẻ gang đổ từ lò cao ra, xem cách luyện sắt trong các nồi nấu, cách rèn luyện các nòng súng với những tấm tôn mỏng, cách khoan, tiện trên các máy cái chạy bằng bánh xe cối xay nước. Thợ cả, thợ bạn làm tại các lò rèn và phân xuởng của họ. Các mặt hàng làm ra để tại lâu đài Inxenbua: súng trường, súng ngắn, gươm, khóa, vành móng ngựa. Vua Piotr tìm cách thuyết phục được hai người thợ cả khéo tay đi sang Moskva, song phường nghề của họ từ chối không để cho họ đi.
Du khách đi xe trên những con đường có lê và táo mọc hai bên; không một người dân nào ăn cắp trái cây. Chung quanh là những khu rừng sồi, những cánh đồng hình chữ nhật có gieo lúa mì; bên kia những bức tường đá là vườn tược và ở giữa đám lá xanh rì là những mái ngói, chuồng chim bồ câu. Trong những khoảng rừng thưa có những con bò cái béo tốt, những dòng suối lóng lánh giữa đôi bờ, những cây sồi cổ thụ, những cối xay nước. Cứ cách hai ba dặm lại có một thị trấn nhỏ: một ngôi nhà thợ cạo. Đàn ông đội mũ vải, bận áo khoác ngắn và đi tất trắng, tươi cười hòa nhã. Nước Đức cổ kính, tốt lành.
Vào một buổi tối tháng bảy ấm áp, vua Piotr cùng Alexaska đi cỗ xe đi đầu có chỗ nằm tiến vào thị trấn Kopenburg cách Hanovre không xa. Chó sủa ầm ĩ, ánh đèn rọi qua các cửa sổ chiếu sáng con đường: các nhà đang ngồi vào bàn làm bữa tối. Một người đàn ông đeo tạp dề hiện ra ở khung của một quán ăn có đèn sáng, treo tấm biển “Quán lợn vàng” và gọi người xà ích. Người này hãm những con ngựa mệt mỏi lại và quay về phía vua Piotr:
- Tâu Điện hạ, chủ quán vừa giết lợn và hôm nay có món dồi lợn. Không thể tìm được nơi nào nghỉ đêm tốt hơn nơi này đâu!
Vua Piotr và Alexaska xuống xe, đi đi lại lại cho khỏi chồn chân.
- Alexaska này, ngươi hãy nói cho ta xem bao giờ chúng ta mới có được một cuộc sống như thế này ở bên nước chúng ta?
- Thần không rõ, Myn Herz, thần nghĩ chắc cũng còn lâu!
- Cuộc sống này mới đẹp đẽ làm sao chứ. Ngươi nghe kìa, ngay cả đến chó ở đây cắn sủa cũng không dữ tợn. Thật là một thiên đàng. Nghĩ đến Moskva, chà, ta chỉ muốn đốt nó đi!
- Đó là một cái chuồng ngựa, quả vậy!
- Chúng nó cứ khư khư bám lấy quá khứ, trôn chúng nó thối ra rồi. Cả khoảng thời gian một nghìn năm mà chúng vẫn không học được cách cày đất... Tại sao lại như thế? Tuyển hầu Frederich là một người thông minh: chúng ta cần phải đánh thông một đường ra biển Baltic, đó là chân lý... Và ở đó phải xây lên một thành phố mới, một thiên đường thực sự... Hãy nhìn xem kìa, ở đây sao trên trời cũng chói hơn ở xứ mình.
- Nhưng ở xứ mình, Myn Herz, chẳng mấy chốc thiên hạ sẽ làm ô uế mọi thứ chung quanh ngay thôi!
- Hãy kiên nhẫn, Alexaska, về đến nước nhà, ta sẽ lay tỉnh Moskva, cho đến kỳ nó hồn lìa khỏi xác mới thôi! Đấy là biện pháp duy nhất.
Họ vào quán. Những đùi lợn ướp và dồi thịt treo lủng lẳng ở một chiếc xà nhà bằng gỗ sồi bên trên cái lò sưởi to. Củi cháy bùng bùng làm đồ xoong cháo bằng đồng sáng loáng lên.
Chủ quán cúi rạp mình chào khách, khuôn mặt đỏ như đồng điếu nở một nụ cười. Khách mới đến gọi lấy bia; họ vừa ngồi vào bàn ăn thì một trang công tử từ ngoài bước vào. Gã đội cái mũ hình nón, rộng vành và bận chiếc áo khoác bằng nỉ lòe xòe vướng cả vào đinh thúc ngựa. Gã ra hiệu cho chủ quán đi ra, rồi gã nhún nhẩy, cầm lấy vành mũ và bắt đầu chào lia lịa, quay cuồng khắp gian bếp, áo khoác bị thanh gươm nâng lên.
Vua Piotr và Alexaska há hốc miệng ra nhìn, gã công tử nói, giọng ngọt ngào êm ái:
- Điện hạ Sofia, nữ Tuyển hầu xứ Hanovre cùng lệnh nữ Sofia-Saclot, nữ Tuyển hầu thành Brandeburg và lệnh nam, Kronprinz (Thái tử - tiếng Đức) George-Louis, người thừa kế chí tôn của ngai vàng Anh Cát Lợi, cùng quận công Zenski cũng như các vị phu nhân, vương tôn công tử trong triều nữ Tuyển hầu, đã rời Hanovre, không quản hành trình mệt nhọc và những điều bất tiện về nơi ăn chốn ở để hết sức khẩn trương đến nghênh tiếp đức Sa hoàng với mục đích duy nhất là được làm quen với đức Sa hoàng vinh quang, vô song của đô thành Moskva.
Koppenxten, đó là tên gã công tử, mời vua Piotr vui lòng đến dùng bữa ăn tối: nữ Tuyển hầu cùng ái nữ của Người đang đợi quý khách để ngồi vào bàn... Vua Piotr chỉ hiểu lõm bõm khoảng một nửa lời nói của gã và nhà vua sợ hãi đến nỗi suýt nữa thì ù té bỏ chạy.
- Ta không thể đến được, - nhà vua lắp bắp nói, - ta rất vội... Vả lại cũng khuya rồi. Khi nào ta ở Hà Lan về thì có lẽ...
Áo choàng và mũ Koppenxten lại bay lượn khắp bếp. Gã không hề bối rối, cứ khẩn khoản mời. Alexaska thì thầm nói bằng tiếng Nga:
- Hắn sẽ không chịu buông tha chúng ta đâu. Bệ hạ nên đến đấy chừng một tiếng đồng hồ thì hơn, Myn Herz, người Đức hay mếch lòng lắm đấy!
Vua Piotr bực bội, dứt đứt mất chiếc khuy áo. Nhà vua bằng lòng với điều kiện là họ phải bí mật dẫn nhà vua cùng Alekxaska qua cổng sau, và trong bữa tiệc chỉ có một mình nữ Tuyển hầu thôi, cùng lắm thì có thêm cô con gái bà ta.
Nhà vua chụp cái mũ ba cạnh đầy bụi đường xuống tận mắt và buồn bã nhìn những khúc dồi treo bên trên lò sưởi.
Một cỗ xe ngựa đang đợi ở bên ngoài.

Chương 92


Nữ tuyển hầu Sofia và ái nữ Sofia Saclôt ngồi cạnh một chiếc bàn bày thức ăn kê trước cái lò sưởi có phủ một tấm gấm Trung Quốc để che lấp vẻ xấu xí.
Hai mẹ con bà dũng cảm chịu đựng mọi sự bất tiện của tòa lâu đài trung cổ này mà chủ nhân đã để cho họ sử dụng. Những tấm thảm tân thời treo tường và trải sàn không che lấp nổi những bức tường tróc vôi nham nhở. Trên vòm mái cao chắc hẳn có nhiều chú cú trú ngụ. Những chiếc ghế bành nhỏ bọc lụa do chủ nhân vội vã kiếm được, đặt trên sàn gạch đã mòn đi vì ủng của các chàng kỵ sĩ có bộ râu đỏ hoe và vó những con ngựa nòi của họ. Chỗ nào cũng xông lên mùi chuột và bụi bặm.
Các vị nữ khách rùng mình nhớ đến những phong tục man rợ ấy, nhờ trời nay đã vĩnh viễn qua đi. Họ đành tự an ủi bằng cách nhìn một bức tranh lớn treo vào một cái móc sắt đã gỉ dùng để treo khiên, mộc và áo giáp. Bức tranh vẽ một cảnh tượng phong phú sung túc trên một quầy hàng có bày một đống cá biển và tôm hùm, hàng xâu chim muông, rau cỏ, hoa quả, những con lợn lòi bị giáo xiên ngang người. Màu sắc các bức tranh tỏa ánh sáng rực rỡ.
Hội họa, âm nhạc, thi ca, những hoạt động của một trí tuệ lanh lợi hướng về những cái gì tế nhị, thanh lịch, đó là nội dung duy nhất xứng đáng với đời người ngắn ngủi sớm nở tối tàn. Nữ Tuyển hầu và con gái bà nghĩ như vậy. Họ là những phụ nữ thông thái nhất nước Đức.
Cả hai đều có quan hệ thư từ với Laibnix (1) ông này đã nói về họ:
“Trí tuệ của những phụ nữ đó khao khát hiểu biết đến nỗi có lúc tôi phải đầu hàng trước những câu hỏi xuất sắc của họ. Họ khuyến khích nghệ thuật và văn học”.
Sofia-Saclot đã thành lập một viện Hàn lâm khoa học ở Berlin. Mới đây, Tuyển hầu Frederich trong một bức thư dí dỏm và đôn hậu đã trao đổi với họ cảm tưởng của ông về vị Sa hoàng của dân man rợ đang mượn lốt một người thợ mộc để chu du thiên hạ.
“Xứ Moskovi như tôi thấy, đang thức dậy khỏi giấc ngủ Á đông của nó. Điều cần thiết là phải dẫn dắt những bước đi đầu tiên của xứ ấy theo một hướng tốt”.
Hai mẹ con nữ Tuyển hầu không ưa thích chính trị; họ đến Kopenburg chỉ vì một lòng ham muốn hiểu biết cao quý.
Những ngón tay gầy của nữ Tuyển hầu Sofia nằm lấy đôi tay vịn của chiếc ghế bành. Bà lắng tai nghe: qua cửa sổ mở ngỏ trông ra khu vườn chìm trong đêm tối qua tiếng lá rì rào, bà nghe hình như có tiếng bánh xe lăn. Những hàng ngọc trai tô điểm bộ tóc giả màu trắng rung rinh; bộ tóc giả căng trên một bộ khung cao đến nỗi dù có giơ tay lên bà cũng không thể với được chỏm. Nữ Tuyển hầu, người gầy gò, nhăn nheo: những kẽ chân răng hàm dưới của bà đều có sáp bịt kín. Lớp đăng ten quanh cổ áo hở ngực màu hoa cà che lấp những gì không còn sức quyến rũ nữa. Chỉ có cặp mắt đen láy mở to là long lanh một ánh sáng ngời hóm hỉnh.
Sofia-Saclot có cặp mắt đen láy như mẹ nhưng cái nhìn điềm đạm hơn, nàng đẹp, đường bệ và trắng trẻo. Một vầng trán thông minh dưới bộ tóc giả rắc phấn, đôi vai trắng ngần và cái cổ để hở gần đến đầu vú, cặp môi mỏng, một cái cằm rắn rỏi. Cái mũi hơi hớt của nàng buộc người ta phải chăm chú nhìn, để tìm kiếm một nét phù phiếm ẩn giấu đâu đó.
- Đây rồi. - Sofia-Saclot vừa nói vừa đứng dậy. - Họ đến rồi.
Mẹ nàng đi lên trước. Trong tiếng lụa sột soạt, hai người đến gần cửa sổ xây thành một cái ổ trong bề dày của tường nhà. Một bóng người cao lênh khênh, vung vẩy cánh tay như bơi chèo rảo bước trên lối đi trong vườn. Theo sau là một bóng khác, tất tả, mặc áo choàng, đội mũ hình nón và xa hơn một chút là một bóng thứ ba.
- Ông ta đấy, - nữ Tuyển hầu nói, - Trời ơi, một người khổng lồ!
Koppenxten mở cửa:
- Đức Sa hoàng!
Một bàn chân vòng kiềng đi giầy đầy bụi và đi tất len hiện ra: vua Piotr nghiêng người bước vào. Trông thấy hai vị phu nhân đứng dưới ánh nến, nhà vua ấp úng: “Guten Abend” (2). Nhà vua giơ tay lên như để xoa trán, rồi đâm ra bối rối thật sự và lấy tay che mặt. Nữ Tuyển hầu Sofia tiến đến cách nhà vua ba bước, nhón tay nâng xiêm lên, rồi với một cử chỉ lanh lẹn khác thường so với tuổi bà, bà cúi chào.
- Thưa đức Sa hoàng, tôi xin kính chào hoàng thượng.
Sofia Saclot cũng tiến lại gần, nàng dang đôi tay đẹp nõn nà như thiên nga, nâng tấm xiêm rộng lên, cúi chào.
- Cúi xin đức Sa hoàng tha thứ cho sự nóng lòng chính đáng của chúng tôi mong muốn được gặp vị anh hùng trẻ tuổi, chúa tể của những dân tộc đông vô kể và người Nga đầu tiên đã phá vỡ những thành kiến tai hại của tổ tiên mình.
Vua Piotr giật tay ra khỏi mặt và chào, người cúi gập làm đôi, cứng đơ như một cây sào; nhà vua tưởng mình lố bịch đến mức hai người đàn bà sẽ phá lên cười khinh miệt ngay bây giờ.
Nhà vua lúng túng đến cực độ chẳng còn nhớ được tiếng Đức nào.
- Ich hann nicht sprechen (3)... Tôi không thể nói được. - nhà vua ấp úng, giọng lạc hẳn đi...
Nhưng nhà vua không cần phải nói. Nữ Tuyển hầu Sofia hỏi nhà vua Piotr hàng trăm câu hỏi mà không chờ trả lời: về thời tiết, về đường sá, về nước Nga, về chiến tranh, về cảm tưởng của nhà vua trong cuộc sống hành trình.
Bà luồn tay vào khuỷu tay vua Piotr dẫn đến bàn ăn. Cả ba người ngồi xuống, đối diện với gian phòng ảm đạm, vòm trần chìm trong bóng tối.
Bà mẹ mời vua Piotr ăn một con chim quay nhỏ, cô con gái rót rượu. Hai người đàn bà ngào ngạt hương thơm.
Vừa nói chuyện, vị nữ Tuyển hầu tuổi tác trìu mến như một người mẹ, đặt mấy ngón tay nhỏ nhắn, khô đét lên bàn tay vẫn nắm chặt của vua Piotr, nhà vua xấu hổ vì móng tay của mình đặt lên trên tấm khăn bàn trắng muốt giữa hoa bầy và đồ dùng bằng pha lê.
Sofia Saclot tiếp thức ăn với một thái độ lễ phép thanh lịch, đứng dậy để với lấy một bình rượu, một món ăn và quay về phía nhà vua mỉm một nụ cười quyến rũ:
- Mời hoàng thượng xơi món này... Cái này thật quả là đáng để hoàng thượng nếm thử!
Nếu nàng không đẹp lộng lẫy và ăn mặc hở hang như vậy, nếu bộ áo thơm của nàng không sột soạt thì có lẽ nàng đã khiến nhà vua nhớ đến em gái mình và giọng nói của những phụ nữ đó giống như giọng nói của những người bà con thân thiết.
Vua Piotr không cứng người nữa và bắt đầu trả lời các câu hỏi. Hai nữ Tuyển hầu nói chuyện với nhà vua về các họa sĩ trứ danh của xứ Flandre, của Hà Lan, về các tác gia kịch lớn của triều đình Pháp, về triết học, về cái đẹp. Nhiều điều hoàn toàn mới lạ đối với nhà vua, khiến nhà vua phải hỏi lại, và rất ngạc nhiên.
- Ở Moskva, khoa học và nghệ thuật ấy à? - vua Piotr nói và lấy chân đá một cái dưới gầm bàn. - Chính tôi cũng chỉ mới thấy những cái đó ở đây thôi. Ở bên nước tôi, người ta không coi trọng mà còn sợ những cái đó. Các đại thần, các nhà quý tộc nước tôi là quân phàm phu tục tử thực sự: họ ngủ, ních cho chặt bụng, rồi cầu kinh... Nước chúng tôi thật là tăm tối, ở đó quý phu nhân sẽ khiếp sợ và không thể sống nổi được lấy một ngày. Chỉ quanh Moskva không thôi đã có ba vạn tên kẻ cướp. Người ta viết trong các bài vè rằng tôi làm đổ máu nhiều, rằng tự tay tôi tra khảo phạm nhân.
Miệng vua Piotr méo xệch đi, má giật xếch lên, cặp mắt lồi mờ đi trong chốc lát dường như trước mắt nhà vua không phải là một bàn ăn dọn đầy thức ăn ngon của lạ mà là căn nhà gỗ lụp xụp không có cửa sổ, tanh hôi mùi máu ở xloboda Preobrazenskoe. Nhà vua lắc mạnh vai để xua đuổi hình ảnh đó. Hai người đàn bà tò mò và sợ hãi quan sát những đổi thay trên vẻ mặt vua Piotr.
- Thế nhưng xin các quý phu nhân đừng tin những chuyện đó. Điều mà tôi yêu thích hơn hết là đóng tàu. Chiếc thuyền chèo bằng tay Prinxipium từ cột buồm cho đến cốt thuyền đều do bàn tay tôi làm nên (lúc ấy nhà vua mới xòe bàn tay ra cho xem lòng bàn tay đầy chai sạn). Tôi yêu thích biển và tôi mê pháo hoa. Tôi đã học được mười bốn nghề nhưng chưa thành thạo. Chính vì vậy mà tôi đã tìm đến đây... Còn những kẻ nói rằng tôi tàn ác, thích đổ máu, chúng nói láo cả. Tôi không phải là người ác. Nhưng cứ sống mãi với người nước tôi, ở Moskva, người ta có thể phát điên phát rồ lên được. Ở nước Nga, phải phá vỡ tất cả, xây dựng lại tất cả. Mà dân nước tôi thì bướng bỉnh hết sức! Có kẻ thà chịu roi quất nát da nát thịt. - Nhà vua ngừng bặt giữa câu, - nhìn vào ở nước các phu nhân thật là một lạc thú - Còn như tôi đây, thưa lệnh bà, - vua Piotr nắm lấy cánh tay nữ Tuyển hầu Sofia. - trước hết, bản thân tôi phải học lấy nghề thợ mộc đã.
Các nữ Tuyển hầu vô cùng thích thú. Họ tha thứ cho nhà vua về móng tay cáu bẩn, và thói quen chùi tay vào khăn bàn, ăn uống ồn ào, dùng những tiếng của thủy thủ để nói về phong tục Moskva, thói quen nháy cặp mắt tròn xoe và để tăng thêm ý nghĩa câu nói của mình, nhà vua đã nhiều lần còn lấy khuỷu tay huých Sofia-Saclot. Tất thảy, kể cả tính tàn bạo họ cảm thấy có trong con người vua Piotr và sự ngây thơ không hiểu biết tí gì về một vài biểu hiện của lòng người, khiến họ vừa sợ hãi lại vừa thích thú. Vua Piotr như một con dã thú của núi rừng, tỏa ra một vẻ tươi tắn nguyên thủy.
(Về sau nữ Tuyển hầu Sofia viết trong nhật ký của mình:
“Người này có lẽ rất tốt mà cũng rất ác. Về phương diện tinh thần, ông ta là người đại diện chân chính của nước ông”).
Uống rượu nho bọt và ngồi gần những phụ nữ rất mực thông minh hồn hậu ấy, vua Piotr trở nên vui vẻ. Sofia-Saclot muốn giới thiệu cậu em trai của mình cùng các triều thần.
Vua Piotr lục trong túi lấy cái tẩu và đồng ý, cái miệng nhỏ nhắn nở một nụ cười kỳ dị:
- Được, xin cứ giới thiệu đi...
Bắt đầu là quận công Zenski, một lão già khô đét có bộ râu cằm bạc trắng xén tỉa theo kiểu Tây Ban Nha mà thời nay không ai còn theo nữa, và bộ ria mép xoăn của gã đàn ông trai lơ và hay đấu kiếm; gã Kronprinz - một thanh niên ẻo lả có bộ mặt gầy dài ngoằng, mặc toàn nhung đen; các phu nhân và vương tôn công tử ăn bận lộng lẫy và sặc sỡ; rồi đến anh chàng Alexaska điển trai với đôi vai nở nang, có các bà các cô xúm xít vây xung quanh - hắn thì ở đâu cũng ung dung tự nhiên - và các sứ thần Lơfo và lão Golovin béo phệ, tổng trấn Siberi.
(Đến Kopenburg, họ đã đuổi kịp cỗ xe có đệm để ngủ của Sa hoàng; khi biết nhà vua đang ở đâu họ sợ toát mồ hôi, không kịp ăn uống, thay quần áo, hối hả chạy ngay đến lâu đài).
Vua Piotr ôm hôn quận công, xốc nách nâng vị vua tương lai của nước Anh lên mà hôn vào má, rồi khuỳnh tròn cánh tay lại, niềm nở chào các triều thần. Các phu nhân đều nhất loạt cúi lạy, các vương tôn công tử nhón chân nhảy chào, lia mũ quét sàn nhà. Sa hoàng nói tiếng Nga bảo Melsikov:
- Alexaska, đóng cửa thật chặt lại.
Nhà vua rót đầy rượu vào một cái cốc đựng chừng một phần tư lít, hất đầu gọi vị công tử đứng gần nhất rồi vẫn mỉm cười một cách kỳ dị, cất tiếng nói:
- Theo tục lệ Nga, không ai có thể từ chối một cốc rượu Sa hoàng mời. Tất cả mọi người, các quý phu nhân, các công tử đều phải uống một cốc đầy.
Nói tóm lại đây là một cuộc hoan lạc như ở Kukui. Các ca sĩ người Ý xuất hiện đem theo đàn măngđôlin. Vua Piotr muốn khiêu vũ. Nhưng cách đánh đàn của các nhạc công Ý mềm yếu quá, chậm rãi quá. Đám nhạc công thổi địch, thổi kèn của Preobrazenskoe đến, toàn bận áo màu đỏ tươi, tóc xén tròn quanh đầu; họ đứng xếp hàng, người cứng đơ dọc theo tường và cử một bản nhạc náo nhiệt bằng thìa, đĩa sừng bò, còi gỗ, sáo đồng... Vòm nhà trung cổ nầy chưa từng vang dội một thứ âm nhạc như vậy bao giờ. Vua Piotr dậm gót chân, mắt trợn tròn.
- Alexaska, nhảy đi!
Melsikov lắc lư đôi vai, nhíu lông mày, tạo một vẻ mặt lạnh lùng, nhảy một điệu dồn dập.
Sofia muốn xem vua Piotr nhảy thế nào. Sa hoàng nhẹ nhàng nhón đầu ngón tay đỡ vị nữ Tuyển hầu và dẫn bà ta lướt đi như một con thiên nga. Rồi sau khi đã mời bà ngồi xuống, nhà vua chọn một cô gái trẻ, mũm mĩm và đập hai chân vào với nhau mà nhảy múa. Lơfo tự đứng ra điều khiển các điệu nhảy. Sofia Saclot chọn Golovin béo phệ. Các dũng sĩ tùy tùng của Sa hoàng ở ngoài vườn vào, cũng ngồi xổm xuống vừa tung chân đá ra tứ phía vừa la hét dữ tợn như dân Tarta. Các bộ xiêm quay tròn, các bộ tóc giả rối bù. Các phu nhân người Đức được một mẻ vã mồ hôi. Đám người Nga ngạc nhiên: tại sao xương sườn các phu nhân lại cứng rắn như vậy.
Vua Piotr bèn hỏi Sofia-Saclot. Thoạt đầu vị nữ Tuyển hầu không hiểu; rồi nàng cười đến chảy cả nước mắt:
- Đấy không phải là xương sườn của chúng tôi đâu mà là dây lò xo và gọng khung áo nịt của chúng tôi đấy.
Đến Kopenburg mọi người chia tay nhau. Các sứ thần đi một đường vòng rộng để đến Amsterdam. Vua Piotr và một số ít tùy tùng thì đi thẳng về phía sông Ranh; đến cách Xanten một chút họ xuống thuyền và xuôi theo dòng sông.
Quá Senkenzsanx là bắt đầu nước Hà Lan mà họ hằng ao ước. Đoàn thuyền đi vào nhánh sông bên phải của sông Ranh và đến ngang làng Fo, nó đi qua các cửa ngăn nước vào sông đào.
Hai con ngựa màu nâu hồng, mông to, cổ cao, đầu lắc lư một cách nghiêm trang, kéo chiếc sà lan đáy bằng; chúng đi dọc theo một con đường cát mòn, trên bờ sông cỏ mọc xanh um. Con sông đào vạch dài một đường thẳng đứng tắp giữa vùng đồng bằng trông giống như tấm bản đồ, với những khu vườn trồng rau, những cánh đồng cỏ, những luống hoa và màng lưới kênh đào mương máng.
Ngày hôm đó, trời nóng, phảng phất sương mù, hoa thập tự, hoa dạ hương lan, hoa thuỷ tiên đã qua mùa. Người ta cắt và xếp vào làn những những bông hoa còn sót lại đây đó trên những luống đất đen sì. Những hoa uất kim cương - màu hoa cà, đen hay đỏ như lửa, nhiều màu sặc sỡ hay màu vàng ối phủ kín mặt đất như một tấm thảm mượt. Khắp nơi chỗ nào cũng trông thấy những cối xay, cánh quạt uể oải quay theo gió, những vườn có tường vây quanh, những trại ấp, những ngôi nhà nhỏ mái nghiêng lợp ngói với những tổ cò ở trên, những hàng liễu nhỏ ven các bờ kênh. Các thành phố, nhà thờ, tháp in bóng lên màn sương mù màu lam, rồi lại đến những cối xay, chỗ nào cũng thấy cối xay.
Một con đò chở đầy cỏ khô lướt trên kênh dọc các vườn rau. Sau mái một khu vườn có tường vây quanh, một cánh buồm nhô lên, lướt nhẹ giữa đám hoa uất kim cương...
Trước một cửa cống xanh rì những rêu, vài người Hà Lan mặc quần ống rộng thùng thình, áo chẽn và đi guốc gỗ (các con đò chở đầy rau xanh của họ đậu trên con kênh chạy tít tắp đến tận chân trời, nơi mặt trời đang chiếu sáng trong sương mù) ung dung hút tẩu thuốc đợi mở cửa kênh. Đôi lúc chiếc xà lan dập dềnh cao hơn cả cánh đồng và nhà cửa. Có thể trông thấy ở bên dưới, quả lúc lỉu trên các cây trồng dựa vào giàn, dọc theo những bức tường gạch, quần áo phơi trên dây, những con công dạo chơi trên một cái sân rải cát sạch sẽ. Nhìn những con chim đó, các du khách người Nga ngạc nhiên mãi. Xứ sở này người ta dành chiếm được của biển cả nhờ công sức lao động kỳ diệu, đối với họ như là một giấc mơ thực. Ở đây, người ta quý trọng, chăm sóc từng tấc đất... Đâu có như ở nước Nga, trong thảo nguyên hoang dã!
Vua Piotr ngồi ở mũi sà lan, rít từng hơi thuốc qua cái tẩu bằng đất nung nói với các dũng sĩ tùy tùng:
- Bên chúng ta, ở Moskva, có nhiều nhà có sân rộng hơn. Nhưng động đến cái chổi, quét cái sân, trồng một vườn hoa đẹp mắt và có ích thì chẳng ai nghĩ tới. Ngay cả khi nhà mình có sắp sập đến nơi, các ngươi cũng chẳng buồn bước chân xuống khỏi lò để chống giữ nữa, ta biết các ngươi lắm, đồ quỷ thọt ạ! Các ngươi lười chảy thây ra đến nỗi các ngươi cũng không buồn ỉa đái vào chỗ thích hợp mà bĩnh ngay ra trước cửa ngõ nhà mình. Vì sao lại như vậy? Chúng ta có những vùng đất dai rộng mênh mông mà chúng ta vẫn nghèo xơ xác. Điều đó làm ta rất buồn phiền. Các ngươi xem, ở đây dân người ta đã lôi đất đai ra khỏi đáy biển, họ đã phải đem đến từng gốc cây một mà trồng. Và họ đã sáng tạo ra một thiên đàng thật sự.
Chiếc xà lan đi qua các cửa cống của con kênh lớn, rẽ vào các kênh nhỏ. Người ta đẩy thuyền bằng sào và luôn luôn gặp những chiếc thuyền chở nặng hàng hóa. Về phía Đông, chạy dài một dải màu xám đục nhờ nhờ, đó là biển Zuyderze, biển của Hà Lan. Những cánh buồm hiện ra mỗi lúc một nhiều trên mặt biển.
Càng đi càng thấy dân cư đông đúc. Chập tối thì tới gần Amsterdam. Thuyền bè, một đám đông thuyền bè trên mặt biển phẳng lì như cánh đồng đang nhuốm ánh hồng. Buồm, cột buồm đỏ rực lên trong ánh chiếu tà, những mái nhà thờ nhọn hoắt và các tòa nhà lớn. Từng đám mây đỏ ối dựng sừng sững như những quả núi bên kia mặt biển; nhưng đêm tối đổ xuống nhanh và mây chuyển sang màu xám tro. Đèn lửa sáng lên trên cánh đồng và lướt trên các kênh.
Du khách của chúng ta dừng chân để ăn tối trong một quán trọ trên bờ kênh có ánh sáng niềm nở đón mời. Họ uống rượu gin (4) và rượu ale (5) của Anh. Từ nơi đó, vua Piotr phái tất cả các công tử tùy tùng cùng với những người thông ngôn và hành lý đi Amsterdam, bản thân nhà vua cùng Melsikov, Aliosa Brovkin và giáo sĩ Bitka lên một chiếc xuồng và tiếp tục cuộc hành trình. Tránh không vào thủ đô, Sa hoàng đến thẳng Zaandam.
Nhà vua nóng lòng được thấy nơi mình đem lòng yêu mến từ thuở thơ ấu. Người bạn già của vua Piotr, lão thợ rèn Gerit Kixt đã kể chuyện cho nhà vua nghe về nơi này (khi đóng những thuyền du hý trên hồ Pereiaslav). Kixt sau khi kiếm được một món tiền kha khá đã trở về quê hương. Nhưng có nhiều thợ rèn và thợ mộc đóng tàu đã từ Zaandam sang thêm (đến Arkhagensk rồi Voronez). Họ nói:
- Tâu hoàng thượng Piotr Alekseevich, tàu đóng ở đó vừa nhẹ, chạy nhanh lại vừa chắc chắn, tóm lại, đó là những tàu tốt nhất tất cả.
Cách Amsterdam khoảng muời cây số về phía Bắc, tại các làng Zaandam, Kooc, Oxzaan, Zaandijic ít ra cũng có đến năm mươi xưởng đóng tàu. Ở những nơi đó người ta làm việc đêm ngày, khẩn trương đến nỗi chỉ năm sáu tuần lễ là đóng xong xuôi một chiếc tàu. Chung quanh có khá nhiều công xưởng và nhà máy chạy bằng cối xay gió, sản xuất tất cả mọi thứ cần thiết cho các xưởng đóng tàu: các bộ phận đã tiện sẵn, đinh, móc sắt, dây thừng, buồm và đồ dùng. Các xưởng tư nhân đó đóng tàu nhỏ, tàu buôn lớn đi đến các xứ thuộc địa thì đóng ở Amsterdam tại hai công trường của Bộ tư lệnh hải quân.
Ngồi trên xuồng đi trong cái vịnh hẹp và sâu, du khách của chúng ta có thể nhìn thấy ánh lửa suốt đêm trên bờ; họ nghe thấy tiếng rìu bổ, các xà gỗ rít ken két, tiếng sắt kêu loảng xoảng. Nhờ ánh lửa một đống củi họ nhìn thấy các gọng sườn tàu, phần lái của một chiếc tàu đang đóng dở, bóng dáng một cỗ máy bằng gỗ dùng ròng rọc nhấc lên từng chồng ván, từng đống xà gồ nặng. Những con đò có treo đèn lồng nhỏ vun vút người xuôi ngược, những giọng nói khàn khàn vang lên, không khí phảng phất mùi vỏ bào gỗ thông, mùi hắc ín, mùi hơi ẩm của con sông... Bốn người Hà Lan lực lưỡng vừa chèo, mái chèo kêu cót két, vừa hút những tẩu thuốc dài uốn cong trễ xuống.
Khoảng nửa đêm, du khách lên một quán trọ nghỉ ngơi. Người ta thay tay chèo. Buổi sáng, trời xám xịt và ẩm ướt. Nhà cửa, cối xay gió, xà lan, những lán gỗ dài, tất cả mọi thứ ban đêm có vẻ đồ sộ là vậy, sáng ra thấp bè hẳn lại, trên đôi bờ phủ một lớp sương mù màu lam nhạt. Những hàng liễu cúi mình xuống dòng nước mù mịt sương. Làng Zaandam được ca tụng hết lời đâu nhỉ?
- Làng Zaandam ấy à? Kia kìa, - một người chèo thuyền vừa nói vừa bắt đầu trỏ những ngôi nhà nho nhỏ bằng gỗ và bằng gạch đen sạm, mái dốc và mặt nhà phẳng lì. Con đò lướt trên nước kênh ngầu bùn như trên đường phố.
Làng Zaandam đang tỉnh giấc, đây đó lửa đã nhóm trong bếp lò. Phụ nữ đang lau rửa khung cửa sổ có lắp những miếng kính nhỏ lấp loáng ánh ngũ sắc vì lâu đời, đánh bóng các nắm đấm và móc đồng của những cánh cửa cong oằn. Một con gà trống gáy te te trên nóc một gian nhà kho đầy cỏ mọc.
Trời bắt đầu sáng rõ, nước bốc hơi trên kênh, nhiều sợi dây phơi quần áo chăng ngang qua kênh: những cái quần rộng thùng thình, áo lót bằng vải thô, tất len kéo dài. Khi đi thuyền qua bên dưới phải cúi đầu xuống. Con đò rẽ vào một cái ngòi ngang và đi qua những dãy cột mục nát, chuồng gà, những mái lều có nhà xí tựa lưng vào, trước những cây liễu thân rỗng. Con ngòi chảy vào một cái vũng nhỏ; ở giữa vũng, trên một con đò một người đàn ông đội mũ vải, đầu rụt vào giữa hai vai đang câu lươn. Vua Piotr chăm chú nhìn người đó rồi vùng đứng dậy kêu to:
- Gerit Kixt, bác thợ rèn, bác đấy à?
Người đàn ông nhắc cần câu lên rồi sau đó mới nhìn lên. Vốn là người trầm tĩnh lạ lùng song rõ ràng lão cũng phải ngạc nhiên: đứng trên con đò đang đi đến là một chàng thanh niên ăn mặc như thợ Hà Lan: mũ vải dầu, áo khoác đỏ và quần chèn ống bằng vải thô.
Nhưng lão không hề hay biết có một khuôn mặt nào khác giống như khuôn mặt này: một khuôn mặt độc đoán, cởi mở và đôi mắt điên dại. Gerit Kixt hoảng sợ: vị Sa hoàng xứ Moskovi đã hiện ra trên kênh, trên một con đò tầm thường vào buổi sáng mù sương này.
Gerit Kixt chớp lia lịa cặp lông mi đỏ hoe: đích thị là Sa hoàng rồi. Lão bèn gọi:
- Ô hê, hoàng thượng Pite đấy à?
- Chào bác!
- Xin chào hoàng thượng Pite!
Những ngón tay thô cứng của Gerit Kixt thận trọng nắm lấy bàn tay vua Piotr. Lão nhìn thấy Alexaska:
- Ơ này, ngài đấy à? Thần cũng đương tự nhủ: ai như họ đấy mà... Các ngài sang Hà Lan thật là hay lắm!
- Sang đây cả mùa rét kia, bác Kixt ạ. Bọn ta sẽ làm thợ mộc tại các công trường đóng tàu. Ngay hôm nay ta sẽ đi mua dụng cụ.
- Có thể mua dụng cụ tốt mà không đắt, ở nhà mụ góa Yakov Ohm. Thần sẽ nói với mụ ta một tiếng.
- Ngay hồi còn ở Moskva, ta cũng nghĩ là sẽ đến ở nhà bác đấy.
- Nhà thần chật chội quá, hoàng thượng Pite ạ! Thần nghèo, cái nhà kho của thần nát lắm.
- Nhưng chắc chắn là ở công trường, họ cũng sẽ không trả tiền công cho ta nhiều đâu.
- Thần thấy hoàng thượng vẫn hay đùa giỡn như xưa.
- Không, giờ không phải lúc đùa cợt nữa. Trong hai năm bọn ta phải đóng cả một hạm đội và từ những người ngu xuẩn, chúng ta phải trở thành những người thông minh! Để cho trong nước ta không còn có những người nghèo xác xơ nữa.
- Pite, hoàng thượng dự định làm một việc tốt đấy!
Con đò cập bờ cỏ mọc tốt tươi, ở đó có một ngôi nhà gỗ nhỏ có hai cửa sổ, mái nhà bằng ngói đã sụt. Từ ống khói cao một làn khói nhỏ bay lên qua cành một cây phong cổ thụ. Dưới đất, trước cánh cửa vênh bên trên mày cửa có đục một khung cửa sổ lắp chấn song, là một tấm rơm bện sạch sẽ để đặt guốc vì ở Hà Lan người ta chỉ đi tất vào nhà. Một bà cụ già gầy gò đứng ở ngưỡng cửa, hai bàn tay thu trong cái tạp dề sạch sẽ, nhìn khách mới đến. Khi Gerit Kixt vừa vứt mái chèo xuống cỏ vừa gọi to bà ta: “Ô-hê, khách của nhà ta đấy, họ từ Moskva đến”, - thì bà cụ nghiêm trang cúi cái mũ hồ cứng xuống mà chào.
Ngôi nhà rất vừa ý vua Piotr: nhà vua ở gian buồng có hai cửa sổ, một gian nhà nhỏ tối tăm có một ổ rơm để nằm (cho nhà vua và Alexaska) và chọn cái kho để lúa dưới mái (cho Alioska và Bitka); từ gian buồng leo lên đó bằng thang. Ngay hôm ấy Sa hoàng mua của mụ góa Yakov Ohm những dụng cụ tốt. Khi đẩy xe cút kít đựng đồ lề về nhà, vua Piotr gặp bác thợ mộc Renxen, một người đã làm việc ở Voronez một mùa đông.
Lão Renxen béo phệ và hiền lành đứng sững lại, há hốc miệng ra rồi bỗng dưng tái mét mặt đi: lão hồi tưởng lại một cảnh tượng khủng khiếp và tim lão đau nhói... Một hình ảnh sống lại trong ký ức lão: tuyết rơi, một ánh lửa cháy bập bùng và xác những người thợ Nga đung đưa theo chiều gió.
- Chào bác Renxen, - vua Piotr đặt xe xuống, lấy tay áo quệt mồ hôi trên mặt rồi chìa tay ra bắt - thế nào, ừ, ta đây mà. Bác khỏe mạnh chứ? Bác trốn khỏi Voronez là sai đấy. Bắt đầu từ thứ hai ta sẽ làm việc ở công trường Lynx Roge. Hãy giữ mồm giữ miệng đấy nghe không! Ở đây, ta là Piotr Mikhailov.
Và ánh lửa cháy bập bùng ở Voronez lại lóe lên trong đôi mắt lồi của nhà vua đang nhìn chằm chặp.
-------------
Chú thích:
(1) Triết gia Đức nổi tiếng kiêm nhà toán học vật lý học, sử học và nhà ngoại giao (Chú thích của tác giả).
(2) Tiếng chào buổi tối (tiếng Đức).
(3) Tôi không biết nói (tiếng Đức).
(4) Rượu mạnh cất bằng lúa mì, lúa mạch.
(5) Một thứ bia.

Chương 93


Myn Herr Koning. Các thủy thủ được phái đi học theo lệnh của hoàng thượng đã có công việc đâu vào đấy cả rồi. Ivan Golovin, Pletseev, Krapotkin, Vaxili Volkov, Veretsaghin Alekxandr Melsikov, Aleksey Brovkin, cả giáo sĩ Bitka say bí tỉ suốt ngày - hiện đang cùng ở với thần, đã được xếp đặt công việc, người ở Zaadam, kẻ ở các công trường của công ty Đông Ấn để học nghề đóng tàu... Alekxandr Kilin, Xtepan Vaxiliep sẽ học làm cột buồm: anh thợ sơn Iakim và viên trợ tế Krivoxykhin học đóng các cối xay nước đủ các kiểu; Borisov, Uvarov học đóng xuồng; Lukhin và Kobylin học cách làm ròng rọc; Kosin, Xkvortxov, Mukhanov và Xiniavin đã xuống tàu làm thủy thủ và họ đã đi nhiều nơi khác nhau; Artsilov đã đến La Hay học nghề pháo thủ. Các dapife được phái đến đây trước chúng thần, sau khi học được cách dùng la bàn, muốn trở về Moskva, họ tưởng thế là xong rồi. Nhưng chúng thần đã làm cho họ thay đổi ý kiến. Chúng thần đã ra lệnh cho họ phải làm thợ phụ tại công trường dóng tàu ở Oxtzaan - để họ học thêm cho mửa mật ra. Ngài Yakov Brux đến đây đã đưa cho chúng thần bức thư của hoàng thượng. Ông ta đã vạch cho chúng thần xem các thương tích còn mới, ông ta phàn nàn là đã bị thương ở nhà hoàng thượng trong một bữa tiệc. “Đồ súc vật hung bạo, liệu mi còn hành hạ mọi người mãi hay thôi, hử? Có những người bị đánh què từ chỗ mi đến đây. Đừng có đi lại thân thiết với tên Ivaska Khmenitski nữa. Vì hắn mi sẽ có ngày vỡ mặt đấy. Pite”.

“Trong bức thư viết cho hạ thần, chúa thượng có nói là hạ thần chơi thân với Ivaska Khmenitski. Điều đó tâu chúa thượng là sai... Tên Yakov đã say bí tỉ đi thẳng từ Moskva đến chỗ chúa thượng và ăn nói trong một tình trạng mê sảng. Hạ thần không có thì giờ đâu mà lại đi chơi bời với tên Ivaska - toàn là những lời chửi rủa, những chuyện cãi lộn, chúng thần đang chìm trong bể máu đây. Chính chúa thượng mới là người chơi bời thân thiết với Ivaska Khmenitski những lúc rỗi rãi. Còn chúng thần thì không có thì giờ. Như hạ thần đã viết trình chúa thượng, tám tên cướp cùng một bọn mà hạ thần đã tâu với chúa thượng đã bị bắt. Chúng là những thương nhân thị trấn, những tên hàng thịt, đánh xe bò và gia nhân các nhà quý tộc - Petruska Xelezen, Mitka Pitsuga, Popugai, Kuxka Zaika và con trai một gia đình quý tộc Miska Tyktov... sào huyệt nơi chúng cất giấu của ăn cướp được ở phía bên kia cửa ô Tverskoe. Còn tên Brux hay những tên khác có đến than phiền về hạ thần thì chẳng qua là chúng nói năng trong lúc say đấy thôi.
Hạ thần xin cúi rạp đầu sát đất cúi lạy chúa thượng, Fetka Romodanovski”.

Myn Herr Koning. Thần đã nhận được thư của hoàng thượng nói về tên ngoại quốc Thomax Fadenbras, hoàng thượng có hỏi thần trong tương lai ta sẽ bắt hắn phải buôn bán thuốc lá như thế nào. Có một sắc chỉ đã được ban bố về vấn đề này vào mùa đông vừa qua, nói rõ rằng trong năm thứ nhất hắn sẽ hoàn toàn hưởng lời lãi về buôn bán thuốc lá, đến năm thứ hai hắn vẫn hưởng lời lãi nhưng phải nộp thuế; đến năm thứ ba sẽ tổ chức đấu thầu: người nào trả nhiều tiền nhất sẽ được quyền buôn bán thuốc lá. Thần rất đỗi ngạc nhiên: Các triều thần của hoàng thượng không thể tự giải quyết được việc ấy hay sao? Việc ấy nào có rắc rối gì đâu! Chúng thần đã đặt mua 15.000 khẩu súng trường và còn đặt mua thêm 10.000 khẩu nữa vào công việc của hoàng thượng. Chúng thần cũng đặt mua cho công vụ tám khẩu đại bác ngắn nòng và mười bốn khẩu súng trái phá. Thần đã nói nhiều về thợ rèn lành nghề nhưng chưa tìm được ai cả. Thợ giỏi thì không muốn bỏ công việc của họ, còn thợ vụng thì ta chẳng cần đến... Thần cúi xin hoàng thượng chuyển lời chào ngài đại tướng, vị chủ tướng của thần, cúi rạp đầu xin ngài đừng bỏ mặc ngôi nhà nhỏ của thần... (Phần tiếp theo viết bằng mực bí mật). Dưới đây là tin tức: vua Pháp đang trang bị một hạm đội lớn ở Brext, nhưng để đi đâu thì chưa ai rõ. Hôm qua, từ Viên người ta cho biết là vua Tây Ban Nha đã tạ thế. Và chuyện gì sẽ xảy ra sau khi ông ta mất thì chính ngươi cùng biết đấy(1)! Ngươi có nói với ta về các trận mưa lớn hiện nay ở trong nước. Ta lấy làm lạ thấy nói rằng trong các cung điện ở Moskva có nhiều bùn đến thế. Còn ở đây sống thấp hơn mặt biển mà lại vẫn khô ráo. Pite.”

Theo lệnh của vua Piotr, Vaxili Volkov ghi nhật ký; trong đó hắn viết như sau:

“Ở Amsterdam, tôi đã thấy một đứa bé gái mới sinh được một năm rưỡi, mình mẩy đầy lông lá và to béo, mặt nó đo được một phần tư arsin chiều ngang; người ta đem nó đến hội chợ. Tôi cũng đã thấy một con voi chơi những bản nhạc nhảy nhịp ba thổi kèn đồng Thổ Nhĩ Kỳ, bắn súng và đùa giỡn thân mật với một con chó sống cùng với nó - tất cả những điều đó thật là kỳ lạ.
“Tôi đã thấy một cái đầu người tạc bằng gỗ mà biết nói! Người ta lên dây nó như đồng hồ và tất cả những điều người ta nói ra cái đầu đều nhắc lại. Tôi còn thấy hai con ngựa gỗ đặt trên một bánh xe. Cứ ngồi lên trên là sẽ đi rất nhanh, qua các phố xá, đến đâu cũng được. Tôi thấy một cái kính người ta dùng soi chảy được cả bạc và chì; trước mắt chúng tôi, người ta đốt một thanh gỗ ngâm dưới một lớp nước dày bốn ngón tay, - nước sôi lên sùng sục, thanh gỗ thì cháy.
“Tôi đã thấy ở nhà một bác sĩ một xác người đã được giải phẫu, tất cả lục phủ ngũ tạng được moi ra ngoài: tim, phổi, thận và tôi đã thấy những hạt sỏi thành hình như thế nào trong thận. Mạch máu nuôi buồng phổi giống như một cái giẻ rách. Các mạch máu trong óc trông như những sợi chỉ li ti... Tất cả những cái đó thật kỳ lạ hết sức
“Thành phố Amsterdam ở gần bờ biển, trong miền đất trũng; những con kênh chảy qua khắp các phố và rộng đến nỗi tàu biển có thể đi vào được; hai bên bờ kênh, phố xá rộng rãi, có nơi hai cỗ xe ngựa có thể đi song song. Hai bên bờ kênh có trồng cây to và ở giữa các cây có treo đèn lồng. Tất cả các đường phố đều có đèn lồng. Tối đến mỗi người dân có nhiệm vụ thắp cây đèn ở trước nhà mình. Trong các phố xá đó, người đi dạo chơi tấp nập.
“Các thương nhân ở đây có tiếng là giàu nhất châu Âu Họ ăn mặc khác hẳn mọi nơi. Sở hối đoái chứng khoán xây hoàn toàn bằng đá trắng, bên trong lát đá hoa trắng, trông rất kỳ lạ. Sàn nhà lát đá trông tựa một bàn cờ, mỗi thương nhân đứng vào ô của mình. Vì ở đây ngày nào cũng có những tay tai to mặt lớn đến, cho nên nơi công cộng này luôn luôn đông nghịt những người. Và tiếng ồn ào thật ầm ĩ. Những người Do Thái nghèo đi đi lại lại giữa đám thương nhân, họ đưa một mồi thuốc lá hít cho những ai cần dùng trong cơn bực tức, và họ sống bằng cách đó.”

Yakov Nomen, một người Hà Lan có tính tò mò viết trong nhật ký của mình:

“Sa hoàng không giấu nổi tên mình quá một tuần lễ, những người đã từng đến Moskovi đã nhận ra nhà vua. Tiếng đồn chẳng bao lâu lan ra khắp nước. Tại Sở hối đoái chứng khoán Amsterdam người ta đánh cuộc rất lớn: có phải thực là Sa hoàng không hay chỉ là một sứ thần của nhà vua thôi? Ông Hotman là người có buôn bán ở Moskovi và đã nhiều lần khoản đãi Sa hoàng ở Moskvi đã đến Zaandam để bái yết Sa hoàng, ông ta nói: “Muôn tâu thánh thượng, có phải bệ hạ đấy không?”. Sa hoàng trả lời khá nghiêm khắc: “Như ngươi thấy đấy thôi”.
Sau đó họ đã nói chuyện với nhau rất lâu về những nỗi khó khăn của con đường phương Bắc đi Moskovi và thuận lợi của các hải cảng trên bờ biển Bantic. Hotman không dám nhìn thẳng vào mặt Sa hoàng vì biết rằng điều đó có thể mếch lòng nhà vua: nhà vua không chịu đựng được người khác nhìn thẳng vào mắt mình.
Đây là một ví dụ. Một hôm ở ngoài phố, một tên Anderxton Bloc nào đó cũng nhìn chòng chọc vào mặt Sa hoàng một cách khá hỗn xược, tóm lại như thể trước mặt hắn là một cái gì rất ngộ nghĩnh và kỳ lạ. Sa hoàng bèn tát bốp vào mặt hắn: Anderton Bloc đau điếng người và xấu hổ bỏ chạy trong lúc khách qua đường chế giễu hắn: “Hoan hô Anderxton Bloc, thế là ngươi đã được tấn phong hiệp sĩ rồi đấy”.
Một thương nhân khác muốn được trông thấy Sa hoàng làm việc bèn yêu cầu một người thợ cả của công trường thỏa mãn sự tò mò của hắn. Người thợ cả dặn hắn là hễ ông ta bảo với người nào: “Pite, anh thợ mộc làng Zaadam, hãy làm cái này, cái nọ” thì người đó chính là ông vua của dân xứ Moskovi. Người thương nhân tò mò vào công trường và thấy một số thợ đang khiêng một khúc gỗ nặng. Người thợ cả bèn gọi: “Pite, anh thợ mộc làng Zaadam, tại sao anh không giúp họ một tay?”. Tức thì một anh chàng thợ mộc cao đến gần bảy bộ(2), quần áo nhem nhuốc hắc ín, tóc loăn xoăn dính bết vào trán, bèn cắm chiếc rìu vào khúc gỗ đang đẽo rồi vâng lời chạy lại; anh ta ghé vai vào thanh xà và cùng khiêng với mọi người khiến người thương nhân rất ngạc nhiên.
Sau giờ làm việc, Sa hoàng hay lui tới một quán rượu tồi tàn ở bến cảng, ngồi trước một cốc bia; hút tẩu và vui vẻ chuyện trò với những hạng người bình thường nhất, nhà vua cười khi họ pha trò và những khi ấy không hề mảy may để ý đến cương vị của mình, đến sự kính trọng của mọi người đối với mình.
Nhà vua thường hay đến thăm vợ con của đám thợ thuyền hiện đang làm việc tại Moskovi cùng họ uống rượu đỗ tùng, vỗ vai họ, đùa cợt với họ.
Trường hợp sau đây chứng thực một vài tính nết kỳ lạ của nhà vua. Sa hoàng mua mận bỏ vào mũ ôm ở cánh tay rồi vừa ăn mận vừa đi men theo con đê dẫn đến Zuidijic. Một đám trẻ con đi theo sau. Nhà vua thấy thích một vài đứa bé bèn nói với chúng: “Các chú bé, các chú có muốn ăn mận không?”. Rồi nhà vua cho chúng mấy quả. Tức thì mấy đứa trẻ khác kéo đến và nói: “Cho chúng cháu mận với, hay cái gì khác cũng được”. Nhưng nhà vua nhăn mặt, nhổ một hột mận vào chúng và vui thích trước vẻ thất vọng của chúng. Vài đứa bé nổi giận đến nỗi chúng ném táo, lê thối, cỏ và đủ mọi thứ rác rưởi vào người nhà vua. Nhà vua vừa bỏ đi vừa cười. Một thằng bé ném một hòn đá trúng lưng nhà vua rất đau. Sa hoàng mất bình tĩnh. Cuối cùng đến gần cống nước, một cục đất ném trúng đầu nhà vua. Nhà vua bực tức hét tướng lên: “Thế này nghĩa là thế nào? Ở đây không có xã trưởng để giữ trật tự nữa à?”. Nhưng bọn trẻ cũng chẳng sợ hãi gì.
Những ngày lễ nhà vua đi thuyền buồm - mua lại của anh thợ quét vôi Hacmenxen với giá bốn mươi florin(3) và một cốc bia - dong chơi trên vịnh. Một hôm nhà vua đang dạo chơi trên vịnh Kerkrak, một tàu chở khách lại gần thuyền nhà vua; nhiều hành khách tò mò muốn nhìn thấy rõ Sa hoàng đã túm tụm cả lại trên boong. Con tàu lại gần sát chiếc thuyền, và để đuổi bọn người quấy rối kia, Sa hoàng đã vớ hai cái vỏ chai ném vào hành khách. May không trúng ai.
Nhà vua rất ham hiểu biết. Bất cứ việc gì nhà vua cũng hỏi: “Cái này là cái gì?”. Và khi người ta đã trả lời nhà vua lại nói: “Tôi muốn xem cái đó”. Nhà vua xem xét, hỏi han cho kỳ hiểu mới thôi. Ở Utrest, nơi nhà vua và một số người tùy tùng đến để hội kiến với vua Anh là Guiom xứ Orange, Stathouder (4) của nước Hà Lan, người ta phải đưa Sa hoàng đi xem các cô nhi viện, nhà thương, đủ các loại nhà máy, công xưởng. Sa Hoàng đặc biệt thích thú phòng giải phẫu của giáo sư Ruse. Nhà vua thích thú khi xem thi hài một đứa trẻ được ướp rất khéo, đang mỉm cười trông như sống thật đến nỗi nhà vua đã hôn cái xác. Khi giáo sư Ruse kéo tấm khăn phủ một cái xác khác đã được chuẩn bị để nghiên cứu về giải phẫu, Sa hoàng nhận thấy vẻ kinh tởm trên nét mặt đám tùy tùng Nga của nhà vua. Nhà vua đã giận mắng họ và ra lệnh cho họ phải lấy răng mà cắn xé thịt cái xác.
Những điều nói trên, tôi đã ghi lại theo lời chứng thực của nhiều người. Nhưng hôm qua tôi đã được chính mắt trông thấy Sa hoàng. Nhà vua vừa ra khỏi cửa hàng của mụ góa Yakov Ohm. Nhà vua đi rất nhanh, cánh tay vung vẩy, mỗi tay cầm một cái rìu mới. Nhà vua cao lớn, thân hình cân đối khỏe mạnh, nhanh nhẹn và khéo léo, khuôn mặt tròn, lộ vẻ nghiêm nghị, đôi lông mày màu nâu, tóc ngắn và quăn, màu sẫm. Nhà vua mặc áo nẹp bằng nỉ, áo sơ mi đỏ và đội mũ dạ. Hàng trăm người đứng tụm lại ở ngoài phố cũng trông thấy nhà vua, cả vợ và con gái tôi cũng trông thấy...”.

Myn Herr Koning... Hôm qua các sứ thần của Hoàng đế Áo đã từ Viên cử một vị quý tộc đến nơi ở của các sứ thần ta loan tin rằng Chúa đã ban cho quân đội của đức hoàng đế Leopol một thắng lợi đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ đến nỗi chúng không chống cự nổi trong ba dãy chiến hào. Chúng đã bị đánh bật ra và bại trận; phải vượt cầu bỏ chạy nhưng quân đội của Hoàng đế Áo nã trọng pháo vào chúng. Quân Thổ Nhĩ Kỳ bèn nhảy xuống sông, binh lính của Hoàng đế đã dùng gươm chém xả vào chúng; họ đã đánh bại hoàn toàn quân Thổ Nhĩ Kỳ và chiếm được các xe quân dụng. Trong trận đó quân Thổ Nhĩ Kỳ chết 12.000 người kể cả tên tổng lý đại thần Thổ Nhĩ Kỳ và người ta bảo là có lẽ cả quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ cũng thiệt mạng.
Vị tổng tư lệnh quân đội của hoàng đế là Ogien, em quận công xứ Xavoa, một thanh niên 27 tuổi theo như mọi người nói, và đây là trận đánh đầu tiên của ông ta.
Khi báo tin chiến thắng này cho hoàng thượng và có lời chúc mừng hoàng thượng, thần cúi xin hoàng thượng hãy tổ chức hội hè ăn mừng lớn có bắn đại bác và súng hoả mai.
Viết tại Amsterdam ngày thứ 13 của tháng chín. Pite”.
-------------
Chú thích:
(1) Cuộc chiến tranh dành ngôi báu Tây Ban Nha (chú thích của tác giả).
(2) Đơn vị đo lường thời xưa mỗi bộ bằng 0,324 mét.
(3) Tiền Hà Lan.
(4) Tước vị của các vương hầu dòng họ Orange-Naxo, trị vì Hà Lan ở thế kỷ 16, 17, 18.

Chương 94

Qua tháng giêng, vua Piotr sang Anh và ở cách London ba dặm, tại một công trường của một thành phố nhỏ, Depfo, nơi đây nhà vua đã thấy được điều mình hoài công tìm kiếm ở Hà Lan: kỹ thuật đóng tàu theo mọi quy tắc khoa học hay các tỷ lệ hình học của tàu. Trong hai tháng rưỡi, nhà vua học toán và cách vẽ bản thiết kế tàu. Nhà vua thuê nhà bác học Andreax Fergarxon, giáo sư môn toán học, để thành lập một trường hàng hải ở Moskva và viên đại úy Jon Pery, một chuyên gia về xây cửa cống, để khơi con kênh giữa sông Volga và sông Đông. Nhà vua không mộ được thủy thủ Anh: họ đòi giá quá cao mà ngân quỹ của đoàn sứ thần thì đã gần cạn. Moskva liên tiếp gửi đến lông hắc diêu thử, gấm vóc và cả những báu vật lấy trong kho tàng riêng của Sa hoàng: lọ chóe, vòng xuyến, đồ sứ Trung Quốc. Nhưng tất cả những thứ đó vẫn không đủ để trang trải những đơn đặt hàng lớn và mộ nhân công.
Một người Anh tốt bụng, lord (1) Peregrin, hầu tước xứ Camacten đã giúp Sa hoàng thoát khỏi bước khó khăn: ông ta yêu cầu được độc quyền kinh doanh về thuốc lá ở Moskovi và được quyền xuất khẩu sang Moskovi ba nghìn thùng thứ cỏ đó, mỗi thùng nặng chừng năm trăm livrơ (2), ông tạm ứng trước hai mươi nghìn bảng Anh. Khi đó mới đủ tiền mộ viên thuyền trưởng Hà Lan trứ danh Corneliux Cruyx, một người cương nghị, ương bướng nhưng là một thuỷ thủ tài giỏi. Người ta định mức lương cho Cruyx là 9.000 florin hoặc 36.000 ecus (3), lại được một ngôi nhà ở Moskva, đồ ăn thức uống được cung cấp hoàn toàn, chức phó thủy sư đô đốc và quyền hưởng 3% trị giá của cải cướp được của quân địch. Trong trường hợp ông ta bị bắt làm tù binh thì phải được chuộc lại bằng tiền của Ngân khố.
Nhiều người ngoại quốc đến Moskva bằng đường Arkhangensk và Novgorod: thuyền trưởng, hoa tiêu, thủy thủ trưởng, thầy thuốc, thủy thủ, đầu bếp, thợ đóng tàu, thợ chế tạo vũ khí. Chiểu theo một sắc chỉ của Sa hoàng, họ được sắp xếp ở nhà các vị quý tộc và thương gia. Ở Moskva, người ta bắt đầu cảm thấy chật chội. Các triều thần không còn biết dùng đám người ngoại quốc ấy vào việc gì nữa.
Từng đoàn xe tải chở đến nào vũ khí, nào vải buồm, đủ các thứ dụng cụ để chế biến gỗ, sắt, những bộ gọng, bìa cứng để làm túi thuốc súng nạp đạn đại bác, gỗ bấc, neo tàu, gỗ tần bì, đá cẩm thạch, từng thùng chai lọ đựng cồn ngâm xác trẻ sơ sinh và các quái vật, cá sấu phơi khô và chim nhồi rơm... Dân chúng kiệt quệ chỉ còn có bánh mì và nước kvas, Moskva lúc nhúc ăn mày, ngay bọn trộm cướp cũng phù nề cả người vì đói, thế mà người ta nhập khẩu những của ấy đấy? Lại còn bọn người ngoại quốc hống hách ngông nghênh, béo quay, cứ kéo đến mãi. Sa hoàng điên rồi chăng?
Ít lâu nay, có tin đồn khắp các chợ Moskva rằng Sa hoàng Piotr đã chết đuổi ở ngoài biển (có kẻ còn nói nhà vua đã bị nhốt vào một cái thùng rượu) và Lơfo đã kiếm được một người Đức giống hệt vua Piotr, cho tên đó giả danh Sa hoàng đã quá cố, rồi dùng tên Đức đó để trị vì nước Nga, hành hạ dân và hủy diệt đức tin cổ xưa. Cảnh sát bắt những kẻ phao tin và lôi cổ chúng tới Preobrajeoskoe. Romodanovski đích thân hỏi cung chúng trong khi người ta tra khảo chúng bằng roi và lửa. Nhưng không sao biết được những tin đồn đại đó từ cái ổ nào tung ra. Việc canh gác tu viện Novodevichi được tăng cường để công chúa Sofia không truyền gì ra ngoài được.
Romodanovski mời các quan đại thần, các nhà đại quý tộc tới nhà dự những bữa yến tiệc, rượu rót ra như suối ở nơi ra vào có lính ngự lâm canh gác không cho khách về. Người ta chè chén lu bù suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ liền, có khi hơn nữa; những tên lùn, tên hề bò dưới gầm bàn để rình nghe khách trò chuyện; một con gấu đã được luyện tập thuần thục đi lại giữa đám người say rượu. Nó đưa cho họ một cốc rượu và nếu khách từ chối, con gấu ném cốc rượu đi, chồm vào anh chàng bướng bỉnh đó, tìm cách cắn xé mặt anh ta. Lão vương hầu-chấp chính bụng phệ, mệt mỏi, lừ đừ nửa say nửa tỉnh, vừa ngủ gà ngủ gật trên ngai vừa chăm chú nghe ngóng, con mắt sắc sảo của lão nhìn thấy hết thảy. Tuy nhiên khách dự tiệc ngay lúc say túy lúy cũng không nói một lời gì thừa. Nhưng lão vương hầu-chấp chính biết rõ nhiều người trong bọn họ đang rình cái ngày đất sẽ rung chuyển dưới chân vua Piotr và phe cánh nhà vua.
Chẳng bao lâu kẻ thù đã tự lộ mặt. Ở Moskva xuất hiện một bọn xtreletz, khoảng chừng một trăm rưởi tên, đã rời bỏ hàng ngũ quân đội, từ biên giới xứ Litva trốn về.
Trước đây, bốn trung đoàn xtreletz do các đại tá Hundermac, Tsubarov, Konzakov và Tsermony chỉ huy, đã được phái đến đó để cứu viện viên tổng trấn, vương hầu Mikhail Romodanovski. Đó là các trung đoàn đã xây đồn đắp lũy ở Azop và Taganrok sau chiến thắng Azop và mùa thu năm kia đã nổi loạn cùng với quân Cô-dắc và đe dọa sẽ hành động như Xtenka Razin. Chúng đã chán ngấy công việc nặng nhọc; chúng muốn trở về Moskva với vợ con để tiếp tục công việc làm ăn, buôn bán nhỏ yên tĩnh của chúng. Nhưng đáng lẽ được nghỉ ngơi, chúng lại bị đưa đi như lính thường tới biên giới xứ Litva, tại một vùng ẩm ướt và chịu đói khát khổ sở.
Hiển nhiên là có kẻ chờ đợi quân xtreletz ở Moskva. Chỉ ít lâu sau, thư thỉnh nguyện của chúng được đưa tới điện Kreml (qua tay một mụ hầu hạ trong cung), vào cung các thiếu nữ, nơi cựu hoàng hậu Marfa (1) chị dâu Sofia, bị giam lỏng song không lấy gì làm nghiêm ngặt lắm. Cũng qua môi giới của mụ nọ, chẳng bao lâu đã có thư trả lời của Marfa gửi ra.
“Ở trên chỗ ta, tình thế rất rối loạn: một quan đại thần lui tới Kukui và chơi bời thân thiết với bọn ngoại quốc muốn bóp chết thái tử Aleksey. Nhưng chúng ta đã đánh tráo đứa bé. Họ bèn nổi giận tát vị hoàng hậu trẻ tuổi. Việc gì sẽ xảy ra, ta không thể biết được. Còn Sa hoàng thì không hiểu còn sống hay chết rồi. Nếu quân xtreletz các ngươi không mau chóng tiến vào Moskva thì các ngươi sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy kinh thành nữa, đã có một đạo dụ về các ngươi rồi đó...”.
Quân xtreletz chạy rông trên các quảng trường với bức thư ấy và nơi nào thấy cần là chúng hét lên:
“Công chúa Sofia cho ba trăm người ăn, tám lần một năm và chị em bà ta, các công chúa khác cũng cho dân ăn: vào những ngày được ăn mặn các vị ấy cho dân đen ăn lưỡi bò, thịt bò nấu đông, từng nửa con ngỗng một, gà nấu bột và bánh nướng nhồi thịt, trứng, rồi lại còn phân phát thịt lợn muối luộc, bụng cá, cá đối, rất nhiều rượu, rượu mật ong... Vua chúa của chúng ta ngày xưa là như thế đấy... Còn bây giờ thì chỉ có bọn ngoại quốc được ăn no nê thôi. Còn mọi người thì sẽ chết đói hết. Với suất ăn của các người, người ta đem đi mua cá sấu ở bên kia bờ biển...”.
Chúng đến phá phách ầm ĩ ở Bộ Cấm quân, đến ngay viên đại thần Ivan Borisovich Troekurov chúng cũng chẳng sợ và khi người ta bắt mấy tên to mồm để giải vào tù thì bè bạn của chúng lại đánh tháo chúng.
Vương hầu chấp chính cho đòi các tướng Gordon và Artamon Golovin tới và họ quyết định trục xuất lập tức bọn xtreletz đào ngũ ra khỏi Moskva. Fedor Yurievich lo sợ, đi kiểm tra các trung đoàn cận vệ và các trung đoàn khác. Nhưng khắp nơi đều yên tĩnh, im lặng. Họ chọn một trăm người của trung đoàn Xemionovski và gọi người tình nguyện trong các xloboda của bọn thương nhân. Ban đêm họ im lặng lẻn vào xloboda của bọn xtreletz, phá cửa nhà chúng, bắt từng tên một. Nhưng không tên nào kháng cự:
- Ái chà! Các cậu lính trung đoàn Xemionovski đấy à? Tại sao lại làm ồn lên vậy? Chúng tớ sẽ tự đi thôi mà!
Chúng lấy một túi đầy bánh nướng nhồi thịt, bọc súng vào miếng giẻ rồi vừa ra đi vừa cười gằn, dường như chúng đã làm xong xuôi công việc của chúng ở Moskva rồi.
Quân xtreletz đem đến biên giới xứ Litva một bức thư của công chúa Sofia, Marfa đã sai một mụ lùn mang đến cho công chúa Sofia ở tu viện Novodevichi một cái bánh nướng chay trong đó có nhét lá đơn thỉnh nguyện của bọn xtreletz. Cũng qua mụ lùn đó, Sofia đã gửi thư trả lời.
“Hỡi quân xtreletz. Ta được biết một số nhỏ các ngươi đã về Moskva. Phải là cả bốn trung đoàn của chúng ta đến Moskva, lập doanh trại ở chân tường tu viện Novodevichi và các ngươi sẽ cúi đầu sát đất van xin ta về Moskva để trị vì. Nếu lính tráng canh gác tu viện từ chối không cho ta đi Moskva thì các ngươi phải đánh cho chúng thua, giết chúng đi rồi chúng ta sẽ kéo về Moskva. Và nếu có ai, lính tráng hay thường dân, cản trở chúng ta thì các ngươi phải giao chiến với họ”.
Đó là lệnh tấn công chiếm lấy Moskva.
Khi bọn đào ngũ trở về biên giới xứ Litva cùng với bức thư của công chúa, các trung đoàn bắt đầu nổi loạn.
-------------
Chú thích:
(1) Tước vị quý tộc ở Anh.
(2) Đơn vị trọng lượng Anh khoảng 0,450 kg.
(3) Đơn vị tiền xưa ở Pháp.
(4) vợ cố Sa hoàng Fedor Alekseevich.

Chương 95


Vua Piotr cùng các đại sứ thần không hiểu gì mấy về chính sự ở châu Âu. Đối với người Moskovi, chiến tranh có nghĩa là bảo vệ thảo nguyên chống quân du mục, chế ngự các cuộc đột kích ăn cướp của bọn Tarta ở Krym, bảo đảm việc vận tải đường bộ và đường thuỷ trên những con đường đi sang phương Đông, đánh thông ra đường biển.
Chính sự châu Âu đối với họ là một câu chuyện mờ ám. Họ tin như đinh đóng cột vào những hiệp ước viết thành văn và lời thề của vua chúa. Họ biết là vua nước Pháp cùng một phe với quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ và Guiom xứ Orange với tư cách là vua nước Anh và Stathouder của nước Hà Lan đã hứa giúp đỡ vua Piotr trong cuộc chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy mà giờ đây một tin không thể nào hiểu được bỗng đâu dội đến như một quả bom nổ (một nhà quý tộc, sứ giả của vua Auguste, đưa tin từ Ba Lan đến): hoàng đế Áo Leopol đã mở cuộc đàm phán hoà bình với Thổ Nhĩ Kỳ và chính vua Guiom xứ Orange đặc biệt quan tâm đến cuộc hòa giải đó mà không hề hỏi ý kiến người Nga và người Ba Lan.
Thế còn tất cả những lời thề thốt hữu nghị vừa mới đây của ông ta, những lời chúc tụng thắng lợi của các đội quân Cơ đốc giáo chống lại kẻ thù của Mộ thánh thì ra sao? Thế là nghĩa thế nào? Ông ta đã tặng vua Piotr một chiếc du thuyền. Ông ta đã gọi vua Piotr là tôn huynh. Họ đã cùng nhau yến tiệc. Bây giờ phải suy nghĩ thế nào đây?
Hoàng đế Leopol tiến hành thương thuyết hòa bình với Thổ Nhĩ Kỳ, điều đó còn có thể được: giữa ông ta và vua nước Pháp đã bắt đầu nổ ra cuộc chiến tranh dành ngai vàng Tây Ban Nha; nghĩa là (theo như các vị sứ thần hiểu) ai trong hai người đó sẽ đặt được con trai mình lên ngôi báu ở Madrit. Đó là một vấn đề quan trọng, tất nhiên, nhưng Anh và Hà Lan dính dáng vào việc nầy để làm gì?
Vua Piotr và các sứ thần khó lòng hiểu được rằng các thương gia và nhà công nghiệp Anh và Hà Lan đã từ lâu mong muốn có một cuộc chiến tranh để đánh đổ sự thống trị về thương mại và quân sự của nước Pháp ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải; rằng kế vị ngai vàng Tây Ban Nha không phải là dành ngôi báu cho con trai vua này hoặc con trai hoàng đế nọ, không phải là dành chiếc vương miện quý báu của Saclơmanhơ mà là dành lấy con đường thông suốt cho tàu bè chở đầy len dạ, sắt thép, lụa là, hương liệu, là dành lấy những thị trường giàu có, những hải cảng tự do; và đối với người Hà Lan và người Anh thì xúi bẩy kẻ khác đánh nhau tiện lợi hơn là tự bản thân mình tham chiến.
Điều đó có vẻ kỳ lạ hơn nữa là trong khi người Anh và Hà Lan vừa muốn đảm bảo cho hoàng để nước Áo được tự do hành động để ông ta có thể gây chiến với Pháp thì họ cũng lại tha thiết mong muốn người Nga tiếp tục chiến tranh chống quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ. Đó là đường lối chính trị lớn nước đôi của châu Âu.
Vua Piotr trở về Amsterdam. Các thị trưởng khi được hỏi về những tin đồn không hay từ Viên đưa đến, chỉ trả lời lờ mờ và lái câu chuyện sang công việc buôn bán. Họ cũng thoái thác không bàn đến một vấn đề khác, quan trọng đối với người Nga.
Năm đó, người thợ rèn cả Demidov tìm thấy quặng sắt có từ tính ở Uran. Viniux viết thư cho vua Piotr:
“Trên khắp thế giới chưa từng có và hiện nay cũng không có một thứ quặng nào tốt hơn thứ quặng nầy. Nó chứa nhiều sắt đến nỗi nấu một trăm livrơ quặng là được tới bốn mươi livrơ gang. Hạ thần cúi xin chúa công thúc đẩy các vị sứ thần tìm thợ luyện kim giỏi biết cách đúc thép”.
Người Anh và người Hà Lan rất chú ý nghe ngóng tin tức về chất quặng có từ tính của vùng Uran; nhưng khi bàn đến chuyện mộ thợ giỏi thì họ trở nên dè dặt, quanh co, nói rằng người Nga không thể điều khiển các nhà máy đó được; họ còn nói thêm rằng họ sẽ đi đến tận nơi xem xét và có lẽ họ sẽ tự đảm nhiệm việc khai thác mỏ... Do đó người Nga không mộ được thợ luyện kim ở Anh cũng như ở Hà Lan.
Bên cạnh tất cả những nỗi lo âu đó lại thêm tin tức về cuộc phiến loạn của quân xtreletz ở Moskva. Một thám tử ở Viên viết thư cho các sứ thần biết ở Áo mọi người cũng đã hay tin - một tu sĩ Cơ đốc giáo phao tin khắp thành phố rằng một cuộc phiến loạn đã nổ ra ở Moskva, vương hầu Vaxili Golitxon đã được gọi từ nơi tù đày về, công chúa Sofia đã trở lại ngôi báu, và dân chúng đã tuyên thệ trung thành với bà ta.

“Myn Herr Koning.  
Trong thư hoàng thượng báo tin cho thần biết về vụ nổi loạn của quân xtreletz và tin chính phủ cùng quân sĩ của hoàng thượng đã dẹp được chúng. Chúng thần rất lấy làm vui mừng. “Chỉ có một việc khiến ta không hài lòng; tại sao ngươi không mở cuộc điều tra mà lại để cho bọn kẻ cướp ấy trở lại biên giới? Chúa sẽ phán xứ ngươi. Như vậy là không đúng với những điều chúng ta đã quy ước với nhau ở nơi tiền đình của ngôi nhà nghỉ”. Nếu hoàng thượng tưởng chúng thần đã mất tích vì chuyến thư ở đây về chậm thì, nhờ ơn Chúa, chẳng có ai trong bọn thần chết đâu, chúng thần đều sống cả. “Ta không hiểu tại sao các ngươi lại có cái lối lo sợ của bọn đàn bà như vậy. Không nên giận ta vì quả thật ta rất đau lòng mà viết những điều đó. Tuần nầy ta sẽ đi Viên. Ở đó người ta chỉ toàn bàn về việc ta mất tích thôi”.
Pite”.

Chương 96

Đến ngày lễ Ba Ngôi, vào một buổi tối trong trẻo, yên tĩnh, phố xá được quét tước sạch sẽ.
Những cành phong úa héo ở các cổng lớn, nhỏ. Chẳng ai ló mặt ra đường, có chăng là một người gác tay cầm gậy hay cầm giáo đứng trước một cửa hiệu đóng kín bằng một chiếc khóa nặng. Cả thành phố Moskva đi dự lễ mixa, không khí hầm hập, đầy mùi hương trầm từ các cửa thấp treo cành phong toả ra. Cho đến cả những đám hành khất trên thềm các nhà thờ, cũng cảm thấy mệt lử vì nóng nực, trong tiếng chuông binh boong, vào cái ngày xanh lam nầy. Vầng thái dương rực rỡ thiêu đốt những cái đầu bù tóc rối và những thân hình áo quần rách bươm che không kín. Mùi rượu nho phảng phất đâu đây.
Tiếng bánh xe ngựa đột ngột phá vỡ cảnh thanh bình yên lành đó: từ phố Nikonskaia một cỗ xe bốn bánh tốt, vành xe bằng sắt, chạy rất nhanh, nhảy chồm chồm trên các khúc gỗ lát đường; con ngựa béo tốt phi nước đại; trong xe, một thương nhân ngồi lắc lư, đầu trần, bận áo nẹp màu lam đầy bụi; mắt trợn trừng, lão thẳng tay quất ngựa liên hồi. Mọi người đều nhận ra Ivan Artemist Brovkin.
Đến Hồng trường, lão vứt dây cương của con ngựa đang thở hồng hộc cho đám hành khất chạy lại, rồi mặt mày nóng bừng và đỏ rực, lão xông vào nhà thờ Kazan, nơi các quan đại thần đang dự lễ. Lão chen huých xô đẩy những người mà chỉ thoáng nghĩ đến thôi cũng đủ khiếp sợ rồi, lão nhìn thấy cái lưng to bè bè, choàng gấm vóc của vị vương hầu-chấp chính Romodanovski đang đứng trên một tấm thảm con phía trước mọi người, đối diện với thánh môn cổ kính của chính điện; một chuỗi ngọc trai quấn quanh cổ làm khuôn mặt bì bì vàng ệch của lão như rụt lại. Len đến chỗ lão, Brovkin vội vã cúi rạp xuống tận đất chào rồi mạnh dạn nhìn thẳng vào đôi mắt ngầu đục, ghê rợn dưới cặp mi hum húp vì giận dữ của vương hầu.
- Tâu chúa công, thần đã phi nước đại suốt đêm từ Xytsevka đến đây, nơi đó là quê thần, gần Novo-Yeruxalim. Thần đến trình với chúa công những tin khủng khiếp...
- Từ Xytsevka đến à? - Romodanovski nặng nề nhìn Ivan Artemist tỏ vẻ không hiểu. - Mi say rượu hay sao mà lại không tôn trọng nghi thức thế hả? - Lão tức giận đến nỗi cổ bạnh ra, bộ ria quặp của lão rung lên.
Brovkin, không hề hoảng sợ, thì thầm vào tai lão:
- Bốn trung đoàn xtreletz đang tiến về Moskva. Chúng chỉ cách Yeruxalim có hai ngày đường. Chúng tiến chậm vì các đoàn xe quân dụng. Xin chúa công hãy tha thứ cho thần đã làm phiền chúa công để báo tin ấy!
Romodanovski dựa cây trượng vào ngực, túm lấy cánh tay Ivan Artemist, siết thật mạnh.
Mặt lão đỏ tía lên. Lão quay lại, trông thấy bọn đại thần ăn bận sang trọng, vẻ mặt tò mò.
Mọi người vội cúi đầu nhìn xuống đất trước vị vương hầu-chấp chính. Lão thong thả gật đầu ra hiệu gọi Boris Alekseevich Golixyn lại:
- Sau buổi lễ đến gặp ta. Ông hãy giục lão tu viện trưởng nhanh lên, đừng có lề mề. Bảo Artamon và Viniux đến ngay chỗ ta, không được chậm trễ.
Rồi cảm thấy có tiếng xì xào của đám đại thần sau lưng, lão hơi quay người lại; cặp mắt lão không còn cái vẻ ngầu đục lúc nãy nữa. Mọi người khiếp vía, quên cả làm dấu phép. Người ta nghe thấy tiếng lư trầm leng keng và một con chim bồ câu vỗ cánh dưới vòm trần, ở một cửa sổ đầy bụi.

Chương 97


Bốn trung đoàn của Hundermac, Tsubarov, Konzakov và Tsecmony - hạ trại trong một cánh đồng ẩm ướt dưới chân tường tu viện Vokrexenski, tục gọi là Novo-Yeuxalim. Một vì sao lấp lánh trong ánh chiều tà màu lục sau tháp chuông xây nhiều tầng theo kiểu Babilon. Tu viện tối om om, cửa đóng kín mít. Bóng tối cũng dầy đặc trên cánh đồng; người ta đã dẫm tắt các đống lửa; có tiếng xe ngựa rít ken két, những giọng nói dữ tợn vang lên, - quân xtreletz muốn cùng với các đoàn xe vận tải của chúng vượt qua con sông nhỏ Ixtra và tiến vào con đường đi Moskva.
Chúng đã phải dừng lại trước tu viện để kiếm rơm cỏ cho ngựa ở làng Xytsepka. Quân trinh sát từ vùng phụ cận Moskva trở về nói rằng kinh thành đang hết sức nhốn nháo: bọn đại thần và đám thương gia lớn bỏ kinh thành chạy về các làng mạc và đất đai của họ.
Các xloboda đang chờ đón quân xtreletz; hễ chúng đến là họ sẽ đâm chết bọn cảnh vệ ở các cửa ô và để các trung đoàn tiến vào kinh thành. Đại nguyên soái Sein đã tập hợp được chừng ba nghìn lính của trung đoàn cận vệ trẻ Butyrski và trung đoàn Lơfo và sẽ giao chiến; nhưng có thể dự đoán là toàn thể dân chúng sẽ ủng hộ quân xtreletz; vợ con họ đã mài sẵn giáo, rìu và chạy khắp xloboda như những mụ rồ, chờ đợi chồng con, anh em trở về.
Suốt cả ngày hôm ấy trôi đi trong những cuộc thảo luận tại các trung đoàn, người thì muốn tiến thẳng vào Moskva, kẻ thì lại có ý kiến phải đánh vòng ra sau thủ đô, hạ trại ở Serpukhov hay ở Tula rồi từ đó phái liên lạc tới vùng sông Đông và đến các thành phố Ukraina để cầu quân Cô-dắc và quân xtreletz đến tiếp viện.
- Đến Serpukhov làm gì? Chúng ta đi về nhà thôi, về các xloboda!
- Chúng tôi không muốn bao vây kinh thành đâu!
- Sein ấy à? Có nghĩa lý gì đối với chúng ta kia chứ? Chúng ta sẽ lôi kéo toàn dân Moskva nổi dậy...
- Lần trước chúng ta có lôi kéo được họ nổi dậy đâu nào... Việc này nguy hiểm lắm!
- Quân đội do tướng Gordon và đại tá Kraghe chỉ huy. Những tay này, họ không đùa đâu.
- Vả lại chúng ta đã mệt nhoài cả rồi. Lại thiếu rượu... Nên bao vây thì hơn.
Opsey Rezov trèo lên một cỗ xe ngựa. Hắn đã được bầu làm chỉ huy năm trăm quân. Ở Toropetz nơi khởi đầu cuộc phiến loạn, quân xtreletz đã đuổi cổ tất cả các sĩ quan và đại tá.
Tikhol Hundermac thoát chết nhờ con ngựa của mình. Konzakov vỡ cả đầu kịp thời trốn thoát bằng cách băng qua sông trên những dầm cầu. Sau đó chúng đã triệu tập một cuộc họp và bầu các thủ lĩnh...
Opsey gào khàn cả tiếng:
- Ai có một manh áo lót trên người nào? Áo của tôi đã mục cả ra rồi. Một năm nay tôi chưa hề chải râu mà cũng chưa hề được tắm rửa. Ai có áo lót mặc rồi thì cứ việc bao vây. Còn chúng tôi, chúng tôi chỉ muốn có một điều là: trở về nhà!
- Về nhà! về nhà! - quân xtreletz vừa thét vừa trèo lên xe ngựa. - Anh em quên mất những điều lệnh bà Sofia viết cho chúng ta rồi sao? Phải đến cứu lệnh bà càng sớm càng tốt. Nếu không, việc của chúng ta thất bại mất. Chúng ta sẽ mãi mãi bị tên Fransitska Lơfo cưỡi lên lưng lên cổ chúng ta đến ngày tận số. Tốt hơn cả là đánh ngay tức khắc để kịp thời tôn Sofia lên ngai vàng. Công chúa sẽ trả lương cho chúng ta, sẽ cấp cho chúng ta lương thực và miễn cho ta các thứ thuế má. Chúng ta sẽ trồng lại cột kỷ niệm của chúng ta ở Hồng trường. Chúng ta sẽ quăng bọn đại thần từ trên gác chuông nhà thờ xuống đất, sẽ chia nhau của cải của chúng rồi bán lấy tiền, công chúa sẽ cho chúng ta tất cả mọi thứ. Còn cái xloboda Đức, thiên hạ sẽ không còn nhớ nó ở vào chỗ nào nữa kia.
Bọn cầm đầu Tuma, Proxkuriakov, Zorin và Yors nhảy phốc lên cỗ xe có Opsey đứng.
Chúng lấy gươm gõ vào vỏ gươm:
- Hăng hái lên, anh em, ta hãy bắt đầu qua sông đi.
- Ai không tiến về Moskva sẽ bị đóng cọc vào người.
Nhiều tên xtreletz chạy đến chỗ để xe, thét lên những tiếng man rợ để kích thích bầy ngựa.
Các đoàn xe tải và các đám quân xtreletz tiến về phía con sông sương mù mờ mịt. Nhưng ở bờ bên kia, trong các bụi cây lờ mờ không rõ, có cái gì động đậy như một lá cờ đuôi nheo.
Có tiếng gào lên:
- Hãy dừng lại, dừng lại!
Nhìn kỹ, quân xtreletz trông thấy trên mặt nước một người mặc áo giáp, đội mũ sắt có đính lông chim. Nhận ra đó là Gordon, chúng bèn im lặng.
- Anh em xtreletz. - Gordon nói to. - Ta đã đưa đến bốn ngàn quân trung thành với chúa thượng. Quân ta chiếm một vị trí chiến đấu rất tốt. Nhưng ta không muốn làm đổ máu của những người anh em một chút nào cả. Hãy nói cho ta hay: các ngươi nghĩ gì và đi đâu?
- Đi đến Moskva. Về nhà. Chúng tôi không thể chịu được nữa rồi... Chúng tôi đang chết đói... Quần áo rách tan cả.
- Tại sao các ông lại đày chúng tôi vào những vùng rừng rú ẩm ướt như vậy?
- Người của chúng tôi bị chém giết, chết ở Azop như vậy chưa đủ hay sao... Chúng tôi ăn thịt thối trong thời gian rút lui như thế còn chưa đủ hay sao?
- Chúng tôi xây đồn đắp lũy đã gãy cả lưng rồi!
- Hãy để chúng tôi trở về Moskva... Chúng tôi sẽ sống ở nhà ba ngày thôi rồi chúng tôi sẽ xin tạ tội.
Khi quân xtreletz hò hét đã chán, Gordon đưa tay lên làm loa trước miệng:
- Thế thì rất tốt. Nhưng chỉ có kẻ ngu mới vượt sông ban đêm. Đồ ngốc! Sông Ixtra sâu lắm, xe vận tải của các ngươi sẽ chìm nghỉm ngay. Hãy đợi ở bờ bên đó thì hơn, còn ta, ta sẽ đợi ở bờ bên này. Rồi ngày mai sẽ nói chuyện!
Gordon nhảy lên một con ngựa cao lớn rồi phi nước đại biến vào trong đêm tối. Quân xtreletz lưỡng lự không biết nên làm thế nào; chúng la hét một chặp rồi nhóm lửa để nấu cháo bột.
Khi mặt trời mọc trên bầu trời không gợn mây, quân xtreletz trông thấy trên một ngọn đồi, bên kia sông Ixtra, hàng ngũ chỉnh tề của trung đoàn Preobrazenski và bên trên là mười hai khẩu đại bác bằng đồng hun đặt trên những giá súng màu xanh lục. Ngòi đạn đang cháy, tỏa khói. Bên cánh trái là năm trăm lính long kỵ binh với cờ xí của họ. Các đơn vị khác đứng bên cánh phải, sau những dãy cự mã chắn đường đi Moskva. Quân xtreletz kêu thất thanh, vội vã thắng ngựa vào xe và xếp xe ngựa thành hình vuông theo kiểu Cô-dắc.
Gordon đi thủng thẳng bước một từ trên đồi xuống, theo sau có sáu tên long kỵ binh, ông ta lại gần sông, con ngựa ô khịt khịt ngửi nước rồi nhảy vọt vài bước đưa chủ nó qua chỗ cạn sang bờ bên kia. Quân xtreletz vây quanh vị tướng.
- Hãy nghe đây... - Gordon giơ bàn tay đeo bao tay sắt lên - Anh em là những người tốt, biết điều. Chúng ta đánh nhau để làm gì mới được chứ? Anh em, hãy nộp cho ta những tên cầm đầu, tất cả những quân ăn cướp trước đây đã chạy về Moskva ấy.
Opsey, râu xồm xoàm, mắt đỏ ngầu, nhảy phắt lại phía con ngựa:
- Trong chúng ta không có ai là kẻ cướp... chính các ngươi, đồ khốn kiếp, mới gọi người Nga là kẻ cướp. Chúng ta đều đeo thánh giá cả... Cây thánh giá này có lẽ làm cho thằng Fransitsko Lơfo không hài lòng chắc?
Quân xtreletz, gầm ghè dậm dọa, tiến lại vây chặt lấy Gordon. Ông ta ngồi im trên ngựa, cặp mắt lim dim.
- Ta sẽ không để cho các ngươi vào Moskva đâu! Hãy nghe lời của một lão chiến binh là ta đây, hãy chấm dứt cuộc phiến loạn đi, nếu không, các ngươi sẽ mang vạ đấy!
Quân xtreletz mỗi lúc một hăng máu thêm, gào lên những lời tục tĩu. Gã Tuma cao lớn, tóc đen, mắt diều hâu, leo lên một khẩu đại bác, tay vung một tờ giấy.
- Mọi nỗi bất bình của chúng ta đều ghi trong này cả. Hãy để ba người trong bọn chúng ta qua sông - chỉ ba người thôi - chúng ta sẽ đọc đơn thỉnh cầu của chúng ta trong binh đoàn!
- Đọc ngay đi...
- Gordon, hãy nghe đây! - Tuma đọc, giọng lắp bắp vừa đọc vừa vung nắm tay đấm không khí: - Khi còn ở Azop, để làm tổn thương đến danh dự người Nga, tên tà đạo Fransitsko Lơfo đã đưa những lính xtreletz Moskva ưu tú nhất đến chân tường thành quá sớm, đặt họ vào những nơi ác liệt nhất, khiến họ bị giết chết một số lớn... Cũng vẫn theo ý muốn độc ác của hắn, người ta đào một cái hầm ngầm, hơn ba trăm lính xtreletz đã thiệt mạng ở đó!...
Gordon thúc ngựa tới định giằng lấy tờ giấy. Tuma lùi lại. Quân xtreletz thét lên những tiếng giận dữ. Tuma đọc tiếp:
- Cũng vẫn thể theo ý muốn độc ác của tên Fransitsko, người ta đã làm nhục dân chúng cả nước, người ta cạo râu, hút thuốc lá, hoàn toàn bất chấp tất cả những phép tắc cổ xưa của lòng ngoan đạo...
Biết không thể nào làm cho quân xtreletz nghe ra được lẽ phải, Gordon đành thúc ngựa cho chồm lên rồi rẽ đám đông, phi ra sông. Quân xtreletz thấy ông xuống ngựa trước lều tổng tư lệnh. Chẳng bao lâu, ở đó áo lễ của các giáo sĩ chói lòa dưới những tia nắng xiên khoai. Tức thì quân xtreletz cũng ra lệnh cho giáo sĩ của chúng cầu kinh trước giờ chiến đấu. Chúng phủ một tấm mã y lên giá một khẩu đại bác, bên cạnh đặt một cái thùng vẫn dùng cho ngựa uống, đựng nước để rửa tội. Quân xtreletz bỏ mũ ra. Các giáo sĩ đi chân đất áo quần rách bươm, bắt đầu làm lễ một cách thành kính:
“Cầu Chúa hãy phù hộ chúng con thắng quân Agareen và quân Philixtanh(1), thắng quân tà giáo!”.
Ở bên bờ bên kia, trước lều của tướng Sein, quân lính đã bắt đầu hôn cây thánh giá, trong khi quân xtreletz vẫn còn quỳ và hát. Chúng vừa làm dấu phép vừa chạy đi lấy súng, dùng răng xé bao đạn nạp vào súng. Các giáo sĩ cuốn khăn choàng làm lễ rách bươm của họ lại rồi ra đứng sau đám xe ngựa. Vừa lúc ấy từ đỉnh đồi, mười hai khẩu dại bác nhất loạt nhả đạn.
Đạn đại bác bay qua đoàn xe tải và nổ dưới chân tường tu viện, đất bắn tung lên từng mảng lớn. Opsey Rezov, Tuma Zorin, Yors, vung kiếm lên:
- Anh em ơi, xông lên!
- Chiếm lấy Moskva!
- Tập hợp lại thành đại đội...
- Đại bác đâu, đưa đại bác lại!
Quân xtreletz vội vã tập hợp lại thành từng đại đội hỗn độn, tung mũ lên trời và điên cuồng gào lên tiếng hô chiến đấu của chúng:
- Xergeyev! Xergeyev!
Đại tá Kraghe ra lệnh hạ thấp đường bắn và đội trọng pháo nhả đạn vào đoàn xe vận tải, - gỗ ván bắn tung tóe, ngựa lồng lộn, dãy dụa. Quân xtreletz bắn trả bằng những loạt súng hỏa mai và đạn trái phá của bốn khẩu đại bác. Lần thứ ba, pháo từ ngọn đồi bắn trúng giữa chỗ quân xtreletz dày đặc nhất. Một bộ phận quân xtreletz xông về phía các chướng ngại vật cự mã, nhưng chúng bị quân của trung đoàn Butyrski và trung đoàn Lơfo chặn lại. Lần thứ tư súng đại bác gầm lên, khói dầy đặc mù mịt phủ kín ngọn đồi.
Các đại đội xtreletz hỗn loạn, cuống cuồng tháo chạy. Bỏ cả cờ xí, vũ khí, áo mũ, chúng chạy thục mạng tán loạn.
Quân long kỵ binh vượt sông, đuổi theo quân xtreletz chạy trốn và dồn chúng trở lui về phía đoàn xe vận tải như bầy chó dồn một đàn gia súc.
Cùng ngày hôm đó, đại tướng tổng tư lệnh Sein dời doanh trại đến gần tu viện và mở cuộc điều tra. Không một tên xtreletz nào tố giác Sofia hoặc nói gì về bức thư của mụ. Chúng khóc lóc, giơ những vết thương ra, giũ mớ quần áo tả tơi; chúng nói chúng tiến về Moskva vì một cơn điên giận khủng khiếp lộn xộn; nhưng giờ đây định thần lại, chúng đã tự hiểu rõ tội lỗi của chúng.
Tuma bị treo lên cột điếu hình, lưng rách nát vì roi quất, không hé răng nói nửa lời; hắn chỉ nhìn trừng trừng vào mặt những kẻ tra hỏi hắn với một cái nhìn hằn học.
Tuma, Proxkuriakov và năm mươi sáu tên xtreletz hung hăng nhất bị treo cổ dọc con đường đi Moskva.
Những tên khác bị giam vào các nhà tù và tu viện.
-------------
Chú thích:
(1) Những người không theo đạo Cơ đốc (theo kinh thánh Cơ đốc giáo)

Chương 98

Cả đời họ, người Nga chưa bao giờ thấy ai đạo đức giả và dối trá như triều thần của hoàng đế ở Viên.
Họ đón tiếp vua Piotr long trọng nhưng với tư cách là một người thường. Hoàng đế Leopol nhã nhặn gọi Sa hoàng là hiền đệ nhưng chỉ gọi thế khi nào có riêng hai người thôi, và vi hành, đeo mặt nạ đến nơi hẹn vào buổi tối.
Bàn đến chuyện giảng hòa với Thổ Nhĩ Kỳ, viên tể tướng tán thành mọi việc không chối từ điều gì, hứa hẹn đủ mọi thứ nhưng khi đi đến quyết định thì ông ta lẩn như chạch.
Vua Piotr nói với ông ta:
- Người Anh và người Hà Lan chỉ chăm lo đến tiền lời buôn bán của họ thôi. Không thể nhất nhất cái gì cũng nghe theo họ được. Vị giáo trưởng thành Giesusalem đã viết thư yêu cầu chúng tôi bảo vệ Mộ Thánh... Lẽ nào hoàng đế lại không tha thiết đến Mộ Thánh?
Viên tể tướng trả lời:
- Đức hoàng đế hoàn toàn thừa nhận những ý nghĩ cao thượng và đáng kính trọng đó, nhưng cuộc chiến tranh mười lăm năm đã hao tổn những món tiền không thể kể xiết được, cho nên hiện nay hành động duy nhất đúng đắn là hòa bình.
- Hòa bình, hòa bình, - vua Piotr nói, - thế nhưng các ngài lại đang chuẩn bị chiến tranh với Pháp. Làm thế nào hiểu được điều đó?
Nhưng để đáp lại, viên tể tướng chỉ nhìn vua Piotr bằng cặp mắt vui vẻ, đục ngầu và khó hiểu.
Vua Piotr nói mình đang cần thành Kesk của Thổ Nhĩ Kỳ; khi ký hòa ước với Thổ Nhĩ Kỳ hoàng đế chỉ việc đòi Kesk cho Moskva.
Viên tể tướng trả lời rằng: không còn nghi ngờ gì nữa, những yêu sách đó được toàn thể triều đình Viên nhiệt liệt tán thành nhưng ông ta dự tính trong vấn đề Kesk này sẽ có những khó khăn lớn vì quân Thổ Nhĩ Kỳ thường không quen nộp thành mà không chiến đấu.
Nói tóm lại, cuộc thăm viếng Viên chẳng đem lại kết quả gì đáng kể. Thậm chí người ta cũng không nhận lời tổ chức một cuộc tiếp kiến long trọng cho các sứ thần Nga trong dịp đệ trình quốc thư và trao tặng phẩm. Các sứ thần đã phải chịu nhận để đầu trần, đi qua phòng của các công tử và chỉ đem theo có bốn mươi tám công dân thường để mang tặng phẩm; nhưng họ đã khăng khăng đòi hỏi là ở cửa phòng khách, viên thị vệ đại thần phải xướng to tước vị của Sa hoàng, nói vắn tắt cũng được, và các tặng phẩm của Sa hoàng không phải đặt xuống thảm dưới chân hoàng đế.
- Chúng tôi đâu phải là dân Chuvas (1), - họ nói, - cũng đâu phải là chư hầu của hoàng đế, chúng tôi là một dân tộc ngang hàng với dân tộc các ngài...
Viên thượng thư Bộ Nội điện dang hai tay ra nói:
- Tuyệt nhiên không thể nào thỏa mãn những yêu sách lạ lùng đó được.
Ở đây còn chua chát hơn cả ở Hà Lan, người Nga hiểu ra thế nào là đường lối chính trị của châu Âu. Vì buồn chán, họ lui tới rạp ca kịch và rất ngạc nhiên. Họ đi thăm các tòa lâu đài quanh vùng. Họ dự một cuộc dạ hội hóa trang lớn của triều đình.
Vua Piotr sắp đi Vơnidơ thì có thư từ Moskva gửi tới: Romodanovski và Viniux báo tin về cuộc phiến loạn của quân xtreletz ở Novo-Yeuxalim.

“Myn Herr Koning.
Bức thư của hoàng thượng đề ngày 17 tháng sáu đã được trao cho thần, trong đó hoàng thượng viết cho biết là cái nòi của tên Ivan Miloslavski đã nảy nở, - về khoản đó, thần đề nghị hoàng thượng phải cứng rắn vì không có cách nào khác để dập tắt ngọn lửa đó được.
Mặc dù chúng thần rất lấy làm tiếc phải dời bỏ công việc hữu ích đang tiến hành ở đây nhưng vì lý do đó chúng thần sẽ trở về sớm hơn là hoàng thượng tưởng.
Pite”
--------------
Chú thích:
(1) Dân tộc thiểu số ở vùng trung lưu sông Volga nước Nga.

Chương 99

Cuối buổi lễ chầu ở nhà thờ Thánh Mẫu thăng thiên, lão vương hầu-chấp chính hôn cây thánh giá, bước lên giảng đài, hướng về phía đám đại thần và gõ cây trượng xuống nền nhà loảng xoảng :
- Đức chúa thượng Piotr Alekseevich của chúng ta đã hạ cố lên đường về Moskva.
Rồi lão khệnh khạng đi qua đám đông, lên cỗ xe ngựa thếp vàng, đứng đằng sau xe có hai tên lính bộ binh Hungary to lớn như hộ pháp, mặt mày dữ tợn; cỗ xe lăn ầm ầm chạy trên đường phố Moskva.
Tin ấy giáng xuống bọn đại thần như một tiếng sét đánh. Trong khoảng thời gian mười tám tháng trời, họ đã quen sống êm ả, trong một sự phồn vinh yên tĩnh... làm sao mà số phận oái oăm lại đưa con chim ưng nhạt màu đó trở về! Thế là đi đời cả giấc ngủ trưa? Lại phải nai lưng ra làm đày tớ rồi. Mà rồi ai sẽ chịu trách nhiệm về các vụ nổi loạn của quân xtreletz đây? Về cuộc chiến tranh tiến hành qua quít cho xong với quân Tarta? Về ngân khố trống rỗng? Về tất cả công việc cứ định sắp sửa bắt đầu mà rồi vẫn chưa làm gì được? Ôi, lạy Chúa thật là tai vạ!
Bây giờ không còn là lúc nghỉ ngơi, phè phỡn nữa rồi. Viện Duma lớn họp một ngày hai lần. Lệnh truyền cho thư ký các nhà buôn phải đóng cửa hiệu lại, đi đến Bộ Đại Ngân khố để đếm tất cả số tiền đồng, hạn trong ba ngày phải xong.
Người ta yêu cầu đám thơ lại, người ta van lạy họ hãy vì Chúa nếu như có điều gì còn sơ suất ở các bộ thì hãy thu xếp ngay lại cho gọn gàng.
Những ngày đó, người ta không để cho bọn thơ lại, ký lục nhỏ về nhà ngủ, người ta sẽ trói chân những kẻ bướng bỉnh vào bàn của họ.
Đám triều thần chuẩn bị dự những cuộc chiêu đãi của Sa hoàng. Có kẻ lôi trong rương ra những bộ tóc giả đáng ghét, rắc đầy bạc hà để chống nhậy. Họ sai bỏ những tranh thánh ở các phòng ăn và treo thêm vài tấm gương, vài bức chân dung.
Evdokia cùng với hoàng thái tử và Natalia, người em gái của vua Piotr được nhà vua yêu quý nhất, vội vã rời tu viện Ba Ngôi trở về cung.
Ngày mồng bốn tháng chín, vào buổi tối, hai cỗ xe đầy bụi dừng lại trước cổng sắt của nhà vị vương hầu-chấp chính. Vua Piotr, Lơfo, Golovin và Melsikov bước xuống. Họ gõ cửa. Những con chó lớn hung dữ sủa ầm lên trong sân.
Tên lính mở cổng không nhận ra Sa hoàng. Vua Piotr ẩy vào ngực hắn rồi cùng với các người trợ tá của mình đi qua cái sân bẩn thỉu về phía một bậc thềm thấp có mái bằng chì, dựng trên hàng cột xoắn với những quả cầu tròn. Một con gấu đã được dạy dỗ thuần thục xích ở gần ngưỡng cửa.
Trên gác, Romodanovski nâng cánh cửa sổ lên thò đầu ra, bộ mặt húp híp của lão run lên vì mừng rỡ.

Chương 100

Từ nhà Romodanovski, Sa hoàng về thẳng điện Kremlin. Evdokia đã biết là chồng về, trang điểm đẹp đẽ, bôi son đánh phấn chờ đợi. Mụ Vorobikha mặc áo lót bông lịch sự, nháy nháy mắt và mỉm cười đứng rình ở bậc tam cấp nhỏ bên cạnh phòng hoàng hậu. Evdokia luôn luôn thò đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn mụ Vorobikha đứng trong ánh sáng hắt từ cánh cửa hé mở - nàng chờ đón giây phút mụ vẫy chiếc khăn tay. Bỗng mụ Vorobikha lăn tròn như một quả cầu hộc tốc chạy vào phòng ngủ:
- Hoàng thượng đã đến rồi? Và hoàng thượng đã xuống xe trước thềm phòng công chúa... Để già chạy đi nghe ngóng tin tức xem sao...
Evdokia đột nhiên cảm thấy đầu óc trống rỗng; nàng linh cảm một tai họa. Không còn hơi sức, nàng ngồi xuống. Ngoài kia là một đêm thu đầy sao. Suốt một năm rưỡi trời xa nhau, chồng nàng không hề viết cho nàng lấy một bức thư. Vừa về là lập tức đi gặp công chúa Natalia mà không ghé thăm nàng. Evdokia bẻ đốt ngón tay răng rắc...
“Người ta đang sống trong một sự yên tĩnh êm ả, trong một niềm vui sướng thường xuyên. Bỗng ông ta đùng đùng đến như một trận bão để làm khổ mình”.
Nàng bật đứng dậy... Aliosenka đâu rồi? Phải cùng thằng bé chạy đến với bố nó! Ra đến cửa nàng va phải mụ Vorobikha... Mụ lắp ba lắp bắp:
- Già đã tận mắt nhìn thấy hoàng thượng... Hoàng thượng đã vào buồng Natalia... đã hôn công chúa còn công chúa thì khóc nấc lên... Vẻ mặt hoàng thượng trông nghiêm nghị... hai má rung rung... đôi ria vểnh lên... Hoàng thượng mặc áo nẹp kiểu nước ngoài, màu xám. Cái tẩu thuốc và khăn tay để trong túi lòi ra ngoài. Hoàng thượng đi đôi ủng to tướng, không phải thứ ủng nước ta.
- Đồ ngốc, đồ ngốc, ngươi hãy nói ta nghe sự thể thế nào.
- Rồi hoàng thượng đã nói với công chúa: “em thân mến, anh muốn gặp đứa con trai độc nhất của anh”. Công chúa bèn quay lại, và tức khắc đưa Aliosenka đến.
- Con Nataska nó là một con rắn độc, một con rắn độc, - Evdokia thì thào, môi run run.
- Hoàng thượng nắm lấy Aliosenka. Ôm chặt thái tử vào lòng, hôn hôn hít hít, vuốt vuốt ve ve... Hoàng thượng đặt thái tử xuống đất, chụp cái mũ kiểu ngoại quốc lên đầu con, rồi nói: “Ta đi đến Preobrazenskoe ngủ đây!”
- Thế hoàng thượng đi mất rồi à? - Nàng giơ hai tay ôm lấy đầu.
- Hoàng thượng đi rồi, tâu hoàng hậu, vị thiên thần hiền dịu của già, hoàng thượng đi rồi, đi rồi, có thể là hoàng thượng đi ngủ, mà có thể là hoàng thượng đi đến xloboda Đức cũng nên.

Chương 101

Từ tờ mờ sáng, xe tứ mã, xe ngựa tồi, kỵ sĩ đã rong ruổi trên đường đi Preobrazenskoe. Các triều thần, tướng tá, tất cả đám lãnh chúa, các viên lục sự viện Duma, đều hối hả đến để chào lạy chúa công của họ đã trở về. Vừa chen huých nhau trong triều đình chật ních người, họ vừa lo lắng hỏi: “Thế nào, này: đức vua ra sao?”. Người ta trả lời họ, kèm theo những nụ cười kỳ quái: “Đức vua vui...”.
Sa hoàng tiếp khách trong một gian phòng rộng rãi, được sửa sang lại như mới; nhà vua ngồi bên cái bàn dài bày đầy chai lọ, cốc tách và đĩa đựng đầy thức ăn nguội. Những tia nắng làm khói thuốc lá óng ánh. Dáng dấp Sa hoàng không ra vẻ người Nga: nhà vua mặc áo nẹp kiểu nước ngoài bằng nỉ tốt, cổ viền đăng ten như phụ nữ; người gầy xọp đi, bộ ria hung hung nâu vểnh lên, đội một bộ tóc giả óng mượt, nhà vua ngồi theo lối ngoại quốc, một chân đi bít tất len dài thu vào dưới gầm ghế.
Những người mới đến, mặc áo choàng lông thú, râu vểnh lên, mắt trợn trừng, tiến lại gần Sa hoàng và cúi rạp xuống hay chạm trán tận đất để chào lạy tùy theo thứ bậc của họ; và mãi khi đó họ mới trông thấy hai tên lùn vô đạo Toma và Xeka đứng ở dưới chân nhà vua, tay cầm thứ kéo to để cắt lông cừu.
Sau khi đã để mọi người chào lạy, vua Piotr đỡ một số đại thần dậy và hôn vào miệng họ, và ôm hôn một số đại thần khác; nhà vua vui vẻ nói với từng người:
- Chà, bộ râu đẹp quá! Ở châu Âu, vương hầu ạ, người ta chế giễu những bộ râu này đấy... Cho ta mượn nó nhé, để mừng cuộc tái hội của chúng ta.
Viên đại thần, vị vương hầu, quan tổng trấn già cũng như trẻ hốt hoảng dang hai tay ra.
Toma và Xeka nhón chân lên và ra sức cắt những bộ râu chải mượt, tỉa xén chăm chút. Vật trang sức xưa kia được quý trọng là thế nay đã rơi xuống chân Sa hoàng. Viên đại thần, râu bị cắt nham nhở lấy tay che mặt không nói năng gì, toàn thân run lên. Nhưng Sa hoàng tự tay đưa cho ông ta một cốc lớn vodka ngâm hồ tiêu:
- Hãy uống đi để chúc mừng sức khỏe cho ta để ta sống thọ... người ta cũng đã từng cắt cả tóc của Samson (1) đấy! - Sa hoàng đưa cặp mắt long lanh nhìn các triều thần và giơ ngón tay trỏ lên - Từ đâu mà có cái mốt cắt râu đi thế này ? Nó hợp với giới phụ nữ, nó từ Paris đến đấy. Ha, ha! (Hai tiếng cười khô khan). Và nếu ngươi tiếc bộ râu đẹp, thì ngươi hãy ra lệnh đặt nó vào quan tài của mình, nó sẽ dính lại vào cằm ngươi ở thế giới bên kia.
Giá như nhà vua tỏ ra nghiêm khắc hay giận dữ, hay la thét om xòm, hay túm lấy những bộ râu ấy mà lôi xềnh xệch các đình thần, dọa dẫm họ những điều tệ hại nhất, thì trông nhà vua cũng không ghê sợ bằng thế này... Vẻ khó hiểu, hoàn toàn xa lạ, thay đổi, nhà vua có một nụ cười làm mọi người lạnh rợn cả người.
Ở cuối bàn, một gã thợ cạo nhỏ bé người Ba Lan, đang bận rộn: y bôi xà phòng vào cằm mọi người cạo sạch những bộ râu đã bị cắt... Rồi cái thằng chết dẫm đáng nguyền rủa ấy đưa một tấm gương cho viên đại thần bị mất râu ngắm bộ mặt trần trụi, đáng hổ thẹn của mình, với cái miệng non choẹt méo xệch. Ngồi ở bàn, đám đại thần, râu cạo nhẵn nhụi, say mèm, khóc nức nở... Chỉ còn nhìn quần áo mới nhận ra được đại nguyên soái Sein, vị đại thần Troekurov, các vương hầu Dolgoruki, Beloxenski, Mixtislavski...
Sa hoàng bẹo má những kẻ bị cạo râu.
- Bây giờ thì ngươi có thể tới trình diện ngay cả ở triều đình hoàng đế mà không xấu hổ đấy.
-------------
Chú thích:
(1) Một anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, rất khỏe vì râu tóc dài, sau bị người yêu cắt mất, do đó bị kẻ thù giết chết.

Chương 102

Vua Piotr đến nhà Lơfo ăn bữa tối. Ông bạn thân mến Franx vừa mới ngủ dậy vào khoảng mười hai giờ trưa, hắn đang ngồi trước gương, trong căn phòng ngủ rộng rãi và tràn đầy ánh sáng, tường bọc da thếp vàng. Đám gia nhân đang bận rộn xung quanh, mặc áo quần, uốn tóc, rắc phấn cho hắn. Một thằng lùn và một con lùn đem từ Hamburg về đang chơi đùa trên thảm. Tên quản gia, một tên mã quan, viên thiện đầu và viên chỉ huy đội cận vệ cung kính đứng cách xa hắn. Sa hoàng bước vào, nhà vua lấy hai tay ấn lên vai Franx để hắn khỏi phải đứng dậy và nhìn vào gương:
- Đấy không phải là một cuộc điều tra mà là một sự nhu nhược của họ, một hành động nối giáo cho giặc. Sein vừa kể cho ta nghe tất cả. Cái thằng ngu ấy không hiểu là nó nắm đầu mối trong tay... Falaleev, một tên xtreletz khi bị dẫn đến giá treo cổ đã kêu to lên với bọn lính: “Các ngươi đã ăn con cá măng nhưng răng nó vẫn còn đấy...”.
Cặp mắt hung tợn của vua Piotr tối sầm lại trong gương. Lơfo quay lại truyền lệnh cho đám gia nhân lui ra.
- Franx... Chưa nhổ được cái nọc đâu! Hôm nay ta cạo râu bọn đại thần, trong lòng ta cứ sôi lên... Chà, cứ nghĩ đến bọn châu chấu khát máu ấy? Chúng biết, biết hết, nhưng chúng nín thinh, chúng che giấu... Đấy không phải chỉ là một cuộc nổi loạn bình thường, quân xtreletz không phải chỉ về tìm vợ con đâu... Những sự việc kinh khủng đã được chuẩn bị ở đây... Cả bộ máy Nhà nước đã bị ruỗng nát. Phải lấy gươm mà chặt bỏ những chỗ bị thối và trói chặt bọn quý tộc đại thần, bọn râu xồm ấy lại, bằng một bảo chứng đẫm máu mới được. Đó là cái nòi của Miloslavski! Franx, ngay hôm nay phải ban hành những sắc chỉ để giải bọn xtreletz bị giam tại các nhà tù và tu viện đến Preobrazenskoe.

Chương 103

Ăn bữa tối, Sa hoàng dường như đã trở lại vui vẻ. Có người nhận thấy ở nhà vua một đặc điểm mới - cái nhìn tối sầm chòng chọc: giữa chừng câu chuyện và những lời vui đùa, nhà vua bỗng im bặt và nhìn chằm chặp vào một người nào đấy trong đám khách, một cái nhìn bí hiểm, soi mói, tàn nhẫn... Nhà vua khịt khịt một bên mũi, rồi lại cười gằn, uống rượu, bật lên một tiếng cười khô rợn.
Đám người ngoại quốc, - quân nhân, thủy thủ, kỹ sư đều vui vẻ, thoái mái. Người Nga thì cảm thấy khó thở trong bữa tiệc đó. Nhạc cử lên, người ta chờ đợi các phu nhân để khiêu vũ. Alexaska nhìn bàn tay của vua Piotr đặt trên bàn - hai bàn tay co quắp lại rồi lại mở ra. Lơfo đang kể những chi tiết ly kỳ về các sủng phi của vua Pháp. Tiếng ồn ào tăng dần. Bỗng vua Piotr thét lên một tiếng như còi, chồm dậy và giận dữ điên cuồng ngã người trên bàn và cúi về phía Sein:
- Đồ kẻ cướp, đồ kẻ cướp!
Nhà vua đạp tung cái ghế của mình lùi lại rồi chạy ra khỏi phòng. Các quan khách bối rối, đứng dậy; Lơfo chạy tới người này, người khác, tìm cách làm cho họ yên tâm.
Trong hành lang tiếng nhạc vang lên. Các vị phu nhân đầu tiên hiện ra trong tiền đình, tay sửa lại bộ tóc giả và xiêm áo. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía một phu nhân đẹp ngồn ngộn, có cặp mắt xanh biếc, bộ tóc vàng pha màu xám tro chải lật lên phía trên đầu, bộ xiêm lụa viền đăng ten kim tuyến rất rộng, vai và cánh tay đế trần trắng nõn nà và khêu gợi đến tột độ. Không nhìn ai, nàng bước vào phòng, thong thả cúi mình chào một cách chăm chú, rồi đứng đó mắt nhìn lên, tay cầm một bông hồng. Khách ngoại quốc đua nhau hỏi: “Ai đấy?”
Họ được biết đó là Alekxandra Ivanovna Vonkova, con gái của vị phú thương giàu nứt đố đổ vách Brovkin.
Lơfo hôn đầu ngón tay nàng và mời nàng khiêu vũ. Các cặp bắt đầu nhảy, vừa lướt chân lạo xạo trên sàn gỗ vừa cúi chào. Và một lần nữa, các quan khách lại bị một phen kinh động: vua Piotr, cánh mũi phập phồng, quay trở vào; nhà vua đưa mắt tìm Sein rồi thình lình tuốt gươm và thẳng tay chém vào bàn, ngay trước mặt viên đại nguyên soái, ông này vội nhảy lùi lại một bước. Mảnh thủy tinh vỡ bắn tung tóe ra tứ phía. Lơfo chạy đến. Sa hoàng lấy khuỷu tay đánh vào mặt hắn và chém trượt Sein một lần nữa.
- Cả trung đoàn của mi, và mi nữa, và tất cả các tên đại tá của mi, ta sẽ chém tuốt, đồ kẻ cướp, đồ chó đẻ, đồ ngu!
Alexaska bỏ vị phu nhân đang khiêu vũ với hắn đứng tại chỗ và mạnh dạn lại gần nhà vua; không để ý đến lưỡi gươm của Sa hoàng, hắn ôm lấy nhà vua, thì thầm vào tai. Thanh gươm rơi xuống. Vua Piotr khẽ nói vào bộ tóc giả của Alexaska:
- Quân chó má, chà, quân chó má... Nó đem các chức đại tá ra buôn bán.
- Không sao, Myn Herz, rồi đâu sẽ vào đấy cả thôi. Bệ hạ uống rượu nho Hungary đi.
Việc ấy rồi cũng ổn thật. Vua Piotr uống rượu nho Hungary; sau đó nhà vua chỉ mặt Sein hăm dọa, rồi gọi Lơfo lại hôn lên cái mũi sưng vù của hắn:
- Thế Anna đâu? Ngươi đã hỏi thăm sức khỏe của nàng chưa? - Nhà vua méo xệch cặp môi mím chặt, nhìn ánh tà dương màu da cam bên ngoài những khung cửa sổ cao. - Thôi, ta sẽ tự đi tìm nàng!
Trong ngôi nhà nhỏ của mụ góa Monx là cả một cuộc chạy đua có cầm nến, cửa ngõ đập sầm sầm, mụ Monx và bọn đày tớ gái đang bận tối tăm mặt mũi. Thật là một tai họa: Ansen đã nổi cơn thịnh nộ vì váy lót của nàng hồ bột hỏng cả; thế là phải hồ lại và là lại một lần nữa. Anna mình không bận xiêm áo đang ngồi ở trên gác, đầu đội bộ tóc giả rắc phấn; một chiếc khăn nhỏ dùng che áo khi rắc phấn phủ lên vai, nàng đang mạng một chiếc tất.
Vua Piotr nhìn thấy nàng như vậy sau khi đã nhảy bốn bậc thang một chạy lên gác trước sự khiếp đảm của mụ góa và bầy đày tớ gái.
Ansen đứng dậy, ngửa đầu ra và khẽ thở dài một tiếng.
Vua Piotr vồ vập ôm lấy cô gái yêu dấu, ăn mặc hở hang.
Tim Ansen đập thình thình.

Chương 104

Từ khắp nơi, người ta giải bọn lính xtreletz bị xích đưa về Preobrazenskoe. Chúng bị nhốt và canh phòng cẩn mật trong các nhà dân và các hầm nhà. Vào cuối tháng chín, cuộc điều tra bắt đầu. Vua Piotr, Romodanovski, Tikhol Xtresnev và Lev Kirilovich tiến hành hỏi cung.
Những đống lửa cháy thâu đêm trong khu xloboda, trước những ngôi nhà gỗ, nơi tiến hành các cuộc tra khảo trong mười bốn phòng giam, người ta tra tấn quân xtreletz bằng roi và điếu hình rồi lôi chúng ra sân và đem nướng chúng trên lửa rơm. Người ta cho tội nhân uống vodka để hắn tỉnh lại rồi lại trói giật cánh khuỷu treo hắn lên cột điếu hình để bắt hắn khai ra những tên đầu sỏ.
Được hai tuần thì bắt đầu có manh mối. Opsey Rezov tự thấy thương thân và đau đớn quá sức không chịu nổi khi bị bẻ gãy xương sườn bằng kìm nung đỏ, đã khai ra bức thư của Sofia; hắn bảo chính theo lệnh mụ mà quân xtreletz đã định đến tu viện Novo-Devichi để đưa mụ lên ngai vàng. Konxtantin, em trai Opsey, sau lần tra khảo thứ ba, đã thú nhận rằng quân xtreletz giấu bức thư của Sofia trong đống phân rác dưới chân ngôi tháp giữa ở Novo-Yeuxalim.
Người ta xác định được là cựu hoàng hậu Marfa, mụ lùn Avdochia và Verka, người nữ tỳ hầu cận của Sofia, cũng nhúng tay vào vụ âm mưu này.
Nhưng cũng không có mấy người chịu khai khi bị tra khảo. Quân xtreletz chỉ nhận chúng đã có tội gây ra một vụ phiến loạn vũ trang nhưng không có mưu đồ giết ai. Trong thái độ ương bướng chịu chết đó, vua Piotr cảm thấy lòng căm thù dữ dội của chúng đối với mình.
Vua Piotr ngồi suốt đêm trong các hầm giam. Ban ngày nhà vua làm việc cùng các kỹ sư và thợ cả ngoại quốc, đi duyệt binh. Tối đến nhà vua ăn ở nhà Lơfo hay ở nhà một viên sứ thần hoặc một viên tướng.
Quá chín giờ, giữa tiếng cười đùa, tiếng nhạc và những trò hề ngông cuồng của lão đại vương-trùm đạo, vua Piotr đứng thẳng người lên, cổ rụt lại, rời phòng tiệc đi ra sân tối om và lên xe ngựa; mặt che khăn quàng len để tránh làn gió lạnh buốt, nhà vua đi xe trên con đường đóng băng trở về Preobrazenskoe mà từ xa người ta đã trông thấy trong ánh lửa nhợt nhạt.
Một viên bí thư trong sứ quán của hoàng đế Áo ghi lại trong nhật ký những điều mắt thấy tai nghe vào thời gian đó:

“Mấy nhân viên của sứ thần Đan Mạch - Ông ta viết - đã đến Preobrazenskoe vì tò mò. Họ đã đi xem một lượt những căn nhà sửa lại thành nhà tù, họ đến những chỗ có tiếng thét thảm thiết báo hiệu nơi đó đang xảy ra một tấm thảm kịch bi ai nhất. Người run lên vì khiếp đảm, họ đã đi thăm ba căn nhà gỗ, - trong đó máu chảy thành vũng trên sàn nhà và ngay cả ở cửa vào, - thì những tiếng kêu rú còn thảm thiết hơn nữa và những tiếng rên rỉ đau đớn rợn người khiến họ lại muốn xem những cảnh thảm khốc đang diễn ra ở căn nhà gỗ thứ tư. Nhưng vừa bước vào thì họ khiếp vía vội vã trở ra ngay vì họ đã gặp phải Sa hoàng và các quan đại thần. Sa hoàng đang đứng trước một người đàn ông trần truồng treo trên trần nhà, nhà vua quay đầu lại nhìn những người mới đến, bực bội ra mặt vì đã bị người ngoại quốc bắt gặp mình đang làm việc đó. Naryskin chạy theo họ hỏi “Các ông là ai? Tại sao lại đến đây?”. Vì họ lặng thinh không trả lời, ông ta bảo họ phải lập tức đến chỗ vương hầu Romodanovski. Các nhân viên sứ quán biết mình được hưởng quyền bất khả xâm phạm, không đếm xỉa gì đến mệnh lệnh khá ngạo mạn đó. Tức thì một viên sĩ quan đuổi theo để chặn ngựa họ lại. Nhưng sức mạnh về phía các nhân viên sứ quán: họ đông hơn và bình tĩnh hơn. Tuy nhiên thấy viên sĩ quan định dùng những biện pháp cương quyết hơn đối với họ, họ đã chạy trốn vào nơi chắc chắn. Sau này tôi được biết tên viên sĩ quan đó: y tên là Alexaska, sủng thần của Sa hoàng, một con người rất nguy hiểm”.
“Một khoản thuế mới thu bằng tiền được đặt ra: mỗi viên chức làm việc ở các bộ sẽ trả một số tiền thuế tương đương với chức vụ của mình. Buổi tối, đủ thứ trò chơi giải trí đã được tổ chức tại nhà Lơfo trong một khung cảnh xa hoa lộng lẫy vương giả. Khách đã thường thức một cuộc đốt pháo hoa. Như một vị thần lửa, Sa hoàng chạy khắp khu vườn cây trụi lá và đốt lên những cột tia lửa. Thái tử Aleksey và công chúa Natalia cũng xem pháo hoa nhưng ngồi ở một gian phòng riêng. Trong buổi vũ hội tiếp đấy, Anna Monx đã được mọi người nhất trí công nhận là hoa khôi trong đám phu nhân; người ta đồn cô ta đã thay thế người vợ chính thức của Sa hoàng mà nhà vua có ý muốn bỏ vào một tu viện ở xa”.
“Ngày mồng mười tháng mười, ngày xử tử, Sa hoàng đã mời tất cả các sứ thần nước ngoài tới dự. Một bục cao tiếp cận dãy nhà gỗ dùng làm trại lính trong xloboda Preobrazenskoe.
Đó là pháp trường: thường ngày ở đó vẫn có cái cọc nhục hình trên cắm thủ cấp những kẻ đã bị xử trảm. Một trung đoàn cận vệ mang vũ khí bao quanh ngọn đồi. Rất nhiều dân Moskva đã trèo lên các mái nhà và thành cổng để xem. Những người ngoại quốc đến đó với tư cách thường dân không được phép lại gần pháp trường.
“Thớt trảm quyết đã sẵn sàng. Một ngọn gió lạnh lẽo thổi, mọi người rét cóng cá chân. Phải đợi rất lâu. Cuối cùng Sa hoàng đi xe ngựa đến cùng với gã Alekxandr nổi tiếng. Sa hoàng xuống xe và dừng lại bên các thớt trảm quyết. Trong khi đó, đám tử tù đã đứng đầy nơi bất hạnh. Ở nhiều nơi trong pháp trường, một viên thơ lại đứng trên một cái ghế do một tên lính đưa đến, đọc cho dân chúng nghe lời tuyên án về bọn phiến loạn. Dân chúng im lặng. Đao phủ bắt đầu làm việc.
“Những con người khốn khổ phải giữ trật tự, đến nơi hành hình lần lượt từng người một... Nét mặt họ lộ vẻ buồn rầu hay ghê sợ trước cái chết kề cổ. Theo ý tôi vẻ thờ ơ lãnh đạm đó không phải là lòng dũng cảm, đó không phải là chí cương nghị của tâm hồn; chẳng qua chi vì nhớ đến những hình phạt tra tấn tàn khốc mà họ đã phải chịu đựng, họ không thiết sống nữa mà thôi, họ đã ghê tởm cuộc sống.
“Một người trong bọn họ đã được vợ con tiễn đến tận thớt trảm quyết trong những tiếng kêu khóc inh tai. Còn y thì bình tĩnh trao đôi bao tay và một chiếc khăn sặc sỡ cho vợ con làm kỷ niệm rồi y kê đầu lên thớt.
“Một gã khác đi đến chỗ tên đao phủ, đã phải đi qua bên cạnh Sa hoàng, hắn đã nói to với nhà vua:
- Chúa công hãy xê ra, tôi sẽ nằm xuống ở đây đấy!
“Người ta kể lại cho tôi rằng ngày hôm đó, Sa hoàng đã phàn nàn với tướng Gordon về sự cứng đầu cứng cổ của quân xtreletz, lưỡi rìu kề tận cổ mà chúng vẫn không chịu nhận. Quả thực, dân Nga bướng bỉnh một cách kỳ lạ”.
“Trước tu viện Novodevichi người ta đã cho dựng ba mươi giá treo cổ thành một hình vuông, nơi đó đã xứ giảo 230 tên xtreletz. Ba tên cầm đầu trước đây đã đưa đơn thỉnh nguyện của quân xtreletz cho công chúa Sofia bị treo cổ ở tường tu viện trước các cửa sổ phòng của công chúa. Lá đơn buộc vào đôi bàn tay chết của tên bị treo ở giữa”.
“Đức Sa hoàng đã dự cuộc hành hình các giáo sĩ tham gia vụ phiến loạn. Hai người trong số giáo sĩ đó bị đao phủ đánh gãy chân tay bằng một thanh sắt; sau đó họ bị đem bêu sống trên một cái bánh xe; người thứ ba bị chặt đầu. Đám giáo sĩ còn sống xì xào khá to; họ phẫn nộ vì thấy giáo sĩ thứ ba được hưởng một cái chết mau chóng”.
“Hiển nhiên là để chứng tỏ rằng các bức tường của thành phố mà quân xtreletz muốn dùng vũ lực để đột nhập vào là thần thánh và bất khả xâm phạm, Sa hoàng đã truyền lệnh đặt những xà gỗ vào các lỗ châu mai của tường thành Moskva. Ở mỗi xà gỗ có treo cổ hai tên phiến loạn. Như vậy, trong ngày hôm đó hơn hai trăm người đã bị hành hình... Không có một thành phố nào có một bức tường bao quanh giống như bức tường quân xtreletz bị treo cổ tạo nên quanh Moskva.
“Ngày 27 tháng mười... Cuộc hành hình này khác hẳn cuộc hành hình trước. Người ta dùng nhiều biện pháp hầu như không thể tưởng tượng nổi... Chỉ trong một lượt, ba trăm ba mươi người đã đổ máu tưới ngập Hồng trường. Cuộc hành hình khổng lồ đó sở dĩ thực hiện được là vì tất cả các đại thần, các đại biểu của viện Duma của Sa hoàng, và các viên lục sự đã phải theo lệnh của Sa hoàng làm nhiệm vụ đao phủ. Lòng nghi kỵ của Sa hoàng đã lên đến cực độ; người ta đồn rằng nhà vua nghi mọi người thương xót quân phiến loạn đã bị hành hình. Nhà vua tìm cách ràng buộc tất cả các viên đại thần bằng bảo chứng đẫm máu ấy. Tất cả các nhân vật danh gia thế phiệt đó đến trình diện nơi quảng trường, lòng run sợ trước cuộc thử thách đang chờ đợi họ. Trước mặt mỗi người là một tên từ tù. Mỗi người phải đọc lời tuyên án rồi sau đó thi hành bản án bằng cách tự tay chặt đầu tội nhân.
“Sa hoàng ngồi trên một chiếc ghế bành đem từ trong cung ra, nhìn cuộc tàn sát khủng khiếp đó bằng cặp mắt ráo hoảnh. Nhà vua đang đau răng, má sưng vù. Nhà vua nổi giận khi thấy bàn tay số lớn các viên đại thần không quen công việc đao phủ run lên.
“Tướng Lơfo cũng được mời làm nhiệm vụ đao phủ; nhưng ông ta từ chối nói rằng ở nước ông ta không ai làm như thế. Ba trăm ba mươi người gần như bị ném lên các thớt gỗ cùng một lúc và đã bị chặt đầu, nhưng một vài người đã bị chém một cách thảm thương. Boris Golixyn đã không chém vào đầu mà lại chém vào lưng; tên lính xtreletz, người gần như bị chặt làm đôi, sẽ đau đớn đến cực độ nếu như gã Alekxandr vốn thạo dùng rìu không vội chặt luôn đầu kẻ khốn khổ đó. Gã Alekxandr khoe đã chặt ba mươi cái đầu vào ngày hôm ấy. Vị vương hầu - chấp chính đã tự tay xử tử bốn người. Người ta phải dìu mấy vị đại thần đưa đi vì họ tái mét mặt và lử cả người...”.

Những cuộc tra tấn, hành hình tiếp diễn suốt mùa đông. Để trả lời, những cuộc nổi loạn nổ ra ở Arkhangensk, Axtrakhan, trên sông Đông và ở Azop, các nhà giam đầy ứ người và hàng nghìn xác mới lại lủng lẳng đung đưa trong làn gió lạnh buốt ở các tường thành Moskva.
Cả nước kinh hoàng. Lối sống cũ thu mình náu vào các xó xỉnh tối tăm. Đó là những ngày tận chung của lối sống theo kiểu Byzăngxơ của nước Nga cổ xưa.
Ngoài khơi bờ biển Baltic, người ta tưởng chừng như thấy bóng dáng các tàu buôn lướt theo chiều gió tháng ba đang thổi.

Chương 105

Gà gáy trong ánh rạng đông nhợt nhạt. Buổi sớm mai tháng hai nầy hình như còn tiếc giấc khi thức dậy.
Những người gác đêm vướng víu trong vạt áo lông cừu, dọn những hàng rào di động tối qua họ đã đặt ngang các phố. Gió tạt xuống mặt đất làn khói của các ống lò: mùi bánh mì nóng tỏa ra các đường ngõ quanh co. Đoàn cảnh vệ kỵ mã đi qua, hỏi những người gác đêm:
- Ban đêm có cướp phá gì không?
Họ trả lời:
- Còn gì nữa, tụi vô lại lúc nhúc quanh đây.
Moskva thức giấc một cách miễn cưỡng. Những người kéo chuông vừa lao xao trèo lên gác chuông vừa ca cẩm. Họ đợi cái chuông to ở gác chuông nhà thờ Ivan Veliki ngân lên tiếng đầu tiên đã. Những hồi chuông của tuần chay lững lờ, nặng nề vang đi trên các đường phố chìm đắm trong bóng tối. Cửa các nhà thờ mở cánh kêu ken két. Một thầy già nhấm nước bọt vào ngón tay, đi gạt tàn bấc những ngọn đèn thờ ngày đêm thắp sáng. Những người ăn xin, kẻ tàn tật, những kẻ hình thù quái dị, đi tới các nhà thờ, ngồi xuống thềm. Bụng trống rỗng, họ nhỏ tiếng chửi nhau. Hướng về phía khung cửa để ngỏ trông vào khoảng tối âm u lốm đốm chấm sáng ấm áp của các ngọn nến, họ làm dấu thánh, cúi rạp người xuống làm lễ.
Một gã dở cười, chân không, lon ton chạy: người nó sặc mùi hôi thối, lưng để trần, đầu đầy mụn chốc từ mùa hạ. Trên thềm nhà thờ ai nấy đều kinh hoảng: con người của Chúa nắm trong tay một tảng thịt sống... Vậy là nó lại sắp nói lên những điều khủng khiếp đây: tin đồn xôn xao khắp Moskva. Nó ngồi chính diện trước cửa, cái mũi rỗ kẹp giữa hai đầu gối: nó đợi có đông người đã.
Bây giờ phố xá đã sáng rõ. Cửa các nhà mở ra, đóng vào chan chát. Những con buôn xuất hiện, thắt lưng nịt chặt quanh người. Họ mở cửa hiệu nhưng thiếu sự phấn chấn vui vẻ của thuở trước. Từng đàn quạ sải cánh bay dưới những đám mây đang bị gió xua dồn.
Trong mùa đông, Sa hoàng đã cho đàn chim ăn no thịt sống. Quạ không biết từ đâu bay đến mù trời, phân của chúng làm ô uế tất cả các mái tròn. Trên thềm nhà thờ, bọn ăn mày dè dặt nói với nhau:
- Sẽ có chiến tranh và đói kém. Số đã định rằng triều đại giả mạo sẽ kéo dài ba năm rưỡi.
Xưa kia, vào giờ này, khu buôn bán Kitaigorod ầm ĩ tiếng kêu la huyên náo, người đông như nêm cối. Từ khu Zamoxkvoretsie, xe tải lúa mì đến từng đoàn; trên đường đi Yaroslav là gà vịt, củi đun; trên đường đi Mozaisk, những con buôn ngồi xe tam mã tới. Còn bây giờ thì người ta chỉ dỡ hàng của một, hai chiếc xe ngựa và người ta bán thịt ôi. Một nửa số cửa hàng khóa chặt cửa.
Trong các xloboda và phía bên kia sông Moskva là cảnh điêu tàn. Ngay đến nhà của lính xtreletz cũng bị rỡ mái.
Người ta bắt đầu xa lánh các đền thờ. Nhiều người xa rời tôn giáo; họ nói các cha cố đạo chính thống bị miếng ăn ngon cám dỗ, về hùa với những kẻ đã chém giết và treo người trong mùa đông này ở Moskva. Ở một nhà thờ nọ, cha cố đợi để bắt đầu làm lễ; rêu vểnh lên, ông ta gọi người kéo chuông:
- Kéo chuông to lên, đồ ngu, kéo mạnh nữa lên!
Nhưng tha hồ cho đánh chuông, mọi người vẫn đi thẳng, không chịu làm dấu với ba ngón tay. Bọn razkonic nói:
- Làm dấu với ba ngón tay có nghĩa là báng bổ. Chẽ ngón tay trỏ và ngón tay giữa rồi luồn ngón tay cái vào giữa.
Thật là tục tĩu. Người ta đã biết kẻ nào đã dạy cách làm dấu báng bổ như vậy!
Tuy nhiên các phố đã đông người: bọn tôi tớ các nhà quý tộc đại thần, bọn vô lại, bọn du thủ du thực ban đêm, bọn lảng vàng rình mò. Trước quán ăn có một đám đông đứng chờ mở cửa; người ta hít không khí: có mùi tỏi, mùi chả nạc.
Từ phía bên kia sông Neglinnaia đi sang, những đoàn xe diễu qua chở đầy thuốc súng, đạn gang, đay và sắt. Trượt trên những vết bánh xe, đoàn xe xuôi dòng sông Moskva theo con đường đi Voronez. Bọn long kỵ binh, mặc áo lông cừu ngắn mới nguyên, đội mũ ngoại quốc - để ria mép, như thể họ không phải là người Nga vậy, - hò hét khản cổ văng ra những lời chửi rủa tục tĩu và giơ roi dọa nạt những người đánh xe.
Dân chúng nói với nhau:
- Bọn Đức lại đẩy Sa hoàng chúng ta vào chiến tranh. Nhà vua đã chè chén phè phỡn, ăn chơi ở Voronez với bọn đàn ông đàn bà Đức thật chẳng còn gì là liêm sỉ.
Quán hàng mở. Chủ quán mà mọi người đều quen bước ra thềm. Đám đông sững sờ, không một ai cười: họ hiểu đây là một tai họa, mặt người chủ quán nhẵn nhụi, theo lệnh Sa hoàng người ta đã cạo mặt bác ta ngày hôm qua tại trụ sở hội đồng xã. Bác ta mím môi, như cố cầm nước mắt; quay mặt về phía năm nóc nhà thờ tròn và thấp gần đấy, bác làm dấu thánh giá và nói, nét mặt sa sầm: “Xin mời vào!”.
Bên kia đường phố, trên thềm nhà thờ, gã dở người bắt đầu nhảy chân chó, lắc lư miếng thịt ngoạm ở mồm. Mọi người ùa lại xem... Thật may mắn cho nhà thờ nào được thằng dở người chọn. Nhưng thời buổi này, cái đó cũng nguy hiểm lắm. Ở nhà thờ Xtaro-Pimen, người ta đã nuôi một thằng dở người như vậy; một hôm nó vào tẩm thất, bước lên giảng đàn lấy ngón tay làm sừng trên đầu rồi quát đám đông tập họp ở đó:
- Các người hãy sùng bái ta, hay là các người không nhận ra ta chăng?
Binh lính tóm cổ thằng dở người cùng với cha cố và thầy già và dẫn cả ba đến Bộ Preobra zenskoe, tới dinh vương hầu chấp chính Fedor Yurievich Romodanovski.
Bỗng mọi người kêu to: “Dẹp ra, dẹp ra!”. Vượt cao trên đầu đám đông, những chiếc mũ cắm lông đỏ, những bộ tóc giả, những cái mồm cạo nhẵn rung rinh, lắc lư: bọn đánh xe.
Đám đông dạt về phía hàng rào, trên những đống tuyết. Một chiếc xe trượt tuyết thếp vàng, có mui kín, cửa kính, phóng nước đại chạy qua. Một cô gái má đỏ chót ngồi trong xe, người cứng đờ như con búp bê gỗ; trên mái tóc chải hất lên, cô đội một chiếc mũ nỉ nhỏ có dải, dát đầy kim cương; hai cánh tay ủ kín đến tận khuỷu trong một cái túi bằng lông hắc điểu thử. Mọi người đều nhận ra con đĩ này: ả Anna Monx, nữ hoàng ở Kukui.
Chiếc xe trượt tuyết chạy về phía dãy các quầy hàng. Ở đó, bọn con buôn đã xôn xao, cuống quít; chúng chạy đến trước xe trượt tuyết, trong tay ôm đầy nhung, lụa. Còn bà hoàng hậu chính thức, Evdokia Fedorovna, thì mùa thu năm nay ngay khi tuyết bắt đầu rơi, người ta đã đưa bà đến nhà tu kín Xuzdan trong một chiếc xe trượt tuyết bình thường, để bà khóc hết những ngày tàn còn lại.

Chương 106

- Anh em ơi, hỡi những người tốt bụng, hãy cho tôi một cốc... Tôi xin thề với anh em là tôi không thể chịu được nữa... Hôm qua, tôi đã bán cây thánh giá ngày rửa tội của tôi để uống.
- Vậy mày là ai?
- Tôi là người vẽ chân dung các thánh ở Palekh. Ở vùng chúng tôi, người ta làm nghề vẽ tranh từ thuở xưa. Nhưng ngày nay thì lụn bại rồi!
- Tên mày là gì?
- Ondriuska.
Người đó, mặt choắt, mắt sáng rực, hầu như không có mũ, áo, mũ áo chỉ toàn là những lỗ hổng. Nhưng với một dáng điệu lễ phép, anh ta đĩnh đạc đến gần bàn mọi người đang uống vodka. Khó lòng mà có thể từ chối được một con người khốn khổ.
- Thôi được, ngồi xuống đây! - Người ta rót cho anh một cốc. Và chuyện trò lại tiếp tục. Một nông dân mắt ti hí, cổ ngẳng, có vẻ quỷ quyệt nói:
- Người ta đã xử tử bọn xtreletz... Đó là việc của Sa hoàng! - Hắn giơ một ngón tay vẹo lên - Việc này không dính dáng gì đến chúng ta... Nhưng...
Một người dân ngoại ô, mặc áo nẹp của lính xtreletz (bây giờ có nhiều người mặc áo và đội mũ của quân xtreletz; đám vợ góa vừa nức nở khóc vừa bán rẻ quân trang của chồng), dùng móng tay gõ gõ vào chiếc cốc bằng chì của y:
- Nhà ngươi nói đúng! Nhưng... Chính là còn có cái chữ “nhưng” ấy!
Gã nông dân quỷ quyệt giơ ngón tay đe hắn:
- Chúng tôi thì chúng tôi ngồi yên chẳng làm gì. Chính ở Moskva các anh mới động một tí là đã kéo chuông báo động... Như vậy là người ta có lý do để treo cổ bọn xtreletz lên tường và dọa nhân dân... nhưng không phải vấn đề ấy đâu, ông bạn dân ngoại ô ạ. Những người ngay thật như các anh, các anh ngạc nhiên thấy không có hàng họ tới Moskva nữa. Đừng có chờ mà vô ích. Sẽ còn gay go hơn nhiều... Đây này, như hôm nay chẳng hạn, thật buồn cười nếu không phải là đáng buồn. Tôi đem đến một thùng cá muối. Tôi muối cá để ăn nhưng cá bị ươn. Tôi đến chợ. Tôi tự nhủ: họ sẽ đánh vỡ mặt mình vì món hàng thối này. Ấy thế mà chưa đầy hai tiếng đồng hồ họ đã tranh cướp nhau mua hết. Không, ngày nay Moskva quả là một nơi nguy vong.
Anh chàng vẽ chân dung các thánh nấc lên:
- Chà đúng quá!
Gã nông dân nhìn anh ta và nói, giọng nghiêm trang:
- Có một sắc lệnh đã ban ra: sẽ hạ xác bọn xtreletz trên tường xuống, đem ra khỏi thành phố vào ngày lẻ giữa mùa chay. Vậy mà có đến khoảng tám nghìn xác. Được rồi. Lấy đâu ra xe? Vậy ra vẫn người nông dân phải nai lưng đóng góp chăng? Thế còn các vùng ngoại ô? Phải thiết lập một chế độ trưng dụng ngựa ở các đại xã ngoại ô.
Đôi má nhẽo của người dân ngoại ô run run. Hắn nhìn người nông dân với một vẻ trách móc và lắc đầu:
- Nầy, anh dân cày... Đáng lẽ mùa đông nhà ngươi nên đến đứng dưới chân tường thành. Gió đung đưa những kẻ bị treo cổ, chúng lắc lư... Cái nỗi sợ đó cũng đã đủ cho bọn ta lắm rồi.
- Đành rằng chôn xác họ ngay thì dễ dàng hơn, - gã nông dân nói. - Ngày chủ nhật trước tuần chay, người ta đã đánh tới đây mười tám xe trượt tuyết chở hàng hóa. Chưa kịp dỡ hàng thì bọn lính đã xộc đến: “Dỡ hết hàng xuống!” - “Thế nào? sao vậy?” - “Không được bàn cãi gì hết?” - Họ rút gươm ra dọa chúng tôi, lật ngược xe của chúng tôi. Tôi có đem đến một thúng nấm hương muối. Bọn quỷ thọt ấy đã lật đổ cả thúng. Chúng thét: “Đi ngay ra cửa ô Vacvarskie”. Mà ở cửa ô Vacvarskie thì có chừng ba trăm xác xtreletz vứt thành đống. “Chất lên xe của mày, mau, đồ chó chết?”. Chúng tôi đã chở những xác chết ấy đến tận đêm. Chẳng được ăn, được uống lấy một miếng, không kịp cho ngựa ăn. Trở về quê, nhìn người đồng hương mà xấu hổ.
Một người lạ mặt bước tới gần. Hắn đặt mạnh một chai vodka xuống bàn.
- Bọn ngu ngốc thì người ta dùng làm phu gánh nước, - hắn nói và ngang nhiên ngồi xuống, rồi rót rượu cho tất cả mọi người. Hắn trâng tráo nháy mắt - Chúc các bạn sức khỏe! - Không chùi ria, hắn nhấm một nhánh tỏi. Mặt hắn sạm nắng gió, hăng hái, râu hắn xoăn, hoa râm.
Gã nông dân có đôi mắt ti hí thận trọng cầm lấy cái cốc người kia đưa cho gã.
- Anh cho nông dân là đồ ngốc phải không? Này, không phải đâu, người nông dân rất hiểu sự đời. (Gã cân nhắc chiếc cốc trong tay rồi uống cạn và hậm hự vì khoan khoái) Không phải đâu, các bạn ạ... (Gã với tay lấy một nhánh tỏi). Sáng nay các bạn có trông thấy đoàn xe đi về Voronez không? Người ta lột da người nông dân không thương xót. Nông dân phải trả thuế, trả tô, nộp thực phẩm cho lãnh chúa, trả tiền chăm nom sửa sang cầu cống. Đi chợ cũng phải trả tiền.
Người có chòm râu hoa râm há to miệng có hàm răng đẹp và cười ầm lên. Gã nông dân chưng hứng, khụt khịt:
- Được. Nhưng bây giờ người ta đòi chúng tôi nộp ngựa cho các đoàn xe vận tải của Sa hoàng. Và người ta bắt chúng tôi đem bánh mì khô đến... Không, các bạn ạ. Các bạn thử đếm những nhà trong làng còn có người ở xem có bao nhiêu. Những người khác đi đâu cả? Hãy tìm xem... Hiện giờ, tất cả hoặc hầu hết mọi người ở thôn quê, đều sẵn sàng đi trốn. Người nông dân là một thằng ngốc khi họ no nê. Nhưng cứ cái đà này, nếu cứ vơ vét hết sạch của họ... (Gã nắm lấy chòm râu lơ thơ của gã và giả bộ chào). Người nông dân sẽ xỏ đôi giầy gai mới vào và ra đi, muốn đi đâu thì đi! Về phía bắc... Về phía các hồ... Vào sa mạc?
Người vẽ tranh thánh lại gần gã nông dân và nhìn gã trừng trừng với đôi mắt tối sầm, nóng hổi. Gã nông dân đẩy anh ta ra: “Im đi!...”. Người dân ngoại ô nhìn quanh rồi gần như nằm bò lên bàn, thì thào:
- Nghe đây, các chú, quả thật có nhiều người sợ và bỏ đi tới mé bên kia hồ Belo, về phía các hồ Von, Matka, Vich... Phía đó bình yên... (Đôi má phính của hắn rung động). Chỉ có kẻ đi trốn mới sống sót được thôi!
Tròng mắt đen láy của người vẽ tranh thánh mở rộng, choán cả lòng mắt. Anh ta nhìn những người đang nót chuyện, hết nhìn người này lại nhìn người kia.
- Bác ấy nói đúng đấy... Bọn chúng tôi ở Palekh, chúng tôi đã vẽ sáu trăm bức tranh thánh cho tuần chay... Thật là ít ỏi so với những năm khác... Hôm nay không bán lấy được một cái ở Moskva. Dân Palekh rất buồn. Tại sao vậy? Các bức họa của chúng tôi sáng sủa; theo tục lệ, chúng tôi có viết tên Chúa Jesus. Tay chúa ban phước lành với ba ngón. Và chúng tôi vẽ thánh giá có bốn cánh. Chúng tôi làm tất cả theo đúng quy cách của nhà thờ chính thống. Các anh hiểu rõ chứ? Những người mua các bức thánh họa của chúng tôi, những người lái buôn Korzinkin, Diatskov, Vikulin bảo chúng tôi: “Các anh đừng vẽ như thế này nữa. Phải tiêu hủy các mộc bản ấy đi, chúng đã bị nguyền rủa rồi: đã có dấu ấn trên đó!”
- Dấu ấn gì?
Người vẽ các bức thánh họa nấc lên một tiếng. Người dân ngoại ô nằm rạp lên mặt bàn, răng đánh lập cập.
- Người ta nói có vết tích dấu ấn của nó, họ bảo thế. Các anh đã thấy vết chân chim trên mặt đất chưa - bốn nét có phải không? Trên các bức thánh họa của các anh cũng thấy có vết tích ấy đấy!” - “Đâu?” - “Thế cái thánh giá bốn cánh kia? Các anh hiểu chưa? Đừng đem món hàng này đến Moskva nữa. Bây giờ tất cả dân Moskva đã hiểu rõ do đâu mà có mùi hôi thối rồi”.
Gã nông dân chớp chớp mắt. Gã có tin lời người họa sĩ không? Khó mà nói được... Người có chòm râu hoa râm cười nhạt, miệng nhấm nhánh tỏi. Người dân đại xã gật gù và bỗng nhiên, sau khi liếc nhìn nhanh chung quanh, y chề môi và thì thầm:
- Còn thuốc lá? Sách nào nói rằng con người ta phải nuốt khói? Ai khạc khói ra bằng mồm? Hả? Tất cả các thành phố và miền Siberi đã bị đem đấu thầu cho người Anh. Karmartenov lấy số tiền bốn vạn tám nghìn rúp cho phép nó bán thuốc lá. Và có chiếu chỉ ra lệnh mọi người phải hút cái thứ cỏ có chất nicotin địa ngục ấy. Ai làm nên chuyện này? Rồi chè, rồi cà phê? Rồi khoai tây? Khiếp! Thật đáng nguyền rủa. Khoai tây, đó là vật dục của Quỷ vương. Tất cả các thứ độc địa ấy từ ngoại dương đưa vào, chính bọn theo Tân giáo và Cơ đốc giáo buôn bán các thứ ấy ở nước chúng ta. Những kẻ uống chè sinh ra buồn nản, những kẻ uống cà-phê thì linh hồn bị trói chặt (1) - Y lại nhổ - Khiếp. Tôi thà chết còn hơn là chứa những của dơ dáy ấy trong cửa hiệu.
- Ông buôn bán gì? - Người có bộ râu hoa râm hỏi.
- Thời buổi này nói gì đến buôn bán... Chỉ có người Đức buôn bán chứ bọn chúng ta thì chỉ có gào lên vì đói. Ông không biết Opsey, hoặc em hắn là Konxtantin. Cả hai đều là xtreletz trong trung đoàn Hundermac. Cửa hiệu của tôi ở đấy, nhà tắm công cộng của họ ở ngay cạnh. Những người như họ, ngày nay không còn nữa. Cả hai đã bị tử hình. Opsey thường nói: “Chúng ta đau khổ vì hồi đó, năm 82, ở điện Kreml, chúng ta đã không nghe lời các cụ thánh lão. Bọn xtreletz chúng ta, đáng lẽ chúng ta đoàn kết nhau lại để bảo vệ tín ngưỡng cũ, thì không một tên ngoại quốc nào có thể ở lại Moskva được. Đức tin sẽ tỏa sáng, dân sẽ được no nê và hả lòng. Còn ngày nay, thậm chí chúng ta cũng không biết cứu rỗi linh hồn chúng ta bằng cách nào đây”. Đó là những con người công bằng, xác họ đã đung đưa trên tường thành suốt mùa đông. Ngày nay không còn quân xtreletz nữa, người ta có thể tay không cũng tóm cổ được chúng ta. Họ sẽ cạo nhẵn mõm tất cả chúng ta và sẽ bắt chúng ta uống cà-phê, rồi các anh xem.
- Sau khi đã ăn hết lúa mì, đến mùa xuân mọi người sẽ đi hết, - gã nông dân nói với một giọng quả quyết.
- Anh em ơi! - người vẽ tranh thánh lo âu, đăm đăm nhìn khung cửa kính nhỏ sũng nước. - Anh em ạ, ở phương bắc có những sa mạc lộng lẫy, một nơi ẩn cư yên tĩnh, một cuộc sống đạo đức, tĩnh mịch.
Sự huyên náo và nhiệt độ tăng lên trong quán, cánh cửa lót chiếu gai đập mạnh, tiếng không vang. Một bọn say rượu cãi lộn, một người mình trần đến thắt lưng, cổ không đeo thánh giá rửa tội, loạng choạng trước quầy và nằn nì xin mua chịu một cốc. Một số khách hàng túm tóc lôi một người ra hành lang rồi họ gân cổ quát tháo, đánh đập người kia tơi bời và chắc hẳn có lý do. Một người ăn mày, người gần gập làm đôi, chống hai nạng dừng lại trước bàn.
Nó tủm tỉm cười, khuôn mặt đầy nếp nhăn nhân hậu. Người có bộ râu hoa râm liếc nhìn nó và cau mày. Người còng nói:
- Này, con chim ưng của ta, ngươi từ miền nào đến đây?
- Từ đây không thể nhìn thấy được. Đi đi. Mày còn đợi gì nữa?
- Ngươi từ đâu tới? - người còng sẽ hỏi rất nhanh.
- Đi đi, anh làm cho người ta để ý đấy.
Không hỏi thêm gì nữa, người còng vểnh chòm râu lơ thơ, khua vang đôi nạng, đi về phía cuối phòng. Người dân ngoại ô, lo sợ, hỏi:
- Ai đấy?
- Một lữ khách trên đường đi của những trẻ mồ côi. - người có râu nghiêm nghị trả lời.
- Hắn nói với ông tiếng gì vậy?
- Tiếng nói của loài chim.
- Hình như hắn đã nhận ra ông đấy, ông bạn ạ.
- Hỏi ít chứ, nhà ngươi sẽ đỡ ngu ngốc đi... - Y rũ những vụn bánh mì lốm đốm trên bộ râu và đặt hai bàn tay to tướng lên bàn. - Bây giờ hãy nghe đây... Chúng ta từ miền sông Đông đến đây có việc mua bán.
Người dân ngoại ô vội nhích lại gần và chớp chớp mắt:
- Ông mua gì?
- Thuốc súng đại bác; ta cần một chục thùng. Chì - năm mươi pud (2). Dạ loại tốt để may quân phục mùa đông, sắt móng ngựa, đinh. Ta có tiền.
- Dạ tốt, sắt, những thứ này tìm được... Chì và thuốc súng thì khó: không thông qua các sở thì không thể kiếm ra được.
- Đó chính là việc phải làm, cố gắng làm sao không phải qua các sở.
- Tôi có một người bạn làm thơ lại, nhưng cần có quà cáp.
- Dĩ nhiên...
Người dân ngoại ô cài vội áo lông cừu lại, nói hắn sẽ cố thử xem sao - hắn sẽ dẫn viên thơ lại lại ngay. Hắn chạy vội ra ngoài. Gã nông dân cũng muốn buôn bán. Gã cau trán và đằng hắng:
- Này ông bạn, ông có cần lông cừu, hoặc da không? Năm mươi pud chì... Phải chăng các bạn Cô-dắc muốn đánh nhau?
- Để bắn chim cun cút đấy.
Người có râu ngoảnh đi. Người đi nạng đã trở lại. Tay cầm chiếc mũ đựng những của bố thí đã nhận được, nó ngồi xuống cạnh người có râu và không nhìn anh ta:
- Chào Ivan!
- Chào Opdokim, - người có râu trả lời không nhìn lại.
- Đã lâu không gặp nhau, ataman.
- Anh đi ăn xin à?
- Tôi ốm... Mùa hè này tôi nghỉ ngơi trong rừng. Nhưng cái đó không hợp với tuổi tôi nữa rồi. Chán lắm rồi, đến lúc chết thôi!
- Hãy kiên nhẫn một chút!
- Sao, có tin vui chăng?
Ivan cười khẩy. Qua làn khói hắn nhìn những người khách say rượu. Đôi mắt hắn trở nên lạnh lùng. Hắn nhếch mép, nói rất khẽ:
- Chúng ta đang phát động cả miền sông Đông đứng dậy.
Opdokim cúi xuống chiếc mũ của mình, như để đếm chỗ tiền lẻ:
- Tôi không biết, - nó nói rạch ròi từng chữ, - nghe nói người Cô-dắc miền sông Đông đã xẹp xuống. Họ sống ở các trang trại và sắm sanh, trở nên giàu có.
- Có nhiều bọn mới đến, bọn khố rách áo ôm. Chúng sẽ khởi sự, người Cô-dắc sẽ tiếp viện... Nếu không thì cũng đành: hoặc phải vượt sang Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc phải làm nông nô suốt đời ở Moskva... Thuở đó, chúng ta đã giúp Sa hoàng trước thành Azop. Bây giờ Sa hoàng đã chiếm cả miền Đông. Nhà vua ra lệnh phải đem nộp bọn mới đến. Từ Moskva, người ta đã đưa tới lũ cha cố đế nhổ bật đức tin cũ. Hết thời sông Đông êm đềm rồi.
- Đối với một công việc như thế phải có một người có đủ sức làm, - Opdokim nói, - để sự việc không xoay ngang như với Xtepan (tức là Xtepan Razin).
- Chúng ta đã có một người, ông ta không phải như Xtepan đã mất đầu vì ngu ngốc, mà là một lãnh tụ thực sự. Tất cả những người razkonic sẽ theo ông ta.
- Ivan, anh làm tôi suy nghĩ đấy, anh đã cám dỗ tôi Ivan ạ, trong khi tôi đang muốn nghỉ ngơi.
- Hãy đến nhập bọn với chúng tôi vào mùa xuân. Chúng tôi cần có những ataman lão thành. Chúng ta sẽ tha hồ tung hoành, hơn cả thời Xtepan nữa kia!
- Tôi ngờ, tôi ngờ lắm... Dòng dõi đó, còn lại được bao nhiêu? Anh và tôi, có thế thôi, thực tình...
Người dân ngoại ô trở lại, thở hổn hển, má rung rinh. Theo sau hắn là một viên thơ lại đầu hói, dáng điệu quan trọng, mặc áo nẹp kiểu Đức màu nâu đính khuy đồng, chân đi ủng dạ vẹt gót. Trên ngực hắn có một chiếc lông ngỗng cài vào khuyết áo. Vẻ khinh khỉnh, hắn ngồi vào bàn không chào hỏi ai. Nét mặt gian tham, đôi mắt đục như mắt Quỷ vương, lỗ mũi rộng. Người dân ngoại ô, đứng sau lưng hắn, nói thầm vào tai hắn:
- Kuzma Egortys, đây là người...
Không để ý đến những lời nói đó, viên thơ lại nói với một giọng uể oải:
- Bánh tráng! Bánh tráng với cá nướng!

Chương 107

Vương hầu Roman, con trai Boris Buinoxov, hoặc gọi cho gọn hơn, Roman Borisovich, mặc quần áo lót, đang ngồi ở cạnh giường. Ông ta húng hắng ho, gãi ngực và nách. Do một thói quen cũ, Ông muốn vò rối bộ râu nhưng bỗng hạ tay xuống: cằm ông đã bị cạo, sờ vào gai cá tay, thật tởm. Ông ngáp - u-ha-ha a-ha-ha - mắt nhìn khuôn cửa sổ nhỏ. Trời sáng dần, u ám và ảm đạm.
Xưa kia, vào giờ này, Roman Borisovich đã xỏ xong tay áo lông chồn, ấn chiếc mũ lông hải ly xụp xuống tận lông mày, và chống chiếc gậy dài, ung dung đi qua các hành lang kẽo kẹt bước ra ngoài thềm. Ông có gần năm mươi đày tớ: đứa thì giữ ngựa xe trượt tuyết có mui kín, đứa thì chạy ra mở cổng. Tất cả đều vui vẻ trật mũ, cúi rạp người chào ông, và đứa đứng gần hơn thì hôn chân ông. Chúng nâng tay ông, đỡ ông lên xe.
Bất cứ thời tiết nào, sáng sáng Roman Borisovich đi đến hoàng cung để đón chờ giờ phút đức vua (và sau này là lệnh bà công chúa - tức là công chúa Sofia) quay nhìn về phía ông, và ông đã có được cái diễm phúc ấy nhiều lần.
Mọi thứ đã mất hết! Khi ông thức dậy, ôi, lạy chúa! Sao lại có thể như thế được? Thậm chí cứ nghĩ rằng xưa kia ông sống yên ổn trong danh dự cũng đã thấy lạ lùng. Như ở trên bức vách bằng ván gỗ đáng lẽ để không thì lại treo bức tranh một ả Hà Lan, một con đĩ, váy tốc lên, vẽ ra để đầu độc, cám dỗ. Sa hoàng đã ra lệnh cho ông phải treo bức tranh đó trong phòng ngủ có thể là để chế giễu ông, và cũng có thể là để trừng phạt ông. Phải kiên nhẫn mà chịu đựng nỗi đau khổ của mình.
Vương hầu Roman Borisovich, mắt tối sầm, nhìn đống quần áo ông đã vứt tối qua lên ghế: bí tất len kẻ xọc ngang như bí tất đàn bà, một chiếc quần chẽn ngắn bó chặt cả đằng trước lẫn đằng sau, một cái áo nẹp màu lục có gắn lon trông ngỡ làm bằng sắt tây. Một bộ tóc giả cánh quạ treo ở đinh: dùng gậy đập cũng không rũ hết bụi. Những cái này có ích gì?
Viên đại thần giận dữ thét lên:
- Miska!
Một gã thanh niên lanh lẹn, mặc áo sơ-mi dài theo kiểu chính thống, nhảy vào qua khuôn cửa thấp có lót dạ đỏ; hắn cúi gập người xuống rồi đứng thẳng lên và hất mạnh cả mớ tóc ra đằng sau.
- Miska, đưa cho tao những thứ để rửa mặt đây.
Gã trẻ tuổi lấy cái chậu đồng và đổ nước vào.
- Bưng cái chậu cho ngay ngắn vào... Đổ nước vào tay tao!
Roman Borisovich thổi mạnh vào hai bàn tay nhiều hơn là rửa mặt, ông kinh tởm không muốn rửa cằm mình đã cạo nhẵn và ram ráp... Ông ngồi trên giường mặc quần, miệng càu nhàu. Miska đưa cho ông một cái đĩa đựng phấn và một miếng giẻ sạch.
- Còn cái gì đó nữa? - Roman Borisovich quát.
- Để đánh răng ạ.
- Tao không đánh.
- Xin tùy ý đức ông... Nhưng từ ngày đức Sa hoàng nói phải đánh răng, lệnh bà đã ra lệnh cho con sáng nào cũng phải đệ lên đức ông những thứ cần thiết.
- Đợi đó, tao sẽ ném cái đĩa vào mồm mày... mày trở thành một thằng lắm lời lắm rồi đấy.
- Xin tùy ý đức ông!
Mặc xong quần áo. Roman Borisovich cử động thử - cứng quá, bó quá. Ông cảm thấy chật chội... Tốt cái nỗi gì? Nhưng lệnh ra rất nghiêm: tất cả các nhà quý tộc phải mặc áo quần kiểu Đức và đội tóc giả dài để đi làm việc. Đành chịu đau khổ vậy... Ông tháo bộ tóc giả trên đinh xuống (bộ tóc không biết làm bằng tóc của người phụ nữ nào) và đội vào một cách chán ngán.
Miska muốn sửa sang lại những món tóc rất quăn, nhưng bị vương hầu đánh vào tay, Roman Borisovich ra ngoài, ở đó có một lò than hồng đang nổ lép bép. Dưới nhà, từ nhà bếp, - đi xuống bằng một cầu thang dốc, - bốc lên một mùi đăng đắng, khen khét.
- Miska, mùi hôi thối ở đâu ra thế? Lại pha cà- phê hả?
- Đức Sa hoàng đã ra lệnh cho lệnh bà và các tiểu thư sáng nào cũng phải uống cà-phê. Cho nên...
- Biết rồi... Không việc gì mà phải nhăn răng ra cười!
- Xin tùy ý đức ông.
Miska mở cánh cửa nhỏ lót dạ thông sang phòng khách. Roman Borisovich nghiêm trang làm dấu thánh, đến gần bàn để sách kinh. Trên tấm thảm nhung, một quyển kinh mở rộng, lốm đốm những giọt sáp. Ông hớt tàn bấc cây nến nhỏ, đeo cặp kính tròn gọng sắt vào.
Ông nhấm ngón tay, giở trang và đứng trầm ngâm, mắt nhìn đăm đăm vào góc có ánh lên mờ mờ những đồ trang sức của các bức tranh thánh chỉ có một ngọn lửa xanh lè leo lét cháy trước chân dung thánh Nikola Thần thông.
Kể cũng đáng phải suy nghĩ thật... Bởi vì nếu tình hình cứ tiếp diễn như thế này thì tất cả các gia đình vương tôn quý tộc sẽ lụn bại, ấy là chưa kể đến nỗi ô nhục và những lời chửi rủa.
- Thế đấy, họ đang phá hoại giới quý tộc! Cứ thử làm xem. Dưới thời Ivan Hung đế người ta cũng đã định phá hoại các gia đình vương tôn... Kết quả thế nào? Điên rồ, loạn lạc... Bây giờ cũng sẽ vậy thôi. Bọn chúng ta chính là rường cột của quốc gia... Phá bỏ bọn chúng ta đi thì sẽ không còn quốc gia nữa, không còn lý do để sống nữa... Hay là Sa hoàng muốn cai trị bọn nông nô chăng? Thật ngu dại! Nhà vua còn trẻ không biết lẽ phải và có chút lý trí thì chắc hẳn đã mất hết vì rượu chè ở Kukui!
Roman Borisovich sửa lại kính, và bắt đầu ê a đọc đúng kiểu. Nhưng ý nghĩ của ông lang thang vơ vẩn ra ngoài dòng chữ:
- Năm mươi tên đày tớ của ta đã phải ra lính... Ta đã phải đóng năm trăm rúp cho hạm đội Voronez. Tại dinh cơ của ta ở Voronez, người ta đã hầu như lấy không lúa mì của ta, người ta đã vét sạch tất cả các vựa thóc của ta. Ta đã nhập kho tích trữ lúa ba năm liền, ta đang chờ được giá cao (nỗi bực tức của ông mãnh liệt đến nỗi ông cảm thấy đắng cả miệng). Bây giờ người ta lại định tịch thu tất cả, tài sản của các tu viện cùng tất cả hoa lợi để bỏ vào Ngân khố. Đã có lệnh truyền chuẩn bị mười thùng thịt muối... Lạy Chúa, tại sao họ lại cần đến thịt muối?
Ông tiếp tục đọc. Bên ngoài khung cửa sổ nhỏ bằng chì lắp mi-ca, buổi sớm mai đang ngả màu xanh. Miska đứng gần ngưỡng cửa, xì xụp quỳ lạy.
- Trong ngày lễ giữa tuần chay, họ đã làm nhục những gia đình đại quý tộc. Ba mươi lăm tên ăn mặc hóa trang đến vào lúc nửa đêm, thậm chí còn muộn hơn. Thật kinh khủng! Mặt chúng bôi bồ hóng nhem nhuốc. Cả bọn đều say. Không thể đoán được ai là Sa hoàng. Chúng ăn như hùm beo, uống say mèm, nôn mửa, giật váy bọn nữ tì... Chúng be be như dê, gáy như gà trống, kêu như chim vậy.
Roman Borisovich dẫm chân tại chỗ. Ông nhớ lại ngày cuối cùng, họ đã đổ rượu cho ông say mê man như thế nào, đã lột quần ông rồi đặt ông ngồi vào một cái chậu đầy trứng để làm cho trứng vỡ... Chẳng có gì đáng buồn cười cả... Vợ ông đã nhìn thấy, cả Miska nữa.
- Ôi lạy Chúa! Tất cả những cái đó có ích lợi gì? Ích lợi gì?
Roman Borisovich nặng nề suy nghĩ: tai họa này duyên cớ vì đâu? Có lẽ đó là một sự trừng phạt của trời chăng? Ở Moskva, người ta thì thào rằng tên Vua mẹ mìn đã giáng thế. Bọn Cơ Đốc Giáo, bọn Tân Giáo là tay sai của nó; những hàng hóa ngoại lai đều mang dấu ấn của Quỷ vương. Người ta đồn rằng ngày tận thế đã đến. Ông nhìn ngọn nến, khuôn mặt đỏ nhăn nhó. Roman Borisovich có những mối hoài nghi:
- Không thể tin được... Chúa sẽ không để cho dòng dõi quý tộc Nga bị tiêu diệt... Cần phải đợi chờ và kiên nhẫn. Ê-hê hê!
Sau khi đã thành tâm cầu kinh, ông ngồi xuống dưới vòm nhà, gần cửa sổ, trước một chiếc bàn độc có trải thảm. Ông mở một quyển sổ tay lớn, trong có ghi những món tiền cho vay, những món tiền đã thu hồi, những món ông nhận được của các làng bằng tiền, hoặc bằng lúa mì, hoặc bằng những thứ hàng hóa khác.
Ông thong thả lật các trang giấy, đôi môi cạo nhẵn mấp máy. Xenka, gã thơ lại thứ nhất của ông bước vào phòng. Trước kia là một nông nô, y đã được đề bạt lên chức vụ này vì trí thông minh và tính tàn ác của y đối với gia nhân. Thật đúng là một con chó giữ nhà: y biết cách bắt người ta phải trả nợ cho lão chúa đất không sót một xu. Tất nhiên y ăn cắp nhưng có ý thức, biết giữ chừng mực và có băm nhỏ y ra, y cũng không thú nhận. Biết bao lần, Roman Borisovich đã túm bộ râu rậm rạp che kín cả đôi má phính của y và kéo lê y trong phòng, đập đầu y vào tường:
- Mày đã ăn cắp, thú nhận đi; mày đã ăn cắp!
Xenka, đôi mắt màu hung không hề chớp, nhìn lão lãnh chúa như nhìn đức Chúa trời. Khi lão ta thôi không đánh nữa, y kéo vạt áo bằng dạ thô màu xám, xỉ cái mũi mềm nhũn rồi khóc:
- Thưa đức ông Roman Borisovich, đức ông đánh tôi tớ của đức ông là sai. Cầu chúa tha thứ cho đức ông, con quả là vô tội.
Xenka nghiêng người đi qua cánh cửa hé mở, làm dấu thánh trước tranh Nikola Thần thông, cúi chào lãnh chúa rồi quỳ xuống.
- Sao, Xenka, ngươi báo tin lành gì đó?
- Thưa đức ông Roman Borisovich, nhờ ơn Chúa mọi sự đều tốt lành cả.
Xenka quỳ dưới đất, mắt người nhìn lên trần, bắt đầu trình bày bản báo cáo thuộc lòng: số tiền y đã nhận được ngày hôm qua, ai trả và trả bao nhiêu, số sản phẩm người ta đã nộp và từ đâu gửi đến, ai còn nợ. Y đã giải hai con nợ chầy bửa, hai nông dân Fetka và Kotxka từ làng Ivankovo về và từ tối hôm qua, người ta đang tra tấn chúng trong sân để bắt chúng phải trả nợ...
Roman Borisovich há hốc miệng vì ngạc nhiên: có thực chúng không muốn trả không? Ông giở sổ ra tra: năm trước đây, Fetka đã vay của ông sáu mươi rúp, nói là để cất một ngôi nhà gỗ mới, sắm một bộ yên cương, một lưỡi cày mới và lúa giống. Kotxka đã vay ba mươi bảy rúp và năm mươi kopeik; hình như nó cũng trí trá nói rằng để dùng vào việc nhà.
- Chà! quân chó má, chà, đồ vô lại. Ngươi đã ra lệnh dùng gậy đánh chúng rồi đấy chứ?
- Dạ, đã đánh chúng từ tối hôm qua rồi đấy ạ, - Xenka nói - Mỗi đứa có hai người đánh. Và đã ra lệnh là phải đánh không tiếc tay. Nhưng thưa đức ông Roman Borisovich, đức ông chẳng phải phiền lòng: nếu thằng Fetka và thằng Kotxka không trả nợ, ta đã có biên lai của chúng, ta sẽ bắt chúng làm nông nô mười năm. Ta đang cần nông nô.
Roman Borisovich ném bút lông ngỗng xuống bàn:
- Tao cần tiền chứ không cần nông nô. Bọn nông nô, tao phải nuôi chúng để rồi Sa hoàng lại bắt chúng đi lính?
- Nếu đức ông cần tiền, xin đức ông hãy làm như Ivan Artemist Brovkin: ông ta đã xây một xưởng dệt vải trong khu Zamoxkvoretoe, bán vải buồm cho nhà nước. Ông ta giàu nứt đố đổ vách.
- Tao có nghe nói thế... Nhưng tao cuộc rằng ngươi nói láo.
Đã từ lâu xưởng dệt của Brovkin làm cho Roman Borisovich mất ăn mất ngủ. Hàng ngày hoặc hầu như hàng ngày Xenka nói với ông về chuyện này; hiển nhiên là bản thân y cũng muốn vớ bẫm trong việc đó.
Lev Kirilovich Nareskin (người chú của Sa hoàng) hành động chắc chắn hơn: ông giao tiền cho người Hà Lan Van De Vích ở xloboda Đức và người Hà Lan này gửi tiền sang Sở hối đoái Amsterdam để sinh lợi. Cứ một vạn rúp, Nareskin kiếm được mỗi năm sáu trăm rúp lãi.
“Sáu trăm rúp!”.
- Cha ông chúng ta sống không phải lo âu, - Roman Borisovich dằn giọng nói. - Và quốc gia vững vàng hơn nhiều (ông mặc chiếc áo bông lót lông cừu do Xenka giơ lên cho ông xỏ tay). Chúng ta cùng ngồi họp với Sa hoàng, trầm ngâm suy nghĩ và đó là tất cả sự lo lắng của chúng ta... Còn ngày nay thì chúng ta thấy tiếc rẻ khi thức giấc.
Roman Borisovich đi vào cầu thang, ông đi xuống rồi đi lên qua những hành lang lạnh lẽo. Trên đường đi ông mở một cánh cửa ẩm sũng; từ trong đó bốc ra một mùi chua chua, một làn hơi nước nóng; ở cuối phòng, qua ánh sáng leo lét của một thanh đóm đang cháy, người ta trông thấy thấp thoáng bốn người nông dân - đi chân không, mặc áo sơ-mi - đang lấy chân vò lông cừu: “Này, này, hãy làm việc đi, hãy làm việc đi, đừng có quên Chúa”, Roman Borisovich nói. Những người nông dân không trả lời. Roman Borisovich tiếp tục đi, mở cửa phòng thêu. Một đám con gái và thiếu nữ - có đến hai chục người - bỏ bàn và khung thêu đứng dậy rồi cúi rạp chào ông. Vương hầu khịt mũi: “Này, bọn con gái, phòng chúng mày hôi lắm. Làm việc đi, làm việc đi đừng có quên Chúa”.
Roman Borisovich ghé mắt nhìn qua xưởng thợ may và xưởng thuộc da, có những tấm da ngâm trong những vạc lớn. Những người nông dân, nét mặt lầm lì, đang vò da bằng tay... Xenka đã thắp ngọn nến mỡ bò của một cái đèn tròn có đục lỗ, đang mở khóa những buồng chứa đồ và các chạn cất thực phẩm. Tất cả đều ngăn nắp.
Roman Bônxovich đi xuống cái sân rộng. Đã sáng rõ rồi. Trời nhiều mây. Người ta cho cừu uống nước ở giếng. Những xe chất cỏ khô xếp thành dãy từ cổng đến kho chứa cỏ. Đám nông dân ngả mũ. “Này, bọn nông dân, xe của chúng mày chất nhẹ quá đấy!”, Roman Borisovich thét mắng.
Từ tất cả những ngôi nhà gỗ nát và những túp lều lụp xụp có lò nhưng không có ống khói, tỏa ra những làn khói bị gió tạt xuống và lan ra khắp sân. Đâu đâu cũng thấy những đống tro và phân. Những mớ quần áo rách rưới khô cứng vì lạnh bay phần phật trước gió trên những sợi dây căng.
Trước chuồng ngựa, hai nông dân, mặt quay vào tường, đầu trần, đang dậm chân tại chỗ, vẻ mặt rầu rĩ. Trông thấy lão vương hầu bước ra thềm, hai tên đày tớ lực lưỡng vội vã từ trong chuồng ngựa chạy ra vớ lấy những chiếc gậy vứt vung vãi trên mặt đất và để tỏ ra mẫn cán, phang vào đít, vào đùi hai người nông dân.
- Ôi, ối, lạy Chúa, sao vậy? - Fetka và Kotxka rên rỉ. Từ trên thềm cao, Roman Borisovich khuyến khích bọn đày tớ:
- Tốt, tốt, đánh nữa đi, cho đáng kiếp chúng nó?
Fetka, một nông dân cao ngẳng, mặt rỗ và đỏ, quay lại:
- Thưa đức ông Roman Borisovich, vị ân nhân của chúng con, xin đức ông hãy rủ lòng thương, chúng con không còn gì hết. Con xin thề với đức ông là chúng con đã ăn hết bánh mì từ trước ngày lễ Noen rồi. Nếu đức ông ưng, xin đức ông hãy bắt gia súc của con. Không thể nào chịu nổi một sự hành hạ như thế này.
Xenka nói với Roman Borisovich:
- Gia súc của nó nhỏ, gầy, nó nói dối đấy! Nhưng có thể bắt con gái nó để bù vào nửa món nợ. Phần còn lại nó sẽ làm trừ.
Roman Borisovich nhăn mặt quay đi:
- Để ta suy nghĩ đã. Tối nay sẽ bàn lại.
Vượt lên trên những làn khói, vượt lên trên hàng cây trụi lá, một tiếng chuông vang lên, khô khan. Một đàn quạ bay trên những mái nhà tròn hoen gỉ. “Ôi, nghiêm trọng thay tội lỗi của chúng ta”, Roman Borisovich lẩm bẩm.
Lần cuối cùng, ông đưa mắt nhìn bao quát cơ nghiệp của mình và đi vào phòng ăn để uống cà phê.
Bà vương hầu Avdochia và ba con gái ngồi ở cuối bàn, trên những chiếc ghế xếp kiểu Hà Lan. Ở phía đó, chiếc khăn gấm đã được gấp lại để khỏi bị bẩn. Bà vương hầu, mặc áo dài rộng kiểu Nga bằng nhung sẫm nhưng lại đội một chiếc mũ ngoại quốc. Các cô con gái mặc áo dài kiểu Đức có đuôi quét đất. Natalia - mặc áo màu hoa đào, Olga - áo màu xanh lục kẻ sọc, và cô con gái đầu lòng, Antonida - áo màu “chiều tà không thể nào quên được”. Cả ba cô đều búi tóc ngược, rắc bột, kẻ lông mày, thoa má một vết son tròn, tay đỏ.
Dĩ nhiên, xưa kia, cả Avdochia lẫn con gái đều không có quyền vào phòng ăn: họ ở phòng riêng, ngồi trước cửa sổ nhỏ, bận công việc kim chỉ. Mùa hạ, họ chơi đu trong vườn cấm. Một ngày nọ, Sa hoàng đã tới cùng với bọn tùy tùng say rượu. Đứng ở ngưỡng cửa, nhà vua đưa cặp mắt đáng ghê sợ soi mói nhìn vào phòng ăn:
- Các cô con gái của nhà ngươi đâu? Hãy cho các cô ấy ngồi vào bàn?
Người ta chạy đi tìm các cô.
Các cô lo sợ kinh hoảng, khóc nức nở. Người ta dẫn ba cô ngốc đang sợ chết khiếp tới. Sa hoàng vuốt cằm từng cô một.
- Có biết khiêu vũ không?
Khiêu vũ, chao ôi! Ngay đến trả lời, các cô cũng không trả lời nổi, nước mắt giàn giụa vì hổ thẹn.
- Phải học... Vào ngày lễ giữa tuần chay các cô phải biết nhảy các điệu nhịp ba, polka, đối vũ...
Sa hoàng nắm lấy áo vương hầu Roman lắc mạnh:
- Ta muốn gia đình nhà ngươi phải tập lấy những cung cách lịch sự, nghe chưa?
Người ta đặt các cô con gái vào bàn, chuốc rượu các cô. Và điều lạ lùng là bọn con gái vô liêm sỉ ấy lại uống. Và chỉ một lát sau, các cô đã vui cười, như không có việc gì xảy ra cả.
Thế là phải đưa những cung cách lịch sự vào trong nhà. Bà vương hầu vì ngu ngốc nên lúc nào cũng ngạc nhiên. Nhưng các cô con gái thì chẳng bao lâu trở nên táo tợn, hỗn xược, nhõng nhẽo. Phải cho các cô cái này rồi cái kia. Các cô không muốn thêu thùa nữa. Từ sáng sớm, các cô đã ăn bận chỉnh tề, vui thú uống trà, cà phê.
Roman Borisovich bước vào phòng ăn. Ông liếc nhìn các cô con gái. Các cô chỉ khẽ nghiêng đầu chào. Bà Avdochia đứng dậy chào chồng:
- Chào ông...
Antonida rít lên qua kẽ răng:
- Ngồi xuống, Mutler (1)...
Roman Borisovich mới đi từ ngoài trời lạnh vào, muốn uống một cốc vodka và ăn một nhánh tỏi. Vodka thì còn có thể được nhưng tỏi thì chắc chắn là họ sẽ không để cho ông ăn.
- Thực tình tôi không muốn uống cà phê hôm nay. Có lẽ tôi bị lạnh ở ngoài thềm... Bà nó cho tôi một thứ gì mạnh.
- Fater (2), - Antonida nói, - sáng nào bố cũng nhắc: vodka. Biết bao giờ bố mới học được.
- Câm mồm đi, đồ ngựa cái, - Roman Borisovich quát - nếu không tao lấy roi...
Các tiểu thư ngoảnh mặt đi một cách ghê tởm. Bà Avdochia đưa cho chồng một ly rượu mạnh và cúi chào theo kiểu cổ. Bà khẽ nói:
- Ăn đi ông, chẳng việc gì mà nhịn....
Ông cạn cốc và thở mạnh. Ông nhấm một quả dưa chuột muối, nước muối rớt cả xuống áo.
Trên bàn ăn không có món bắp cải muối với quả nham lê đỏ, cũng không có món nấm muối băm nhỏ với hành. Vừa nhai một miếng bánh chả nhỏ, chẳng biết là nhồi cái quái gì, ông vừa hỏi:
- Miska đâu?
- Nó đang học số học, ông ạ. Thực tình tôi không biết rồi đầu óc nó sẽ ra thế nào?
Olga, mặt rỗ hoa, vốn cay cú cái món “lịch sự “ nhất, mím môi, dằn giọng:
- Miska đi chơi suốt ngày với bọn nông dân. Hôm qua nó lại chơi đánh đàn balalaika với chúng ở chuồng ngựa, chúng nó đánh bài, đét mũi nhau.
- Nó hãy còn bé, - bà Avdochia rền rĩ.
Mọi người im lặng một lát, Natalia, cô út, nhí nhảnh và hiếu động, nghiêng đầu về phía cửa sổ nhỏ (gần đây người ta đã thay thế mi-ca bằng những ô kính nhỏ).
- Này này, các cô, có khách đến!
Các cô gái xôn xao, giơ cao cánh tay lắc lắc để cho bàn tay xuống máu, trắng ra. Đám nữ tì chạy ra, cất dọn bát đĩa bẩn trên bàn và lật khăn trải bàn xuống.
Lão quản gia, một đày tớ già ngoan đạo, mặt mày cạo nhẵn nhụi và ăn mặc như để đi dự hội hóa trang ngày lễ Noen, gõ gậy xuống sàn và cất cao giọng giới thiệu bà lãnh chúa Vonkova.
Roman Borisovich miễn cưỡng rời khỏi bàn ăn để sắm vai con người lịch sự trước bà khách mới đến: vẫy vẫy mũ, khuỵu chân lia tròn.
Vương hầu Buinoxov phải làm những trò khỉ này trước mặt ai vậy? Cách đây bảy năm, nữ lãnh chúa Vonkova này tên là Xanka, xỉ mũi bằng vạt váy rách của mình. Bà ta xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo rớt. Bố bà ta, Ivaska Brovkin, là một tên nông nô cùng khổ. Đáng lẽ bà ta còn phải làm lụng vất vả cho đến lúc chết trước một cái lò không có ống khói. Ấy thế mà thấy chưa, viên quản gia phải xướng danh bà ta đấy. Bà ta đi xe thếp vàng đến đây! Chồng bà ta được Sa hoàng sủng ái... (Chồng bà ta là cháu con chú con bác của vương hầu Roman). Ma vương đã giúp bố bà ta: lão ấy đi buôn, theo người ta đồn, hiện nay lão được nhận tất cả công việc tiếp tế cho quân đội.
Lão quản gia mở cửa (thấp và hẹp theo kiểu cổ), một chiếc áo màu hồng vàng sột soạt. Bà lãnh chúa Vonkova, uốn éo đôi vai để trần, bước vào, bộ mặt xinh xắn điềm nhiên vác lên, với làn mi hạ thấp.
Nàng dừng lại giữa phòng. Những chiếc nhẫn lóng lánh trên tay, nàng cầm lấy tấm váy rộng thêu đầy đăng ten và hoa hồng, đưa về phía trước bàn chân nhỏ nhắn đi giầy sa-tanh, gót cao hai versok (3) và cúi chào không gập đầu gối chân trước, theo đúng quy tắc của phép lịch sự kiểu Pháp. Nàng cúi cái đầu rắc đầy bột, có cắm lông đà điểu chào bên phải, bên trái, khi đã xong xuôi, nàng người cặp mắt xanh, mỉm cười, hé mở hai hàm răng:
- Chào phu nhân và các tiểu thư!
Các cô Buinoxov đến lượt mình cũng ngả người về phía sau và hau háu nhìn bà khách.
Roman Borisovich, hai tay và hai chân giang ra, cầm mũ vẫy vẫy. Người ta mời bà lãnh chúa xơi một tách cà phê. Người ta hỏi thăm sức khỏe của gia đình và quý quyến. Các tiểu thư ngắm nghía cái áo của bà khách và thán phục kiểu tóc của bà.
- À à chắc hẳn là tóc được dựng trên gọng.
- Còn chúng mình thì người ta đặt đũa và độn giẻ vào dưới tóc.
Xanka trả lời các cô:
- Tìm được một người thợ uốn tóc, thật là cả một sự vất vả. Cả Moskva chỉ có một người thôi. Ngày lễ giữa tuần chay, các phu nhân phải chờ đợi suốt một tuần mới đến lượt, và những bà đến trước đã được sửa tóc thì ngồi ngủ trên ghế. Tôi đã nói với cha tôi mướn một người thợ uốn tóc ở Amsterdam đưa về đây.
- Nhờ bà chuyển lời chào thân ái của tôi đến ngài Ivan Artemist tôn kính. - vương hầu nói. - Xưởng dệt vải của ngài hoạt động ra sao? Tôi luôn luôn muốn tới thăm xưởng. Đó là một xí nghiệp mới lạ.
- Cha tôi hiện nay ở Voronez. Cả Vaxia lúc này cũng ở Voronez, cạnh đức vua.
- Thưa bà Alekxandra Ivanovna, chúng tôi biết, chúng tôi biết.
- Hôm qua, tôi nhận được một bức thư của Vaxia. - Xanka luồn hai ngón tay vào áo trong để hở rất thấp (Roman Borisovich chớp chớp mắt: chỉ một tí nữa thôi là mụ này sẽ trần truồng đến nơi) và rút ra một mảnh giấy nhỏ màu lam. - Có thể nhà tôi sẽ được cử đi Paris.
Vương hầu đằng hắng và hỏi:
- Ông nhà nói gì? Có nói gì về đức vua không?
Xanka rất thong thả mở bức thư, trán cau lại. Má và cổ nàng ửng hồng. Nàng nói rất nhỏ:
- Tôi tập đọc chưa được bao lâu. Xin thứ lỗi cho...
Lấy ngón tay dò theo những hàng chữ nét đậm, vấy mực lung tung, đầy chữ viết tắt và viết ngoáy, Xanka bắt đầu đọc rành rẽ, chậm rãi từng chữ:
“Chào Xasenka, nguồn ánh sáng của anh muôn năm. Hiện tình ở Voronez như sau. Sẽ không ở đây nữa. Anh không muốn làm em phải lo lắng, nhưng anh được nghe nói đức vua định cử anh cùng với Andrey Artamonovich Matveev đến La Hay, rồi đến Paris. Anh không biết nên nghĩ thế nào: đi xa quá và anh sợ. Nhờ ơn Chúa, tất cả mọi người đều mạnh khỏe. Herr (4) Pite gửi lời chào em, mới đây đức vua có nhắc đến em, trong một bữa ăn tối. Ngày nào hoàng thượng cũng làm việc. Hoàng thượng làm việc ở các công xưởng như một người thợ bình thường, tự tay rèn đinh và móc sắt, tự tay trét thuyền. Mọi người không có thì giờ cạo râu, hoàng thượng thúc ép mọi người rất dữ, ai nấy mệt nhoài. Nhưng hạm đội đã hoàn thành...”
Roman Borisovich gõ móng tay xuống bàn:
- Hừm... Dĩ nhiên, hạm đội, hừm... Tự tay rèn lấy, tự tay trét lấy... Như vậy là đức vua không biết dùng sức lực của mình vào đâu...
Đọc xong, Xanka nhẹ nhàng lau môi. Nàng gấp thư lại, bỏ vào trong áo.
- Đức vua sẽ trở về vào tuần lễ thánh. Tôi sẽ quỳ xuống chân người... Tôi muốn đi Paris.
Antonida, Olga và Natalia vỗ tay: “Chà! chà, chà!”. Nữ vương hầu Avdochia làm dấu thánh giá:
- Lệnh bà làm chúng tôi sợ. Khiếp quá: đi Paris... Ở đấy mọi thứ hắn là đều bẩn thỉu, nhơ nhớp!
Đôi mắt lam của Xanka tối sầm lại: nàng ép mạnh nhẫn vào ngực:
- Ở Moskva, tôi buồn quá! Nếu tôi được bay ra nước ngoài thì thích biết bao... Có một người Pháp hiện đang ở nhà công chúa Praxkovia Fedorovna. Ông ta dạy các kiểu cách lịch sự. Ông ấy cũng dạy cả tôi nữa. Giá mà các vị được nghe tất cả những chuyện ông ấy kể (nàng thở dài nhẹ). Đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy mình khiêu vũ điệu nhịp ba, mặc áo màu quả dâu. Tôi khiêu vũ khéo hơn tất cả các bà khác, đầu óc tôi quay cuồng, phái đàn ông đang khiêu vũ bỗng tránh ra một bên, vua Louis tiến về phía tôi và đưa cho tôi một bông hồng... Ở Moskva, bây giờ buồn quá đi thôi. Nhờ ơn Chúa, người ta đã hạ thây bọn xtreletz xuống, làm thế là tốt vì tôi sợ người chết một cách khủng khiếp!
Bà lãnh chúa Vonkova đã ra về. Roman Borisovich ngồi lại ở bàn một lúc; rồi ông ra lệnh cho đóng xe trượt tuyết mui kín để đến Bộ Đại Điện làm việc. Bây giờ ai ai cũng phải phục vụ. Cứ làm như ở Moskva thiếu công chức ấy! Người ta bắt buộc các nhà quý tộc phải cầm bút cạo giấy. Còn Sa hoàng thì người lem luốc hắc ín, nồng nặc mùi thuốc lá, đi múa rìu và uống rượu mạnh cùng với bọn nông dân:
- Ôi tình hình xấu lắm, ôi chẳng có gì đáng vui cả!
Vương hầu Roman Borisovich rền rĩ bước lên xe trượt tuyết.
-------------
Chú thích:
(1) Tiếng Đức: mẹ.
(2) Tiếng Đức: bố.
(3) Một versok bằng 4,4 cm.
(4) Tiếng Đức: ông, ngài.

Chương 108

Gần cổng Xpaskie, trong một cái hào sâu, đây đó có những chiếc cọc đã mục nhô lên khỏi mặt tuyết, Roman Borisovich trông thấy khoảng hai mươi chiếc xe có chiếu bằng vỏ gai phủ kín. Những con ngựa gầy gò nhỏ bé, buồn bã rũ đầu xuống. Bên bờ hào, một nông dân cầm cuốc chim uể oải đào xác chết đã cứng đơ của một tên xtreletz ra khỏi băng. Trời xám xịt. Tuyết cũng xám xịt. Ở Hồng trường, những người ăn mặc nghèo nàn, đầu cúi gằm, đang bước đi trong những vết xe đầy phân ngựa. Đồng hồ trên đỉnh tháp kêu rè rè, rền rĩ (xưa kia, tiếng chuông trong trẻo, giòn giã) Roman Borisovich cảm thấy rất buồn.
Chiếc xe trượt tuyết vượt qua một cái cầu cũ và đi vào cổng Xpaskie. Bên trong điện. Kremlin, mọi người đi lại, đội mũ không vành, như ở chợ. Có những chiếc xe trượt tuyết xoàng xĩnh đỗ ở trước bức tường buộc ngựa bị ngựa gậm nham nhở... Lòng Roman Borisovich se lại. Nơi đây đã trở nên trống trải, không còn thấy những cặp mắt trong sáng long lanh ở phía xa, sau cánh cửa sổ nhỏ của Sa hoàng, như những chiếc đèn dong đêm thắp lên để ca ngợi vinh quang của thành La Mã thứ ba! Buồn não thay!
Roman Borisovich dừng lại trước thềm của Bộ. Chẳng có ai đỡ ông ra khỏi xe. Ông tự xuống xe một mình. Ông vừa thở vừa leo lên cầu thang phía ngoài, có mái che. Bậc cầu thang bê bết những tuyết bị dẫm, be bét những bãi đờm. Từ phía trên có những người mặc áo bông ngắn xuống cầu thang vừa đi vừa chạy, gần như xô đẩy cả vị vương hầu. Tên cuối cùng có bộ râu hoa râm, con mắt táo tợn soi mói nhìn ông một cách hỗn xược. Roman Borisovich dừng lại ở lưng chừng cầu thang và phẫn nộ, gõ gậy xuống bậc thang:
- Bỏ mũ, bỏ mũ ra, thằng kia!
Thật hoài hơi! Trật tự đã được thiết lập trong điện Kreml là như thế đó.
Trong những căn buồng thấp lè tè của Bộ, sặc sụa mùi thối, mùi khói lò, sàn nhà không được quét dọn.
Ngồi sát cánh nhau ở những chiếc bàn dài, đám thơ lại nghí ngoáy bút trên giấy. Một gã trong bọn ngồi thẳng dậy, gãi cái đầu bù xù, một gà khác gãi nách.
Ngồi ở những bàn nhỏ, bọn ký lục - thầy cò khôn ngoan, người nồng nặc mùi chả nạc, cách xa hàng dặm vẫn ngửi thấy, đang lần giở những cuốn vở: ngón tay họ lần trên những lá đơn. Một ánh sáng nhợt nhạt, khó khăn lắm mới lọt qua được những cửa sổ nhỏ bẩn thỉu. Một tên ký lục chủ sự mũi rỗ, đeo kính, đi lại trước các bàn.
Roman Borisovich đĩnh đạc đi qua các phòng, từ bàn giấy này đến bàn giấy khác. Ở Bộ Đại Điện không thiếu việc làm và công việc rất rối rắm: đây là nơi quản lý Ngân khố của Sa hoàng, các cửa hiệu, bát đĩa bằng vàng, bạc; đây là nơi thu thuế thương chính và thuế đánh vào bọn Cô-dắc và bọn xtreletz, tiền thu nhập của các trạm xe, và các khoản thuế đánh vào các làng và các đô thị thuộc hoàng gia. Chỉ có tên ký lục và bọn thơ lại già của Bộ mới lần ra nổi. Đám đại thần mới được chỉ định ngồi hàng ngày ròng trong một cãn phòng nhỏ, nóng sực, vướng víu trong bộ quần áo kiểu Đức quá chật; qua những cửa kính mở đục họ nhìn hoàng cung ngày nay vắng vẻ, nơi xưa kia chỉ mặc áo lông hắc điêu thử, đi đi lại lại trên thềm phòng ngủ, trên đầu cầu thang dành cho các đại thần, tay phe phẩy mùi-soa lụa và bàn bạc những công việc quan trọng.
Những sự kiện ghê gớm đã xảy ra nơi đây. Như chỗ thềm cũ kia, ngày nay không cho ai vào nữa, theo truyền thuyết thì Sa hoàng Ivan Hung đế đã từ đó ra đi với bọn Opritsnic(1), rời điện Kreml đến xloboda Alekxandrokaia để trút lôi đình và bạo tàn vào những gia đình đại quý tộc đại thần. Nhà vua đã chặt đầu, thiêu sống các đại thần trên các lưới sắt và đóng cọc vào người họ. Nhà vua đã tịch thu cơ nghiệp của họ.
Nhưng Chúa đã không cho phép tiêu diệt hoàn toàn những người quý tộc.
Các gia đình đại quý tộc đã phục hưng. Tên Griska Otrepiev đáng nguyền rủa, một tên khác phá hoại dòng quý tộc Nga vinh quang, đã trốn khỏi tòa cung đình nhỏ bằng gỗ ở phía kia có nóc hình củ hành, bên trên cắm những hình gà trống bằng đồng. Đất Moskva đã trở thành một bãi sa mạc đầy rẫy đổ nát, đường sá ngập xương người. Nhưng Chúa đã không cho phép. Các gia đình đại quý tộc đã phục hưng.
Ngày nay một cơn giông bão mới đã đổ xuống để trừng phạt chúng ta vì tội lỗi của chúng ta...
“Hừ, hừ, hừ”, các đại thần ngồi trước những cửa sổ nhỏ trong căn phòng nóng sực, rền rĩ một cách ảo não. Như vậy là người ta muốn trị họ bằng cách này hay cách khác. Người ta đã cạo râu tất cả mọi người, ra lệnh cho mọi người phải làm việc cho nhà vua; con cái họ đã phải tòng quân hoặc bị phái đi những nơi xa lạ.
- Ê, ê, ê, lần này Chúa cũng không cho phép hoành hành đâu!
Bước vào phòng, Roman Borisovich nhận thấy ngay rằng trên kia lại gửi một “món quà” nữa xuống. Lão vương hầu già Maxtyn Lykov rung rung đôi má phị. Nhà quý tộc Ivan Endogurov, đại biểu Viện Duma (2) và viên dapife Lavrenti Xvinin đang ngập ngừng đọc một tờ giấy. Thỉnh thoảng họ lại ngẩng đầu lên và chỉ nói: “à, à!”.
- Vương hầu Roman, mời vương hầu ngồi xuống mà nghe, - vương hầu Maxtyn nói, giọng gần như khóc. - Sắp xảy ra cơ sự gì đây? Bây giờ ai cũng có thể chửi bới và nhục mạ chúng ta được. Chúng ta chỉ có một cách để trị bọn vô lại nhưng người ta đã tước mất của chúng ta rồi.
Endogurov và Xvinin tiếp tục dò đọc từng vần một chiếu chỉ của Sa hoàng. Trong chiếu chỉ nói như sau: các vương hầu và các đại thần, các nhà quý tộc đại biểu Viện Duma và các nhà quý tộc Moskva đã quấy rầy đức Sa hoàng và Đại công tước, v.v... với đơn từ của họ khiếu nại là họ đã bị nhục mạ. Ngày ấy ngày nọ, người ta đã đệ trình lên Đức Sa hoàng một lá đơn của vương hầu Maxtyn Grigorievich Lykov trình bày rằng ông ta đã bị trung úy Alioska Brovkin thuộc trung đoàn Preobrazenski chửi bới và nhục mạ trên thềm trước buồng ngủ của Sa hoàng... Khi bước lên bậc thềm, hắn đã hét vào mặt vương hầu Maxtyn: “Vì cớ gì mà nhà ngươi lại nhìn ta với bộ mặt hung tợn như vậy, ngày nay ta không còn là nông nô của nhà ngươi nữa, xưa kia nhà ngươi là một ông hoàng, ngày nay nhà ngươi chỉ còn là một hư ảnh”.
- Thằng mất dạy, thằng con nhà dân đen, thằng khố rách áo ôm ấy, - vương hầu Maxtyn lắc lư đôi má - lúc đó tôi công phẫn quá nên không nhớ hết, nhưng nó đã hét vào mặt tôi những câu còn tệ hơn thế.
- Sao, lúc đó nó còn hét vào mặt vương hầu những gì nữa? - Roman Borisovich hỏi.
- Gì nữa nhỉ, còn gì nữa nhỉ... Nhiều người đã nghe thấy, nó hét vào mặt tôi: “Maxtyn, con khỉ già, trụi lông, ghẻ lở...”.
- Ái chà, ái chà, ái chà, ức thật, - Roman Borisovich lắc đầu nói. - Nhưng này, thằng Alioska đó có phải là con lão Ivan Artemist không?
- Có ma quỷ biết nó là con cái nhà ai?
Endogurov và Xvinin tiếp tục đọc:
“Để người ta thôi khỏi quấy rầy hoàng thượng trong thời kỳ quốc gia có nhiều khó khăn này, Đức Sa hoàng và Đại công tước v.v... đã ra lệnh cho vương hầu Maxtyn, người đã viết đơn thỉnh cầu phải nộp số tiền là mười rúp, sẽ dùng để phân phát cho người nghèo, và từ nay cấm hắn không được đệ đơn khiếu nại về chuyện nhục mạ nhau...”.
Họ thở khụt khịt sau khi đọc xong. Vương hầu Maxtyn lại nổi cơn bực tức:
- Một hư ảnh? Hãy sờ vào tôi xem, các ngươi sẽ thấy tôi có phải là một hư ảnh không? Dòng dõi nhà tôi nguồn gốc bắt đầu từ vương hầu Lysko! Thế kỷ thứ XIII vương hầu Lysko với ba nghìn tay giáo đã ra khỏi cõi Hungary. Và từ Lysko đã sinh ra dòng họ Lykov, các vương hầu Briukhaty, Taratakhin, Xuponev và từ người con út đã sinh ra dòng họ Buinoxov.
- Ông nói bậy! Này vương hầu Maxty, lần này, thực quả là ông đã vẽ cho chúng tôi một hư ảnh, - Roman Borisovich quay phắt lại, lông mày cau có, cặp mắt quắc lên (chà! trông vương hầu Roman thật đáng sợ nếu như đôi má ông không nhẵn nhụi trơ trẽn, cái mồm không méo xệch và cũng không nhẵn nhụi trơ trẽn), - Từ xưa đến nay bao giờ dòng họ Buinoxov cũng đứng trên dòng họ Lykov. Dòng dõi nhà tôi bắt nguồn từ các vương hầu Secnigov. Còn dòng họ Lykov nhà ông, chính các ông đã tự ghi tên mình vào danh sách quý tộc dưới thời Ivan Hung đế... Chỉ có ma quỷ mới nhìn thấy vương hầu Lysko ra khỏi cõi Hungary.
Vương hầu Maxtyn trợn tròn mắt, quầng mắt xệ thành túi rung rung, bộ mặt có môi trên dày rung động như muốn khóc:
- Dòng họ Buinoxov! Chẳng phải tên kẻ cướp đã phân phát tài sản cho các người ở trại Tusino đó sao?
Hai vị vương hầu cùng đứng bật dậy và trừng trừng nhìn nhau một cách khinh bỉ từ đầu đến chân. Nếu không có Endogurov và Xvinin can thì có lẽ đã xảy ra chuyện ầm ĩ to tiếng. Họ giải thích làm cho hai vương hầu phải hổ thẹn và nguôi giận. Hai đấu thủ lau mồ hôi trên trán, trên cổ và ngồi xuống hai ghế khác nhau.
Để cho mọi người tạm quên không khí buồn tẻ, nhà quý tộc đại biểu Viện Duma Endogurov kể lại đầu đề các câu chuyện của các vị đại thần ở Viện Duma quốc gia. Bọn người đáng thương này dang hai tay phàn nàn: Đức Hoàng đế cùng với các cố vấn của Người ở Voronez chỉ biết có một việc: hạch tiền và tiền. Người đã khéo chọn bọn cố vấn, rồi cả bọn người xuất thân bần tiện, rồi bọn thợ mộc, thợ rèn, thủy thủ, tất cả toàn bộ tụi ăn cắp nhãi ranh mà kẻ đao phủ chưa kịp xẻo mũi. Sa hoàng nghe lời bọn kẻ cướp đó. Viện Duma thực sự của Sa Hoàng là ở Voronez kia. Đơn khiếu nại của bọn thợ thủ công và bọn con buôn từ các thành phố tuôn về tới tấp; bọn chúng đã tìm thấy một người chủ hợp sở thích... Thế mà người ta lại đòi đánh thắng vua Thổ Nhĩ Kỳ với cái lũ người ô hợp đó. Một nhân viên trong phái đoàn của sứ thần Porkovi Voznixyn đã biên thư từ Kaclovitx về Moskva: người Thổ coi khinh hạm đội Voronez; theo họ, hạm đội này sẽ không vượt khỏi được cửa sông Đông, mà sẽ mắc cạn vào các bãi cát.
- Lạy Chúa? Chúng ta không thể ngồi yên được sao? Gây sự với người Thổ Nhĩ Kỳ để làm gì? - Lavrenti Xvinin vốn tính ôn hòa nói. Ba người con của ông ta đã bị xung vào các trung đoàn, và người con thứ tư làm thủy thủ, ông lão rất buồn phiền.
- Ngồi yên à? Sao lại thế? - Roman Borisovich nói, giận dữ nhìn lão Xvinin trừng trừng. - Trước hết, Lavrenti, nhà ngươi xuất thân từ một gia đình tầm thường, đáng lẽ nhà ngươi không nên nói leo. Thế là một! - Roman Borisovich vỗ đánh đét một cái vào đùi. - Vậy theo nhà ngươi, chúng ta nên ngồi yên trước mặt bọn Thổ Nhĩ Kỳ, trước mặt bọn Tarta sao? Nếu vậy thì tại sao chúng ta đã hai lần cử vương hầu Vaxili Golixyn đến Krym?
Vương hầu Maxtyn, mắt nhìn về phía lò sưởi, nói xen vào:
- Không phải ai cũng có dinh cơ ở phía nam Voronez và Ryazan.
Roman Borisovich nhìn về phía Maxtyn khụt khịt mũi, nhưng làm ngơ không thèm đáp lại câu nói chống đối ấy.
- Ở Amsterdam, người ta trả tiền mỗi cân lúa mì Ba Lan một florin(3) và ở nước Pháp còn cao hơn nữa. Ở Ba Lan, bọn quý tộc giàu sụ. Nhà ngươi hãy nói chuyện với Ivan Artemist Brovkin, ông ta sẽ cho biết tiền bạc hiện nay ở đâu... Còn ta đây, năm ngoái ta đã phải khó khăn lắm mới bán nổi lúa mì của ta cho các hãng cất rượu mạnh, mỗi pud được có ba kopeik rưỡi. Như thế chẳng bực mình lắm sao? Đây là sông Vonga, kia là sông Đông. Và ta có khả năng xuất cảng lúa mì của ta bằng đường biển. Nếu Chúa đoái thương giúp chúng ta thắng vua Thổ thì thật là một việc lớn. Thế mà nhà ngươi lại khuyên chúng ta nên ngồi yên! Chúng ta cần phải có hải cảng, dù chỉ một hải cảng thôi, chẳng hạn như Kesk. Vả lại chúng ta đây, chúng ta hiện nay là La Mã thứ ba, chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ Mộ Thánh. Hay là chúng ta đã mất hết lương tâm rồi chăng?
- Chúng ta không thể thắng nổi vua Thổ, không. Chúng ta diễu võ dương oai là sai lầm,- vương hầu Maxtyn nói, như trút được gánh nặng. - Và nếu chúng ta có được đầy đủ lúa mì thì nên cảm tạ Chúa. Chúng ta sẽ không chết đói. Nhưng muốn vậy thì không nên móc thêm những cái đuôi dài lê thê vào gấu áo con gái chúng ta, và nhập vào nhà những cung cách đàng điếm.
Roman Borisovich ngồi im lặng một lát, mắt đăm đăm nhìn qua khe hở giữa hai đầu gối xuống một mắt gỗ trên mảnh ván lát sàn nhà. Rồi ông hỏi:
- Đồng ý. Vậy ai là người móc những cái đuôi dài lê thê vào gấu áo con gái mình?
Dĩ nhiên những kẻ ngu dại vác tiền đi mua cà-phê tại xloboda Đức, với giá một livre (4) là năm mươi và bảy mươi lăm kopeik, những kẻ đó, người nông dân sẽ không nuôi họ đâu, - vương hầu Maxtyn, liếc mắt về phía lò sưởi, lắc lư cái cằm nhẽo, rõ ràng. là đang tìm cách gây ra một cuộc cãi lộn nữa.
Có người đẩy mạnh cửa. Từ bên ngoài giá rét, một sĩ quan, mặt tròn, má đỏ, mũi hếch, nhảy vào không khí ngột ngạt trong phòng. Bộ tóc giả của y rối bù và chiếc mũ ba cạnh nhỏ của y xụp xuống tận tai. Đôi ủng nặng và chiếc áo nẹp màu lục, viền đỏ ở cổ tay, vấy đầy tuyết. Hiển nhiên là y đã cho ngựa phóng nước đại trong thành phố Moskva.
Trông thấy viên sĩ quan, vương hầu Maxtyn từ từ há hốc mồm: chính đây là kẻ đã làm nhục ông. Aleksey Brovkin, trung úy trong trung đoàn Preobrazenski, một trong số những sủng thần của Sa hoàng.
- Này các vị đại thần, hãy đình công việc lại. - Alioska trong lúc vội vã, để cửa mở toang. - Franx Yakolevich đang hấp hối.
Y lắc bộ tóc giả, đôi mắt long lanh một cách hỗn xược, như mắt của tất cả những kẻ nguồn gốc hèn kém được Sa hoàng Piotr che chở, rồi lại xồng xộc bỏ đi, gót giầy và đinh thúc ngựa nện mạnh trên những mảnh ván mục lát sàn nhà. Bọn thơ lại đầu hói lườm mắt nhìn theo:
- Này, anh chàng táo tợn, không thể khẽ khàng hơn được sao? Đây có phải là chuồng ngựa đâu. 
Một tuần trước đây, Franx Yakovlevich Lơfo dang yến tiệc linh đình trong lâu đài của hắn cùng với các sứ thần Đan mạch và Brandeburg. Mùa tuyết tan đã đến, tuyết tan nhỏ giọt từ mái nhà xuống. Phòng tiếp khách rất ấm áp. Franx Yakovlevich ngồi quay lưng vào lò sưởi có những khúc củi tạ đang rừng rực cháy, và hào hứng trình bày những dự kiến và uống mừng khối đồng minh huynh đệ giữa Sa hoàng Piotr với vua Đan Mạch và Tuyển hầu Bran deburg. Khi người quản gia đứng trước cửa sổ dùng khăn mùi-soa ra hiệu thì mười hai khẩu đại bác đặt trên những giá màu xanh tươi nổ một loạt đạn vang động như sấm. Những đám khói trắng che mờ bầu trời nắng chói.
Lơfo ngả lưng vào chỗ dựa của chiếc ghế nhỏ thếp vàng, mắt mở rất to, những món tóc giả của hắn bết vào đôi má xanh xao:
- Những cánh rừng già xào xạc trên đất nước chúng tôi dọc những con sông lớn... Riêng cá của chúng tôi cũng đủ nuôi sống tất cả các nước theo đạo thiên chúa. Chúng tôi có thể trồng đay, trồng gai trên hàng nghìn dặm. Lại còn những cánh đồng hoang, những đồng cỏ miền Nam, cỏ cao đến nỗi một người kỵ mã có thể ẩn nấp bên trong được! Khi nào chúng tôi tống cổ được bọn Tarta ra khỏi những nơi đó, chúng tôi sẽ có những đàn gia súc hằng hà sa số như sao trên trời. Chúng tôi cần sắt ư? Quặng có sẵn có ngay dưới chân chúng tôi. Ở miền Uran có những quả núi toàn là sắt. Các nước châu Âu có thể lấy gì mà làm chúng tôi ngạc nhiên được? Các ông có nhà máy... thì chúng tôi sẽ gọi người Anh, người Hà Lan đến. Chúng tôi sẽ bắt dân chúng tôi làm việc. Các ông chưa kịp thở phào một tiếng thì chúng tôi đã có đủ tất cả các thứ nhà máy. Chúng tôi sẽ dạy khoa học và mỹ nghệ cho thợ thủ công của chúng tôi ở các đại xã. Chúng tôi sẽ nâng các nhà công thương lên một địa vị mà chính họ cũng không hề dám mơ tưởng.
Lơfo chếnh choáng hơi men đã nói như vậy với các viên sứ thần cũng say mèm. Rượu và diễn văn của gia chủ đã làm họ mụ cả người. Người ta hầu như ngạt thở trong phòng khách.
Lơfo ra lệnh cho người quản gia mở cửa sổ, hắn khoái chí hít thở không khí lạnh đượm mùi tuyết tan. Cho đến tận lúc chập tối, hắn uống cạn hết cốc này đến cốc khác để chúc tụng những dự kiến vĩ đại. Buổi tối, hắn đến nhà sứ thần Ba Lan và khiêu vũ, uống rượu ở đó cho đến sáng.
Hôm sau, trái với thường lệ, Franx Yakovlevich cảm thấy mệt. Hắn mặc một chiếc áo ngắn bằng lông thỏ, bịt đầu bằng một chiếc khăn quàng và ra lệnh không cho một ai vào buồng. Hắn bắt đầu viết một bức thư cho vua Piotr nhưng không viết xong. Ngồi trước lò sưởi hắn rùng mình ớn lạnh, kéo áo chùm kín người.
Người ta cho mờì Policolo, một thầy thuốc người Ý đến. Policolo ngửi nước tiểu và đờm, rồi gãi gãi mũi và tặc lưỡi. Người ta cho đô đốc uống một liều thuốc tẩy và trích máu cho hắn. Nhưng vô hiệu. Đến đêm, Franx Yakovlevich lên cơn sốt hầm hập rồi hôn mê bất tỉnh.
Đầu đội thánh thể, mục sư Xtrum (có người phụ tá lắc chuông đi trước), phải chật vật mới lách được một lối đi qua phòng khách lớn. Lâu đài của Lơfo vang động tiếng nói, tất cả Moskva đều tập họp tại đây. Các cánh cửa luôn luôn mở ra, đóng sầm lại, gây ra những luồng gió hút. Đám gia nhân cuống quýt, nháo nhác; một số đã say rượu. Vợ Lơfo, Elizavet Franxevna, nét mặt tàn tạ lấm chấm đỏ, sụt sịt, bơ phờ, đứng đón vị mục sư ở cửa buồng ngủ của chồng. Chiếc áo màu quả dâu của bà thắt dải lỏng lẻo, những mớ tóc lưa thưa xõa sợi thò ra bên dưới bộ tóc giả. Bà đô đốc sợ đến chết khiếp trước đám đông những nhân vật tai to mặt lớn này. Bà hầu như không biết nói một câu tiếng Nga nào vì suốt đời sống trong các hậu phòng.
Hai bàn tay chắp lại để lên ngực ông mục sư, bà ấp úng nói bằng tiếng Đức:
- Tôi phải làm gì đây? Nhiều khách quá... Mục sư Xtrum ạ, ông hãy bảo dùm tôi: có lẽ nên dọn một bữa ăn nhẹ chăng? Bọn gia nhân đều như điên như dại, chẳng đứa nào nghe tôi. Các chìa khóa tủ đựng thức ăn đều ở dưới gối ông Franx tội nghiệp nhà tôi. - Đôi mắt màu vàng nhạt của bà đô đốc trào lệ; bà thọc tay vào trong áo lót rút ra một chiếc khăn mùi soa ướt và vùi kín mặt vào khăn. - Mục sư Xtrum, tôi sợ không dám vào phòng khách, tôi cứ luống cuống chẳng biết làm gì nữa... Điều gì sẽ xảy ra, điều gì sẽ xảy ra đây, mục sư Xtrum?
Ông mục sư với giọng nói trầm trầm thích hợp với hoàn cảnh, nói mấy lời an ủi bà đô đốc. Ông lấy tay vuốt bộ mặt màu xanh lơ cạo nhẵn nhụi của mình, phủi sạch mọi sắc thái phù phiếm của trần tục rồi bước vào phòng ngủ.
Lơfo nằm trên chiếc giường rộng, chăn đệm nhàu nát, mình tựa vào một xếp gối. Trên đôi má hóp và trên khuôn mặt dài của hắn, râu tóc mọc lởm chởm. Hắn thở gấp, hơi thở rít lên, cố căng bộ xương vai vàng khè tựa hồ hắn kéo một vòng cổ ngựa đang gắng sức để trở về với cuộc sống. Đôi môi hé mở đã khô lại vì sốt. Chỉ có cặp mắt là còn giữ được sinh khí đen láy và bất động.
Viên thầy thuốc Policolo kéo mục sư Xtrum ra một chỗ, nheo mắt, nheo má lại một cách có ngụ ý:
- Trường hợp đô đốc, - y nói, - thì các mạch thở, theo khoa học của chúng tôi, nối liền linh hồn với thân thể, đã đầy đờm đặc đến nỗi linh hồn chạy về thân thể qua những ống quản mỗi phút một co hẹp thêm và rất có thể các ống quản ấy sẽ tắc hoàn toàn.
Mục sư Xtrum nhẹ nhàng ngồi xuống đầu giường người sắp chết. Lơfo vừa tỉnh cơn mê sảng, có vẻ lo sợ. Khi nghe thấy gọi tên mình, hắn cố gắng đưa mắt nhìn ông mục sư một lát rồi lại quay nhìn về phía lò sưởi có một khúc củi ướt đang bốc khói. Bên trên những guột trôn ốc tô điểm mặt lò sưởi, có tượng Hải vương Neptun nằm dài, tay cầm chiếc đinh ba, dưới khuỷu tay là một cái lọ thếp vàng có nước thếp vàng chảy ra cuồn cuồn. Ở giữa, trong cái lỗ đen ngòm, khúc củi đang tỏa khói.
Xtrum cố gắng để vị đô đốc chú ý nhìn cây thánh giá của y và nói về niềm hy vọng vào một sự siêu thoát vĩnh cửu mà người trần nào cũng được hưởng... Lơfo ấp úng cái gì đó không nghe rõ. Xtrum cúi xuống gần đôi môi tím ngắt của người sắp chết. Giữa hai hơi thở hổn hển, Lơfo thốt ra được một câu:
- Đừng nói nhiều!
Tuy nhiên, ông mục sư vẫn làm nhiệm vụ của mình: rửa tội và làm thánh lễ cho người sắp chết. Khi y đã đi ra, Lơfo chống khuỷu tay nhỏm dậy. Người ta hiểu ý hắn muốn gọi người quản gia, bèn chạy đi tìm. Họ tìm thấy ông lão đang ngồi khóc nức nở ở dưới bếp.
Mắt sưng húp vì khóc, đầu đội chiếc mũ cắm lông đà điểu, tay chống gậy, người quản gia dừng lại ở chân giường. Franx Yakovlevich nói với lão:
- Hãy đi gọi nhạc công. Các bạn ta... Lấy cốc.
Bọn nhạc công không kịp thay đổi y phục: họ để nguyên quần áo đang mặc rón rén bước vào. Người ta bưng vào những cốc rót đầy rượu. Đám nhạc công vây quanh giường, đưa lên miệng sáu mươi chiếc kèn bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ và chơi một điệu vũ nhịp ba, điệu vũ của lớp người sang trọng.
Mặt Lơfo tái nhợt, đầy tử khí, đôi vai hắn vùi vào dưới gối, thái dương lõm xuống như thái dương ngựa. Đôi mắt hắn rực sáng, thèm khát vô biên.
Người ta đưa cho hắn một chiếc cốc, nhưng hắn không nâng nổi tay lên và rượu đổ tràn trên ngực.
Nghe tiếng nhạc, hắn lại ngất. Mắt hắn không nhìn thấy gì nữa.
Lơfo đã chết. Dân Moskva vui mừng khôn xiết. Giờ đây thế là quyền hành của người ngoại quốc đã đi đứt, xloboda Kukui đã hết thời. Tên cố vấn đáng nguyền rủa đã toi mạng rồi. Mọi người đều biết, mọi người đều thấy rõ là nó đã cho Sa hoàng uống bùa mê nước lú. Nhưng không ai dám nói. Những nỗi đau khổ của quân xtreletz đã được trả thù. Từ nay cảnh tang thương khổ não sẽ ngự trị trong lâu đài của Lơfo, cái hang của Quỷ vương.
Người ta kể lại rằng trong khi hấp hối, Lơfo đã ra lệnh cho đội nhạc công của hắn cử nhạc, cho những thằng hề của hắn nhảy múa, cho vũ nữ khiêu vũ, và chính bản thân hắn xanh lè như tàu lá, như một xác chết, đã chồm ra khỏi giường và cũng nhảy múa. Còn Quỷ vương thì huýt còi và gào thét trên các buồng sát mái lâu đài.
Ròng rã bảy ngày, các quan đại thần và đủ các loại công chức đến viếng quan tài viên đô đốc. Họ giấu kín niềm vui và nỗi sợ, tiến vào gian phòng cao rộng.
Giữa phòng, chiếc quan tài, phủ một tấm màn lụa đen che kín một nửa, sừng sững trên một cái bục. Bốn sĩ quan, gươm tuốt trần, đứng gác quanh quan tài, bốn sĩ quan khác đứng ở chân bục.
Người quả phụ, mặc áo tang, ngồi ở phía dưới, trước bục, trên một cái ghế xếp. Các viên đại thần bước lên bục và để tránh dơ bẩn, quay mồm, mũi đi phía khác, chạm má vào bàn tay tím ngắt của viên đô đốc ma quỷ. Rồi tiến lại gần người quả phụ, họ cúi rạp xuống chào, ngón tay chạm sàn nhà rồi rút lui.
Ngày thứ tám, vua Piotr từ Voronez tới, sau khi đã làm mệt lử nhiều ngựa trạm. Chiếc xe trượt tuyết nhỏ của nhà vua, có mui bằng da, đóng sáu ngựa, lao qua thành phố Moskva, tới thẳng sân lâu đài của Lơfo. Bầy ngựa màu lông khác nhau, bụng đầm đìa mồ hôi, thở hồng hộc một cách khó khăn. Một bàn tay thò ra bên dưới tấm rèm da, lần tìm dây để tháo khóa. Vừa lúc ấy, Alekxandra Ivanovna Vonkova từ trong lâu đài đi ra. Tình cờ, nàng đứng một mình trên thềm. Cứ trông bầy ngựa mà xét đoán, Xanka cho rằng đó là một khách thành phần hạ lưu đến viếng. Thấy xe mình bị chắn mất lối, nàng nổi nóng, bảo người đánh xe của Sa hoàng:
- Cút đi, thằng kia với đàn ngựa khốn nạn của mi! Này, sao mi cứ đứng sừng sững ra đấy chắn lối đi của ta?
Không tìm thấy khóa, bàn tay giật đứt cái dây buộc tấm rèm da; từ trong chiếc xe che kín mít, một người bước ra, đầu đội mũ cát két bằng nhung có tai, mình khoác chiếc áo lông cừu phủ dạ xám, chân đi ủng dạ. Khi người ấy đứng thẳng lên, Xanka nhận thấy người đó rất cao lớn. Nàng ngẩng đầu lên... Một khuôn mặt tròn, vẻ mệt nhọc, mi mắt sưng húp, bộ ria màu sẫm dựng ngược. Ôi! Lạy chúa, đúng là Sa hoàng!
Vua Piotr co duỗi chân cho giãn gân cốt.
Đôi lông mày nhíu lại. Nhà vua đã nhận ra người con gái nuôi của mình và khẽ nhếch miệng mỉm cười. Nhà vua nói, tiếng không rõ:
- Thật là tai họa! Tai họa!
Rồi nhà vua đi vào trong lâu đài, vung vẩy tay áo lông cừu. Xanka đi theo.
Nhác thấy Sa hoàng, người quả phụ sững sờ ngồi ngay đơ trên ghế. Rồi bà đứng phắt dậy và định quỳ xuống chân nhà vua. Vua Piotr ôm lấy bà, xiết chặt vào lòng vâ nhìn chiếc quan tài qua đầu người quả phụ. Những người hầu chạy đến, cởi áo lông cừu cho nhà vua. Vua Piotr, chân đi ủng dạ, bước đi như con gấu, tiến lên vĩnh biệt người quá cố. Nhà vua đứng rất lâu, tay đặt lên thành quan tài. Nhà vua cúi xuống, hôn dải băng liệm, trán và hai bàn tay người bạn chí thiết của mình. Đôi vai nhà vua rung động, dưới chiếc áo nẹp màu xanh, cổ vươn thẳng.
Xanka nhìn lưng nhà vua, mắt trào lệ. Má tì vào bàn tay như kiểu phụ nữ nông thôn, nàng khẽ rên rỉ, giọng nho nhỏ, yếu ớt. Nàng xót thương, xót thương lắm, nhưng tại sao, nàng khó mà nói lên được.
Từ trên bục, vua Piotr bước xuống, miệng thở phì phò như một đứa trẻ. Nhà vua dừng lại trước mặt Xanka. Xanka lắc đầu, vẻ mặt sầu não.
Nhà vua đưa tay lên mắt, hất mớ tóc quăn màu sẫm đã ẹp lại trong khi đi đường:
- Ta sẽ không còn ai là bạn như Lơfo nữa. Lơfo với ta đã cùng nhau chia sẻ vui buồn. Hai chúng ta đều có những ý nghĩ như nhau... - Bỗng nhà vua rụt tay lại và quay đi, mắt ráo hoảnh, và trông nhà vua giống như một con mèo. Chừng một chục viên đại thần bước vào phòng khách, hấp tấp làm dấu thánh.
Theo cấp bậc, người cao chức đi đầu, họ cung kính tiến đến gần Piotr Alekseevich rồi quỳ xuống, bàn tay áp xuống sàn nhà, dập mạnh trán vào các mảnh ván ghép bằng gỗ sồi.
Vua Piotr không nâng ai dậy, không ôm hôn ai và cũng không chào hỏi ai, ngay đến gật đầu cũng không. Nhà vua đứng đó, kiêu kỳ, xa lạ, hai cánh mũi phập phồng.
- Các ngươi thỏa lòng lắm, các ngươi thỏa lòng lắm, ta biết! - nhà vua chỉ nói thế.
Rồi liền đó, nhà vua rời khỏi lâu đài, lên xe trượt tuyết.
-------------
Chú thích:
(1) Lính chiến của đạo quân do Ivan đệ tứ lập ra.
(2) Duma: Hội đồng. Có hội đồng thành phố, Hội đồng quốc gia, Hội đồng đại thần... Đây là Hội đồng nhà quý tộc.
(3) Tiền Hà Lan.
(4) tức pound = 0,453 kg.

Chương 109

Mùa thu đó, ở xloboda Đức, cạnh nhà thờ Tân giáo, người ta đã xây dựng một tòa nhà bằng gạch kiểu Hà Lan có tám cửa sổ trông ra phố. Bộ Hoàng cung đã hấp tấp xây xong tòa nhà đó trong hai tháng. Anna Ivanovna Monx dọn đến ở tòa nhà này cùng với mẹ và em trai là Vilim.
Sa hoàng đến đó một cách công khai và thường ngủ lại đêm. Ở Kukui (và ở Moskva cũng vậy), người ta gọi nhà này là cung của nữ hoàng. Anna Ivanovna sắp đặt một nếp sống rất sang trọng: một quản gia và những người hầu mặc áo dấu, ở chuồng ngựa có hai cỗ ngựa, mỗi cỗ sáu con ngựa Ba Lan rất đắt tiền và đủ loại xe dùng trong mọi trường hợp.
Ngày nay, người ta không còn có thể vào nhà họ Monx như xưa kia ở quán rượu để uống một cốc bia.
- Hê, hê, - người Đức nói với nhau, - cách đây nào có bao lâu, cô nàng Ansen mắt xanh, đeo tạp dề sạch sẽ, còn đi bưng rượu bia bày lên mặt bàn và đỏ mặt lên như hoa hồng khi một khách hàng vui tính vỗ vào cái mông nhỏ bé của cô mà nói: “Này, con cá nhỏ của tôi ơi hãy uống chỗ bọt rượu bia đi, xin nhường cô phần hương hoa, tôi xin nhận phần bia...”.
Giờ đây, trong đám dân ở xloboda Kukui, chỉ những kẻ tai mắt, những công thương gia mới lui tới nhà họ Monx mà cũng chỉ vào dịp những ngày lễ, hoặc khi được mời đến dự tiệc. Dĩ nhiên là người ta có đùa cợt nhưng không quá trớn. Mục sư Xtrum bao giờ cũng ngồi bên phải Ansen. Lão thích kể những đoạn vui hoặc có tính chất khuyến thiện trong lịch sử La Mã. Khách khứa, người phì nộn, nét mặt mơ màng, dùng cốc bia để biểu thị ý kiến và thở dài một cách khoan khoái, mồm than thở về nhân sự vô thường. Anna Ivanovna rất quan tâm đến việc cho ngôn ngữ cử chỉ trong phòng khách của mình được trang nhã.
Những năm ấy, sắc đẹp của nàng rạng rỡ như hoa nở: dáng đi của nàng đường bệ, mắt nàng phản ánh sự bình tĩnh, lòng thành tín và tâm tư ưu buồn. Mặc dù người ta nói gì đi nữa, mặc dù người ta cúi chào sát đất cỗ xe lồng kính của nàng - thực ra Sa hoàng tìm đến chỉ là để ăn nằm với nàng. Rồi đây sẽ ra sao? Bộ Quản lý bất động sản đã trao tặng Anna Ivanovna nhiều làng. Những buổi vũ hội, nàng có đủ châu ngọc để trang sức như người khác; nàng đeo ở ngực bức chân dung của vua Piotr to bằng một chiếc đĩa con, nạm kim cương. Quả thực đối với nàng, người ta không từ chối một cái gì cả: “Nhưng rồi sau đây sẽ ra sao? Rồi đây, tình hình vẫn cứ thế thôi”.
Ngày tháng trôi qua. Phần lớn thời gian, vua Piotr sống ở Voronez hoặc dùng ngựa trạm phóng từ Nam hải đến Bắc hải. Anna Ivanovna gửi thư cho nhà vua và mỗi lần lại kèm theo hàng nửa tá chanh hoặc cam (đem từ Riga về), xúc xích nhồi thịt ướp thảo quả, rượu mạnh ngâm thanh thảo. Nhưng ai giữ mãi được người yêu bằng thư từ và quà cáp?
Và giả sử có một phụ nữ khác bám lấy nhà vua và len lỏi được vào trái tim nhà vua thì sao?
Anna Ivanovna đã trằn trọc nhiều đêm trắng trên đệm lông, không sao ngủ được. Mọi thứ đều mong manh, mập mờ, không minh bạch. Đâu đâu cũng toàn là những kẻ thù đang rình lúc cô nàng họ Monx thất thế.
Ngay cả đến Lơfo, người bạn thân thiết nhất của nàng, mỗi khi nàng hướng câu chuyện vào vấn đề ấy cũng nói quanh co, - chẳng hiểu Piotr sẽ tiếp tục cuộc sống lộn xộn vô trật tự của chàng thanh niên không vợ như thế này cho đến bao giờ? - và cười một cách khó hiểu; hắn trìu mến véo má Ansen và bảo:
- Điều hứa hẹn thường phải đợi lâu...
Ôi, chẳng ai hiểu nàng cả: Anna Ivanovna chẳng hề mơ tưởng gì đến ngai vàng, đến quyền uy - quyền uy là một điều đáng sợ, phù vân... Không, nàng chỉ mong muốn sự ổn định, trật tự, đoan chính, chỉ còn một cách cuối cùng - bùa mê, yêu thuật.
Theo lời khuyên của mẹ, một hôm trong lúc vua Piotr đang ngủ say, Anna Ivanovna đã lẻn ra khỏi giường và khâu vào gấu áo nhà vua một mảnh vải nhỏ thấm máu của nàng... Khi lên đường đi Voronez, nhà vua đã để áo lại Preobrazenskoe và từ ngày ấy không bao giờ mặc chiếc áo đó nữa. Mẹ Anne mời nhiều bà thầy bói đến phòng ở phía sau. Nhưng cả mẹ lẫn con đều không dám nói ra mình muốn hỏi về người nào. Vương hầu-chấp chính Romodanovski bắt tội điếu hình những kẻ làm nghề tà thuật.
Ví thử bây giờ có một người bình thường (nhưng giàu có) say mê Anna Ivanovna, nàng sẵn sàng từ bỏ tất cả để sống một cuộc đời yên ổn. Một căn nhà nhỏ sạch sẽ, không có quản gia cũng được; ánh nắng trải trên sàn nhà đánh xi; trên bậu cửa sổ, những chậu hoa nhài tỏa hương thơm ngát; từ trong bếp bốc ra mùi cà phê rang; chuông nhà thờ binh boong dịu lòng người, và những nhà thân hào đi ngang qua cửa kính cẩn chào Anna Ivanovna đang ngồi thêu thùa sau cửa sổ.
Sau khi Lơfo chết, hình như lúc nào cũng có một đám mây đen lơ lửng trên đầu Anna Ivanovna. Trong tuần lễ ấy (trước khi vua Piotr đến), nàng đã khóc nhiều đến nỗi mẹ nàng phải mời thầy thuốc Policolo đến. Thầy thuốc đã cho thụt và uống thuốc nhuận tràng để tẩy những chất nhớt thừa xuất hiện trong máu vì sầu não.
Chính Anna Ivanovna cũng không hiểu tại sao nàng kinh hoàng chờ đợi vua Piotr tới. Nàng nhớ đến gương mặt sạm màu đất và cái má sưng vù vì đau răng, khi Piotr tới nhà Lơfo sau cuộc hành hình bọn xtreletz tàn khốc nhất. Giận dữ đọng lại trong cặp mắt mở to của nhà vua. Hai bàn tay, đỏ ửng vì lạnh, đặt trước một chiếc đĩa không. Nhà vua không ăn, không nghe những câu nói bông đùa của mọi người ngồi ở bàn. (Khách vừa nói đùa vừa đánh răng lập cập). Nhà vua chẳng nhìn ai, nói những điều không ai hiểu:
- Bọn chúng không phải chỉ là bốn trung đoàn, chúng rất đông... Khi đặt đầu vào thớt trảm, chúng đều làm dấu thánh với hai ngón tay... Để bảo vệ thời cổ, để bảo vệ sự nghèo khổ... Để sống trần trụi và ngu dốt. Dân các đại xã! Không phải bắt đầu từ Azop mà phải khởi sự từ Moskva!
Cho đến nay Anna Ivanovna vẫn còn rùng mình khi nhớ lại nét mặt Pite lúc ấy. Nàng cảm thấy con người đó, kẻ đao phủ đó, đã dứt nàng ra khỏi khung cửa sổ yên tĩnh của nàng và đẩy nàng tới những mối lo âu ác nghiệt... Tại sao? Có đúng thật Pite là Quỷ vương như người Nga vẫn thì thào với nhau không? Tối đến, nằm trên giường, dưới ánh sáng dịu dàng của một ngọn nến nhỏ, Anna Ivanovna vặn cánh tay, nức nở, tuyệt vọng:
- Mẹ ơi, mẹ, làm thế nào? Con không yêu Pite, Pite sẽ đến, nóng nảy... Còn con, con cứ như là chết rồi ấy... Đối với con, có lẽ chui vào áo quan như Franx đáng thương kia còn hơn.
Một buổi sáng, vẫn để nguyên quần áo ngủ, mắt sưng húp, nàng nhìn qua cửa sổ thấy chiếc xe trượt tuyết có mui của Sa hoàng đỗ ở bên kia hàng giậu trên đường phố lồi lõm. Lần này nàng không hối hả vội vã như mọi lần: mặc kệ, cứ để nhà vua thấy nàng ăn mặc như thế này, đầu đội mũ ngủ, vai phủ chiếc khăn quàng len. Khi đi qua khu vườn nhỏ, vua Piotr cũng trông thấy nàng ở cửa sổ. Nhà vua gật đầu chào, không mỉm cười.
Tới cửa, vua Piotr chùi chân vào chiếc nệm rơm. Trông nhà vua tỉnh táo và bình tĩnh.
- Chào Annuska, - nhà vua dịu dàng nói, hôn nàng vào trán. - Thế là chúng ta mồ côi rồi đấy. - Nhà vua ngồi xuống, lưng tựa vào tường, bên chiếc đồng hồ treo, quả lắc đồng như một bộ mặt tươi cười đang chậm rãi đung đưa. Vua Piotr nói khẽ, như ngạc nhiên thấy thần chết thật không biết điều. - Franx - Franx... Một đô đốc tồi nhưng đáng giá cả một hạm đội. Thật là một tai họa, một tai họa lớn, Annuska ạ... Nàng còn nhớ ngày Franx dẫn ta lần đầu tiên đến nhà nàng chứ. Nàng còn là một cô bé, sợ ta đánh vỡ mất hộp nhạc. Lẽ ra thần chết không nên lấy mất Franx đi... Franx không còn nữa! Thực không tưởng tượng được!
Anna Ivanovna lắng nghe, chiếc khăn len angora chùm kín đầu đến tận mắt. Nàng không chuẩn bị trước nên chẳng biết đáp sao. Nước mắt nàng ròng ròng dưới khăn. Sau cánh cửa, người ta thận trọng nhẹ nhàng sắp xếp bát đĩa. Anna Ivanovna khịt khịt mũi đầm đìa nước mắt, và ấp úng rằng chắc giờ đây, Franx đã ở bên Chúa. Vua Piotr nhìn nàng một cách kỳ quặc.
- Pite, bệ hạ từ xa tới chưa ăn uống gì. Xin bệ hạ nghỉ lại đây. Mời bệ hạ ăn uống đôi chút. Cũng vừa may hôm nay có xúc xích nướng mà bệ hạ vẫn thích.
Nàng buồn rầu hiểu rằng ngay đến xúc xích nhà vua cũng không thiết. Nàng ngồi xuống cạnh nhà vua, cầm lấy bàn tay có mùi da cừu và đưa lên miệng hôn. Còn tay kia, nhà vua vuốt ve tóc nàng dưới mũ:
- Tối nay, ta sẽ tạt qua đây một lát... Thôi đủ rồi, đủ rồi, tay ta ướt hết cả... Cho ta một miếng xúc xích, một cốc vodka... Đi lấy đi, đi lấy đi... Hôm nay ta bận nhiều việc lắm.

Chương 110

Lơfo được chôn cất rất trọng thể. Ba trung đoàn diễn hành với đại bác và cờ rủ. Sau xe linh cữu đóng thẳng hàng mười sáu con ngựa ô, người ta vác những đệm trên đặt mũ, gươm và đinh thúc ngựa của đô đốc. Một kỵ sĩ mặc áo giáp đen và đội mũ cài lông chim cũng màu đen, cầm một bó đuốc chúc xuống đất. Sứ thần và phái viên các nước mặc tang phục theo sau.
Rồi đến các vị đại thần, các quan văn võ của triều đình, các vị quý tộc của Viện Duma và của Moskva, khoảng một nghìn người. Kèn đồng thổi, trống đánh chậm rãi. Vua Piotr đi đầu đại đội thứ nhất của trung đoàn Preobrazenski.
Không thấy Sa hoàng đi cạnh, vài vị đại thần đã dần dần nhanh chân vượt lên trên các sứ thần nước ngoài để dẫn đầu đám tang. Các sứ thần nhún vai, thì thầm với nhau. Đến cổng nghĩa trang họ bị gạt lại hết.
Roman Borisovich Buinoxov và vị vương hầu rất xuẩn là Xtepan Beloxenvki đi sát ngay bánh xe, tay vịn vào xe tang. Nhiều người Nga chếnh choáng say, tập trung từ sớm tinh sương để đi dự lễ di cữu, họ đói meo: không đợi bữa ăn sau đám tang, họ xúm lại quanh các bàn đầy ắp các món nguội mà ăn uống.
Khi linh cữu được đặt xuống đống đất sét giá lạnh hất từ dưới huyệt lên, vua Piotr bước nhanh tới. Nhà vua đưa mắt nhìn bộ mặt cạo nhẵn của các vị đại thần - phút chốc bỗng đâm ra rụt rè e sợ, - và nổi cơn thịnh nộ ghê gớm đến nỗi có người phải nấp vào sau lưng người bên cạnh. Nhà vua hất đầu ra hiệu gọi lão Lev Kirilovich bụng phệ:
- Tại sao họ lại len lên trước các sứ thần? Ai cho phép?
- Thần đã xỉ vả họ, đã trách mắng họ không nghe, - Lev Kirilovich đáp lại thật khẽ.
- A, đồ chó! - Rồi lớn tiếng hơn. - Không phải là người, mà là chó! - Nhà vua lắc lắc cổ, quay đầu lại, lấy ủng đá bừa.
Các sứ thần và phái viên rẽ đám đại thần để đến tận huyệt, nơi nhà vua đứng, xa lạ với mọi người, rét run trong chiếc áo nẹp trắng bằng dạ, một mình bên chiếc quan tài mở nắp. Người nào người nấy khiếp sợ nhìn Sa hoàng đợi chờ xem nhà vua còn giở trò gì nữa.
Nhà vua cắm gươm xuống đất, quỳ xuống, áp mặt mình vào di hài người bạn thông minh, ưa mạo hiểm, trác táng, phóng túng và trung thành. Nhà vua đứng dậy, giận dữ lau nước mắt:
- Đóng áo quan lại... Hạ huyệt đi.
Hồi trống từ biệt vang lên, cờ ngả xuống, súng đại bác nổ ầm ầm khạc ra những đám mây trắng. Một pháo thủ lơ đễnh, không kịp tránh: lửa đạn đã bắn bay đầu hắn.

Chương 111

Những người dân lành, buôn bán và thợ thủ công để xe trượt tuyết của họ lại ở ngoài cổng, bỏ mũ ra rồi leo lên chiếc cầu thang có mái che bắt đầu từ giữa sân, và bước vào lâu đài Preobrazenskoe. Các gosti (1) và các đại biểu của phường buôn thì đến đây bằng xe tam mã, xe trượt tuyết phủ thảm. Họ mạnh dạn bước vào, mình mặc áo cầu bằng dạ Hamburg, lót lông cáo. Căn phòng cũ nát không được sưởi ấm. Những người mới đến nhìn trần nhà bị võng xuống và nứt nẻ, lần dạ đỏ bọc các ghế dài và các cánh cửa đã bị nhậy cắn. Họ nói:
- Ngôi nhà chẳng đẹp gì lắm... Sự quan tâm chăm nom của các vị đại thần là thế đấy... Thật đáng tiếc, thật đáng tiếc!
Người ta vội vã tập hợp các thương nhân lại theo danh sách đã ghi từng tên. Có nhiều người không đến, sợ phải ăn bằng bát đĩa của giáo phái Nikon và hút thuốc lá. Các thương nhân nghi ngờ lý do mà Sa hoàng đã triệu tập họ vào cung.
“Người ta đã chôn đi một con quỷ nhưng con quỷ kia vẫn còn đó. Có lẽ hắn giết người còn chưa đủ”.
Cách đây ít lâu, trên đoạn đầu đài ở Hồng trường, theo nhịp trống, một viên lục sự của viện Duma đã đọc sắc chỉ quan trọng dưới đây:
“Hoàng thượng được biết là các gosti và các thương nhân khác; và tất cả các thương nhân cùng thợ thủ công ở các đại xã đã bị nhiều thiệt hại lớn do các tổng trấn, công chức các bộ và mọi loại công chức khác gây ra. Hoàng thượng rất nhân từ ra lệnh về vấn đề này: tất cả các vụ kiện cáo, các đơn thỉnh nguyện và các công việc buôn bán khác hoặc liên quan đến thuế má nộp cho Nhà nước, sẽ thuộc quyền hạn các xã trưởng do các thương nhân sẽ bầu ra theo ý họ trong một năm, chọn trong số những người chính trực và lương thiện. Một trong những xã trưởng đó sẽ được bầu làm chủ tịch trong một tháng...”
Tại các thành phố, các đại xã và các xoloboda được lệnh bầu xã trưởng các zemstvo (2) chọn trong số những người tốt nhất, công minh nhất để xử án và thu thuế. Về thuế quan và thuế thu ở các quán rượu, các thương nhân cũng sẽ bầu lấy các xã trưởng để thu thuế. Các xã trưởng sẽ họp và điều khiển công việc buôn bán và thuế má tại một Hội đồng xã trưởng đặc biệt. Hội đồng này sẽ trình bày thẳng lên Sa hoàng các trường hợp tranh chấp và các đơn thỉnh nguyện không phải thông qua các bộ.
Hội đồng xã trưởng được phép sử dụng một tòa lâu đài cũ của Sa hoàng tại điện Kremlin, gần nhà thờ Thánh Jean người Tiên khu, có hầm, hình như trước đây chứa kho tàng của Ngân khố. Với một công việc có tầm quan trọng như vậy, các thương nhân Moskva chi tiêu không tiếc tay (mới đây thôi, vào điện Kremlin họ vẫn phải để đầu trần, trong lòng run sợ; bây giờ, chính họ hội họp ngay ở đấy); họ lợp lại tòa lâu đài cũ nát, làm một cái mái giả bạc, họ cho quét vôi lại cả phía ngoài lẫn phía trong, lắp kính vào các khoang cửa thay thế các tấm mi-ca và đặt người của họ canh gác các cửa hầm.
Thoát được nạn phụ thu lạm bổ của các viên tổng trấn và sự bất công của các bộ, bây giờ các thương nhân lại phải trả gấp đôi số tiền đóng thuế trước. Đối với Ngân khố đó là một mối lợi rõ ràng. Nhưng đối với các thương nhân thì chưa chắc.
Quả thật là không thể sống nổi dưới ách bọn tổng trấn, bọn công chức và bọn thơ lại ở các Bộ, tham lam như bầy sói. Sơ ý một cái là chúng sẽ cắt cổ anh ngay, chúng sẽ lôi anh ra tòa, chúng sẽ lột anh trần như nhộng; tại các thành phố khác và các đại xã, viên tổng trấn sẽ khảo đả anh ngoài sân nhà y cho đến khi anh phải chịu nghe theo y. Quả có thế thật.
Nhưng có nhiều người, lẽ dĩ nhiên là những kẻ khôn ngoan hơn, biết giữ mình và sống chẳng đến nỗi nào; họ đút lót các viên tổng trấn, gửi biếu tên lục sự nào đường, nào dạ, nào cá, mời tên thu thuế đến ăn những của trời cho. Bọn tổng trấn hoặc bọn công chức ở Bộ, thậm chí ngay đến quỷ, cũng không thể biết được một nhà phú hào nào đó có bao nhiêu hàng, bao nhiêu tiền. Lẽ dĩ nhiên là bọn kiệt hiệt, sừng sỏ như Mitrofan Soron, người đứng đầu phường buôn, hoặc Aleksey Xvesnikov, đối với loại ấy thì mọi sự đã rõ ràng. Ngay đại giáo chủ cũng đến thăm họ. Họ thậm chí có thể sẵn sàng trả gấp ba chỗ tiến thuế nộp cho Hội đồng xã trưởng, nơi họ có danh vọng, uy quyền và trật tự.
Nhưng còn những hạng như Vaska Reviakin chẳng hạn, thì sao? Cửa hàng sắt của hắn chỉ có khoảng mười kopeik mặt hàng; hắn ngồi đó và chùi mắt bằng một mảnh giẻ. Nhưng những người am hiểu nói nếu tính cho đúng thì hắn có tới gần ba nghìn nông nô. Không những nông dân và thợ thủ công các đại xã mà cả nhiều thương nhân cũng là con nợ của hắn trên một danh sách cho vay nặng lãi. Không một thành phố nào, không một đại xã nào mà Reviakin không có một kho chứa đồ sắt hoặc một cửa hàng, tất cả các cái đó đều đứng tên họ hàng hoặc thư ký của hắn. Không thể nào nắm được hắn: hắn nhớt và trơn như một con cá chuối. Hội đồng xã trưởng là một sự phá sản đối với hắn: hắn không thể nào che mắt được bọn đồng nghiệp.
Trong khi chờ đợi Sa hoàng ra, đám thương nhân to đầu thì ngồi trên các ghế dài, bọn lép nhép thì đứng.
Họ hiểu rõ: vậy là Sa hoàng cần tiền vì nhà vua muốn nói chuyện cởi mở với họ. Kể ra cũng không phải là sớm sủa gì. Những kẻ đến đây lần đầu tiên khiếp sợ nhìn cánh cửa có trang trí hình sư tử và chim chóc, bên cạnh nơi đặt ngai vàng (không có ngai vàng, chỉ thấy cái tán hoa).
Đột nhiên Sa hoàng ở cửa bên bước ra; nhà vua mặc một bộ quần áo Hà Lan, mặt đỏ, chắc vừa uống rượu xong.
- Chào các vị, chào các vị, - Sa hoàng nhắc đi nhắc lại, ra vẻ hiền hậu. Nhà vua bắt tay mọi người, vỗ vỗ vào lưng, vào đầu một số... Có nhiều người đi sau nhà vua: Mitrofan Sorin và Aleksey Xvesnikov (mặc áo nẹp kiểu Hungary); hai anh em Ioxif và Fedor Bazenin, nghiêm trang và bệ vệ, ria quăn, mặc áo dạ nước ngoài, hẹp vai; lão phú thương mới Ivan Artemist Brovkin, chân ngắn ngủn và vẻ mặt quan trọng, râu cạo nhẵn, đội bộ tóc giả màu nâu hồng dài đến tận rốn; viên lục sự Viện Duma Liubim Domnin nghiêm nghị và một người mà chẳng ai biết; cứ trông cách ăn mặc thì là thợ thủ công tầm thường ở đại xã với bộ râu kiểu di-gan, đầu hói. Anh ta rụt rè ra mặt, đi cuối cùng, sau tất cả những người khác. Vua Piotr ngồi xuống một chiếc ghế dài, hai tay chống lên hai đầu gối dạng ra.
- Ngồi xuống, ngồi xuống, - nhà vua nói với các thương nhân đang tiến lại gần. Mọi người ngập ngừng. Nhà vua bắt đầu ra lệnh. Các bậc đàn anh liền ngồi ngay xuống.
Viên lục sự viện Duma Liubim Domnin vẫn đứng, rút trong túi sau ra một sắc chỉ cuộn tròn và nhấm nhấm đôi môi khô. Hai anh em Ioxif và Fedor Bazenin liền đứng dậy, tay cầm mũ kiểu Anh úp lên bụng, và nghiêm trang nhìn xuống đất. Vua Piotr một lần nữa lại hất đầu về phía họ:
- A, nếu chúng ta có được nhiều người như họ. Ta muốn khen thưởng Ioxif và Fedor trước toàn thể Hội đồng. Ở Anh, ở Hà Lan, người ta khen thưởng những thương nhân tốt, những thợ tốt. Ta cũng muốn nhập tập quán này vào nước ta. Thế nào, ta làm thế có đúng không? - Nhà vua quay sang bên phải, bên trái và nhướn một bên lông mày. - Tại sao các ngươi ngập ngừng không muốn nói? Các thương nhân, các ngươi phải bắt đầu sống theo nếp sống mới, đó là điều ta muốn.
Mononov, một nhà làm da giàu có, cúi đầu chào và hỏi:
- Tâu bệ hạ: “sống theo nếp sống mới” là thế nào ạ?
- Các ngươi phải bỏ cái thói quen sống riêng rẽ, người nào chỉ biết phận người nấy. Các đại thần của ta sống ần náu trong nhà như chồn. Các ngươi không được bắt chước họ, các ngươi là thương nhân! Các ngươi phải bỏ cái lối buôn bán đơn độc một mình và phải học tập buôn bán theo lối lập các công ty... Ở Hà Lan có công ty Đông Ấn, đấy là một điều tốt: họ chung nhau đóng tàu, họ mua chung, bán chung... Họ thu được những món lãi lớn. Ta phải học tập họ... Ở châu Âu có những viện hàn lâm về những vấn đế đó. Nếu các ngươi muốn, ta sẽ xây dựng một Sở hối đoái, chẳng kém gì Sở hối đoái ở Amsterdam. Hãy thành lập các công ty, xây dựng các xưởng máy. Khoa học của các ngươi hiện giờ chỉ vỏn vẹn có thế này thôi: không lừa dối thì không bán được gì.
Bỗng một thương nhân trẻ, mắt trìu mến nhìn Sa hoàng, lấy mũ đập vào cánh tay mình:
- Đúng thế, tâu bệ hạ, ở ta là như vậy!
Ngươi ta kéo vạt áo hắn để lôi hắn vào đám đông.Quay đầu nhìn quanh, hắn nhún vai:
- Ô hay? Không đúng thế sao? Chúng ta chỉ sống bằng dối trá: chúng ta cân điêu, đo điêu.
Vua Piotr cười, chẳng vui vẻ gì, giọng trầm, miệng tròn xoe. Những người đứng bên cạnh nhà vua, theo phép lịch sự, cũng gượng gạo cười. Nhưng đột nhiên nhà vua ngừng bặt tiếng cười và nghiêm khắc nói:
- Các ngươi buôn bán đã hai trăm năm nay mà chẳng học được gì. Các ngươi cứ chạy quanh sự giàu có. Vẫn cảnh nghèo khổ đó, vẫn tình trạng mình trần thân trụi. Kiếm được một kopeik, các ngươi vào quán bỏ ra uống rượu ngay. Có đúng không nào ?
- Tâu bệ hạ, không phải lúc nào cũng thế, - Mononov nói.
- Không. Đúng là như thế! - Hai lỗ mũi nhà vua phập phồng - Các ngươi hãy đi ra nước ngoài, hãy xem xét các thương nhân bên đó. Trông họ cứ như vua chúa! Ta không có thì giờ đợi được các ngươi tự học lấy những điều ấy. Có những con lợn phải gí mõm vào máng mới ăn... Tại sao người ngoại quốc cứ quấy rầy ta. Họ xin ta để cho họ thầu cái này, thầu cái nọ... Gỗ, quặng, đánh cá... Tại sao người của ta lại không làm được như vậy? Ở Voronez, có một người đến gặp ta, có quỷ biết được hắn ở đâu tới. Hắn đã nói với ta rất nhiều, hắn trình bày với ta những dự định to lớn! Hắn nói: đất nước bệ hạ là cả một mỏ vàng. Nhưng thần dân của bệ hạ thì nghèo khổ... Vì sao? Ta chẳng trả lời gì cả. Ta hỏi các ngươi: có phải người của ta sinh ra khác họ không? - Nhà vua trợn trừng nhìn các thương nhân. - Chúa đã chẳng cho ta những con người kiểu khác. Vậy thì phải lo liệu xoay xở với những người của ta có. Có đúng không nào? Đôi khi đối với ta, người Nga như một cái xương mắc trong họng... Mắc ngang họng.
Tai nhà vua vểnh lên, gân cổ sắp co lại. Ivan Artemist ngồi bên cạnh nhà vua, bèn nói, giọng dịu dàng nghe như hát:
- Người ta đã đánh đập người Nga nhiều, đánh bừa đánh bãi, biến họ thành những con quái vật.
- Đồ ngu! - Vua Piotr kêu lên. - Đồ ngu! - Và nhà vua huých lão một cái vào mạng sườn.                                                  
- Thần có nói gì đâu?
Ivan Artemist nói tiếp, vẻ mặt càng ngớ ngẩn hơn. Trong một phút, nhà vua giận giữ nhìn Brovkin, nhìn bộ mặt lão bóng nhẫy mỡ, đôi mắt chớp chớp một cách ngu xuẩn, nụ cười ngốc nghếch. Nhà vua bợp lão vào trán.
- Vanka, chưa ai ra lệnh bảo ngươi làm hề đâu?
Nhưng rõ ràng là nhà vua đã tự hiểu rằng bực tức cáu kỉnh trước đám thương nhân là không nên. Thương nhân không phải là đại thần: bọn này không có chỗ nào mà trốn, không thể bỏ lãnh địa của họ vào túi mà đi được, còn gã thương nhân thì như một con ốc sên: hơi nguy hiểm là hắn đã co vòi lại và biến ngay mất với vốn liếng... Quả nhiên căn phòng lặng ngắt.
Ivan Artemist nheo cặp mắt quỷ quyệt nhìn Sa hoàng. Vua Piotr bảo viên lục sự:
- Liubim, đọc đi.
Hai anh em Bazenin một lần nữa lại trang nghiêm nhìn xuống. Liubim Domnin liền đọc, giọng chậm rãi, khô khan, eo éo:
“Sắc chỉ này được ban ra để tưởng lệ sự mẫn cán và cẩn thận trong việc đóng tàu... Năm ngoái, tại làng Vovsuga, Iosif và Fedor Bazenin đã tự động xây dựng một nhà máy cưa chạy bằng cối xay nước theo kiểu Đức, không phải nhờ đến thợ nước ngoài, để xẻ gỗ thành ván và đưa lên Arkhangensk bán cho thương nhân ngoại quốc và Nga. Họ đã xẻ gỗ, chuyển lên Arkhangensk và bán sang bên kia đại đương. Họ có ý định đóng tàu và du thuyền ở cạnh nhà máy cưa để chuyên chở ván gỗ và các hàng hóa Nga khác sang bên kia đại dương. Và trẫm, đại hoàng đế, đã ra lệnh cho họ đóng tàu và du thuyền ở làng họ. Trẫm đã ra lệnh miễn thuế quan về mọi thứ họ nhập từ nước ngoài vào để đóng tàu. Họ có thể tự do bỏ tiền túi ra thuê thợ nước ngoài và thợ Nga. Đóng xong, tàu sẽ được vũ trang bằng đại bác và đạn được để tự vệ chống bọn cướp và tàu buôn nước ngoài”.
Viên lục sự đọc rất lâu. Đọc xong, hắn cuộn tròn sắc chỉ lại, với dấu ấn đính theo rồi đặt vào lòng bàn tay trao cho Ioxif và Fedor. Hai anh em nhận sắc chỉ, tiến lại gần vua Piotr và cúi rạp xuống chào, lặng lẽ, trang nghiêm, trịnh trọng. Nhà vua nắm vai họ, nâng họ dậy, và ôm hôn cả hai người, nhưng không áp má theo phong tục cũ của các Sa hoàng mà hôn lên miệng rất mạnh.
- Điều đáng khen là họ là những người đi bước đầu, - nhà vua nói với các thương nhân, đưa mắt sục sạo tìm người thợ thủ công ở đại xã, có bộ râu di-gan, đầu hói mà không ai biết tên.
- Demidyx?
Người thợ huých mạnh khuỷu tay, rẽ lấy một lối đi trong đám đông.
- Demidyx, hãy chào các thương nhân đi... Đây là Nikita Demizov Altufiev - thợ rèn ở Tula. Hắn chế tạo súng ngắn và súng trường tốt không kém gì súng Anh. Hắn biết đúc gang và tìm quặng. Nhưng cánh hắn ngắn quá. Các thương nhân hãy nói chuyện với hắn và suy nghĩ đi. Ta là bạn hắn đấy. Nếu cần, ta sẽ cho đất đai và làng mạc. Demidyx, cần gì cứ nói, ta bảo lãnh cho nhà ngươi.
-------------
Chú thích:
(1) Những thương nhân giàu có được chính phủ giao cho một số quyền hành. - Chú thích của tác giả -
(2) Chính quyền địa phương do giai cấp quý tộc và các tầng lớp hữu sản bầu ra dưới chế độ Sa hoàng.

Chương 112

- Anh là ai? Anh muốn gì? Anh cần cái gì?
Một người đàn bà khắc khổ, vai rộng, gườm gườm nhìn Andrey Golikov. - họa sĩ vẽ tranh thánh ở Palekh) từ đầu đến chân. Dưới chiếc áo vải thô thủng lỗ chỗ và rách bươm, làn da sởn gai ốc của anh run rẩy. Gió tháng ba ẩm ướt thổi mạnh. Những lùm cây trơ trụi rít trên bức tường tróc vôi, nham nhở của thành phố Trắng. Những con quạ lông bù xù và đói ăn, từ các đống rác vừa bay lên vừa kêu những tiếng “quạ, quạ” khắc khoải. Những hàng giậu khó vượt qua của nhà Vaxili Reviakin chạy dọc tường thành Moskva.
Nơi đây thật buồn thảm, phố xá chật hẹp, vắng tanh.
- Thánh lão Avraami sai tôi đến đây, - Andrey vừa khẽ nói vừa ấn mạnh hai ngón tay lên trán. Sau lưng người đàn bà, trong sân chằng chịt vết bánh xe, trước những kho hàng đổ nát, những con chó gầy nhom đang giằng xích lồng lên... Andriuska lạnh run cầm cập, chỉ riêng có cặp mắt sáng quắc. Sau một lát do dự, người đàn bà để anh vào trong sân và bảo anh đi theo: qua những tấm ván đặt trên bùn, hai người đi về phía một tòa nhà dài và cao, không có cầu thang, thềm cũng không. Các cánh cửa sổ nhỏ lắp mi-ca đập lạch cạch tít trên cao, sát ngay mái.
Họ bước xuống một lối đi tối om sặc mùi thùng rượu. Người đàn bà huých cánh tay vào người Andriuska:
- Chùi chân vào rơm kia, đây không phải là chuồng ngựa.
Một lát sau, mụ nói tiếp, vẫn cái giọng khó chịu đó:
- Nhân danh Cha, Con và Thánh thần.
Mụ mở một cánh cửa thấp ở tầng dướt. Ở đây thật là nóng bức, ánh lửa than trong lò chiếu sáng những tấm ván mờ tối vẽ hình thánh treo trong một góc. Andrey làm dấu rất lâu, đưa cặp mắt kinh hãi nhìn các bức tranh cổ. Anh e dè đứng lại ở bên cửa. Người đàn bà ngồi xuống. Sau bức tường, có tiếng nhiều người đang hát âm vang.
- Tại sao thánh lão lại sai anh tới đây?
- Để thực hiện một sự việc lớn.
- Việc gì?
- Sống ba năm tại nơi thánh lão Nectari.
- Ở nơi Nectari, - người đàn bà nói, giọng kéo dài.
- Thánh lão sai tôi tới đây để người ta chỉ cho tôi đường đi tới đó. Tôi không thể sống ở nơi trần tục này được nữa, thể xác tôi đói khát, linh hồn tôi kinh hoàng. Tôi sợ. Tôi muốn tìm một nơi hiu quạnh, vắng vẻ, một đời sống thiên đường... - Andriuska khịt khịt mũi - Thưa mẹ, mẹ thương con, mẹ đừng đuổi con đi.
- Thánh lão Nectari sẽ tạo cho anh cái nơi vắng vẻ hiu quạnh đó, - người đàn bà dằn từng tiếng, vẻ mặt bí ẩn. Đôi mắt bị ánh than chiếu vào, nheo lại.
Andrey kể lể: đã sáu tháng nay anh lang thang không cửa không nhà, đói khát và rét mướt.
Anh đã giao du với đủ hạng người. Họ đã đẩy anh vào nghề cướp bóc.
- Nhưng tôi không thể làm thế được, linh hồn tôi kinh sợ.
Anh kể lại là mùa đông năm đó trong bão tuyết anh đã trải qua những đêm nằm dưới mái thủng lỗ chỗ của những bức tường thành như thế nào:
- Tôi đi kiếm rơm trải ra nằm ngủ, mình đắp một chiếc chiếu gai. Gió gầm thét, tuyết quay cuồng, xác bọn xtreletz lắc lư ở đầu dây va đập vào tường. Những đêm đó, tôi đã sinh lòng khao khát một nơi yên tĩnh, một cuộc đời trầm lặng.
Người đàn bà hỏi anh cặn kẽ về thánh lão Avraami rồi thở dài một cái, mụ đứng dậy:
- Đi theo ta.
Mụ lại dẫn Andriuska qua lối đi tối om và đưa anh xuống một cầu thang. Sau khi ra lệnh cho anh phải đứng vào chỗ những người nghèo khổ, mụ dẫn anh xuống hầm, nơi có tiếng hát.
Anh ngửi ngay thấy mùi sáp và hương ấm áp. Khoảng hơn ba mươi người đang quỳ trên sàn nhà nham nhở. Một người, vai lệch, mặc áo thầy tu ngắn và đội mũ tròn đen đang đọc trước một giá tán kinh phủ nhung. Khi giở những trang giấy cũ nát của bản kinh viết tay, lão vểnh bộ râu bù xù về phía ánh sáng những ngọn nến. Trên suốt bức tường, từ sàn trở lên, những cây nến thắp sáng trước những bức tranh thánh lớn nhỏ của trường phái họa cổ thành Novgorod.
Buổi lễ không có giáo sĩ. Các con chiên hát ê a, buồn thảm. Vaxili Reviakin, người bé nhỏ, với bộ râu dê quỳ trên những người khác, ở bên phải vị thánh lão.
Tay lần một tràng hạt bằng da, khi thì hắn đưa mắt nhìn lên tranh thánh, khi thì hơi quay người lại hắn liếc nhìn về phía sau và dưới con mắt hắn, các con chiên càng ra sức lạy sì sụp, trán dập mạnh xuống đất đến vỡ đầu.
Lão già vai lệch gập sách lại, giơ sách lên trên đầu và quay lại: râu lão bơ phờ, mũi gẫy trên bộ mặt còn trẻ. Con ngươi lão mở to như đang đăm đăm nhìn vào một ảo ảnh khủng khiếp; lão há to miệng để lộ ra những chiếc răng sứt và gào lên:
- Hãy nhớ lại những lời của Hypolit người chính trực, giáo hoàng La Mã: “Khi thời Quỷ vương tới, nhà thờ của Chúa sẽ suy tàn. Sự cám dỗ sẽ lan tràn khắp các thành phố, xóm làng, các nhà tu kín và các nơi sa mạc. Và sẽ không một ai được cứu thoát, trừ một số nhỏ...”.
Giọng lão nghe thật khủng khiếp. Các con chiên nằm mọp xuống, mặt sát đất, vai rung mạnh. Lão già cứ đứng như vậy với quyển sách giơ cao cho đến lúc mọi người cùng gào cả lên.
- Hỡi anh em, đây là điều ta sắp nói với anh em. - lão già đã làm lễ xong và khi nói, ngón tay lão bấu chặt vào chiếc thập ác bằng gỗ đeo ở ngực. - Chúa đã ban thánh ân cho ta. Người đã dẫn ta đến chỗ Vonozer, trong sa mạc, tới bên thánh lão Nectari. Ta chào thánh lão và thánh lão hỏi: “Ngươi muốn gì: cứu vớt linh hồn ngươi hay thể xác ngươi?”. Ta trả lời: “Cứu vớt linh hồn con, linh hồn con!”. Và thánh lão đáp: “Thế thì được con ạ”. Và thánh lão đã cứu vớt linh hồn ta và đã hành hạ thể xác ta... Thay thế cho bánh mì ta đã ăn lá cây dương xỉ, lá chua me dại, quả cây sồi. Ta bóc vỏ cây thông đem phơi khô. Vỏ thông giã với cá là một bữa ăn thịnh soạn. Và Chúa đã không để ta chết. Các ngươi không thể biết được tất cả những khổ cực tôn sư ta đã bắt ta chịu đựng ngay từ những ngày đầu: mỗi ngày ta bị người đánh cho hai trận. Thậm chí cả ngày chủ nhật lễ Phục sinh, người cũng đánh ta hai lần. Tính ra trong hai năm, cứ hai trận một ngày, tổng cộng là một nghìn bốn trăm ba mươi lần. Và ngày ngày biết bao lần ta đã được hai bàn tay đức hạnh của người đánh ta bị thương, ta không thể đếm xuể được. Tôn sư ta đã làm cho thịt da ta đau đớn ê chề: để đánh ta, đứa con côi và con chim non của người, người đánh ta bằng bất cứ cái gì người vớ được. Người dạy dỗ ta bằng gậy, bằng chầy, bằng que cời than, bằng nồi nấu thức ăn, bằng xẻng gỗ nhào bột... Tôn sư ta làm cho thể xác ta đau khổ để linh hồn tối tăm của ta được sáng tỏ... Người đã đánh toạc bắp chân ta bằng đòn gánh nước để cho đôi chân ta phải ngoan ngoãn vâng lời... Người hành thể xác ta không những bằng gậy gỗ mà cả bằng gậy sắt, cả bằng đá, người giật tóc ta và đôi khi cầm cả hòn gạch đánh ta. Người đã bẻ trẹo xương tay chân ta, đánh gẫy xương sườn và xương tay. Và Chúa đã không để ta chết. Giờ đây thể xác ta thì yếu nhưng linh hồn ta sáng tỏ... Hỡi anh em, hãy mưu cầu siêu thoát cho linh hồn của mình?
- Hãy mưu cầu siêu thoát cho linh hồn của mình? - lão già vừa gào lên ba lần vừa trừng trừng nhìn đàn con chiên kinh hãi.
Toàn thể cử tọa là anh em, họ hàng và nông nô của Vaxili Reviakin: thư ký, người làm công ở các kho và các cửa hiệu của hắn. Họ lắng nghe và buông những tiếng thở dài não nuột. Nhiều người không chịu đựng nổi cái nhìn điên cuồng của vị thánh lão.
Andrey Golikov khóc nức nở, người gập lại làm đôi; bàn tay ôm lấy má, anh khóc; qua làn nước mắt, ánh sáng vàng hoe của những cây nến đang cháy, chập chờn trong phòng nguyện như những cánh thiên thần.
Vị thánh lão cúi rạp chào các con chiên và rút lui.
Đích thân Vaxili Reviakin, người bé nhỏ, tóc hoa râm, thế chân lão; ở chỗ mắt là hai nếp nhăn, con ngươi đảo ngược đảo xuôi. Vừa lần tràng hạt, hắn vừa khẽ nói, giọng tin tưởng:
- Các bạn thân mến... Thật là khủng khiếp! Các bạn thân mến của ta, thật là khủng khiếp! Giữa ban ngày sáng tỏ, một đám mây đã che lấp bầu trời và đầu độc tất cả cuộc đời chúng ta. - Hắn đưa mắt nhìn về phía sau, qua vai bên phải, rồi qua vai bên trái, như để xem có ai đằng sau hắn không. Hắn tiến một bước về phía trước trong đôi ủng mềm bằng dạ. - Quỷ vương đã đến rồi. Các bạn có nghe thấy không? Nó ngồi trên những nóc tròn của Nhà thờ Nikon. Ba ngón tay chụm lại, đó là dấu ấn của nó, những kẻ làm dấu với ba ngón tay sẽ không được siêu thoát, những kẻ đó đã bị tiêu ma. Và những kẻ cùng uống cùng ăn với chúng sẽ không được siêu thoát. Những kẻ nào nhận bánh thánh và rượu thánh của một giáo sĩ sẽ không được siêu thoát. Bánh thánh của chúng mang dấu ấn của Quỷ vương và tính chất thần thánh của nó là hão huyền... Tìm đâu thấy sự siêu thoát. Chúng ta đã nghe thấy muốn cứu vớt linh hồn thì phải làm thế nào. Ta không giữ ai, ai đi cứ đi hỡi các bạn thân mến, hãy chịu đựng những nỗi đau khổ, hãy tẩy rửa linh hồn các bạn. Các bạn sẽ cầu xin cho chúng ta là những kẻ có tội và yếu đuối... Có thể ta cũng sẽ đi... Ta sẽ đóng cửa các kho, các cửa hiệu, ta sẽ phân phát hàng hóa của ta, gia súc của ta cho người nghèo. Chỉ có một con đường siêu thoát, đó là đức tin của tổ tiên, sự vâng lời và biết sợ... - Hắn lắc lắc bộ râu một cách chua xót, lấy cánh tay áo dạ quệt mắt. Các con chiên im lặng, nín thở, không ai dám động đậy. - Sung sướng thay những ai sẽ được như ý... Nhưng những người khác không nên nản trí. Các thánh lão sẽ cầu nguyện cho họ. Hãy sợ điều này hơn cả cái chết: hãy sợ ác quỷ đẩy các bạn vào con đường xấu. Thời thế đã đổi thay: đám tay chân vô hình của nó ở chung quanh ta, rình mò cơ hội thuận lợi... Các bạn có lần nào lỡ phạm tội, nói dối, ăn cắp một kopeik của chủ không? Các bạn tưởng là chẳng đáng gì ư? Một kopeik! Không đâu... Chúng sẽ vồ lấy các bạn, thế là các bạn bị hại, bị đày vào nỗi khổ cực vô cùng... Hãy lo là các thánh lão sẽ thôi không cầu nguyện cho các bạn nữa... - Hắn lại tiến lên phía trước một bước nữa, quất chuỗi tràng hạt vào đùi. - Các bạn có thấy mưu mô cám dỗ của quỷ không? Chính là cái Hội đồng các xã trưởng đấy! Địa ngục là ở đó, địa ngục thực sự... Đã từ bao đời nay các thương nhân vẫn đóng thuế cho Ngân khố. Còn mọi thứ khác: ta bán cái gì và ta bán như thế nào là việc bí mật của ta... Chúa đã ban cho một người nào đó óc suy xét và thế là anh ta trở thành thương nhân. Một tên ngu xuẩn sẽ suốt đời vất vưởng với cái kiếp làm thuê công nhật. Bầu các xã trưởng! Tên xã trưởng sẽ vào kho của ta, sẽ lục lọi hòm của ta... Ta phải nói hết với hắn, phải đưa cho hắn xem hết mọi thứ... Tại sao vậy? Ai cần cái đó kia chứ? Người ta tung lưới của Quỷ vương chụp lên các thương nhân. Rồi lại còn bưu vụ nữa! Để làm gì? Ta phái một người của ta, một người tin cẩn, đến Veleki Uxtiuc, ta thấy thích hơn: hắn sẽ tới nơi nhanh hơn người đưa thư và sẽ nói những điều cần thiết một cách bí mật... Còn gửi bằng đường trạm, biết được ai sẽ đem thư ta đi? Không, chúng ta chẳng cần đến bưu vụ, chẳng cần đến xã trưởng; chúng ta không muốn đóng thuế gấp đôi, hút thuốc lá với bọn ngoại quốc và bè đảng của Nikon.
Hắn đã vô tình nổi nóng. Hắn luồn bàn tay tím ngắt và run rẩy vào trong túi, rút ra một chiếc khăn tay và thấm mồ hôi. Hắn lắc đầu nhìn những ngọn nến đang lụi. Hắn thở dài và kết luận:
- Thôi ta đi ăn!
Tất cả những người trong phòng nguyện đi qua tiền đình và nhà bếp xuống tầng dưới. Họ ngồi vào cái bàn làm bằng gỗ ván trên phủ một thứ vải thô sặc sỡ và bóng. Trong góc danh dự dưới những tranh thánh, Vaxili Reviakin và ba tên thư ký già của hắn là anh em con chú con bác với hắn - ngồi ăn. Người ta mời vị thánh lão cùng ngồi dưới các tranh thánh. Nhưng đột nhiên lão khạc nhổ ầm ĩ và chạy ra phía cửa, nhập bọn những người nghèo ngồi dưới đất. Andrey cũng ở trong số đó.
Giữa bàn là một cây nến mỡ bò đang cháy. Người đàn bà khắc khổ từ trong bóng tối nhô ra, hai tay bưng những liễn đầy. Thỉnh thoảng lại có một con gián từ trên trần rơi xuống. Mọi người lặng lẽ ăn, nhai một cách nghiêm trang, đặt thìa xuống không một tiếng động. Andrey lại gần vị thánh lão. Lão đang cúi xuống, bát để trên đầu gối đánh rớt những giọt thức ăn xuống bộ râu bù xù; lão nuốt một cách vội vã và bị bỏng; lão ăn bánh từng miếng nhỏ một.
Ăn xong, lão cầu kinh và chắp tay trên bụng. Nhìn cặp mắt lão lờ đờ, người ta thấy rõ là lão đã dịu đi.
Andrey khẽ nói với lão:
- Thưa cha, con muốn đi gặp thánh lão Nectari. Cha cho con đi tới đó.
Lão già thở nhanh hơn. Rồi cặp mắt của lão lại lờ đờ mờ đi:
- Lát nữa, khi mọi người đã đi ngủ cả, hãy đến phòng nguyện. Ta sẽ thử thách nhà ngươi.
Andrey rùng mình. Buồn rầu và cảm thấy mình như bị kết án, anh cọ gáy vào bức tường gỗ súc sù sì.
* * *
Một làn gió ấm, từ miền Nam, từ cánh đồng Dikoe Pole thổi tới. Trong một tuần, tuyết tan hết. Bầu trời mùa xuân xanh biếc, trên mặt nước tuyết tan phủ kín cánh đồng. Nước sông lên to, băng trên sông Đông tan vỡ.
Trong một đêm, nước sông Voronez tràn ngập các công trường đóng tàu. Các tàu lớn, thuyền nhỏ, thuyền buồm, thuyền chèo tay đều bỏ neo, đung đưa trên mặt nước từ thành phố đến sông Đông. Hắc ín chưa khô nhỏ giọt trên mạn thuyền, các đầu thần Neptun thếp vàng thếp bạc sáng lóng lánh. Buồm căng lên để hong khô phần phật trước gió. Dưới lòng nước đục, những cục băng cuối cùng cũng chìm xuống rồi lại nổi lên rào rào. Bên trên tường thành bên hữu ngạn, trước mặt thành Voronez, những đám mây khói thuốc súng bốc lên, bị gió xé toang ra thành từng mảng. Súng trái phá nổ ầm ầm trên mặt nước, tựa hồ mặt đất cũng nở ra, vỡ thành bong bóng.
Trên các công trường, công việc vẫn dồn dập ngày đêm. Sắp hoàn thành tàu La Sitadell có gắn bốn mươi khẩu trái phá. Đuôi tàu cao và chạm trổ, có ba cột buồm, đang đung đưa bên những cọc néo tàu mới tinh. Thuyền bè chở thuốc súng, thịt muối, bánh, liên tục vượt qua sông tới áp vào hai bên mạn tàu đen sì. Nước chảy xiết căng các dây cáp, gỗ kêu răng rắc.
Trên đuôi tàu ở cầu chỉ huy, thuyền trưởng Pambur chửi rủa bằng tiếng Nga và tiếng Bồ Đào Nha, át cả tiếng thùng lăn trên sàn tàu và tiếng ròng rọc rít ken két. Mặt Pambur đen sạm, ria lởm chởm, mắt như mắt cừu đực điên; đôi ủng lớn đầy bùn; ngoài áo nẹp, y khoác một áo cầu ngắn, đầu chít một chiếc khăn lụa đỏ. “Đồ vô tích sự! Đồ chó đẻ! Careja!” (Tiếng rủa Bồ Đào Nha). Đám lính thủy gò lưng ra kéo những túi bánh, thùng, hòm lên sàn tàu, họ vừa chạy vừa lăn nhanh các thứ tới hầm tàu, ở đấy, các thủy thủ trưởng, đầu đội mũ cao bằng dạ, quần trên bồng ống chẽn màu nâu, đang cáu gắt hò hét như đàn chó dữ.
Những tháp canh dựng bằng gỗ tròn uốn cong, mái nhọn, in bóng trên đồi, từ trên cao chế ngự cả dòng sông. Xa xa, phía ngoài những bức tường nham nhở là những mái hình củ hành gỉ nát của các nhà thờ. Trước thành phố cũ, những ngôi nhà nhỏ bằng đất nện và những lều bằng gỗ của thợ rải rác đây đó trên sườn đồi. Gần mé sông là những ngôi nhà gỗ của Golovin vừa mới được phong chức đô đốc, của Alekxandr Melsikov, của hải quân tổng tư lệnh Apraxin, của phó đô đốc Cornelix Cruyx. Bên kia sông Voronez, trên bờ sông thấp la liệt những mảnh gỗ và chằng chịt vết bánh xe, mọc lên những lò luyện sắt, - những ngôi nhà ám khói mái bằng đất, - những sườn tàu đóng dở, những chồng ván ngập nước đến nửa, những bè mảng, thùng tròn, dây cáp, mỏ neo gỉ, đã được kéo từ dưới nước lên. Từ những nồi nấu hắc ín sôi sùng sục bốc lên những đám khói đen ngòm mù mịt. Những bánh xe nhỏ của chiếc máy xe dây cáp kêu rin rít. Trên những giá gỗ cao, vai những người thợ xẻ nhô lên thụt xuống. Những người lái bè, tay cầm móc, chạy chân không dưới bùn, vớt những cây gỗ đang bị nước lên cuốn đi.
Phần lớn công việc đã xong. Hạm đội đã được hạ thủy. Chỉ còn lại tàu La Sitadell đang được hoàn thành với một sự chăm chú đặc biệt. Có lệnh ba ngày nữa sẽ kéo cờ đô đốc lên cột buồm.
Không lúc nào là không có những người mới đến mở cửa ầm ầm, bước vào: chẳng cởi bỏ áo ngoài, chẳng chùi chân, họ ngồi phịch xuống ghế; các thượng quan ngồi ngay vào bàn. Trong ngôi nhà gỗ của Sa hoàng hàng ngày người ta ăn uống suốt hai mươi bốn giờ liền.
Nhiều nến được thắp lên, cắm vào miệng những chai rỗng. Những bộ tóc giả treo trên tường; trong nhà rất nóng. Khói thuốc tẩu bay mù mịt.
Phó đô đốc Cornelix Cruyx ngồi ở bàn, gục đầu vào lai tay áo thêu vàng mà ngủ. Người Hà Lan Julius Retet, sutbij-nast (1) của hạm đội Nga, người giang hồ bốn bể táo bạo, đầu đã từng được đặt giải hai ngàn bảng Anh vì những thành tích lừng lẫy trên các đại dương xa xôi - nhấm nháp vodka pha hồi, con mắt độc nhất còn lại trên bộ mặt dữ tợn chằm chằm nhìn cây nến.
Các thợ cả đóng tàu Ioxif Ney và Jhon Dey, trong những ngày nóng bức này hai má râu đã mọc kín, rít tẩu thuốc, nhấp nháy cặp mắt nhạo báng về phía người thợ cả Nga Fedorxey Xkliaev. Fedorxey vừa bước vào, hắn bỏ khăn quàng cổ, cởi khuy áo lông cừu và đang ăn món xúp nấu mỡ với mì ống.
- Này Fedorxey, - Iosif Ney vừa nói vừa nháy nháy cặp lông mi hung hung đỏ, - kể cho bọn mình nghe cậu phè phỡn ở Moskva ra sao?
Fedorxey lặng thinh và cứ tiếp tục ăn. Quả tình hắn cũng đã chán lắm rồi. Tháng hai, khi ở nước ngoài về hắn đã phải tới ngay Voronez, theo lệnh trong thư của Piotr Alekseevich. Ma quỷ đã cám dỗ hắn sa ngã. Hắn đã đến chơi khắp lượt các bạn bè của hắn ở Moskva và thế là cả một cuộc vui chơi thỏa thích. Suốt ba ngày liền, thôi thì bánh tráng, món nhắm, rượu say, không lúc nào ngừng. Sự việc kết thúc đúng như nó phải kết thúc: tại bộ Preobrazenskoe.
Sa hoàng được tin Fedorxey, người sủng thần mà nhà vua hằng trông ngóng, bị bắt giam ở nhà vương hầu chấp chính, cử ngay một người về Moskva đưa thư cho Romodanovski:

Myn Herr Konig... Tại sao ngươi lại giữ các bạn ta. Fedorxey Xkliaev, và những người khác? Việc đó đã làm ta buồn vô cùng. Hơn tất cả những người khác, ta mong đợi Xkliaev, hắn là người đóng tàu lành nghề nhất. Vậy mà ngươi đã bắt giam hắn. Để Chúa xét xử ngươi. Thực ra, chẳng có ai giúp ta ở đây. Và ta nghĩ rằng đó chẳng phải là một vấn đề quốc sự. Vì Chúa, hãy thả hắn ra và đưa hắn tới đây! Pite”.

Mười ngày sau, chính tay Xkliaev đem thư trả lời của vương hầu chấp chính:

“Lỗi của hắn là như sau: hắn đi xe ngựa, say khướt, cùng với các bạn hắn và đã gây lộn với quân lính trung đoàn Preobrazenski đóng trước một hàng rào cự mã. Cuộc điều tra đã xác nhận là cả hai bên đều có lỗi. Sau khi điều tra, thần đã ra lệnh đánh Xkliaev bằng roi vì sự bậy bạ của hắn và cả bọn lính đã gây ra cuộc ẩu đả và đã khiếu tố. Bệ hạ không nên giận thần. Thần không có thói quen tha thứ những chuyện bậy bạ, không kể ở cấp bậc nào”.

Được. Sự việc lẽ ra có thể ngừng lại ở đó. Khi Piotr Alekseevich gặp Xkliaev, nhà vua ghì chặt lấy hắn, ôm hôn hắn và vỗ đùi mình đen đét. Nhà vua không cười, nhà vua đã sằng sặc như ngựa hí đến chảy nước mắt.
- Fedorxey, đây không phải là Amsterdam!
Và trong bữa ăn tối, nhà vua đã cho đọc bức thư của vương hầu chấp chính.
Ăn xong món xúp nấu mì ống, Fedorxey gạt bát ra, giơ tay về phía Ioxif Ney xin thuốc lá:
- Thôi cười thế đủ rồi, đồ quỷ thọt, - hắn nói giọng gắt gỏng. - Hôm nay, các anh đã xuống hầm phía lái tàu chưa?
- Xuống rồi, - Iosif Ney trả lời.
- Không, các anh không xuống
Jhon Dey chậm rãi bỏ tẩu thuốc nõ bằng đất ra, nhếch mép và nói bằng tiếng Nga, giọng rít giữa hai hàm răng:
- Fedorxey Xkliaev, tại sao anh lại bảo bọn ta không xuống đến hầm tàu?
- Vì thế này... Đáng lẽ các anh không nên ngồi trêu tức tôi mà nên đi lấy đèn xuống xem mới phải.
- Có chỗ rò chăng?
- Đúng thế. Một chỗ rò. Khi người ta bắt đầu chuyển các thùng thức ăn muối lên tàu, dây néo không chịu nổi. Nước từ dưới vọt lên.
- Không thể thế được
- Được lắm chứ. Chính tôi nói thế. Các mộng ở phía lái tàu yếu lắm.
Iosif Ney và Jhon Dey nhìn nhau. Không vội vã, hai người đứng dậy, ấn chiếc mũ có tai sụp xuống tận mắt. Fedorxey cũng đứng dậy; vẻ cáu kỉnh, hắn quấn chiếc khăn quàng quanh cổ và cầm lấy đèn.
- Nào, đi nào, các tướng!
Ở bàn, các sĩ quan, thủy thủ, thợ cả... mệt nhọc, người lem luốc hắc ín, quần áo vấy bùn ngồi vào bàn trong chốc lát. Họ uống một cốc vodka nóng bỏng như lửa rót từ một hũ sành ra, và lấy tay bốc trong đĩa nào thịt quay, thịt lợn, lưỡi bò ngâm dấm. Nhiều người ăn qua loa vội vã, rồi bỏ đi, chẳng làm dấu thánh, chẳng kịp cảm ơn
Một thủy thủ, mắt lừ đừ ngái ngủ, đầu đội chiếc mũ dạ lệch sang một bên tai, đứng tựa vai vào trụ một cánh cửa trổ ở tấm vách gỗ ván. Một chiếc thừng buộc nút tẩm hắc ín - cái roi bằng thừng bện - lủng lẳng ở cái cổ gân guốc của anh ta. - Hắn thưởng roi cho những kẻ nào đáng đánh đòn - Ai lại quá gần cửa, hắn cũng khẽ bảo, giọng uể oải:
- Đi đâu thế, đi đâu thế, đồ lợn?
Sau bức vách, trong phòng ngủ, các chính khách đang ngồi bàn quốc sự: đô đốc Fedor Alekxevich Golovin, Lev Kirilovich Naryskin, Fedor Matveevich Apraxin, tổng tư lệnh Hải quân và Alekxandr Danilovich Melsikov. Sau khi Lơfo chết, Melsikov đã được phong ngay trung tướng và tổng trấn tỉnh Pskov. Người ta đồn rằng vua Piotr sau khi đi đưa đám trở về Voronez đã nói:
- Trước kia ta có hai bàn tay, giờ chỉ còn một, thực ra có hay ăn cắp chút ít nhưng trung thành.
Alexaska, mặc áo nẹp dạ mỏng của trung đoàn Preobrazenski, ngang lưng thắt một dải băng lịch sự, đầu đội bộ tóc giả, cái cằm nhọn ngập trong đăng ten, tựa lưng vào chiếc lò sưởi bằng gạch rất nóng.
Apraxin và Golovin bụng phệ thì ngồi trên chiếc giường chăn nệm bừa bộn. Naryskin ngồi bên bàn, tay đỡ lấy trán. Họ đang nghe Prokofi Voznixyn, lục sự viện Duma và đại sứ thần vừa họp hội nghị của các sứ thần Áo, Ba Lan, Vơnidơ và Moskva để điều đình hòa ước với người Thổ Nhĩ Kỳ, ở Caclovitz trên sông Dunai về.
Voznixyn chưa được gặp Sa hoàng. Nhà vua đã cho người bảo các vị thượng thư cứ việc họp bàn: một lát sau nhà vua sẽ đến. Voznixyn đặt các sổ sách ghi những con số trên đầu gối; lão đã kéo tụt cặp kính xuống tận đấu mũi và kể:
- Tôi đã ký kết được với các sứ thần Thổ Nhĩ Kỳ, ngài Reix-Effendi Rami và viên tư vấn Mavrocordato, một hiệp ước đình chiến, nghĩa là tạm thời ngừng chiến. Tôi không thể làm hơn được. Thưa các vị thượng thư, các vị xét xem: trong lúc này ở châu Âu, có một việc mới chớm xảy ra và sẽ làm cho cả thế giới lo âu hoặc cũng gần như thế. Vua Tây Ban Nha đang lâm bệnh nặng sẽ chết nay mai mà không có con cái. Vua Pháp muốn đặt cháu ông ta là Philip lên ngai vàng Tây Ban Nha. Ông ta đã lấy vợ cho cháu và giữ cháu bên ông ta, ở Paris, hy vọng đặt được cháu lên ngôi nay mai. Hoàng đế Áo, về phấn mình, muốn đặt con là Charles lên ngôi vua Tây Ban Nha.
- Chúng tôi biết, chúng tôi biết tất cả những chuyện đó rồi, - Alexaska nóng ruột ngắt lời.
- Hãy chịu khó nghe một chút, Alekxandr Danilovich, tôi biết gì thì tôi nói vậy. - Voznixyn, cặp mắt xám ngước qua cặp kính chăm chú nặng nề nhìn anh chàng đẹp trai. - Đây là một cuộc tranh chấp lớn giữa nước Pháp và nước Anh... Nếu Tây Ban Nha về tay vua Pháp thì các hạm đội Pháp và Tây Ban Nha sẽ làm bá chủ tất cả các đại dương. Nếu Tây Ban Nha về tay Hoàng đế Áo thì người Anh sẽ đánh bại được hạm đội Pháp đơn độc. Người Anh đang làm rối rắm cục diện chính trị châu Âu. Chính họ đã làm môi giới cho người Áo và người Thổ Nhĩ Kỳ ở Caclovitz. Muốn gây chiến tranh với vua Pháp, Hoàng đế Áo phải rảnh tay và bọn Thổ Nhĩ Kỳ thì rất sung sướng được có hòa bình để nghỉ ngơi và tập hợp lại lực lượng: Vương hầu Egien xứ Xavoa đã cướp mất của chúng nhiều đất đai và nhiều thành phố ở Hungary, ở Tranxinvania và ở Moore cho Hoàng đế Áo, và người Áo đã lăm le muốn chiếm lấy Constantinop... Bọn Thổ Nhĩ Kỳ thì nay chỉ lo lắng có một điều: đoạt lại những đất đai của chúng trước kia... Còn gây chiến ở những nơi xa xôi với người Ba Lan hoặc với ta thì lúc này chúng chưa nghĩ tới... Như Azop chẳng hạn, lúc này không đáng giá những tổn thất chúng sẽ phải chịu để chiếm lại.
- Vua Thổ Nhĩ Kỳ có thật suy yếu như ông khẳng định không? Tôi ngờ lắm, - Alexaska dằn từng tiếng nói. - Golovin và Aptaxin khẽ cười. Thấy thế, Lev Kirilovich cũng lắc đầu mỉm cười, Alexaska rung đùi, đinh thúc ngựa kêu lanh canh. - Nếu hắn suy yếu, sao ông không ký một hiệp ước hòa bình vĩnh viễn với hắn? Hay ông đã quên xtreletz của ta đang tránh mùa rét ở Ukraina; trung đoàn kỵ binh lớn của Sein đang đóng ở Akhtycka và ở Briansk, hạm đội sẵn sàng nhổ neo. Người ta đã không cử ông đi tay không... thế mà chỉ ký được hiệp ước đình chiến!
Prokofi Voznixyn chậm rãi bỏ kính ra. Lão thấy thật khó mà thích nghi được với trật tự mới, một tên vô danh tiểu tốt dòng dõi thấp kém dám nói như vậy với một đại sứ thần. Prokofi đưa bàn tay khô khan lên vuốt bộ mặt run rẩy vì phẫn nộ và tập hợp lại ý nghĩ. Tất nhiên, lúc này, lão chẳng đạt được gì bằng những lời chửi rủa.
- Alekxandr Danilovich, đây là lý do tại sao tôi đã ký hiệp ước đình chiến chứ không ký kết hoà ước. Các sứ thần của Hoàng đế Áo đã không gặp ta lẫn người Ba Lan, cũng không gặp cả các sứ thần Vơnidơ, họ đã riêng rẽ và bí mật điều đình với bọn Thổ Nhĩ Kỳ. Người Ba Lan cũng bí mật thỏa thuận với chúng không cho ta biết. Và họ đã để cho ta đơn độc. Lúc đầu bọn Thổ Nhĩ Kỳ đã thu xếp được ổn thỏa với bọn Áo, chúng dương dương tự đắc đến mức từ chối cả hội đàm với ta. Nếu tôi không có ở bên đó một người quen thuộc cũ là Alekxandr Mavrocordato thì đến một hiệp định đình chiến ta cũng không ký được. Thưa các vị thượng thư, các vị ngồi đấy và các vị tưởng là toàn thể châu Âu chiêm ngưỡng các vị. Không. Đối với họ, chúng ta chỉ có một đường lối chính trị nhỏ mọn, hay đúng hơn là chẳng có một đường lối chính trị nào, có thể nói như vậy!
- À vấn đề đó thì còn phải bàn!
- Hãy khoan, đừng nổi nóng vội, Alekxandr Danilovich, - Golovin nhẹ nhàng ngăn lại.
- Tại khu các sứ thần, họ đã dành cho ta chỗ tồi nhất. Họ đã cho người bao vây canh gác ta, cấm ta đi lại bất cứ nơi đâu, cấm ta gặp người Thổ Nhĩ Kỳ, trao đổi thư từ với họ. Thời tôi còn ở Viên, tôi có đem theo một thầy thuốc người Ba Lan, khôn ngoan và thận trọng. Chính viên thầy thuốc này, tôi đã cử đến gặp Mavrocordato ở trong hành dinh Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi cử ông ta đến lần đầu, Mavrocordato gửi lời chào tôi. Tôi cử ông ta đến lần thứ hai, Mavrocordato gửi lời chào tôi và nói thêm là hắn ta bị lạnh. Tôi rất lấy làm hài lòng về việc đó. Tôi bèn lấy tấm áo nẹp bọc dạ tía, trong lót lông cáo ánh bạc và sai viên thầy thuốc đi qua đồng cỏ, tránh dinh các sứ thần, đem đến biếu hắn. Mavrocordato đã nhận chiếc áo. Ngày hôm sau, hắn gửi đến biếu tôi thuốc lá, hai tẩu thuốc loại tốt, nửa cân cà-phê và giấy viết thư. Tôi tự nhủ: A, ra hắn trả nợ quà ta biếu... Và tôi lại cho một xe chở đến biếu hắn trứng cá ép, lườn cá chiên, năm con cá hồi lớn và đủ các loại rượu mùi. Đêm đến, tôi bận quần áo thường thân hành đến dinh người Thổ một mình. Đúng ngày hôm đó, người Thổ Nhĩ Kỳ đã ký hòa ước với hoàng đế Áo.
- A! - Alexaska dậm chân thốt lên. Đinh thúc ngựa kêu lanh canh.
- Mavrocordato bảo tôi: “Rất có thể chúng ta không đạt được một giải pháp thỏa đáng nếu các ông không trả lại chúng tôi các thành lũy nhỏ của chúng tôi ở trên sông Dniepr, để chúng tôi có thể bịt được con sông đó, và vĩnh viễn ngăn đường các ông ra Hắc Hải. Các ông phải trả lại chúng tôi Azop và các ông phải nộp cống cho phiên vương Krym như xưa kia...”. Đấy, Alekxandr Danilovich, ngay cuộc gặp gỡ đầu tiên bọn Thổ Nhĩ Kỳ đã treo giá cao như vậy đó... Còn tôi thì đơn độc có một mình. Các đồng minh của ta đã giải quyết xong công việc của họ và tếch về rồi... Tôi bắt đầu đem hạm đội Voronez của ta ra hăm dọa. Chúng cười: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi nghe nói đóng tàu cách biển hàng ngàn dặm; thôi được, các ông cứ việc bơi trên sông Đông nhưng đừng có ra khỏi cửa sông”. Tôi liền đem các đội quân của ta đóng ở Ukraina ra đe. Để đáp lời tôi chúng đưa bọn Tarta ra dọa lại: “Các ông hãy coi chừng, giờ đây bọn Tarta đang rảnh tay, chúng có thể gây nhiều tổn thất cho các ông như chúng đã làm dưới thời Devlet-Girey (2). Nếu bọn Thổ Nhĩ Kỳ không có nhiều chuyện phải lo nghĩ thì có lẽ chúng đã tuyên chiến với ta rồi... Alekxandr Danilovich ạ, không biết có phải vì trí tuệ tôi nghèo nàn quá nên không thể đạt được kết quả nhiều hơn không, nhưng một hiệp ước đình chiến, dù sao cũng không phải là chiến tranh.
* * *
Còn rất nhiều bộ phận chưa hoàn thành. Đinh thì thiếu. Mãi hôm qua mới có một phần đoàn xe trượt tuyết chở sắt vùng Tula tới, trên con đường tuyết đã tan. Các lò rèn làm việc suốt đêm. Mỗi ngày giờ đây rất quý giá: phải lợi dụng nước lũ để đưa những chiếc tàu chiến nặng nề ra cửa sông Đông.
Đèn thắp sáng trưng. Những người thợ rèn, tạp dề cháy xém, sơ-mi đẫm mồ hôi mặn, những người quai búa, người nào người nấy đều to lớn, mình trần đến tận thắt lưng, da khét lẹt, những chú bé ám khói kéo bễ, ai ai cũng mệt mỏi rã rời, những cánh tay đen nhẻm của họ cử động như máy. Những người chỉ làm việc. - họ thay phiên nhau nhiều lần trong một đêm không rời khỏi lò; người thì ngồi ngay bên cánh cửa để ngỏ, nhai cá khô; người thì ngủ trên những đống than.
Kuzma Zemov, - người thợ cả đầu tiên Lev Kirilovich đã đưa từ xưởng của lão ở Tula đến đây. - người ta đã giải Zemov từ nhà tù Tula đến làm việc chung thân ở xưởng đó - bị thương ở tay. Một người thợ cả khác suýt chết ngạt; giờ đây nằm bên cạnh lò rèn trên những tấm ván ẩm ướt, mặt quay ra hướng gió ban đêm, hắn đang than vãn kêu rên.
Người ta hàn chân chiếc mỏ neo lớn của tàu La Sitadell. Chiếc mỏ neo treo vào ròng rọc ở xà trên trần, được đặt vào lò. Những người kéo bễ, lấy tay quệt mồ hôi trên trán, thở hổn hển, kéo cán của sáu chiếc bễ.
Hai người quai búa đứng đó sẵn sàng, những chiếc búa dài của họ dựng dưới chân. Với bàn tay lành còn lại, bàn tay kia quấn giẻ, Zemov vừa đảo than vừa nói:
- Gắng lên, gắng lên, kéo bễ mạnh nữa vào!
Vua Piotr đứng đó, mặc chiếc sơ-mi trắng nhớp nhúa, ngực đeo tạp dề bằng vải thô, mặt mũi hốc hác và lem luốc mồ hóng, môi chúm lại, tay cầm cặp kìm dài, nhà vua thận trọng quay đi quay lại chân chiếc mỏ neo trong lò. Công việc hàn một bộ phận lớn như vậy thật khó khăn.
Zemov quay về phía những người thợ đang giữ thừng chiếc ròng rọc:
- Nào... nghe kỹ đây... - và nói với vua Piotr - Đúng lúc rồi đấy, nếu không thì cháy mất... - Cặp mắt lồi không rời khỏi lò than, nhà vua gật đầu đồng ý và ngoáy ngoáy cặp kìm - Nào, mạnh tay vào! Nào!
Những người thợ chuyển tay thật nhanh, kéo thừng, ròng rọc kêu ken két. Chiếc mỏ neo nặng bốn mươi phút ra khỏi lò. Tia lửa tung tóe khắp nơi. Thân neo được nung đỏ, nổ lách tách, lơ lửng trên đe. Bây giờ phải để nghiêng chiếc neo, đặt xuống cho chắc chắn.
Lần này, Zemov nói khẽ:
- Nghiêng nó xuống, đặt nó xuống... Đặt nó xuống thật vững... - Chiếc neo được đặt nằm trên đe - Cạo hết cứt sắt đi. - Chính Zemov cầm một chiếc chổi nhỏ quét cứt sắt trên chếc neo, chiếc chổi bắt lửa. - Chân neo?
Quay về phía nhà vua, Zemov thét lên, giọng dữ dội:
- Thế nào, còn đợi gì nữa? Đem chân neo lại chứ!
- Sẵn sàng!
Nhà vua vội vã rút cặp kìm nặng một phút từ trong lò ra định đặt lên đe nhưng trượt, suýt nữa đánh rơi mất chân neo nóng đỏ. Nhà vua gò người lại vì gắng sức, răng nhe ra, đặt cái chân neo lên đe.
- Giữ chắc nữa vào!
Zemov vừa thét vừa đưa mắt nhìn những người quai búa. Hai người nầy liền quai búa xuống, miệng thở hồng hộc, búa vung thành những đường vòng tròn. Vua Piotr giữ chặt chân neo. Zemov lấy búa đập: tốc, tốc, tốc, tốc, tốc, tốc... Cứt sắt nóng bỏng bắn tung tóe vào các tạp dề.
Công việc hàn neo đã xong. Thợ quai búa thở phì phò, đã tránh ra một góc. Vua Piotr vứt bỏ kìm vào một cái thùng, lấy tay áo lau mặt. Mắt nhà vua nheo lại, hân hoan, nháy nháy Zemov. Zemov nhăn mặt:
- Làm thế nào được, thưa Piotr Alekseevich, việc ấy thường xảy ra... Nhưng lần khác, hoàng thượng đừng rút kìm ra vội như thế, có thể làm người khác bị thương và chắc chắn là sẽ trượt đe. Chính thần cũng đã từng bị đòn về lỗi lầm đó.
Không trả lời, nhà vua rửa tay trong thùng nước, lấy tạp dề lau, mặc chiếc áo nẹp vào rồi bước ra khỏi lò.
Không khí đượm hơi ẩm mùa xuân. Dưới những ngôi sao lớn, những cục băng rì rào trên dòng sông nhờ nhờ xám. Một ngọn đèn lồng đung đưa trên cột buồm tàu La Sitadell. Tay thọc vào túi, miệng khe khẽ huýt sáo, nhà vua men theo dọc sông, sát ngay bên bờ nước.
Trông thấy Sa hoàng, người lính thủy đứng gác bên tường ngăn vội đẩy cửa vào báo cho các vị thượng thư biết. Nhưng vua Piotr không bước ngay vào phòng bên. Nhà vua thích thú hít không khí ấm áp và khói thuốc lá, cúi xuống bàn, xem xét các món ăn.
- Này, - nhà vua nói với một người để râu quai nón, lông mày ngước lên vì kinh ngạc, cặp mắt xanh biếc rạng rỡ trên khuôn mặt nhỏ bé; đó là Aladuskin, người thợ mộc đóng tàu nổi tiếng. - Miska, đưa cho ta đĩa kia. - nhà vua vừa nói vừa chỉ món thịt quay hầm khoai ở phía bên kia bàn. Nhà vua ngồi xuống ghế, trước mặt vị phó đô đốc đang ngủ và chậm rãi uống một ly vodka như người ta uống khi trong người rất mệt mỏi; rượu dẫn nhanh vào mạch máu. Nhà vua chọn một trong những quả táo chắc nhất. Vừa nhai, nhà vua vừa nhổ hạt vào cái đầu hói của Cornelix Cruyx:
- Ông ta làm sao thế? Say chứ gì?
Vị phó đô đốc tức thì ngẩng bộ mặt nhăn nhúm lên và giọng trầm trầm khàn khàn, đáp:
- Có gió Nam thổi, gió Tây Nam cấp một. Đến phiên Pambur trực đấy. Thần thì thần nghỉ. - Rồi hắn lại vùi đầu vào ống tay áo thêu.
Ăn xong, nhà vua nói:
- Tại sao nơi các ngươi lại buồn thiu như vậy? - Nhà vua đặt hai nắm tay xuống bàn đợi một phút, ưỡn thẳng lưng lên rồi đứng dậy và sang phòng bên, ngồi xuống giường.
Các vị thượng thư kính cẩn đứng cả dậy. Nhà vua lấy ngón tay cái nhồi tẩu thật chặt với thứ thuốc lá Hà Lan, châm lửa ở ngọn nến do Alexaska đưa ra.
- À, chào vị đại sứ thần.
Đôi chân già nua của Voznixyn, đi tất dạ khuỵu xuống; đuôi áo cứng đơ của chiếc áo may theo kiểu Pháp co lên, lão cúi rạp xuống chào, những chùm tóc ở bộ tóc giả xõa xuống tận đôi giầy đầy bùn của nhà vua. Lão giữ nguyên tư thế đó, đợi Sa hoàng nâng dậy. Vua Piotr chống khuỷu tay ngả người xuống gối và nói:
- Alexaska, nâng vị đại sứ thần dậy... Prokofi, đừng giận ta, ta mệt lắm... -
Voznixyn bị nhục đẩy Melsikov ra và tự mình đứng dậy.
- Ta đã đọc thư của nhà ngươi. Nhà ngươi xin ta đừng giận dữ. Ta không giận dữ đâu. Nhà ngươi đã làm tròn nhiệm vụ một cách chính trực, theo kiểu cũ. Ta tin nhà ngươi... - Vẻ khó chịu, nhà vua nhe răng ra. - Bọn Áo! Bọn Anh! Được rồi. Đây là lần cuối cùng ta kính cẩn chào chúng... Nhà ngươi ngồi xuống và kể đi?
Voznixyn lại kể lại công việc của lão: lão nói đến những nỗi bực bội phải chịu đựng và những cố gắng lớn của lão tại hội nghị các sứ thần. Vua Piotr đã biết tất cả những điều đó qua thư của lão; nhà vua lơ đãng rít tẩu thuốc.
- Tâu bệ hạ, - Voznixyn nói, - kẻ tôi tớ của bệ hạ đã lý luận như sau, với cái trí thông minh nghèo nàn của mình: miễn là không khiêu khích bọn Thổ Nhĩ Kỳ, ta có thể kéo dài rất lâu hiệp ước đình chiến. Phải cử ngay một người rất mực thông minh, quỷ quyệt đến gặp bọn Thổ Nhĩ Kỳ... Người đó sẽ thương lượng với chúng, kéo dài thời gian, thậm chí hứa hẹn sẽ nhượng bộ cái gì đó, vì thực ra, tâu bệ hạ, chúng là bọn Hồi giáo, nói dối chúng cũng không có tội lỗi gì. Chúa sẽ tha thứ cho ta.
Vua Piotr cười gằn. Nửa bộ mặt nhà vua ở trong bóng tối nhưng cái nhìn của đôi mắt tròn xoe được ngọn nến chiếu sáng trông thật nghiêm nghị.
- Các vị đại thần các vị còn có điều gì nói nữa không nào? - Nhà vua rít tẩu thuốc và nhổ qua khe răng xa đến một xagien.
Bóng hai bộ tóc giả nhọn hoắt của Apraxin và Golovin chuyển động trên tường. Quả thật khó mà trả lời được ngay tức thì. Nói năng như xưa kia ở viện Duma, với lời lẽ văn hoa, xoay quanh vấn đề, vua Piotr không thích. - Alexaska, vừa cọ vai vào cái lò nóng vừa bĩu môi.
- Cái gì thế? - Vua Piotr hỏi Alexaska.
- Prokofi tưởng hành động theo lề lối của ông cha ta là tốt: kéo dài và làm rối rắm vấn đề! Ngày nay, cái lối đó không ổn tí nào. 
Lev Kirilovich nổi nóng, thở hổn hển, nói.
- Ngay cả Chúa cũng không cho phép ta ký kết hòa ước với bọn Thổ Nhĩ Kỳ. Giáo trưởng ở Gierusalem van xin ta bảo vệ Mộ Thánh. Các phiên chúa ở Moldavia và Valasi gần như quỳ gối xin ta giải phóng họ khỏi nền đô hộ Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy mà ta, ôi lạy Chúa!
Vua Piotr nói, giọng chế giễu:
- Nào, đừng có khóc.
Lev Kirilovich ngừng bặt, mồm mắt mở tròn xoe, rồi nói tiếp:
- Tâu bệ hạ, chúng ta không thể không có Hắc Hải được! Nhờ ơn Chúa, giờ đây chúng ta đã mạnh và bọn Thổ Nhĩ Kỳ thì yếu... Ta không nên đến Krym, như Vaska Golixyn, mà tiến thẳng đến Constantinop bằng đường sông Dunai, dựng cây thánh giá trên nhà thờ Đức thánh bà Sofia (3).
Các bộ tóc giả nhọn hoắt lắc lư, lo lắng. Mắt vua Piotr long lanh, vẫn bí hiểm; chiếc tẩu nhỏ rít lên. Lão Apraxin vốn tính bình tĩnh, khẽ nói:
- Hòa bình vẫn hơn là chiến tranh, Lev Kirilovich ạ. Chiến tranh tốn kém lắm. Ký kết hòa ước với bọn Thổ Nhĩ Kỳ trong hai mươi lăm năm hoặc ngay mười năm đi nữa mà không trả Azop, không trả những thành lũy nhỏ trên sông Dniepr cho chúng, ta còn mong gì hơn nữa?
Lão liếc mắt về phía vua Piotr và thở dài.
Vua Piotr đứng dậy. Nhưng căn phòng bé quá không thể đi đi lại lại được, nhà vua ngồi lên bàn.
- Thế ra suốt đời ta, ta phải làm theo ý các chúa đất quý tộc? Đội cảnh vệ quý tộc? Chúng leo lên mình ngựa, bọn quỷ béo ấy, thậm chí cũng không biết cầm kiếm tay nào nữa. Toàn đồ vô tích sự, đồ vô tích sự chính tông! Nhà ngươi cần phải nói chuyện với đám thương nhân, Arkhangensk là cửa ngõ duy nhất đi ra thế giới: bọn Anh, bọn Hà Lan muốn định giá thế nào cũng được, chúng mua như lấy không... Mitrofan Sorin có kể cho ta nghe là hắn đã để thối tám nghìn pud gai trong kho, hắn đã đợi giá hời qua ba mùa thông biển. Bọn quái ác ấy diễu qua và chỉ cười... Lại còn gỗ nữa! Ở ngoại quốc, người ta cần gỗ. Gỗ thì chỉ ta mới có, thế mà ta vẫn phải van vỉ: xin các ngài mua cho. Còn vải nữa! Ivan Brovkin nói là thà hắn đốt hết vải ở trong kho tại Arkhangensk còn hơn là bán với giá hạ... Không? Chúng ta không phải bận tâm đến Hắc Hải... Ta phải có tàu của ta trên biển Ban Tích.
Nhà vua đã nói xong... Vẫn ngồi trên bàn, người dài nghêu, mặt lem luốc, nhà vua nhìn các quan thượng thư với cặp mắt lồi. Các thượng thư sị mặt. Gây chiến với bọn Tarta, hay với bọn Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn, là một công việc quen thuộc tuy có khó khăn. Nhưng chiến tranh trên biển Baltic ư? Đánh nhau với bọn Livoni, bọn Ba Lan ư? Gây chiến với quân Thụy Điển ư? Đi rúc vào cái mớ bòng bong ở châu Âu ư? Lev Kirilovich lấy bàn tay mập mạp thọc vào vạt áo nẹp, rút ra chiếc khăn tay lụa màu hạt dẻ, thấm mồ hôi trên mặt.
Voznixyn lắc lư bộ mặt choắt cheo khô đét. Vua Piotr rút trong túi quần ra một túi thuốc lá:
- Với bọn Thổ Nhĩ Kỳ, ta sẽ không làm như Prokofi, ta sẽ đòi hỏi hòa bình bằng một cách khác... Ta sẽ không đến đấy vẻn vẹn với một chiếc áo nẹp lót lông cáo ánh bạc.
- Nhất định rồi! - Alexaska bỗng nói lên, mắt long lanh.
 -------------
Chú thích:
(1) Cấp bậc tương đương chuẩn đô đốc.
(2) Dưới thời Ivan Hung đế, người Krym đã đốt cháy Moskva, giết và bắt làm tù binh khoảng nửa triệu người. - chú thích của tác giả)
(3) Nhà thờ lớn ở Constantinop, Thổ Nhĩ Kỳ. - Năm 1953 người Thổ Nhĩ Kỳ đổi thành nhà thờ Hồi giáo.

Chương 113

Hạm đội xuôi dòng sông Đông, nước đục lờ, đầy ắp các cánh buồm kẻ sọc căng phồng dưới làn gió ấm.
Mười tám chiếc tàu hai boong đi đầu, đằng trước và đằng sau là hai mươi thuyền buồm nhẹ và hai mươi thuyền chiến nhỏ, thuyền buồm lớn có chèo, du thuyền, thuyền chiến chèo tay, tám mươi sáu tàu trận và năm trăm thuyền chở quân Cô-dắc hợp thành một đoàn dài rải ra trên các khúc sông.
Từ trên boong tàu cao nhìn xuống là những cánh đồng cỏ xanh rờn; mặt nước lăn tăn của những hồ ao do lũ mùa xuân tạo thành dọc theo bờ sông. Từng đàn chim bay về phương Bắc. Từng quãng lại có những ngọn đồi đá vôi điếm trắng ở chân trời. Gió Đông Nam thổi lúc đầu là gió ngược, mọi người phải chèo lái gay go cho đến khi tàu quay mũi sang hướng Tây; các cánh buồm rũ xuống, tàu giạt đi, các thuyền trưởng dùng loa quát tháo dữ dội. Nhật lệnh nói rõ: “Không một tàu nào được tụt lại sau tàu chỉ huy. Mọi tàu đều phải theo sát tàu này. Nếu ai đến chậm ba giờ sẽ bị khấu một phần tư lương hàng năm, chậm sáu giờ khẩu hai phần ba và chậm mười hai giờ khẩu lương cả năm”.
Khi tàu quay mũi về hướng Tây Nam, cuộc hành trình trở nên thích thú. Ánh chiều tà ẩm ướt và rực rỡ trải ra trong chốc lát trên đồng cỏ. Một phát trái phá từ tàu đô đốc ầm nổ. Tiếng kèn thay phiên gác vang lên. Đèn hiệu leo lên đỉnh cột buồm. Buồm được thu lại, mỏ neo thả xuống nước kêu lũng bũng. Những đống lửa được nhen lên trên bờ sông mờ mờ tối, tiếng quân Cô-dắc í ới, nghe như hát.
Từ cái khối đen ngòm của chiếc tàu Sứ đồ Piotr do Sa hoàng chỉ huy, một phát pháo hiệu, tựa cái đuôi của mụ phù thủy, bay lên bầu trời đầy sao, tiếng rít làm đàn cun cút hoảng sợ. Mọi người tập hợp tại phòng sĩ quan ăn bữa tối. Trong những đêm say sưa đó, các đô đốc thuyền trưởng, cận thần của Sa hoàng, từ các tàu gần nhất đến đây bằng thuyền.
Khi qua tu viện Divnogorski, sáu chiếc tàu do công ty của vương hầu Boris Alekseevich Golixyn đóng, gia nhập hạm đội. Trong dịp này, đoàn tàu bỏ neo bên bờ sông đá vôi, tiệc tùng linh đình hai ngày ròng rã ở ngoài trời trong vườn tu viện. Người ta tìm cách cám dỗ các tu sĩ bằng tiếng kèn đồng hoặc những lời bông đùa hai nghĩa; người ta cho phát hỏa cả tám trăm khẩu đại bác của hạm đội để làm họ kinh hoảng.
Rồi buồm lại căng gió trên cả dòng sông. Tàu lượn theo dọc bờ sông cao, chạy qua những thành nhỏ chung quanh có những hàng giậu bằng phên đan và lũy đất, qua những lãnh địa mới của các đại thần và các tu viện, qua những nơi đánh cá. Gần thành nhỏ Pansino, người ta thấy hàng đàn kỵ binh Kalmys đen ngòm, mang giáo dài, và bên hữu ngạn, quân Cô-dắc đóng giữa các xe cộ xếp thành một ô vuông với hai khẩu đại bác. Quân Kalmys và quân Cô-dắc đương đầu với nhau, tranh dành những đàn ngựa và những nơi đánh cá chiên.
Tổng trấn Sein đi xuồng tới gặp quân Kalmys, Boris Alekseevich Golixyn thì tới gặp quân Cô-dắc. Họ giảng hòa đôi bên. Nhân dịp này lại tiệc tùng linh đình trên những ngọn đồi xanh rờn, dưới những đám mây lững lờ trôi, dưới những đàn sếu bay ngang trời.
Cornelix Cruyx, rượu say, ra lệnh câu rùa rồi chính tay hắn đem nấu xúp. Vua Piotr cũng ra lệnh câu rùa và đãi các đại thần một món ăn đặc sắc. Ăn uống xong, nhà vua đưa những đầu rùa ra, tổng trấn Sein nôn ọe luôn. Mọi người cười mãi.
Ngày 24 tháng năm, vào buổi trưa, khí trời oi bức, những pháo đài thành Azop xuất hiện ở phía Nam, qua một màn sương mù che lấp cả mặt biển. Nơi đây, dòng sông Đông trải ra rộng mênh mông; nhưng lòng sông không đủ sâu để các tàu gắn bốn mươi cỗ đại bác có thể vượt qua được cửa sông. Trong lúc phó thủy sư đô dốc thăm dò lòng nhánh sông Đông - sông Kutiurma - và vua Piotr tới Azop và Taganrok bằng du thuyền để thăm các thành lũy, pháo đài - thì đoàn sứ thân của phiên vương (tức Krym) từ Bakhsitxarai tới, cưỡi trên những con ngựa tuyệt đẹp, có cả một đoàn ngựa chở đầy tặng phẩm đi theo. Họ dựng lên những lều thảm rồi cắm trên dỉnh đồi một cái “túc” tức là một ngọn giáo dài trên đầu có buộc một cái đuôi ngựa và một hình trăng lưỡi liềm, - rồi cho phiên dịch tới hỏi xem Sa hoàng có vui lòng nhận lời chào và tặng phẩm của phiên vương hay không.
Các sứ thần được trả lời là Sa hoàng ở Moskva, chỉ có đại diện của nhà vua là thủy sư đô đốc Golovin và các đại thần có mặt ở đây. Ngọn “túc” phấp phới bay ba ngày trên đỉnh đồi. Quân Tarta phi trên mình những con ngựa hung dữ trước nòng những khẩu trái phá. Đến ngày thứ tư, các sứ thần ra mắt trên tàu đô đốc. Người ta trải một tấm thảm trắng của miền Anatoli rồi đặt tặng phẩm lên trên: một cốt sắt cho yên ngựa, một thanh kiếm, súng ngắn, một dao găm, một bộ yên cương, mọi thứ khá giản dị, bằng bạc nạm ngọc, giá trị không bao nhiêu.
Golovin ngồi trịnh trọng trên chiếc ghế gấp, người Tarta ngồi trên thảm, chân xếp bàn tròn. Họ nói đến hiệp ước đình chiến do Voznixyn đã kí kết, rồi nói đến việc này việc nọ, vừa nói vừa vuốt vuốt chòm ria lưa thưa hai bên mép, vừa đưa cặp mắt linh hoạt như mắt chó biển sục sạo khắp nơi, vừa tặc tặc lưỡi:
- Moskva rất tốt, hạm đội rất tốt... Nhưng các ngài đã lầm khi đặt vào đó nhiều hy vọng quá. Những tàu lớn của các ngài sẽ không qua được dòng sông Kutiurma. Mới đây, hạm đội của vua Thổ Nhĩ Kỳ đã định lọt vào sông Đông nhưng rồi đành chịu tiu nghỉu trở về Kesk.
Tất cả mọi việc đều chứng minh là họ đến chỉ có mục đích dò xét tình hình. Sáng sớm hôm sau, trên đồi cột “túc”, lều, kỵ binh đều biến mất, chẳng còn gì nữa.
Cuộc thăm dò cho biết là dòng sông Kutiurma nông. Mực nước sông Đông ngày càng xuống. Người ta chỉ còn mong một cơn gió dữ từ phía Tây Nam thổi tới để dồn nước biển vào trong eo mà thôi.
Vua Piotr từ Taganrok trở về. Mặt nhà vua sa sầm khi được biết là lòng sông không được sâu lắm. Gió Nam uể oải thổi. Nóng bức bắt đầu. Từ các sườn tàu, hắc ín chảy nhỏ giọt. Vỏ tàu bằng gỗ không được phơi kỹ trong mùa đông bây giờ nứt nẻ.
Người ta phải hút nước từ hầm tàu lên. Buồm thu cả lại, các tàu đậu bất động, hư hư ảo ảo trong không khí nóng bức. Có lệnh phải bỏ bớt đồ nặng trên tàu. Từ hầm tàu, những thùng thuốc súng và thức ăn muối được chuyển xuống thuyền để chở tới Taganrok. Tàu nhẹ đi nhưng mực nước sông Kutiurma cứ tiếp tục rút.
Ngày 22 tháng sáu, vào giờ bữa ăn trưa, chuẩn đô đốc Julius Retet, nặng nề và mặt đỏ nhừ, từ phòng sĩ quan nóng như cái lò bước ra đứng trên cầu tàu đái xuống. Mắt long lên, hắn nhìn thấy ở phía Tây Nam một đám mây xám đang ùn lên rất nhanh. Đái xong, hắn nhìn đám mây một lần nữa, rồi trở về phòng sĩ quan, cầm lấy mũ, gươm và nói lớn: “Sắp có giông!”
Vua Piotr, các đô đốc và các thuyền trưởng đứng bật cả dậy, rời khỏi bàn. Những đám mây tơi tả, lướt trên trời cao: từ phía sau mặt nước nhợt nhạt, những mây khói đen ngòm bốc lên. Mặt trời nóng giãy lấp lánh ánh sắt. Cờ xí, quần áo thủy thủ phơi trên thừng cột buồm rủ xuống, im phăng phắc.
Trên tất cả các tàu, các thủy thủ trưởng thổi còi báo động: tất cả mọi người lên boong! Người ta buộc chặt buồm lại, thả những neo dùng khi có bão. Mây đen phủ kín nửa bầu trời. Mặt nước xám xịt lại. Một tia sáng lớn từ sau rìa làn mây lóe ra. Gió rít trên dây buồm càng dữ dội hơn, khắc khoải hơn. Cờ đập phành phạch. Gió thổi mạnh vào những đám mây đen ngòm đang cuồn cuộn, tan tác. Cột buồm kêu răng rắc; những quần ngắn bị giật khỏi các dây thừng, bay lên. Gió xô đẩy mặt nước, giật đứt các dây dợ trên tàu. Các thủy thủ trên các trục buồm co quắp bíu chặt lấy dây thừng. Các thuyền trưởng dậm chân, quát tháo át cả cơn bão mỗi lúc một mạnh thêm. Nước sủi bọt xô vào mạn thuyền. Bầu trời như vỡ toác ra trong tiếng sấm động ầm ầm, ánh chớp sáng loáng; sấm rền không ngừng. Những cột lửa đổ xuống.
Vua Piotr, đầu trần, vạt áo nẹp bay tung, tay bám chặt lấy lan can tàu, đứng ở đằng lái con tàu lúc chúi xuống, lúc nhoi lên. Oang tai choáng mắt, nhà vua há hốc mồm như cá ngáp. Chớp đánh lằng nhằng chung quanh tàu, tưởng như đánh vào đầu các ngọn sóng. Julius Retet thét vào tai nhà vua:
- Chưa có gì đâu. Cơn bão thực sự một lát nữa mới bắt đầu.
Cơn bão tới, gây nhiều thiệt hại. Sét đánh chết hai thủy thủ trên bờ. Bão giật đứt dây cáp buộc mỏ neo, quật gẫy nhiều cột buồm, xô giạt vào bờ nhiều tàu nhỏ làm những tàu này ngập nước. Nhưng mặt khác, một cơn gió Tây Nam dữ dội dồn đến, đúng như mọi người mong muốn.
Nước sông Kutiurma dâng lên vùn vụt. Tang tảng sáng các tàu bắt đầu lên đường. Khoảng năm mươi thuyền chèo tay, dùng những dây thừng dài, kéo chiếc La Sitadell đi trước. Từ hải tiêu này đến hải tiêu khác, đáy tàu không một lần nào chạm lòng sông, chiếc tàu ra khỏi sông Kutiurma và tiến vào biển Azop, nổ đại bác và kéo cờ hiệu của thuyền trưởng Pambur.
Cùng ngày hôm đó, các tàu có tầm nước sâu cũng được kéo ra khơi: Sứ đồ Piotr, Voronez, Azop, God Darag và Vijin Drag.
Ngày 27 tháng sáu, toàn thể hạm đội thả neo trước những pháo đài của thành Taganrok. Ở đây núp trong kè xây ở cảng, người ta xảm lại tàu, quét hắc ín và sơn lại những vỏ tàu bị khô nẻ, nối lại các dây thừng, xếp đồ nặng lót đáy tàu. Vua Piotr ngồi trên một chiếc ghế đẩu treo lơ lửng bên mạn tàu La Sitaden hàng ngày ròng rã. Nhà vua vừa khe khẽ huýt sáo vừa đập búa vào những chỗ xảm. Hoặc chổng cái mông lép kẹp dưới chiếc quần chẽn bằng vải thô nhem nhuốc, nhà vua leo lên cột buồm để mắc một trục buồm mới. Cũng có khi nhà vua lại tụt xuống tận đáy hầm tàu, nơi Fedorxey Xkliaev làm việc. Trong lúc cãi cọ hắn đã đi đến chỗ chửi nhau tục tằn với Jhon Dey và Ioxif Ney - Hắn đang lắp mộng ở đằng lái.
- Piotr Alekseevich, nhân danh Chúa, xin bệ hạ đừng làm vướng hạ thần, - Fedorxey nói, giọng cáu kỉnh. - Nếu các mộng của hạ thần không vững, xin bệ hạ cứ đem chặt đầu hạ thần đi nếu bệ hạ muốn, nhưng xin bệ hạ đừng làm vướng hạ thần!
- Được, được ta chỉ muốn giúp nhà ngươi thôi!
- Thế thì xin bệ hạ đến giúp Aladuskin, vì bệ hạ và hạ thần cùng làm thì chỉ có cãi nhau mất!
Mọi người làm việc suốt tháng bảy. Chuẩn đô đốc Julius Retet huấn luyện thủy thủ các tàu, tuyển trong số binh lính các trung đoàn Preobrazenski và Xemionovski.
Nhiều thủy thủ là con nhà quý tộc: suốt đời họ, họ chưa hề trông thấy biển cả. Về tính hung ác và lòng dũng cảm, Julius Retet là một thủy thủ thực sự. Hắn dùng roi thừng nhồi vào óc các thuỷ thủ lòng say mê đi biển, buộc họ phải đứng trên trục chiếc buồm cao tít, cách mặt nước mười hai xagien, nhảy từ trên lan can tàu xuống nước, đầu đâm xuống trước và để nguyên quần áo:
- Kẻ nào chết đuối, kẻ đó không phải là thủy thủ.
Đứng giang hai chân trên cầu chỉ huy, quai hàm bạnh như mõm một con chó giữ nhà, tay cắp gậy sau lưng, tên cướp biển độc nhỡn này nhìn thấy hết thảy: ai lề mề tháo một nút thừng hay buộc một đầu dây không chắc:
- Này đằng kia, trên cột buồm đằng mũi kia, đồ con bò, mày thả dây buồm thế nào thế?
 Hắn dậm chân:
- Tất cả mọi người về sàn đằng lái... Bắt đầu lại!
Emelian Ukrainxev, sứ thần mới được bổ nhiệm, từ Moskva tới. Hắn là một nhà kinh doanh dày dạn kinh nghiệm, làm việc tại Bộ các sứ thần. Đi theo hắn có viên thư ký Sheredeev và các phiên dịch Lavretski và Botvinkin. Để làm tặng phẩm cho vua Thổ Nhĩ Kỳ và các viên tổng đốc Thổ Nhĩ Kỳ, họ có đem theo lông hắc điêu thử, nanh hải báo và một pud rưỡi chè.
Ngày 14 tháng tám, tàu La Sitaden dong buồm, cùng toàn thể hạm đội ra khơi vào một buổi gió Đông Nam thổi mạnh, thẳng dường tiến về hướng Tây Tây- Nam.
Ngày 17, bên mạn trái tàu, trông thấy thành Kesk trên bờ sông Nogai. Hạm đội vượt qua eo biển, nổ súng đại bác, khói thuốc súng mù mịt, rồi đến trước Kesk và thả neo. Tường thành này đã có từ lâu, những tháp vuông cao nhiều chỗ đã đổ nát. Không có pháo đài, thành lũy. Bốn chiếc tàu đỗ gần bờ. Rõ ràng là người Thổ Nhĩ Kỳ hốt hoảng: họ không ngờ thấy trong vịnh xuất hiện nhiều buồm và nhiều khói thuốc súng đại bác đến thế.
Murtaza, tổng đốc thành Kers, một người Thổ Nhĩ Kỳ ăn bận chải chuốt và lười nhác, khiếp sợ nhìn qua lỗ châu mai một ngọn tháp. Hắn cử phái viên xuống tàu đô đốc của xứ Moskovi để hỏi lý do sự thăm viếng của một đoàn tàu lớn đến như thế.
Một tháng trước đây quân Tarta của phiên vương Krym đã về báo cáo là hạm đội của Sa hoàng không ra gì, hoàn toàn không có đại bác và không bao giờ có thể vượt qua được các bãi cát ngầm ở Azop.
- Ai-ai-ai... Ai-ai-ai, - Murtaza vừa lẩm bẩm vừa gạt một cành cây con mọc trong lỗ châu mai để nhìn cho rõ hơn. Hắn đếm, đếm mãi số tàu. Rồi hắn bỏ không đếm nữa. - Đứa nào đã tin vào bọn gián điệp của phiên vương? - hắn thét lên với bọn công chức đứng sau hắn trên hiên tháp, đầy cứt chim. - Đứa nào đã tin vào bọn chó Tarta?
Murtaza giậm đôi giầy mõm nhái. Bọn viên chức, được nuôi béo và quen sống lười biếng trong cái thành phố hẻo lánh quá yên tĩnh này, đặt tay lên ngực, lắc cái đầu đội mũ đấu hoặc quấn khăn, vẻ mặt đau khổ. Chúng hiểu rõ là Murtaza sẽ phải viết cho hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ một bức thư chẳng thú vị gì và ai biết được sự việc sẽ xoay chuyển ra sao? Hoàng đế tuy là đại diện tối cao của Giáo tổ nhưng tính tình nóng nảy, người ta đã từng thấy nhiều viên tổng đốc, còn quan trọng hơn Murtaza, rên rỉ mà ngồi lên cọc tội hình.
Cánh buồm chéo của chiếc thuyền nhỏ chở đoàn phái viên rời khỏi tầu đô đốc. Murtaza vội sai một viên chức ra bờ vịnh để thúc giục bọn phái viên, và hắn lại đếm số tàu. Các phái viên - hai người Hy Lạp - đến trình diện; mắt ngước lên trời, so vai rụt cổ, họ tặc tặc lưỡi.
Murtaza giận dữ, vươn cổ, nghểnh bộ mặt phì nộn về phía họ. Họ kể:
- Viên đô đốc xứ Moskovi ra lệnh cho chúng tôi gửi lời chào ngài và nói là họ đưa sứ thần đến gặp hoàng đế. Chúng tôi có cho viên đô đốc biết là ngài không thể để sứ thần qua đường biển được và phải qua Krym và Baba như tất cả mọi người khác. Viên đô đốc trả lời: “Nếu các người không để ta đi qua đường biển, tất cả hạm đội của ta sẽ đi cùng với sứ thần đến tận Constantinop!”
Ngày hôm sau, tổng đốc Murtaza phái hai quan chức thượng cấp đến gặp đô đốc. Và họ nói:
- Thưa các ngài xứ Moskovi, chúng tôi ái ngại cho các ngài. Các ngài không biết Hắc Hải của chúng tôi. Những khi có tai biến, trên biển này, lòng người trở nên đen tối, do đó mới có tên gọi là Hắc Hải. Các ngài hãy nghe chúng tôi, hãy theo đường bộ mà tới Baba.
Đô đốc Golovin cau mặt lại:
- Các người tưởng làm ta sợ chăng?
Lúc ấy có một người cao lênh khênh, mắt sáng, ăn mặc theo kiểu Hà Lan phá lên cười và tất cả những người Nga đều cười theo.
Làm thế nào bây giờ đây? Làm thế nào ngăn không cho họ qua được khi mà lúc gió sớm nổi lên, các tàu xứ Moskovi dong buồm và sắp thành hàng theo đúng mọi phép tắc trong ngành hàng hải, đi đi lại lại trong vịnh, bắn phá các tấm biển bằng vải cắm trên các phao. Làm thế nào mà từ chối bọn láo xược cỡ này? Chỉ còn hy vọng ở Chúa Alla (1). Murtaza kéo dài cuộc thương lượng.
Xuồng cặp mạn tàu đô đốc Thổ Nhĩ Kỳ. Cornelix Cruyx và hai người chèo xuồng, mặc quần áo thủy thủ Hà Lan - vua Piotr và Alexaska - bước lên tàu. Trên sàn tàu đằng lái, thủy thủ Thổ Nhĩ Kỳ bắn một loạt súng chào viên phó đô đốc xứ Moskovi.
Đô đốc Haxan trịnh trọng bước ra khỏi căn buồng phía lái tàu, mặc áo dài lụa trắng và chít khăn có cài một vành kim cương hình lưỡi liềm. Hắn trang nghiêm đặt ngón tay lên trán và lên ngực. Cornelix Cruyx bỏ mũ ra và vừa phất phất những chiếc lông chim trên mũ vừa đi giật lùi trước Haxan.
Người ta đưa đến hai chiếc ghế. Hai viên đô đốc ngồi dưới một cái tán vải. Một người béo lùn - tay đầu bếp đã bị hoạn - bưng một chiếc khay trên có một đĩa nhỏ đựng kẹo bánh, một ấm cà-phê và những chén nhỏ không lớn hơn cái đê khâu là mấy. Hai viên đô đốc chuyện trò lịch sự. Haxan hỏi thăm sức khỏe Sa hoàng. Cornelix Cruyx trả lời Sa hoàng vẫn mạnh và cũng hỏi thăm sức khỏe hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. Haxan cúi đầu xuống sát mặt bàn:
- Alla phù hộ hoàng đế. - Cặp mắt buồn bã của hắn nhìn sang bên cạnh Cornelix Cruyx. - Ở Kesk, - hắn nói - chúng tôi không để một hạm đội lớn. Chúng tôi chẳng phải lo ngại ai ở đây. Trái lại ở biển Marmara, chúng tôi có những tàu mạnh. Súng đại bác trên tàu lớn đến mức có thể bắn đạn đá nặng ba pud.
Cornelix Cruyx vừa nhấm nháp cà-phê vừa trả lời:
- Tàu của chúng tôi không bắn đạn đá. Chúng tôi dùng đạn gang nặng từ chín đến mười lăm cân. Đạn này xuyên qua tàu địch từ bên này sang bên kia.
Haxan khẽ nhướn cặp lông mày đẹp:
- Chúng tôi rất lấy làm lạ thấy người Anh và người Hà Lan, những người bạn tốt của Thổ Nhĩ Kỳ, phục vụ một cách mẫn cán trong hạm đội của Sa hoàng.
Cornelix Cruyx, với một nụ cười cởi mở, nói:
- Ồ thưa ngài Haxan, người ta phục vụ cho những ai trả lương hậu hơn. - Haxan nghiêm nghị gật đầu. - Hà Lan và Anh thu được những món lãi lớn trong việc buôn bán với xứ Moskovi. Sống hòa bình với Sa hoàng có lợi hơn là gây chiến. Xứ Moskovi giàu có hơn tất cả các nước khác trên thế giới.
Haxan, vẻ nghĩ ngợi:
- Thưa ngài phó đô đốc, Sa hoàng lấy đâu mà có nhiều tàu như vậy?
- Chính người Moskovi đóng lấy, trong hai năm.
- Ai-ai-ai, - Haxan vừa kêu lên vừa lắc lư chiếc khăn.
Trong khi các đô đốc chuyện trò, vua Piotr và Alexaska mời các thủy thủ Thổ Nhĩ Kỳ hút thuốc và bày đủ trò cho họ cười. Thỉnh thoảng Haxan lại liếc mắt nhìn những anh chàng cao lớn có vẻ như quá tò mò ấy. Chẳng hạn, một trong hai người đã leo lên tận chòi canh trên đỉnh cột buồm. Người kia đưa mắt ngắm một khẩu đại bác bắn nhanh kiểu Anh. Nhưng Haxan lịch sự lặng im, ngay cả khi thủy thủ dẫn những người Moskovi xuống tận sàn giữa tàu. Cornelix Cruyx xin phép xuống bến để mua hoa quả kẹo bánh và cà phê. Haxan suy nghĩ một lát và trả lời chính hắn có thể bán cà phê cho phó đô đốc.
- Ngài cần nhiều không?
- Độ bảy mươi đồng tiền vàng.
- Apdula-Alla! - Haxan gõ gót giầy gọi.
Người đầu bếp hoạn lặc lè chạy đến, nghe lệnh rồi đem đến một cái cân, theo sau là mấy thủy thủ kéo lê những túi cà phê. Haxan nhích ghế lại gần cho tiện xem lại mặt cân, rồi rút từ trong bụng ra một chuỗi hạt hổ phách để tính mã cân.
Hắn ra lệnh tháo một túi. Vừa để những hạt cà phê tuôn trên những ngón tay sạch sẽ chau chuốt của hắn, hắn vừa nói, mắt lim dim:
- Cà phê này là thứ cà phê tốt nhất ở Java. Ngài sẽ cám ơn tôi, ngài phó đô đốc ạ. Ngài thật là một người tốt. - Và cúi sát tai phó đô đốc. - Tôi không muốn làm hại ngài, ngài hãy khuyên can người Moskovi đừng đi theo đường biển: dọc bờ biển có nhiều đá ngầm và nhiều bãi cát nguy hiểm. Chính chúng tôi cũng ngại vùng ấy.
- Chúng tôi đi theo dọc bờ biển làm gì? - Cornelix Cruyx trả lời. - Miễn là có gió thuận, tàu chúng tôi cứ thẳng đường mà vượt biển.
Cornelix Cruyx đếm bảy mươi đồng Shervonitz (2). Hai vị đô đốc chia tay nhau. Ra đến cầu xuống tàu, Cornelix Cruyx nghiêm khắc gọi:
- Ôhê, Piotr Alekseyev!
Một tiếng vội vã trả lời:
- Có tôi!
Vua Piotr và theo sau là Alexaska, từ một cửa hầm tàu vọt ra: cả hai người đều đã đội mũ đỏ hình đấu.
Phó đô đốc xứ Moskovi ngả mũ chào đô đốc Thổ Nhĩ Kỳ và ngồi vào chỗ bẻ lái.
Xuồng chạy về phía bờ, vua Piotr và Alexaska ra sức chèo, mái chèo oằn lại, và vui vẻ cười nhe cả hai hàm răng. Một đợt sóng nhào lao chiếc xuồng vào đá sỏi trên bờ. Từ cổng thành, các phái viên và các thượng quan Thổ Nhĩ Kỳ hồi nãy vội vàng tiến ra, men theo dãy thuyền đã hư nát và các cọc xanh rêu. Họ đến yêu cầu những người Moskovi đừng vào trong thành phố: nếu cần, các thương nhân sẽ đem đến tận xuồng mọi thứ hàng hóa cần mua... Vua Piotr trợn mắt, hai má đỏ bừng bừng vì giận dữ. Alexaska dựng thẳng mái chèo như một ngọn giáo.
- Myn Herz, hãy nói cho chúng biết... Hạm đội ta sẽ tiến lại cách một tầm súng đại bác... Nghĩa là...
- Họ có quyền không để ta vào: đây là một tòa thành, - Cornelix Cruyx nói. - Ta hãy đi dạo trên bờ, dọc theo tường thành, ta sẽ thấy tất cả những điều ta muốn biết.
-------------
Chú thích:
(1) Thánh của đạo Hồi.
(2) Tiền cổ Nga, bằng 10 rúp.

Chương 114

Murtaza không còn bày trò gì thêm được nữa: thôi thì đành để họ đi. Chúa Alla hãy tha tội cho con!
Vua Piotr trở về Taganrok với hạm đội.
Ngày 28 tháng tám tàu La Sitadell chở sứ thần, một viên lục sự và các phiên dịch, có bốn tàu chiến Thổ Nhĩ Kỳ đi kèm, vượt qua mũi Kesk và thuận theo chiếu gió, chạy dọc theo bờ biển phía Nam xứ Krym. Các tàu Thổ Nhĩ Kỳ chạy theo sau sát lái, ngay trên làn nước sủi bọt. Một phái viên đi trên chiếc tàu đầu tiên. Haxan thì ở lại Kesk. Đến phút cuối cùng hắn chỉ yêu cầu cấp cho hắn một giấy chứng nhận viết rõ rằng sứ thần của Sa hoàng đã tự ý đi theo đường biển còn chính hắn, Haxan, đã can ngăn.
Nhưng yêu cầu này cũng bị khước từ. Khi đã trông thấy Balaklava, người phái viên xuống một chiếc xuồng, đi đến ngang tàu La Sitadell và yêu cầu thuyền trưởng vào Balaklava để lấy nước dự trữ. Hắn vừa vung cánh tay áo một cách tuyệt vọng vừa chỉ chỏ những ngọn đồi đỏ hoe.
- Đây là một thành phố tốt, xin mời ngài tạt vào thăm.
Thuyền trưởng Pambur, tì khuỷu tay lên lan can, từ trên cao lầu bầu:
- Cứ làm như ta không biết là thằng phái viên muốn vào Bakaklava để bắt dân nộp tiền. Hà! thùng chúng ta đầy ắp nước.
Người ta từ chối yêu cầu của tên phái viên. Gió trở lạnh. Pambur nhìn trời và ra lệnh kéo thêm buồm.
Tàu Thổ Nhĩ Kỳ nặng nề, rõ ràng là mỗi lúc một tụt lại. Chiếc tàu đầu kéo cờ hiệu: “Hạ bớt buồm”.
Pambur giương ống nhòm nhìn và rủa bằng tiếng Bồ Đào Nha. Hắn bổ xuống cầu thang dẫn vào phòng sĩ quan lát bằng gỗ bồ đào rất sang trọng. Sứ thần Emelian Ukrainsev say sóng ngồi bên bàn, trên chiếc ghế dài đánh xi bóng, mắt nhắm nghiền, y nắm chặt trong tay bộ tóc giả đã bỏ xuống. Pambur giận dữ bảo:
- Bọn quỷ ấy đòi tôi hạ bớt buồm. Đời nào tôi nghe chúng, tôi cho tàu ra khơi đây.
Ukrainsev chỉ khẽ phe phẩy bộ tóc giả.
- Ông muốn đi đường nào thì đi.
Pambur leo lên cầu chỉ huy trên sàn tàu, vuốt ria vểnh lên để khỏi vướng khi thét:
- Tất cả mọi người lên boong! Chú ý nghe lệnh! Kéo buồm lớn trên cùng. Buồm lớn... Buồm lớn thứ hai... Buồm lớn thứ ba, buồm tam giác... Lái sang phải. Thẳng tiến!
Tàu La Sitadell kêu răng rắc, nghiêng về một bên, lái ngoặt; buồm bắt gió căng phồng, tàu chạy xa dần các tàu Thổ Nhĩ Kỳ, tốc độ nhanh đến nỗi tưởng như các tàu Thổ đứng im một chỗ, rồi vượt qua Cầu Exin, tiến thẳng đến Constantinop.
Chiếc tàu nghiêng hẳn về một bên, lướt nhanh như bay trên mặt biển xanh thẫm, lô xô dưới làn gió Đông Bắc. Sóng nghểnh cao đầu đầy bọt sủi như để xem còn phải lăn lộn bao lâu nữa trên biển cả mênh mông hiu quạnh trước khi tới những bờ nóng bỏng ánh mặt trời.
Mười sáu người trong đoàn thủy thủ - Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch - đều là những người đã từng vẫy vùng khắp các mặt biển, vừa nhìn sóng vừa hút tẩu: cuộc hành trình thật là dễ dàng, như một trò chơi.
Trái lại, nửa số quân lính trên tàu, bộ binh và pháo thủ nằm la liệt ở hầm tàu, giữa những thùng nước và thức ăn muối.
Pambur ra lệnh phát vodka cho tất cả những người ốm ba lần một ngày.
- Phải quen với biển đi.
Một ngày, rồi một đêm trôi qua; sang ngày thứ hai qua vùng đá ngầm, tàu chòng chành mạnh, nước tràn vào, một làn sóng bọt bỗng tràn khắp boong. Pambur không hề nao núng, thổi những hạt nước lấp lánh trên bộ ria.
Đoàn sứ thần rất khổ sở vì say sóng. Ukrainsev và viên lục sự Sheredeev, nằm trong một ca-bin mới sơn xong ở đằng lái, ngóc đầu khỏi gối, đưa mắt nhìn qua một ô cửa vuông... Ô cửa hình như tụt dần xuống vực sâu; nước xanh rờn réo sèo sèo, dâng lên tới bốn ô kính nhỏ với một tiếng vỗ nặng nề, bịt kín ánh sáng làm căn phòng tối om. Vách phòng kêu răng rắc, cái trần thấp như muốn sụp xuống. Vị sứ thần và viên lục sự rên rỉ nhắm mắt lại.
Vào một buổi sáng quang đãng ngày mồng hai tháng chín, chú thủy thủ nhỏ, một chú bé Kalmys, đứng trên thùng canh ở cột buồm dưới, hét lên:
- Đất liền!
Những hình gò đống ngổn ngang, xanh nhạt của hai bên bờ eo biển Bosfo mỗi lúc một gần. Xa xa, những cánh buồm hình tam giác. Chim hải âu lượn quanh vừa kêu trên đuôi tàu cao như trầm trồ.
Pambur gọi mọi người lên boong:
- Rửa ráy đi, chải áo nẹp, đội tóc giả vào.
Đến trưa, tàu La Sitaden trương hết buồm, đi vào eo Bosfo, vượt qua những tháp canh cổ kính. Trên tường pháo đài, những tín hiệu xuất hiện trên đỉnh một cột buồm:
- Tàu nào?
Pambur cho trả lời:
- Phải biết lá cờ xứ Moskovi chứ.
Từ bờ đánh hiệu:
- Hãy lấy một người hoa tiêu.
Pambur cho kéo tín hiệu:
- Ta đi không cần hoa tiêu.
Ukrainsev mặc áo nẹp màu đỏ thẫm, có lon vàng và đội mũ cài lông chim; viên lục sự Sheredeev. - người xương xẩu, mũi mỏng, hệt một vị thánh tử vì đạo như người ta thường vẽ ở Xuzdan - mặc áo màu xanh lục, thêu bạc và cũng đội mũ cài lông chim. Pháo thủ đứng bên súng đại bác, binh lính đeo súng dài đứng trên sàn tàu phía sau.
Tàu lướt trên eo biển phẳng lặng như gương. Bên trái, giữa những ngọn đồi khô cằn, người ta nhìn thấy những cánh đồng ngô chưa bẻ, những bể chứa nước, những đàn cừu trên đồi, những lều ngư dân bằng đá mái phủ thân ngô khô. Bên hữu ngạn là những khu vườn sum suê, những bức tường trắng, những mái ngói, những bậc thang chạy xuống bờ nước... Những cây trắc bá cao, màu xanh đen, trông giống những con quay kéo sợi. Những tàn tích của một toà lâu đài bị cây cỏ phủ kín. Bên kia lùm cây là một mái tròn và một tháp nhà thờ Hồi giáo...
Tới sát bờ hơn, người ta nhìn thấy những trái quả tuyệt đẹp lủng lẳng trên cành, không khí tỏa hương ôliu và hoa hồng. Người Nga ngạc nhiên trước cảnh đất Thổ Nhĩ Kỳ tươi tốt:
- Ở ta, mọi người gọi họ là đồ trọc đầu và đồ tà giáo. Thế mà hãy nhìn xem, họ sống khá lắm đấy chứ?
Ánh chiều tà đỏ ối lan ra xa, tưởng như lan tới cùng trời cuối đất, rực đỏ lên rất nhanh rồi giảm dần nhuốm nước vùng Bosfo một màu đỏ máu. Tàu La Sitaden thả neo cách Cons tantinop ba hải lý. Trong ánh đêm xanh thẳm xuất hiện vô vàn các vì sao lớn mà người ta không hề thấy ở Moskva. Sông Ngân hà in bóng dưới nước, tựa một đám mây mù.
Trên tàu không ai muốn ngủ. Ai cũng nhìn xuống hai bờ giờ đây thanh vắng, lắng tai nghe tiếng kéo nước cót két từ giếng lên, tiếng ve sầu inh ỏi. Ngay cả chó ở đây cũng sủa một cách khác thường. Dòng nước cuốn dưới đáy những con cá kỳ lạ ngời sáng. Binh lính yên lặng ngồi trên nòng súng đại bác, nói:
- Đất nước mới giàu có làm sao! Người ở đây sống hẳn là dễ chịu...
Mơ màng nhìn một ngọn nến, ánh sáng che lấp nhiều ngôi sao lớn trên ô cửa sổ nhỏ tối om của căn phòng, Emelian Ukrainsev thận trọng chấm chiếc bút lông ngỗng vào lọ mực. Y kiểm lại xem có chút gợn, nhỏ nào ở đầu bút không. - nếu có, y chùi ngòi bút vào bộ tóc giả, và chậm rãi viết một lá thư cho Piotr Alekseevich bằng mật mã:

“Chúng thần đã đỗ ở đây gần hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ngày 3 tháng chín, những tàu Thổ Nhĩ Kỳ tụt lại sau, nay đã tới nơi. Tên phái viên vừa khóc vừa trách móc chúng thần đã bỏ họ đi trước và nói với chúng thần là hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chặt đầu hắn. Hắn yêu cầu chúng thần đợi hắn ở đây để hắn có thể đích thân báo tin cho hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ biết là chúng thần đã đến. Chúng thần có dặn hắn chú ý đến việc làm thế nào để hoàng đế tiếp chúng thần với đầy đủ nghi lễ. Đến buổi chiều, hắn từ Constantinop trở lại và tuyên bố là hoàng đế sẽ tiếp chúng thần với mọi nghi lễ và sẽ cho thuyền của họ đến đón. Chúng thần đã trả lời: không, chúng thần sẽ tới bằng tàu của mình. Chúng thần đã trả lời như vậy nhưng cuối cùng đã đồng ý lên thuyền của họ, với điều kiện là tàu La Sitadell đi trước chúng thần.
Ngày hôm sau, ba chiếc thuyền của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ trải đầy thảm đón chúng thần.
Thần đã nhìn thấy Constantinop, một thành phố kỳ lạ. Tường thành và các tháp tuy đã cũ nhưng vững chắc. Thành phố hoàn toàn lợp bằng ngói, các giáo đường bằng đá trắng đều rất lạ lùng và lộng lẫy. Nhà thờ đức Thánh Bà Sofia thì bằng sa thạch. Từ biển nhìn vào trông rõ Stambul và vùng ngoại ô Pera như ở trong lòng bàn tay. Trên bến, hàng loạt đại bác bắn chào chúng thần và thuyền trưởng Pambur đã cho tất cả các khẩu đại bác của ta bắn đáp lễ.
Chúng thần dừng lại trước cung hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ: từ trên tường cao, hoàng đế nhìn xuống, có người phe phẩy một cái quạt trên đầu.
Một trăm môn vệ cưỡi ngựa và hai trăm thị vệ binh cầm gậy tre đứng đón chúng thần ở trên bờ. Họ có dẫn đến cho thần và cho viên lục sự hai con ngựa yên cương rất sang trọng. Khi chúng thần ở thuyền bước xuống, tên chỉ huy môn vệ của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đến hỏi thăm sức khỏe. Chúng thần lên ngựa và đi qua nhiều phố nhỏ, rất hẹp và quanh co tới dinh thự dành cho chúng thần. Dân chúng chạy theo hai bên.
Tàu của bệ hạ làm mọi người ở đây rất kinh ngạc: người ta muốn biết ai đã đóng tàu đó và làm thế nào đã ra được khỏi sông Đông vào kỳ nước cạn. Người ta hỏi thần xem bệ hạ có nhiều tàu không và kích thước thế nào. Thần có trả lời là bệ hạ có rất nhiều tàu, sống tàu không phẳng như ở đây người ta tưởng và đi biển rất tốt.
Hàng ngàn người Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Armenia và Do Thái đến xem tàu La Sitaden.
Chính hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ cũng đi thuyền đến và đi vòng quanh tàu ba lần.
Người ta đặc biệt khen buồm và dây cáp bền, khen gỗ làm cột buồm. Tuy nhiên cũng có kẻ cho là tàu đóng không được chắc.
Xin bệ hạ tha thứ cho thần, nhưng theo thần thì hình như thế này: trong cuộc hành trình trên biển, gió lúc đó thổi không mạnh lắm vậy mà tàu La Sitaden đã kêu răng rắc, chòng chành và bị nước tràn vào. Những người đóng tàu - Iosif Ney và Jhon Dey - đã ăn lãi nhiều, thần nghĩ như vậy. Một chiếc tàu không phải là một vấn đề nhỏ, nó đáng giá một thành phố lớn.
Ở đây người ta ngắm nhìn nhưng không hỏi giá và chẳng có thương nhân nào hỏi mua... Xin bệ hạ tha thứ cho thần, thần biết sao viết vậy.
Người Thổ Nhĩ Kỳ, họ đóng tàu của họ rất cẩn thận và rất vững chắc: tàu của họ thấp hơn tàu của ta nhưng không bị nước tràn vào.
Một người Hy Lạp nói với thần: người Thổ Nhĩ Kỳ lo sợ trong trường hợp Sa hoàng bịt Hắc Hải thì ở Constantinop sẽ có nạn đói, vì họ nhập lúa mì, gỗ làm nhà và củi đun của các thành phố trên sông Dunai. Ở đây có tin đồn là bệ hạ đã chỉ huy hạm đội tới Tribizond và Xinov. Họ có hỏi thần về vấn đề đó và thần có trả lời: Tôi không biết, trong khi tôi ở đó thì Sa hoàng không làm thế...”

Pambur và các sĩ quan của hắn đi đến Pêra thăm viếng sứ thần các nước châu Âu và hỏi thăm sức khỏe của họ. Các sứ thần Hà Lan và Pháp tiếp người Nga rất ân cần, cảm ơn họ và uống rượu chúc mừng sức khoẻ Sa hoàng. Rồi Pambur và những người đi theo đến sứ quán Anh.
Họ xuống ngựa trước thềm danh dự và gõ cửa. Một tên hầu cao hai thước, râu đỏ bẻm bước ra. Một tay giữ cánh cửa, y hỏi họ muốn gì. Pambur, mắt đỏ ngầu, nói cho y biết mình là ai và mục đích cuộc thăm viếng. Y đóng sập cửa lại và sau một lát khá lâu, y mới trở ra mặc dù những người Moskva phải đứng đợi ở ngoài phố. Y nói, giọng chế giễu:
- Sứ thần đã ngồi vào bàn ăn trưa và cho ra nói với các ông là ngài không thấy cần gặp thuyền trưởng Pambur.
- Thế thì, - Pambur hét lên. - ngươi vào nói với sứ thần là ta cầu cho hắn hóc phải xương mà chết. - Rồi Pambur giận dữ nhẩy lên ngựa, phi nước đại, qua những bậc thang bằng gạch, trước mặt những người hàng rong, những trẻ em trần truồng và những con chó, phóng về phía Galats, nơi lúc nãy, hắn đã trông thấy nhiều bạn cũ của hắn trong các cửa hàng chả nướng và cà phê, và trước cửa những nhà thổ.
Pambur và các sĩ quan của hắn uống rượu Hy Lạp duzic say khướt cho đến khi không còn biết trời đất gì nữa; họ làm ầm ĩ và gây sự với thủy thủ Anh. Bạn bè của hắn đến gặp hắn - những hoa tiêu đường biển, những tên cướp biển nổi tiếng thường trốn tránh trong những ngôi nhà lụp xụp ở Galata, đủ mọi loại người không rõ tung tích. Pambur mời tất cả những người đó lên chè chén trên tàu La Sitaden.
Ngày hôm sau, thủy thủ nhiều nước: Thụy Điển, Hà Lan, Pháp, Bồ Đào Nha, Morơ đáp thuyền đến, người thì đội tóc giả, đi tất lụa và đeo gươm, người thì đầu bịt một chiếc khăn đỏ, chân đi giầy tã, không tất, súng ngắn giắt ở thắt lưng to bản; có người mặc áo ngắn bằng da và đội mũ vải dầu sặc mùi cá mắm.
Mọi người ngồi dự tiệc trên boong, ngoài trời, dưới ánh nắng ấm áp tháng chín. Người ta nhìn thấy ở bên kia các bức tường, hoàng cung âm u, với những lưới sắt đan mau ở các cửa sổ; phía bên kia eo biển là những lùm cây và các khu vườn sum suê của thị trấn Xcutari.
Binh lính các trung đoàn Preobrazenski và Xemionovski thổi kèn, gõ thìa, hát lên những điệu vũ, và bắt chước tiếng hót đủ mọi loại chim, huýt sáo “cảnh mùa xuân”.
Pambur, đầu đội tóc giả rắc phấn bạc, áo dài đỏ đính dải và đăng-ten, một tay cầm cốc, tay kia cầm chiếc mùi-soa nhỏ, - mỗi lúc một thêm bốc, nói với khách khứa:
- Nếu chúng tôi cần đến một nghìn chiếc tàu, chúng tôi sẽ đóng một nghìn... Chúng tôi đã có ở công trường đóng tàu những tàu tám mươi và một trăm khẩu đại bác. Năm tới hãy đợi chúng tôi ở Địa Trung Hải, hãy đợi chúng tôi ở biển Baltic. Chúng tôi sẽ thâu nạp tất cả những thủy thủ giỏi. Và chúng tôi sẽ ra đại dương.
- Một loạt đại bác! - Các thủy thủ mặt đỏ bừng bừng kêu lên. - Một loạt đại bác mừng thuyền trưởng Pambur.
Khách khứa hát các bài ca thủy thủ, dậm chân. Khói thuốc lững lờ bay trong không khí yên tĩnh, bên trên boong tàu. Chẳng ai nhận thấy là mặt trời đã lặn, các ngôi sao trên bầu trời chiếu sáng bữa tiệc khác thường này. Đến nửa đêm, khi nửa số sói biển đã ngáy khò khò, người thì nằm lăn lóc dưới gầm bàn, người thì đầu bạc trắng vì giông tố, bão táp, gục xuống giữa các đĩa ăn, Pambur chạy lên cầu chỉ huy:
- Chú ý! Pháo thủ, ai nấy về chỗ! Nạp đạn! Châm ngòi. Chú ý! Cả hai mạn tàu - một loạt đạn... Bắn!
Bốn mươi sáu khẩu trọng pháo khạc lửa. Bầu trời hầu như đổ ụp xuống Constantinop đang yên ngủ. Tàu La Sitaden, khói phủ kín, bắn một loạt đạn thứ hai.
Emelian Ukrainsev viết bằng mật mã:

“Chính hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ và tất cả dân chúng đều kinh hoảng: thuyền trưởng Pambur đã suốt ngày uống rượu trên tàu với các thủy thủ, và đến nửa đêm, say khướt, đã ra lệnh nổ tất cả các khẩu pháo trên tàu nhiều lần. Trận bắn pháo này khiến khắp thành Constantinop xì xào và có tin đồn lan truyền đi là thuyền trưởng cho bắn đại bác ban đêm để báo cho đoàn tàu của bệ hạ đang chạy trên Hắc Hải biết có thể tiến vào eo biển được.
“Đêm đó hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ hoảng sợ, cứ để nguyên quần áo ngủ, bỏ phòng ngủ chạy ra ngoài, nhiều vị thượng thư và tổng đốc cũng sợ, và cuộc bắn pháo lạ lùng của thuyền trưởng đã làm cho hai vương phi ở thượng cung đẻ non. Hoàng đế rất tức giận Pambur và cho người đến yêu cầu chúng thần bắt thuyền trưởng lên bộ để chặt đầu.
Thần có trả lời hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ là thần không rõ tại sao thuyền trưởng lại cho bắn súng, thần sẽ hỏi ông ta về vấn đề này và nếu trận bắn pháo đó đã làm phiền đến hoàng đế, thần sẽ nghiêm khắc cấm chỉ thuyền trưởng từ nay trở đi không được bắn nữa, nhưng thần không có một lý do nào bắt ông ta lên bộ được. Sự việc đến đó thì chấm dứt.
“Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tiếp chúng thần vào ngày thứ ba. Người Thổ Nhĩ Kỳ chờ đợi thuyền trưởng Metzomo nguyên đầu đảng cướp ở Angie, để hỏi ý kiến hắn: ký hòa ước với bệ hạ hay tuyên chiến”.

Chương 115

Mặt trời tháng chín xế tà trên bờ sông cây cối um tùm. Ngày lại ngày, càng đi ngược lên phương Bắc càng thấy vắng vẻ. Hàng đàn chim cất cánh từ mặt sông yên tĩnh bay lên. Cây đổ ngổn ngang, đồng lầy, hiu quạnh. Thỉnh thoảng lại thấy một túp lều ngư dân và một con thuyền nhỏ kéo lên bờ. Phải bảy ngày nữa mới đến hồ Beloie.
Mười bốn người kéo một sà-lan nặng chở đầy lúa mì. Đầu cúi gằm, hai cánh tay buông thõng, họ dùng ngực kéo quai dây. Họ đã đi như vậy từ Yaroslav. Mặt trời đang lặn sau rặng tùng đen ngòm nhấp nhô như một hàng lỗ châu mai, buổi chiều tà cứ bảng lảng mãi không tắt trong một ánh đỏ rực hải hùng. Từ sà-lan có tiếng gọi: “Ô-hê, vào bờ thôi!”
Phu kéo thuyền đóng một chiếc cọc xuống đất hoặc cột dây vào một thân cây. Họ kiếm củi nhóm lửa. Trên bờ sông sình lầy, rừng tùng dần dần chìm trong làn sương mù trắng như sữa. Đàn vịt trời lướt qua, in bóng vươn cố dài trên nền trời hoàng hôn. Những con nai phương Bắc, lênh khênh như những con ngựa, dẫm lên cành khô lần ra sông uống nước. Trong rừng đầy những loài thú chưa từng biết sợ người, chưa hề có ai bắn giết.
Có tiếng mái chèo vỗ nước. Chính chủ nhân, thánh lão Andrey Denixov, chèo thuyền từ sà-lan vào bờ. Lão mang cho phu kéo thuyền bánh khô, bột mì, đôi khi có cá - và những ngày ăn mặn còn có cả thịt muối nữa. Lão xem neo có chắc không. Lão luồn hai tay vào thắt lưng da, dừng lại trước đống lửa. Lão còn tráng kiện, bận áo dài thầy tu, đội mũ bằng dạ, râu xoăn, mắt sáng. Lão hỏi:
- Anh em khỏe cả chứ? Phải chịu thương chịu khó, Chúa ưa ta siêng cần. Cứ vui lên, mọi công lao của anh em sẽ được đền bù. Anh em đã thoát khỏi vòng xú uế của bọn Nikon, riêng điều đó cũng đã là một đại phước rồi. Và khi chúng ta tới được hồ Onega, thì, chà chà, phong cảnh nơi đó tuyệt đẹp. Thực là cảnh thiên đường.
Lão cựa mình, rút tay ra khỏi thắt lưng, ngồi xổm xuống trước đống lửa. Đám phu thuyền mệt mỏi lắng nghe lão kể:
- Xưa kia, ở vùng đó, có một lão đạo sĩ sống bên bờ sông Vyga. Cũng như bọn ta ngày nay, Người đã bỏ trốn đi để trốn tránh mọi cám dỗ của Quỷ vương. Người vốn là một thương gia, có cửa cao nhà rộng, nhiều cửa hiệu và kho hàng. Một lần Người thấy hiện lên một đám lửa trong có một người, và có tiếng nói của Người: “Ta đã sa vào vòng cám dỗ, đời đời kiếp kiếp bị đầy đọa”. Người liền trao tất cả của cải cho vợ và các con trai, rồi ra đi. Người dựng một căn nhà bằng gỗ cây sống một mình, cảm giao với Chúa, dập tắt mọi dục vọng còn bừng bừng cháy trong lòng. Người xới đất bằng chiếc que cời than, gieo hai mũ đầy lúa mạch giống. Mùa hè cũng như mùa đông, Người khoác một tấm da dê tươi; tấm da khô dần trên mình. Đồ đạc chỉ có một chiếc âu gỗ, một cái thìa và một quyển kinh đạo chính thống. Chẳng bao lâu quyền phép của Người vượt xa các ma quỷ, đến nỗi xem chúng chẳng hơn gì một bầy ruồi nhặng... Người người tìm đến. Người rửa tội cho họ, dùng một chiếc lá hoặc một trái cây rừng để làm lễ ban thánh thể cho họ. Người dạy rằng: thà chết thiêu trong lửa hồng còn hơn bị khổ ải đời đời. Năm này sang năm khác, người người tìm đến vùng người ở để sinh cơ lập nghiệp. Họ đốt cây rừng, cầy chỗ đất đã phá hoang. Họ săn thú, đánh cá, hái nấm và trái cây. Mọi việc đều làm chung, kho tàng, hầm chứa đều là của chung. Người để đàn ông, đàn bà sống riêng . . .
Có tiếng nói nghiêm nghị chêm vào:
- Làm như vậy rất đúng, vì nếu ở chung với đàn bà thì chẳng dành dụm được gì hết!
Lão Denixov đưa con mắt hân hoan nhìn vào khoảng tối xem ai đã nói. Rồi lão tiếp tục kể:
- Nhờ những lời cầu nguyện của lão đạo sĩ, thú vật cứ việc để cho người ta bắt; và đôi khi đánh được những mẻ cá kỳ lạ! Nấm lành, quả ngọt mọc đầy. Người chỉ cho biết những nơi có mỏ sắt, mỏ đồng. Người ta dựng lò luyện kim... Thuở ấy, nơi đó trở thành một thánh địa, đời sống yên lành.
Andriuska Golikov ngồi sau đóng củi khô đứng dậy đến ngồi cạnh Denixov, nhìn thẳng vào mắt lão. Golikov làm phu kéo thuyền vì đã có phát một lời nguyện. - Ngày hôm trước, tại nhà Reviakin, vị thánh lão đã làm lễ rửa tội cho Golikov; lão lấy thừng quất anh và bảo anh đến Yaroslav đợi chiếc sà-lan chở lúa mì của Denixov - Trong số mười bốn phu thuyền, có chín người cũng như Golikov, đã tìm đến để thực hiện một lời nguyện hoặc sám hối.
Denixov kể tiếp:
- Trước khi tịch, người đã ban phước lành cho chúng ta, Xemion, anh ta và ta, Andrey; Người cử chúng ta làm thầy cả ở tu viện Vyga. Người làm lễ thông công cho chúng ta, rồi chúng ta ra đi. Căn lều Người ở hơi riêng biệt, khuất trong một thung lũng nhỏ. Vừa đi khỏi thì, ô kìa, chúng ta đã thấy gì? Chúng ta thấy sáng rực lên. Lều của Người bốc cháy như một bụi cây rực lửa. Ta định bỏ chạy, Xemion níu tay ta lại: đứng im! Từ đống lửa vẳng lên một tiếng hát du dương, và ở bên trên ngọn lửa, trong đám khói, một bầy ma quỷ đen như bồ hóng đang quằn quại kêu sủa. Anh em thấy có lạ không? Anh ta và ta liền quỳ xuống và cũng hát theo... Sáng hôm sau, chúng ta trở lại nơi đó. Từ đống tro tàn, chảy ra một dòng suối trong vắt. Chúng ta đẵn cây dựng lên một nhà nguyện có cả khung cho một bức tranh thánh nhỏ, trên bờ suối... Nhưng chúng ta không mướn được thợ để vẽ tranh như ý chúng ta muốn.
Golikov thốt lên một tiếng nức nở. Denixov nhẹ nhàng đưa tay vuốt những mớ tóc dài lòa xòa trên đầu anh.
- Anh em ạ? Điều không may là cứ ba năm lại có một lần mất mùa lúa mì. Mùa hè vừa qua, trời mưa ngập hết mùa màng, rơm rạ cũng chẳng được cắt. Cho nên phải chở lúa mì từ xa đến... Nhưng việc chúng ta đang làm đây là một việc công đức, các con ạ. Chúng ta không uổng công đâu.
Denixov tiếp tục kể một lát nữa, rồi lão đọc kinh cầu nguyện cho tất cả mọi người.
Lão xuống thuyền bơi về sà lan; con thuyền lướt qua dải sông phản chiếu ánh hoàng hôn nhợt nhạt. Đêm đến trời lạnh; đoàn người chịu rét nằm ngủ trong manh áo rách.
Trời vừa tảng sáng, Denixov lại trở vào bờ đánh thức mọi người dậy. Họ húng hằng ho, tay gãi sồn sột.
Đọc kinh xong, họ nấu cháo. Khi mặt trời mọc, tựa một quả bóng lầy nhầy, họ tròng dây vào vai, lê giầy gai trên bờ sông ẩm ướt.
Dặm nối dặm, ngày lại ngày. Trên trời, từ phương Bắc mây ùn ùn tuôn xuống. Một cơn gió mạnh nổi lên. Nước sông Sesna dâng tràn bờ.
Giờ đây mây bay là là trên mặt hồ Beloie động sóng. Đoàn người đi ngoặt sang phía Tây, hướng về Belozesk. Sóng ập vào bờ hồ vắng vẻ, xô ngã những người phu thuyền. Kéo được chiếc sà-lan đi lúc này thật là vất vả.
Đến giờ ăn, họ trú vào một túp lều ngư dân để hong quần áo cho khô. Ở đây, hai người phu mướn cãi nhau với Denixov về chuyện ăn uống; họ đòi thanh toán tiền công - mỗi người được bảy mươi lăm kopeik, rồi bỏ đi thẳng.
Sà lan bỏ neo trên chỗ đá ngầm, trước thành phố. Gió đã trở lạnh, thổi xói vào mọi người, buốt đến tận xương.
Nghĩ đến nông nỗi phải kéo thuyền lên phương Bắc, ai nấy đều ngao ngán trong lòng. Cả bọn phu mướn đều cãi lộn với Denixov rồi bỏ đi, tản mát vào các làng ngư dân. Cả những người phu tình nguyện cũng vậy: người thì gặp bạn, kẻ thì biến mất lúc nào không ai biết, bằng cách nào chẳng ai hay.
Ba người ngồi trên một chiếc thuyền úp trên đá cuội ướt: Andriuska Golikov, Iliuska Dekhtiarev - một nông dân vùng Kasira đi trốn - và Fetka, biệt danh là Mõm bẩn, một anh chàng gù lưng sống lang thang nay đây mai đó, nguyên trước là nông nô trong một tu viện và đã từng nhiều lần bị đánh đập tra khảo. Ba người đưa mắt nhìn quanh.
Nơi đây cảnh vật tiêu điều: mặt hồ vẫn đục, sóng bạc đầu trắng xoá, từ phương Bắc mây lớp lớp ùn về; bên kia bờ đê, trên dải đồng bằng phẳng lì, một thành phố nhà gỗ cũ nát tứ bề mây phủ như bưng: nóc tháp thì thủng, gác chuông hình củ hành của nhà thờ thì hoen gỉ, mái những ngôi nhà gỗ cao thì sụp đổ. Những con sào phơi lưới lung lay trước gió. Trước sau không một bóng người. Đâu đây, chuông nhà thờ buông từng tiếng não nuột.
- Denixov chỉ khéo nuôi người bằng nước bọt. Đợi cho đến được thiên đường của lão ta thì bọn mình chỉ còn phần hồn thôi, - Mõm bẩn vừa nói vừa lấy ngón tay gãi vào cái chai ở gan bàn tay.
- Mày phải có đức tin! Mày phải có đức tin chứ, - Golikov tức giận quát; rồi anh buồn rầu nhìn những làn sóng trắng xóa. Sao mà buồn thảm, cô quạnh, lạnh lẽo nhường này... Có lẽ cả ở đây cũng vậy. Chúa cũng vẫn xa vời.
Iliuska Dekhtiarev, một nông dân lực lưỡng, miệng rộng, đôi mắt vui vẻ, chậm rãi khẽ kể:
- Tớ liền hỏi anh ta: tại sao xã anh trống rỗng, tại sao đến một nửa số nhà cửa bị bịt kín? Anh ta trả lời: “Xã chúng tôi trống rỗng vì bọn thầy tu bóc lột chúng tôi... Biết bao lần, chúng tôi đã gửi đơn kiện lên Moskva! Nhưng trên ấy, hẳn là người ta còn lo đến nhiều việc khác... Trong Tuần lễ Thánh, thôi thì bọn chúng thả sức hoành hành, kể sao cho xiết... Bọn thầy tu ở tu viện kéo ra trên mười chiếc xe trượt tuyết, mang theo các tranh thánh - đứa thì đổ ra phố, đứa thì kéo vào thị trấn, đứa thì sục vào làng... Chúng ập vào từng nhà ấn thánh giá vào mồm gia chủ, ra lệnh: “Giơ ba ngón tay lên làm dấu, hôn thánh giá đi!”. Chúng hạch đủ thứ: nào bánh, nào kem, nào trứng, nào cá. Chúng vơ vét sạch sành sanh. Chúng lại còn nã tiền nữa... “Mày là một thằng razkonic, một tên vô giáo trưởng” - chúng bảo thế; “mày giấu những sách kinh cựu của mày ở đâu?” Rồi chúng bắt khổ chủ giải về tu viện, xích lại tra tấn.
Bỗng nhiên, Mõm bẩn ngửa cổ phá lên cười ồ ồ:
- Thôi thì chúng ta tha hồ ăn, thôi thì chúng ta tha hồ uống? Hừ, bọn thầy tu ấy, cầu sao cho chúng chết toi đi cả lũ!
Dekhtiarev hích đầu gối vào người Fetka. Một tên thầy tu, để râu như người di-gan, mũ tròn kéo chụp xuống ngang lông mày, đi ngược gió tiến lại gần chiếc thuyền, tay giữ tà áo cho khỏi tốc. Y trừng cặp mắt dữ tợn nhìn chiếc sà-lan đang kêu ken két lắc lư trên sóng. Rồi y quay về phía ba người hỏi:
- Sà-lan này ở đâu đến?
- Thưa cha, từ Yaroslav đến, - Dekhtiarev uể oải trả lời.
- Sà lan chở gì?
- Có ai nói cho biết là chở gì đâu.
- Chở lúa mì à?
- Có lẽ thế!
- Chúng mày kéo sà-lan đi đâu?
- Ai mà biết được? Người ta sai chúng tôi kéo đến đâu thì chúng tôi kéo đến đấy!
- Mày nói dối, mày nói dối, mày nói dối! - Tên thầy tu xắn phắt tay áo phải lên. - Sà lan này của Denixov. Bọn mày chở lúa mì đến Povenez tiếp tế cho các tu viện razkonic, đồ khốn!
Bất thình lình, y xông vào túm lấy ngực Iliuska Dekhtiarev lắc lấy lắc để, khiến anh nông dân sợ xanh mặt. Rồi tên thầy tu quay về phía thị xã, gân cô gào thật to:
- Ra giúp tôi một tay với!
Golikov vùng dậy, theo ven bờ hồ chạy tháo về phía các lều ngư dân.
- Ra giúp tôi một tay với! - tên thầy tu gào lên lần thứ hai, rồi nghẹn cổ. Mõm bẩn đã túm lấy tóc y, gỡ Dekhtiarev ra, quật tên thầy tu ngã xuống đất, rồi nhìn quanh tìm một hòn đá. Tên thầy tu nhanh chân đứng phắt dậy, đánh vào sườn Fetka. Nhưng Fetka nổi hung cứ trơ trơ như đá, không hề nao núng; hắn lại túm lấy tên thầy tu, vít đầu y xuống, nhè cổ mà đánh.
Tên thầy tu rên lên. Bốn người vác gậy nhọn từ một đường phố nhỏ xông tới. Golikov khiếp đảm, núp sau một lều ngư dân nhìn ra. Mõm bẩn một mình địch năm tên; hắn giằng lấy gậy trong tay một tên, chồm lên đánh trả, vừa đánh vừa la hét dữ tợn. Cả đời, Golikov chưa từng thấy ai nổi hung đến như vậy... “Một con quỷ, quả là một con quỷ!”. Dekhtiarev cũng xông vào cuộc hỗn chiến: hắn nhanh tay đánh vào mang tai tên thầy tu; tên này ngã quay xuống đất, lần này là lần thứ ba. Bộ hạ y bắt đầu lùi. Trong phố lác đác có vài người thập thò ở ngưỡng cửa theo dõi cuộc ẩu đả, đếm từng đòn:
- Đánh nữa đi, thật đáng kiếp, thật đáng kiếp!
Iliuska và Fetka đã thắng thế, đuổi theo bọn hung đồ; nhưng chỉ một lát sau hai người đã quay trở lại bờ sông, chùi máu mũi đang chảy rồi đi thẳng về phía túp lều nơi Golikov đang run như cầy sấy. Mõm bẩn báo Golikov:
- Thật ra, cả mày nữa, cũng đáng sửa cho mày một trận. Đồ ngu, ngữ mày mà cũng đòi lên thiên đường.
Một cái đầu rối bù, với bộ râu màu khói mọc lan lên tận mắt, thò ra ở cửa túp lều đất vách bằng đất nện, quay lưng ra hồ. Một người béo lùn, chân đi đất, mình đầy bồ hóng, bước ra khỏi lều, mắt nhấp nháy. Anh ta nhìn về phía phố: không còn bóng dáng ai nữa.
- Mời các anh vào, - anh ta nói và bước trở vào căn nhà lụp xụp. Ánh sáng lọt vào khe khoét ở phía trên cửa. Gian nhà sực mùi cá tanh ngòm, nửa nhà ngổn ngang chài lưới.
Ilya, Andrey và Fetka bước vào nhà, và giơ hai ngón tay làm dấu. Anh dân chài nói:
- Mời các anh ngồi. Các anh vừa đả ai các anh có biết không?
- Suốt đời tôi bị đánh đập, có lần nào người ta hỏi tôi là ai đâu, - Mõm bẩn thủng thẳng trả lời.
- Các anh vừa đả thằng Feodoxi, thủ từ tu viện Tôn sùng Thánh giá đấy. Nó là một tên kẻ cướp, một tên kẻ cướp thực thụ, tưởng chừng như quỷ Satan hiện hình! Một con chó dại!
Thấy họ là người đồng hội đồng thuyền, anh dân chài liền ngồi xuống ghế xen vào giữa, hai tay khoanh trước ngực, bàn tay thọc vào nách, lắc lư nói:
- Vùng này lắm cá, lẽ ra ở đây có thể làm ăn khấm khá được, ấy thế mà tôi cũng muốn bỏ đi... Không thể sống được, thằng quỷ Satan ấy chiếm đoạt tất cả cái hồ này... Mùa đông đánh được bao nhiêu cá đã phải nộp cho bọn thầy tu một phần tư rồi, đến mùa cá vược mỗi mẻ cá cũng phải nộp cho chúng một phần nữa. Thế mà nó vẫn chưa cho là đủ. Chợt thấy một cánh buồm, là nó chạy ngay ra bãi, vơ vét tất cả, chỉ để lại cho vài con cá đủ ăn một bữa... Ai cưỡng lại, nó liền hạch: “Mày thử làm dấu xem nào?”. Tất nhiên, đành chịu tội với Chúa mà giơ ba ngón tay lên làm dấu. “Không phải thế, thằng này khéo vờ! Theo tao, đi!”. Theo nó đi, còn lạ gì nữa: nó giải anh về tu viện giam vào hầm kín, xích lại. Biết bao lần nó xé rách lưới của anh em, nó đập vỡ biết bao thuyền của anh em... Anh em kêu lên tên tống trấn. Nhưng chính tên tổng trấn cũng chỉ lo ăn cướp của dân. Điều vô phúc là chính đại chủ giáo đã thông tri cho bọn thầy tu ở đây thủ tiêu tất cả tín đồ đạo gốc. Các anh ơi, các anh nên bán xới vùng này mà đi cho sớm.
- Ồ không, bọn tôi đi với Denixov... - Golikov nói, sợ sệt đưa mắt nhìn Dekhtiarev và Fetka.
- Denixov có thế lực, lão sẽ nộp tiền chuộc... Dù có vứt lão vào lửa, lão cũng không chết cháy đâu... Ở phương Bắc xuống, lão chở lông thú, ngà và đồng, và lão nộp tiền. Trên đường về lão cũng nộp tiền. Lão đã quen nghề rồi... Đâu đâu lão cũng có tay trong.
Mõm bẩn mỉm cười chua chát, nói:
- Lão là một tay thợ nói! Trong suốt chuyến đi, lão cho chúng tớ ăn toàn bánh khô. Thế mà lão nói khôn nói khéo cứ như là lão cho chúng tớ ăn thịt gà ấy!
Nghe bạn nói thánh lão của vùng Vyga chẳng ra gì, Golikov nhăn nhó méo xệch cả mặt. Anh nhớ lại đôi khi Denixov đưa tay âu yếm viết nhẹ tóc anh mà hỏi: “Thế nào con, phần hồn con tươi tỉnh chứ? Tốt lắm...”. Anh nhớ lại những câu chuyện kỳ lạ lão kể bên đống lửa: anh hình dung thấy lão ngồi trên con thuyền - chiếc mũ tròn nhọn chỏm in bóng đen trên mặt nước long lanh ánh chiều tà. Chính trong các bức tranh thánh thời cổ cũng có vẽ hình các thánh ngồi trên một con thuyền nhỏ như vậy. Vì Denixov, có phải nhảy vào đống lửa anh cũng không từ. Mấy người ngồi thừ trên chiếc ghế dài, bàn đi tính lại: làm gì đây? Chạy đi đâu? Cứ tiếp tục đi lên phương Bắc? Anh dân chài can: kéo bộ lên phương Bắc, tới tận Vyga mà không có thuyền phải mất hai tháng; họ có thể bỏ mạng trong rừng.
- Hay là các anh tìm đến những miền ấm áp hơn, vùng sông Đông chẳng hạn.
- Vùng sông Đông, tớ đến rồi, - Mõm bẩn đáp, giọng khàn khàn. - Ở đó, chẳng có tự do như xưa đâu. Bọn Cô-dắc ở các xtanitxa (làng Cô dắc) bắt nông dân đi trốn đem nộp. Đã hai lần tớ bị chúng xích và giải đến các xưởng của Sa hoàng ở Voronez.
Chẳng tìm thấy chước nào ổn, họ bảo Golikov đi tìm Denixov: lão sẽ định liệu ra sao? Vừa bước chân đến cổng thành cũ kỹ, nghe thấy tiếng kêu “Bắt lấy chúng, bắt lấy chúng!” Andriuska sợ hết hồn. Nhiều người chân đi đất, quần áo tả tơi, đang tháo chạy; có người nhảy qua hàng rào. Hai tên lính, mặc áo nẹp màu lục, tay giữ mũ, đang đuổi theo. Thở hồng hộc, bọn người biến vào một phố nhỏ ngoằn ngoèo. Một ông già, người nhỏ nhắn, vẻ đạo mạo, đứng trước cửa vườn nói: “Họ lùng bắt bọn này đã hai ngày rồi đấy!”. Golikov hỏi thăm ông cụ có biết lái buôn Andrey Denixov, có trông thấy Denixov ở đâu không? Ông già người bé nhỏ suy nghĩ và bảo:
- Đến quảng trường, tìm Denixov ở nhà quan tổng trấn ấy.
Trên quảng trường nhỏ hẹp, đầy những đống phân, có nhiều dẫy cửa hiệu đóng kín, cột xiêu mái đổ. Chỉ có hai ba cửa hiệu bán kẹo giòn và bao tay. Ngôi nhà thờ cổ, tường đã rạn nứt, đứng trơ trọi không có hàng rào vây quanh. Trước tiền đình mái thấp lè tè, những người đàn bà hành khất, mình quấn manh áo rách nằm ngủ trên bãi cỏ. Một anh chàng dở người đặt cạnh mình ba chiếc gậy cời than, miệng ngáp đến chảy nước mắt; cái đầu to tướng lắc lư. Cuộc sống ở đây chẳng có vẻ sầm uất chút nào.
Giữa quảng trường, một tên lính gác vác giáo dẫm chân tại chỗ trước cột hành hình. Golikov sợ sệt đi về phía tên lính gác. Một tay chủ hiệu cáo già, thò đầu ra cửa gian hàng bằng gỗ, giọng ngọt như đường:
- Chà kẹo giòn ngon lắm!
Golikov khúm núm chào tên lính gác, hỏi đường đến nhà quan tổng trấn. Thân hình ngắn ngủn, chiếc áo nẹp của lính xtreletz vá đụp dài đến gót, tên lính gác quay đầu lại, vẻ bực bội.
Một bản sắc chỉ bằng sắt tây vẽ hình chim ưng đóng ở cột hành hình. Tên lính hét: “Đi, đi!”.
Golikov lảng xa và đưa mắt nhìn quanh: đâu đâu cũng rào mục, nhà xiêu... Mây vướng vào mấy cây thập ác trên nóc nhà thờ. Một người, thắt lưng trễ bụng, chân mang ủng dạ, tiến lại gần Golikov, đôi môi dày nứt nẻ hau háu chề ra. Tên lính gác đứng bên cột hành hình và các người bán hàng trong các cửa hiệu nhìn ra: có chuyện gì đây?
- Mày ở đâu đến? Mày là ai? Mày đi lang thang phải không? - Người đó thở mùi tỏi nồng nặc vào mũi Golikov. Anh khiếp sợ, ấp úng nói không ra lời. Hắn túm cổ anh.
Từ một cửa hiệu có tiếng kêu ra:
- Nó là người của Denixov đấy!
Từ một cửa hiệu khác, một giọng the thé nói:
- Nó dẫn chín đứa đi thiêu đấy!
Người kia lắc Golikov hỏi:
- Mày đã đọc sắc chỉ của Sa hoàng đóng ở cột hành hình chưa? Theo tao, đi, đồ chó đẻ.
Và hắn lôi Golikov sềnh sệch - mà nào anh có dám cưỡng lại - đến cuối quảng trường, vào dinh tổng trấn. Andrey Denixov, áo quần bảnh bao, râu tóc chải chuốt, tay cầm chiếc mũ lông điêu đặt trên đầu gối, đang ngồi ở phòng khách của tổng trấn Maxim Lupandin, một dapife đã sa sút, nghèo túng. Viên tổng trấn buồn rầu nhìn đôi ủng lịch sự bằng da dê của lão lái buôn, chiếc áo nẹp màu xám bằng dạ Hamburg, mà có lẽ cũng có thể là bằng dạ Anh, lót lụa tía. Còn bản thân hắn thì mặc chiếc áo lông sóc tàng đã sờn, người hắn ốm o, hói đầu, mặt đầy mụn trứng cá. Dưới triều cố Sa hoàng Fedor Alekseevich, hắn được làm dapife, nay dưới thời Piotr Alekseevich, hắn cậy cục lắm mới xin được chân tổng trấn để vừa đủ sống ở Belozesk. Hai người trò chuyện loanh quanh không muốn đi thẳng vào vấn đề: Denixov cứ đận đà mãi mà viên tổng trấn thì cũng vậy. “Chà, chiếc áo nẹp đẹp quá, - viên tổng trấn nghĩ thầm. Nếu y cho mình thì hay quá”. Hắn đã ngầm sai một gia nô đến tu viện Krextovozơvizenski gọi cha Feodoxi. Nhưng Denixov cũng có ngón của lão để trả miếng.
- Trời xấu, trời xấu, không sao, - Denixov nói. - gió sẽ đổi chiều, và chúng tôi sẽ dong buồm vượt qua hồ... Còn như nếu gió không đổi chiều thì chúng tôi sẽ tiếp tục kéo bộ, men theo bờ. Miễn là đến được Kopza. Đến đó, chúng tôi sẽ thuê người đến tận Povenez.
- Tất nhiên, đó là việc của ông, - viên tống trấn trả lời lấp lửng, mắt không rời chiếc áo nẹp.
- Maxim Maximys, ông hãy làm ơn đừng giữ thuyền của tôi lại mà cũng đừng giữ người của tôi.
- A, nếu không có chiếu chỉ của hoàng đế thì còn phải nói gì nữa. - Viên tổng trấn rút ở túi ra chiếu chỉ của Sa hoàng đã được cuộn lại, quét bộ râu lên trên, như một người cận thị. “Chiểu theo chiếu chỉ của Đại Quận công và Sa hoàng của toàn thể... Đã quy định... Tất cả những kẻ biếng nhác và những kẻ ăn bám trong các tu viện và tất cả các tiểu, đều bắt ra lính...
- Việc tu viện không liên quan gì đến chúng tôi; Chúng tôi đây, chúng tôì làm nghề buôn bán.
- Hãy khoan... “... và cũng bắt ra lính các mã phu và gia nô của các lãnh chúa, những kẻ hành khất, những kẻ đào vong lang thang...”. Andrey, tôi biết giúp ông thế nào được? Tôi chưa nghĩ ra cách gì... Giả sử lệnh này do một tên thừa phái quèn mang lại đây thì còn đi một nhẽ. Đằng này chính trung úy Aleksey Brovkin ở trung đoàn Preobrazenski, có binh sĩ đi theo, đã mang lệnh này đến cho tôi... Ông thừa biết đấy, thời buổi này nói chuyện với các ông trung úy đâu có dễ.
Denixov khép tà áo lại, làm cho tiền trong túi kêu xủng xẻng. Viên tổng trấn đâm lo Denixov không nộp lễ hậu. Hắn luôn luôn liếc nhìn ra cửa: Feodoxi có lẽ sắp đến chăng? Nhưng lại chính là tên cảnh sát môi dầy bước vào, đẩy Golikov đi trước. Y hấp tấp bỏ mũ, gập người xuống chào:
- Thưa quan, tôi lại bắt được một thằng nữa.
- Quỳ xuống! - viên tống trấn giận dữ quát. Tên cảnh sát đẩy vào lưng Golikov; đầu gối xương xẩu của anh đập xuống sàn. - Bố mày là ai? Mày là đày tớ nhà ai? Mày ở đâu trốn đến đây? Vanka, đưa bút mực cho ta.
Denixov ngọt ngào nói:
- Maxim Maximys, xin ông để yên nó, nó là nhân viên của tôi đấy.
Mắt viên tổng trấn sáng lên. Hắn lấy móng tay lật nắp lọ mực bằng đồng, lấy đầu ngòi bút vớt một con ruồi ra, miệng rên rỉ. “Mà cái thằng thủ từ sao vẫn không thấy dẫn xác đến”, hắn thầm nghĩ. Nhưng vừa lúc đó có tiếng gỗ sàn cót két ở phòng ngoài. Vanka mở cửa. Tên thầy tu có chòm râu kiểu di-gan bước vào, mặt hầm hầm, một bên mắt sưng húp. Trông thấy Denixov, hắn gõ chiếc gậy thầy tu xuống sàn:
- Gia nhân nó đã đánh tôi bị thương, suýt nữa chúng đập chết tôi, - tên thầy tu nói oang oang. - Thế mà ông Maxim, ông lại để nó ngồi cạnh! Tôi hỏi ông, nó là ai, là ai? Một tên razkonic khốn kiếp! Giao nó cho tôi, ông tổng trấn, giao nó cho tôi, tôi nói với ông ba lần rằng ông phải giao nó cho tôi!
Hai bàn tay bắt tréo trên đầu gậy, tên thầy tu trừng con mắt dữ tợn khi thì nhìn chòng chọc vào Denixov, khi thì nhìn chòng chọc vào Maxim Maximys. Golikov sợ cuống cuồng đã bò đi nằm phục vào một xó. Vanka nóng ruột chỉ đợi lệnh là xông ra vặn tay anh. “Chiếc áo về tay ta rồi”, tên tổng trấn tự nhủ.
- Mày là đứa nào mà đến đây sủa nhặng lên, thằng thầy tu kia? Tao không biết mày là ai và tao cũng không cần biết mày là ai, - Denixov dằn từng tiếng. Lão đứng dậy. - Hai bàn tay Feodoxi tì trên đầu gậy tím lại. Denixov cởi cúc áo lót, lấy ra một cái túi buộc vào cây thánh giá bằng đồng có tám nhánh. - Maxim Maximys, ơn đền ơn, công trả công, tôi đã có ý định biếu ông một phần lãi còm của tôi... Nhưng xem ra chúng ta không thể thỏa thuận với nhau được.
Lão mở túi, lấy ra một tờ thông lệnh, thận trọng giở ra:
- Chính hội đồng xã trưởng đã cấp thông lệnh này cho đích danh chúng tôi, Andrey và Xemion Denixov. Thông lệnh nói rõ rằng chúng tôi có quyền buôn bán ở bất cứ nơi nào, và không ai được gây thiệt hại cho chúng tôi là Andrey và Xemion... Chủ tịch hội đồng Mitrofan Sorin đã tự tay ký thông lệnh này.
- Thằng Mitrofan của mày thì làm đếch gì được tao? - Feodoxi gào lên, một tay bỏ chiếc gậy. - Đây tao có cái này cho thằng Mitrofan của mày, có cái lõ chó!(1)
- Ơ! - tên tống trấn khẽ thở dài.
Denixov đỏ mày đỏ mặt.
- Chống lại vị chủ tịch do các nhà buôn lớn ở Moskva bầu ra, mày dám giơ lõ chó ra à? Đấy chính là thủ đoạn côn đồ, kẻ cướp!
- Cho mày tắc cổ nổ hầu, đồ khốn kiếp? - Feodoxi điên cuồng nhắc đi nhắc lại, chòm râu vểnh lên. Hắn túm lấy cây thánh giá bằng đồng của tín đồ razkonic trên ngực Denixov.- Đây, với cái này, thằng vô giáo trưởng kia, tao sẽ cho thiêu sống mày! Thông lệnh của mày thì nước gì, tao có cái mạnh hơn kia!
- Thôi, tôi can hai người hãy giảng hoà với nhau, - viên tổng trấn rền rĩ, - Andrey, đưa cho y hai mươi rúp, y sẽ dẹp chuyện này lại.
Nhưng Denixov và tên thầy tu nhất định không chịu, lỗ mũi họ phập phồng. Tên cảnh sát len lén nhích lại gần. Denixov liền giật cây thánh giá khỏi vuốt tên thủ từ, chạy vùng ra cửa sổ, nâng cánh cửa lên và gọi chõ ra sân:
- Ngài trung úy, đây là một sự phản bội!
Tức thì mọi người trong phòng im bặt và nín thở. Có tiếng đinh thúc ngựa loảng xoảng ở phòng ngoài, Aliosa Brovkin bước vào, chân đi đôi ủng to, lưng thắt đai trắng, kiếm đeo bên sườn, đôi má đỏ hồng trên khuôn mặt trẻ măng, chiếc mũ ba cạnh sụp xuống tận lông mày.
- Việc gì mà kêu la ầm ĩ thế ?
- Thưa ngài trung úy, thủ từ Feodoxi và tổng trấn dùng những lời rác rưởi và giơ lõ chó phỉ báng thông lệnh của ông chủ tịch. Họ túm ngực tôi và dọa thiêu sống tôi.
Brovkin nghiêm nghị, tròn xoe mắt, cặp mắt trô trố y hệt vua Piotr, nhìn tên thầy tu, rồi nhìn tên tổng trấn. - tên này tì hai tay xuống ghế để đứng dậy - Brovkin đập gậy xuống sàn ra lệnh cho một tên lính vừa nhảy vào:
- Bắt lấy chúng, cả hai đứa!
-------------
Chú thích:
(1) Giơ nắm tay, ngón tay cái kẹp vào giữa ngón tay trỏ và ngón giữa, để thò đầu ngón tay cái ra.

Chương 116

Cư dân ở xloboda Kukui khi nói đến Anna Monx thường bảo: “Thực lạ lùng? Sao mà cô ta khôn ngoan thế. Phải như người khác thì đã lên mặt hợm từ lâu. Anna thật giống hệt mồ ma ông cụ thân sinh”.
Vua Piotr, ở Hắc Hải về, tỏ ra rất rộng rãi.
“Mình ơi, - đã nhiều lần Ansen trách yêu vua Piotr, - mình làm em quen thói phung phí sắm những đồ nữ trang nhảm nhí. Mình cho phép em viết thư về Revan thì hơn. Em đã hỏi dò rồi, ở Revan có bán giống bò một ngày vắt được hai thùng sữa, giá phải chăng. Rồi thỉnh thoảng mình sẽ đến ăn sáng ở nếp trại xinh đẹp, ngăn nắp của em, và mình sẽ nếm sữa đánh kem”.
Trại dựng trong một khu rừng bạch dương, trên khoảnh đất Sa hoàng tặng, kéo dài một vạt từ cổng sân sau theo con suối Kukui đến tận sông Yauza. Trại có một nếp nhà nhỏ quét vôi nhìn xa trông như xây bằng gạch, những chuồng bò mái ngói, vựa thóc và kho rơm.
Trên ngọn đồi bên bờ sông, đàn bò sữa lang trắng béo mập đang gặm cỏ, mỗi con mang tên một nữ thần Hy Lạp; có cả những con cừu lông mịn, lợn giống Anh Cát Lợi và vô số gà vịt đủ các loại. Vườn trồng các giống rau ngoại quốc và khoai tây.
Sáng tinh sương, Ansen quàng chiếc khăn len angora (1), bận áo lông cừu thường, theo con đường nhỏ rải cát đi đến tận trại. Nàng trông coi việc vắt sữa, cho gà vịt ăn; nàng đếm trứng, tự tay hái rau cho bữa ăn sáng.
Nàng rất nghiêm khắc với người làm, nhất là trong việc quét dọn nhà cửa, chuồng trại cho sạch sẽ tinh tươm. Đã đến mùa muối dưa bắp cải. Chưa đâu trồng được những bắp cải như vậy, ngay cả ở vườn mục sư Xtrum. Người Đức đến xem, trầm trồ: những bắp cải và xu hào này có thể gửi vô nhà bảo tàng Hamburg được. Họ nói đùa:
- Hẳn là cô Ansen biết phép cầu nên hoa quả mới tươi tốt thế kia trên mảnh đất mới đây còn bỏ hoang này.
Những cô gái người Nga vừa hát vừa thái bắp cải vào một chiếc chậu bằng gỗ bồ đề mới tinh. Ansen mướn những cô gái khỏe mạnh nhất và vui tính nhất ở làng của Melsikov hay làng của đô đốc Golovin. - dinh cơ và những tòa lâu đài mới xây của Melsikov và Golovin sát ngay xloboda Đức - dao thái phập phập; các cô gái má đỏ, thơm mùi cuống cải tươi.
Bóng nhà kho dụng cụ in dài trên bãi cỏ còn phủ sương muối; những con ngỗng trắng như tuyết ra khỏi chuồng, bệ vệ đi ra cái hồ nhân tạo nhỏ. Trên nóc nhà trại mái nhọn, một dải khói bay lên bầu trời thu xanh biếc. Hai anh thợ làm bánh mì ăn mặc sạch sẽ khiêng một bồ đầy bánh mới ra lò, đi qua sân đã được quét tước sạch sẽ.
Anna vui sướng dẫm mạnh đôi chân rét cóng trên mặt đất; nàng ngắm nhìn cơ ngơi khang trang hạnh phúc này mà lòng vui sướng khôn cùng. Than ôi, về đến nhà thì cảm giác đó lại tiêu tan mất. Không được lấy một ngày yên thân. Nàng luôn nơm nớp đón chờ những chuyện bất ngờ của Piotr Alekseevich. Khi thì khách khứa người Nga say mèm kéo đến: họ làm bẩn sàn, hút thuốc, đập cốc, giỗ điếu đổ tàn vào chậu hoa. Khi thì, dù muốn hay không, nàng cũng phải trang điểm đi dự hội để khiêu vũ đến mòn cả gót giầy.
Những buổi chiều thu ảm đạm trong dịp những ngày hội mùa đông, thỉnh thoảng đi dự tiệc và khiêu vũ là một điều thú vị. Nhưng đối với lớp công hầu quý tộc người Nga, thì ngày nào cũng là phè phỡn, nhảy nhót. Điều khiến Anna Ivano vna phiền muộn hơn cả là tính khí kỳ cục của chính vua Piotr: chẳng bao giờ nhà vua chịu báo cho nàng biết trước ngày đến ăn bữa trưa hay bữa tối, có bao nhiêu khách. Có khi, giữa đêm, nhà vua kéo cả một bầy phàm ăn tục uống đến. Thế là phải vớ được gì làm nấy, luộc rán biết bao đồ ăn, nhiều đến nỗi Ansen phải xót ruột; và thường khi lại phải đem đổ tất cả cho lợn.
Một hôm Ansen, đã nói khéo với vua Piotr:
- Mình ơi nếu như mỗi lần đến với em mình cho em biết trước, thì đỡ được biết bao khoản chi tiêu vô ích.
Nhà vua ngạc nhiên nhìn nàng, sầm mặt lại, lặng thinh không nói. Nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy.
Mặt trời mọc trên hàng bạch dương đã trút hết lá vàng. Các cô gái đi tới nhà bếp. Anna nhìn vào kho thực phẩm có treo những con ngỗng nhốt trong túi vải thô thò đầu ra ngoài, người ta nhồi hạt dẻ vỗ béo ngỗng mười lăm ngày trước khi làm thịt. Con ngỗng bị nhồi nhiều quá thành ra đờ đẫn. Anna tự tay nhồi cho mỗi con một quả hạt dẻ để cả vỏ; nàng lấy ngón tay út ấn quả hạt dẻ vào họng con ngỗng. Nàng coi người làm rửa chân những con gà mái có lông ở chân (2), - sáng nào cũng phải rửa chân cho gà. Đến chuồng cừu, nàng ôm lấy những con cừu non, hôn vừng trán phủ lông xoăn của chúng. Rồi nàng miễn cưỡng trở về nhà. Linh tính của nàng báo không sai: một cỗ xe ngựa đỗ ở ngoài phố, người quản gia đợi Anna ở thềm xép. Hắn khẽ thưa với nàng:
- Có tôn ông Kornigxeg, sứ thần xứ Xăc.
- Tưởng là gì ghê gớm lắm... - Ansen khẽ cười; nàng nâng váy chạy lên một chiếc cầu thang hẹp để thay áo.
Kornigxeg đang ngồi, một chân co vào dưới gầm ghế, tay trái cầm hộp thuốc lá, tay phải để không, cứ chỉ duyên dáng. Hắn xen những chữ Pháp vào tiếng Đức, chuyện nhát gừng đủ thứ: chuyện vui, chuyện phong cảnh, chuyện chính trị, chuyện chủ hắn là vua Auguste tuyển hầu xứ Xăc và vua nước Ba Lan. Bộ tóc giả sức mùi sạ hương dài gần quá vai; mũ và găng tay đặt trên thảm. Mỗi lần pha trò, hắn nhăn cái mũi hếch coi rất ngộ; hai con mắt biếc, táo tợn và vô tư lự, như vuốt ve Ansen. Nàng ngồi đối diện với hắn. - trước lò sưởi củi đang cháy hồng - người rất thẳng, bận áo chẽn lồng khung, khuỳnh đôi cánh tay, bàn tay đặt ngửa trên đầu gối. Nàng ngồi nghe, mắt nhìn xuống, nhếch mép cười một cách hóm hỉnh theo đúng cung cách của phép xã giao lịch sự.
Sứ thần kể:
- Ai cũng phải quý mến ngài. Ngài khôi ngô, hòa nhã, dũng cảm... Vua Auguste là một vị thiên thần giáng thế. Trong mọị dục vọng và các cuộc truy hoan ngài không hề mệt mỏi. Chán thành phố Warsawa, ngài phóng đến Krakow. Giữa đường, ngài săn lợn lòi, yến tiệc linh đình ở lâu đài một vị chúa đất, hoặc giả, giữa đêm khuya, lần đến kho rơm yêu một cô thôn nữ hốt hoảng... Ngài lấy giấy tờ mang tên kỵ sĩ Winter, làm một khách giang hồ du hành qua châu Âu, đến thủ đô Paris. Trong các cuộc loạn đả ban đêm ở các ngã tư thành phố Paris, với thanh kiếm này đây, tôi đã nhiều lần gạt những đường kiếm phóng vào ngực ngài. Chúng tôi phi ngựa tới lâu đài Vecxay dự dạ hội. Vua Auguste trá hình làm một sĩ quan lang thang. Ồ, Vecxay! Chà Fraulein (3) Monx, nương nương cần phải đến thăm nơi tiên cảnh ở hạ giới này mới được... Hàng triệu cây bạch lạp soi sáng những khung cửa sổ rộng thênh thang; dọc hàng hiên, đèn lồng thắp sáng trưng. Trên sân, những chàng kỵ sĩ cùng các tiểu thư và phu nhân dạo chơi bên những khóm cây. Đèn xếp treo trên cây như những trái quả ở động tiên. Bên kia hồ, pháo bông bay vọt lên trời, tia lửa tóe xuống mặt nước: tiếng đàn địch trên những con thuyền vọng tới. Người ta nhìn thấy rõ vòi nước đang phun và bướm đêm đang bay. Qua cành lá, những pho tượng cấm thạch hiện lên như những vị thiên thần sống.
Vua Louis rất ngoan đạo ngồi trên ghế tựa. Bộ tóc giả tỏa bóng che khuôn mặt phương phi của ngài, nhưng tôi cũng nhìn thấy nét mặt trông nghiêng kiêu kỳ, môi dưới trễ ra và đường ria thanh thanh mà cả thế giới đều biết. Một vị phu nhân bận vũ y trá hình màu đen, mũ bồ đài, chụp đến mắt, tựa khuỷu tay vào ghế nhà vua. Đó là De Maintenon phu nhân. Ngồi trên ghế bên phải nhà vua là cháu ngài, ông hoàng Philip xứ Angiu, tương lai sẽ lên ngôi vua nước Tây Ban Nha; ông hoàng trông có vẻ buồn bã. Xung quanh, hàng ngàn khuôn mặt che mặt nạ một nửa, lâu đài, hoa viên tất cả đều như rực ánh vinh quang vàng son.
Ngón tay Anna run run, đôi vú trong áo chẽn chật dâng lên:
- Chao ôi, tôi khó tin rằng đó không phải là một giấc mơ... Nhưng cái bà De Maintnon đứng sau ghế nhà vua đó là ai vậy?
- Vị phu nhân sủng ái của ngài... Các quan thượng thư và các vị sứ thần đều run sợ trước người đàn bà ấy. Chủ tôi, vua Auguste, đi qua mặt bà De Maintnon nhiều lần, và đã được bà để ý.
- Ngài sứ thần, sao vua Louis không lấy bà De Maintnon làm vợ?
Câu hỏi làm Kornigxeg sửng sốt; trong khoảnh khắc bàn tay lanh lẹn của hắn rơi thõng xuống giữa hai đầu gối, tỏ sự bất lực. Đầu Anna càng cúi thấp xuống, một nét nhăn hiện trên mép.
- Ồ Fraulein Monx... Vai trò của một bà hoàng hậu có thể nào so sánh được với thế lực vô biên của một nữ sủng thần. Hoàng hậu chỉ là một nạn nhân bị sợi dây triều thống ràng buộc. Người ta quỳ gối trước hoàng hậu, nhưng vội chạy nhanh đến nhà nữ sủng thần, bởi vì cuộc đời là chính trị và chính trị là vàng bạc và danh vọng. Ban đêm nhà vua kéo rèm không phải của giường hoàng hậu mà là giường nữ sủng thần, giữa cuộc ái ân, trên nệm gối nóng bỏng,-Má Anna ửng đỏ, bộ tóc giả thơm nức của sứ thần nhích lại gần.- Trên nệm gối nóng bỏng, những ý nghĩ thầm kín nhất đều được thổ lộ ra. Người đàn bà ôm ấp nhà vua lắng nghe tim ngài đập. Nàng đã thuộc về lịch sử.
- Ngài sứ thần, - Anna ngẩng cặp mắt xanh ướt, - điều quý báu hơn cả là biết chắc được rằng hạnh phúc sẽ vững bền... Xiêm áo sang trọng, lược gương quý giá này mà làm gì, nếu tôi không nắm chắc được gì cả... Tôi cam chịu một cuộc đời kém huy hoàng, miễn là chỉ có Chúa có quyền định đoạt chút hạnh phúc bé nhỏ của tôi... Tôi đang bơi trên một con thuyền lộng lẫy nhưng mong manh.
Nàng từ từ rút trong áo ra một chiếc khăn ren nhỏ, rũ nhẹ và đưa lên mặt. Cặp môi nàng run run dưới chiếc khăn, như miệng trẻ thơ.
- Nương nương cần có một người bạn chung thủy, cô nàng xinh đẹp của tôi ạ, - Kornigxeg âu yếm xiết chặt khuỷu tay nàng. - Nương nương không có ai để thổ lộ tâm tư thầm kín,... Xin nương nương hãy thổ lộ cùng tôi! - Tôi sung sướng được dâng tấm lòng tôi cho nương nương... Tôi xin đem tất cả sự từng trải của tôi ra giúp đỡ. Cả châu Âu đang chiêm ngưỡng nương nương... Trong bức thư nào Đức vua của tôi cũng đều hỏi đến “nàng tiên ở suối Kukui”.
- Ông muốn giúp đỡ theo nghĩa nào, tôi thực không hiểu. - Ansen bỏ chiếc khăn tay xuống, và né xa sự gần gũi nguy hiểm của ngài sứ thần. Thốt nhiên nàng lo hắn sẽ quỳ xuống chân nàng. Nàng vội đứng phắt dậy, giầm phải gấu áo, loạng choạng suýt ngã. - Tôi không biết thậm chí có nên ngồi nghe ông nói không.
Rất đỗi hoang mang, nàng chạy đến bên cửa sổ. Bầu trời lúc nãy xanh biếc, nay đã phủ kín mây; gió cuốn bụi trên đường phố. Trên bậu cửa sổ, giữa những chậu hoa phong lữ thảo, con chim cun cút khôn (4) nhốt trong chiếc lồng thếp vàng, - quà của vua Piotr tặng - thấy trời tối sầm, xù lông ngủ. Ansen cố trấn tĩnh lại; nhưng có lẽ vì Kornigxeg cứ sừng sững nhìn vào lưng nàng, nên trái tim của người thiếu phụ khắc khoải thổn thức... “Thực là ngốc? Ta làm sao thế này?” Nàng sợ không dám quay đầu lại. Mà nàng không ngoảnh lại là phải: cặp mắt Kornigxeg sáng lên như hắn vừa chợt khám phá ra người thiếu phụ... Trên nếp váy rộng, một tấm thân thon, đôi vai nõn nà trắng như sữa, mái tóc vàng tro vén cao, cái gáy như tạc ra để mà hôn hít. Tuy nhiên, hắn vẫn hoàn toàn tự chủ: “Giai nhân tế nhị hơn một chút và nhiều tham vọng hơn một chút thì người ta có thể cùng nàng làm nên lịch sử”? Bỗng Ansen rời cửa sổ, cặp mắt long lanh hốt hoảng sững lại nhìn Kornigxeg:
- Sa hoàng!
Sứ thần nhặt mũ và găng tay, sửa lại cổ áo thêu ren. Một chiếc xe ngựa hai bánh dừng lại ngoài hàng rào trước mảnh vườn nhỏ. Vua Piotr xuống xe, cặp mắt nheo lại vì bụi. Một cỗ xe song mã bằng da mui kín cũng vừa đến theo sau. Vua Piotr nói cái gì đó về phía cỗ xe rồi bước về phía ngôi nhà. Có hai người xuống xe song mã, đưa vạt áo choàng lên che bụi, rảo bước qua vườn. Chiếc xe nhẹ và cỗ xe song mã lại lập tức đi ngay. Đây là lần đầu tiên Anna Ivanovna gặp hai người khách này. Họ nghiêm trang cúi chào nàng. Vua Piotr đỡ lấy mũ ở tay họ. Nhà vua nắm lấy hai vai người khách cao lớn, có bộ mặt hung ác và kiêu kỳ, lắc lắc và ôm hôn:
- Herr (5) Johan Patkun, nhà trẫm đây! Ta sẽ ăn bữa tối.
Vua Piotr chưa uống rượu, tỏ ra rất vui vẻ. Nhà vua rút bộ tóc giả ở lai tay áo đỏ ra(6):
- Chải hộ trẫm, Anuska. Lần này trẫm sẽ mang tóc giả ngồi ăn, như ý khanh muốn... Trẫm đã phái riêng một tên lính đi lấy bộ tóc đấy. - Nhà vua ngoảnh sang nói với người khách thứ hai, tướng Carlovit. - má phính, nước da đỏ tím. - Dù có bộ tóc đẹp đến đâu, cũng không sánh được với vua Auguste, nhà vua lịch sự lộng lẫy quá. Còn trẫm thì lúc nào cũng ở lò rèn hoặc ở chuồng ngựa.
Đôi ủng to của vua Piotr đầy bụi; áo nẹp sực mùi mồ hôi ngựa. Khi đi ra rửa mặt, nhà vua nháy Kornigxeg:
- Ông sứ thần hãy coi chừng, ông đã thành người khách quá siêng lui tới nhà vợ yêu của ta đấy.
- Tâu bệ hạ, - Kornigxeg múa mũ khuỵu gối đi giật lùi, - không ai trách kẻ trần tục đem hoa và chim bồ câu dâng lên thần Vệ nữ.
Trong khi vua Piotr rửa ráy, Anna Ivanovna làm nhiệm vụ chủ nhà tiếp khách: nàng nhấc những cốc nhỏ đầy vodka pha dầu mùi đặt trong khay, đưa mời khách, hỏi thăm sức khỏe khách và nói:
- Ngài đến Moskva đã bao lâu, ngài có cần gì không?
Nhớ những điều Kornigxeg nói, nàng đưa mũi giầy vuông về phía trước, trải nếp váy sang hai bên ghế:
- Khách châu Âu đến nước chúng tôi lúc đầu chắc thấy chán. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nhờ ơn Chúa, chúng tôi sẽ ký hòa ước với Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi sẽ ra lệnh mọi người phải bận y phục kiểu Hungary hay kiểu Đức, chúng tôi sẽ cho lát đá đường phố và quét sạch trộm cắp ở Moskva.
Johan Patkun lạnh lùng trả lời, không hé đôi môi mỏng. Từ Riga đến Moskva đã được một tuần, hắn không đến sở chiêu đãi sứ thần mà cùng đi với tướng Carlovit đến nhà phó đô đốc Cornelix Cruyx. Carlovit do vua Auguste cử đi công cán đã từ Warsawa đến Moskva trước đó ít lâu. - Lúc này, hai người không cần gì cả. Quả là đường sá ở Moskva khấp khểnh bụi bậm, dân cư ăn mặc tồi tàn. Patkun giễu cợt nhìn Carlovit - bệnh sung huyết và bộ quân phục chật, lại thêm cái đai thắt chặt lấy cái bụng phệ khiến Carlovit thở khò khè:
- Tôi đã có dịp xem bọn lưu manh ở Moskva lập mẹo kiếm vài kopeik để lấy tiền uống vodka. Ông vào hiệu mua một món hàng và đòi lại tiền thừa, tên bán hàng cố ý đưa thiếu và ông đếm lại. Nó đếm lại và chỉ vào nóc nhà thờ mà thề rằng đủ, rằng chính ông đếm lầm. Ông lại đếm lần thứ hai, lần thứ ba. Nó lại cãi và đếm lại. Nó diễn lại trò đó mười lần liền cho đến khi ông phát chán đành phải thôi.
- Ngài phải sai đầy tớ lôi nó đến đồn cảnh sát. Người ta sẽ sửa cho nó một trận, - Anna Ivanovna nói, giọng kiên quyết.
Patkun nhún vai, vẻ khinh khỉnh. Vua Piotr bước vào, tươi tỉnh, bộ tóc giả chải mượt. Ansen vội vàng dâng một cốc vodka pha dầu mùi. Nhà vua uống cốc rượu rồi hôn lên má nàng một cái thật kêu. Viên quản gia mở cửa, gõ gậy xuống sàn. Mọi người sang phòng ăn; trên vòm trần có vẽ các thần ái tình cùng nhau đùa rỡn trong đám mây; tường phủ thảm xứ Flandre; phía trên lò sưởi bằng gạch tráng men, treo một bức tranh tĩnh vật của họa sĩ nổi tiếng Xnaider vẽ một đống gà vịt và nông sản. Vua Piotr ngồi quay lưng vào lò sưởi, củi đang cháy rừng rực; Patkun ngồi bên phải, Carlovit và Kornigxeg ngồi bên trái nhà vua; Ansen ngồi trước mặt, có vẻ lo nghĩ. Trên tấm khăn trải bàn bằng vải màu sặc sỡ, những chiếc cốc pha lê đã rót đầy rượu vang Hungary. Giữa bàn, dồi, lạp xưởng, xúc xích xếp cao thành đống. Những món ăn nguội tỏa mùi gia vị. Bên ngoài, gió thổi bụi mù, lay động những cành cây trụi lá. Trong phòng, không khí ấm cúng. Các giá gương cắm bạch lạp treo trên tường phản chiếu hình ảnh bàn ăn bày gọn gàng đẹp đẽ, bộ mặt hân hoan của các vị khách, lửa cháy trong lò sưởi. Vua Piotr nâng cốc chúc sức khỏe vua Auguste nước Ba Lan, người bạn chí thân của mình. Các vị khách hất những mớ tóc giả sang hai bên vai và bắt đầu ăn.
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ giữ kín cho, vì đây là một việc tối mật, - Johan Patkun nói khi món ăn thứ tư, ngỗng non hầm hạt dẻ, được bưng ra.
- Được. - Vua Piotr gật đầu. Nhà vua lấy khuỷu tay gạt những chiếc đĩa thiếc ra và nụ cười phảng phất trên môi, ngắm nhìn cặp má Anna đã hơi chếnh choáng say. Suốt bữa ăn, nhà vua đùa bỡn và chế giễu tính hà tiện của Anna Ivanovna trong việc nội trợ và nháy Anna, chỉ vào Kornigxeg nói:
- Món xốt này, có phải nấu bằng chim bồ câu mà ông ta dâng lên bàn thờ thần Vệ nữ của khanh không đấy?
Thực khó hiểu: nhà vua có thực muốn nghe những tin tối quan trọng mà Johan Patkun và Carlovit đã cấp tốc đến Moskva để trình bày với nhà vua không? Cho đến ngày hôm nay, hai người mới gặp Sa hoàng có một lần ở nhà phó đô đốc. Nhà vua tỏ ra niềm nở nhưng cố ý lảng tránh một cuộc thảo luận. Nay chính nhà vua mời họ đến đây, dự một bữa tiệc riêng ở nhà người yêu. Patkun theo dõi con người châu Á (7) này bằng con mắt lạnh lùng và kính cẩn. Hắn cần thương thuyết gấp với Sa hoàng. Đoàn sứ thần của nhà vua trẻ tuổi nước Thuỵ Điển Charles XII đã đến Moskva từ lâu và đang hội đàm với Lev Kirilovich và nhiều vị đại thần Nga để ký một hiệp ước hòa bình vĩnh cứu; đại biểu Thuỵ Điển cũng chưa gặp Sa hoàng, nhưng nay mai sẽ có một buổi lẽ trình ủy nhiệm thư ở điện Kreml. Vầng trán rộng của Patkun nhăn lại. Hắn nói chậm rãi, thỉnh thoảng cố nén nỗi giận dữ trong lòng:
- Xứ Livoni bất hạnh mong được sống yên ổn trong hòa bình. Xưa kia, người Livoni là một bộ phận của tầng lớp hiệp sĩ Ba Lan(8); chúng thần vẫn được hưởng quy chế miễn trừ, cho nên thành phố Riga rạng rỡ tiếng tăm khắp vùng biển Bantic. Nhưng lòng người chứa đầy ghen tị tối tăm. Tầng lớp hiệp sĩ Ba Lan vơ vét của cải của chúng thần, tu sĩ dòng Tên chà đạp lên tôn giáo, ngôn ngừ và phong tục của chúng thần... Trời đã gieo rắc hoang mang vào lòng người trong thời kỳ đen tối đó. Những người hiệp sĩ Livôni đã tự nguyện đặt mình dưới sự bảo trợ của vua Thụy Điển. Muốn thoát khỏi móng vuốt con phượng hoàng Ba Lan, họ đã đưa đầu vào hàm sư tử(9).
- Thực dại dột, - vua Piotr nói, - cả thế giới đều biết rằng Thụy Điển là loài cú vọ.
Sa hoàng rút chiếc tẩu ngắn ở túi ra. Kornigxeg vội vã đứng dậy bật lửa. Y dâng nhà vua một chiếc đĩa đựng miếng bùi nhùi bốc khói. Johan Patkun lễ phép đợi Sa hoàng châm tẩu xong.
- Tâu bệ hạ, bệ hạ hẳn đã nghe nói đến đạo luật đệ trình ở thượng nghị viện Thụy Điển và được cố vương Thuỵ Điển Charles XI phê chuẩn: đạo luật gọi là luật giảm trừ. Từ bấy đến nay đã hai mươi năm rồi. Thần thật không hiểu các thượng nghị viện Thụy Điển - một bọn thị dân, một bọn con buôn đố kỵ - đã cho nhà vua uống gì đề nhà vua phê chuẩn đạo luật tàn ác, lạ đời đòi tước của các nhà quý tộc quyền sở hữu đất đai mà các triều vua trước đã cấp phong cho họ. Các vị hầu tước, bá tước đã buộc phải rời bỏ lâu đài và lũ dân đen đã bắt đầu cày bừa điền ấp của các nhà quý tộc. Triều đình Thuỵ Điển đã trịnh trọng hứa không thi hành đạo luật giảm trừ đối với các hiệp sĩ xứ Livoni chúng thần. Thế mà tám năm sau, nhà vua vẫn ra lệnh cho tiểu ban giảm trừ tịch thu sung vào quốc khố những đất đai mà các đời vua trước đã cấp cho chúng thần. Các hiệp sĩ, các vị đứng đầu giới quý tộc và các vị giám mục buộc phải xuất trình chứng thư cũ về quyền sở hữu của mình; nếu không, điền ấp cũng bị tịch thu sung vào quốc khố. Kể từ thời Hung đế Ivan và Xtepan Batori, xứ Livoni đã bị nhiều cuộc chiến tranh tàn phá, chứng thư của chúng thần bị thất lạc, chúng thần không thể chứng minh được những quyền lợi đã có từ bao đời nay. Thay mặt cho toàn thể các hiệp sĩ xứ Livoni, thần đã viết đơn khiếu nại hành động bạo ngược của tiểu ban, trình lên vua Thụy Điển. Thần chỉ đạt được mỗi một kết quả là Thượng nghị viện kết án chặt tay phải thần vì đã viết đơn khiếu nại, và chặt đầu thần. - Patkun cao giọng, hai tai dính vào sát đầu, đôi môi mỏng tái nhợt - Chặt đầu thần, vì đã không chịu cúi đầu khuất phục trước tội ác. Tâu bệ hạ, giới hiệp sĩ Livoni đã bị phá sản. Số phận giới thương gia Livoni cũng chẳng hơn gì... - Đến đây, vua Piotr nghe rất chăm chú. - Người Thuỵ Điển đánh thuế cao hàng xuất và nhập ở cảng Riga. Thực ra lòng tham và thói ăn hối lộ của họ không những làm chúng thần phá sản, mà còn làm chính bản thân họ phá sản. Ngày nay, thuyền buôn ngoại quốc bỏ cảng Riga, đến thả neo ở Konigsbeg, tất cả lúa mì Ba Lan chuyển về lãnh địa của Tuyển hầu Brandeburg. Đồng ruộng của chúng thần mọc đầy cỏ dại. Hải cảng rỗng tuếch; thành phố vắng tanh như bãi tha ma. Ở thành phố Revan, người Thụy Điển còn làm tệ hơn nữa. Chúng thần chỉ còn một con đường hoặc đành chịu phá sản không bao giờ còn ngóc đầu dậy được, hoặc tuyên chiến. Tâu bệ hạ, không khởi sự ngay bây giờ thì không bao giờ làm được nữa. Toàn thể giới hiệp sĩ sẽ lên ngựa. Vua Auguste đã thề rằng Ba Lan sẽ bảo hộ chúng thần.
Patkun trừng trừng nhìn tướng Carlovit, rồi đưa cặp mắt màu vàng nhạt nhìn Kornigxeg. Hai người này trang nghiêm gật bộ tóc giả. Vua Piotr cắn cắn cán tẩu nói:
- Các ông nên coi chừng. Không khéo thì tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa đấy. Bàn tay vua Auguste thì nhẹ nhàng, nhưng các lãnh chúa Ba Lan có vuốt nhọn. Riga và Revan là miếng mồi ngon mà các ông đem dâng họ.
- Ba Lan ngày nay không còn như dưới thời Echien Batori nữa. Ba Lan không muốn chúng thần bị suy bại, - Patkun nói. - Ba Lan và chúng thần cùng chung một kẻ thù trên đất liền và trên mặt biển. Giới quý tộc Ba Lan sẽ không xâm phạm đến quy chế miễn trừ và tín ngưỡng của chúng thần.
- Trời cho, trời cho... Hôm nay nghị viện Ba Lan quyết định thế này, ngày mai lại quyết định thế khác, tùy theo hứng thú của các ông lãnh chúa. Giả sử vua Auguste là một vị quân chủ chuyên chế thì có lẽ sẽ chắc chắn hơn. Nhưng còn các ông lãnh chúa? - Vua Piotr điềm tĩnh lý giải, vừa nói vừa thở ra những hơi khói nhỏ. Mắt Patkun nhìn như xoáy vào Sa hoàng, xương mặt nổi căng lên dưới làn da. - Vả lại, các lãnh chúa Ba Lan liệu có muốn chiến tranh không chứ?
- Tâu bệ hạ, đạo quân xứ Xăc của vua Auguste rất trung thành với nhà vua, đã được lệnh đồn trú qua mùa đông ở quận Saoli và Biersi sát biên giới Livoni.
- Quân số bao nhiêu?
- Mười hai ngàn lính German(10) tinh nhuệ.
- Theo trẫm, có lẽ ít quá đối với một đại sự như vậy.
- Cũng ngần ấy hiệp sĩ Livoni sẽ tập hợp trước thành Riga. Quân Thụy Điển đồn trú trong thành không nhiều. Chỉ một trận xung phong, chúng thần sẽ chiếm được Riga. Khi chiến tranh đã nổ ra, các lãnh chúa Ba Lan cũng sẽ cầm gươm chiến đấu. Một đồng minh khác của khối liên minh này là vua Đan Mạch Cristian. Bệ hạ đã biết, vua Đan Mạch mang thù sâu đối với vua Thụy Điển và người Thụy Điển. Hạm đội Đan Mạch sẽ bảo vệ chúng thần phía trước mặt biển.
Patkun đến chỗ khó nói. Sa hoàng gõ tay xuống bàn; khuôn mặt tròn không để lộ vẻ đồng tình hay cự tuyệt. Bên ngoài hoàng hôn đã xuống, gió thổi mạnh hơn, rung các cánh cửa sổ kêu cót két. Ansen định thắp nến. Vua khẽ bảo: “Không cần”.
- Tâu bệ hạ, đây là một dịp thuận lợi chưa từng có để bệ hạ đặt chân vững vàng lên vùng biển Baltic, lấy lại đất đai của tổ tiên đã bị người Thụy Điển chiếm đoạt - hai miền Ingri và Careli. Khi bệ hạ đã đánh bại quân Thụy Điển và đứng vững trên mặt biển, khắp hoàn cầu sẽ lừng lẫy uy danh bệ hạ, bệ hạ sẽ buôn bán với Hà Lan, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha, với tất cả các nước phương Bắc, phương Tây và phương Nam, và bệ hạ sẽ làm một việc mà chưa vị hoàng đế nào ở châu Âu làm nổi: mở đường thông thương giữa phương Đông và phương Tây qua xứ Moskovi. Bệ hạ sẽ đặt quan hệ với tất cả các vị hoàng đế theo đạo Thiên Chúa và sẽ có tiếng nói trong công việc của châu Âu. Khi bệ hạ đã xây dựng được một hạm đội thật mạnh trên biển Baltic, nước Nga sẽ trở thành cường quốc có hải quân mạnh đứng hàng thứ ba trên thế giới. Với những sự nghiệp lớn lao đó, uy danh của bệ hạ sẽ lừng lẫy khắp hoàn cầu, nhanh hơn là đánh thắng Thổ Nhĩ Kỳ và quân Tarta. Ngay bây giờ hoặc không bao giờ! - Patkun giơ tay, như muốn xin Chúa chứng giám.
Kornigxeg khẽ nhắc lại:
- Ngay bây giờ hoặc không bao giờ. - Tướng Carlovit thở phì phò với nhiều ngụ ý.
- Thế nào, ngay bây giờ à? Nhà cháy ư? Vấn đề này hệ trọng đấy, gây chiến với Thụy Điển? - Vua Piotr dằn từng lời, miệng gặm cán tẩu. Con mắt chăm chú của các vị khách sáng lên, phản chiếu ánh lửa trong lò sưởi. - Mười hai ngàn quân người xứ Xăc là một lực lượng đáng kể. Hạm đội Đan Mạch... Hừm... Hiệp sĩ và lãnh chúa? Cái này còn phải đợi xem sao... Thụy Điển, Thụy Điển... Đạo quân tinh nhuệ nhất châu Âu... Ta thực khó khuyên các ông được điều gì.
Ngón tay Sa hoàng lại gõ nhịp xuống bàn. Patkun cố nén cơn điên giận, nói tiếp:
- Ngay bây giờ có thể đánh bại quân Thụy Điển dễ như trở bàn tay. Charles XII là một đứa trẻ con ngu ngốc... Ngữ ấy mà cũng đòi làm vua. Hắn trang điểm như một ả gái điếm, hắn chỉ biết mỗi một việc: tiệc tùng linh đình và săn thỏ rừng! Hắn đốt rỗng ngân khố để tổ chức những buổi vũ hội trá hình. Hắn là một con sư tử không có nanh... Đoàn sứ thần Thụy Điển lưu lại ở Moskva từ mùa xuân để cầu xin hòa bình vĩnh cửu không phải là không có lý do... Thật nực cười, bọn ấy mà cũng là sứ thần. Cả châu Âu đều biết rằng trong bọn chúng không đứa nào đi tất lụa. Chúng đã tiêu hết nhẵn tiền, giờ chí ăn có món đỗ khô... Tâu bệ hạ, năm ngoái tướng quân Carlovit có đến Stockholm, đã tha hồ được nhìn thấy vua Thuỵ Điển. Thưa tướng quân, xin ngài hãy vui lòng kể lại?
Carlovit vươn cổ ra ngoài vành áo thêu:
- Đúng là thần đã đến Stockholm... Thành phố này không lớn, nhưng không thể đột nhập được từ phía mặt biển cũng như từ phía đất liền - đúng là hang sư tử. Thần mặc áo thường dân, mang tên giả, đổ bộ lên Stockholm. Đi đến chợ, thần rất đỗi ngạc nhiên: thần có cảm giác giặc đã đột nhập thành phố. Cửa hiệu và nhà ở đóng cửa kín, đàn bà lật đật xua con về nhà. Thần hỏi một người qua đường: sao thế này? Hắn xua tay, ba chân bốn cẳng bỏ chạy kêu lớn: “Nhà vua!” Trong các chiến dịch và tại nhiều thành phố mà thần đã đóng quân, thần đã mắt nhìn thấy nhiều chuyện, nhưng chưa bao giờ thần thấy dân sợ vua như sợ dịch hạch, cuống cuồng chạy tụt cả vào trong nhà... Thần nhìn ra và thấy gì: nếu thần không lầm, có đến một trăm người đi săn, lưng đeo kèn, tay dắt chó, từ một ngọn núi rậm rạp đổ xuống... Đoàn người cưỡi ngựa ào ào phóng qua cầu đá xông vào thành phố. Phố xá đã vắng tanh. Đi đầu, cưỡi một con ngựa ô, là một thanh niên chạc mười bảy tuổi, chân đi ủng lớn của lính, mình mặc sơ mi. Hắn ta phi ngựa, cương buông lỏng: đó là vua Charles XII... Một con sư tử non... Bọn người đi săn theo vua, huýt sáo và cười đùa. Họ phi ầm ầm qua chợ, không khác gì một lũ quỷ. Lần ấy, không xảy ra thiệt hại gì nhưng có lần họ đã xéo phải người. Vốn tính tò mò, thần nhờ một người bạn thân dẫn vào hoàng cung, giả làm một người lái buôn hương liệu A Rập. Lúc đó là sáng sớm, nhưng ở hoàng cung đã mở tiệc ăn uống linh đình. Nhà vua đương tiêu khiển. Trong phòng ăn, tường đầy vết máu tung tóe cao ngang đầu người, trên sàn máu chảy lênh láng. Gian phòng sực mùi hôi thối, một lũ say rượu nằm lăn lóc dưới sàn. Nhà vua và những người còn đứng vững, đang chặt đầu cừu và đầu bê, họ cuộc mười đồng tiền Thụy Điển xem ai chặt một nhát kiếm đứt đầu con vật. Phải phục tài vua Thụy Điển: mã phu dắt đến một con bê; nhà vua cưỡi ngựa đi nước kiệu chạy qua, vung tròn thanh kiếm, chặt đứt đầu con bê, và lanh lẹn né mình cho máu khỏi phun vào ủng. Thần lễ phép chào, nhà vua vứt thanh kiếm lên bàn và đưa bàn tay dây máu cho thần hôn. Được biết thần là một thương nhân, nhà vua nói với thần: “Nhà ngươi đến vừa đúng lúc; cho ta vay năm trăm florin Hà Lan được không?”. Họ đã mời thần ngồi vào bàn ăn và ép thần uống rượu vô độ. Một viên cận thần của vua Thuỵ Điển rỉ tai thần: “Đừng có trái ý nhà vua, hoàng thượng say liền ba ngày nay rồi. Hôm qua, một thương gia có tiếng đã bị lột trần truồng ngay tại đây quết mật ong vào người rồi lăn vào đống lông chim đấy”. Để khỏi bị nhục, thần hứa với nhà vua là sẽ cho vay năm trăm florin - mà thần không có - và thần ở lại dự tiệc đến đêm, vờ say rượu. Bọn triều thần thức giấc, lại ăn uống, hát ầm ĩ, đổ thức ăn lên đầu quân hầu, rồi lại ngã ra sàn. Đến đêm, nhà vua đem theo một bầy bộ hạ, kéo nhau ra khỏi hoàng cung đi đập phá cửa kính và dọa nạt dân phố đang ngủ. Thừa lúc đêm tối, thần lẻn trốn thoát. Cả thành phố rên siết vì những sự ngông cuồng của nhà vua. Trước mặt thần, tại ba nhà thờ, các giáo sĩ đứng trên giáo đài đã nói với dân chúng: “Vô phúc cho nước nào mà nhà vua còn trẻ tuổi”. Dân phố cử những người đại biểu xứng đáng nhất vào cung xin nhà vua từ bỏ các cuộc truy hoan, để tâm chăm lo việc nước. Họ bị tống cổ ra. Các vị công hầu, dưới triều cố vương đã bị phá sản, rất oán ghét dòng họ đương triều. Nghị viện còn ủng hộ nhà vua nhưng cũng đã bắt đầu thắt chặt hầu bao. Nhưng hắn cần gì, gã mất trí đó? Gần đây, nhà vua đến Thượng nghị viện đòi lấy hai trăm nghìn curon(11) không hoàn lại. Thượng nghị viện nhất trí từ chối. Nhà vua tức điên lên, đập gẫy chiếc gậy cầm ở tay: “Kẻ nào chống ta cũng sẽ bị ta trị như thế này!”. Ngày hôm sau nhà vua cầm đầu một bọn săn bắn ập vào hội trường của Thượng nghị viện, mở một cái bị đổ ra nửa tá thỏ rừng và thả chó rượt. - Vua Piotr bỗng ngửa cổ phá lên cười khanh khách. - Các ông nghị vội trèo cả lên bậc cửa sổ, có người bị chó cắn rách cả áo. Đấy vua Thuỵ Điển là thế đấy: một ông vua trẻ ranh... Bệ hạ xem con sư tử non này có phải là đáng sợ không?
Tướng Carlovit rút ở lai tay áo ra một chiếc khăn, luồn xuống dưới bộ tóc giả, lau mặt và cổ.
Vua Piotr ngồi tỳ khuỷu tay lên bàn, vẫn cười. Bất chợt Anna cất giọng khinh bỉ nói:
- Vua gì mà quý thế! Chỉ một trung đoàn Preobrazenski, của ta cũng đủ đánh bại tên Charles ấy!
Mọi người quay đầu về phía nàng. Kornigxeg đưa chiếc khăn tay nhỏ lên che miệng. Vua Piotr bình tĩnh nói:
- Anuska, những việc đó không liên quan gì đến khanh cả. Khanh hãy thắp nến đi thì hơn.
Người hầu thắp các giá nến treo trên tường có gắn gương, rót rượu vào các cốc pha lê. Ánh sáng ấm áp trong phòng làm dịu nét mặt mọi người, kể cả Johan Patkun. Ansen mang hộp âm nhạc ra, lên dây, mở nắp và đặt lên lò sưởi. Với một giọng lanh lảnh, cái máy hát một bài dân ca Đức ngắn, nói rằng mọi sự trên đời đều tốt đẹp khi trên bàn có đầy ắp thức ăn, bạch lạp thắp sáng trưng, và những cặp mắt xanh xinh đẹp mỉm cười - bên ngoài tha hồ cho gió cứ việc gào rít... Vua Piotr tươi cười, gật gù, dậm gót giầy đánh nhịp... Tối hôm đó, nhà vua không nói câu nào về chuyện chính trị nữa.
-------------
Chú thích:
(1) Một loại thỏ lông dài và mượt.
(2) Rửa chân gà cho trứng khỏi hôi và ung.
(3) Tiếng Đức: Tiểu thư, cô gái.
(4) Chim cun cút biết nói và làm trò, như ta nuôi yểng, sáo, vẹt.
(5) ông, ngài - tiếng Đức.
(6) Trang phục quý tộc: lai tay áo gập từ cổ tay lên đến gần khuỷu tay, khác màu áo, rộng hơn tay áo; có thể gài vào lai tay áo bộ tóc giả, mũ, găng tay.
(7) Các nước châu Âu thời xưa coi người Nga như thuộc châu Á với một ý khinh bỉ.
(8) Rzecz Pospolita: giới hiệp sĩ Ba Lan gồm những người cầm đầu các lực lượng vũ trang nửa thường trực ở tầng lớp cát cứ phong kiến trên lãnh thổ vương quốc Ba Lan; xuất hiện từ thế kỷ XIII; là một bộ phận của giai cấp quý tộc.
(9) Quốc huy Ba Lan là con phượng hoàng giương cánh, quốc huy Thuỵ Điển là con sư tử đương chồm.
(10) Người Đức.
(11) Tiền Thụy Điển.

Chương 117

Chủ nhật nào cũng vậy, Ivan Artemist Brovkin tiếp con gái là Alekxandra và chàng rể đến ăn bữa trưa tại ngôi nhà gạch mới xây ở phố Ilinka. Artemist góa vợ ở vậy. Người con trai cả là Aliosa vắng nhà, bận đi tuyển lính cho các trung đoàn.
Theo sắc chỉ mới của Sa hoàng, phải tuyển độ ba mươi trung đoàn tức là ba sư đoàn. Để tiếp tế cho ba sư đoàn đó, một bộ mới đã được thành lập - “Bộ Lương thực” - do một thiếu tướng quân nhu chỉ huy. Ông tướng này không thể moi được lúa mạch cỏ khô, bánh khô và các thực phẩm khác trong đống giấy tờ của bộ. Artemist Brovkin vẫn là người tiếp tế chính, tuy lão chẳng có chức tước gì cả. Công việc kinh doanh của lão phát đạt và nhiều nhà buôn có tiếng đến làm nhân viên cho lão.
Lão còn ba người con trai nữa: Yakov phục vụ trong hải quân, ở Voronez; Gavrila du học ở Hà Lan tại các xưởng đóng tàu. Chỉ còn người con út Artamon, đương độ hai mươi mốt tuổi, ở nhà thảo và đọc thư từ giữ sổ sách kế toán cho bố. Artamon nói thông thạo tiếng Đức dịch cho bố những sách về thương mại và đọc cho bố nghe chơi bộ Sử ký của Pufendorf (1). Ivan Artemist nghe và thở dài:
- Lạy Chúa, thế mà chúng ta sống ở tận cùng trời cuối đất, như lợn.
Con cái lão, tuổi chỉ hơn nhau một năm, đều thông minh lanh lợi; người con út thực là một thanh vàng nén. Người mẹ, lúc còn sống, đúng là đã nhỏ từng giọt máu, xé tâm hồn ra từng mảnh để cho con cái được sung sướng. Giữa những cơn bão táp mùa đông, bà quay guồng chỉ sè sè trong túp nhà gỗ ám khói, đôi mắt trông đễ sợ, sâu hoắm như hai cái hốc, trừng trừng nhìn vào que đóm đang cháy dùng thay đèn. Lũ trẻ nằm trên lò thở khò khè; gián bò sột soạt trong các khe, gió rào rào trên mái tranh như oán trách cuộc sống tàn nhẫn: “Tại sao những đứa con vô tội của ta phải khổ cực?”. Người mẹ chết đi, không hề biết sung sướng là gì.
Thuở ấy, Ivan Artemist không có thì giờ trông nom vợ. Ngày nay tuổi già đã đến, lão luôn luôn nhắc đến vợ. Trước khi nhắm mắt, người vợ năn nỉ: “Ông đừng lấy vợ kế để các con phải chịu cảnh dì ghẻ con chồng”. Vì thế lão đã không tục huyền.
Nhà Brovkin xếp đặt theo lối ngoại quốc: ngoài ba buồng thông thường - buồng ngủ, phòng đọc kinh và buồng ăn - còn có một buồng thứ tư dùng làm phòng khách: trước giờ ăn, khách không phải ngồi lấy tay áo che miệng ngáp vặt trên ghế dài kê sát tường, mà trên những ghế tựa kiểu Hà Lan đặt ở giữa phòng, quanh một chiếc bàn phủ thảm nhung dài lông. Khách muốn tiêu khiển thì trên bàn đã có những tờ tranh vẽ vui mắt, những quyển lịch có ghi lời sấm truyền, một hộp âm nhạc, bàn cờ, tẩu và thuốc lá. Dọc tường, không kê hòm rương nhét đầy quần áo như ở các nhà quý tộc sống theo lối cũ, mà có những giá và tủ lớn cánh cửa để ngỏ khi có khách, cho ai nấy đều trông thấy những bộ bát đĩa quý giá.
Chính tay Alekxandra đã sắp đặt tất cả. Nàng còn săn sóc bố để ông cụ ăn mặc cho chỉnh tề, năng cạo mặt cạo râu và thay tóc giả. Ivan Artemist hiểu rằng về mặt này phải nghe con gái. Nhưng thực ra, lão chán. Xét cho cùng, lão chẳng còn ai để mà khoe khoang lên mặt: Chính Sa hoàng cũng thường bắt tay lão. Đôi khi lão cũng muốn vào quán rượu trên bờ sông Varvacka cùng ngồi với đám lái buôn nghe những lời lẽ phóng túng và nói chuyện phiếm. Nhưng, không thể được, thế là không lịch sự. Cứ phải sống chán ngăn ngắt. Ivan Artemist đứng trước cửa sổ nhìn ra. Kia là anh nhân viên của Xvesnikov đương hối hả chạy trên đường phố, cái thằng chó chết ấy. Thằng cha cũng có đầu óc đấy. Nhưng, anh bạn ơi, chậm rồi, - sáng hôm nay, bọn ta đã đến từ giờ đầu vét hết sợi gai rồi. Kia là Reviakin, chân mang ủng dạ mới, đang ngoảnh mặt đi không nhìn về phía cửa sổ, - chắc hắn vừa ở Bộ tư pháp ra... Anh bạn ơi, nên rút kinh nghiệm, lần sau đừng sinh sự với Brovkin nữa nhé.
Buổi tối khi Xanka không có nhà, Ivan Artemist lột bỏ bộ tóc giả, cởi chiếc áo nẹp bằng nhung Tây Ban Nha ra, xuống tầng dưới, ăn bữa tối trong bếp với nhân viên và người làm. Lão ăn súp bắp cải, nói chuyện bông đùa. Điều làm lão thích thú hơn cả là khi có “người làng” đến chơi và vẫn nhớ đến Ivaska Brovkin, anh nông dân nghèo khổ nhất làng. Một nông dân bước vào bếp; trông thấy Ivan Artemist, hắn như chết khiếp, luýnh quýnh không biết làm gì: chào cúi rạp đầu xuống đất hay bằng cách nào khác, và không dám ngồi vào bàn. Tất nhiên rồi dần dần hắn cũng nói, cũng trò chuyện và quanh co mãi mới nói lý do vì sao hắn đến.
- A, Ivan Artemist ạ, nếu không nghe thấy giọng bác thì chẳng bao giờ tôi nhận ra bác. Ở quê nhà, người làng chỉ nói đến chuyện bác. Bà con nông dân tụ họp nhau, ngồi ở thềm nhà trò chuyện gần xa: ngày xưa chúng tôi vẫn nhớ rõ, bác chỉ có độc một con ngựa, nợ như chúa chổm, nhưng ngay từ thuở ấy bác đã không phải là tay vừa.
- Tôi bắt đầu với ba rúp trong tay, ba rúp thôi. Chính thế, bác Konxtantin ạ.
Bác nông dân mở to mắt, vẻ nghiêm chỉnh, đầu gật gù:
- Thế ra trời có mắt, người ta sinh ra có số cả. Đúng thế. - Rồi hắn nói nhỏ, giọng dịu hẳn xuống. - Ivan Artemist, bác còn nhớ Konxtantin Sutov, nhưng bác không nhớ ra tôi. Tôi không phải là Konxtantin... Konxtantin ở trước cửa nhà bác, còn tôi ở quá về phía tay trái. Nhà tôi lụp xụp lắm.
- Tôi quên mất đấy, tôi quên mất đấy.
- Nhà của tôi chẳng ra hồn, - lần nầy giọng bác nông dân thổn thức. - Chỉ ít lâu nữa là sụp đổ. Vừa rồi, chuồng bò đổ, cột kèo mục nát cả, đè chết con bê cái bác ạ... Tôi thực không biết xoay xở ra sao.
Ivan Artemist biết mình phải làm gì nhưng lão không nói ngay: “Ngày mai, bác đến gặp nhân viên của tôi. Tôi cho bác nợ đến ngày lễ Cầu thì bác trả tôi”.
Lão hỏi thăm trong làng ai còn sống và làm ăn ra sao, ai đã chết, ai đã có cháu. Lão nói đùa: “Đợi tôi nhé, ngày lễ Phục sinh tôi sẽ về kiếm một cô vợ”. Và câu chuyện cứ như thế cho đến khi lão ngáp ngắn ngáp dài.
Bác nông dân ở lại ngủ trong nhà bếp, Ivan Artemist trở lên phòng ngủ nóng nực. Hai người hầu, mặc áo dấu, đã nằm ngủ từ lâu trên tấm thảm dạ trước cửa phòng, vội choàng dậy cởi áo ngoài cho lão; người lão béo tròn, chân ngắn ngủn. Sau khi đã uốn gối quỳ lạy đủ mấy lần trước bức tranh thánh có một ngọn đèn dong đêm soi sáng, lão gãi bụng, gãi sườn, sỏ hai chân để trần vào đôi ủng dạ ngắn cổ và đi về phía nhà tiêu lạnh lẽo. Thế là hết một ngày.
Nằm trên đệm lông chim, Ivan Artemist thở dài nói: “Thế là hết một ngày”. Lão chẳng còn sống được bao ngày như ngày hôm nay nữa. Thật đáng tiếc, vì nay mới là lúc đáng sống và sống đầy đủ, đàng hoàng... Lão nghĩ đến con cái, đến công việc - giấc ngủ xóa nhòa mọi ý nghĩ của lão.
Một hôm, sau buổi lễ, lão đợi khách quý, Xanka đi với chồng đến trước tiên. Vaxili Volkov không cúi chào mà ôm hôn bố vợ rồi ngồi vào bàn, vẻ mặt buồn thiu. Xanka khẽ chạm vào má bố rồi chạy ngay đến trước gương; nàng xoay tròn đôi vai, quay mình trong nếp váy rộng màu đỏ nước dâu, ngắm nghía chiếc áo dài mới:
- Bố ạ, con có chuyện này nói với bố, quan trọng lắm. - Nàng giơ hai cánh tay để trần sửa lại những bông hoa lụa cắm trên mái tóc rắc phấn thơm. Nàng không rời được gương: mắt xanh, dáng thẫn thờ, miệng xinh. - Con có chuyện này nói với bố... - Và nàng lại ngồi xuống phe phẩy chiếc quạt lông đà điểu. Volkov nói, vẻ bực dọc:
- Cô ấy điên bố ạ. Lúc nào cũng tơ tưởng Paris, Paris... Làm như ở Paris người ta chỉ đợi có cô ấy đến. Bây giờ chúng con ngủ riêng mỗi người một phòng.
Ivan Artemist ngồi cạnh chiếc lò sưởi kiểu Hà Lan tủm tỉm cười:
- Ai-ai-ai, phải dạy vợ chứ.
- Dạy cô ấy ạ? Bố cứ thử mà xem, cô ta kêu váng nhà lên ngay. Động một tí, cô ta dọa: “Tôi sẽ mách Piotr Alekseevich”. Con không muốn đưa cô ta sang châu Âu, cô ta sẽ hư mất.
Xanka rời xa chiếc gương, lim dim con mắt giơ ngón tay út lên:
- Anh phải đưa tôi đi! Chính Piotr Alekseevich đã ra lệnh cho tôi đi. Còn anh, anh là đồ tồi.
- Bố nghe thấy chưa? Thế này là cái gì?
- Ai-ai-ai...
- Bố ạ, - Xanka nói, tay vuốt áo và ngồi xuống cạnh bố, - hôm qua con có nói chuyện với Natalia, cô gái út nhà Buinoxov. Con bé trông bộ âu sầu quá. Cô lớn chưa gả chồng, bao giờ mới đến lượt nó? Natalia vừa đến thì. Một hoa khôi. Nó cũng thạo xã giao như con và cũng quen lề lối trong triều.
- Thế nào, công việc làm ăn của vương hầu Roman Buinoxov có gì trắc trở phải không? - Ivan Artemist vừa hỏi vừa đưa tay gãi mũi. - Không phải vô cớ mà lúc nào ông ta cũng nói đến việc dệt vải lanh. Công việc làm ăn của ông ta sa sút lắm, rất sa sút. Bà vương hầu Avdochia cứ khóc lóc than thở. Mặt ông ta tối sầm như trời nổi cơn giông - Ông ta muốn len chân vào việc thầu quân nhu, nhưng bị người nhà ta cho một vố thất cơ lỡ vận.
- Bố ạ, nhà Buinoxov là một danh gia thế tộc. Được một cô quận chúa nhà ấy về làm dâu là một vinh dự không phải nhỏ. Nếu nhà ta không khe khắt về khoản hồi môn, họ sẽ ưng đấy. Con muốn nhấm cho thằng em út, Artamon. - Ivan Artemist muốn đưa tay gãi gáy nhưng vướng bộ tóc giả. - Điều cốt yếu là phải làm lễ cưới Artamon và Natalia trước khi con đi Paris. Natalia coi bộ héo hon và âu sầu lắm. Con đã nói với Piotr Alekseyevna rồi.
- Con đã nói với hoàng thượng rồi à? - Tức thì Ivan Artemist thôi không gãi mũi nữa. - Hoàng thượng bảo sao?
- Người nói: được lắm. Hôm qua con khiêu vũ với hoàng thượng ở nhà Melsikov. Người quệt ria cù má con và nói: “Tổ chức cưới gấp đi”.
- Sao lại gấp? - Ivan Artemist đứng dậy nhìn con gái chằm chằm. Xanka cao hơn bố.
- Hình như sẽ có chiến tranh thì phải... Con không hỏi, con chẳng còn đầu óc nào mà nghĩ đến chuyện ấy Nhưng hôm qua mọi người đều bảo có lẽ sẽ xảy ra chiến tranh.
- Chiến tranh với ai?
Xanka bĩu môi. Ivan Artemist khoanh hai cánh tay ngắn ra sau lưng, người lắc lư, đi đi lại lại trong phòng. Lão bận tất trắng, mang giầy mũi vuông gót sơn đỏ điểm bông tua.
Một cỗ xe ngựa chạy ầm ầm tới trước thềm, khách khứa đã đến.
Tùy theo địa vị khách, Ivan Arte mist ưỡn cái bụng mặc gi-lê lụa, đứng đợi ở bên trên ngay cửa ra vào, hoặc xuống thềm đón.
Lão xuống giữa bậc thềm đón vương hầu Roman Borisovich đi xe song mã đến, có hai người hầu ngồi ở đằng sau. Vẻ xuề xòa, lão vỗ vào tay vương hầu. Theo sau vương hầu Roman là các cô con gái: Antonida, Olga và Natalia; các cô nâng tà váy bước lên bậc thềm gang. Ivan Artemist đợi Natalia đi qua, để ý ngắm cô gái - đúng, con bé đã đến tuổi cập kê.
Các cô gái nhà Buinoxov ồn ào ngồi vào quanh bàn, giữa phòng khách. Họ nắm lấy khuỷu tay Xanka đề trần, nói những chuyện phù phiếm. Các vị khách quý - chủ tịch Mitrofan Sorin, Xvesnikov, Mononov, - lùi về phía lò sưởi để khỏi dẫm lên đuôi áo dài quét đất của các cô gái. Họ cau mặt liếc nhìn mấy cô tiểu thư: “Học đòi châu Âu, tất nhiên là tốt, ý Sa hoàng muốn vậy. Nhưng lôi con gái đến chơi hết nhà này sang nhà khác, chẳng hay ho gì”. Xanka cho các cô bạn xem những tờ giấy in, tranh ảnh vừa mang từ Hamburg về: đó là những bản in lại tác phẩm của các nghệ sĩ Hà Lan danh tiếng. Các cô gái vừa sỉ mũi vào những chiếc khăn tay nhỏ vừa ngắm các tiên ông, tiên nữ trần truồng... “Đây là ai? Và đây nữa, cái gì thế này? Còn cô này, cô ta đang làm gì thế? Ai-a?”. Xanka bực mình giải thích:
- Gã nông dân cẳng bò này là một dã thần... cô bĩu môi là không đúng, Olga ạ: dã thần có một lá nho che thân, bao giờ người ta cũng vẽ thế. Thần ái tình giương cung muốn bắn xuyên qua mình cô ta... Cô ta đau khổ, khóc than, không muốn sống nữa. Cô ta bị người yêu ruồng bỏ, các cô trông thấy cánh buồm này chứ... Bức tranh gọi là “Arian bị ruồng bỏ”... Các cô phải học các chuyện này. Ngày nay, các chàng trai luôn luôn hỏi chúng ta về các vị thần Hy Lạp. Không phải như năm ngoái nữa... Và đừng có dại mà khiêu vũ với một người ngoại quốc.
- Chúng tôi cung muốn học những thứ ấy, nhưng không có sách... Không sao moi được của bố tôi lấy nửa kopeik, - Antonida nói. Olga mặt rỗ hoa, bực mình cắn viền ren cổ tay áo.
Bỗng nhiên, Xanka kéo vai Natalia nói thầm. Natalia, - khuôn mặt tròn, tóc vàng tro, - đỏ mặt. Artamon khép nép kính cẩn bước vào phòng khách. Vóc người mảnh khảnh, anh bận y phục kiểu Đức màu nâu. Trông anh giống Xanka nhưng lông mày đậm hơn, mắt màu khói, một hàng lông tơ lơ thơ bên trên môi. Xanka bấm Natalia để cô ta nhìn cậu em mình. Cô gái xấu hổ cúi đầu xuống, chìa khuỷu tay ra phía trước, - chịu không thể xoay người cô ta lại được. Artamon cúi rạp đầu chào quan khách, rồi đi đến với chị. Xanka mím môi cúi chào thật nhanh và nói thẳng một mạch:
- Xin giới thiệu cậu em út tôi, Actamosa.
Các cô gái khẽ gật mái tóc búi cao rắc phấn. Theo đúng phép lịch sự. Artamon lùi lại, dẫm chân và vẫy tay như thể đang rũ quần áo giặt. Xanka giới thiệu:
- Quận chúa Antonida, quận chúa Olga, quận chúa Natalia...
Các cô lần lượt đứng dậy cúi chào, - và mỗi lần, Artamon lại rũ quần áo trước mặt mỗi cô.
Anh rón rén ngồi vào bàn, hai bàn tay kẹp vào giữa hai đầu gối, gò má ửng đỏ. Anh lo lắng ngước nhìn chị. Xanka nhíu đôi lông mày, vẻ đe dọa.
- Cô có thường đi chơi thăm hỏi các nhà quen không? - Artamon ngập ngừng hỏi Natalia. Cô gái trả lời ấp úng nghe không rõ. Olga mạnh bạo đáp:
- Hôm kia, chúng tôi khiêu vũ ở nhà Naryskin. Chúng tôi thay áo ba lần. Buổi dạ hội vui lắm, nóng quá thể! Sao chúng tôi không thấy anh đi chơi bao giờ?
- Tôi còn trẻ quá!
- Bố tôi sợ làm rầy cậu ta, - Xanka nói. - Khi nào cưới vợ cho cậu ta rồi, thì mặc cho chơi thả cửa... Cậu ấy khiêu vũ cừ lắm... Trông cậu có vẻ nhút nhát, nhưng các cô đừng lầm... Cậu ta nói tiếng Pháp thì không chê vào đâu được.
Khách khứa tò mò ngắm bọn trẻ... “Con cái chúng ta thời nay thực khác thời xưa!” Mitrofan Sorin hỏi Ivan Artemist:
- Bác cho cháu học ở đâu vậy?
- Tôi mời thầy về nhà. Nhà tôi không thể làm khác được bác Mitrofan Ilits ạ. Thiên hạ trông vào... Chúng tôi xuất thân tầm thường, phải bù đắp vào chỗ đó.
- Đúng, đúng... Chúng ta phải rời khỏi xó nhà...
- Vả lại Sa hoàng thường quở: anh kiếm tiền như rác, phải cố hết sức...
- Tất nhiên phải như vậy. Tốn kém cũng đáng tiền.
- Riêng cháu Xanka, tôi cũng đã tốn nhiều tiền với nó lắm rồi. Nhưng được cái mọi người đều để ý đến cháu.
- Nó mạnh dạn đấy. Nhưng Ivan Artemist, bác cũng nên để mắt đến nó vì nó có thể...
Ivan Artemist trầm ngâm một lát rồi trả lời:
- Cố nhiên, tôi có thể quất cho nó mấy roi đuổi lên gác bắt ngồi thêu. Nhưng có lợi gì đâu? Ngoài cái chuyện là để cho thằng chồng nó được yên tâm hơn. Chậc, tôi biết rằng nó không khéo thì hỏng. Lạy Chúa đúng vậy... Trông con mắt nó cũng đủ biết nó dễ hư... bác Mitrofan Ilits ạ, thời buổi bây giờ khác trước rồi... Bác có nghe nói ở nước Anh không? Vợ Marlboro sai khiến cả châu Âu. Đấy, cứ thử cầm roi đứng kèm bên váy vợ xem, trông anh sẽ hệt một thằng xuẩn.
Aleksey Xvesnikov là một lái buôn giàu sụ, vẻ mặt khắc khổ lông mày rậm, ông ta bận áo có nẹp ngang ngực kiểu Hungary, để đầu trần, không đội tóc giả, mái tóc đen, quăn, đã điểm một vài sợi tóc bạc. Ông ta ngoáy hai ngón tay cái sau lưng, đợi Mitrofna Ilits và Ivan Artemist nói xong những chuyện phù phiếm.
- Bác Mitrofan Ilits này, - Ông ta nói, giọng trầm trầm, - tôi trở lại câu chuyện đương nói; việc của tôi gấp lắm. Mọi người đã phong phanh biết chuyện, người ta có thể chặn đường chúng tôi.
Ông chủ tịch, mặt mày sạch sẽ, vẻ xảo quyệt, mùi nhọn, cười ngọt xớt:
- Ân nhân của chúng ta là bác Ivan Artemist đây sẽ quyết định việc này. Aleksey Ivanovich, hãy hỏi bác ấy xem.
Brovkin ngoáy nhanh hai ngón tay cái sau lưng; lão dạng đôi chân ngắn, đứng ngắm hai con đại bàng từ đầu tới chân: Sorin và Xvesnikov... Lão hiểu ra ngay: hai tay này có vẻ vội vàng gấp rút lắm, như thế là họ đã biết được việc gì đặc biệt đây... - Suốt ngày hôm qua Brovkin ở kho lúa mì; lão không gặp một nhân vật tai to mặt lớn nào - Không trả lời, lão ưỡn ngực, vênh váo, cố đoán xem: việc đó là việc gì nhỉ? Lão đưa tay về đằng trước gãi mũi.
- Này, - lão nói, - hiện nay có tin giá dạ sẽ cao... Ta có thể nói chuyện với nhau được.
Tức thì Xvesnikov trố cặp mắt di-gan:
- Bác Ivan Artemist, vậy ra là bác cũng biết việc xảy ra hôm qua?
- Cũng được biết chút ít... Việc của chúng tôi là biết và im lặng.:. - Ivan Artemist bóp cằm tự hỏi: “Quái, họ biết việc gì vậy?”. Liếc nhìn về phía các vị khách khác, lão đi giật lùi đứng sau cái lò sưởi lát gạch tráng men. Xvesnikov và Sorin đi theo lão. Họ túm tụm nhau lại ở đấy, dè dặt, quanh co nói chuyện với nhau:
- Bác Ivan Artemist ạ, cả thành phố Moskva đều bàn tán về việc này.
- Có thể...
- Nhưng với ai chứ? Với anh chàng Thụy Điển chăng?
- Đó là việc của Sa hoàng...
- Tuy vậy... Có phải nay mai không? - Xvesnikov thọc tay vào bộ râu trông cứng như dây thép. - Chính lúc này là lúc nên dựng xưởng đây. Nhà vua chắc hài lòng; không phải vì dạ của chúng tạ rẻ hơn dạ Hamburg, nhưng vì là dạ sản xuất trong nước. Hãy đóng cửa biên giới lại, chúng ta sẽ có dạ nội hóa... Việc này hái ra tiền. Nhiều người muốn len chân vào. Như Mactiexen chẳng hạn.
“À ra họ đánh hơi được việc này”. Ivan Artemist lấy tay che miệng tủm tỉm cười; lão hiểu rồi. Cách đây vài hôm, Mactiexen, một người ngoại quốc, đi cùng với gã phiên dịch Safirov đến gặp Brovkin. Hắn thương lượng với lão dựng một xưởng dệt dạ; Sa hoàng sẽ hùn một phần vốn, Brovkin hùn nốt phần kia; Mactiexen hưởng một phần ba tiền lãi. Ngược lại, hắn nhận sẽ đưa máy dệt và mướn cả thợ lành nghề từ Anh sang và quản lý toàn bộ doanh nghiệp. Xvesnikov và Sorin, về phía họ, cũng đề nghị từ lâu với Brovkin cùng nhau lập một công ty để dựng một xưởng dệt dạ. Nhưng hiện nay công việc vẫn ở giai đoạn thương lượng.
Ngày hôm qua, rõ ràng là đã xảy ra chuyện gì. Rất có thể là Mactiexen đã được yết kiến nhà vua.
- Lẽ nào chúng ta lại để một việc lớn như thế lọt vào tay người ngoại quốc? - Xvesnikov nói, mắt long lanh. Chủ tịch Sorin nheo mắt, thở dài:
- Thế mà chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mệnh, cống hiến tất cả.
- Ngày mai, ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện. - Ivan Artemits từ phía sau lò sưởi đi ra cửa.
Một người thấp béo, bận đồ dạ đen, giầy bám đầy bụi, mũi khoằm như mỏ chim ưng, cánh mũi rộng, cằm xanh, bước vào phòng khách, không có ai ra đón tiếp. Đôi mắt đen ngơ ngác soi mói nhìn vào mặt các quan khách. Trông thấy Brovkin, hắn giơ hai cánh tay ngắn ngủn về phía lão, theo kiều ngoại quốc, nhếch mép cười:
- Chào quý ông Johan Artemievich, - giọng hắn lên bổng xuống trầm như hát, và hắn phát âm tất cả các chữ cái. Hắn ôm chầm lấy chủ nhà và hôn ba lần như trong dịp lễ phục sinh; con người mới ngộ làm sao! hắn lắc lư bộ tóc giả đỏ bẻm, thì thầm:
- Hiện nay, chưa giải quyết gì với Mactiexen; Alekxandr Danilovich sẽ đến đây bây giờ.
- Rất mừng được gặp anh, Piotr Paplovich, mời anh vào.
Người đó là Safirov, một người Do Thái làm phiên dịch ở Bộ các sứ quán. Hắn đã từng theo Sa hoàng ra nước ngoài. Nhưng cho đến mùa thu năm nay, hắn không xuất đầu lộ diện. Hiện nay, hắn được cử làm việc với sứ quán Thụy Điển; ngày nào hắn cũng gặp Sa hoàng và người ta coi hắn như một nhân vật có thế lực.
- Johan Artemievich, ngày mai xin mời quý ông đến điện Kreml, vào cung... Sa hoàng đã có lệnh mời mười đại biểu của hội đồng xã trưởng. Chúng ta sẽ dự lễ trình ủy nhiệm thư của sứ thần Thụy Điển.
- Thế là đôi bên đã thỏa thuận với nhau rồi à?
- Không, ông Johan Artemievich ạ, hoàng thượng chẳng bao giờ chịu hôn Kinh thánh vì vua Thụy Điển đâu(2).
Nghe đến đó, Brovkin mới thở được và vội vàng làm dấu thánh giá trên rốn:
- Vậy tin đồn là đúng à, Piotr Paplovich?
- Rồi ra sẽ biết, ông Johan Artemievich ạ, đó là những chuyện đại sự, đại sự... - Hắn quay về phía các tiểu thư nhà Buinoxov hôn ngón tay các cô theo kiểu ngoại quốc.
Vương hầu Roman Borisovich ngồi trên chiếc ghế cạnh tường, vẻ mặt lầm lì. Đi lại những nhà như nhà nầy chẳng danh giá gì. Ông ta gườm gườm đưa mắt nhìn các cô con gái: “Thực là một lũ quạ cái ngu ngốc. Của này ai rước đi cho? Lạy Chúa, thời buổi mới khó khăn làm sao! Tiền, tiền? Tiền vào nhà ta như gió vào nhà trống... Mở mắt dậy đã phải lo nghĩ đến vỡ đầu: xoay xở ra sao, xoay sở ra sao để sống nổi? Vơ vét sạch các thôn ấp của ta mà vẫn không đủ. Tại sao vậy? Xưa kia cũng ngần ấy, ta sống đầy đủ... than ôi, xưa kia, ta an nhàn ngồi bên cửa sổ thích thì gặm một quả táo hoặc lắng nghe tiếng chuông nhà thờ... Thực là yên tĩnh, yên tĩnh cực kỳ... Một trận cuồng phong đổ về, mọi người nhốn nháo tán loạn như kiến vỡ tổ. Thực không còn hiểu ra sao nữa... Lại tiền, tiền người ta bàn nhau về những xưởng này, công ty nọ”.
Lái buôn Epxtrat Mononov đứng hàng đầu trong số một trăm nhà buôn có tiếng, người đã có tuổi, ngồi cạnh vương hầu Roman, lão khẽ nói:
- Thưa vương hầu Roman Borisovich kính mến, chúng tôi không chịu nổi nữa; chúng tôi nhìn mọi việc theo lối nhà buôn: ngày nay chúng tôi thấy bị tù túng quá rồi, người ngoại quốc muốn chèn ép chúng tôi thế nào cũng được... Họ không ăn hàng của chúng tôi; trước hết, họ viết thư gửi trạm; mười tám ngày sau thư về đến Hamburg, và mười tám ngày sau nữa mới có thư trả lời cho biết mặt hàng ấy giá bao nhiêu ở Sở hối đoái nước họ... Thế mà bọn ngu xuẩn nhà mình cứ khư khư giữ vững giá trong một hoặc hai năm liền, trong khi thực tế không còn được giá đó từ lâu. Từ lâu rồi, người ngoại quốc đã đục được cửa sổ nhòm ngó vào nhà chúng ta. Còn chúng ta thì cứ ngồi trong xó nhà như ếch ngồi đáy giếng. Không, thưa vương hầu, chúng ta không tránh được chiến tranh... Giá như chúng ta ít nhất cũng có được một thành nhỏ, chẳng hạn như Narva vốn là lãnh địa cũ của Sa hoàng.
- Bọn lái buôn các ông giàu nứt đố đổ vách thế mà vẫn chưa vừa lòng tham, - Roman Borisovich nói, tỏ vẻ khó chịu. - Chiến tranh! Rõ khéo chưa! Chiến tranh là quốc gia đại sự. Ai cho những hạng người nguồn gốc thấp hèn như các ông bàn đến...
- Vương hầu nói đúng, vương hầu nói đúng, - Mononov vội tỏ ý đồng tình ngay. - Tôi nói chuyện dông dài, chính vì ngu dốt...
Roman Borisovich đưa đôi mắt trắng dã, vằn tia máu, liếc nhìn lão lái buôn: có ai ngở, nó ăn mặc xuềnh xoàng, diện mạo tầm thường thế mà có hàng hũ bạc chôn trong hầm.
- Ông có nhiều con trai không?
- Tôi được sáu cháu, thưa vương hầu.
- Chưa vợ chứ?
- Thưa, lập gia đình cả rồi ạ.
Bên ngoài có tiếng một cỗ xe lăn ầm ầm trên mặt đường lát gỗ súc. Ivan Artemist vội chạy ra bậc thềm, vài vị khách chạy ra cửa sổ. Chuyện trò dương nói dở ngừng bặt. Tiếng đinh thúc ngựa kêu loảng xoảng trên thềm gang. Trung tướng Alekxandr Melsikov, tổng trấn tỉnh Pskov đi trước chủ nhà, bước vào: hắn bận áo nẹp, lai tay áo màu đỏ trông tưởng như hai tay áo nhúng vào máu đến tận khuỷu. Đến ngưỡng cửa, hắn đưa cặp mắt xanh, lạnh lùng, đượm vẻ nghiêm nghị của một chính khách, nhìn quanh các quan khách một lượt. Hắn ngả mũ, vung rộng tay chào các cô quận chúa. Hắn nhếch cao đường lông mày xinh đẹp bên trái lên, vẻ mặt giễu cợt, đi đến chỗ Xanka, hôn lên trán nàng, lắc mấy đầu ngón tay nàng, rồi quay về phía các quan khách khẽ gật đầu chào.
Cửa phòng ăn mở, Alekxandr Danilovich ôm hôn Ivan Artemist Brovkin và ghé vào tai lão nói nhỏ:
- Đừng quyết định gì với Xvesnikov và Sorin, đây không phải là một việc lớn đâu... Chúng ta sẽ không để cho Mactiexen làm gì hết. Phải tự lực làm lấy tất cả. Hãy nói chuyện ngay hôm nay với Safirov đi.
-------------
Chú thích:
(1) Nhà sử học, xã hội học người Đức (1632 - 1694).
(2) Hôn Kinh thánh đề thề sẽ tôn trọng hòa ước.

Chương 118

Phái bộ Thụy Điển rời Cung sứ thần với mười bốn cỗ xe tứ mã. Suốt dọc phố Hinka, qua quảng trường đến tận tường điện Kreml, có nhiều trung đoàn đứng chào, súng dựng bên mình, đội mũ ba cạnh, mình mặc áo nẹp ngắn, chân đi tất trắng. Cờ xí trên đầu các ngọn giáo bay phất phới trước ngọn gió tháng mười. Qua cửa xe, đoàn sứ thần Thụy Điển ngắm nhìn đội quân mới này.
Khi qua cổng Xpaskie, họ nhìn thấy đạn đại bác tuyết phủ trắng chung quanh, xếp thành đống, những cỗ đại bác đồng đen, họng chĩa lên trời, bên mỗi cỗ đại bác có bọn lính pháo thủ rậm ria, to lớn như hộ pháp, tay cầm gậy thông nòng và mồi đương bốc khói. Lão tướng Gordon cưỡi con ngựa nòi vùng sông Đông lông đỏ như lửa, đứng trước Thềm Đỏ. Gió thổi phồng tấm áo bào đỏ của ông, tuyết khô và lạnh rơi lộp độp lên mũ và áo giáp của vị lão tướng. Đoàn xe sứ thần vừa dừng bánh, Gordon giơ tay ra lệnh: đại bác nổ ầm ầm, khói tỏa mù mịt che kín những cửa sổ nhỏ của các bộ và mái tròn các nhà thờ.
Trên bậc thềm, sĩ quan cận vệ đề nghị các sứ thần tháo kiếm trao cho họ.
Một trăm binh sĩ của trung đoàn Xemionovski xếp hàng dài trên thềm và trong tiền đình, bưng lễ vật và quà tặng của vua Thụy Điển - khay, cốc và bình bạc - và nâng cao bức chân dung toàn thân của vị thiếu quân Charles XII lồng trên chiếc khung gỗ lộng lẫy.
Các sứ thần nghiêm trang bước vào phòng ăn; đến cửa, mọi người bỏ mũ.
Các vị đại thần, các nhà quý tộc ở Moskva và các thương gia lớn ngồi trên ghế dài, dọc theo bốn bức tường. Mọi người đều bận quần áo thường bằng dạ: nhiều người phục sức theo kiều ngoại quốc. Trên vòm trần, trên tường có những bức tranh vẽ dũng sĩ, cầm thú. Tít cuối phòng, Sa hoàng Piotr, - đầu trần không đội mũ, cũng không đội tóc giả, mặc áo dạ xám lót lông sơn miêu, cặp mắt lồi không động đậy - ngồi trên chiếc ngai nạm ngà và bạc, nom như một pho thần tượng.
Lavrenti Xivinin đứng bên trái nhà vua bưng một cái âu bằng vàng; Vaxili Volkov đứng bên phải, nâng một chiếc khăn lau tay. Các sứ thần tiến đến gần, quỳ một gối xuống thảm trải ở chân ngai. Xivinin dâng chiếc âu; Sa hoàng, mắt nhìn thẳng, nhúng ngón tay vào âu nước; Volkov lấy khăn lau tay cho nhà vua; các sứ thần tiến lên hôn bàn tay sần sùi của Sa hoàng. Sau đó, Sa hoàng đứng dậy, đầu gần chạm tới cái tàn, cất cao giọng hỏi bằng tiếng Nga, theo lệ cổ:
- Nhà vua Thụy Điển được khỏe mạnh chứ?
Sứ thần đưa tay lên ngực, nghiêng bộ tóc giả rậm rạp có sừng, trả lời rằng nhờ ơn Chúa, nhà vua được khỏe mạnh và gửi lời kính thăm sức khỏe Sa hoàng của toàn thể các nước Nga, Đại Nga, Tiểu Nga, Bạch Nga v.v...
Phiên dịch viên Safirov, ăn mặc như các đại biểu Thụy Điển: áo choàng ngắn, quần ống chẽn bằng lụa có thắt dải và xẻ vế, cao giọng dịch câu trả lời của sứ thần. Miệng há, mắt giương to để nghe cho kỹ, các vị đại thần chú ý xem đại biểu Thụy Điển có điều gì mạn thượng dù chỉ là trong một lời nói.
Vua Piotr gật đầu: “Trẫm được khỏe mạnh; xin cám ơn ngài”.
Sứ thần cầm cuộn giấy để trên gối nhung trong tay một nhân viên, - đó là ủy nhiệm thư, - và quỳ một gối dâng lên Sa hoàng.
Sa hoàng cầm cuộn giấy, không đọc, đưa cho đệ nhất thượng thư Lev Kirilovich Naryskin.
Ông này, khác với mọi người, ăn mặc cực kỳ sang trọng, bận đồ sa tanh trắng dát ngọc lóng lánh. Lev Kirilovich không giở cuộn giấy, cất cao giọng báo buổi tiếp kiến đã xong.
Đoàn sứ thần vừa cúi chào vừa đi giật lùi ra đến tận cửa điện.
Sứ thần Thụy Điển đã tưởng rằng trong buổi lễ tiếp đón long trọng này, vấn đề chủ yếu - chính vì việc đó mà họ đã ăn đợi nằm chờ sáu tháng trời ròng rã ở Moskva - chắc sẽ được bàn đến, tức là: liệu Sa hoàng có trịnh trọng thề và hôn Kinh thánh để xác nhận hòa ước với Thuỵ Điển không?
Nhưng mãi một tuần sau, các vị thượng thư Moskva mới cho mời sứ thần đến họp hội nghị ở bộ Ngoại giao. Tại hội nghị, Prokofi Voznixyn tuyên bố, để trả lời sứ thần Thụy Điển, rằng Sa hoàng xác nhận trên tinh thần những hòa ước cũ đã ký kết với Thụy Điển, nhưng sẽ không hôn Kinh thánh một lần nữa vì người đã tuyên thệ với đức hoàng phụ của vị vua Thụy Điển đương triều.
Ngược lại, thiếu quân Charles phải làm lễ hôn Kinh thánh, vì lẽ nhà vua chưa tuyên thệ với Sa hoàng Piotr. Đó là ý của Sa hoàng, không gì có thể thay đổi được, loan báo để các vị sứ thần biết.
Sứ thần nổi nóng tranh cãi; nhưng lời lẽ của họ vấp phải thái độ tự cao tự đại của các đại biểu Moskva, bật trở lại như những hạt đỗ ném vào tường. Sứ thần tuyên bố rằng không có lệnh của vua Thụy Điển, họ không thể nào tiếp nhận một hiệp ước hòa bình vĩnh cửu như vậy và họ sẽ làm tờ trình gửi về Stockholm.
Prokofi Voznixyn trả lời, vẻ nhạo báng lộ trên đôi mắt già nua:
- Các ngài thừa biết đường đi Stockholm; bốn tháng nữa các ngài cũng chưa nhận được thư trả lời đâu. Các ngài sẽ phải bỏ tiền túi ăn đợi nằm chờ vô ích ở Moskva.
Phiên họp lần thứ hai và lần thứ ba cũng vậy. Bộ sứ thần cũng thôi không cấp cỏ khô nuôi ngựa nữa. Sứ thần Thuỵ Điển phải bán quần áo, tư trang, tóc giả, tất, cúc áo để lấy tiền ăn. Cuối cùng, họ phải nhượng bộ.
Ở điện Kreml, Sa hoàng Piotr ngồi trên ngai, mặc áo nẹp lót lông sơn miêu như lần trước, trao cho các sứ thần, mặc mày hốc hác, bản hiệp ước chính thức, không được xác nhận bằng lễ hôn Kinh thánh.
Một buổi sáng sương mù tháng một, một cỗ xe bọc da lấm bùn đỗ trước thềm sau lâu đài Preobrazenski. Sương mù ẩm ướt bao phủ những nóc nhà hình thù kỳ dị của tòa lâu đài. Trên thềm, Alekxandr Danilovich nóng ruột đứng dậm đôi ủng to. Thấy một cô gái nông nô đi qua, áo armiac(1) trùm lên đầu, hắn hét: “Cút ngay, đồ đĩ!”. Người con gái, sợ cuống cuồng, cắm cổ chạy, chân không trượt lên đám lá ướt.
Tướng Ba Lan Carlovit và hiệp sĩ xứ Livoni Patkun xuống xe. Melsikov bắt tay hai người, nói: “Các ông đã đến, thật đội ơn Chúa”. Ba người đi qua một dãy hành lang và leo lên cầu thang vắng tanh, sực mùi chuột. Đến trước cánh cửa hẹp và thấp, Alekxandr Danilovich khẽ gõ. Vua Piotr mở cửa, Nhà vua không cười, lặng lẽ cúi đầu chào và dẫn khách vào một phòng ngủ chật hẹp ám khói. Khung cửa sổ duy nhât lắp mi-ca để lọt vào chút ánh sáng mờ mờ như sương.
- Trẫm rất sung sướng, rất sung sướng, - vua Piotr vừa nói vừa trở lại bên cửa sổ.
Giấy tờ, sách và bút lông ngỗng để bừa bãi trên chiếc bàn xoay không trải khăn, trên bậu cửa sổ và trên mặt sàn.
- Danilys! - Vua Piotr mút ngón tay giây mực. - Danilys, ta phải xẻo mũi tên thơ lại này mới được, bảo nó thế cho ta. Nó chỉ có một việc vót lông làm ngòi bút. Thế mà nó ngủ suốt ngày, cái thằng quỷ thọt ấy... A, người với ngợm!...
Patkun và Carlovit vẫn đứng chờ, Nhà vua sực nhớ ra:
- Danilys, mời khách ngồi ghế, cất mũ cho khách... Đây này... - Nhà vua gõ ngón tay vào những tờ giấy viết đen ngòm tứ phía. - Ta phải bắt đầu từ khởi điểm: từ A B C... Trong các gia đình ở Moskva, con cái lớn bằng sào chọc hạt dẻ mà ngây ngô ngốc nghếch. Ta phải dùng gậy để ép chúng học... Người với ngợm, người với ngợm? Này ông Patkun, những người Anh Fegacxơn và Gren có phải là những nhà đại bác học không?
- Hồi thần ở London, thần cũng có nghe nói đến họ, - Patkun trả lời. - Những người này không có gì là xuất sắc lắm, họ không phải là những nhà triết học, họ chỉ nghiên cứu những khoa học thực hành.
- Thì đúng thế. Chính vì mải vùi đầu nghiên cứu thần học mà chấy rận cắn chết chúng ta... Hàng hải, toán học, khoa khai thác mỏ, y học, đó là những môn chúng ta cần. - Nhà vua cầm những tờ giấy lên, rồi lại ném xuống bàn. - Điều chẳng may là phải làm mọi việc một cách hấp tấp, vội vàng.
Nhà vua ngồi xuống, bắt chéo chân, tỳ khuỷu tay xuống bàn, lấy tẩu hút. Carlovit, hồng hào khỏe mạnh, thở phì phò; ông ta chớp mắt, nhìn Sa hoàng, Patkun, buồn bực, nhìn xuống chân. Alekxandr Danilovich khẽ đằng hắng. Tay Sa hoàng cầm điếu hơi run run.
- Vậy ông đã thảo xong và có đem đến chứ?
- Chúng thần đã thảo một hiệp ước bí mật và đem đến đây, - Patkun tái mặt ngẩng lên nói với một giọng rắn rỏi. - Xin bệ hạ ra lệnh cho ngài Carlovit đọc bệ hạ nghe.
- Đọc đi!
Melsikov kiễng chân, rón rén lại gần. Carlovit lấy ra một tờ giấy nhỏ màu xanh da trời, cầm xa mắt và bắt đầu đọc một cách khó khăn:

Để giúp Sa hoàng nước Nga lấy lại những đất đai đã bị Thụy Điển xâm chiếm một cách bất công và củng cố địa vị thống trị của nước Nga trên biển Baltic, vua Ba Lan sẽ cho các đội quân xứ Xăc của mình tiến vào xứ Livoni và Estonia để gây chiến tranh chống vua Thụy Điển, và hứa sẽ thúc đẩy giới hiệp sĩ Ba Lan cũng tuyệt giao với Thụy Điển. Về phía mình, ngay sau khi ký hòa ước với Thổ Nhĩ Kỳ, chậm nhất đến tháng tư năm 1700, Sa hoàng sẽ mở chiến sự ở Ingri và Careli và từ nay đến đó, nếu xét ra cần thiết, Sa hoàng sẽ gửi một đội quân đánh thuê. Hai bên đồng minh thỏa thuận không bên nào được tiến hành thương thuyết riêng lẻ với đối phương và không được phản bội nhau. Hiệp ước này phải giữ hoàn toàn bí mật”.

Vua Piotr đưa lưỡi liếm môi khô và hỏi.
- Hết chứ?
- Tâu bệ hạ, hết ạ.
Patkun nói:
- Nếu bệ hạ đồng ý, ngay ngày mai thần sẽ đi Warsawa, và thần hy vọng giữa tháng chạp sẽ có thể trở lại đây với chữ ký bút tích của vua Auguste.
Sa hoàng Piotr nhìn vào đôi mắt vàng nhạt và cứng cỏi của Patkun, nhìn một cách khác thường, trừng trừng, đến chảy nước mắt.
Nhà vua nhếch mép mỉm cười:
- Đây là một việc lớn... Johan Patkun, ông đi đi!
-------------
Chú thích:
(1) áo choàng bằng vải thô của nông dân Nga.

Chương 119

Đồng hồ gác chuông nhà thờ đánh mười hai giờ trưa. Đó là giờ ăn của những thị dân giữ nề nếp. Trong phòng họp của Thượng nghị viện, các ông nghị rời ghế tựa đứng dậy. Nhà buôn đóng cửa hiệu. Bác thợ cả xếp dụng cụ sang một bên, bảo các thợ bạn: “Anh em đi rửa tay, rồi chúng ta cầu kinh!”. Một ông già quý tộc bỏ cặp mục kính ra, dụi đôi mắt buồn rầu, rồi trịnh trọng bước sang phòng ăn ám màu khói của những ngày huy hoàng đã qua. Từng toán nhỏ lính bộ và lính thuỷ vui vẻ kéo nhau đến các quán ăn trước cửa treo hàng xâu xúc xích hay một đùi lợn sấy toả mùi thơm phức, ngon lành.
Trong cả thành phố, có lẽ chỉ có một người không nghe tiếng nói của lẽ phải; đó là vua Charles XII. Một tách chocolat đang nguội dần giữa những chai rượu nho sông Ranh vàng óng, đặt trên chiếc bàn đêm. Những tấm rèm đỏ tía mở rộng trên các khuôn cửa sổ cao. Trong vườn, tuyết rơi trên các bụi cây còn xanh lá, xén tỉa theo hình cầu, hình kim tự tháp và hình khối vuông.
Tấm gương trên lò sưởi phản chiếu ánh tuyết và soi hình hai cái giá cắm bạch lạp còn đọng sáp thừa hình thạch nhũ. Củi thông nổ lách tách trong lò sưởi. Chiếc quần chẽn của nhà vua mắc vào đầu một tượng thần ái tình mạ vàng ở chân giường. Những tấm xiêm lụa và quần áo lót phụ nữ để bừa bãi trên những chiếc ghế nhỏ.
Khuỷu tay chống xuống gối, nhà vua cao giọng đọc kịch thơ Raxin. Giữa hai tiết thơ, nhà vua với tay cầm cốc rượu nho sông Ranh ướp thơm. Một thiếu phụ tóc nâu thiêm thiếp nằm cạnh nhà vua, chiếc khăn khâu chần đắp lên đến mũi. Tóc của thiếu phụ xõa sợi; lớp phần hồng trên mặt đã phai để lộ nước da vàng khè, gần giống màu rượu trong cốc.
Người thiếu phụ đó là nàng Atalia đàng điếm, nữ bá tước Demon, nổi danh vì những chuyện phóng đãng. Cuộc đời nàng diễn ra theo một dòng khúc khuỷu, ngông cuồng, chẳng khác chi đường bay của một con dơi. Nàng vẫn giữ được cốt cách thanh lịch, dù là bận triều phục, mặc áo nữ diễn viên, hay khoác áo choàng sĩ quan cận vệ. Nàng biết trèo qua cửa sổ leo thang dây xuống, để tránh con mắt tọc mạch của đội cảnh sát hoàng gia.
Nàng đã hát ở rạp ca kịch Viên nhưng đã mất giọng trong những trường hợp bí mật. Nàng đã biểu diễn vũ trước vua Louis XIV trong một nhạc cảnh thần tiên do Molier đạo diễn. Nàng đã hóa trang làm lính ngự lâm pháo thủ, đi theo thống chế Lucxămbua trong chiến dịch bao vây các thành phố xứ Flandre, - người ta kể rằng sau khi thành Namur bị chiếm, chiếc túi quân dụng của nàng chứa đầy đồ nữ trang. Nàng xuất hiện ở thành phố London - có thể là do triều đình Pháp yêu cầu, làm người Anh phải sửng sốt trước đàn ngựa cưỡi và những bộ trang phục của nàng. Nhiều huân tước Anh và đến cả quận công Marlboro, dũng cảm và đẹp trai, cũng say mê nàng. Nhưng có người đến nói với bá tước Demon biết rằng quận công phu nhân Marlboro khuyên nàng nên đáp ngay chuyến tàu đầu tiên để rời khỏi London. Cuối cùng ngọn gió giang hồ đã đưa nàng đến giường vua Thuỵ Điển.
- Ái tình, ái tình, - vua Charles vừa nói vừa với tay cầm lấy chai rượu, - rồi lại ái tình... Mãi mãi như vậy thật chán ngắt. Raxin làm ta phát ngấy. Piruyx, vua bọn Mirmidon, chắc là một tay kiếm cừ khôi; thế mà trong suốt năm hồi, y tuôn ra toàn những điều ngu ngốc thảm hại... Ta ưa đọc truyện ký của Pluytac(1) hoặc luận lý của Cséza hơn. Nàng uống rượu nhé?
Nữ bá tước, không mở mắt, trả lời:
- Để cho thiếp yên thân, bệ hạ ạ, đầu thiếp nhức như búa bổ đây! Chắc thiếp không sống nổi qua ngày hôm nay được đâu.
Vua Charles cười gằn cầm cốc uống.
Có tiếng gõ cửa. Dán mũi vào quyển kịch Raxin, nhà vua uể oải nói: “Vào!”.
Nam tước Bijoockenjem, kamerjunker(2) của vua, sột soạt trong bộ đồ lụa, tươi cười bước vào. Mũi y, có một hột cơm nhỏ, hếch lên như đon đả báo những tin sốt dẻo. Y cúi chào chiếc quần ống chẽn của nhà vua, rồi dùng những lời lẽ dễ nghe, bắt đầu kể những chuyện lặt vặt xảy ra trong hoàng cung. Không việc gì thoát khỏi tai mắt tò mò của y, dù là một chi tiết như tiếng sột soạt khả nghi nghe thấy đêm qua ở phòng cung nữ phu nhân Anna Boxtrom, vốn nổi tiếng đức hạnh. Atalia rên rỉ, trở mình nằm nghiêng sang bên phải:
- Trời ơi, trời ơi, những chuyện ngu ngốc làm sao!
Nam tước không mất bình tĩnh; chắc y đã chuẩn bị sẵn một tin gì hay hơn:
- Ngày hôm nay, hồi chín giờ sáng, bọn chủ hiệu buôn đã đệ đơn lên Thượng nghị viện một đơn thỉnh cầu mới đòi xét lại khoản cấp phí cho hoàng gia.
Vua Charles thở phì ra đằng mũi.
- Lòng tham của bọn thị dân này thật không đáy. Thần vừa gặp sứ thần Pháp có một bầy chó săn Anh tuyệt đẹp đi theo: ông ta đi săn thỏ rừng trên tuyết đầu mùa... Chà, con ngựa nòi của ông ta mới đẹp làm sao. Chính là con ngựa của Renxjon đã thua bạc... Thần kể cho ông ta nghe chuyện lá đơn thỉnh cầu. Sứ thần nhún vai: “Rõ ràng là âm mưu của bọn huy-gơ-nô(3), - chính lời ông sứ thần nói như vậy, - bọn chủ hiệu và chủ xưởng ấy ở rải rác khắp châu Âu. Chúng đưa ra khỏi Pháp sáu mươi triệu đồng bảng... Bọn tà giáo này vốn ngoan cố, đi đến đâu cũng tìm cách đả phá cái nguyên lý vương quyền. Chúng đều bí mật liên lạc với nhau: ở Thụy Sĩ, ở Anh, ở Hà Lan và ở nước chúng tôi... Chúng lợi dụng mọi cơ hội gieo rắc vào đám thị dân lòng hằn thù đối với giới quý tộc và các vị vua chúa...!”
- Còn tin gì nữa? - vua Charles hỏi, sa sầm nét mặt.
- Tất nhiên, thần đã đến Thượng nghị viện... Đơn thỉnh cầu hôm nay chỉ là một trong những cớ đưa ra. Thần đã có thì giờ trao đổi vài câu với nhiều người ở hành lang nghị viện. Các ông nghị đang thảo một đạo luật hạn chế quyền tuyên chiến của nhà vua.
Vua Charles nổi cơn thịnh nộ, gấp mạnh cuốn Endromac của Raxin lại và quăng quyển sách đi. Nhà vua ngồi dậy, cài mép chăn lại:
- Ta hỏi ngươi đã biết được tin gì ngày hôm nay?
Bijoockenjem đưa mắt ra hiệu trỏ vào cái gáy tóc loăn xoăn của nữ bá tước!
- Bậy nào! Không ai thóc mách ở đây cứ nói đi!
- Ngày hôm qua, một người quý tộc đã đáp thương thuyền từ Riga tới đây... Thần chưa gặp được ông ta. Ông ta kể rằng - không biết có tin được không, - Patkun đã đột nhiên xuất hiện ở Moskva.
Nữ bá tước nhỏm đầu lên khỏi gối. Vua Charles cắn môi.
- Cho gọi bá tước Pipe đến cho ta.
Bijoockenjem giơ hai bàn tay phủ kín đăng-ten lên như đôi cánh nhỏ, rảo bước như bay trên tấm thảm.
Vua Charles nhìn tuyết rơi ngoài trời. Khuôn mặt choắt với vầng trán cao, môi như môi phụ nữ, mũi dài, nhợt nhạt như một ngày mùa đông. Nhà vua không nhận thấy cặp mắt giễu cợt của nữ bá tước long lanh sáng dưới mái tóc lòa xòa. Nhìn những bông tuyết rơi, nhà vua thấy tự đáy lòng nổi lên những cảm giác mới: một cơn thịnh nộ bừng bừng và một sự khôn ngoan có tính toán.
Nghe thấy tiếng chân nặng nề ngoài cửa phòng, nhà vua vội cầm chiếc gối vứt lên đầu nữ bá tước:
- Đắp kín người lại, ta phải tỏ ra chỉ một mình thôi.
Vua Charles sửa lại áo lót, cầm tách chocolat đã nguội từ lâu, theo tục của triều đình Pháp, nhà vua dùng chocolat ở ngay giường nằm:
- Vào!
Cố vấn riêng của nhà vua, Karx Pipe, bước vào; gần đây nhà vua mới phong tước bá cho y.
Pipe vóc người cao lớn, chân to, ăn mặc xuềnh xoàng, có vẻ mặt mệt nhọc và thận trọng của một viên chức giàu kinh nghiệm. Nhà vua lạnh lùng nhìn y, nói:
- Ta buộc phải lượm tin ở cửa miệng những kẻ ngồi lê đôi mách trong triều đấy.
- Tâu bệ hạ, họ lượm tin ở cửa miệng thần. - Pipe không cười bao giờ, không bao giờ mất bình tĩnh. Cặp giò thị dân của y có thể đứng vững trước mọi chao đảo thăng trầm của thế sự. - Nhưng họ chỉ biết được những tin thần thấy nên đưa ra làm câu chuyện phiếm trong triều.
- Patkun hiện ở Moskva phải không? - Pipe nín lặng. Vua Charles cao giọng - Nếu nhà vua làm ra bộ chỉ có một mình thì tức là nhà vua chỉ có một mình trước trời đất, quỷ tha ma bắt nhà ngươi đi.
- Tâu bệ hạ, vâng, Patkun hiện ở Moskva cùng với tướng Carlovit, cái tên giang hồ chẳng ai còn lạ gì ấy.
- Chúng đến đấy làm gì?
- Có thể đoán được... Thần chưa có tin chính xác.
- Nhưng đoàn sứ thần của ta hiện ở Moskva kia mà?
- Đoàn sứ thần đã được phái đi theo yêu cầu của Thượng nghị viện. Các ông nghị muốn có hòa bình ở phía Đông bằng bất cứ giá nào.
- Thì mặc họ cứ việc tìm cách tranh thủ hòa bình bằng những phương tiện của họ. Dù sao ta cũng không phải phí một xu nào của ngân khố hoàng gia vào công việc đó. Ta rất muốn vét nốt đồng xu đó trong ngân khố hoàng gia, - vua Charles nói. - Ngươi đã nghe nói đến đơn thỉnh cầu mới rồi chứ? Ngươi có biết các ông nghị đương chuẩn bị những gì cho ta không?
Pipe nhún vai. Vua Charles vội đặt tách xuống bàn:
- Ngươi có biết là ta không ưng đóng vai trò con lừa ngoan ngoãn nữa không? Thân phụ ta đã phá sản giới quý tộc vì cái bọn keo kiệt ngu đần ấy. Nay bọn “huy-gơ-nô” ấy lại muốn biến ta thành một con rối câm... Họ lầm lắm... - Nhà vua lắc đầu nhìn Pipe - Đúng thế, đúng thế, họ rất lầm. Ta biết ngươi sẽ nói với ta những gì, bá tước Pipe ạ, rằng đầu óc ta điên loạn, rằng túi ta rỗng, tiếng tăm ta xấu... Cséza đã chinh phục La Mã bằng những chiến thắng ở xứ Gaul bên kia dãy núi Anpơ. Cũng như ta, Cséza thích đàn bà, rượu và đủ trò ghê tởm. Ngươi cứ yên tâm, ta không có ý định dẫn đội kỵ binh của ta đến đánh chiếm Thượng nghị viện đáng kính của chúng ta đâu, ở châu Âu còn đủ chỗ để dành vinh quang hiển hách... - Nhà vua cắn môi. - Carlovit đến Moskva có nghĩa là ta có chuyện với Auguste chứ gì?
- Theo ý thần không phải chỉ có một mình ông ta!
- Nghĩa là...
- Nếu thần không lầm, một liên minh đang hình thành chống lại chúng ta.
- Càng hay... những ai vậy?
- Thần đang thu thập tin tức.
- Tốt lắm! Thượng nghị viện cứ việc nghĩ đằng họ, chúng ta cứ việc nghĩ đằng chúng ta... Ngươi không có gì cho ta biết nữa chứ? Cám ơn, ta không giữ ngươi nữa!
Pipe vụng về cúi chào và rút lui, có phần bàng hoàng: nhà vua có cái lối suy nghĩ bất ngờ ai cũng phải bối rối. Pipe thận trọng chuẩn bị cuộc đấu tranh chống lại Thượng nghị viện; các ông nghị vốn sợ nhất là cái món chiến phí. Sau một thời kỳ ngừng chiến ngắn ngủi, không khí lại sặc mùi chiến tranh từ sông Ranh đến vùng Baltic. Chiến tranh là con đường duy nhất dẫn đến quyền bính, vua Charles hiểu điều đó, nhưng nhà vua xông vào việc can qua quá ư hùng hổ và không đúng lúc; chỉ trông cậy vào tư chất riêng của nhà vua không đủ. Ngoài hành lang, trước cửa phòng ngủ, bá tước Pipe nắm lấy khuỷu tay Bijoockenjem lo lắng dặn:
- Ông hãy gắng tìm cách cho hoàng thượng giải trí. Hãy tổ chức một cuộc săn lớn, rời Stockholm vài ngày... Tôi sẽ kiếm đủ tiền...
Vua Charles vẫn ngồi trên giường, đôi con ngươi mở rộng như đang theo dõi các biến cố trong trí tưởng tượng. Atalia giận dỗi, vứt bỏ chiếc gối che kín đầu và cắn răng giữ áo lót, nàng sửa lại tóc. Nàng có đôi tay đẹp, đôi vai rám đỏ. Mùi xạ hương cuối cùng làm nhà vua chú ý.
- Nàng biết vua Auguste chứ? - vua Charles hỏi. Đôi mắt tròn đen láy của Atalia nhìn nhà vua không lộ một tý gì. - Người ta đồn rằng vua Auguste là tay phong lưu mã thượng nhất châu Âu, là con cưng của thần tài. Hắn chi bốn trăm ngàn đồng zloty(4) cho các cuộc vũ hội hóa trang và đốt pháo bông. Pipe thề với ta là, có lần nói đến ta, Auguste đã nhiếc rằng ta chui vào trong đôi ủng to của thân phụ ta, đáng cầm cổ lôi ra đét cho một trận.
Atalia nhả diềm đăng-ten của chiếc áo lót ra, phá lên cười vô tư lự, vui vẻ, giọng hơi khàn.
Mi mắt vua Charles rung rung.
- Ta đã bảo với nàng rằng Auguste là con người hào hoa và tài trí mà... Hắn có một đội quân riêng mười ngàn lính bộ xứ Xăc, và nuôi những ý đồ lớn. Tất nhiên, với một ông vua chui vào trong ủng của bố như ta thì nước Thụy Điển làm gì mà tự vệ nổi, khác nào một con cừu... Tuy nhiên, ta muốn tự dành cho mình cái thú nhắc lại cho Auguste câu chuyện này khi quân long kỵ binh của ta bẻ quặt tay hắn ra sau lưng giải hắn đến lều trận của ta.
- Hoan hô cậu bé! - Atalia nói. - thiếp nâng cốc mừng thắng lợi của mọi sự nghiệp! - Nàng uống một hơi cạn cốc rượu nho sông Ranh và lấy viền ren của khăn trải giường lau môi.
Vua Charles tung chân nhảy xuống đất, chăn không, áo ngủ dài chấm gót; nhà vua chạy đến chiếc bàn giấy, mở ngăn kéo bí mật lấy ra một hộp đựng chiếc vương miện nạm kim cương.
Ngồi lên mép giường, nhà vua đặt thử chiếc mũ lên mái tóc nâu của Atalia.
- Nàng sẽ trung thành với ta chứ?
- Tâu bệ hạ, có nhiều khả năng là như thế: bệ hạ trẻ, gần bằng nửa tuổi thiếp. Đôi khi, đối với bệ hạ, thiếp cảm thấy có mối tình mẫu tử! - Nàng hôn vào mũi vua Charles. Mũi nhà vua là một bộ phận kề ngay môi Atalia. xoay đi xoay lại chiếc vương miện trên tay, nàng mỉm cười âu yếm.
- Atalia, ta muốn nàng đến Warsawa... Trong vài ngày nữa, tàu Olap sẽ nhổ neo: tàu này tốt lắm. Nàng sẽ đổ bộ lên Riga. Ngựa, cỗ xe mui kín, kẻ hầu, tiền bạc, mọi thứ ta đều sẵn sàng cả. Mỗi kỳ trạm, nàng sẽ viết thư cho ta...
Atalia tò mò chăm chú nhìn cặp mắt trẻ của nhà vua: cặp mắt trong và cứng rắn, ẩn một quyết định điên rồ. Ai mà hiểu được cặp mắt sáng xanh của người phương Bắc. Atalia, quen mồm, khẽ huýt sáo, nàng có thói quen ấy từ hồi đi theo các chiến dịch của thống chế De Lucxămbua:
- Bệ hạ muốn thiếp sà vào giường vua Auguste à?
Tức thì vua Charles đi về phía lò sưởi, hai tay chống nẹ, mắt lim dim như mệt mỏi:
- Ta sẽ tha thứ cho nàng bất cứ sự phản bội nào. Nhưng nếu nàng phạm tội phản bội này, ta thề trên Kinh thánh rằng, dù nàng có trốn đi đâu, ta cũng sẽ tìm ra và ta sẽ giết chết nàng.
-------------
Chú thích:
(1) Sử gia và nhà luân lý học Hy Lạp, thế kỷ thứ 1; tác giả cuốn “Đời các bậc danh nhân Hy Lạp và La Mã”.
(2) Tiếng Đức: thị thần, nhân vật quý tộc được phép ra vào hoàng cung gần gũi nhà vua, người thân tín của nhà vua.
(3) Những người theo đạo cải lương (do thầy tu Canvin đề xướng) bị đàn áp ở Pháp, phải di cư sang nhiều nước ở châu Âu, đem vốn ra ngoại quốc làm ăn.
(4) Tiền Ba Lan.

Chương 120


khu phố Kitaigorod, người ta chỉ bàn tán về gia đình nhà Brovkin. Như vẫn thường xảy ra, thốt nhiên Sa hoàng say mê theo đuổi một ý đồ mới: gả cô quận chúa út nhà Buinoxov - thuộc dòng dõi vua Ruric(1) - cho Artamon Brovkin. Nhà vua bỏ bê mọi công việc. Các vị thượng thư và các quan triều thần uổng công đến hoàng cung yết kiến! Lần nào nội giám cũng trả lời: “Chẳng biết hoàng thượng ở đâu”.
Một buổi tối, trong khi người ta đặt những bức rào chắn ở các phố, vua Piotr đi xe đến nhà Brovkin. Ivan Artamit đang ở nhà dưới, ngồi với mấy người mugic(2) trong bếp. Dưới ánh sáng của một cây nến mỡ bò, lão đang chơi bài “thằng ngốc”(3) - lão thích vui chơi như thuở còn hàn vi. Bỗng một cái đầu đội mũ ba cạnh cúi xuống thò vào qua khung cửa thấp. Thoạt tiên, mọi người tường là một anh lính gác kho muốn vào sưởi. Nhưng rồi ai nấy sửng sốt đờ cả người. Vua Piotr khẽ cười nhìn lão chủ nhà từ đầu tới chân: trông lão thực thảm hại, chiếc áo lót lông thỏ đã sờn, cái đầu hoa râm thụt vào vai vì hoảng sợ.
Piotr Alekseevich bảo lấy nước kvas. Nhà vua ngồi xuống ghế dài. Trước mặt mấy gã mugic và đám nhân viên, Sa hoàng nói rằng:
- Ivan, ta đã làm ông mối cho nhà ngươi một lần. Ta muốn làm ông mối một lần nữa. Hãy chào đi.
Không nói được một câu, Ivan Artemist, mặt đầm đìa mồ hôi dầu, quỳ thụp xuống nền nhà đất nện, dưới chân Sa hoàng.
- Ivan - vua Piotr nói - đưa thằng cháu ra đây cho ta.
Artamon đã ở đấy rồi, đứng sau lò bếp. Vua Piotr kéo Artamon đặt đứng vào giữa hai đầu gối mình, tò mò ngắm anh chàng thanh niên:
- Này Ivan, sao ngươi lại giấu ta một thằng bé xinh trai như thế nà y? Ta xoay sở đến khổ, thế mà họ ở sờ sờ ngay trước mắt... - Nói với Artamon - Ngươi biết đọc chứ?
Artamoska hơi tái mặt, nói luôn một mạch bằng tiếng Pháp, không chút ngập ngừng, như ta rắc đậu:
- Thần nói được tiếng Pháp và tiếng Đức, thần đọc thông viết thạo hai ngoại ngữ này...
Piotr Alekseevich há hốc miệng:
- Trời đất ơi! Nhắc lại xem nào?
Artamoska nhắc lại câu đó bằng tiếng Đức. Anh chớp mắt nhìn cây nến, và nhắc lại câu đó bằng tiếng Hà Lan, nhưng lần này có ngắc ngứ.
Vua Piotr ôm lấy chàng thanh niên, hôn anh, đẩy anh ra, kéo anh vào, lắc anh ta.
- Thấy chưa kìa? A, thằng nhỏ nầy khá lắm. A, a! Cám ơn nhà ngươi, Ivan, về món quà này. Bây giờ ông hãy từ giã thằng nhỏ đi. Nhưng nhà ngươi sẽ không phải tiếc đâu: hãy đợi đấy ít lâu, những ai thông minh chẳng bao lâu ta sẽ phong tước bá cho họ.
Vua Piotr ra lệnh dọn bữa ăn tối. Ivan Artemist khẩn khoản xin nhà vua quá bộ lên nhà trên vào phòng khách:
- Ở đây không tiện!
Đứng sau lò bếp, lão vội vàng đội bộ tóc giả, mặc áo lễ. Lão đã bí mật sai đày tớ đi gọi Xanka. Người quản gia đã đứng ở cửa, tay cầm gậy cán bạc(4).Vua Piotr chỉ cười:
- Ta không lên nhà trên đâu, ở đây ấm cúng hơn. Hê, cô đầu bếp đâu, có gì trong lò dọn tất cả ra đây!
Nhà vua đặt Artamon ngồi cạnh mình và nói chuyện với anh bằng tiếng Đức. Nhà vua bông đùa, thết vodka đám nhân viên và mugic. Nhà vua bắt họ hát.
Đứng cạnh cửa, mấy lão mugic già đành phải tuân lệnh cất tiếng hát, giọng như gấu kêu. Bỗng Xanka nhảy một bước vào bếp: mặt thoa phấn, bận đồ lụa hở đến nửa người(5). Vua Piotr nắm tay nàng, đặt nàng ngồi một bên. Người thiếu phụ mạnh dạn hòa giọng cùng các mugic, giọng nàng dịu dàng ngân nga, mặt kề gần ngọn nến, nàng nhìn vua Piotr với đôi mắt hóm hỉnh, trong sáng... Mọi người vui chơi đến quá nửa đêm.
Sáng hôm sau, Piotr Alekseevich, cùng với các chàng phù rể, đến nhà vương hầu Buinoxov hỏi Natalia. Cuộc thương thuyết kéo dài cả một tuần lễ; đem theo một đoàn tới năm mươi người, khi thì vua Piotr đến bàn bạc với nhà Brovkin, khi thì đến nhà Buinoxov. Vừa thương lượng, vừa tiệc tùng ở các buổi dạ hội của thanh niên nam nữ. Đám cưới tổ chức linh đình vào ngày lễ Cầu xin. Ivan Artemist tiêu mất một món tiền lớn.
Mười lăm ngày sau, Xanka cùng chồng khởi hành đi Paris.
Cho đến Viazma họ đi thong thả cùng với nhiều đoàn xe khác. Họ mất nhiều thời giờ đỗ lại ở các quán cho ngựa ăn. Tuyết xuống khá nhiều, trời trong sáng, đường dễ đi.
Đến quán trọ ở Viazma, Alekxandra Ivanovna giận dỗi với chồng. Volkov muốn nghỉ lại đây, tắm hơi nước, và ngày hôm sau khi tan buổi lễ chầu, đến thăm viên tổng trấn là một người họ xa, và ăn bữa trưa ở đó. Rồi còn phải đóng lại móng ngựa, làm việc này việc nọ.
- Tôi muốn đi nhanh hơn. Đi chậm như rùa thế này không chịu được. - Alekxandra Ivanovna nói với chồng. - Đến Riga sẽ nghỉ.
- Xasa! Tôi bảo là từ Viazma trở đi đường xá nguy hiểm. Nhiều đoàn xe đã ùn lại ở đó, có tới năm trăm cỗ xe trượt tuyết, khó mà đi qua được.
- Tôi không biết.
Hai vợ chồng ăn ở trên gác, trong một gian phòng sạch sẽ có thắp mấy ngọn đèn thờ. Vaxili mặc áo ngắn lót lông cừu cởi khuy; Alekxandra Ivanovna mặc áo nhung nâu tay dài, vai khoác khăn len lông xổ, mái tóc vàng bện thành đuôi sam quấn quanh đầu. Nàng không ăn chỉ nhấm nhấm mẩu bánh mì. Chỉ vì nôn nóng mà mặt nàng hốc hác, mắt thâm quầng. Lạy Chúa, đàn bà đâu có một.
Volkov gượng gạo nhai miếng giăm-bông muối:
- Em là ai? Thật là tội nợ! Không lúc nào sống cho yên ổn. Không bao giờ thấy dịu dàng, em không ngủ, không ăn, không nói năng như mọi người... Cái gì lôi kéo em đi đến cùng trời cuối đất? Để làm gì? Muốn nhảy điệu vũ nhịp ba với các vua chúa ư? Nhưng vua chúa họ có muốn khiêu vũ với em không đã?
- Tôi chịu ngồi nghe anh nói chỉ vì chúng ta bị nhốt trong cái quán này mà thôi.
Volkov buông chiếc đĩa còn cắm miếng giăm-bông muối, nhìn vợ hồi lâu, nhìn cặp lông mày cao trên vầng trán nhíu lại vì lo âu và thơ mộng, đôi mắt xanh thẫm lơ đãng - nhìn đi tận đâu đâu ai mà biết được.
- Ồ, Alekxandra, tính tôi lành và nhẫn nại.
- Anh có kêu lên tôi cũng không cần.
Volkov lắc đầu, vẻ trách móc. Hắn thấy xấu hổ, thậm chí có lẽ hắn thấy yêu vợ là sai, nhưng hắn yêu vợ; sự thực là thế. Trong những trận cãi cọ, khi vợ nói những lời xúc phạm, hắn cảm thấy bối rối. Bây giờ cũng vậy: hắn biết mình sẽ nhượng bộ tuy rằng có là điên mới liều mạng đi từ Viazma đến Smolensk, theo đường rừng không có bạn đường tin cẩn. Người ta kể những chuyện rùng rợn về quãng đường này: tên ataman Exmen Xokol tàn sát khách lữ hành. Ngay giữa ban ngày. Lữ khách thường trông thấy trên đường một người cao lớn, đội mũ nhọn, đi giầy bện bằng vỏ gai, dao găm giắt thắt lưng. Mồm hắn rộng đến mang tai, răng như bàn cuốc. Hắn huýt còi một cái là ngựa ngã quỵ ngay xuống. Lúc ấy thì chỉ còn có việc đọc kinh cầu hồn thôi.
- Nếu tôi sợ kẻ cướp, tôi đã ở lại Moskva rồi! - Alekxandra Ivanovna nói. - Chúng ta có ngựa tốt, có thể đi thoát được. Vả lại có xảy ra sự gì cũng còn hơn, tôi còn có chuyện mà kể. Chẳng lẽ lại đi kể chuyện anh ngáy ngủ như thế nào ở quán trọ.
Nàng gạt đĩa ăn, gọi người hầu gái, một cô gái người Kalmys, sai đi lấy quyển vở và chuẩn bị giường. Quyển vở ấy là bản dịch chương nói về người xứ Gole trong bộ Sử ký của Xamuen Pufendorf, do em trai nàng, Actamon viết. Nàng đặt quyển vở trên đầu gối, cúi xuống rất thấp để đọc. Volkov tì tay vào má, nhìn cái đầu xinh đẹp của Xanka, cái cổ với những búp tóc xoăn. Quả là một bà hoàng trong truyện cổ tích! ai bảo được rằng cách đây không lâu chính nàng còn cắt cỏ chở phân? Nàng sẽ đến Paris không chút sợ hãi, và sẽ kể đủ chuyện phù phiếm với nhà vua...
- A, Xania, Xania, nếu em có thể sống bình tĩnh lại và có mang, anh mong muốn biết bao được cùng em sống trong cảnh thanh bình ở nơi quê nhà!
Xanka đọc, môi mấp máy:
Thêm vào đó, người Pháp tính tình vui vẻ, lanh lợi thích giao du và lịch sự; họ thạo cách ăn mặc, trang điểm, thạo cách đi đứng và có một vẻ đẹp tự nhiên. Nhiều người Pháp tự hào là đệ tử trung thành của thần Vệ Nữ; họ tìm nguồn khoái lạc trong tay giai nhân và lấy làm cực kỳ sung sướng được miệt mài trong các chuyện đó. Dân tộc khác mà muốn học đòi người Pháp và bắt chước họ thì chỉ tự làm mất danh dự và trở nên lố bịch...
- Đáng lẽ ngồi trơ như phỗng không làm gì... - Xanka ngẩng đầu lên. Volkov vừa định ngáp, hắn giật mình... - Dọc đường, lẽ ra anh phải tập đánh gươm, đấu kiếm!
- Sao vậy?
- Đến Paris, anh sẽ biết tại sao!(6).
- Thôi, cô để cho tôi yên! - Volkov tức giận rời bàn ăn; hắn ấn chiếc mũ lông xụp xuống tận mắt, bước ra sân xem ngựa. Trên mái tuyết phủ của dãy nhà xe, vừng trăng mờ sương treo rất cao. Trên trời, không một vì sao, chỉ có những kim tuyết lấp lánh từ từ rơi xương. Không khí yên tĩnh làm lông mũi cũng giá cứng. Dưới mái hiên, những con ngựa đang nhai trong bóng tối đen như mực. Người đi tuần đêm uể oải đánh mõ ở ngôi nhà thờ nhỏ gần đấy.
Một con chó lại gần Vaxili, ngửi chiếc ủng cao bằng dạ nhuộm, và ngẩng đầu, - trông rõ cả hàng lông mi, nhìn hắn với một vẻ ngạc nhiên như chờ đợi cái gì. Bỗng nhiên, Vaxili thấy thiết tha không muốn rời khỏi cái cảnh yên tĩnh nơi quê nhà này, không muốn đi Paris nữa... Buồn bã, hắn quay đầu lại, đôi ủng dạ khẽ kêu lạo xạo, - trên kia, trong gian nhà ghép bằng gỗ cây một ánh sáng dịu lọt qua cửa sổ lắp mi-ca: Xanka đang đọc Pufendorf... Thôi đành vậy, số trời đã định...
Trời hoàng hôn đỏ chói, rực một ánh sáng dữ dội, hiện ra ở bên trên các ngọn cây của cánh rừng. Hai bên đường, thân cây và những rễ cây vặn vẹo vùn vụt diễu qua, những cành cây nặng trĩu tím ngắt quất vào mui chiếc xe hòm, rắc xuống từng đám bụi tuyết.
Vaxili thò người ra khỏi tấm yếm da đến ngực, cầm cương hò hét như điên. Xác người đánh xe bị đánh chết, nằm lăn trên đường, cách đây rất xa, trước chỗ đường ngoặt... Những con ngựa tốt, đóng thẳng hàng một nối đuôi nhau, phi nước đại, thở phì phì: con ngựa ô đóng đầu càng, mình phủ đầy sương giá, con ngựa hồng chân đen đóng ở giữa, và con ngựa cái nhỏ trắng và bất kham đóng sát xe. Chiếc xe nhảy chồm chồm, qua những ổ gà. Bọn cướp đuổi theo sau, rải rác trên đường. Khắp cánh rừng vang tiếng kêu la thất thanh.
Năm phút trước, ở chỗ đường ngoặt, nơi con đường làng vắt qua đường cái, một bọn mugic cao lớn nấp sau một đụn rơm đánh đống từ năm ngoái, nhảy bổ ra: chừng mười tên cầm rìu và gậy nhọn. Người đánh xe sợ chết khiếp, định kìm ngựa lại... Bốn tên cướp xông vào bầy ngựa, dữ tợn hét lớn: “Dừng lại, dừng lại!”.
Những tên khác, chân thụt trong tuyết, chạy lại chỗ chiếc xe. Người đánh xe buông cương giơ tay đeo bao xua bọn cướp, bị một gậy giáng vào đầu.
Sự việc diễn ra trong khoảnh khắc, hành khách không kịp trấn tĩnh lại... Con ngựa cái nhỏ đóng sát xe đã cứu thoát họ: nó chồm lên, nhấc bổng hai tên cướp bám vào hàm thiếc, nó đá nó cắn.
Xanka hất cái yếm da: “Cầm lấy cương!”. Nàng giật lấy khẩu súng ngắn của chồng đeo ở ngực bên trong chiếc áo lông cừu, bắn vào một bộ mặt râu ria xồm xoàm. Nghe tiếng súng nổ và nhất là bị bất ngờ vì thấy một người đàn bà bắn súng, bọn mugic nhảy lùi lại... Mấy con ngựa phóng đi. Volkov nắm lấy cương, xe lao đi như bay. Xanka lấy báng súng đập vào lưng chồng liên hồi: “Nhanh lên, nhanh lên!”
Cuộc săn đuổi đã chấm dứt. Mình ngựa bốc hơi.
Phía trước đã thấy đuôi một đoàn xe dài. Volkov cho ngựa đi bước một. Hắn ngoảnh lại tìm chiếc mũ trong xe và trông thấy cặp mắt tròn xoe, lỗ mũi phập phồng của Xanka:
- Thế nào, cô hài lòng rồi chứ? Cứ không tin là có Exmen Xokol nữa đi? Rõ đồ ngốc, ngu như lợn! Không có xà ích thì xoay sở làm sao bây giờ? Tội nghiệp, tên mugic ấy chịu thương chịu khó là thế... Chẳng qua chỉ tại cái đầu óc đàn bà ngu ngốc của cô, đồ quỷ cái!
Chồng nhiếc móc như vậy mà Xanka cũng chẳng để ý. A, đấy, sống thế mới ra sống chứ, đâu có phải là một giấc ngủ ù lì tẻ ngắt!
------------
Chú thích:
(1) Thủ lĩnh bộ lạc Vareg, được coi như người sáng lập đế quốc Nga.
(2) Nguyên là nông dân lao động nhưng làm đủ nghề: lao công, đi ở và các nghề khác có tính cách bán chuyên nghiệp như làm thợ mộc, thợ nề, làm bánh... Tầng lớp lao động cùng khổ xuất thân từ nông dân.
(3) Một lối chơi bài đơn giản, vui, của tầng lớp dưới.
(4) Ở các gia đình quyền quý, trong các buổi chiêu đãi trọng thề người quản gia bận chế phục tay cầm gậy cán bạc đứng trước cửa gõ gậy xuống sàn, hô tên tuổi chức tước quan khách và nghi tiết.
(5) Kiểu trang phục đề hở ức, vai, lưng.
(6) Ý nói: đến Paris, nhiều người sẽ ve vãn tôi, anh phải biết đọ kiếm để giữ lấy vợ anh và bảo vệ danh dự của anh.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét