Thứ Ba, 19 tháng 11, 2019

Pie Đệ Nhất - Phần II (Ch 31 - Ch 60)

Pie Đệ Nhất

Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000

Chương 31

Suốt mùa đông người ta tập hợp đội vệ binh quý tộc. Gọi bọn lãnh chúa từ các miền nông thôn thăm thẳm đến là một việc khó khăn. Đại đô thống Vaxili Vaxilievich Golixyn phát đi những pháp lệnh nghiêm ngặt đe dọa tước quyền ưu đãi của họ và làm họ phá sản. Bọn địa chủ quý tộc chẳng vội gì rời bỏ chỗ nằm của họ trên bếp lò ấm áp:
- Ý kiến gì mà lạ lùng vậy: chinh phục Krym! Nhờ ơn Chúa, chúng ta đã có được một nền hòa bình vĩnh cửu với phiên vương xứ Krym, chúng ta nộp cống vừa phải. Việc gì mà làm phiền nhiễu những người quý tộc? Bọn Golixyn núp sau chuyện này, chúng muốn kiếm chác công danh trên lưng người khác đấy thôi!
Họ viện cớ ốm đau, nghèo khổ, họ lẩn trốn. Có người giở mánh khóe xỏ xiên ra: mùa đông dài đằng đẵng; rảnh việc ngồi buồn, họ nghĩ ra thiếu gì mẹo! Bọn dapife Boris Dolgoruki và Yuri Serbaty lẩn tránh được lệnh gọi nhập ngũ, bèn cho binh lính của họ mặc quần áo đen; chính họ cũng mặc toàn đen từ đầu đến chân, cưỡi ngựa ô, trông tựa những người chết từ mồ chui lên, rồi họ tới chỗ quân đội đóng. Mọi người suýt nữa thì chết vì sợ hãi. Trong các trung đoàn người ta nói:
- Rồi sẽ có tai họa cho mà xem: Chúng ta sẽ không sống nổi qua chiến dịch này.
Vaxili Vaxilievich nổi giận bèn viết thư về Moskva cho Fedor Leontievich Saklovity do Vaxili Vaxilievich cắt đặt làm người giúp việc thân cận của Sofia:
- Nhờ người xin cho ta một sắc chỉ trị tội những kẻ xúc phạm đến ta. Vì đã xử sự như những kẻ ăn cướp, chúng phải bị tước hết của cải. Phải đem nhốt chúng chung thân trong một nhà tu kín, phân phát làng xóm của chúng cho những người quý tộc thiếu thốn, và phải hết sức nghiêm khắc để nêu gương cho kẻ khác phải sợ.
Sắc chỉ được thảo ra. Nhưng Vaxili Vaxilievich do từ tâm, đã tha thứ cho những kẻ can phạm đến khóc lóc xin tha tội. Chuyện này vừa mới im được chẳng bao lâu thì lại có tin đồn đại trong quân đội: hình như có kẻ ban đêm lén đặt một chiếc quan tài trong tiền sảnh ngôi nhà gỗ của vương hầu Golixyn. Mọi người run sợ thì thầm bàn tán về cái việc khủng khiếp này. Người ta đồn rằng, hôm đó Vaxili Vaxilievich uống rượu say, nhảy chồm chồm trong gian tiền sảnh tối mò, vung gươm chém lia lịa trong bóng tối trống rỗng. Toàn là những điềm gở. Đám người ở những đoàn xe vận tải đến đã trông thấy sói trắng hú lên một cách khủng khiếp trên những ngôi mộ cổ ở thảo nguyên. Ngựa nghẽo bỗng lăn kềnh ra chết, chẳng hiểu tại sao. Một đêm tháng ba, gió nổi đùng đùng, nhiều người đã nghe thấy con dê đực của đoàn xe quân lương của một trung đoàn bỗng rống lên tiếng người: “Sẽ có một tai hoạ!”. Người ta định lấy gậy đập chết con dê đực nhưng nó đã chạy thoát ra thảo nguyên.
Tuyết đã tan; một làn gió êm dịu từ phương nam thổi đến, lau sậy xanh rờn trên các bờ sông, bờ hồ.
Nét mặt Vaxili Vaxilievich tối sầm hơn cả một đám mây tụ bão. Có nhiều tin tức không lấy gì làm vui lắm từ Moskva đến: người ta bảo rằng ở điện Kreml, Mikhail Alegukovich Seckaski, một đại thần thân cận với Sa hoàng Piotr, đã lên tiếng và bọn quý tộc quyền thế đã lắng tai nghe hắn. Người ta nhạo báng chiến dịch Krym. Họ nói rằng:
- Phiên vương xứ Krym chẳng còn buồn đợi Vaxili Vaxilievich đến Krym nữa.
Ở Constantinop và toàn châu Âu, người ta coi chiến dịch này chẳng ra quái gì hết. Bọn Golixyn quả là rất tốn kém cho Ngân khố của Sa hoàng.
Thậm chí giáo trưởng Ioakim xưa kia vẫn đứng về phe Vaxili Vaxilievich cũng bỗng nhiên quẳng những chiếc áo lễ và áo nẹp của Golixyn tặng ra khỏi thánh đường Con Chiên và cấm không cho ai mặc để làm lễ.
Vaxili Vaxilievich viết thư cho Saklovity những bức thư đầy lo ngại, nhờ hắn để mắt theo dõi Seckaski cẩn thận và tìm cách đừng để vị giáo trưởng ngồi lâu trên gác trong phòng Sofia. “Còn về phần bọn quý tộc quyền thế thì lòng tham lam của họ đã chi phối họ từ lâu, thậm chí phải bỏ ra một kopeik cho một công cuộc lớn lao, họ cũng tiếc...”
Nhiều tin tức chán nản từ ngoại quốc đưa đến. Vua nước Pháp mà hai viên sứ thần Yakov Dolgoruki và Yakov Mysetski sang khẩn khoản hỏi vay ba triệu bảng đã từ chối và thậm chí không tiếp. Về viên đại sứ Nga Usakov ở Hà Lan, người ta viết rằng: “Cả ông ta lẫn bọn tùy tùng đều là những tên kẻ cướp chính cống; họ đã tiệc tùng chè chén, ăn nói lỗ mãng ở nhiều nơi làm tổn hại đến danh dự các đấng Sa hoàng...”
Cuối tháng năm, Golixyn cầm đầu một đạo quân một trăm ngàn người, cuối cùng đã lên đường chinh chiến, tiến về phương nam. Trên sông Samara, hắn hợp quân với viên hetman(1) miền Ukraina, Xamoilovich.
Đạo quân tiến chậm chạp, kéo theo sau những đoàn xe vận tải nhiều vô kể. Họ đã vượt qua những pháo đài nhỏ bằng gỗ và những đồn biên phòng, tiến vào thảo nguyên Dikoe Pole. Trên dãy đồng bằng hoang vu nóng như thiêu như đốt, đoàn người chật vật tiến bước trong cỏ cao ngang vai. Lũ chim quen rỉa xác súc vật bay lượn trên bầu trời nóng bỏng. Xa xa phía chân trời, ảo ảnh chập chờn ẩn hiện. Mặt trời lặn rất nhanh khi vàng, khi xanh. Thảo nguyên vang động tiếng xe kêu cót két, tiếng ngựa hí. Khói từ những đám lửa đốt bằng phân bò phơi khô bốc lên, toát ra nỗi buồn nhớ những thế kỷ đã qua. Đêm xuống nhanh. Ánh sao đỏ rực trông thật khủng khiếp. Thảo nguyên trống rỗng: không có đường to mà cũng chẳng có đường mòn. Mấy trung đoàn tiên phong tiến sâu về phía trước, chẳng gặp một bóng người nào. Rõ ràng là bọn Tarta định nhử đạo quân Nga vào vùng đất cát khô cằn. Càng ngày càng gặp nhiều những khe suối đã khô cạn. Nơi đây chỉ có những người Cô-dắc từng trải mới biết được ở đâu có nước.
Bấy giờ đã vào trung tuần tháng bảy rồi mà xứ Krym vẫn chỉ là một ảo ảnh. Các trung đoàn đóng rải ra suốt từ đầu này đến đầu kia thảo nguyên. Ánh sáng chói chang, tiếng châu chấu đập cánh kêu lách tách, làm người ta choáng váng. Chim uể oải sà xuống đậu trên sườn những xác súc vật chương phình.
Nhiều xe vận tải đã phải bỏ lại dọc đường. Nhiều nông dân trong đoàn xe chết khát đã nằm lại với những chiếc xe. Có kẻ đi về phương Bắc, về phía sông Dniep. Trong các trung đoàn, người ta thì thầm oán thán... Bọn đô thống, bọn đại tá và các chỉ huy quân sự khác họp nhau lại trước lều vải của Golixyn vào lúc giờ ăn; họ lo ngại nhìn lá cờ rủ xuống một cách thảm hại. Nhưng chẳng ai dám đến gặp Golixyn để nói: “Nên quay trở về thôi trong khi còn đủ thì giờ. Chúng ta càng tiến xa thì tình hình lại càng khủng khiếp. Đi quá Perekov, chỉ có những vùng cát chết mà thôi”.
Trong những giờ phút dó. Vaxili Vaxilievich cởi áo, tháo ủng nằm nghỉ trong lều. Nằm dài trên mấy tấm thảm, hắn đọc Plutac (2) bằng tiếng La-tinh. Những hình bóng vĩ đại từ nhưng trang sách hiện lên đem lại can đảm cho tâm hồn chán nản của Vaxili Vaxilievich: Alekxandr(3), Pompe (4), Xipion (5), Luculut (6), Juyle Xêda (7) đang vung lên những huy hiệu La Mã có hình chim ưng, Vinh quang! Vinh quang! Hắn cũng lấy được thêm sức mạnh trong những lá thư của Sofia mà hắn đem ra đọc lại:

Nguồn ánh sáng của em, anh Vaxia của em! Chào anh, chúc anh mạnh khỏe mãi. Cầu Chúa ban cho anh sự chiến thắng quân thù. Còn em, nguồn ánh sáng của em ạ, em khó mà tin được rằng anh sẽ trở về để sống bên em và những người thân thuộc. Em chỉ tin khi nào em lại được ôm anh trong đôi cánh tay của em, nguồn sáng của em ạ. Tại sao trong thư anh lại dặn em phải cầu nguyện; làm như trước mặt Chúa em là kẻ có tội và không xứng đáng. Tuy nhiên, dầu rằng có tội, em cũng vẫn trông mong vào lòng từ bi của Chúa. Em xin thề với anh như vậy! Em vẫn cầu nguyện để được thấy nguồn ánh sáng của em có hạnh phúc. Đến đây, chúc anh luôn luôn và mãi mãi mạnh khỏe, nguồn ánh sáng của em...”.

Khi oi bức đã dịu bớt. Vaxili Vaxilievich đội mũ, mặc chiến bào vào rồi từ trong lều đi ra. Trông thấy hắn, bọn đại tá và đại úy nhảy lên ngựa.
Kèn thổi, tù và rúc lên ngân nga kéo dài. Lúc này đạo quân tiến ban đêm và suốt buổi sáng cho đến trưa, trước khi trời trở nên nóng bức quá đỗi.
Hôm đó cũng vậy. Từ trên đỉnh một ngôi mộ cổ, Vaxili Vaxilievich đưa mắt nhìn làn khói nhỏ nhiều vô kể của những đống lửa trại, những đám quân trông như những vệt đen ngòm, những đoàn xe quân lương nối đuôi nhau thành những hàng dài lẩn trong sương mù. Hôm đó sương mù lại dày đặc khác thường, xung quanh bụi bốc mù trời trông như một bức tường thành. Người ta thở hít một cách khó khăn trong cái không khí ngột ngạt ấy. Ánh mặt trời lặn nhuộm đỏ tía một nửa bầu trời.
Từng đàn chim đang bay, dường như tìm lối thoát... Mặt trời lặn, như phình to ra, mờ mờ, trông thật khủng khiếp... Ánh sao vừa mới mọc đã bị một màn sương mỏng che lấp. Một ánh lửa lập lòe bốc khói tỏa ra khắp bầu trời. Một lản gió nóng hôi hổi đột nhiên nổi dậy.
Những ngọn lửa chập chờn hiện ra rõ rệt hơn và vây kín đạo quân, Một tốp kỵ sĩ dừng ngựa trước ngôi mộ cổ. Một người trong bọn họ cho ngựa nặng nề chồm lên đồi đến tận chỗ lều, rồi nhảy xuống đất, sửa lại chiếc mũ lông cao cho ngay ngắn. Vaxili Vaxilievich nhận ra khuôn mặt béo phị và bộ ria bạc phơ của viên hetman Xamoilovich.
- Tai họa rồi, vương hầu ạ, - lão nói nhỏ. - Bọn Tarta đã châm lửa đốt thảo nguyên.
Bộ ria của viên hetman rủ xuống hai bên mép che lấp một nụ cười diễu cợt; mắt lão tối sầm lại.
- Tứ phía đều cháy, - lão nói, tay cầm roi vung tròn.
Vaxili Vaxilievich chăm chú nhìn ánh lửa cháy một hồi lâu.
- Thế thì chúng ta sẽ đèo bộ binh trên hông ngựa rồi vượt qua lửa.
- Nhưng làm thế nào mà tiến quân được trên những vùng đầy tro? Không có rơm cỏ mà cũng chẳng có nước. Chúng ta sẽ bỏ mạng mất thôi, vương hầu ạ.
- Vậy phải lui quân ư?
- Vương hầu cho thế nào là phải thì làm... Quân Cô-dắc sẽ không chịu tiến vào một thảo nguyên cháy trụi đâu!
- Ta sẽ lấy roi quất chúng, bắt chúng phải vượt qua lửa! - Cơn tức giận nồi lên, Vaxili Vaxilievich không còn tự chủ được nữa. Hắn tức tối đi đi lại lại trên ngôi mộ cổ, gót sắt nhỏ của ủng hắn đâm thủng mặt đất khô. - Đã từ lâu ta biết bọn Cô-dắc đi theo ta một cách miễn cưỡng... Thật là lố bịch: chúng nó ngủ gật trên lưng ngựa... Ta đánh cuộc rằng xưa kia chúng phục vụ phiên vương xứ Krym một cách vui vẻ hơn. Còn nhà ngươi nữa, hetman, ngươi cũng lừa dối ta... Liệu hồn đấy... ở Moskva, có những kẻ quyền cao chức trọng hơn ngươi mà còn bị túm tóc lôi xềnh xệch lên đoạn đầu đài... Còn ngươi, con đồ thầy tu kia, ngươi buôn bán nến và cá trước đây đã lâu chưa?
Lão Xamoilovich béo phị thở hồng hộc như một con bò mộng khi nghe những lời nhục mạ đó. Nhưng lão thông minh và quỷ quyệt; lão nín lặng. Lão vừa nhảy lên mình ngựa vừa khịt mũi, cho ngựa xuống đồi rồi biến vào sau đám xe ngựa.
Vaxili Vaxilievich cho gọi lính kèn, tiếng kèn khàn khàn nổi lên trên thảo nguyên mù khói. Kỵ binh, bộ binh, các đoàn xe vận tải bắt đầu lục tục lên đường vượt qua lửa.
Tờ mờ sáng hôm sau, họ thấy không thể nào tiến xa hơn được nữa: thảo nguyên trải ra đen sì, im lìm như chết. Chỉ có những cột lốc bụi bay vật vờ trên thảo nguyên. Gió nam thổi mạnh hơn, xua những đám mây tro bay đi. Đội quân tuần tiễu Cô-dắc mà họ trông thấy ở đằng xa đã quay ngựa lộn lại trước tiên.
Đến trưa, bọn đô thống, bọn đại tá và bọn ataman (8) hợp nhau lại trong đoàn xe. Lão hetman nét mặt lầm lì, đi ngựa đến, đút chiếc gậy chỉ huy của lão vào ống ủng, rồi châm tẩu. Vaxili Vaxilievich đặt bàn tay đeo đầy nhẫn lên áo giáp và cố nén lòng kiêu kỳ, nghẹn ngào nói:
- Ai đi ngược được ý muốn của Chúa? Sách đã có câu: Ngươi hãy chế ngự lòng kiêu hãnh, vì ngươi sẽ phải chết. Chúa đã đưa đến cho chúng ta một tai họa lớn... Trên hàng trăm dặm xung quanh đây không có rơm cỏ, không có nước. Ta không sợ chết nhưng ta sợ nhục. Hỡi các ngài đô thống, hãy suy nghĩ rồi quyết định: phải làm gì bây giờ?
Sau một hồi suy nghĩ, bọn đô thống, đại tá, ataman trả lời:
- Phải rút quân ngay về phía sông Dniep, không nên chậm trễ.
Và thế là chiến dịch Krym kết liễu không một chút vinh quang. Đạo quân vội vã rút lui, chết mất nhiều người, bỏ lại nhiều xe cộ. Tới tận Poltava, đạo quân mới dừng lại.
-------------
Chú thích:
(1) Thủ lĩnh người Cô-dắc.
(2) sử gia Hy Lạp cổ (50-125 trước công nguyên) tác giả “Đời các danh nhân Hy Lạp và La Mã”.
(3) Alekxandre đại đế (356 - 323 trước công nguyên), vua xứ Maxeđoan, nổi tiếng vi tải thao lược và chiến công lửng lẫy.
(4) Tướng tài thời La Mã cổ (107- 48 trước công nguyên).
(5) Tướng tài thời La Mã cổ, đã chiến thắng Anniban ở Zama (235 - 183 trước công nguyên).
(6) Tướng La Mã cổ, nổi tiếng xa hoa, cùng thời với Pompe.
(7) Một trong những tướng tài giỏi nhất thời cổ, lập nhiều chiến công oanh liệt, sau trở thảnh tổng tài của La Mã (101- 44 trước công nguyên)
(8) Ataman: chỉ huy Cô-dắc.

Chương 32

Bọn đại tá Xolonina, Lizogup, Zabela, Gamaley, viên đại uý Ivan Mazeppa và viên tổng bí thư Kochubey, bí mật đến gặp Vaxili Vaxilievich trong lều, nói với hắn:
- Chính bọn Cô-dắc đã theo lệnh lão hetman châm lửa đốt thảo nguyên. Đây là một lá đơn tố cáo hắn. Vương hầu đọc đi rồi cấp tốc gửi về Moskva, bởi vì chúng tôi không còn sức chịu đựng nổi sự áp chế của lão ta nữa. Lão đã làm giàu bằng cách làm phá sản những người quý tộc; lão cấm những người chỉ huy Cô-dắc không được đội mũ trước mặt lão. Ai lão cũng chửi. Lão nói dối người Nga, lão thông đồng với người Ba Lan và cũng nói dối họ. Lão muốn chiếm lấy xứ Ukraina vĩnh viễn và tước bỏ quyền lợi của chúng tôi. Triều đình Moskva cần phải gửi cho chúng tôi sắc chỉ để bầu một viên hetman khác và truất Xamoilovich...
- Nhưng tại sao lão hetman lại không muốn đánh bại bọn Tarta? - Vaxili Vaxilievich hỏi.
- Lão không muốn như thế, - viên đại úy Ivan Mazeppa đáp lại, - bởi vì chừng nào mà người Tarta còn mạnh, thì người Nga các ông yếu: nhưng nếu các ông đánh bại người Tarta, thì chẳng bao lâu cả xứ Ukraina cũng sẽ trở thành một thái ấp của triều đình Moskva... Nhưng về vấn đề này lão đã nói dối! Người Ukraina chúng tôi là đàn em của người Nga, chúng ta cùng một tín ngưỡng và chúng tôi rất sung sướng được sống dưới chính quyền của Sa hoàng ở Moskva.
- Đúng lắm, - bọn đại tá đầu cạo trọc, chân tóc xanh rì, có điểm một chỏm tóc, xác nhận, mắt nhìn xuống đất. - Miễn là Moskva xác nhận những quyền lợi riêng của bọn quý tộc chúng tôi.
Vaxili Vaxilievich hồi tưởng lại những đám mây tro đen ngòm, những nấm mồ nhiều vô kể để lại trong thảo nguyên, những đống xương ngựa rải rác trên đường. Mặt đỏ bừng bừng, hắn nhớ lại hắn đã mơ tưởng về những chiến dịch của Alekxandr đại đế như thế nào. Trong óc hắn hiện ra những hành lang chật hẹp của điện Kreml, ở đó bọn đại thần, những kẻ thù của hắn, rồi đây có lẽ sẽ vừa chào hắn vừa đưa tay lên che ria để giấu một nụ cười mai mỉa.
- Thế ra chính lão hetman đã đốt thảo nguyên?
- Vâng, - bọn đại tá xác nhận.
- Được! Các ngài sẽ được như ý.
Ngay hôm đó Vaxili Tyktov, sau khi đã chọn lấy hai con ngựa, cấp tốc lên đường đi Moskva, mang theo bản tố cáo lão hetman khâu giấu trong mũ lông. Khi đạo quân đã lập xong doanh trại ở trước Poltava thì thư trả lời của các đấng Sa hoàng đến nơi:

Vì Xamolovich không được lòng tướng tá và tất cả quân đội Tiểu Nga, nay ra lệnh thu hồi lại không cho hắn sử dụng lá cờ của các đấng Sa hoàng, chiếc gậy chỉ huy và tất cả các phù hiệu quân sự khác, rồi cho người áp giải chặt chẽ, giải hắn đến những thành phố Đại Nga.
Tướng tá và tất cả quân đội Tiểu Nga sẽ bầu người nào vừa ý họ thay hắn làm hetman...

Ngay đêm hôm đó, bọn xtreletz đem xe của một đoàn vận tải đến bao vây tổng hành doanh của lão hetman; đến sáng họ bắt được lão trong nhà thờ của quân đội, vứt lão lên một chiếc xe ngựa ọp ẹp rồi dẫn lão đến chỗ Golixyn để hỏi cung. Đầu lão hetman quấn một miếng vải ướt, mắt lão đỏ ngầu. Lão hoảng sợ, nhắc đi, nhắc lại:
- Nhưng thưa vương hầu Vaxili Vaxilievich, bọn chúng nói điêu. Tôi xin thề với vương hầu là bọn chúng nói điêu. Tất cả việc này là do Mazeppa, kẻ thù của tôi. - Trông thấy Mazeppa, Gamaley và Xolonina bước vào lão đỏ mặt tía tái, run lên vì tức giận. - Vương hầu nghe chúng hay sao? Lũ chó này chỉ muốn có một điều thôi: bán xứ Ukraina cho người Ba Lan.
Gamaley và Xolonina tuốt gươm xông lại phía lão. Nhưng bọn bách binh trưởng của quân xtreletz đẩy họ lùi ra. Đêm đó người ta xích lão hetman lại rồi giải về phương Bắc.
Cần phải cấp tốc bầu một viên hetman mới: các trung đoàn Cô-dắc đã đập vỡ những thùng rượu mạnh của đoàn xe vận tải, cắt cổ đám gia nhân của lão hetman, lấy giáo xuyên người từ hậu môn lên một viên đại tá mà mọi người đều ghét cay ghét đắng. Tiếng hát, tiếng kêu la vang lên inh ỏi. Tiếng súng nổ đì đoành khắp doanh trại. Sự xôn xao cũng lan cả đến các trung đoàn Moskva.
Mazeppa bước vào trong lều của Vaxili Vaxilievich, tuy không được gọi đến. Hắn mặc một chiếc áo khoác ngoài bằng da xám, đội một chiếc mũ bình thường bằng lông cừu, lưng đeo một sợi dây xích bằng vàng lủng lẳng một thanh gươm quý. Ivan Xtepanovich giàu có; con nhà gia thế; hắn đã nhiều lần sống một thời gian dài ở Ba Lan và ở Áo. Trong chiến dịch, hắn đã để râu như một người Đại Nga và cắt tóc theo kiểu Moskva. Hắn chào với một vẻ đường hoàng như kẻ bằng vai bằng vế rồi ngồi xuống. Cặp mắt lồi, thông minh nhìn Vaxili Vaxilievich chằm chằm, mấy ngón tay dài xương xẩu đưa lên bứt bứt chòm râu.
- Có lẽ ngài vương hầu muốn nói chuyện bằng tiếng La-tinh?
Vaxili Vaxilievich lạnh lùng gật đầu. Mazeppa không hạ thấp giọng, bèn nói tiếng La-tinh:
- Vương hầu khó lòng mà gỡ được cho ra công việc của miền Tiểu Nga. Người Tiểu Nga vốn quỷ quyệt, ngấm ngầm. Mai phải suy tôn một hetman mới. Có tin đồn rằng người ta muốn tôn Borkovski. Nếu thế thì thà đừng lật đổ Xamoilovich còn hơn: đối với Moskva không có kẻ thù vào nguy hiểm hơn Borkovski... Đây là vì tình bạn mà tôi nói với vương hầu.
- Chính ông cũng biết đấy, chúng tôi không muốn can thiệp vào công việc miền Tiểu Nga của các ông, - Vaxili Vaxilievich đáp. - Đối với chúng tôi, viên hetman nào cũng được, quý hồ người đó là bạn của chúng tôi.
- Được nghe những lời lẽ thông minh sáng suốt thật là một niềm sung sướng. Chúng tôi chẳng có gì phải giấu giếm cả. Đối với Moskva, chúng tôi cảm thấy hoàn toàn an toàn... (Vaxili Vaxilievich thoáng nở một nụ cười rồi cúi nhìn xuống). Người Nga các ông không tịch thu đất đai của những người quý tộc chúng tôi, các ông tỏ ra rộng rãi đối với phong tục của chúng tôi. Phải thừa nhận rằng trong chúng tôi cũng có người ngả về phía Ba Lan... Vì tham lam, họ sẵn sàng đưa miền Ukraina đến chỗ phá sản. Vì chúng tôi biết rõ rằng nếu chúng tôi phục tùng nước Ba Lan, bọn pan (1) Ba Lan sẽ đuổi chúng tôi ra khỏi đất đai của chúng tôi, xây dựng khắp nơi những nhà thờ Cơ đốc giáo và sẽ biến tất cả chúng tôi thành nông nô. Không, vương hầu ạ, chúng tôi là tôi tớ trung thành của các đấng Sa hoàng Đại đế. (Vaxili Vaxilievich mắt vẫn nhìn xuống, im lặng không nói). Vương hầu ạ, nhờ ơn Chúa tôi cũng được đầy đủ... Năm ngoái, tôi có chôn ở một chỗ kín đáo gần Poltava, một cái thùng đựng mười ngàn đồng rúp vàng, phòng những ngày đen tối. Người Tiểu Nga chúng tôi là những người giản dị. Nếu cần, chúng tôi sẽ hy sinh không tiếc gì tính mệnh cho đại nghĩa... Chúng tôi lo ngại gì? Chúng tôi chỉ lo ngại nhỡ ra một kẻ phản bội hay một tên ngu ngốc lại nắm được quyền hành trong tay...
- Vậy thì Ivan Xtepanovich ạ, cầu Chúa phù hộ các ông, chúc các ông may mắn, ngày mai các ông cứ việc mà suy tôn vị hetman mới.
Vaxili Vaxilievich đứng dậy chào khách. Hắn do dự một lát, rồi ôm lấy vai khách mà hôn vào miệng ba lần.
Ngày hôm sau, trước thánh đường dã ngoại căng bằng vải, trên một cái bàn phủ áo lễ có đặt cái gậy chỉ huy, lá cờ và những phù hiệu của chức vị hetman. Hai ngàn quân Cô-dắc đứng xung quanh. Vương hầu Golixyn mặc bộ áo giáp Ba Tư và khoác chiến bào, đầu đội mũ trên đỉnh có đính lông chim màu hồng tươi, từ thánh đường đi ra, theo sau là tất cả bọn thủ lĩnh Cô-dắc. Vaxili Vaxilievich bước lên một chiếc ghế dài, cầm một chiếc khăn tay bằng lụa, tay kia đặt trên đốc gươm, hắn nói với bọn người Cô-dắc đã bước lại gần:
- Hỡi binh sĩ trong đạo quân Tiểu Nga vĩ đại, các đấng Sa hoàng đã cho phép các người bầu một vị hetman mới, theo tập quán cổ truyền của quân đội các người. Các người hãy cho biết ai là người vừa ý; các ngươi quyết định như thế nào thì sẽ là như thế ấy... Mazeppa có vừa ý các người không, hay một người khác, cái đó là tùy ở các ngươi quyết định...
Đại tá Xolonina hét to: “Chúng tôi muốn Mazeppa!”. Có tiếng nhiều người khác nhắc lại, rồi cả cánh đồng ầm ầm vang lên: “Chúng tôi muốn Mazeppa làm hetman...”. Ngay hôm đó, bốn tên Cô-dắc mang vào trong lều của vương hầu Golixyn một cái thùng nhỏ đất bám đen xì trong đầy vàng.
-------------
Chú thích:
(1) Quý tộc Ba Lan.

Chương 33

Mùa thu năm ấy, pháo đài đã được xây trước đây hai năm trên sông Yauza, phía dưới lâu đài Preobrazenski về mé hạ lưu, được xây lại theo kế hoạch của các tướng Franx Lơfo và Simon Xomme, tường thành được xây rộng ra và chống thêm cọc; phía ngoài có đào hào sâu, bốn góc xây tháp canh kiên cố có đục lỗ châu mai. Những sọt đất đan bằng mây và bị cát che khuất hàng dãy cỗ đại bác, súng cối và súng trái phá bằng đồng. Ở giữa thành, người ta dựng một quán ăn cho năm trăm người ăn. Trong địch lâu xây bên trên cửa thành chuông dóng dả đổ hồi. Cái thành đó được xây với tính cách là một trò chơi, nhưng khi cần đến người ta có thể cố thủ giữ thành chống bao vây được.
Trên một cánh đồng cỏ rộng, cắt trụi, hai tiểu đoàn Preobrazenski và Xemionovski luyện tập từ sáng sớm cho đến tối mịt. Simon Xomme quát tháo không tiếc hơi và đánh lính không hề tiếc tay. Bọn lính răm rắp diễn qua như những người máy, tay cầm súng trường giơ ra phía trước mặt: “Nghiêm, đứng lại!”, bọn lính đứng lại, dậm chân tại chỗ, rồi đứng im không nhúc nhích... “Đổi vai phải tiến! Tiến lên! Vorwarts! (1)? Sai rồi! Hỏng rồi! Đồ chó má! Nghe đây!
Viên tướng ngồi trên mình ngựa, đỏ mặt tía tai như gà chọi. Cả đến vua Piotr, đóng chân hạ sĩ quan cũng phải ưỡn thẳng người và sợ hãi trố mắt ra khi diễn qua trước mặt hắn. Người ta đã tuyển thêm hai người ngoại quốc nữa ở xloboda: Franx Timmecman giỏi toán học và biết sử dụng máy quan tinh và cụ Kacxten Bran, thông thạo về hàng hải. Timmecman dạy vua Piotr toán học và phép xây đựng công sự, cụ Kacxten Bran thì đảm nhiệm việc đóng tàu theo mẫu chiếc xuồng kỳ lạ tìm thấy trong kho của làng Izmailovo, đi được ngược gió, nhờ một cánh buồm ngang.
Bọn quý tộc đại thần ở Moskva ngày càng năng lui tới đây, để được xem tận mắt những trò chơi trên sông Yauza. Bao nhiêu tiền bạc và bao nhiêu khí giới lấy ở Cung vũ khí đem dùng làm gì vậy? Họ không đi qua cầu mà đứng lại ở bờ sông bên kia: một viên đại thần cưỡi ngựa, mình mặc áo lông thú đắt tiền, to xù như một cái chăn nhồi lông chim, bộ râu xòe ra như cái quạt, đôi má phị mỡ, đứng đằng trước, đằng sau hắn là bọn quý tộc khoác vào người đến ba, bốn chiếc áo nẹp loại đắt tiền nhất. Họ đứng đó đến hơn một tiếng đồng hồ không nhúc nhích. Trên bờ sông đối diện những cỗ xe chở đầy cát và sọt đất nối đuôi nhau hàng dẫy dài; mấy tên lính đang kéo những xà gỗ; trên một cái giá cao ba chân, một con ròng rọc kéo một cái vồ nặng lên rồi “rầm” đóng những chiếc cọc thụt sâu xuống đất; cuốc xẻng hất tung đất; nhiều người ngoại quốc đi đi lại lại tay cầm bản thiết kế, la bàn; tiếng rìu nện chan chát, tiếng cưa kéo xoàn xoạt, đám đốc công tay cầm thước dây chạy đi chạy lại tíu tít. Và đây - Ôi lạy Chúa! Lạy các đấng thánh thần - đáng lẽ phải ngồi vào một chiếc ghế bành nhỏ thiếp vàng, trên đỉnh một ngọn đồi, mà xem những trò chơi đó mới phải, vậy mà không? Sa hoàng đội mũ bằng vải bông, mặc quần áo chẽn ống kiểu Đức và áo sơ mi bẩn, đang lon ton đẩy xe cút kít trên những tấm ván. Từ bờ sông bên kia, lão đại thần trật chiếc mũ chụp trên đầu khâu bằng lông bốn mươi con hắc điêu thử, bọn quý tộc cũng làm theo như thế rồi cả bọn cúi rạp chào. Rồi họ lại tiếp tục nhìn, tay dang ra vì ngạc nhiên. Ông cha họ xưa kia dựng lên chung quanh Sa hoàng một bức tường thành không gì phá vỡ nổi, giữ gìn không để một hạt bụi, một con ruồi bám vào người đấng Hoàng thượng chí tôn. Hiếm hoi lắm người ta mới để cho dân chúng chiêm ngưỡng Đức vua như một đức Thượng Đế sống, hay cũng gần như thế với tất cả nghi thức huy hoàng kiểu Byzăngxơ (2) thời cổ. Còn như thế kia là cái quái gì? Sa hoàng đang làm gì? Cùng với tụi nông nô, và chính bản thân Sa hoàng trông cũng chẳng khác gì một tên nông nô khố rách áo ôm, nhà vua đang trơ tráo chạy trên những tấm ván, mồm ngậm tẩu nhồi một chất độc ghê tởm gọi là thuốc lá... Nhà vua làm rung chuyển cả nền tảng quốc gia... Như thế không còn là một trò chơi hay một sự vui đùa nữa. Trông xem kìa, tụi nông nô đang cười sằng sặc ở bên kia sông...
Một đại thần lấy hết can đảm, lắc lư bộ râu, giọng run run kêu to:
- Muôn tâu Sa hoàng, xin bệ hạ cứ giết kẻ hạ thần này đi vì đã nói ra sự thật nhưng kẻ hạ thần này già quá mất rồi nên không thể nhịn được, nhìn bệ hạ thật là cả một sự xấu hổ, nhục nhã, chưa từng thấy thế này bao giờ...
Vua Piotr, cao lênh khênh như một con sào, trèo lên mặt thành chất đầy sọt đất nheo mắt nhìn:
- À nhà ngươi đấy à... Nghe đây... Golixyn viết thư về nói gì: hắn đã chiếm được Krym hay chưa?
Thế là cái bọn ngoại quốc khốn kiếp kia phá lên cười ha hả ở bên kia tường thành và bọn người Nga nhẽ ra phải quỳ xuống khi trông thấy một người thân cận của các đấng Sa hoàng thì lại hùa theo bọn ngoại quốc mà cười ầm lên. Cũng có khi, một lão đại thần thà chết thì chết cứ khăng khăng thuyết phục Sa hoàng, cố làm cho nhà vua phải xấu hổ:
- Thần đã từng bế Đức Thái thượng hoàng trong lòng, - lão đại thần nói, - thần đã túc trực hết ngày này qua đêm khác bên linh cữu cố Sa Hoàng, thần là dòng dõi vua Russ (3), chính thần cũng đã từng giữ quyền cao chức trọng. Bệ hạ nên nghĩ đến danh dự của chúng ta. Bệ hạ đừng nô nghịch nữa, nên suy nghĩ, hãy đến nhà tắm hơi nước hay đến đền thờ Chúa.
- Alexaska, đưa cho ta cái ngòi pháo, - vua Piotr nói.
Rồi chĩa một cỗ súng trái phá nặng sáu cân, nhà vua bắn một loạt hột đậu vào lão đại thần. Tướng Xomme ôm bụng phá lên cười, Lơfo cũng cười, anh chàng Timmecman lặng lẽ cũng cười một cách hiền hậu, cụ Kacxten Bran béo lùn, khuôn mặt nhăn nheo như quả táo chín cũng rũ ra cười. Rồi tất cả những người ngoại quốc và tất cả người Nga đều nhảy lên mặt thành để xem chiếc mũ cao lêu nghêu rơi như thế nào, xem lão đại thần sợ chết khiếp, thiếp đi trong tay bọn quý tộc đứng gần lão ta như thế nào và xem lũ ngựa chồm sang một bên rồi đá hậu như thế nào. Suốt ngày hôm đó, người ta hết cười lại kể chuyện cho nhau nghe.
Pháo đài được đặt tên là thủ đô Prexburg.
-------------
Chú thích:
(1) Tiến lên (Tiếng Đức).
(2) Tên thành Constantinop (Thổ Nhĩ Kỳ) thời cổ.
(3) Thủ lĩnh bộ lạc Varege, người sáng lập ra đế quốc Nga (thế kỷ thứ 9).

Chương 34

Từ cái đêm lọt được vào phòng ngủ của vua Piotr, Alexaska Melsikov ở lì lại đó. Khéo léo và nhanh nhẹn như ranh, nó đoán được ý nghĩ của người khác: nó ngoắt người chạy đi, bộ tóc xõa tung bay, là công việc đâu vào đấy ngay. Nó ngủ lúc nào? Bí mật. Nó đưa bàn tay lên quệt qua miệng, thế là coi như đã rửa mặt rồi, nó lại vui vẻ, mắt tỉnh như sáo, săn sàng toét miệng cười. Nó cao gần bằng vua Piotr nhưng vai cả ngang hơn và vóc người cân đối.
Vua Piotr đi đâu là Alexaska đi theo đấy. Đánh trống, bắn súng hay vung gươm chém đứt một chiếc gậy nhỏ, những việc đó đối với nó chẳng có gì khó khăn cả. Nó mà đã bắt đầu pha trò thì thật đến chết cười. Nó giả làm gấu leo lên cây để lấy trộm mật ong nhưng lại bị đàn ong xúm lại đốt; hoặc nó đóng vai một thầy tu đe dọa một mụ bán hàng phải khiếp sợ để mụ này mời làm lễ; nó còn đóng vai hai thằng nói lắp cãi nhau... Vua Piotr cười đến chảy nước mắt, nhìn Alexaska một cách trìu mến...
Lúc đầu ai cũng tưởng nó sẽ là thằng hề của Sa hoàng. Nhưng nó nhằm mục đích cao hơn: giờ đây mới chỉ là những chuyện bông đùa, những câu nói dí dỏm. Nhưng đôi khi, bọn tướng lĩnh, kỹ sư họp nhau lại để quyết định phải làm việc này việc khác như thế nào, họ nhìn chằm chằm vào bản thiết kế. Vua Piotr sốt ruột, ngồi cắn xước ngón tay. Alexaska nghểnh qua vai một người rồi nói một hơi thật nhanh để khỏi bị đuổi ra:
- Thế thì phải làm như thế này. Thật dễ như bỡn!
- Ồ ồ ồ ồ ồ ồ! - Bọn tướng lĩnh nhao nhao cả lên. Mắt vua Piotr sáng long lanh:
- Hắn nói đúng!
Nếu phải cấp tốc kiếm một thứ gì, Alexaska cầm tiền, lên ngựa phi như bay về Moskva, nhảy qua hàng rào các vườn rau, mang cái thứ cần thiết đó về, tựa hồ nó đã moi được ở dưới đất lên. Rồi đưa hóa đơn cho Nikita Zotov (phụ trách Vụ giải trí của Sa hoàng), nó trịnh trọng thở dài, mũi khụt khịt; mắt chớp chớp:
- Muốn gì thì gì, tiền nong tính toán đầy đủ, không thiếu một kopeik.
Zotov lắc đầu nói:
- Alexaska, Alexaska, có bao giờ sào gỗ thông lại trả những ba antin? Cùng lắm cũng chỉ một antin một chiếc... Chà, Alexaska...
- Khi không vội thì là một antin, nhưng lúc cần kíp thì đắt hơn. Tôi đã mang sào về nhanh chóng. Điều đáng kể là vua Piotr Alekseevich không phải nóng lòng chờ đợi.
- Hừ một ngày kia người ta sẽ treo cổ mi về những tội liều lĩnh của mi thôi.
- Lạy Chúa, nhưng tại sao ngài lại vô cớ làm nhục tôi thưa ngài Nikita Moixeevich... - Alexaska quay mặt đi rền rĩ nói, đôi mắt xanh trào lệ. Zotov giơ bút lông ngỗng đe nó:
- Thôi được. Xéo! lần nầy ta tin mi nhưng liệu hồn đấy!
Alexaska đã được bổ nhiệm làm lính hầu. Lơfo khen ngợi nó với vua Piotr: “Thằng bé này rồi sẽ tiến xa. Nó trung thành như một con chó và láu lỉnh như một con quỷ”. Bất cứ lúc nào Alexaska cũng chạy đến nhà Lơfo ở xloboda và chẳng bao giờ tay không trở về cả. Nó ưa thích tặng phẩm một cách say mê, bất luận là tặng phẩm nào. Nó mặc áo nẹp và đội mũ của Lơfo. Nó là người Nga đầu tiên đặt làm ở xloboda một bộ tóc giả kếch xù màu đỏ như lửa, đem chụp lên đầu vào những ngày hội hè. Nó cạo nhẵn chung quanh miệng, trên má và xoa phấn. Trong đám gia nhân, có kẻ đã bắt đầu gọi nó là Alekxandr Danilovich (1). Một hôm, nó dẫn đến chỗ vua Piotr một gã thanh niên vẻ mặt trịnh trọng, mặc áo sơ mi sạch sẽ, chân đi giầy gai mới tinh và bít tất Nga bằng vải thô:
- Myn Herz(2) (bây giờ Alexaska thường hay gọi vua Piotr như vậy), hãy ra lệnh cho nó trổ tài đánh trống.- Alioska, cầm lấy trống...
Không chút vội vàng, Alioska Brovkin đặt mũ xuống, cầm lấy chiếc trống để lên bàn, ngươc nhìn lên trần với một con mắt bình thản rồi vung tay đập trống giòn giã như ngô rang: nó nổi trống tập hợp, trống lui quân, trống xung trận “Chạy nhanh, đâm mạnh, chém mạnh, hoan hô”, và cuối cùng, nó gõ một điệu nhảy dồn dập, thật là cừ khôi! Nó đứng sững như một pho tượng; chỉ có hai bàn tay và đôi dùi trống vẩy lên vẩy xuống nhanh đến nỗi nhìn theo không trông thấy rõ nữa. Vua Piotr chạy lại chỗ Alioska, cầm lấy hai tay nó, nhìn vào mắt nó một cách ngạc nhiên rồi hôn lấy hôn để vào miệng nó:
- Ngươi sẽ là lính đánh trống trong đại đội thứ nhất!
Và thế là Alexaska cũng có tay chân của nó trong tiểu đoàn.
Khi ngày đã trở nên ngắn, một làn băng mỏng tráng trên mặt đất và một thứ tuyết khô từ những đám mây thấp lả tả rơi xuống thì ở xloboda bắt đầu có những cuộc khiêu vũ và những buổi dạ hội, uống rượu bia và chơi nhạc.
Bọn người ngoại quốc mời vua Piotr qua sự trung gian của Alexaska: trên một tờ giấy đẹp, trong một cái khung vẽ những cột có dây nho leo, có hình một người đàn ông trần truồng bụng phệ, ngồi trên một thùng rượu, phía trên, một em bé trần truồng đang giương cung bắn; phía dưới một ông già đặt lưỡi hái bên cạnh mình. Ở giữa, mấy câu thơ được viết bằng kim nhũ:
Với lời chào chân thành, chúng tôi kính mời Ngài đến thưởng thức rượu bia và dự khiêu vũ”.
Nếu người ta đọc riêng những chữ cái viết hoa thì những chữ đó hợp thành hai chữ “Herr Pete”.
Vừa chập tối, Alexaska đã đánh một chiếc xe ngựa đến trước thềm (vua Piotr người cao quá nên không thích cưỡi ngựa). Cả hai cùng đi đến Kukui. Dọc đường Alexaska nói:
- Myn Herz, lúc nãy tôi tạt qua quán rượu, tôi mua nửa cốc bia như Myn Herz đã ra lệnh. Tôi đã gặp Anna Ivanovna. Nàng đã hứa hôm nay nhất định sẽ đến...
Vua Piotr khụt khịt mũi, nín lặng. Một sức mạnh ghê gớm lôi cuốn nhà vua đến những buổi dạ hội đó.
Bánh xe bịt sắt lộc cộc lăn rầm rầm trên những ở gà đóng băng. Trong đêm tối không tài nào nhận thấy đường gì; những cành cây trụi lá rền rĩ trên bờ đập. Cuối cùng những ánh đèn niềm nở hiện ra. Alexaska chăm chú nhìn vào đêm tối, nói: “Bên trái, Myn Herz ạ bên trái, rẽ vào ngõ hẻm kia, lối này không qua được”. Những khuôn cửa sổ thấp kiểu Hà Lan hắt ra một luồng ánh sáng ấm áp. Phía bên trong những ô kính màu xanh chai người ta trông thấy những bộ tóc giả to xù. Đám phụ nữ đều để vai trần. Tiếng nhạc nổi lên. Trai gái từng cặp đang quay lượn. Những giá nến ba chạc có gắn gương treo trên tường, làm những hình bóng ngộ nghĩnh nhảy múa.
Thường thường vua Piotr bước vào không tự nhiên: nhà vua bao giờ cũng trợn mắt tròn xoe một cách kỳ cục; người cao lêu đêu, đôi má tái xanh, cái miệng nhỏ mím chặt, nhà vua đột nhiên hiện ra trên ngưỡng cửa. Đôi lỗ mũi phập phồng nhà vua hít mùi nước hoa thơm tho của đám phụ nữ, mùi thuốc lá tẩu và mùi rượu bia dễ chịu.
- A, Pete? - Chủ nhân kêu lên thật to. Khách khứa đứng phắt cả dậy, vừa tiến ra vừa chìa hai tay một cách hiền hậu; các bà các cô nghiêng mình cúi chào anh chàng thanh niên kỳ lạ. Sa hoàng của những dân man rợ. Cúi rạp xuống chào, họ để lộ cho nhà vua trông thấy những bộ ngực nở nang có áo nịt cứng đơ đỡ lên thật cao. Mọi người đều biết vua Piotr sẽ mời Ansen Monx nhảy điệu đối vũ đầu tiên. Lần nào Ansen cũng đỏ mặt lên vì nỗi bất ngờ sung sướng đó. Nàng ngày càng đẹp, vừa độ đang thì như một trái cây vừa chín tới. Vua Piotr đã biết nhiều tiếng Đức, tiếng Hà Lan: Ansen chăm chú nghe những mẩu chuyện của vua Piotr hấp tấp kể một cách đứt quãng và nàng khéo léo nói xen vào một vài câu.
Khi một gã ngự lâm quân táo tợn nào đó nện gót giầy làm cho đôi đinh thúc ngựa to tướng kêu loảng xoảng mời Ansen nhảy, thì nét mặt vua Piotr sa sầm như một đám mây u ám; nhà vua khom lưng ngồi trên ghế đẩu, liếc mắt nhìn Ansen đang khiêu vũ một cách vô tư lự, mấy tầng váy tung bay, cái đầu bé nhỏ của nàng với mớ tóc vàng quay về một bên, cổ buộc một dải nhung với một quả tim bằng vàng nghiêng về phía gã ngự lâm quân. Lòng nhà vua rất đỗi đau khổ; Ansen yêu kiều và quyến rũ biết bao nhưng cũng khó với tới biết bao!
Alexaska khiêu vũ với mấy bà bệ vệ vì đã luống tuổi nên không được ai mời nhảy: anh chàng bảnh trai được một buổi mệt bở hơi tai. Vào khoảng mười giờ tối, bọn thanh niên ra về, Ansen cũng rút lui. Đám quý khách ngồi vào bàn để dự bữa ăn tối: người ta dọn ra nào là dồi tiết, thủ lợn nhồi, những thứ rau lạ lùng, vừa bổ vừa ngọt vô cùng mà người ta gọi là khoai...
Vua Piotr ăn rất nhiều và uống rượu bia. Sau khi đã rũ bỏ được cơn mê mẩn vì tình, vua Piotr ngồi gặm củ cải đỏ và hút thuốc lá. Tờ mờ sáng, Alexaska đỡ nhà vua lên xe. Và một cơn gió lạnh buốt lại thổi trên cánh đồng chìm ngập trong bóng tối.
- Giá mà ta có ở xloboda một cái cối xay hay một nhà thuộc da như Timmecman thì... - Vua Piotr nói, tay bíu chặt lấy thanh sắt trên xe.
- Quả là bệ hạ ước ao những cái xứng đáng lắm... Bệ hạ chú ý ngồi cẩn thận, có hố đấy.
- Đồ ngu xuẩn... Mi đã thấy họ sống thế nào chưa? Hơn hẳn chúng ta.
- Nếu được như thế, có lẽ bệ hạ sẽ lấy vợ...
- Câm họng đi không ta vả vỡ mồm bây giờ...
- Khoan đã, chúng ta lại lạc mất đường rồi...
- Ngày mai, ta sẽ phải tường trình với mẹ ta. Rồi còn phải đi tắm hơi nước, đi xưng tội, chịu lễ để tẩy sạch ô uế. Ngày mai là phải đi Moskva, ta ghét nhất việc đó... Ta sẽ phải mặc long bào của các Sa hoàng, dự lễ mất nửa ngày rồi còn nửa ngày nữa thì cứ ngồi lì trên ngai vàng với anh ta, bên dưới Sonka(3)... Anh Vanetska ta thì thò lò mũi rất nặng mùi. Rồi lại còn những khuôn mặt ngái ngủ của bọn đại thần: thấy chúng lần nào ta cũng chỉ muốn đá chúng cho bõ ghét... Nhưng ta vẫn cứ phải lặng thinh, nuốt giận làm lành... Ta là Sa hoàng! Rồi đây chúng sẽ cắt cổ ta, ta biết thế!
- Bệ hạ cứ nghĩ như thế là lầm. Chính tại bệ hạ say đấy.
- Sonka là một con rắn độc... Bọn Miloslavski - một lũ sâu bọ tham lam... Không bao giờ ta quên được gươm giáo của chúng. Chúng định ném ta từ trên thềm xuống nhưng dân chúng đã hét lên một tiếng kinh hồn. Mi còn nhớ không?
- Nhớ đến đâu ấy chứ!
- Vaxka Golixyn đã làm cho cả một đạo quân bị tan tác trong thảo nguyên. Hắn lại được mang quân xuống Krym một lần nữa... Sonka và bọn Miloslavski sốt ruột đến chết đi được, chúng mong đợi hắn mang quân trở về... Chúng có một trăm ngàn quân... Chúng sẽ vạch mặt chỉ tên ta cho đám quân lính ấy hành hung, chúng sẽ kéo chuông báo động...
- Chúng ta sẽ cố thủ trong thành Prexburg...
- Có lần, chúng đã chực đầu độc ta... Chúng đã phái một tên thích khách mang dao găm đến. - Vua Piotr đứng choàng dậy, nhìn chung quanh. Trời tối như mực, đến một ánh lửa cũng không. Alexaska nắm lấy thắt lưng nhà vua, kéo nhà vua ngồi xuống.
- Hừ, lũ khốn nạn! lũ khốn nạn?
- A!... Cái đập kia rồi. - Alexaska cầm cương quất mạnh con ngựa. Những cây liễu vi vu trong gió. Con ngựa ngoan ngoãn leo lên bờ sông dốc ngược. Ánh lửa ở Preobrazenskoe hiện ra trước mặt.
- Myn Herz ạ, bây giờ có kéo chuông báo động cũng chẳng làm cho bọn xtreletz nổi dậy được. Cái thời đó đã qua rồi. Bệ hạ thử hỏi bất cứ ai mà xem, Alioska Brovkin chẳng hạn, hắn thường hay lui tới những xloboda của bọn xtreletz... Chúng chẳng bằng lòng bà chị của bệ hạ lắm đâu.
- Ta sẽ đuổi hết lũ người đi cho quỷ tha ma bắt, ta sẽ trốn sang Hà Lan làm thợ chữa đồng hồ còn hơn.
Alexaska huýt lên tiếng sáo.
- Vậy thì chắc chắn là bệ hạ sẽ chẳng bao giờ thấy mặt Anna Ivanovna được nữa.
Vua Piotr ngồi cúi đầu xuống. Bỗng nhà vua cất tiếng ho rồi bật lên cười khanh khách. Alexaska vui vẻ cười vang, tay quất ngựa.
- Thái hậu sắp sửa lấy vợ cho bệ hạ... Ai cũng biết rằng trai có vợ chẳng sợ lập thân... Bệ hạ hãy kiên tâm, bệ hạ không phải chờ đợi lâu nữa đâu... Ô, chỉ phải cái tội cô ta là người Đức, theo giáo phái Lute (4). Nếu không thì còn gì đơn giản hơn nữa, còn gì tốt hơn nữa... Có phải không nhỉ?
Vua Piotr nhích lại gần Alexaska, đôi môi run lên bần bật vì lạnh và nhìn chằm chặp vào bóng tối để bắt gặp cặp mắt của nó...
- Tại sao lại không được?
- Không đời nào! Anna Ivanovna mà làm hoàng hậu ấy à? Chuông báo động sẽ nổi lên ngay lập tức.
-------------
Chú thích:
(1) Lối xưng hô kinh trọng của người Nga.
(2) Đúng ra là Mein Herr: trái tim của tôi (tiếng Đức).
(3) Gọi Sofia một cách thân mật.
(4) Người chủ trương cải cách Cơ đốc giáo (1483 - 1546)

Chương 35

Những chiếc váy đẹp mê hồn của Ansen chỉ quay tít vào ngày chủ nhật - người ta cùng nhau say sưa vui thú mỗi tuần chỉ một lần thôi. Sang ngày thứ hai là dân Kukui lại đội mũ bằng vải bông vào đầu, mặc áo gilê khâu chần, rồi cắm cúi làm việc siêng năng như bầy ong. Họ coi trọng công việc dù là công việc của một nhà buôn hay của một người thợ thủ công bình thường:
- Hắn ta kiếm ăn một cách lương thiện, - họ nói, một ngón tay giơ lên tỏ vẻ kính trọng.
Sáng sớm hôm thứ hai, Alexaska đánh thức vua Piotr dậy rồi báo cho nhà vua biết rằng cụ Kacxten Bran và bọn thợ cả thợ phụ đã đến. Trong một căn phòng ở lâu đài Preobrazenski người ta đã bố trí một xưởng đóng tàu thủy: cụ Kacxten Bran dựng những mẫu tàu dựa theo những bản thiết kế của thành phố Amsterdam (1). Bọn thợ cả người Đức và bọn thợ phụ học nghề - theo một quyết nghị, bọn này được chọn trong đám dapife thân cận của Sa hoàng và những thanh niên cận vệ khéo chân khéo tay nhất - người bào, kẻ đẽo, người đóng đinh, kẻ quét hắc ín lên những mẫu chiến thuyền cổ và thuyền buồm, trang bị mọi thứ cần dùng cho chúng, khâu buồm, trang hoàng trạm trổ... Đồng thời người Nga học số học và hình học.
Tiếng búa nện chan chát, tiếng người nói ồn ào như chợ, tiếng hát cùng với tiếng cười oang oang của vua Piotr vang lên trong tòa lâu đài còn đang ngủ. Mấy bà cụ già loắt choắt sợ chết khiếp. Thái hậu Natalia Kirilovna vốn ưa tĩnh đã dọn đến một tòa nhà nhỏ cách xa lâu đài và ở đó trong làn hương ngát khói bay, dưới ánh những chiếc đèn chong đêm lập lòe trước tranh liệt thánh, bà chỉ nghĩ đến Petrusa của bà và cầu nguyện cho con.
Mấy mụ trung thành kể lại với bà mọi việc xảy ra ở điện Kreml:
- Hôm nọ, thứ sáu, Sonka lại sơi đẫy cá vào chẳng sợ gì tội lỗi cả... Người ta đã mang từ Axtrakhan về cho bà ta những con cá chiên dài đến một xagien(2). Giá mà bà ta gửi cho lệnh bà, mẹ kính mến của chúng con, chỉ một con cá chiên nhỏ thôi nhỉ... Bà ta đâm ra keo bẩn, bà ta để cho kẻ hầu người hạ chết đói...
Người ta kể lại rằng Sofia sầu não vì nhớ Vaxili Vaxilievich, đã triệu vào phòng mình ở tít trên gác một tu sĩ thông thái tên là Xinvextr Medvedev để sớm tối có người vỗ về an ủi và xem thiên văn: gã tu sĩ mặc một chiếc áo dòng bằng lụa và đeo một cây thánh giá nạm kim cương chi chít, hắn đeo nhẫn lóng lánh như sao sa, xén bộ râu thơm phức đen láy như cánh quạ. Hắn vào phòng Sonka bất kể giờ nào rồi hai người lại loay hoay giở trò phù thủy. Xinvextr trèo lên cửa sổ, ngắm các vì sao qua một ống kính và viết ra giấy những dấu hiệu; rồi đặt ngón tay lên mũi, hắn đoán ra ý nghĩa những dấu hiệu đó; Sonka cúi xuống gí bộ ngực vào người hắn và luôn mồm hỏi: “Thế nào, cái gì, nói đi, thế nào?”
Hôm qua người ta đã thấy gã tu sĩ mang một cái túi trong đựng nhau gái đẻ, một bộ hài cốt và rễ cây; hắn thắp ba ngọn nến, lẩm nhẩm đọc mấy câu thần chú rồi châm vào nến đốt tóc của ai không rõ. Sonka thì run bắn người lên, mắt trố ra, mặt nhợt nhạt như người chết.
Thái hậu Natalia Kirilovna bẻ ngón tay kêu răng rắc, ghé sát mụ kể chuyện, thì thầm hỏi:
- Vậy thì hắn đốt tóc ai thế? Có phải tóc màu nâu không?
- Tâu thái hậu kính mến, đúng đấy ạ, con xin thề với lệnh bà là tóc màu nâu ạ.
- Xoăn chứ?
- Vâng. Tóc xoăn... Nên chúng con ai nấy đều tự hỏi: phải chăng hắn đốt tóc của cha kính mến Piotr Alekxevich của chúng con đó không?
Người ta kể lại rằng Xinvextr Medvedev dậy người ta thờ kính bánh mì theo tà giáo do lão Xinvextr Medvedev đã quá cố và bọn Jeduyt (3) đề xướng. Hắn có viết một cuốn sách nhan đề là Manna trong đó hắn tuyên bố rằng chỉ cần nói: “Cầm lấy, ăn đi” là bánh mì sẽ hóa ra thánh thể chất chứ không phải đọc xotvori ubor v.v... Ở Moskva, người ta chỉ có bàn tán về bánh mì, người giàu cũng như người nghèo, trong những ngôi nhà sang trọng và ở các chợ: nói câu gì thì có sự thánh thế hóa? Đầu óc người ta đâm rối mù không còn biết cầu kinh như thế nào nữa để dọn mình lúc thánh thể hóa. Và để tránh cái tội tà đạo đó, nhiều người đâm liều lĩnh, sa vào cảnh ly giáo.
Có một lão giáo sĩ tóc đỏ, tên là Finka, lảng vảng trong thành phố Moskva; khi thiên hạ xúm đông chung quanh, lão bèn gào lên: “Chính Chúa đã sai ta đến để giảng cho các người đức tin chân chính. Các đấng tông đồ Piotr và Paul là bà con họ hàng với ta. Các người phải làm dấu với hai ngón tay chứ không phải với ba ngón: trong ba ngón tay chập lại có quỷ Kika nhập vào, đó là một cử chỉ tục tĩu, chứa đựng tất cả địa ngục, vậy mà các người làm dấu với cử chỉ đó...”
Liền đấy, nhiều người đứng nghe đâm hoang mang và tin ngay lời lão nói. Và mặc dầu bầy hết mưu này mẹo khác người ta vẫn không sao tóm được lão Finka.
Thuế má thu để chi phí cho chiến dịch Krym khiến nhân dân làm vào cảnh khốn cùng. Người ta nói rằng để chi phí cho chiến dịch thứ hai, nhân dân rồi sẽ bị bóc lột đến tận xương tuỷ. Các khu ngoại ô vắng ngắt bóng người. Hàng ngàn người lũ lượt bỏ đi nhập bọn với những người razkonic (4) ở bên kia dãy núi Ural, trên bờ Bạch Hải, trong vùng sông Volga và sông Đông.
Mà bọn razkonic thì chờ đợi Quỷ vương đến; có người trong bọn họ đã trông thấy Quỷ vương hiện ra rồi. Để cứu lấy ít ra là linh hồn chúng sinh, những người giảng đạo razkonic đi viếng làng mạc, các trại ấp hẻo lánh và kêu gọi mọi người hãy tự thiêu sống trong chuồng bò, trong nhà tắm hơi nước. Họ kêu lên rằng Sa hoàng, giáo trưởng và toàn thể Nhà chung đều là tay sai của Quỷ vương hết. Họ trốn vào các tu viện và kháng cự lại những toán quân của Sa hoàng phái đến để bắt họ, xích họ lại. Ở tu viện Paleostrov, những người razkonic đã giết chết hai trăm quân xtreletz, và đến khi thấy bị yếu thế, họ liền vào nhà thờ đóng chặt cửa lại rồi tự thiêu sống. Trên những ngọn núi miền Khvalinsk; ba mươi người razkonic chui vào trong một chuồng bò, lấy bừa chặn kỹ không cho ai vào rồi cũng tự thiêu sống. Trong những khu rừng ở chung quanh thành Nizni Novgorod, nhiều người chết cháy trong những căn nhà gỗ.
Trên bờ sông Medvedisa, thuộc vùng sông Đông, tên nông nô Kuzma bỏ trốn tự xưng là giáo hoàng; hắn ngửa mặt nhìn mặt trời làm dấu rồi nói: “Chúa của chúng ta ngự trên trời. Người không còn ở dưới thế gian nữa. Ở dưới thế gian nầy chỉ còn Quỷ vương tức là Sa hoàng ở Moskva. Giáo trưởng và bọn đại thần đều là tôi tớ của Quỷ vương”.
Bọn Cô-dắc tập họp chung quanh lão giáo hoàng đó và tin lão... Toàn miền sông Đông xôn xao.
Thái hậu Natalia Kirilovna nghe những chuyện đó chết lặng đi vì lo Piotr yêu dấu của bà mải vui chơi đùa nghịch, nảo có dè đâu đến đám mây u ám đang chồng chất trên đầu. Dân đã quên cả sự phục tùng, quên cả sự sợ hãi... Họ dám nhảy vào đóng lửa tự thiêu sống. Dân mà như vậy chẳng ghê gớm đáng sợ sao? Toàn thân run lên vì kinh hãi, thái hậu Natalia Kirilovna hồi tưởng lại cuộc nổi loạn đẫm máu của Xtenka Razin. Tưởng chừng như việc đó mới xảy ra hôm qua thôi... Khi đó, người ta cũng chờ đợi Quỷ vương. Bọn ataman của Xtenka cũng làm dấu với hai ngón tay.
Thái hậu Natalia Kirilovna bối rối, nhìn ánh đèn chong đêm lắp kính mầu le lói, bà rên rỉ quỳ xuống phủ phục hồi lâu, trán áp vào tấm thảm đã mòn.
Bà nghĩ: “Phải lấy vợ cho Petrusa. Nó đã cao thêm, tật giật gân làm khổ nó, nó uống rượu, lúc nào cũng quấn quýt đám đàn bà con gái Đức. Có vợ rồi nó sẽ thuần tính... Rồi sẽ phải cùng với nó và vợ nó lần lượt đi thăm viếng các tu viện để cầu Chúa ban phúc lành cho chúng ta, che chở chúng ta khỏi bùa phép độc ác của Sonka và làm cho chúng ta vững tâm trước cơn cuồng nộ của dân chúng”.
Phải lấy vợ cho Petrusa, cần lắm. Xưa kia, khi bọn đại thần hầu cận vua Piotr đến chầu, nhà vua ít ra cung còn ngồi với họ non một tiếng đồng hồ, chễm chệ trên ngai vàng của vua cha, trong điện Krextovaia đổ nát. Còn bây giờ nhà vua chỉ một việc trả lời: “Ta không có thì giờ”.
Trong điện Krextovaia, người ta đã đặt một cái vạc lớn chứa tới hai ngàn thùng nước rồi thả những chiếc tàu nhỏ, dùng quạt xếp để thổi căng các cánh buồm và bắn những khẩu đại bác nhỏ có nhồi thuốc súng hẳn hoi. Chiếc ngai vàng đã bị cháy mấy chỗ và một cửa sổ bị vỡ.
Bà thái hậu than phiền với người em là Lev Kirilovich. Lev Kirilovich thở dài, mặt buồn rười rượi:
- Thưa chị thân mến, hãy lấy vợ cho nó, cũng chẳng tai hại gì hơn đâu... Này chị ạ, quan đại phu Larion Lopukhin có cô con gái đến tuổi gả chồng tên là Evdokia, mười sáu tuổi... Đang tuổi cập kê... Họ nhà Lopukhin được cái to mồm, đông người và sa sút nhiều... Họ sẽ là chó giữ nhà cho chị...
Khi tuyết bắt đầu rơi, thái hậu Natalia Kirilovna đến tu viện Novo Đevitai, lấy cớ là đi hành hương.
Nhờ một bà tin cẩn, người ta máy cho gia đình Lopukhin biết. Cả nhà Lopukhin vào khoảng bốn mươi người vội vã đến tu viện đứng chật cả nhà thờ, - người nào người nấy gầy gò dữ tợn, vóc người bé nhỏ, họ thao láo nhìn bà thái hậu chòng chọc.
Evdokia bảy vía còn ba được dẫn đến hết sức thận trọng trong một chiếc xe trượt tuyết nhỏ đóng kín mít, Natalia Kirilovna chìa bàn tay ra cho nàng hôn và chăm chú nhìn nàng. Sau đó bà đưa nàng vào nhà hậu đường, rồi ở đấy một mình với Evdokia, bà ngắm nghía nàng từ đầu đến chân một cách kín đáo. Thái hậu lấy làm hài lòng về Evdokia.
Lần đó không ai đả động gì đến chuyện cưới xin. Natalia Kirilovna ra về, cặp mắt của Lopukhin sáng hắn lên...
Một niềm vui độc nhất bỗng đến giữa cảnh buồn phiền sầu não: ngày sinh nhật của bà nhiếp chính, vương hầu Boris Alekseevich Golixyn, anh em con chú con bác với Vaxili Vaxilie vich, từ chỗ dạo quân Krym đóng ở trước thành Poltava về dự lễ ở nhà thờ lớn Thánh mẫu lên trời, người say mềm đi không vững ngay trước mặt Sofia.
Đến khi ngồi vào bàn ăn, Boris bài bác Vaxili Vaxilievich:
- Hắn bôi nhọ chúng ta trước toàn châu Âu, hắn làm gì có tài để chỉ huy quân đội. Hắn chỉ ngồi mát dưới giàn hoa để ghi chép những ý nghĩa sung sướng là được thôi.
Hắn chửi bọn hào thần thân cận của bà nhiếp chính, làm nhục bọn họ và nói rằng:
- Các ông chỉ nghĩ đến ăn cho đẫy bụng, mặt các ông húp híp những mỡ là mỡ; ngày nay, trừ phi là quá lười nhác chứ không thì người ta có thể tay không cũng thôn tính được nước Nga...
Rồi từ đó, hắn rất năng lui tới Preobrazenskoe. Đứng nhìn người ta xây pháo đài Prexburg nhỏ bé hoặc đến dự những cuộc thao diễn quân sự của hai trung đoàn Preobrazenski và Xemionovski.
Boris Alekseevich không lắc đầu cười khẩy như bọn đại thần khác; hắn quan tâm đến mọi việc và tỏ ý tán thành. Sau khi thăm xưởng đóng tàu thủy, hắn nói với vua Piotr:
- Trong trận Actium, người La Mã chiếm được tàu của bọn cướp biển mà rồi chẳng biết dùng làm gì. Họ chặt lấy những mũi tàu bằng đồng đem đóng vào những cột trụ. Nhưng đến khi họ đã biết đóng tàu thì họ chinh phục được biển cả rồi chinh phục toàn thế giới.
Hắn chuyện trò rất lâu với cụ Kacxten Bran để thử kiến thức của cụ. Hắn khuyên nên dựng một xưởng đóng tàu nhỏ bên bờ hồ Pereiaslavskoe cách Moskva một trăm hai mươi dặm.
Hắn gửi đến xưởng một xe đầy sách la-tinh, bản thiết kế, ảnh khắc, tranh vẽ những thành phố Hả Lan, những xưởng đóng tàu, những chiến thuyền và những trận thủy chiến. Để dịch những cuốn sách La-tinh đó, hắn biếu vua Piotr một người A Rập lùn, thông thái tên là Abram với hai người bạn của Abram cũng lùn, là Tomoxa và Xeka - một người cao mười hai versok (5), một người cao mười ba versok một phần tư, mặc những chiếc áo nẹp kỳ cục và chít những chiếc khăn có đính lông công.
Boris Alekseevich là người giàu có, quyền thế và thông minh sắc sảo; về mặt học vấn uyên thâm, hắn chẳng kém gì người anh em con chú con bác của hắn, nhưng phải có cái tội nghiện rượu và thích ăn chơi đàn đúm không ai bằng.
Thoạt đầu bà Natalia Kirilovna cũng ngại: có lẽ Sofia đã ngầm phái hắn đến chỗ mẹ con bà chăng (Vì lý do gì mà một đại thần quyền cao chức trọng như hắn lại bỏ kẻ mạnh để gần những người yếu?)
Nhưng mỗi ngày Chúa ban, người ta lại nghe thấy cỗ xe lớn của hắn đóng bốn ngựa, có hai tên Ethiopi (6) trông gớm chết ngồi đằng sau, lăn bánh ầm ầm trên sân lâu đài Preobrazenski. Trước tiên Boris Alekseevich hôn tay bà thái hậu. Mặt hắn đỏ gay, mũi to lù lù; dưới cặp mắt, da mọng lên thành túi lèo nhèo; bộ ria vểnh và chòm râu cằm xén gọn rẽ đôi của hắn thơm phức mùi sạ. Nhìn hàm răng của hắn thì không thể nhịn cười được: trắng nhởn...
- Thái hậu ngủ có ngon giấc không ạ? Lệnh bà có còn mơ thấy kỳ lân nữa không? Lại vẫn là thần đến quấy rầy lệnh bà, xin lệnh bà thứ lỗi cho...
- Không, ông bạn thân mến ạ, có gì mà phải xin lỗi, mẹ con ta bao giờ cũng lấy làm vui mừng được gặp ông. Thế nào, ở Moskva có gì lạ không?
- Tâu lệnh bà, buồn lắm, không thể tưởng tượng được ở điện Kreml buồn đến thế nào... Toàn thể cung điện như chăng đầy mạng nhện...
- Nói gì lạ vậy? Ông nói đùa rồi...
- Trong các cung điện, bọn đại thần ngồi ngủ gật trên ghế. Chán quá thể! Công việc không chạy, hỏng bét, chẳng ai tôn trọng cái gì cả... Đã ba hôm nay, bà nhiếp chính cấm cung không ló mặt ra ngoài... Tôi đã cố vào hôn tay đức Sa hoàng Ivan. Hoàng thượng nằm dài buồn thỉu buồn thiu trên một cái bục, mình mặc áo lông cừu trong lót lông cáo, chân đi ủng dạ. Đức vua nói: “Này, Boris, trong cung điện của ta buồn lắm phải không? Gió gào trong ống khói lò sưởi đến phát sợ. Cái đó là điềm gì vậy?”.
Và Natalia Kirilovna mãi mới vỡ lẽ ra là hắn nói đùa. Bà đưa mắt nhìn hắn rồi phá lên cười...
- Tâu lệnh bà, thật chỉ đến đây với lệnh bà thần mới thấy phấn chấn lên. Lệnh bà đã cho chúng thần một con người tốt, một quý tử. Nhà vua sẽ tỏ ra thông minh, lỗi lạc hơn tất cả mọi người. Hãy kiên nhẫn. Nhà vua có con mắt tinh đời chẳng để sót một việc gì đâu.
Sau khi Boris Alekseevich ra về, cặp mắt của thái hậu Natalia Kirilovna còn sáng mãi một hồi lâu. Bà cảm động đi đi lại lại trong phòng ngủ nhỏ hẹp, lòng miên man suy nghĩ. Trong cảnh mưa rơi tầm tã, giữa những đám mây trôi lờ lững, bầu trời trong xanh bỗng hiện ra, vầng thái dương mỉm cười niềm nở. Vậy ra là chiếc ngai vàng Sonka ngự trị cũng không lấy gì làm chắc chắn lắm, nếu có những con người anh tuấn như thế mà bỏ đi...
Vua Piotr đem lòng mến Boris Alekseevich. Khi đón tiếp hắn, nhà vua thân mật hôn môi hắn, hỏi ý kiến hắn về đủ các thứ việc, vay tiền hắn và vương hầu chẳng từ chối nhà vua điều gì cả. Nhiều lúc hắn dẫn vua Piotr cùng các tướng tá, thợ cả, lính hầu và mấy chú lùn đến vui chơi, đùa giỡn ở Kukui - hắn bày đặt ra những trò giải trí lạ lùng.
Nhiều khi, ngà ngà hơi men, hắn đứng phắt dậy, một bên lông mày hạ thấp, một bên vểnh cao, hai hàm răng lóng lánh, mũi đỏ... Rồi hắn đọc thơ của Virgil (7) bằng tiếng La-tinh.
- Ta hãy ca tụng các vị thần đã rộng lượng rót đầy rượu nho vào cốc làm cho lòng ta tràn ngập vui sướng và đem lại cho tâm hồn ta một món ăn tinh thần thú vị.
Vua Piotr sung sướng ngây người nhìn hắn. Bên ngoài, gió đang ra sức gào thét; gió thổi ào ào trên những đồng bằng bát ngát, trên những khu rừng rậm rạp và trên những cánh đồng lầy heo hút, tốc ngược mái tranh của một căn nhà gỗ nghèo nàn không có ống khói, vật ngã một nông dân say khướt vào một đống tuyết và làm cho quả chuông giá lạnh của một ngọn tháp xiêu vẹo kêu boong boong. Còn như trong này thì chỉ thấy những bộ tóc giả bù xù, những khuôn mặt đỏ gay, khói thuốc từ những chiếc tẩu dài cuồn cuộn tỏa bay, những cây nến cháy xèo xèo. Thật là om sòm. Thật là vui vẻ...
- Cánh say rượu chúng ta cần phải đoàn kết mãi mãi! - Vua Piotr ra lệnh cho Nikita Zotov thảo một đạo dụ:

“Kể từ ngày hôm nay, tất cả những người say rượu và những kẻ điên rồ phải họp nhau lại ngày chủ nhật và cùng nhau đồng thanh ca tụng những vị thần Hy Lạp”.

Lơfo đề nghị họp ở nhà hắn. Và việc đó trở thành một tục lệ. Zotov, nghiện rượu nặng nhất bọn, được cử làm tư tế và được đeo một cái bầu đựng rượu có dây xích buộc vào cổ. Người ta để Alexaska ngồi trên một thùng rượu bia, người trần như nhộng, và hắn hát những bài làm mọi người ai cũng phải cười đến nôn ruột. Tiếng đồn về những cuộc tụ tập om sòm đó bay về đến tận Moskva. Bọn đại thần lo sợ thì thầm:
- Ở Kukui, bọn người Đức trời đánh thánh vật đã làm cho Sa hoàng nghiện rượu thực thụ rồi. Chúng báng bổ Chúa và làm những việc bất kính.
Vương hầu Primkov Rostovski, một ông già sùng đạo, bèn đến Preobrazenskoe. Lão dập đầu xuống đất lạy chào vua Piotr rồi nói với nhà vua suốt một giờ liền bằng tiếng Slavon (8), lời lẽ văn hoa kiểu cách, về cách thức cần phải giữ lễ tiết và lòng mộ đạo kiều Byzăngxơ, nền tảng của nước Nga.
Vua Piotr yên lặng nghe lão nói (lúc đó đang buổi hoàng hôn, nhà vua đang đánh cờ với Alexaska trong phòng ăn), rồi hất tung bàn cờ lẫn quân cờ, đứng lên đi đi lại lại, miệng cắn xước móng tay. Vị vương hầu người khô đét, râu dài, khoa ống tay áo lông nặng trịch, vẫn nói không thôi... Đó không phải là một con người mà là một cái bóng quấy rầy, một cơn đau răng dữ dội, một sự chán ngán đến chết đi được!
Vua Piotr cúi xuống, ghé vào tai Alexaska: nó liền thở phì phì như mèo, rồi cười rộ, bỏ đi. Chẳng bao lâu người ta đánh một chiếc xe trượt tuyết đến và vua Piotr truyền cho vương hầu lên xe: nhà vua dẫn lão đến nhà Lơfo. Nikita Zotov, đầu đội mũ miện bằng giấy, ngồi cạnh bàn trên một chiếc ghế cao chót vót, một tay cầm tẩu, một tay cầm quả trứng ngỗng. Vua Piotr không cười, cúi chào hắn và xin hắn ban phép lành. Vị tổng tư tế cầm tẩu và trứng, nghiêm trang ban phép lành cho nhà vua và cho phép nhà vua uống rượu. Thế là tất cả mọi người có mặt (khoảng hai mươi người) cất giọng lè nhè hát lên những bài thánh ca.
Vương hầu Primkov Rostovski sợ thất lễ với Sa hoàng, lấy vạt áo che, lén lút làm dấu rồi nhổ trộm xuống đất. Nhưng khi một gã đàn ông trần truồng, tay cầm cốc tót lên ngồi trên một thùng rượu và vị Sa hoàng, đại quận công toàn cõi Đại Tiểu Nga... trỏ vào hắn, lớn tiếng tuyên bố:
- Đây là thần Baccux mà chúng ta tôn thờ. - thì vương hầu Primkov Rostovski tái mặt rồi loạng choạng ngã, người ta khiêng ông lão bất tỉnh nhân sự đặt vào trong xe trượt tuyết.
Kể từ ngày hôm đó, vua Piotr truyền đặt tên cho Zotov là vị Giáo hoàng say mèm, tổng tư tế của thần Baccux và đặt tên cho những buổi tụ tập ở nhà Lơfo là Giáo nghị hội rất say, rất điên. Tiếng đồn về việc này cũng đến tai Sofia. Sofia tức giận liền cho Fedor Yurievich Romodanovski, đại thần của triều đình đến nói chuyện với vua Piotr.
Hắn từ Preobrazenskoe trở về, vẻ mặt tư lự. Hắn báo cáo với bà nhiếp chính:
- Ở đó có nhiều trò chơi và nhiều cuộc vui đùa nhưng cũng có nhiều việc nghiêm chỉnh... ở Preobrazenskoe, người ta không mơ ngủ đâu...
Căm thù và khiếp sợ vu vơ tràn ngập tâm hồn Sofia. Thế là chưa kịp trở mình thì con sói con đã lớn lên rồi.
-------------
Chú thích:
(1) Thủ đô Hà Lan.
(2) Bằng 2,13 mét.
(3) Tu sĩ thuộc dòng Tên của đạo Gia Tô.
(4) Giáo sĩ thuộc phái ly khai với đạo chính thống.
(5) Một versok bằng 4,4 cm.
(6) Một nước ở Châu Phi.
(7) Đại thi hào thời La Mã cổ.
(8) Thổ ngữ cổ của người Slav.

Chương 36

Vaxili Vaxilievich từ Poltava đột ngột trở về. Trời vừa hửng sáng mà trong tiền sảnh của hoàng cung và trong các hành lang đã không còn chỗ len chân nữa.
Hoàng cung ồn ào như tổ ong. Cả đêm Sofia không sao chợp mắt được. Chiếc áo dài nặng trên một pud có thêu kim tuyến và đính một mạng lưới ngọc trai quý, chiếc hoàng bào của các Sa hoàng đính hồng ngọc, bích ngọc và kim cương, mấy chuỗi hột đeo cổ, chiếc dây xà tích bằng vàng, tất cả những thứ đó đè trĩu trên vai Sofia. Ngồi bên cửa sổ công chúa mím chặt môi lại để khỏi run. Mụ Vecka, người thân tín của công chúa thở hơi vào ô kính cho tan băng giá nói:
- Mẹ thân mến, chim bồ câu thân mến của con, ông ấy kia rồi?
Mụ đỡ lấy khuỷu tay công chúa và Sofia nhìn ra. Trên lớp tuyết rơi đêm trước, một chiếc xe trượt tuyết đóng sáu con ngựa xám đốm trắng, trên đầu có buộc lông cò trắng, phi nước kiệu từ cửa ô Nikonskie bon đến; dây buộc hậu ngựa bằng nhung có điểm những quả tua bạc dài lòng thòng sát đất; mấy tên gia nhân chạy bộ mặc áo nẹp trắng chạy trước bầy ngựa, miệng hét to: “tránh ra, tránh ra”. Mấy viên sĩ quan mặc áo giáp và chiến bào ngắn, cưỡi ngựa chạy hai bên cửa chiếc xe đóng kín mít, thấp và tứ phía phủ gấm. Xe đỗ lại trước Thềm Đỏ. Bọn quý tộc chen vai thích cánh nhau xô ra đỡ vương hầu xuống xe.
Bà nhiếp chính, mắt trợn ngược, như muốn ngất. Mụ Vecka lại đưa tay ra đỡ:
- Tội nghiệp, lệnh bà buồn nhớ ông ta biết nhường nào.
Sofia rên rỉ:
- Vecka, đưa cho ta cái mũ Monamakh!
Công chúa chỉ trông thấy Vaxili Vaxilievich khi lên ngồi trên ngai vàng trong điện Hữu giác. Các ngọn chúc đài thắp nến sáng trưng. Bọn đại thần ngồi trên những chiếc ghế dài.
Vương hầu đứng thẳng, quần áo sang trọng nhưng trông thiểu não: râu ria tua tủa, mắt trũng như lỗ đáo, mặt võ vàng, tóc lơ thơ trên đỉnh đầu.
Sofia cố gắng lắm mới cầm nổi nước mắt. Công chúa nhấc cánh tay mập mạp, nóng sực, cổ tay bó chặt, ra khỏi chỗ tì tay. Vương hầu quỳ một gối xuống đất, rồi cặp môi khô nẻ hôn lên bàn tay Sofia. Công chúa mong đợi thế khác kia và rùng mình như linh cảm thấy một tai họa...
- Vương hầu Vaxili Vaxilievich, ta lấy làm sung sướng được trông thấy khanh. Ta muốn biết tin tức về sức khỏe của khanh... - Sofia hằng giọng. - Chúa có tỏ lòng từ bi phù hộ những công cuộc ta đã giao phó cho khanh không?
Phì nộn, đầy vàng, mặt bự phấn. Sofia ngồi trên chiếc ngai khảm ngà của vua cha. Theo nghi lễ, bốn vệ sĩ - bốn gã thiếu niên mặt mũi hớn hở, y phục trắng tinh, đầu đội mũ lông chồn trắng, vai vác phủ việt bằng bạc - đứng ở đằng sau. Bọn đại thần, tựa các thánh trên thiên đường, đứng hai bên, vây quanh bệ tam cấp phủ dạ đỏ chói, trên đặt ngai vàng. Mọi sự diễn ra một cách huy hoàng theo đúng nghi lễ cổ kính của các hoàng đế Byzăngxơ. Vaxili Vaxilievich cúi đầu nghe, một đầu gối quỳ xuống đất, hai tay dang ra...
Sofia đã nói xong, Vaxili Vaxilievich đứng lên cảm ơn bà nhiếp chính về những lời lẽ ân cần. Hai viên thừa lại của viện Duma trịnh trọng dâng vương hầu một chiếc ghế gấp. Đã đến vấn đề chủ yếu: tại sao vương hầu về đây? Với một con mắt thăm dò và nghi ngại, Vaxili Vaxilievich liếc nhìn những khuôn mặt quen thuộc lạnh lùng như khuôn mặt những tượng thánh, đỏ như đồng điếu, trông độc ác, húp híp vì ăn không ngồi rồi, trán nhăn lại, các khuôn mặt ấy đều chảy dài ra chờ đợi vương hầu Golixyn sẽ nói gì nhằm vào túi tiền của họ...
Vaxili Vaxilievich bắt đầu một cách quanh co...
- Thần là tôi tớ, là nô lệ của các đức Đại đế, Sa hoàng và Đại quận công và vân vân... thần xin dập đầu lạy chào các đức đại đế và ngửa xin các đức đại đế tiếp tục ban hoàng ân cho kẻ tôi tớ Vaksa này và bè bạn của thần như xưa và ngửa xin các đức vua truyền lệnh gửi cho đạo quân bách chiến bách thắng của các đức vua bức tranh Đức Bà thiêng liêng cao cả vô cùng và trong trắng vô cùng, của Đức Thánh mẫu nhân đức Maria đời đời đồng trinh của tu viện Dolskoi để Đức Bà thiêng liêng vô cùng thân chỉ huy các trung đoàn của các đức vua, phù hộ độ trì khỏi mọi tai ương, họa hoạn và đánh bại quân thù của các đức vua một cách nhiệm mầu, dành lấy những chiến thắng vinh quang...
Vaxili Vaxilievich nói rất lâu. Không khí ngột ngạt và mồ hôi của các quan đại thần tạo thành một lớp sương mù vây quanh những ngọn nến đang chảy, như một vòng quầng sáng.
Vương hầu đã nói xong về bức tranh Thánh mẫu Đồng trinh của tu viện Dolskoi. Bọn đại thần sau khi đã suy nghĩ, đúng như cần phải thế, quyết định: sẽ gửi bức tranh thánh đi. Họ thở phào, lòng nhẹ nhõm. Lúc đó Vaxili Vaxilievich liền nói, lần này nói một cách kiên quyết về vấn đề chủ yếu: đã gần ba tháng nay, quân đội vẫn chưa được lĩnh lương. Các sĩ quan ngoại quốc như đại tá Patric Gordon nổi giận, quẳng tiền đồng xuống đất và đòi phải được trả lương bằng tiền bạc hoặc vạn bất đắc dĩ, bằng lông hắc điêu thử. Quần áo của binh lính thì đã cũ nát, ủng dạ thiếu be bét, cả đạo quân phải đi ủng gai mà ủng gai cũng thiếu nốt... Vậy mà đến tháng hai đã lại phải lên đường chinh chiến rồi... Cần phải làm mọi việc để tránh một thất bại mới.
- Khanh cần bao nhiêu tiền? - Sofia nói.
- Tâu lệnh bà, năm trăm ngàn rúp, tiền bạc lẫn tiền vàng.
- Úi chà! - Bọn đại thần sửng sốt kêu lên. Có người đánh rơi cả gậy và trượng. Thế là họ đều nhao nhao lên, đứng phắt dậy, dang tay áo lông đập bồm bộp vào cạnh sườn: “Tai họa cho chúng thần!...”.
Vaxili Vaxilievich nhìn Sofia, bà nhiếp chính đáp lại hắn bằng một cái nhìn nồng nàn.
Vaxili Vaxilievich nói tiếp, mạnh bạo hơn:
- Có hai người từ Warsawa đến tìm thần ở doanh trại. Họ là hai tu sĩ dòng Jeduyt. Họ có đem theo ủy nhiệm thư của vua Pháp. Họ đề nghị với chúng ta một việc lớn. Việc này sẽ đem lại cho các đức Thánh thượng tôn nghiêm (hắn đứng dậy cúi chào Sofia) một lợi ích to lớn... Họ nói thế này: hiện nay, các vùng biển bị bọn hải tặc quấy nhiễu, gây nhiều nguy hiểm cho thuyền bè Pháp vượt trùng dương quanh thế giới, nhiều hàng hóa bị mất toi. Còn như con đường đi qua đất Nga sang phương Đông thì thông suốt và dễ dàng; nó dẫn đến Ba Tư, Ấn Độ và Trung Hoa. Họ nói, dẫu sao các ông cũng không có phương tiện để xuất khẩu hàng hóa; nhà buôn ở Moskva đã cạn tiền cả rồi. Còn nhà buôn Pháp thì giàu có. Hãy bỏ cái việc phòng thủ biên giới một cách không cần thiết đi, mà để cho các nhà buôn của chúng tôi xâm nhập Siberi, cho họ đi xa hơn nữa, đến nơi nào họ muốn. Họ sẽ mở đường ở các vùng đầm lầy, họ sẽ cắm cột chỉ cây số, họ sẽ xây dựng các quán trọ. Tại Siberi, họ sẽ mua lông thú mà họ sẽ trả bằng vàng và nếu họ phát hiện được khoáng sản, họ sẽ tổ chức khai thác.
Lão vương hầu Primkov Rostovski không nhịn nổi nữa, ngắt lời Vaxili Vaxilievich:
- Chúng ta đang không biết làm thế nào trừ bỏ cho được cái bọn tà giáo ở Kukui. Thế mà ông lại muốn chất thêm bọn khác lên lưng chúng ta... Đạo chính thống thực là đến ngày diệt vong...
- Dưới thời cố Sa hoàng, chúng ta vất vả lắm mới gạt được bọn Anh, - vị quý tộc đại thần của viện Duma là Boborykin, kêu lên - vậy mà giờ đây, ta lại phải quy phục bọn Pháp ư? Không bao giờ!
Một đại thần khác, Zinoviev, giận dữ, dằn từng tiếng:
- Chúng ta phải cương quyết giữ vững điều này: phải bẻ gẫy hoàn toàn cái thói kiêu căng ngàn năm của bọn nước ngoài chứ không vứt bỏ nền công nghiệp và thương mại vào tay chúng. Chúng ta phải làm cho chúng trở thành ngoan ngoãn dễ bảo... Chúng ta đây là thành La Mã thứ ba...
Đám đại thần nhao nhao tán thành:
- Rất đúng, rất đúng!
Vaxili Vaxilievich nhìn quanh. Hắn nổi giận, đôi mắt trở nên sáng hơn, hai lỗ mùi phập phồng:
- Ta chăm nom đến quyền lợi Nhà nước không kém gì các ông... (Hắn cất cao giọng). Ta đã tự cào xé ngực ta... (Hắn lấy nhẫn gõ vào áo giáp). Ta đã lấy móng tay cào xé ngực ta khi được tin bọn bộ trưởng Pháp sỉ nhục các sứ thần Dolgoruki và Myseski của triều đình... Họ đã ra đi tay không để vay tiền và chính cái đó đã làm cho họ mất danh dự... (Nhiều tên trong bọn đại thần khụt khịt mũi). Nếu họ tới trình diện với một mối lợi cho vua Pháp thì số tiền ba triệu bảng đã nằm ở Bộ Nội điện từ lâu rồi. Bọn tu sĩ dòng Jeduyt đã thề trên Kinh thánh là nếu các thánh thượng chấp nhận dự án của họ và nếu viện Duma xác nhận thông qua, họ lấy đầu họ ra đảm bảo rằng ba triệu bảng sẽ được trao cho ta trước mùa xuân.
- Vậy thì các ngài đại thần hãy suy nghĩ đi, - Sofia nói. - Việc này quan trọng đấy.
Nói thì thật dễ: suy nghĩ về một việc như vậy... Quả thực là, có một thời, sau thời kỳ loạn lạc, bọn nước ngoài đã sà vào nước Nga như một đàn diều hâu: chúng chiếm đoạt công nghiệp và thương nghiệp, làm hạ giá mọi thứ. Các chúa đất buộc phải bán gai, đay, lúa mì với giá rẻ mạt. Và chính những tên nước ngoài đó đã dạy người Nga mặc nhung Tây Ban Nha, vải Hà Lan, lụa Pháp, đi xe ngựa, ngồi ghế bành của Ý. Dưới thời cố Sa hoàng Aleksey Mikhailovich trị vì, ách nước ngoài đã được vứt bỏ. Ta đã quyết định tự tay ta xuất cảng hàng hóa bằng đường biển. Ta đã mời người thợ cả Kacxten Bran từ Hà Lan tới. Ta đã vất vả đóng được chiếc tàu “Phượng hoàng”. Nhưng công việc đã ngừng lại ở đó. Không tìm được người có khả năng lái tàu đi biển. Tiền thì thiếu mà rồi công việc đó cũng quá phức tạp. Tàu “Phượng Hoàng” đậu trên sông Volga trước thành Nizni Novgorod đã mục ra. Và thế rồi, một lần nữa, bọn nước ngoài lại thọc tay tới tận khuỷu vào túi người Nga... Tìm ra giải pháp nào bây giờ? Phải xuất ra năm trăm nghìn rúp cho cuộc chiến tranh chống phiên vương Krym - không có số tiền ấy, Golixyn sẽ không đi...
Thấy chưa? Hắn đem cái số tiền ba triệu ấy dụ dỗ người ta mới khôn khéo chứ! Nghĩ đến việc này thật toát cả mồ hôi...
Zinoviev, xoắn bộ râu của mình, đề nghị:
- Hay là ta đánh thuế thêm các vùng ngoại ô... Đánh thuế muối chẳng hạn.
Vương hầu Volkonski, một lão già thông minh lanh lợi, đến lượt mình đề nghị:
- Ta chưa đánh thuế ủng gai...
- Đúng đấy, đúng đấy, - bọn đại thần kêu lên. - Mỗi tên nông dân dùng mười hai đôi ủng gai một năm. Chỉ cần đánh thuế mỗi đôi ủng gai hai denghi là ta sẽ đánh bại tên phiên vương.
Bọn đại thần thở phào. Vấn đề đã được giải quyết. Chúng hồi lại, tên thì chấm mồ hôi trán, tên thì quay ngón tay cái, có những tên khác mừng quá, đánh rắm trong áo bông: Chúng đã ranh ma hơn Vaxili Vaxilievich. Nhưng hắn vẫn không chịu. Vi phạm cả lễ nghi, hắn nhảy chồm lên, lấy gậy gõ xuống sàn:
- Đồ mất trí! Các ông xu không dính túi mà lại vứt cả một kho vàng vào đống bùn! Các ông đói khát mà lại đi gạt bàn tay đang chìa bánh cho các ông? Phải chăng Chúa đã làm rối loạn đầu óc các ông? Ở tất cả các nước ngoan đạo - có những nước không bằng một quận của ta, nền thương nghiệp phồn thịnh, các dân tộc làm giàu, mọi người đều tìm kiếm lợi nhuận... Riêng chúng ta thì cứ ngủ li bì... Nhân dân tuyệt vọng trốn đi khắp nơi như thời có bệnh dịch hạch... Các khu rừng đều đầy rẫy kẻ cướp... Và ngay bọn cướp cũng trốn đi cho xa... Chẳng bao lâu nữa đất nước Nga sẽ trở thành bãi sa mạc! Bọn Thụy Điển, bọn Anh, bọn Thổ Nhĩ Kỳ chỉ việc đến mà cưỡi lên đầu lên cổ chúng ta...
Từ cặp mắt xanh của Vaxili Vaxilievich trào ra những giọt lệ phẫn nộ. Sofia, móng tay cắm chặt vào chỗ tựa trên ghế, từ trên ngai vàng, cúi xuống, đôi má run run.
- Không cần thiết phải để cho bọn Pháp vào đây!
Vương hầu Fedor Yurievich Romodanovski nói, giọng nghiêm nghị.
Sofia nhìn ông ta chòng chọc. Bọn đại thần im bặt. Romodanovski lắc lư cái bụng để tiến ra sát mép ghế và đứng dậy, chân hắn ngắn ngủn, lưng rộng, cái đầu nhỏ bé có mái tóc vuốt thẳng rụt lại. Nhìn cặp mắt xếch lầm lì của hắn mà lạnh cả người. Hắn đã cạo bỏ râu được ít lâu nay, bộ ria xoắn vểnh lên, cái mũi khoằm nhòm xuống cặp môi dầy.
- Ta không cần bọn nhà buôn Pháp; chúng sẽ lột ta đến chiếc áo lót cuối cùng... Chắc chắn là như vậy... Cách đây không lâu tôi có đến chỗ Sa hoàng ở Preobrazenskoe... ở đó họ ăn chơi, vui đùa phóng đãng... Có thế thật. Nhưng cũng có những trò chơi hợp lý, bọn Đức, bọn Hà Lan, bọn thợ cả, bọn đóng tàu, bọn sĩ quan đều thành thạo công việc của họ... ở đó có hai trung đoàn - trung đoàn Xemionovski và trung đoàn Preobrazenski. Ta không thể so sánh họ với bọn xtreletz của ta được. Ta không cần bọn nhà buôn nước ngoài, nhưng ta không thể không nhờ đến họ... Ta phải tổ chức sản xuất sắt, vải, da, thủy tinh tại nước ta. Ta phải cho các nhà máy cưa của ta chạy bằng cối xay gió như ở Kukui... Và xây dựng một hạm đội, đó là những cái cần làm. Còn thuế đánh vào ủng gai mà ta đưa ra hôm nay... A, nhưng mà các ông làm tôi chán quá. Các ông muốn quyết định gì thì quyết định, đối với tôi cũng thế thôi!
Vẻ bực tức, hắn lắc đầu với bộ mặt thô và bộ ria xoăn tít rồi lùi lại và ngồi xuống ghế.
Ngày hôm đó, viện Duma quý tộc chẳng quyết định gì dứt khoát.

Chương 37

Vào một buổi tối băng giá, nhiều khách hàng tụ tập trong quán rượu. Gã đày tớ, một anh chàng dở người, luôn tay đút thêm củi gỗ phong vào lò.
- Chà, nhà ông ấm quá, ông Monx ạ.
Khách hàng đánh bài hoặc chơi súc sắc, cười, hát. Johan Monx đã dùi thủng đến thùng bia thứ ba. Lão cởi chiếc gi-lê lót vải bông ra và chỉ còn mặc chiếc áo nịt trong. Cổ lão tím bầm.
- Này, Johan ra ngoài hóng mát đi, bác rực máu đấy!
Monx mỉm cười lơ đãng, bản thân chẳng hiểu có chuyện gì xảy ra với mình. Tiếng nói ồn ào lọt vào tai lão như từ xa vọng tới, nước mắt lão trào ra. Lão nắm lấy mười cốc bia vại nhưng không sao nâng lên được, rượu bia đổ tung tóe. Toàn thân lão mệt mỏi thẫn thờ.
Lão đẩy cửa, bước ra ngoài trời lạnh và tựa lưng vào một cái cột nhỏ dưới mái hiên. Trăng lưỡi liềm lạnh buốt ở mãi tít trên vòm trời cao, có ba quầng lớn lấp loáng ánh ngũ sắc bao bọc chung quanh. Không khí đầy muôn vàn băng nhũ lóng lánh... Tuyết phủ kín mặt đất bụi cây, mái nhà. Đất nước xa lạ, bầu trời xa lạ...
Hình ảnh của chết chóc bao trùm mọi vật. Monx thở hổn hển... Có cái gì tiến lại gần lão với một tốc độ phi thường... Ôi, giá mà lão còn có thể nhìn lại một lần nữa vùng Turinger quê hương của mình, với cái thành phố nhỏ bé mến khách dưới thung lũng, giữa những ngọn núi, bên bờ hồ? Nước mắt ròng ròng trên má lão.
Tim lão đau nhói... Lão lần tìm cửa vào, khó khăn mới mở ra được và ánh sáng các ngọn nến, những bộ mặt rung rinh của khách hàng đối với lão hình như xám xịt một màu. Ngực lão căng lên, lão kêu một tiếng ngã gục xuống.
Johan Monx đã chết như vậy. Cái chết của lão làm tất cả người Đức buồn rầu và kinh ngạc trong một thời gian dài. Lão để lại người vợ góa Matin, bốn đứa con và ba cơ sở kinh doanh - quán rượu, cối xay gió và một cửa hàng kim hoàn.
Mùa thu qua, nhờ ơn Chúa, lão đã gả cô con gái đầu lòng Modext cho trung úy Fedor Bank, một con người có tư cách. Ansen và hai em trai, Philimon và Vilim trở thành mồ côi.
Như ta thấy thường xảy ra, khi người chủ gia đình đã khuất mới biết được công việc làm ăn thực ra cũng chẳng lấy gì làm tốt đẹp: người ta tìm thấy những hối phiếu chưa trả. Phải bán cái cối xay gió và cửa hàng kim hoàn đi để trả nợ.
Trong thời gian đau khổ ấy, Lơfo đã giúp đỡ gia đình rất nhiều, bằng tiền cũng như bằng cách chạy chọt hộ việc này việc khác. Người quả phụ còn lại ngôi nhà và quán rượu. Ngày đêm Matin và Ansen không ngớt nuốt lệ đắng cay.

Chương 38

- M, mẹ gọi con đấy ư?
- Ngồi xuống đây, Petenka, con yêu của mẹ.
Vua Piotr ngồi ngất ngưởng trên ghế đẩu, bực bội nhìn căn phòng ngủ của mẹ. Natalia Kirilovna, ngồi trước mặt nhà vua dịu dàng mỉm cười. Chà, con ta mới bẩn làm sao! Quần áo rách bươm, ngón tay buộc một mảnh giẻ, đầu tóc rối bù. Mắt thì thâm quầng, cái nhìn lo âu.
- Petrusa, con yêu của mẹ, đừng giận dữ, hãy nghe mẹ.
- Con nghe đây mẹ ạ...
- Mẹ muốn con lấy vợ...
Vua Piotr chồm đứng dậy; nhà vua vung tay, đi đi lại lại ngang dọc căn phòng, từ những bức tranh thánh sáng trưng đến tận cửa ra vào. Rồi nhà vua lại ngồi xuống và bỗng lắc mạnh đầu... Đôi chân bàn cuốc quay vào phía trong.
- Lấy ai?
- Mẹ đã thấy nó rồi, mẹ đã chọn rồi, một cô tuyệt đẹp, một con bồ câu trắng...
Natalia Kirilovna cúi xuống, lấy tay vuốt tóc con; bà muốn nhìn vào mắt con. Tai vua Piotr đỏ bừng, nhà vua vội rụt đầu lại tránh khỏi bàn tay mẹ và đứng phắt dậy:
- Con không có thì giờ mẹ ạ... Thực ra, con bận... Vâng nếu cần, mẹ cứ lấy vợ cho con... Con còn có việc khác cần hơn...
Nhà vua bước ra, lưng còng xuống, người gầy gò, vai va vào trụ cửa, và cắm đầu chạy qua các hành lang như một người điên. Xa xa, có tiếng cửa đóng sập lại.

Chương 39

Ivaska Brovkin (bố Alioska) theo con đường phủ tuyết đánh một chiếc xe ngựa chở đầy gà vịt ướp lạnh, bột mì, đỗ và một thùng bắp cải muối chua tới Preobrazenskoe. Đó là khoản tô thực phẩm nộp cho Vaxili Volkov. Viên quản lý đã thu của làng, và để chỗ thức ăn đó khỏi bị thối, hắn đã cho gửi đến tận chỗ lãnh chúa đang phục vụ. Volkov với tư cách là dapife được một phòng nhỏ và một căn buồng xép tại lâu đài.
Ivaska Brovkin cho xe chạy vào trong sân; lão hoảng sợ vội trật mũ ra. Rất đông xe trượt tuyết sang trọng có mui che hoặc không có mui che, đỗ ở trước thềm danh dự. Từng đám nông nô ăn mặc lịch sự đứng trò chuyện trong không khí mát mẻ ban mai; những con ngựa, được trang điểm bằng đuôi cáo và đuôi chó sói nóng nảy đạp vó xuống tuyết trắng tinh, trong các tàu ngựa, những con ngựa giống bực bội hí ầm lên. Bầy sẻ tíu tít quanh đống phân ngựa đang bốc khói.
Nhiều dapife và sĩ quan mặc áo nẹp kiểu ngoại quốc thêu dát đầy vàng, ve áo đỏ, tóc quăn như tóc phụ nữ, chạy lên, chạy xuống các bậc thềm. Ivaska Brovkin nhận ra lãnh chúa. Vaxili Volkov, phục vụ Sa hoàng được ăn uống đầy đủ, đã đẫy ra, râu cằm hắn quăn lại; hắn tiến ra, vẻ quan trọng, tay đặt trên thắt lưng lụa.
- Ôi họ sẽ giữ mình lại mất thôi, mình đến thật không đúng lúc, - Ivaska tự nhủ. Lão tháo cương ngựa, ném cho ngựa một ít cỏ khô. Một con chó của Sa hoàng lại gần, nghiêm nghị trừng cặp mắt vàng nhìn Ivaska, gầm gừ... Ivaska giãn nét mặt ra, mồm chúm chím:
- Cậu chó cún ơi, bố trẻ ơi, bố làm sao thế, nào, nào...
May quá, nhờ ơn Chúa, cái đồ chó má no nê ấy bỏ đi, không cắn lão. Một gã mã phu, vai rộng đi ngang qua.
- Này, đồ cầu bơ cầu bất kia, mày đứng đấy cho con ngựa thổ tả của mày ăn đấy hử?
Nhưng nhờ ơn Chúa, có người gọi gã mã phu, nếu không thì Ivaska khó mà được yên lành.
Lão dọn chỗ rơm, buộc lại dây cương vào con ngựa. Vừa lúc đó, chuông trên tháp lâu đài đánh vang vang. Bọn nông nô cuống quýt: đứa thì nhảy lên yên những con ngựa trợ lực, đứa thì leo lên sau xe; bọn đánh xe, mặt mày dữ tợn, mông đít to bè bè, kéo thẳng dây cương.
Các dapife, mũ lông đội lệch xuống mang tai, đứng vào cầu thang, mỗi người ở một bậc.
Đám rước lũ lượt từ trong lâu đài kéo ra: những thiếu nữ mang tranh thánh, những thanh niên bưng đĩa không; những chiếc mũ lông đắt tiền, những áo khoác bằng lông thú và những chiếc áo nẹp bằng gấm màu lục, bằng nhung đỏ tía, rực rỡ trên tuyết dưới những cây phong tha thướt lấm tấm sương giá. Brovkin vốn cũng hiểu biết nghi lễ, vội vàng làm dấu.
Đến lượt các đại thần ra... Trong đám này, có một phụ nữ mặc nhiều áo khoác lông thú, cái nào cũng hết sức đắt tiền... Dưới chiếc mũ có góc nhọn, cặp lông mày phủ một lượt phấn dày, mi mắt bôi xanh lên đến tận thái dương; mỗi bên má có một hình tròn đỏ thắm... Mặt bà ta tròn vành vạnh như một cái bánh tráng... Tay bà ta cầm một cành thanh hương trà. Bà ta đẹp, rất vui và rõ ràng là say. Người ta đỡ hai cánh tay bà ta dìu xuống thềm.
Một đám con gái nông nô, chạy qua bên cạnh Ivaska nói:
- Xem kìa, bà mối đấy, các mẹ ơi!
- Bà ấy đến chuẩn bị nhà ở...
- Sửa soạn giường cho cô dâu chú rể đấy...
Bọn đánh xe quát “đi”, tiếng nhạc vang rộn không khí, bánh xe trượt tuyết rít lên, sương giá từ trên những cây phong lả tả rơi xuống như bụi, đám rước trải dài trên cánh đồng, tiến về phía những làn khói xanh của Moskva. Ivaska há hốc mồm đứng nhìn. Một giọng nói nghiêm khắc quát lão:
- Đồ ngáp ruồi, tỉnh dậy thôi chứ?
Vaxili Volkov đứng trước mặt lão. Đúng tư thế của một chúa đất: lông mày giận dữ cau lại, cặp mắt nghiêm nghị, cái nhìn soi mói:
- Mày đưa gì đến cho ta đấy?
Ivaska cúi chào, trán rạp xuống chạm tuyết và lấy trong ngực ra lá thư của viên quản lý, trình lên Vaxili Volkov. Volkov đứng soạc hai chân, cau trán đọc:
Cúi lạy đức ông chí tôn, chí kính, chúng con xin gửi các thức ăn đến đức ông chiếu cố. Lạy Chúa, xin đức ông tha thứ cho chúng con gửi đến không được bằng năm ngoái: ít ngỗng hơn và không có gà tây. Dân làng của đức ông hiện sống trong tình cảnh nghèo khổ ghê gớm. Năm đứa trong bọn chúng đã bỏ trốn. Chúng con không biết ăn nói làm sao với đức ông về những tên ấy... Những người khác thì gần chết đói cả. Lúa mì của họ chỉ đủ ăn cho đến ngày Lễ cầu, giờ đây họ ăn rau lê. Vì lý do đó chúng con chỉ gửi đến được có ít thực phẩm”.
Vaxili Volkov sầm sầm đi đến chỗ xe ngựa.
- Cho tao xem!
Ivaska sợ run lên, mở mui xe ra... Ngỗng thì gầy, gà thì gà nhép, bột mì vón lại thành cục.
- Mày đem gì lại thế này? Mày đem gì lại cho tao thế này, đồ chó ghẻ? - Volkov gào lên, giận dữ điên cuồng. - Đồ ăn cắp, đồ kẻ cướp! - Hắn giật lấy cái roi cắm ở xe, vụt Ivaska.
Ivaska đứng đấy, đầu trần, không tìm cách tránh đòn. Lão chỉ chớp chớp mắt. Lão nông dân rất láu, lão đã hiểu: tai họa qua rồi, ông chủ cứ việc quất lão qua chiếc áo khoác cộc, đòn đánh chả mùi vần gì...
Cái roi gãy cán, Volkov, cơn điên giận càng tăng, túm lấy tóc Ivaska.
Vừa lúc đó, hai gã trai trẻ mặc áo nẹp quân nhân ở trong lâu đài đi ra và chạy tới. Ivaska tự bảo: “Họ đến tiếp tay cho chúa, phen này mình nguy mất...”. Gã chạy trước, bé hơn, bỗng nhảy bổ vào Volkov, giáng cho hắn một quả đấm vào mạng sườn... Volkov suýt ngã, hắn buông tóc Ivaska ra. Gã kia cao lớn hơn, mắt xanh lam, mặt dài, phá lên cười. Và cả ba bắt đầu cãi nhau, chửi rủa nhau. Ivaska sợ chết khiếp, lại quỳ xuống... Volkov lồng lộn:
- Tao sẽ không chịu cái nhục này! Cả hai đứa đều là nông nô của tao cả! Tao sẽ sai người quất cho chúng nó một trận không thương tiếc... Sa hoàng không có quyền sai khiến tao!
Thế là gã thanh niên mắt xanh lam, nheo mắt lại, ngắt lời hắn:
- Khoan, khoan, thử nhắc lại xem nào... Sa hoàng không có quyền sai khiến anh à? Aliosa, cậu có nghe thấy những lời phiến loạn đó không?
Đoạn nói với Ivaska:
- Cả mi nữa, mi cũng nghe thấy chứ?
- Khoan, Alekxandr Danilovich... - Cơn giận của Vaska Volkov đột nhiên bỗng tiêu tan như có phép lạ. - Tôi nói những lời ấy mà không nghĩ, tôi xin thề với anh như thế, tôi giận quá... Vì dẫu sao thì chính tên nông nô của tôi đã đánh tôi suýt chết giấc...
- Ta hãy đi gặp Chúa thượng giải quyết việc này cho ra lẽ.
Alexaska đi về phía lâu đài. Volkov theo sau; đi đến nửa đường, hắn nắm lấy tay áo Alexaska. Người thứ ba ở lại bên cạnh xe, gã khẽ bảo Ivaska:
- Bố ơi, con đây mà... Bố không nhận ra con ư? Con là Aliosa đây.
Ivaska càng hoảng sợ. Lão liếc mắt nhìn trộm. Trước mắt lão là một chàng trai trẻ ăn bận chỉnh tề, mặc áo nẹp bằng dạ đắt tiền, có đính khuy sáng lóe; trên đầu, một bộ tóc giả uốn quăn dài chấm vai, và cạnh sườn đeo gươm. Rất có thể lắm. Có lẽ Aliosa cũng nên... - Làm thế nào bây giờ? - Ivaska buông một câu trả lời lấp lửng:
- Phải, làm sao mà không nhận ra... Là bố thì...
- Chào bố.
- Chào chàng thiếu niên đáng kính trọng.
- Ở nhà ta thế nào?
- Nhờ Trời...
- Gia đình ta sống ra sao?
- Nhờ Trời...
- Bố, bố không nhận ra con...
- Cũng có thể lắm...
Ivaska thấy không còn roi vọt nữa và như vậy tức là không còn đau đớn nữa, bèn đội mũ vào, nhặt chiếc roi gãy và, vẻ mặt bực tức, che lại cái xe. Chàng thiếu niên vẫn đứng đấy, nằn nèo. Có lẽ đúng là Alioska mất tích xưa kia chăng? Và rồi thì sao? Như vậy là con chim đã bay bổng. Có nên nhận nó không? Không nhận thì có lẽ phải phép hơn chăng? Dẫu sao thì con mắt của Ivaska cũng nhấp nháy một cách ranh mãnh.
- Ở đây ra tôi còn phải đi Moskva, bà lão sai tôi mua muối mà tôi chẳng có lấy một nửa kopeik... Có lẽ anh có thể cho tôi năm antin hoặc là tám kopeik, không sợ mất đâu, người nhà với nhau cả, tôi sẽ trả anh...
- Bố, bố thân yêu của con...
Alioska vội móc túi lấy ra một nắm tiền, mà không phải là tiền đồng đâu, toàn tiền bạc: ba rúp, có khi hơn thế nữa. Ivaska nhìn thấy, đờ cả người. Khi lão cầm lấy chỗ tiền ấy trong lòng bàn tay sần sùi, khum khum lại như cái muôi, lão run bắn lên, đầu gối cứ tự nhiên khụy xuống để lạy... Alioska khoát tay rồi bỏ chạy.
“A, con ơi, a, con ơi!” - lão Ivaska lẩm bẩm.
Lão vội đưa cặp mắt nhấp nháy nhìn quanh: bọn đày tớ có nhìn thấy chỗ tiền này không? Để cho chắc chắn hơn, lão đút hai đồng vào mồm, áp vào bên trong má, còn bỏ tất cả chỗ còn lại vào mũ, lão rỡ đồ trên xe xuống thật nhanh, đưa tất cả chỗ của cải ấy cho tên đày tớ của chúa, nhận biên lai rồi lấy dây cương quất ngựa, cho xe phóng về phía Moskva.
Những lời nói của Vaska Volkov: “Sa hoàng không có quyền sai khiến tao” rất có thể khiến hắn bị tội nặng, hắn rất có thể sẽ được làm quen với những tay đao phủ của Bộ Mật vụ...
Nhưng, hắn nhảy chồm vào trong phòng đợi, chạy theo sau Alexaska, níu lấy tay gã để cho gã kéo lết trên sàn nhà rồi hắn khóc lóc, van vỉ gã nhận cho chiếc nhẫn nạm ngọc đỏ hắn giật ở ngón tay ra:
- Liệu hồn đấy, đồ con nhà quý tộc, đồ chó, - Alexaska dằn giọng luồn chiếc nhẫn quý vào ngón tay giữa, - đây là lần cuối cùng tao cứu mày... Và vì mày đã làm nhục Aliosa Brovkin, mày phải biếu nó tiền hay một tấm dạ. Hiểu chưa?
Gã liếc nhìn viên ngọc đỏ, mỉm cười, lắc bộ tóc giả rồi bỏ đi, vai lắc lư, gõ mạnh đôi giầy cao gót... Cái ngày người ta ăn phải bánh nướng nhân thịt thỏ thiu của gã, đã túm tóc gã lôi xềnh xệch ở các chợ, nào đã lâu la gì? A, gã quyền hành lắm rồi!
Volkov, đầu cúi gằm, từ từ quay về buồng. Hắn mở cái hòm, khóa kêu leng keng, hắn lục lọi và cẩn thận lấy ra một tấm dạ. Thế này có tiếc không kia chứ, có ức không kia chứ. Hắn uất đến trào nước mắt... Đem lễ vật biếu ai? Biếu con một thằng nông dân, biếu một đứa nông nô của hắn mà đáng lẽ hắn phải lấy roi mà quất vào mõm!
Vaska buồn bực. Hắn gọi tên đày tớ:
- Mày đưa cái này đến cho ông giữ trống Aleksey Brovkin thuộc đại đội một, trung đoàn Preobrazenski. Mày sẽ nói là tao gửi lời chào ông ấy, để chúng ta là bạn thân với nhau...
Đột nhiên, hắn nắm hai bàn tay lại đe tên đày tớ:
- Không được cười, mày mà cười thì tao đập vào mõm bây giờ! Đối với Alioska, mày phải ăn nói sẽ sàng, tử tế, gượng nhẹ, lúc này thằng khốn nạn ấy nguy hiểm đấy.
Alexaska Melsikov đi tìm vua Piotr khắp các phòng; tại các phòng, bọn đày tớ đang lấy vải quý phủ lên các ghế và bậu cửa sổ, trải thảm, treo rèm, những bức rèm nhăn nhúm vì gấp lại lâu quá và treo những tấm rèm nhỏ có đính ngọc trai trước các bức tranh thánh... Chúng đổ dầu vào các ngọn đèn thờ. Khắp lâu đài vang tiếng búa và tiếng đi lại vội vã.
Gã thấy vua Piotr ngồi một mình trong căn buồng mà bà mối vừa mới dọn dẹp; trần nhà không phủ một lượt đất như thường lệ (để cho cặp vợ chồng mới cưới không ngủ ở dưới đất như trong một nấm mồ). Vua Piotr mặc chiếc áo tiểu lễ của Sa hoàng. Nhà vua vẫn còn cầm trong tay chiếc khăn lụa người ta đưa cho khi đón bà mối. Nhà vua đã lấy răng cắn rách chiếc khăn tay.
Vua Piotr liếc nhìn Alexaska rồi đỏ bừng mặt.
- Bày biện đẹp thật, - Alexaska nói, giọng như hát, - trông cứ tưởng như ở thiên đường, trong một căn phòng chuần bị đón tiên ấy...
Vua Piotr khẽ hé răng, cười khúc khích. Nhà vua trỏ cái giường:
- Thật là ngu xuẩn.
- Nếu cô dâu đẹp mà nồng nàn thì cái đó sẽ không phải là ngu xuẩn đâu. Myn Herz, thần mà nói dối thì thần mù mắt, ở trên đời này không có gì thú vị bằng.
- Mi chỉ nói láo.
- Chuyện đó thì thần biết lắm, đã mười bốn năm nay rồi kia... Ấy là những cô gái rơi vào tay thần, không phải cô nào cũng đẹp cả đâu... Còn cô này của chúa thượng thì, theo như lời người ta nói, rất là xinh...
Vua Piotr thở dài một cái. Nhà vua lại đưa mắt nhìn khắp căn phòng, tường bằng gỗ súc, có những cửa sổ nhỏ màu sặc sỡ trổ rất cao ở ba mặt tường. Những khoảng tường giữa các cửa sổ đều căng thảm Teheran, sàn nhà trải thảm thêu chim và kỳ lân. Ở mỗi góc nhà cắm bốn chiếc tên, mỗi chiếc có treo bốn mươi bộ lông hắc điêu thử và một cái bánh hình khóa. Trên hai chiếc ghế để liền nhau, trên hai mươi bảy bó lúa mạch, trên bảy cái đệm nhồi lồng chim là đồ trải giường bằng lụa với rất nhiều gối, phủ vải bọc, thêu ngọc trai; bên trên đặt một chiếc mũ lông thú. Ở trên giường là những chăn bằng lông chồn. Bên cạnh giường là những thùng tròn bằng gỗ bồ đề đựng đầy lúa mì, lúa mạch, lúa kiều mạch và lúa đại mạch.
Vua Piotr hỏi:
- Thế ngươi không trông thấy cô ta thật đấy chứ?
- Aliosa và thần đã đút tiền cho bọn đày tớ và đã leo cả lên mái nhà... Không làm sao trông thấy được gì hết. Cô dâu bị giữ trong bóng tối, mẹ cô ta không rời cô ta một bước, sợ gặp phải vía xấu... Người ta cấm cả hót rác ra khỏi phòng... Các ông bác ông chú nhà Lopukhin cầm súng đeo gươm canh gác ngày đêm ngoài sân.
- Thế còn Sofia? Ngươi có biết được tin tức gì không?
- Ấy, công chúa đã nổi khùng, nhưng làm sao cấm được chúa thượng lấy vợ? Myn Herz, cẩn thận đấy, khi chúa thượng và cô dâu ngồi vào bàn ăn, chúa thượng đừng có ăn uống gì cả... Nếu chúa thượng có khát, chúa thượng cứ quay sang thần, thần sẽ đưa chúa thượng một cốc để chúa thượng uống.
Vua Piotr lại cắn cái khăn tay đã rách.
- Hay là ta đi đến xloboda? Nhưng đừng để cho ai biết đấy... Đi độ một tiếng thôi... Thế nào?
- Myn Herz, đừng bắt thần làm thế, vào giờ này chúa thượng cũng không được nghĩ gì đến cô Monx nữa kia.
Vua Piotr vươn cổ, lỗ mũi nở to, mặt tái đi:
- Ai cho phép ngươi nói với ta như thế? - Nhà vua túm lấy ngực Alexaska, khuy áo đứt tung - Ngươi táo gan thật! - Nhà vua thở, lắc mạnh Alexaska một lần nữa, nhưng rồi buông gã ra và nói với một giọng bình tĩnh hơn. - Lấy cho ta một chiếc áo khoác bằng lông thú, một chiếc áo cũ ấy... Ta sẽ ra bằng lối vườn rau, ngươi sẽ đánh xe trượt tuyết ra đấy...

Chương 40

Người ta tổ chức lễ cưới ở Preobrazenskoe. Ngoài gia đình nhà Naryskin và họ hàng cô dâu ra, khách khứa có ít, vài vị đại thần của triều đình, rồi Boris Alekseevich Golixyn, rồi Fedor Yurievich Romodanovski mà Natalia Kirilovna đã mời làm chủ hôn. Sa hoàng Ivan ốm, không dự được. Hôm đó, Sofia bỏ đi hành hương.
Mọi việc đều diễn ra theo nghi lễ cổ. Từ sáng sớm, người ta đưa cô dâu tới lâu đài rồi bắt tay vào việc trang điểm cho cô đâu. Một đám thị tỳ đã được tắm rửa bằng hơi nước, mặc áo rộng và đội mũ miện, ca hát không ngừng. Trong khi họ hát, vợ các vị đại thần và các cô phù dâu giúp cô dâu mặc một chiếc áo lót mỏng và đi tất, một chiếc áo dài bằng lụa Trung Quốc, cánh tay áo rộng lòe xòe đến tận đất, thêu thú vật và hoa lá trông rất lạ mắt; người ta khoác lên vai cô dâu một cái áo choàng bằng lông hải ly cổ áo đính kim cương; người ta thít ngực Evdokia chặt quá đến nỗi cô ta suýt ngất đi. Bên ngoài áo dài người ta mặc cho cô dâu một chiếc áo nửa dài quét đất, rộng thùng thình bằng dạ màu đỏ tươi, đính một trăm hai mươi khuy sứ và ngoài chiếc áo dài quét đất ấy lại thêm một chiếc áo choàng nữa bằng gấm bạc, lót lông nhẹ và thêu nặng trĩu trân châu. Người ta lồng nhẫn vào đầy các ngón tay cô đâu, đeo vào tai cô dâu những chiếc hoa nặng, kêu leng keng. Người ta chải đầu cho cô đâu, kéo tóc ra đằng sau mạnh quá đến nỗi cô dâu không còn mấp máy được mi mắt; người ta buộc vào bím tóc rất nhiều dải và dặt lên đầu cô dâu một chiếc mũ miện rất cao, trông hao hao như một cái pháo đài nhỏ.
Vào khoảng ba giờ chiều, Evdokia Larionovna ngồi lử cả người, mệt tưởng chết, trên một chiếc đệm nhỏ bằng lông hắc điêu thử, trông tựa một con búp bê bằng sáp. Thậm chí cô cũng không kịp xem những món quà bánh của vị hôn phu của cô gửi biếu trong một cái tráp bằng gỗ sồi: những con giống bằng đường, những chiếc bánh mì ngọt có hình các thánh in nổi, dưa chuột nấu mật ong, hạt dẻ và nho khô, táo giòn Ryazan.
Theo tục lệ còn có một chiếc hộp nhỏ bằng ngà đựng đồ thêu thùa và một chiếc hộp khác bằng đồng mạ vàng đựng nhẫn và hoa tai. Trên hộp để một nắm cành phong dùng làm roi.
Ông bố, quan đại phu của triều đình, Larion Lopukhin mà kể từ ngày hôm nay, theo lệnh trên người ta phải gọi là Fedor, cứ vào luôn và lấy lưỡi liếm đôi môi se lại: “Thế nào, cô dâu thế nào?”. Mũi ông ta chằng chịt những tia máu nhỏ, trông khô như thành xương... Ông ta đứng đó giậm chân tại chỗ một lát rồi sực tỉnh, lại vội vã bỏ đi. Bà mẹ, bà Evxtineia Anikitavna, sợ đến lạnh toát cả người, ngồi gục vào bên tường. Đám thị tỳ chưa được ăn từ sáng sớm, bắt đầu khản giọng.
Bà mối tất tả chạy vào và vung dôi tay áo dài đến ba tấc:
- Cô dâu chuẩn bị xong chưa? Đi gọi những người đi rước mau... Cầm lấy các đĩa bánh mì, đốt đèn lồng lên... Bọn vũ nữ đâu rồi? Ồ có ít quá... ở nhà quan đại thần Odoievski trước kia có đến mười hai cô nhảy múa. Mà đây là cưới vua kia mà... Ô, các con cháu thân mến ơi, cô dâu đẹp như tranh ấy... Tìm đâu ra được một người như thế này? Chẳng thể tìm đâu được... Ôi, con cháu thân mến, của quý của tôi ơi, các người làm ăn gì thế này? Các người muốn tôi chết đấy phỏng? Sao cô dâu lại để lộ mặt ra thế kia? Các người đã quên mất điều cốt yếu. Tràng mạng đâu, tràng mạng che mặt đâu?
Người ta lấy một chiếc tràng mạng trắng trùm lên trên mũ miện, phủ kín cô dâu, rồi bắt cô dâu khoanh tay lại trước ngực và ra lệnh cho cô dâu phải cúi đầu xuống. Bà Evxtineia Anikitavna khe khẽ rên rẩm. Ông Larion tất tưởi chạy vào; ông cầm một bức tranh thánh để ban phước, hai tay giơ bức tranh ra đằng trước như người ta xung phong đánh địch. Đám phụ nữ vẫy vẫy khăn tay, dậm chân tại chỗ rồi vừa quay vừa hát:
Cây hốt bố đi dạo chơi!
Cây hốt bố tự khoe mình!
Không gì đẹp bằng ta...
Không gì vui bằng cây hốt bố...
Đám đày tớ bưng các đĩa bánh mì lên: Theo sau chúng là những người cầm đèn lồng bằng mi-ca treo ở đầu những cây sào. Hai người bưng cây nến của cô dâu: cây nến nặng đến một pud. Người phù dâu, Petka Lopukhin, anh em con chú con bác với cô đâu, mặc áo nẹp bằng gấm bạc, khoác chéo trên vai một cái khăn lau tay, bưng một cái âu đựng hạt hốt bố, khăn tay lụa, lông hắc điêu thử, lông sóc và một nắm tiền vàng. Rồi đến hai ông chú Lopukhin, láu lỉnh nhất, nổi tiếng hay sinh sự và hay hớt lẻo: hai ông này có nhiệm vụ không để cho ai đi ngang qua đường trước mặt cô đâu. Rồi đến bà mối và bà mối phụ đỡ tay Evdokia dẫn đi: cái áo dài nặng, đói và sợ, làm cô gái tội nghiệp khuỵu cả chân. Sau cô dâu, hai bà phu nhân già bưng đĩa, một đĩa đựng một cái khăn phụ nữ bằng nhung, một đĩa đựng khăn tay để phân phát cho khách. Ông Larion theo sau, người phủ đầy các thứ lông thú thu nhặt được trong gia đình và cách ông ta một bước là bà Evxtineia Anikitavna; cuối cùng là toàn bộ họ hàng của cô dâu, kéo theo sau, xô đẩy nhau, chen lấn nhau khi đi qua các cửa hẹp và các hành lang.
Đám rước dâu cứ như vậy tiến vào điện Krextovaia.
Người ta để cô dâu ngồi dưới các bức tranh thánh. Người ta đặt cái âu với hạt hốt bố, các lông thú và tiền vàng, các đĩa đựng bánh mì lên bàn, trên đĩa có để các lọ muối, lọ hạt tiêu và lọ dấm. Mọi người chia nhau ra ngồi theo tôn ti trật tự. Tất cả đều im lặng. Họ nhà Lopukhin ngồi thẳng đuỗn, mắt ráo hoảnh, chỉ sợ phạm điều gì thất thố. Họ không dám động cựa, nín cả thở.
Bà mối kéo tay áo ông Larion:
- Ông đừng để chúng tôi phải chờ đợi nóng cả lòng cả ruột đấy...
Ông Larion chậm rãi làm dấu rồi sai anh chàng phù dâu đi báo cho Sa hoàng biết là đã đến lúc đón dâu. Petka Lopukhin ra đi, cái gáy cạo nhẵn nhụi và rụt lại run lên. Bấc các ngọn đèn thờ nổ lép bép, ánh lửa các ngọn nến nghiêng ngả. Phải chờ đợi lâu đây! Thỉnh thoảng bà mối lại cù vào mạng sườn cô dâu để cho cô dâu thở được.
Cầu thang ngoài hành lang kêu cót két. Họ đến kia rồi! Hai vệ sĩ lặng lẽ xuất hiện và đứng vào hai bên cửa. Ông chủ hôn Fedor Yurievich Romodanovski bước vào. Ông mở to mắt nhìn các bức tranh thánh chập chờn lóe sáng, làm dấu thánh giá, bắt tay ông Larion rồi ngồi xuống, đối diện với cô dâu, hai bàn tay chắp lại, ngón tay đan vào nhau. Lại im lặng, Fedor Yurievich nói, giọng nghẹn lại:
- Xin đi thỉnh Sa hoàng, đại quận công các nước Nga, mời hoàng thượng hạ cố đến lo công việc của hoàng thượng ngay.
Họ hàng nhà cô dâu chớp chớp mắt, nuốt nước bọt. Một ông chú đi ra để đón Sa hoàng. Sa hoàng đang tới, - nhà vua còn trẻ hay sốt ruột: Khói hương mù mịt như mây qua cửa bay vào. Mọi người vào: tổng tư tế nhà thờ Đại cáo, một gã tóc bờm sư tử, một tay cầm thánh giá bằng đồng và thánh tích, một tay lắc mạnh cái lư trầm, và vị giáo sĩ trẻ tuổi của hoàng cung mà ít người biết đến (người ta chỉ biết vua Piotr đặt tên cho ông ta là Bitka) rẩy nước thánh lên con đường rải nỉ đỏ. Đi giữa hai người đó là vị đại giáo chủ, một ông cụ già lụ khụ, giọng nói yếu ớt, bước đi với tất cả vẻ trịnh trọng của giáo chức của ông ta.
Gia đình cô dâu đứng choàng cả dậy... Ông Larion vội vàng rời khỏi chỗ ngồi sau bàn và quỳ xuống giữa phòng. Boris Alekseevich Gôlixưn, chủ hôn về phía Sa hoàng, đỡ tay vua Piotr. Sa hoàng mặc áo hoàng bào và áo gấm thêu kim tuyến của bố, ngắn cũn cỡn chưa đến đầu gối. Sofia đã cấm không cho vua Piotr đội mũ Monamakh. Nhà vua để đầu trần, món tóc quăn màu nâu có rẽ đường ngôi; mặt nhà vua tái, mắt mờ đục, không chớp, hai bên mép bắp thịt nổi lên. Bà mối đưa bàn tay vững vàng đỡ Evdokia: bà thấy mạng sườn cô dâu phập phồng dưới ngón tay mình.
Theo sau chú rể là nghi lễ quan Nikita Zotov, có nhiệm vụ bảo vệ hôn lễ chống lại mọi phép yêu ma và trông nom sao cho nghi lễ được tôn trọng. Hắn đã không uống rượu, mặt mũi sạch sẽ và bình tĩnh. Những người nhiều tuổi nhất trong gia đình nhà Lopukhin đưa mắt nhìn nhau: Zotov là đại vương - trùm đạo, tay ăn chơi trụy lạc, phóng đãng, - họ ước ao một vị nghi lễ quan khác...
Lev Kirilovich và ông cụ Xtresnev dẫn hoàng thái hậu. Nhân ngày lễ này, người ta đã lấy các bộ áo cũ của bà ở trong hòm ra: một chiếc áo dài màu hoa đào dịu và một chiếc áo dài quét đất dính ngọc trai của hải ngoại vẽ thành những hình lá nho... Lúc mặc áo, Natalia Kirilovna đã nhỏ lệ khóc tuổi thanh xuân đã qua. Giờ đây, bà tiến bước, cao, đẹp như những năm xưa.
Boris Golixyn lại gần một người trong họ Lopukhin ngồi bên cạnh cô dâu và lắc những đồng tiền vàng kêu loảng xoảng trong mũ, cất cao giọng nói:
- Chúng tôi muốn mua chỗ ngồi này cho chúa thượng.
- Chúng tôi sẽ bán chỗ này rất đắt, - Lopukhin đáp lại và theo tục lệ, ông ta lấy cánh tay che cô dâu.
- Lấy sắt, lấy bạc hay lấy vàng?
- Lấy vàng.
Boris Alekseevich đổ đống tiền tsecvonez (1) vào một cái đĩa và nắm lấy cánh tay Lopukhin dắt ông ta ra khỏi chỗ ngồi. Vua Piotr đứng giữa đám đại thần, bật lên một tiếng cười khẽ.
Người ta khẽ đẩy nhà vua tiến lên. Golixyn đỡ lấy khuỷu tay nhà vua, đặt nhà vua ngồi vào bên cạnh cô dâu. Vua Piotr chạm vào hông cô dâu tròn và ấm, vội rụt chân lại.
Bọn đày tớ bưng loạt thức ăn đầu tiên tới, đặt lên bàn. Vị đại chủ giáo, mắt trợn ngươc trắng dã, cầu kinh và ban phước vào các món ăn, thức uống; nhưng chẳng ai đụng đến thức ăn. Bà mối cúi rạp đầu xuống tận đất chào hai ông bà Larion và Evxtineia Anikitavna:
- Mời hai vị ban phước cho cô dâu, để cô dâu chải đầu và cuốn tóc.
- Chúa sẽ ban phước cho cô dâu, - Ông Larion đáp. Bà Evxtineia khẽ mấp máy môi.
Hai người cầm nến căng một tấm vải dầy giữa cô dâu và chú rể. Đám thị tỳ đứng ở gần cửa, các bà và các cô, vợ con các vị đại thần, ngồi ở bàn, cất tiếng hát những bài hát ngân nga, buồn rười rượi. Vua Piotr liếc mắt nhìn thấy bà mối và bà phụ mối đang loay hoay sau tấm vải và thì thầm: “Bỏ dải băng ra... Để cái bím tóc vào chỗ này, cuốn nó lại! Khăn đâu, đưa cho chúng tôi cái khăn?”. Evdokia khóc sụt sịt như trẻ con... Tim vua Piotr đập mạnh: trái quả phụ nữ bị cấm, trái quả xanh đang khóc bên cạnh nhà vua, đang bí mật chuẩn bị cho cái thú vị nhất trên đời. Vua ghé lại gần tấm vải, cảm thấy hơi thở của vị hôn thê của mình...
Bên trên tấm vải, hiện ra bộ mặt bự phấn của bà mối với cái mồm vui vẻ, ngoác đến tận mang tai:
- Xin hoàng thượng hãy kiên tâm, không còn phải chờ đợi lâu nữa đâu...
Tấm vải rơi xuống, mặt cô dâu vẫn che kín, nhưng tóc đã chải lại như một đàn bà có chồng.
Bà mối hai tay bốc hạt hốt bố trong âu, rắc lên đầy người vua Piotr và Evdokia. Rồi bà ta lấy bộ lông hắc điêu thử phủi đi, bốc khăn tay và tiền vàng trong âu tung cho khách khứa. Đám phụ nữ cất tiếng hát một bài hát vui. Bọn vũ nữ múa, người quay tít. Sau cánh cửa, chiêng, trống khua vang. Boris Golixyn cắt bánh mì và pho-mát đem phân phát cùng với khăn lau tay thêu cho các vị khách ngồi, theo đúng tôn ti trật tự.
Khi ấy, đám đày tớ đem món thứ hai tới. Gia đình nhà Lopukhin chẳng ăn gì cả, họ gạt các đĩa ăn ra đề tỏ rằng mình không đói.
Lập tức, món ăn thứ ba được đem lên và bà mối nói to:
- Hãy ban phước cho cô dâu, chú rể. Đã đến lúc đưa cô dâu chú rể ra nhà thờ rồi.
Natalia Kirilovna và Romodanovski, Larion và Evxtineia giơ các bức tranh thánh lên. Vua Piotr và Evdokia đứng cạnh nhau, cúi rạp đầu chào sát đất.
Sau khi ban phước cho con gái. Larion Lopukhin cởi cái roi dắt ở thắt lưng ra, quất vào lưng con gái ba cái thật đau.
- Con đã được nếm mùi roi của bố, bây giờ bố trao con lại cho chồng con. Từ nay trở đi, nếu con không chịu nghe lời thì không phải bố mà là chồng con sẽ dùng roi này đánh con.
Rồi ông cúi chào, trao cái roi cho vua Piotr. Những người bưng nến giơ đèn lồng lên, ông chủ hôn đỡ lấy khuỷu tay chú rể, các bà mối đỡ lấy cô dâu. Họ nhà Lopukhin bảo vệ đám rước; có cô gái nào định chạy ngang qua đường vì một sự cần thiết cấp bách nào đó, là bị ngay người của gia đình Lopukhin đánh cho đến chết ngất, bọn đày tớ phải khiêng đi. Cả đám rước dâu từ từ tiến qua các hành lang và các cầu thang, đi về phía nhà thờ của lâu đài. Khi ấy đã hơn bảy giờ tối rồi.
Đại giáo chủ làm lễ; ông ta không vội. Nhà thờ lạnh lẽo, gió thổi lọt qua các khe tường làm bằng những thân cây gỗ ghép lại. Bên ngoài các cửa sổ nhỏ có chấn song và phủ đầy sương giá là đêm tối mù mịt. Cái chong chóng để xem chiều gió ở trên mái nhà rền rĩ rít lên.
Vua Piotr chỉ trông thấy bàn tay của người đàn bà mà nhà vua không biết, một bàn tay yếu đuối, có đeo hai chiếc nhẫn bạc và móng tay tô màu. Bàn tay ấy cầm cây nến, run lên, sáp nến rơi xuống từng giọt: mạch máu màu xanh lam, ngón tay út rất ngắn, run rẩy như cái đuôi cừu...
Vua Piotr quay đi và nheo mắt lại, nhìn ngọn lửa nhỏ của các cây đèn thắp trên bàn thờ thánh...
Hôm qua nhà vua đã không tỏ lời vĩnh biệt được với Ansen. Trông thấy vua Piotr đi một chiếc xe trượt tuyết thường tới, bà góa Matin vội vã chạy ra đón. Bà khóc nức nở hôn tay nhà vua và nói rằng gia đình bà sống trong cảnh nghèo khổ, thiếu củi sưởi, thiếu thứ này, thiếu thứ nọ và Ansen tội nghiệp ốm liệt giường đã ba hôm nay; nó sốt, mê sảng... Nhà vua gạt bà cụ góa sang một bên và chạy lên cầu thang dẫn tới phòng cô gái... Trong phòng thắp một ngọn đèn dầu; dưới đất để một cái chậu đồng nhỏ, hai chiếc giầy vải nhỏ vứt lăn lóc trên sàn, không khí ngột ngạt. Ansen nằm sau một bức rèm “tuyn”, tóc xõa trên gối thành từng món đỏ rực, trán và mắt phủ một chiếc khăn tay ướt, mồm nóng hầm hập, khô nẻ... Vua Piotr rón rén đi ra, đổ một vốc tiền vàng (quà cưới của Sonka tặng nhà vua) vào hai bàn tay co quắp của bà cụ... Alexaska được lệnh canh gác ngày đêm tại nhà bà cụ góa. Nếu cần, nếu phải chạy ra hiệu thuốc, hoặc nếu người ốm đòi ăn thức gì của nước ngoài, Alexaska phải tìm ra bằng được dù có phải chui xuống đất...
Tổng tư tế và giáo sĩ Bitka không hề hà tiện hương trầm, các ngọn nến hiện ra như trong đám sương mù, viên trợ tế gào lên để chúc thọ, nghe như tiếng kèn Jerico. Vua Piotr lại liếc mắt nhìn bàn tay Evdokia run không ngừng. Nhà vua cảm thấy một cơn giận dữ lạnh lùng cuộn lên trong lồng ngực. Đột nhiên nhà vua dằng lấy cây nến trong tay Evdokia và nắm chặt lấy bàn tay mánh dẻ, mềm nhũn của nàng. Một tiếng rì rầm, hoảng sợ nổi lên khắp nhà thờ. Cái đầu hói của lão đại chủ giáo run lên. Boris Golixyn nhảy một bước lại gần, thì thầm vào tai lão. Lão vội vã làm lễ nhanh hơn, đám hát cùng hát nhanh hơn lên. Vua Piotr vẫn nắm chặt bàn tay cô dâu và thấy đầu cô dâu, dưới tấm khăn che, mỗi lúc một cúi thấp xuống...
Người ta đưa cô dâu chú rể đi vòng quanh giá tán kinh. Vua Piotr bước đi nhanh nhẹn. Các bà mối vội vàng đỡ lấy Evdokia nếu không thì nàng đã ngã quỵ...
Hôn lễ đã xong... Người ta đưa cho cô dâu chú rể hôn một chiếc thánh giá bằng đồng lạnh ngắt.
Evdokia quỳ xuống, áp mặt vào đôi ủng bằng da dê thuộc của chồng. Bằng một giọng mà lão muốn làm ra dịu dàng như giọng thiên thần, đại chủ giáo khẽ nói, kéo dài từng chữ:
- Để cứu vớt linh hồn mình, người chồng phải lấy gậy đánh vợ, bởi chưng xác thịt là yếu đuối và dễ phạm tội lỗi...
Người ta đỡ Evdokia dậy. Bà mối cầm lấy đầu chiếc khăn che mặt cô dâu:
- Hoàng thượng hãy nhìn đây hãy nhìn đây, - rồi khẽ nhảy lên một cái, bà ta giật cái khăn ra.
Vua Piotr háo hức nhìn và trông thấy một khuôn mặt hãy còn trẻ thơ, băn khoăn khổ não, cúi gằm xuống. Một cái miệng phụng phịu đầy nước mắt. Một cái mũi nhỏ, mềm nhũn. Để che giấu vẻ xanh xao của cô dâu, người ta đã trát đầy son phấn lên mặt nàng... E sợ trước cái nhìn nóng bỏng của hai con mắt tròn xoe của chồng, nàng lấy ống tay áo che mặt. Bà mối kéo ống tay áo xuống.
- Hoàng hậu hãy để lộ mặt ra, như thế không được... Hãy ngước đôi mắt đẹp lên...
Mọi người xúm xít xung quanh cặp vợ chồng trẻ. Lev Kirilovich nói:
- Trông hoàng hậu xanh quá đi mất.
Họ nhà Lopukhin thở ầm ĩ, sẵn sàng cãi nhau nếu như họ nhà Naryskin giở giọng chê bai cô dâu... Evdokia ngước cặp mắt màu nâu, mờ lệ, nhìn lên. Vua Piotr hôn nhẹ vào má nàng; môi Evdokia khẽ mấy máy đáp lại. Nhà vua khẽ cười rồi hôn vào môi nàng; Evdokia nấc lên một tiếng.
Bây giờ phải trở lại gian phòng đã tổ chức lễ dạm mặt. Dọc đường, các bà mối rắc hạt gai và hạt đay lên cặp vợ chồng mới. Một hạt gai dính vào môi dưới của Evdokia và cứ dính mãi ở đấy. Một đám nông dân sạch sẽ, mặc áo sơ-mi đỏ, đã được đặc biệt đưa từ Tver đến, thổi sáo, đánh trống cơm rất vui và rất hay. Đám vũ nữ hát. Người ta lại dọn ra những món ăn nguội và những món ăn nóng. Lần này thì khách ăn ngốn ngấu.
Nhưng cô dâu chú rể không được ăn: ăn là thất lễ.
Đến món thứ ba là món thiên nga, người ta đặt trước mặt cặp vợ chồng mới một con gà quay để trên một cái đĩa.
Boris cầm lấy con gà, bọc vào một chiếc khăn ăn rồi chào Natalia Kirilovna và Romodanovski, Lopukhin và Lopukhina, ông ta vui vẻ nói:
- Hãy ban phước cho đôi vợ chồng trẻ: đã đến lúc đưa cô dâu chú rể về động phòng...
Họ hàng và khách khứa, đã ngà ngà say, vội vàng xúm lại đưa Sa hoàng và hoàng hậu. Dọc đường, trong đêm tối một phụ nữ mặc một chiếc áo lông thú lộn, cười rất to - không thể nhận ra được là ai - lại rắc lên đôi vợ chồng trẻ những hạt đay và hạt gai bốc trong một chiếc thùng ra. Nikita Zotov gươm tuốt trần, đứng trước cửa để ngỏ. Vua Piotr nắm lấy hai vai Evdokia - nàng nhắm mắt, lùi lại chống cự - và đẩy nàng vào trong phòng rồi quay phắt lại nhìn đám khách khứa. Trông thấy đôi mắt nhà vua, khách khứa đang cười bỗng ngừng bặt và lùi lại. Vua Piotr đóng sập cửa và nhìn thấy vợ đứng ở gần giường hai nắm tay bé nhỏ áp chặt vào ngực, nhà vua bèn nhắm một cái xước ở ngón tay. Có quỷ biết được tất cả những việc ấy khó chịu, bực mình đến chừng nào, lòng nhà vua sôi lên vì tức tối. Cuộc hôn lễ đáng nguyền rủa? Đám đại thần đã thích thú với cái nghi lễ cổ lỗ này? Và con nhãi con kia thì cứ run lên như dẽ? Nhà vua cởi bỏ hoàng bào kéo bộ đồ lễ phục qua đầu, vứt lên ghế.
- Ngồi xuống đi chứ... Evdokia. Em sợ cái gì?
Evdokia kính cẩn và ngoan ngoãn gật đầu nhưng vì không đủ sức leo nổi lên cái giường cao như vậy, nàng luống cuống và ngồi lên mép thùng lúa mì. Nàng hoảng sợ liếc mắt nhìn chồng và đỏ mặt.
- Em có đói không?
- Có! - nàng thì thầm.
Dưới chân giường, con gà quay lúc nãy đã được đặt lên một cái đĩa. Vua Piotr vặn lấy một chiếc đùi và chẳng cần bánh, chẳng cần muối, ăn ngay lập tức, rồi xé một cánh gà:
- Này, cầm lấy.
- Cám ơn...
--------------
 Chú thích:
(1) Bằng mười rúp

Chương 41

Cuối tháng hai, quân Nga lại tiến đánh Krym.
Mazeppa thận trọng đã khuyên là nên tiến dọc theo bờ sông Dniep, vừa tiến vừa lập những pháo đài nhỏ. Nhưng Vaxili Vaxilievich không muốn nghe nói đến lối tiến quân chậm chạp như vậy: hắn muốn tới Perekov thật nhanh để rửa nhục trong một trận quyết chiến.
Ở Moskva, người ta vẫn còn phải đi lại bằng xe trượt tuyết nhưng ở đây, các “kurgan”(1) đều phủ một tấm thảm mao lương mượt như nhung; trên cánh đồng bằng xanh rờn, gió thổi gợn mặt hồ ao, nước ngập đến đầu gối ngựa. Mặt trời sáng chói ló ra ở khe hở của những đám mây mùa xuân. Ôi, lạy Chúa, đất ở đây đen, màu mỡ làm sao, thật là một kho vàng! Nếu mà xua được bọn nông dân ở trong rừng, trong các đầm lầy ra đây, chúng sẽ gặt hái lúa mì, bao nhiêu cũng có.
Nhưng xung quanh không một bóng người. Chỉ có những đàn sếu bay qua, cao tít trên bầu trời, tiếng kêu kéo dài. Cánh đồng cỏ này đẫm nước mắt những người bị bắt: từ bao thế kỷ nay hàng triệu người Nga đã bị bọn Tarta giải đi qua đây, đem đày ải trên các chiến thuyền ở Constantinop, tại Vơnidơ, tại Giên (2), tại Ai Cập.
Người Cô-dắc khoe khoang về thảo nguyên. Ở đây, có được một vụ thu hoạch tốt dễ như trò trẻ: gieo một ăn hai mươi, chỉ cần nhổ một bãi nước bọt là cây mọc.
- Nếu không có cái bọn Tarta chết tiệt ấy thì người ta đã lập được biết bao nhiêu trại ấp ở vùng này!
Đám binh lính quê ở phương Bắc ngạc nhiên về sự màu mỡ của đất. Họ nói:
- Cuộc chiến tranh này là đúng. Làm sao lại có thể bỏ hóa chỗ đất tốt như thế này được!
Bọn chúa đất trong đội vệ binh quý tộc nhằm sẵn những miếng đất tốt để lập dinh cơ.
Chúng cãi nhau về chuyện chia đất sau này và chạy đi tìm Vaxili Vaxilievich ở trong lều và cúi chào:
- Nếu thượng đế cho phép chúng ta chiếm được vùng này thì Sa hoàng phải ban cho tôi mảnh đất chạy từ thung lũng nhỏ này đến cái kurgan trên có hình người bằng đá...
Tháng năm, đạo quân Moskva và Ukraina, đông một trăm hai mươi ngàn người, tới cánh đồng bằng xanh rộng mênh mông, có nhiều nước và cỏ. Tại đây, quân Cô-dắc giải đến trước mặt Vaxili Vaxilievich một “cái lưỡi” (3), một tù binh: một gã Tarta béo mập, da rám nắng bóng loáng, râu đỏ, mặc khalat (4) lót vải bông. Vaxili Vaxilievich đưa chiếc khăn tay nhỏ lên bịt mũi để khỏi phải ngửi thấy cái mùi cừu hôi từ người tên Tarta bốc ra. Hắn ra lệnh tiến hành hỏi cung. Người ta lột chiếc áo khalat của tên tù binh. Gã Tarta, để lộ hai hàm răng nhỏ, lắc cái đầu cạo trọc xanh rì. Một lính Cô-dắc, mặt hầm hầm, cầm roi quất lên đôi vai rám nắng của tên tù binh. Gã Tarta vội nói rối rít:
- Tôi xin nói hết, tôi xin nói hết.
Lính Cô-dắc dịch lại:
- Thằng “trọc đầu” bảo rằng quân man ở cách đây không xa và Phiên vương ở đấy...
Vaxili Vaxilievich làm dấu thánh giá và sai người đi gọi Mazeppa. Khoảng chiều tối, đạo quân dàn thành thế trận, hai bên cánh là kỵ binh, ở giữa là xe lương thảo và súng đại bác, rồi tiến đánh quân Tarta.
Mặt trời, như một cái đĩa màu da cam, vừa mới ló lên trên cánh đồng bằng thấp bị chân người, chân ngựa dẫm nát thì quân Nga trông thấy quân Tarta. Những đội kỵ binh tuần thám tập hợp lại rồi tản ra.
Vaxili Vaxilievich, đứng trên một chiếc xe, cầm ống nhòm quan sát những chiếc áo khalat sặc sỡ, những cái mũ nhọn, những bộ mặt hung ác, gò má nhô cao, những túm lông đuôi ngựa buộc ở đầu các ngọn giáo, những tên “mola”(5) nghiêm trang chít khăn xanh. Đó là đội tiên phong của quân man.
Các đội kỵ binh quay trở lại, tập hợp thành một khối dày đặc. Bụi bay mù mịt. Chúng xung phong phóng nước đại, quân Tarta tỏa ra như thác đổ. Tiếng chúng gào thét the thé vọng tới tai quân Nga. Gió thổi tạt vào mặt quân Nga che lấp chúng. Chiếc ống nhòm run lên trong tay Vaxili Vaxilievich.
Ngựa của hắn, buộc vào bên xe, lồng lên, dứt đứt dây cương, một chiếc tên có lông cắm phập vào cổ nó... Đại bác bắn ầm ầm, súng trường nổ ran. Có thế chứ!... Mọi vật đều biến mất trong đám khói trắng quay cuồng như một cơn lốc. Một mũi tên bịt sắt bắn trúng áo giáp của Vaxili Vaxilievich kêu lanh canh, đúng chỗ tim. Hắn rùng mình, làm dấu thánh giá ở chỗ trúng tên.
Hai bên bắn nhau trong hơn một tiếng đồng hồ.
Khi khói tan, nhiều con ngựa đang giãy giụa trên cánh đồng ngổn ngang chừng một trăm xác chết. Quân Tarta bị súng bắn lui, biến mất ở chân trời.
Có lệnh nấu ăn, cho ngựa uống. Lính bị thương được đặt lên xe ngựa.
Trước khi mặt trời lặn, đoàn quân lại tiến một cách hết sức thận trọng về phía cánh đồng Sornaia Dolina, nơi Phiên vương Tarta đóng cùng với quân man trên bờ sông Kolosak.
Đêm đến, gió mạnh nổi lên, từ biển thổi về. Sao biến mất, khuất sau mây. Xa xa có tiếng sấm ầm ì. Trong các đám mây dầy, lóe lên những ánh sáng của giông tố, chưa từng thấy bao giờ, chiếu sáng cả cánh đồng xám xịt: cát, những túm khổ ngải, những ruộng muối.
Đoàn quân chậm chạp tiến. Vào khoảng bốn giờ sáng, bầu trời toác ra và một cột lửa giáng xuống xe vận tải lương thảo, làm cháy một khẩu đại bác và giết chết đám pháo thủ giữ khẩu súng này. Một cơn bão dữ dội đổ đến, quật ngã người, thổi bay áo khoác, mũ, và cỏ trên các xe ngựa. Chớp giật sáng rực, lóe mắt. Có lệnh phải rước tranh đức Thánh mẫu đồng trinh của tu viện Dolskoi đi vòng quanh doanh trại.
Tang tảng sáng thì trời đổ mưa. Qua màn mưa bị gió thổi bay đi, người ta trông thấy quân man ở về phía cánh phải của quân Nga: bọn Tarta dàn thành hình cánh cung, tiến lại. Không để quân Nga kịp định thần, chúng đánh tan đội kỵ binh và đánh lui trung đoàn tiên phong phải rút về chỗ đội xe lương thảo. Mồi súng đại bác châm không cháy, thuốc súng ở trong các súng trường bị ướt. Quân Tarta dừng lại trước đội xe ngựa, dàn thành ba hàng. Dây cung của chúng ướt sũng nước và tên bắn đi rơi xuống lả tả.
Vaxili Vaxilievich đi bộ, lồng lộn giữa đội xe kéo, cầm roi vụt bọn lính pháo thủ, bắt tay vào lăn bánh xe, giật bỏ mồi đạn. Mưa quất vào mắt, làm miệng mọi người đầy nước. Sau cùng, lính pháo thủ lấy áo khoác che mưa, bật được bùi nhùi; người ta cho thêm thuốc khô vào và các khẩu đại bác bắn đạn ghém vào đám ngựa Tarta...
Ở cánh trái, Mazeppa và quân Cô-dắc của hắn chiến đấu kịch liệt bằng gươm trần. Bỗng nhiên, bọn “mola” hú lên những tiếng hú dài: quân Tarta lùi lại rồi biến mất trong mưa rơi tối sầm trời đất.
-------------
Chú thích:
(1) Mộ cổ: những nấm đất đắp trên mộ cổ đó.
(2) Constantinop: thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ thời xưa. Vơnidơ; Giên: thương cảng lớn ở Ý thời xưa.
(3) Tù binh bắt sống để lấy cung.
(4) Áo dài mặc ngoài.
(5) Chức sắc trong tôn giáo và chinh quyền ở các nước theo Hồi giáo.

Chương 42

Kính gửi Chúa thượng của thiếp, niềm vui của lòng thiếp, kính gửi Sa hoàng Piotr Alekseevich... Chúc Chúa thượng, nguồn ánh sáng của thiếp, luôn luôn mạnh khỏe, trong rất nhiều năm...”
Evdokia viết đã mệt nhoài. Ba ngón tay nắm chặt lấy đầu chiếc bút lông ngỗng, đã vấy đầy mực. Nàng đã viết hỏng đến tờ thứ ba, - hoặc là viết không thành chữ hoặc là làm bẩn giấy. Tuy nàng rất muốn viết thật dịu dàng để Piotr thân mến của nàng sung sướng khi nhận được lá thư nhỏ này. Nhưng liệu người ta có thể diễn tả được nỗi lòng chan chứa ra bằng mực, lên giấy được không?
Khi ấy đang tiết tháng tư. Các cây phong xanh rờn, thân phủ một lượt lông tơ màu vàng óng như lông gà con. Những đám mây nhỏ, trắng như tuyết, viền xanh, lững lờ trôi. Evdokia nhìn mây trôi, nhìn mãi; mi mắt nàng đẫm lệ, có lẽ vì nghĩ vơ vẩn...
Nàng liếc nhìn ra cửa: mong sao bà mẹ chồng đừng vào, đừng để bà ta trông thấy nàng khóc... Evdokia lấy ống tay áo lau nước mắt.
Nàng cau trán... Không biết nàng còn có thể viết gì nữa cho chồng được? Con chim bồ câu nhỏ của nàng đã ra đi, tới hồ Pereiaslavskoe và không viết thư cho nàng biết bao giờ thì về... Nếu chàng về thì hai người sẽ cùng nhịn ăn, dự buổi lễ chầu thứ nhất... Sau tuần chay, hai vợ chồng sẽ phá chay...
Evdokia nhớ lại con gà hai người đã ăn ngay sau lễ hợp cẩn; nàng đỏ mặt và khẽ cười không thành tiếng... Ngày hôm đầu, có thể sẽ cho gọi đám nữ tỳ ra chơi ngoài cánh đồng, nặn trứng... Mọi người sẽ ca hát, nhảy vòng tròn. Cười trên đu, chơi bịt mẩt bắt dê, chạy. Có lẽ nên nói những chuyện ấy với chàng trong thư chăng? Piotr bé bỏng của thiếp, Piotr thân yêu của thiếp, con bồ câu nhỏ của thiếp, hãy về đây, không có chàng thiếp buồn lắm...
Nhưng không biết có thể viết ra tất cả những điều đó được không nhỉ? Không, chẳng thư nào có thể nói lên được những điều đó...
Nàng lại cầm lấy bút và đôi môi mấp máy, chăm chú viết:
Thiếp xin Chúa thượng ra ơn: Chúa thượng hãy về đây với thiếp, về ngay nhé... Người vợ bé nhỏ của Chúa thượng là Dunia, dập đầu lạy chào Chúa thượng...
Nàng đọc lại và vui sướng thấy mình viết hay đến như thế.
A, cha mẹ ơi, mình điên mất rồi, chẳng nói gì đến mẹ chồng cả. Thế là phải chép lại lần thứ tư... Ôi, bà mẹ chồng mình, Natalia Kirilovna, sao mà nghiêm khắc thế? Mình đã cố sức tỏ ra âu yếm mà bà ấy vẫn chê trách. Bà ấy bảo: tại sao con gầy thế. Nhưng nào mình có gầy đâu: mình có đủ cả, mình béo đấy chứ...
Bà ta lại hỏi: tại sao mới được có một tháng mà Petruska đã bỏ con để đi đến hồ Pereiaslavskoe? Con làm sao thế? Người con có mùi hôi dầu hay là con ngu ngốc làm chồng con chán phải bỏ trốn đi đến tận cùng thế giới, xa lánh con như hủi?
Lỗi ở các người đấy: tại sao các người lại để cho Lơfo, Alexaska và bọn Đức đến gần Sa hoàng? Chính họ đã lôi kéo Piotr thân yêu của tôi đến hồ Pereiaslavskoe; rồi họ còn lôi kéo chàng đến những nơi tệ hại hơn nữa.
Evdokia bực tức, chấm bút vào mực. Nhưng nàng người mắt nhìn lên, qua đám lá phong xanh rờn một thứ ánh sáng mờ mờ chiếu qua cửa sổ để ngỏ; một con chim bồ câu phình cổ, dậm chân trên bậu cửa sổ; lại có nhiều con chim khác đương hót véo von... Tất cả những cái đó đem lại hương vị của đồng nội... Và bộp! một giọt nước mắt to rơi xuống tờ giấy thứ tư còn trắng tinh...
Sao mà khổ nhục thế này!

Chương 43

Mỗi ngày lại có một bức thư của vợ hoặc của mẹ nhà vua: vợ cũng như mẹ đều nói là vắng Piotr, thật là buồn; liệu nhà vua có sớm trở về không? Chúng ta sẽ cùng nhau đi đến tu viện Ba Ngôi... Thật là một sự buồn chán của thời thái cổ!
Vua Piotr không có thì giờ đọc những bức thư đó và lại càng không có thì giờ để trả lời. Nhà vua ở một căn nhà nhỏ bằng gỗ, vừa mới dựng ngay giữa công trường, bên bờ hồ Pereiaslavskoe rộng lớn, ở đó có hai chiếc tàu đóng đã gần xong, còn ở trên giàn giáo. Người ta đang lát các boong tàu, hoàn thành việc tạc những hình người ở mũi tàu.
Chiếc tàu thứ ba, chiếc “Thủ đô Prexburg”, đã được hạ thủy.
Tính đến mực nước, nó cao ba mươi tám bộ; mũi tàu vươn cao có gắn hình một nữ thần người cá thếp vàng; phòng sĩ quan đặt ở đuôi tàu cao. Trên mái phẳng của phòng này, có lan can con tiện chạy quanh, một chiếc đèn kính lớn soi sáng cầu chỉ huy của thủy sư đô đốc.
Dưới boong trên, hai bên mạn tàu, tám khẩu thần công thò họng qua cửa sổ ở thành tàư mở ngỏ. Sườn tàu khum khum, phết hắc ín bóng loáng.
Buổi sáng, khi một làn sương mù nhẹ còn bốc khói trên hồ, chiếc tàu ba buồm trông như lơ lửng giữa không trung, giống như trong các bức tranh rất đẹp của Hà Lan do Boris Golixyn biếu... Người ta chỉ còn chờ có gió thuận là khởi hành. Nhưng, như cố tình, hơn một tuần nay, không có chiếc lá nào phe phẩy trên cây. Những đám mây trắng nhỏ, viền xanh lững lờ uể oải trôi trên hồ. Buồm được kéo lên bay vật vờ rồi lại rũ ngay xuống.
Vua Piotr không rời Kacxten Bran một bước. Ông cụ ốm từ tháng hai: bệnh ho đờm như xé phổi ông cụ. Tuy nhiên, tùm hum trong chiếc áo lông cừu ngắn, ông cụ có mặt suốt ngày trên công trường. Ông ta nổi giận, hét, và đôi khi đánh đập những kẻ tỏ ra lười biếng hoặc ngớ ngẩn. Do một đạo dụ đặc biệt, người ta đã đưa tới công trường một trăm năm mươi nông dân thuộc các tu viện: thợ mộc, thợ xẻ, thợ rèn, thợ đấu và phụ nữ khâu buồm khéo. Khoảng năm mươi tên lính, lấy ở các trung đoàn cận vệ trẻ, đến đây học nghề hàng hải: thả dây và buộc dây, leo lên các cột buồm, làm theo lệnh chỉ huy. Thầy dạy họ là Pambur, một người ngoại quốc, quê ở Bồ Đào Nha, mũi khoằm, ria mép đen và cứng như bàn chải, xấu thói, thật là một con quỷ dữ, một tên kẻ cướp. Người Nga đồn rằng hắn đã nhiều lần bị treo cổ vì phạm tội, nhưng được ác quỷ cứu thoát: Pambur sống sót, đã đến nước Nga.
Vua Piotr điên người vì sốt ruột. Tờ mờ sáng, tiếng trống và đôi khi cả gậy gộc đánh thức thợ thuyền dậy.
Đêm mùa xuân ngắn ngủi, ai nấy mệt rũ người. Nikita Zotov viết liên miên những sắc chỉ của Sa hoàng gửi cho lãnh chúa các vùng lân cận, ra lệnh cho họ cung cấp lương thực cho các công trường: lúa mì, gà, vịt, thịt. Bọn lãnh chúa rất kinh sợ, vâng lời. Kiếm ra tiền khó khăn hơn. Sofia rất hài lòng thấy em trai mình lại đi xa Moskva hơn nữa, “A, giá mà nó chìm nghỉm cả người lẫn thuyền!” - nhưng tại Bộ Nội điện thì chẳng còn một tí gì: cuộc chiến tranh ở Krym đã ngốn hết tất cả.
Mỗi khi Franx Lơfo có thể rũ được công việc của mình và phóng ngựa tới công trường hồ Pereiaslavskoe, thì các cuộc vui lại bắt đầu. Hắn mang rượu, xúc xích, bánh kẹo và lời chào của Ansen Monx đến, kèm theo là một cái nháy mắt. Nàng đã bình phục và lại còn đẹp thêm ra và yêu cầu Herr Pete ra ơn nhận cho món quà hai quả chanh. Trong căn nhà gỗ mới, bữa trưa cũng như bữa tối, người ta nâng hết cốc này đến cốc khác chúc mừng sự oai hùng của hạm đội  Peteriaslav.
Người ta đã nghĩ ra một lá cờ cho hạm đội này, làm bằng ba khổ vải: trắng, lam và đỏ. Đám người ngoại quốc kể lại những chuyện vượt biển xưa kia, những cơn phong ba và những trận thủy chiến. Pambur, hai chân xoạc ra, bộ ria mép ngọ nguậy, hét lên bằng tiếng Bồ Đào Nha, như thể thực sự hắn đang ở trên một chiếc tảu của bọn cướp biển.
Vua Piotr giương mắt, dỏng tai, say mê nghe tất cả những chuyện đó. Con người sinh trưởng ở đất liền ấy, do đâu mà lại say mê biển cả đến như vậy? Đêm đến, ngủ trên một cái gác để đồ, bên cạnh Alexaska, nhà vua mơ thấy sóng vỗ, những đám mây trên mặt biển phẳng lặng như cánh đồng bằng mênh mông, bóng những con tàu đang chạy hết tốc lực.
Không một sức mạnh nào có thể làm nhà vua trở về Preobrazenskoe được. Khi các bức thư thúc giục quá vua Piotr trả lời:
Kính gửi người mẹ thân yêu mà con còn quý hơn cuộc đời của thể xác con, kính gửi người mẹ dịu hiền của con, hoàng thái hậu Natalia Kirilovna, đứa con bất hiếu của mẹ là Petruska, quá bận bịu với công việc, xin mẹ ban phước lành và mong được tin về sức khỏe của mẹ. Về lệnh mà mẹ đã hạ cố ban cho con để về trình diện ở Preobrazenskoe, con không mong muốn gì hơn, nhưng con đang có rất nhiều việc phải làm: tàu đã gần xong cả rồi, chỉ còn thiếu có dây buồm nữa thôi. Con cúi xin mẹ ra ơn sai người gửi ngay cho con những dây ấy lấy tại Bộ Pháo binh. Con còn phải ở lại đây một thời gian nữa. Viết đến đây, con cúi xin mẹ ban phước lành cho con. Đứa con bất hiếu của mẹ: Petrusa”.

Chương 44

Bây giờ, ai đi qua trước cửa ngôi nhà gỗ của lão Ivaska Brovkin đều ngả mũ. Cả làng biết rằng: “Aleksey, con Ivaska, bây giờ rất thần thế. Hắn là cánh tay phải của Sa hoàng. Ivaska chỉ cần nháy mắt một cái là con lão gửi ngay tiền cho lão, lão cần bao nhiêu cũng có”.
Với số tiền của Alioska cho (ba rúp rưỡi), lão Brovkin đã mua một con bò cái tơ, giống tốt, với giá tiền là một rúp rưỡi, một con cừu cái hết ba mươi lăm kopeik, bốn con lợn bột, mỗi con chín kopeik và một bộ yên ngựa mới, lão đã dựng một cái cổng, xe bò đi lọt qua và thuê lại của nông dân tám dexiatin đất để gieo hạt vào mùa xuân; lão đã đưa cho họ một rúp bạc, một thùng vodka và hứa là cứ thu hoạch được năm lượm lúa thì trả họ một.
Lão trở nên một tay có vai vế. Lão không còn thắt lưng bằng một sợi dây gai nữa mà thắt một chiếc dây lưng mua từ Moskva, thắt ngay ngang ngực, để phưỡn cái bụng no căng của lão. Lão kéo mũ lông sụp xuống đến tận lông mày và vểnh bộ râu cằm lên rất cao. Làm sao mà không chào lão cho được? Lão lại còn bảo:
- Cứ yên trí, đến mùa thu này, ta sẽ đi gặp con ta, xin nó ít tiền và ta sẽ xây một cái cối xay.
Tên quản lý của Volkov không còn mày tao với lão, không còn gọi lão là Ivaska nữa, mà chỉ gọi lửng lơ là Brovkin. Hắn đã miễn những tạp dịch cho lão.
Các con trai lão - những tay phụ việc tương lai của lão lớn dần lên. Cả mùa đông ấy, Yakov đã đến nhà viên thơ lại ở làng bên để học đọc và học viết. Gavrinka cao lên, trở thành một thanh niên đẹp trai. Cả đứa út, Artamoska, tính tình hiền hậu, cũng không phải là thiếu thông minh. Trời đã cho Ivaska những đứa con khá cả. Có người đã đến hỏi con gái lão là Xanka; nhưng, do địa vị mới của lão, lão ngần ngại không muốn gả con gái cho một người như lão, một gã “mugic”, một anh khố dây: việc này còn cần phải suy nghĩ...
Đến tháng bảy có tin đồn quân đội ở Krym trở về.
Mọi người đều ngóng đợi các chiến binh, cha và con họ. Chiều chiều, phụ nữ nông dân leo lên một ngọn đồi; đứng ở đây trông thấy đường cái. Một người hành hương đã nói rằng quả thực có quân lính trở về các làng lân cận. Các bà mẹ khóc nức nở:
- Người ta đã giết mất con chúng tôi rồi...
Cuối cùng, anh lính Digan trở về làng; mặt hắn đầy râu mọc tua tủa, chột một bên mắt; áo quần nát bươm trên người hắn. Lão Brovkin cùng với gia đình đang ăn bữa tối ở ngoài sân; họ ăn “xúp” bắp cải nấu với mỡ, muối. Có tiếng người gõ cổng.
- Nhân danh đức Chúa cha, đức Chúa con và Thánh thần...
Ivaska hạ cái thìa cầm trong tay xuống, đưa con mắt nghi ngờ nhìn ra cửa.
- Amen, - lão đáp lại. Rồi lão nói to - Cẩn thận, chó nhà tôi dữ lắm. Coi chừng đấy.
Yaska (1) nâng then cài cửa lên và Digan bước vào. Hắn đưa mắt nhìn cái sân, nhìn cả gia đình lão Brovkin và mở cái miệng hàm răng sứt mẻ, cất giọng khàn khàn nói:
- Chào! - Hắn ngồi vào bàn, trên một súc gỗ, - Nhà ta ăn ở ngoài trời à? Trong nhà ruồi quấy quá hay sao?
Lão Ivaska ngọ nguậy cặp lông mày. Nhưng đúng lúc đó Xanka tự ý đẩy âu “xúp” về phía gã Digan, lấy tạp dề lau một chiếc thìa, đưa cho hắn.
- Mời ông ăn với chúng tôi.
Lão Brovkin ngạc nhiên về sự táo tợn của Xanka. Lão tự bảo:
- Chờ đấy, rồi tao sẽ giật bím tóc cho mày một trận! Cái lối gì lại đem vứt của cho thiên hạ như thế?
Nhưng lão ngượng ngùng không dám bàn cãi. Digan đói, hắn ăn, mắt nhắm lại... Lão Brovkin hỏi:
- Anh có đi chiến đấu đấy à?
- Vâng... - Rồi hắn lại hục vào bát “xúp” bắp cải.
- Nhưng này, anh đã đánh nhau như thế nào? - Lão Brovkin, sau khi nhấp nhổm trên ghế lại hỏi.
- Cái đó thì ai mà chả biết. Chúng tôi đã đánh nhau như người ta vẫn đánh nhau.
- Các anh đã thắng bọn Tarta chứ?
- Phải... Chúng tôi đã chết hai vạn người ở Perekov, và lúc rút về lại chết mất từng ấy nữa...
- Ái chà chà, chà chà, - Brovkin lắc đầu. - Thế mà ở đây, người ta bảo Phiên vương Tarta đã hàng quân ta...
Digan nhe hàm răng thưa, vàng khè:
- Ông cứ đi mà hỏi những người còn nằm lại, chết thối xác ở Krym xem Phiên vương Tarta đã đầu hàng như thế nào... Trời nóng như thiêu như đốt, lại không có nước. Bên trái quân ta là Biển Thối, bên phải là Hắc Hải. Nước ấy, không uống được. Còn các giếng thì quân Tarta đem nhét đầy xác chết thối... Quân ta đóng ở bên kia Perekov: tiến thoái lưỡng nan. Người, ngựa chết như rạ... À, phải, chúng tôi đã chiến đấu...
Digan lùa tay vào bộ râu, lau miệng, nhìn Xanka bằng con mắt đỏ ngầu, còn con mắt kia thì mí mắt đã chết. Hấn nói: “Cảm ơn cô gái”. Rồi hắn tỳ khuỷu tay lên bàn:
- Ông Ivan... khi tôi ra đi tòng quân, tôi có để lại đây một con bò cái...
- Chính chúng tôi đã bảo lão quản lý như thế đấy: nếu anh về mà không có bò cái thì làm thế nào? Lão ta đã không nghe chúng tôi, lấy con bò cái ấy rồi.
- Được rồi... Thế còn lợn? Trước kia tôi có một con lợn đực và hai con lợn nái. Tôi đã đề nghị với làng trông nom hộ...
- Người ta có trông nom đấy, chú nó ạ, người ta có trông nom đấy.:. Lão quản lý bắt chúng tôi nộp tô thực phẩm nặng è cổ... Chúng tôi đã bảo nhau: có lẽ anh sẽ chết trận.
- Thế là, cả lợn của tôi, Volkov cũng sơi nốt?
- Phải, ông ta đã ăn cả rồi.
- Được - Digan thọc mấy ngón tay vào mớ tóc rối bù cứng như dây thép, và gãi đầu - Được rồi... Này ông Ivan!
- Cái gì?
- Đừng có nói với ai là tôi đã đi qua nhà ông đấy nhé.
- Anh bảo tôi nói với ai kia chứ? Tôi không phải con người bép xép, anh cũng biết rõ là như thế.
Digan đứng dậy, liếc nhìn Xanka rồi chậm rãi đi ra phía cổng. Ra đến cổng, hắn nói, giọng lộ vẻ đe doạ:
- Như vậy là ông Ivan, ông hãy im cái mồm đi đấy! Vĩnh biệt!
Rồi hắn biến mất. Từ đó không thấy hắn trở về làng nữa.
-------------
Chú thích:
(1) Gọi Yakov một cách thân mật.

Chương 45

Opsey Rezov loạng choạng, đứng ở cửa quán rượu phố Vacvacka, đếm món tiền rải ra trong lòng bàn tay.
Nikita Gladki và Kuzma Tsecmony, hai gã trung đội trưởng quân xtreletz lại gần.
- Opsey, chào cậu. Thôi đừng đếm tiền nữa, lại đây với chúng tớ.
Gladki thì thầm:
- Bọn mình có chuyện cần nói. Có tin dữ...
Tsecmony vỗ cho tiền trong túi hắn kêu loảng xoảng, cười rộ.
- Tớ có đủ tiền cho bọn mình phè phỡn...
- Các cậu ăn cướp được tiền của ai chăng? - Opsey hỏi. - A, xtreletz các cậu làm cái gì thế?
- Đồ xuẩn, - Gladki nói, - chúng tao đã gác ở Hoàng cung. Hiểu chưa? - Và cả hai gã lại phá lên cười. Chúng đưa Opsey vào trong quán rượu và ngồi vào một góc. Lão chủ quán, một ông cụ già nghiêm nghị, mang một chai rượu mạnh và một cây nến đến. Tsecmony tắt ngay ngọn nến và cúi xuống bàn để nghe Gladki thì thầm.
- Thật đáng tiếc là mày không cùng phiên gác với chúng tao... Chúng tao đang gác... Fedor Leontievich Saklovity ra, lại gần chúng tao, bảo: “Lệnh bà biếu mỗi anh năm rúp đề thưởng công lao của các anh...”. Và ông ta đưa cho chúng tao một túi bạc... Chúng tao im, để xem ông ta có ý gì. Ông ta bèn thở dài sườn sượt nói: “Ôi, xtreletz, những người hầu trung thành, các anh sẽ không còn sống được bao lâu nữa với vợ con trong các căn nhà sang trọng của các anh, ở bên kia sông Moskva”.
- Không còn được bao lâu nữa, thế là thế nào? - Opsey hoảng sợ hỏi.
- Là thế này... Ông ta nói: “Người ta muốn chuyển quân xtreletz các anh đến các pháo đài nhỏ ở xa, tống ta đây ra khỏi Bộ chỉ huy xtreletz và nhốt lệnh bà vào một tu viện... Chính hoàng thái hậu Natalia Kirilovna xếp đặt tất cả những mưu mô đó. Chính vì thế mà bà ta đã lấy vợ cho vua Piotr... Chính theo lệnh bà ta, - Ông ấy nói - mà bọn đày tớ, - nhưng chúng mình không biết được là đứa nào, - đã cho Sa hoàng Ivan uống một thứ thuốc độc ngấm chậm. Người ta đã chất củi chẹn cửa Sa hoàng lại và nhà vua phải đi bằng cửa nách... Chẳng bao lâu, Sa hoàng sẽ không còn ở trên đời này nữa. Lúc ấy thì, xtreletz, ai sẽ yêu các anh? Ai sẽ bênh vực các anh?”
- Thế còn Vaxili Vaxilievich? - Opsey hỏi.
- Họ chỉ sợ có mỗi một người là Vaxili Vaxilievich. Nhưng bây giờ bọn đại thần định phản ông ta vì cái nhục ở Krym... Họ sẽ đem vua Piotr đặt lên đầu lên cổ chúng ta.
- Cái đó thì còn chưa chắc... Họ cứ đợi đấy? Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta đứng lên đáp lại chuông báo động.
- Đừng hét to lên như thế, - Gladki cầm cổ áo Opsey kéo lại gần và thì thào. - Chỉ có chuông báo động không thôi sẽ không cứu được chúng ta đâu, ngay dù cho có giết hết bọn chúng nó, như bảy năm trước đây mà không nhổ tận rễ... Phải chọc tiết con gấu cái già... Thế thì còn dung thứ con gấu con làm gì nữa?
- Thế thì sao? Cũng phải cho nó một gậy. Các chú mày ạ, phải cứu lấy cái mạng chúng mình...
Đen tối và ghê gớm là những lời của Nikita Gladki. Opsey run lên. Tsecmony rót rượu trong chai vào những cốc bằng thiếc.
- Phải làm việc này thật êm thấm... Ta sẽ tập hợp độ năm mươi người chắc chắn, rồi đến đêm, ta sẽ phóng hỏa đốt Preobrazenskoe. Trong lửa cháy, ta sẽ dùng dao giết hết chúng nó - công việc sẽ gọn thôi.

Chương 46

Đã từ lâu các trung đoàn xtreletz lại về đóng ở các xloboda của họ, các chúa đất trong đội vệ binh đã trở về dinh cơ của họ, nhưng trên các nẻo đường vùng Kursk và Ryazan, những kẻ bị thương, những kẻ tàn tật và những kẻ vượt ngục vẫn ùn ùn kéo về Moskva. Họ tụ tập trên bậc thềm trước cửa các nhà thờ phơi bày những vết thương, những chỗ lở loét kinh khủng của họ và kêu gào, gí vào mũi những người dễ động lòng trắc ần những mẩu tay chân què cụt, vành mi những con mắt đã chết của họ.
- Hỡi những người ngoan đạo, hãy sờ vào đây, mũi tên đây này, nó còn nằm lại trong ngực tôi...
- Các ông các bà hãy rủ lòng thương, hai mắt tôi mù cả, người ta đã đánh vào đầu tôi tàn nhẫn, ôi, ôi...
- Này ông nhà buôn ơi, ông hãy ngửi xem, ông hãy trông đây này, tay tôi bị thối đến tận khuỷu...
- Còn tôi, người ta đã cắt từng mảng da trên lưng...
- Tôi bị lở loét vì đã uống phải sữa ngựa... Các ông các bà làm phúc, hãy thương lấy thân tôi!
Những người dân thương người trong giáo khu, khiếp sợ trước cảnh tàn tật ấy, phân phát tiền lẻ. Và đến đêm, ở những nơi vắng vẻ, người ta thấy có những người bị chặt đầu. Nạn cướp hoành hành trên các ngả đường, trên các cầu, trong các phố nhỏ tối tăm.
Từng đám đông binh lính què quặt lê la ở các chợ Moskva. Nhưng ngay ở Moskva cũng có nạn đói. Ở khu phố Gostinye Riady, nhiều cửa hiệu đã đóng cửa: một số nhà buôn bị phá sản vì thuế má; một số khác đem giấu kín hàng hóa và tiền bạc của họ, chờ những ngày sáng sủa hơn.
Thứ gì cũng đắt. Và chẳng ai có tiền cả. Người ta mang ra chợ bán lúa mì, bán thịt có dòi.
Ngay đến cá mú sau chiến tranh cũng có vẻ nhỏ đi và gầy hơn.
Zaiatz, bán bánh nướng xưa nay ai cũng biết tiếng, đem bày ra trên quầy hàng một thứ bánh thối đến lộn mửa.
Một thứ ruồi độc xuất hiện, nó đốt làm người ta sưng môi sưng má. Mọi người chen chúc, xô lấn nhau ở chợ, nhưng nhìn kỹ ra thì chỉ thấy bán có chổi bạch dương dùng để tắm (1). Cái thành phố to lớn ấy gầm gừ, hằn học, vô công rồi nghề và đói.
-------------
Chú thích:
(1) Người Nga dùng chổi bạch dương đập vào người để tắm hơi nước nóng.

Chương 47


Mikhail Tyktov ghìm con ngựa nòi của hắn và sửa lại cái mũ lông cho ngay ngắn. Hắn đẹp trai, lịch sự, cổ chiếc áo nẹp kéo lên cao hơn đầu, môi thoa son, mắt tô vẽ đến tận thái dương. Chiếc gươm cong của hắn, chạm vào bàn đạp kiểu Ba Tư kêu lanh canh. Xtiovka Odoievski đứng trên thềm cúi xuống bảo Mikhail:
- Chú ý nghe cho kỹ họ nói gì... Chưa nghe họ nói gì đừng có nói...
- Vâng.
- Cứ khẳng định thẳng cánh là chính hoàng thái hậu và Lev Kirilovich chiếm đoạt lúa mì. Họ cố tình làm thế để Moskva phải đói. Và chớ có quên kể chuyện ruồi độc: cứ nói rằng đó là phép thuật của họ làm ra đấy.
- Vâng.
Tyktov đưa cặp mắt lạnh lùng nhìn qua giữa hai tai con ngựa nòi rồi cúi xuống và phóng ngựa phi nước đại qua cổng mở ngỏ. Ra đến ngoài phố, hắn lập tức bị bao phủ trong bụi và mùi hôi thối. Một gã cầu bơ cầu bất, cởi trần trùng trục, người đầy những vết đo tía, hét lên một tiếng và dùng khuỷu tay chen huých để lao vào chân ngựa. Tyktov lấy roi quất cho nó một cái.
Từ tứ phía, đám đông chen lấn nhau chìa về phía tên quý tộc giàu có những bàn tay đen đủi, ghẻ lở.
Mikhail, mặt hầm hầm, nắm tay chống nẹ từ từ tiến bước giữa đám người đông nghịt.
- Ê, này anh chàng bảnh bao kia, hãy chia đi...
- Ném cho tao một đồng tiền nhỏ...
- Trông đây này: tao sẽ dùng mồm đón lấy đồng tiền...
- Cho tao một đồng tiền nhỏ thôi, cho đi, cho đi...
- Liệu hồn, cho đi thôi, không thì tao trát cứt vào người mày đấy?
- Tao sẽ bán cho mày một nắm rận! Mua đi, tao bán rẻ cho!
- Mày cứ dẫm bẹp tao đi, dẫm bẹp tao đi, tao đói lắm...
Con ngựa e sợ, gậm hàm thiếc, liếc con mắt kiêu kỳ nhìn những mớ giẻ rách đang nhốn nháo, những mái tóc bù xù, những bộ mặt trông đến khiếp. Đám ăn mày và đám cầu bơ cầu bất mỗi lúc lại càng thêm táo tợn. Mikhail cứ lừ lừ mà đi như thế cho đến tận cuối phố Hinka. Ở đây có một đạo dụ đóng đinh trên một cái cọc dưới một bức tranh thánh nhỏ. Một người, dáng dấp đạo mạo, đọc to, át cả tiếng ồn ào của đám đông:

Trẫm, đại đế, khen ngợi khanh, đại thần và người bảo vệ triều đình, vương hầu Vaxili Vaxilievich Golixyn, vì công khanh phục vụ lâu dài và tận tình, vì đã thắng, đã đánh bại và đuổi quân thù hung ác và muôn thuở của Thánh giá và của toàn thế giới Thiên chúa giáo ra khỏi sào huyệt nhơ bẩn của chúng, với một tinh thần dũng cảm chưa từng có...”

Một giọng khàn khàn trong đám đông hét lên:
- Ai đã bị đánh bại, ai đã thua? Chúng ta hay là bọn Tarta?
Lập tức, đám đông gầm lên, giận dữ:
- Chúng ta đã đánh thắng quân Tarta ở đâu nào, bao giờ nào?
- Thậm chí ở Krym cũng chẳng trông thấy chúng nó đâu nữa là...
- Trông thấy chúng nó là đã bỏ chạy như vịt, chẳng dám ngoái cổ lại.
- Thế cái thằng ngu xuẩn đọc dụ kia là đứa nào đấy?
- Một tên thơ lại của điện Kreml...
- Một tên nông nô của Golixyn, một con cún trung thành.
- Nắm lấy vạt áo nó, kéo cổ nó xuống...
Người có vẻ đạo mạo vẫn tiếp tục gân cổ lên gào:

Quân Tarta đã tự phá hoại chúng và đã tự phá hoại nhà cửa của chúng, ở Perekov, chúng đã tự đốt làng mạc, thôn xóm của chúng, và tuyệt vọng, khiếp sợ chúng với bầy rợ đê hèn của chủng đã lẩn tránh khanh... Và bởi vì khanh cùng với các chiến sĩ của khanh, đã trở về trong bờ cõi bình an vô sự như Moise đã đưa người Hebre ra khỏi đất Ai Cập, sau những chiến thắng đã nói trên đây, lừng lẫy khắp thiên hạ, - vì tất cả những điều đó, trẫm hết lòng khen ngợi khanh...”.

Một gã chột mắt, tóc đen cứng như dây thép, lại hét lên:
- Này, lão đọc dụ kia, trong dụ không nói gì đến ta cả ư?
Mọi người cười. Một số người vừa chửi rủa vừa bỏ đi. Một cục bùn rơi bẹt lên trên tờ dụ...
Người đọc dụ, lấy tay che mặt, kêu lên: “Quân cận vệ đâu?”. Tyktov cưỡi ngựa, rẽ đám đông, tiến về phía gã chột. Nhưng Digan nhe bộ răng sún cười hắn rồi biến mất. Có người nắm lấy cương ngựa: “Lột quần áo cái thằng này ra!”. Có người lấy dùi đâm con ngựa, con vật đá hậu, thở mạnh, lồng lên. Người ta huýt sáo theo lối của kẻ cướp. Một hòn đá ném làm sướt má Mikhail. Tyktov thoát ra khỏi đám đông, tiếng chế giễu và tiếng huýt sáo đuổi theo hắn.
Đến cửa ô Nikonskie, hắn trông thấy Xtiovka Odoievski đi với một người mặt tai tái, mũi khoằm, có bộ ria nhỏ rất xinh, cả hai đều cưỡi ngựa. Cứ trông những nếp áo thẳng đơ của người đó, cũng có thể dễ đoán ra được là người đó mặc một bộ giáp dưới áo nẹp.
Tyktov vội vàng ngả mũ, và cúi rạp đầu trên bờm ngựa, hắn chào. Fedor tối sầm, môi dưới mím chặt lấy môi trên. Vẻ mặt cáu giận, y nheo mắt nhìn đám dông. Odoievski hỏi:
- Anh đã nói với họ chưa, Miska?
- Anh đi mà nói... - Má Tyktov đỏ bừng - Bọn quỷ đói ấy chúng chẳng cần gì cả, lệnh bà Sofia hay là Piotr, đối với chúng cũng thế thôi... Điều cần làm là cho hai đại đội xtreletz đến xua cái bọn chó má ấy đi là xong tuốt...
Saklovity khẽ thì thầm qua hai hàm răng:
- Phải cử một người khôn khéo hơn đến gặp chúng, xúi giục chúng tới Preobrazenskoe đòi bánh mì... Bọn trai tráng của vua Piotr cứ việc mà tiếp chúng... Chính theo lệnh vua Piotr mà bọn Đức bắn vào người Nga, - chúng ta sẽ nói như vậy... (Odoievski cười). Hãy đi nói ngay cho quân xtreletz như thế. Ta sẽ sai người của ta ra các chợ. Cần phải kéo đám dân chúng ra xa Moskva. Chúng ta không cần đến chuông báo động lớn. Chỉ quân xtreletz cũng đủ rồi.

Chương 48

Một cỗ xe đi xa đầy bụi, đóng bốn ngựa màu lông khác nhau, từ trong rừng lao ra bờ hồ Pereiaslavskoe.
Người đánh xe, vẻ mặt nghiêm trang và gã nông dân, chân không giầy, ngồi trên lưng con ngựa phụ bên trái, đưa mắt nhìn quanh. Xà gỗ, ván gỗ, những đống vò bào và thùng hắc ín vỡ, rải rác khắp mọi chỗ. Không một bóng người; chỉ nghe thấy đây đó những tiếng khò khò nặng nề. Cách bờ hồ không xa có bốn chiếc thuyền sơn hắc ín bỏ neo; mũi thuyền có gắn tượng, với những cửa sổ nhỏ hình vuông, soi bóng xuống mặt nước màu xanh nhạt. Chim hải âu bay lượn giữa các cột buồm.
Lev Kirilovich từ trên xe ngựa bước xuống và nhăn nhó xoa lưng, - cuộc hành trình làm ông ta ê ẩm cả người; ông ta chưa già nhưng béo phệ vì vô độ. Ông ta đợi xem có người nào ló ra. Lười quá không muốn lên tiếng gọi, ông ta đằng hắng. Người đánh xe, mắt nhấp nháy, nhìn mặt trời nói:
- Họ đang nghỉ... Lúc này là giờ ngủ trưa...
Quả vậy, trong bóng cây râm mát, sau những xà gỗ và các thùng, người ta trông thấy chỗ thì những cẳng chân đi giầy gai, chỗ thì một chiếc sơ mi vén lên trên cái lưng để trần, chỗ thì một cái đầu bù xù.
Để tránh cho viên đại thần lười nhác khỏi lúng túng, người nông dân ngồi trên ngựa cất tiếng gọi to:
- Ôhê, hỡi những người ngoan đạo, có ai đấy không?
Thế là, cách cỗ xe không xa, từ sau một đống thùng, nhô lên một bộ mặt say rượu không phải người Nga, với bộ ria đen mỗi bên dài đến một phần tư arsin (1), cái đầu quát lên bằng một thứ tiếng Nga chọ chẹ:
- Thằng khốn nạn, làm gì mà kêu ầm lên thế?
Gã đánh xe ngựa quay về phía viên đại thần, đưa mắt dò hỏi: có lẽ phải quất cho cái thằng kia một roi chăng? Nhưng Lev Kirilovich gạt cái đề nghị thầm lặng đó. Cứ đến đây mà coi!
Ở chỗ Sa hoàng Piotr, đến những ông tướng cũng say mềm, bò lê bò càng trên mặt đất. Ông ta đạo mạo hỏi: “Sa hoàng đâu?”
- Có quỷ biết được là ở đâu, - cái đầu có bộ ria mép trả lời rồi lại nằm vật lên đống thừng.
Lev Kirilovich đi theo dọc bờ hồ tìm một người có bộ dạng người Nga. Lần này, chẳng ngần ngại gì, ông ta đá một gã nông dân đi giầy gai. Gả này, một thợ mộc, đứng phắt dậy và cặp mắt hấp háy, trả lời:
- Sáng nay, vua Piotr Alekseevich đã đi thuyền và bắn đại bác. Có lẽ hoàng thượng mệt, đang nghỉ.
Người ta tìm thấy vua Piotr ngủ trong một chiếc thuyền nhỏ, đầu trùm chiếc áo nẹp. Lev Kirilovich đuổi tất cả những người ở gần chiếc thuyền và chờ cháu mình tỉnh dậy. Vua Piotr ngáy một cách khoái trá. Bộ giò gầy gò, đi giầy da ở chân để trần, thò ra ngoài chiếc quần chẽn kiểu Hà Lan. Hai lần, nhà vua lấy chân cọ vào nhau, trong giấc ngủ, để xua ruồi.
Cảnh tượng này làm Lev Kirilovich đặc biệt phiền lòng... Ngai vàng như treo trên sợi tóc, thế mà, thấy không, ruồi đang quấy rầy nhà vua...
Ở điện Kreml, bọn đại thần đã ngang nhiên nói không chút e dè: “Đối với vua Piotr, chỉ có một con đường, con đường dẫn thẳng vào tu viện. Nhà vua là một kẻ trụy lạc, đánh bạn với binh lính; nhà vua chơi súc sắc ở tửu quán rồi đến mất cả vương miện”. Quân xtreletz say rượu lại lảng vảng quanh điện Kreml. Khi có một đại thần đi qua, chúng xấc xược chống nạnh hai tay vào háng. Sofia, đáng sợ vì có những lưỡi gươm của bọn say rượu ấy ủng hộ, sinh ra ngông cuồng.
Golixyn, vị tướng không có vinh quang, lầm lì như một con quạ, ở tịt trong các căn phòng nhà hắn, tường dát đồng; chi có Saklovity và Xinvextr Medvedev là được phép ra mắt hắn. Ai nấy đều hiểu rằng bây giờ thì hoặc là hắn phải rút lui khỏi chính sự một cách nhục nhã hoặc là gây ra đố máu chiếm lấy ngai vàng.
Cơn giông tố đang ùn ùn kéo đến trên điện Kreml. Thế mà kẻ kia đang ngủ trong một chiếc thuyền: chẳng cần gì cà...
- A, chú, chào chú Kot (1) Kirilyst. - Vua Piotr đen sạm, bẩn thỉu, sung sướng ngồi lên mép thuyền. Mi mắt nhà vua hơi sưng húp, mũi tróc da, đuôi bộ ria mép mới mọc vểnh lên. - Chú đến có việc gì thế?
- Thưa bệ hạ đến để tìm bệ hạ đấy, - Lev Kirilovich nghiêm nghị trả lời, - chứ không phải xin bệ hạ một ân huệ gì. Hôm nay đã xảy ra nhiều việc, bệ hạ nhất thiết phải về Moskva. Thần sẽ không trở về nếu không có bệ hạ cùng đi.
Bộ mặt béo ị của Lev Kirilovich run lên; dưới chiếc mũ lông mồ hôi lấm tấm trên thái dương ông ta. Vua Piotr kinh ngạc nhìn chú mình: á à, tình hình ở đó hẳn phải là xấu lắm, ông chú lười nhác của nhà vua mới xúc động đến như thế. Vua Piotr cúi xuống qua mạn thuyền và uống nước trong lòng bàn tay. Nhà vua sốc lại quần.
- Thôi được rồi, một vài ngày nữa ta sẽ về...
- Không phải một vài ngày nữa mà là ngay hôm nay. Không thể bỏ phí một giờ nào được. - Lev Kirilovich tiến lại gần; ông ta đứng chưa đến tai cháu mình. - Tối hôm qua, gần sát ngay Preobrazenskoe, bên kia bờ sông Yauza, người ta đã phát hiện ra có hơn một trăm tên xtreletz nấp trong các bụi rậm.
Ngay lập tức, tai và cổ vua Piotr đỏ ửng lên.
- Quân lính trung đoàn Preobrazenski đã canh gác nhà ta suốt đêm, họ đã để mồi súng luôn luôn cháy và thổi kèn. Thế là bọn kia không dám sang sông. Sau đó, thần được biết, ở Moskva, tên xtreletz Opsey Rezov có kể lại rằng chúng đã nhận được một mệnh lệnh đến đêm, khi có tiếng kêu ở lâu đài Preobrazenskoe thì bọn xtreletz phải sẵn sàng; và tất cả những người bị bắt ở lâu đài được trao cho chúng, chúng sẽ phải chém chết hết, bất kể là ai.
Vua Piotr bỗng lấy bàn tay che mắt, các ngón tay co quắp lại, Lev Kirilovich tiếp tục kể Saklovity đã tung những tên to họng ra gào ở các chợ như thế nào, để xúi giục dân chúng đang bị đói đi cướp phá Preobrazenskoe.
- Dân chúng rất liều lĩnh, chỉ còn có một ý nghĩ trong đầu: ăn cướp. Và Sofia đang nóng lòng đợi những rối loạn mới xảy ra. Quân xtreletz ở chung quanh công chúa đã buộc một sợi thừng vào quả chuông to ở tháp Xpaskaia. Lẽ ra chúng đã kéo chuông báo động từ lâu nhưng các trung đoàn xtreletz, đám nhà buôn và dân các ngoại ô còn ngập ngừng: mọi người đã chán cái chuông báo động rồi. Vào lúc này, đám đại thần đều ở tịt trong nhà, như đang bị vây hãm vậy. Còn bà chị gái yêu quý của thần, Natalia Kirilovna, thì rất hốt hoảng.
Lev Kirilovich gục đầu vào vai cháu. và thổn thức nấc lên, đúng như là một người trong gia đình.
- Petrusa, vì Chúa, chúng thần khẩn nài bệ hạ: bệ hạ hãy tỏ rõ tất cả thiên uy của bệ hạ, bệ hạ hãy lên tiếng. Đã từ lâu, người ta cần có một Sa hoàng, bệ hạ hãy giậm chân, chúng thần sẽ ủng hộ bệ hạ... Ngay cả đến bọn thù địch của chúng ta cũng đã chán ngấy Vaska Golixyn và con Sonka, cái xương đang mắc trong cổ họng chúng ta...
Vua Piotr đã nhiều lần nghe thấy những bài diễn thuyết tương tự như thế này: nhưng hôm nay, tiếng thì thầm nức nở của ông chú làm nhà vua sợ. Nhà vua lại như nghe thấy những tiếng kêu thét rợn tóc gáy; lại trông thấy những cái miệng há hốc, méo xệch, những cái cổ bạnh ra, những mũi mác giơ lên, người Matveev nặng nề rơi xuống những ngọn mác đó...
Nỗi khủng khiếp ăn sâu vào xương thịt nhà vua từ thuở nhỏ. Miệng nhà vua cũng méo xệch đi, mắt trợn lên, một lưỡi dao vô hình đâm vào cổ nhà vua, phía dưới tai.
- Petenka! Tâu bệ hạ, cầu trời phù hộ bệ hạ! - Lev Kirilovich ôm chặt lấy hai vai cháu đang rung lên vì bị giật: Vua Piotr, mồm sùi bọt, giẫy giụa trong tay ông ta. Trong những tiếng kêu ú ớ của nhà vua, có lẫn cả căm giận kinh sợ và hốt hoảng. Nhiều người đã dậy và sợ hãi xúm quanh vua Piotr đang lồng lộn như người bị ma làm. Gã Pambur rậm ria mang đến một âu vodka. Hai hàm răng nhà vua nghiến chặt đến nỗi nhà vua không thể uống được; nhà vua chảy rớt chảy rãi như một đứa trẻ. Người ta kéo vua về phía xe ngựa của Lev Kirilovich.
Nhưng vua Piotr lồng lộn và ra lệnh đặt mình nằm xuống cỏ. Vua dịu dần... Rồi nhà vua ngồi dậy, hai tay ôm lấy hai đầu gối xương xẩu. Nhà vua nhìn dải nước hồ sáng, những con hải âu bay lượn trên các cột buồm.
Nikita Zotov từ đâu không biết, loạng choạng đi tới. Nhân cuộc chiến đấu buổi sáng hôm đó, hắn đã mặc chiếc áo choàng của đại vương trùm đạo, đầu bù tóc rối và rơm dính cả vào râu. Hắn ngồi xuống cạnh vua Piotr, thương hại nhìn nhà vua như một con mụ rậm râu:
- Piotr Alekseevich, bệ hạ hãy nghe thần, thần thật là một thằng ngu xuẩn.
- Cút đi!
- Thần cút đi đây, thưa bệ hạ... Những trò chơi của chúng ta đã đưa chúng ta đến chỗ như thế đấy... Cần phải vứt bỏ những cái đó đi... Đó là những trò trẻ...
-------------
Chú thích:
(1) Đơn vị đo chiều dài của Nga cổ, mỗi arsin bằng 0m71.
(2) Kot có nghĩa là mèo. Lev có nghĩa là sư tử.

Chương 49

Tại nhà thờ Đức Bà Lên Trời, buổi lễ chầu sắp xong. Ban đồng ca của vị giáo trưởng, ở bên trái bàn thờ, và ban đồng ca của các sĩ quan thuộc đội cận vệ của Sa hoàng ở bên phải, lần lượt làm cho những vòm tối thếp vàng của nhà thờ khi thì vang lên giọng hát dịu dàng của đám thiếu niên, khi thì vang lên tiếng gào của những cổ họng khỏe. Những bó nến cháy lép bép trước những tranh thánh khoác áo vàng, soi sáng bộ mặt nóng rực của đám đại thần.
Chính vị giáo trưởng chú lễ, trông lão như một vị tử vì đạo trong các bức tranh thánh của Xuzdan, từ trên bàn vẽ bước xuống; chỉ có đôi mắt lão với hai bàn tay yếu đuối và bộ râu nhỏ dài tới tận rốn, đụng đậy trên chiếc áo lễ dày nặng là có vẻ sống. Mười hai trợ tế to lớn như mười hai ông hộ pháp, tóc xù như bờm sư tử, lúc lắc những lư hương nặng kêu lanh canh. Vị giáo trưởng và bên cạnh lão, các vị đại chủ giáo và tổng chủ giáo như bay lơ lửng giữa đám khói hương mù mịt. Cả nhà thờ vang tiếng kinh cầu nguyện của vị phó chủ giáo, như say men rượu mạnh. Đây là La Mã thứ ba. Lòng kiêu hãnh của người Nga lấy làm vui sướng.
Ở chỗ dành cho Sa hoàng, Sofia đứng dưới một chiếc tàn đỏ thắm. Bên phải công chúa là Sa hoàng Ivan, cặp mắt nửa nhắm nửa mở, gò má ửng đỏ vì sốt trên khuôn mặt đau ốm. Bên trái là vua Piotr, cao như một con sào, - trông như một gã nông dân cải trang nhân ngày lê Noen trong một bộ y phục Sa hoàng quá chật. Bọn vương tôn quý tộc, lấy khăn tay che miệng, nhìn vua Piotr với một nụ cười chế diễu: rõ anh chàng thộn, ngay đến cách đứng ngồi cũng không biết, hắn dậm chân như một con ngỗng, hai bàn chân vòng kiềng, cổ ngoẹo xuống... Sofia ít ra còn hiểu biết phẩm cách đế vương. Để cho cao hơn, Sofia đã đứng lên một chiếc ghế dài nhỏ. Mặt công chúa bình tĩnh, công chúa khoanh tay lại trước ngực, ngón tay, ngực, hai tai, mũ miện của Sofia đầy châu ngọc rực rỡ. Người ta tưởng như trông thấy chính Đức Bà đồng trinh ở Kukui; bắp thịt nổi lên hai bên mép hắn, trông như muốn cắn ai, nhưng hàm răng hắn yếu quá... Mắt hắn nom hung dữ và kiêu kỳ. Và người ta thấy rõ ràng là trong ý nghĩ của hắn chẳng có tí gì là kính tín...
Buổi lễ đã xong. Đám phụ tế bận rộn tíu tít. Cờ xí, đèn lồng bằng mica, thánh giá và tượng thánh, lắc lư trên những cánh tay giơ thẳng.
Đám rước bắt đầu đi, đám vương tôn quý tộc dạt sang hai bên nhường chỗ cho đám rước đi ở giữa. Vị giáo trưởng có các phụ tế dìu đỡ, chào các Sa hoàng, và theo tục lệ đề nghị các Sa hoàng cầm lấy tranh Đức Bà đồng trinh ở Kazan để đi ra Hồng trường, tới nhà thờ Kazan. Đại chủ giáo Moskva đưa bức tranh thánh cho vua Ivan. Sa hoàng rứt rứt bộ râu lưa thưa, đưa mắt nhìn trộm Sofia. Sofia đứng im như một pho tượng, nhìn tia nắng chiếu qua một cửa kính nhỏ bằng mica. Vua Ivan khúm núm nói:
- Tôi không mang nổi, sợ đánh rơi mất...
Đại chủ giáo bèn vượt qua vua Piotr đưa bức tranh thánh cho Sofia. Hai bàn tay công chúa, nặng chĩu những nhẫn, rời nhau ra và nắm chắc lấy bức tranh với một cử chỉ tham lam. Mắt không rời tia nắng, Sofia từ trên chiếc ghế nhỏ bước xuống. Vaxili Vaxilievich, Fedor Sakl ovity, Ivan Miloslavski, tất cả đều mặc áo cầu bằng lông hắc điêu thử, bèn tiến ngay lại gần bà nhiếp chính. Trong nhà thờ bỗng lặng ngắt.
Đột nhiên có ai nói bằng một giọng âm vang không rõ nhưng mọi người đều nghe thấy:
- Đưa đây cho ta... Đưa đây cho ta... - Lần nầy thì to hơn, với một giọng hằn học. Khi mọi người nhìn vua Piotr, ai nấy đều hiều rằng chính là vua Piotr nói... Mặt nhà vua đỏ tía, mắt trợn tròn như mắt cú; vua Piotr bám vào một cái cột xoắn, thếp vàng, chống cái tàn và cái tàn lung lay...
Sofia ngừng một lát, không quay lại, không hề tò vẻ lo sợ. Vua Piotr tàn nhẫn dằn giọng nói những câu đứt đoạn, vang lên khắp nhà thờ:
- Nếu Ivan không cầm được, ta sẽ cầm... Công chúa đi về đi... Đưa tranh thánh đây cho ta... Đây không phải là việc của đàn bà... Ta sẽ không để cho làm như thế?
Sofia ngước mắt lên và với một giọng dịu dàng như không phải của dưới trần nầy, nói:
- Ban hát đâu, hãy hát bài đại xuất lễ!
Công chúa bước xuống và thong thả tiến lên, nhỏ nhắn trong những bộ áo lộng lẫy, giữa hai hàng vương tôn quý tộc. Piotr vươn cổ đưa mắt nhìn theo.
Đám vương tôn quý tộc phì cười trong khăn tay: quả thật là quá khôi hài. Ivan cẩn thận bước xuống theo sau chị gái, thì thầm:
- Thôi, Petruska, hãy làm lành với chị ấy đi... Tại sao lại tranh cãi nhau, cái gì đã chia rẽ hai người như thế?

Chương 50

Saklovity, ngồi trên ghế, người cúi về phía trước, nhìn Vaxili Vaxilievich chằm chặp.
Xinvextr Medvedev mặc áo thầy tu bằng lụa màu quả dâu, cẩn thận nâng bộ râu đen như lông quạ, cắt tỉa gọn gàng, đưa lên mồm nhấm, cũng nhìn Golixyn.
Trong phòng ngủ, trên bàn chỉ thắp có một cây nến. Những lông đà điểu, cắm trên màn treo trên chỗ ngồi, hắt bóng lên cả trần nhà có vẽ những con ngựa có cánh, những thần ái tình nhỏ bé bay lượn và những cô gái hở đùi hở vế đặt vòng lá quế lên đầu một vị anh hùng, chân dung của Vaxili Vaxili evich.
Golixyn nằm trên chiếc ghế dài phủ da gấu. Bệnh sốt rét mắc phải trong chiến dịch Krym đang làm hắn run bần bật. Hắn lo xo trong chiếc áo ngắn bằng lông sóc, kéo lên tận mũi, hai bàn tay thọc vào hai ống tay áo. Sau một im lặng dài, hắn nói:
- Không, ngay đến những chuyện đó tôi cũng không muốn nghe... Chúa đã ban đời sống cho hắn thì chỉ có Chúa sẽ lấy lại.
Saklovity bực tức cầm cái mũ lông đập vào đầu gối và quay về phía Medvedev. Gã này không trù trừ:
- Kinh thánh nói: “Ta sẽ phái một người báo thù tới” cần phải hiểu câu đó như thế này: không phải Chúa lấy đi sự sống mà là bàn tay của con người, nhưng làm theo ý muốn của Chúa.
Saklovity sôi nổi nói tiếp:
- Nó đã gào thét ở nhà thờ như ở quán rượu. Cho đến bây giờ Sofia Alekseyevna vẫn chưa hoàn hồn khỏi cơn sợ do nó gây ra... Người ta đã nuôi một con sói con. Nó mà hành động thì rồi các ngài sẽ thấy nó kéo quân về Moskva. Nó có đến ba nghìn quân, nếu không phải là nhiều hơn thế... Toàn là những con ngựa giống bị hãm tàu đã lâu. Nói tóm lại, tôi nói có đúng không ông Xinvextr?
- Các ngài sẽ thấy nó đem lại suy đồi cho mọi người, xúc phạm đến giáo hội chính thống và những biển máu lênh láng... Khi tôi lấy số tử vi của nó, tóc gáy tôi dựng ngươc cả lên. Những chữ, những con số, những dòng, tất thảy đều đọng máu... Tôi thề với các ngài như vậy... Từ lâu đã có lời sấm hãy chờ đợi lá số ấy!
Vaxili Vaxilievich chống khuỷu tay, mặt tái xanh, sạm lại:
- Này giáo sĩ, ông không nói dối đấy chứ?
Xinvextr giơ cây thánh giá đeo lủng lắng trước ngực lên:
- Ông nói gì vậy?
- Đã từ lâu chúng tôi chờ đợi lá số tử vi ấy, - Medvedev nhắc lại, giọng kỳ dị đến nỗi Vaxili Vaxilievich thấy rùng mình, lạnh toát xương sống. Saklovity đứng phắt dậy, những sợi dây bạc của hắn kêu loảng xoảng, hắn đeo gươm rồi cắp chiếc mũ lông vào nách.
- Vaxili Vaxilievich, sẽ chậm quá mất... Ngài hãy coi chừng: rồi người ta sẽ cắm thủ cấp chúng ta lên cọc. Ngài chần chừ, ngài sợ và ngài đã trói tay chúng tôi!
Vaxili Vaxilievich nhắm mắt lại, nói:
- Tôi không trói tay các ông...
Họ không moi thêm được ở hắn một lời nào nữa. Saklovity bỏ đi; từ bên ngoài vọng tới tiếng vó ngựa của hắn phi nước đại chạy qua cổng lớn. Medvedev ngồi xuống đầu giường Golixyn và nói về vị giáo trưởng Ioakim: lão ta là một người hai mặt, ngu độn và yếu đuối.
Khi các đại chủ giáo mặc áo cho lão trong kho đồ thánh, họ xô đấy lão, làm những cử chỉ tục tĩu sau lưng lão để đùa nghịch. Cần phải có một Giáo trưởng trẻ, có học thức, để Giáo hội có thể nảy nở trong vui tươi như một cây nho...
- Đáng lẽ Giáo hội đã có thể cắm cành nho Thần Thánh ấy trên mũ miện của ngài, thưa vương hầu... (Bộ râu hắn đen như mun sức dầu hoa hồng cù vào tai Vaxili Vaxilievich). Như tôi chẳng hạn, nếu có thời cơ, tôi sẽ không từ chối chiếc áo lễ của giáo trưởng. Chúng ta sẽ có thể hưng vượng lên được... Vaska Xilin, nhà tiên tri, đã đứng trên đỉnh gác chuông Ivan Veliki nhìn mặt trời qua kẽ ngón tay và đã trông thấy tất cả những điềm ấy trên mặt trời... Ngài nên nói chuyện với Xilin. Còn Ioakim thì thứ bảy nào người ta cũng bí mật mang từ Preobrazenskoe đến cho bốn thùng kim ngư đầy... Và lão ta nhận hết...
Rồi Medvedev cũng ra về. Vaxili Vaxilievich bèn mở cặp mắt ráo hoảnh, lắng tai nghe.
Viên thị vệ của hắn đang ngáy ngoài cửa. Bên ngoài, những người gác đêm đi đi lại lại trên các phiến đá lát. Vaxili Vaxilievich cầm lấy cây nến; hắn mở một cánh cửa khuất sau chiếc rèm che giường và đi xuống một cầu thang nhỏ dựng đứng. Cơn sốt làm hắn rùng mình, ý nghĩ hắn rối bời.
Hắn dừng lại, giơ cao ngọn nến qua đầu, kinh hoàng nhìn xuống bên dưới, nhìn vào bóng tối...
“Từ bỏ những dự định to lớn của ta và rút lui về dinh cơ của ta ư? Ta sẽ để cho thời hỗn loạn qua đi. Mặc chúng đâm chém nhau, ta không dính gì vào chuyện ấy rồi cuối cùng chúng cũng sẽ phải nguôi đi. Nhưng còn si nhục, ô danh thì sao? Người ta sẽ bảo mới đây vương hầu Vaxili chỉ huy cả một đạo quân, bây giờ ông ta chăn ngỗng. (Cây nến run run trong bàn tay giá lạnh của hắn) ông ta đã từng muốn chiếm lấy ngôi báu, giờ ông ta về vỗ gà... (Răng hắn va vào nhau lập cập; hắn chạy xuống mấy bậc thang nữa). Nhưng thế thì phải làm gì? Làm như Sofia, Saklovity và bọn Miloslavski muốn ư?... Giết hắn? Nếu không chính hắn sẽ giết chúng ta ư? Thế nhưng nếu như chúng ta không làm được trọn vẹn việc ấy? Đây là một việc ám muội, không rõ ràng, không chắc chắn. Lạy Chúa, xin người hãy chỉ báo cho con... (Đứng tựa lưng vào bức tường gạch, hắn làm dấu thánh giá). Ôi, giá mà ta có thể lên cơn sốt ốm vào thời gian ấy?”.
Xuống đến chân cầu thang, Vaxili Vaxilievich khó khăn mới đẩy được cái then sắt và bước vào một cái hầm xây cuốn, nơi gã phù thủy Vaska Xilin, chân bị đóng xiềng, đang nằm ở một góc trên một tấm thảm nỉ.
- Thưa điện hạ, tại sao điện hạ lại đối xử với tôi như vậy? Tuy nhiên tôi thấy rằng hình như tôi...
- Đứng lên...
Vaxili Vaxilievich đặt cây nến xuống đất, khép chặt hơn nữa hai tà áo khoác bằng lông thú. Cách đây mấy hôm, hắn đã ra lệnh bắt Vaska Xilin, vẫn sống ở nhà Medvedev, và sai đem xích lại. Vaska đã nói nhiều quá, y nói rằng các nhà quyền quý đến nhà y tìm một thứ bùa yêu và người ta bỏ bùa ấy cho một người mà cứ nói đến tên cũng đủ sợ rồi; y còn nói rằng để thưởng công y, người ta sẽ cho y một tòa nhà ở Moskva và cho y tiền đủ để sống ung dung...
Vaxili Vaxilievich hỏi:
- Mày đã nhìn mặt trời có phải không?
Vaska ấp úng, dập trán xuống đất và hối hả hôn lên đất ở hai chỗ, dưới chân vương hầu. Rồi y đứng dậy, đầu y hói, người béo lùn, chân ngắn, mũi như mũi gấu: cặp lông mày rậm của y xếch ngược từ sống mùi lên đến tận mái tóc quăn, bên trên tai; mắt y sâu hoắm, rực lên một ánh lửa tinh quái, cuồng loạn.
- Sáng tinh mơ, người ta đã đưa tôi lên đỉnh gác chuông và một lần khác vào giữa trưa. Những điều tôi đã trông thấy tôi xin nói hết...
- Tao nghi lắm, - Vaxili Vaxilievich dằn giọng. - Trên một thiên thể thì có dấu hiệu gì? Mày nói láo!
- Thưa có dấu hiệu đấy ạ, có dấu hiệu đấy ạ... Tôi thường có thói quen nhìn qua kẽ ngón tay, bỗng dưng tôi như có tài tiên tri, tôi đọc thấy như đọc một cuốn sách vậy... Quả thực cũng có những người bói được trong bã kvas hoặc trong một cái rây soi lên mặt trăng. Tùy họ thôi, vì họ làm được... Ôi, thưa điện hạ, - Vaska Xilin khụt khịt cái mũi gấu của y, và lắc lư người, mắt nhìn vương hầu chòng chọc - Tôi, thưa điện hạ... Tôi đã nhìn thấy hết, tôi biết hết... Tôi trông thấy một Sa hoàng, rất cao, rất âm thầm, chiếc mũ miện lủng lẳng ở sau lưng... Một Sa hoàng khác rất rực rỡ... Ôi, cứ nói ra cũng đủ ghê sợ rồi... Sa hoàng này có ba cây nến cắm vào đầu... Và giữa hai Sa hoàng, có hai người bám chặt nhau, lăn lông lốc như một cái bánh xe, lăn như một cặp vợ chồng... Và cả hai đều đội mũ miện, và giữa hai người mặt trời rực cháy...
- Tao chẳng hiểu mày lảm nhảm cái gì, - Vaxili Vaxilievich nói. Hắn giơ ngọn nến lên và lùi lại:
- Tất cả những điều điện hạ mong muốn rồi sẽ thực hiện cả... Điện hạ đừng sợ gì hết... Điện hạ hãy giữ cho vững... Còn chỗ lá của tôi thì hãy rót ra, hãy rót ra, như thế chắc chắn hơn... Đừng để cho cô gái được yên, hãy làm cho cô ta rực lên, rực lên... (Vaxili Vaxilievich đã ra đến cửa). Thưa vương hầu tôn kính, xin hãy ra lệnh tháo xiềng cho tôi... - Y bỗng giật mạnh cái xiềng như một con chó giữ nhà. - Lạy điện hạ, xin điện hạ hãy cho người đem đồ ăn đến cho tôi, từ hôm qua đến giờ tôi chưa được ăn gì cả...
Khi cánh cửa đóng sập lại, y gào lên, làm cái xiềng kêu loảng xoảng, và rên la với một giọng ghê sợ.

Chương 51

Bọn trung đội trưởng xtreletz Kuzma Tsecmony, Nikita Gladki và Obroxim Petrov mệt lử. Chúng ra sức xúi giục các xloboda của quân xtreletz. Chúng hùng hổ mở toang các cửa, xộc vào các nhà:
- Chúng mày làm sao mà cứ nằm đấy ngủ với vợ, - chúng nói - trong khi chẳng bao lâu nữa người ta sẽ chặt đầu chúng mày...
Chúng gào thét một cách dữ tợn trong sân đồn cảnh sát:
- Ta sẽ lấy hắc ín đánh dấu nhà bọn đại thần và bọn thương gia; ta sẽ cướp cửa hiệu của chúng rồi chia nhau quần áo của chúng... Bây giờ lại có được tự do rồi.
Tại các chợ, chúng lén lút rải những thư nặc danh, rồi ngay lập tức, vừa chửi rủa ầm ĩ, chúng vừa đọc ngay lên cho dân chúng nghe. Nhưng quân xtreletz, như những thanh củi ướt, chỉ rít lên mà không bắt lửa: ngọn lửa nổi loạn không bốc cháy. Vả lại, chúng đâm ra sợ sệt. Chúng nói:
- Hãy trông tất cả những quân chó má đã tụ tập ở Moskva. Kéo chuông báo động lên là bọn kẻ cướp ấy sẽ ăn cướp hết, chúng ta sẽ mất của.
Một buổi sáng, vào lúc tinh mơ, người ta thấy bốn tên xtreletz chết ngất ở gần cửa ô Miaxniskie: chúng bị vỡ sọ, chân tay bị rìu đánh gẫy. Người ta kéo chúng về trung đoàn xtreletz, đưa vào đồn cảnh sát, rồi cho đi tìm Fedor Leontievich Saklovity. Khi hắn tới nơi, chúng đã kể lại như sau:
- Chúng tôi đứng gác ở cửa ô Miaxniskie, chúng tôi không uống rượu, lạy Chúa. Trời sắp sáng... Bỗng nhiên có những người cưỡi ngựa từ một bãi đất hoang phóng nước đại tới và cầm rìu, cầm chùy, cầm côn đánh chúng tôi... Hung hăng nhất là một tên to béo, mặc áo nẹp bằng xa-tanh trắng, đội mũ lông của hàng đại thần. Thậm chí những tên khác cũng phải tìm cách can nó: “Thôi, Lev Kirilovich, đánh thế thì chết chúng nó mất...”. Nó cứ gào lên: “Rồi chúng nó còn được ăn đòn nữa! Tao sẽ bắt bọn xtreletz chết tiệt phải trả rất đắt cái chết của anh em tao”.
Saklovity nghe và cười gằn. Hắn xem các vết thương. Rồi hắn cầm lấy một ngón tay bị chặt đứt, đứng trên thềm nhà giơ lên cho đám người tò mò và quân xtreletz trông thấy:
- Cả các ngươi nữa, - hắn nói, - chẳng bao lâu người ta cũng sẽ cầm chân các ngươi mà lôi đi, điều ấy thật đã rõ ràng...
Kể cũng lạ. Thật khó mà tin được rằng Lev Kirilovich bỗng dưng lại cũng đi ăn cướp như thế. Và bọn Gladki, Petrov và Tsecmony đi khắp các xloboda của quân xtreletz kể lại rằng đêm đến Lev Kirilovich và bè đảng lảng vảng đi dò xét; thấy một lính xtreletz nào trước đây bảy năm đã tham gia vào vụ chém giết ở điện Kreml là họ đánh anh ta nhừ tử. Quân xtreletz thản nhiên đáp lại:
- Dĩ nhiên, chẳng ai lại đi xoa đầu vuốt ve những quân phiến loạn.
Ba ngày trôi qua và ở gần cửa ô Pokroskie, vẫn những người cưỡi ngựa ấy cùng với tên đại thần to béo lại tấn công một đội tuần tra, dùng chùy, côn và gươm đánh quân xtreletz, làm nhiều tên bị thương. Tại một vài trung đoàn, người ta kéo chuông báo động, nhưng quân xtreletz khiếp sợ, cứ ở lì trong nhà. Đêm đến, chúng bỏ vị trí, chúng đòi phải có một trăm người với một khẩu đại bác mới chịu đi tuần. Cứ như thể quân xtreletz bị búa chài vậy, chúng nằm im, không nhúc nhích.
Rồi có tin đồn là người ta nhận ra được trong số những tên cưỡi ngựa đó có Xtiovka Odoievski, Miska Tyktov, tên này sống ở nhà Odoievski với tư cách là nhân tình và Piotr Andreevich Tolstoy; còn tên mặc áo nẹp trắng thì người ta nói rằng nó chẳng phải là đại thần gì cả mà chỉ là một tên vô lại, Matveika Sosin, cận thần của công chúa. Người ta phân vân tự hỏi: chung cướp phá như vậy là có ý gì?
Trong không khí lo âu ấy, sống ở Moskva thật chẳng yên lành. Mỗi tối người ta lại phái một đội tuần tra năm trăm người đến điện Kreml. Chúng ở đấy về say mèm. Người ta lo sẽ có nhiều đám cháy.
Theo lời mọi người đồn, người ta đã làm ra những quả lựu đạn ném bằng tay, chế tạo rất khéo; hình như Nikita Gladki đã bí mật đem những quả lựu đạn đó đi Preobrazenskoe, bỏ trên đường Sa hoàng Piotr đi qua, nhưng lựu đạn không nổ.
Ai nấy đều náu trong chờ đợi.
Ở Preobrazenskoe, từ khi vua Piotr trở về, súng đại bác nổ không lúc nào ngừng. Trên các ngả đường, sau những dãy hàng rào cự mã, có những tên lính đứng gác, mặt cạo nhẵn nhụi, tóc dài như tóc đàn bà, đội mũ và mặt áo nẹp màu lục.
Đã nhiều lần, bọn cầu bơ cầu bất, sau khi hò hét ầm ĩ ở chợ, kéo nhau về phía Preobrazenskoe để cướp các kho thóc. Nhưng chúng không tới được sông Yauza: đâu đâu chúng cũng đụng phải đám lính dọa bắn chúng.
Ai nấy đều chán ngấy: mọi người đều ước mong bên này thịt bên kia đi cho nhanh, Sofia thịt Piotr hay là Piotr thịt Sofia... Miễn sao thiết lập được một chính quyền vững chắc.

Chương 52

Vaxili Volkov cưỡi ngựa đi qua phố Miaxniskaia có những hàng rào cự mã chắn ngang. Mỗi bước hắn lại bị chặn lại; hắn trả lời:
- Tôi là dapife của Sa hoàng Piotr, tôi mang sắc chỉ của Sa hoàng.
Tại quảng trường Lubianka, ánh những đống lửa soi sáng một cái tháp thấp bè bè, một bức tường thành có trổ lỗ châu mai, vôi vữa long lở, chìm sâu vào bóng tối về phía Neglinaia.
Bầu trời như đen hơn, thấp thoáng ánh sao tháng tám, những bụi cây phía bên kia những rào giậu vây, quanh quảng trường, trông như rậm hơn. Cây thập ác trên đỉnh các ngôi nhà thờ nho nhỏ, thấp, lấp lánh sáng.
Vì đã khuya nên nhiều cửa hiệu trống rỗng. Về bên phải, trước cửa tòa nhà gỗ dài của trung đoàn xtreletz có những người cầm phủ việt đang ngồi.
Volkov được phái đến điện Kreml với một cớ phất phơ. Boris Alekseevich Golixyn, ít lâu nay cứ ở lì ở Preobrazenskoe, đã ra lệnh cho hắn đi xem tình hình trong thành phố.
Cuộc sống mơ màng ở Preobrazenskoe đã chấm dứt. Vua Piotr đã từ hồ Pereiaslavskoe phóng nước đại trở về. Thật không còn nhận ra được nhà vua nữa, như có ai đã thay đổi hẳn nhà vua. Khi vua Piotr trở về, vào ngày hội Đức Bà đồng trinh Kazan, nhà vua như điên như cuồng, phải chật vật lắm mới làm nhà vua trấn tĩnh lại được.
Những người thân cận của nhà vua bây giờ là Lev Kirilovich và Boris Golixyn. Đóng chặt cửa ở trong buồng với vua Piotr, mấy người thì thầm không ngừng và Piotr lắng nghe họ nói. Người ta đã tăng lượng thực phẩm cho đội quân làm trò mua vui; họ được phát bao tay và thắt lưng mới. Người ta đã vay của Kukui những món tiền cần thiết. Khi vua Piotr đi ra sân hoặc đi ra ngoài đồng, luôn luôn có mười gã dapife có vũ khí đi theo. Và nhà vua hình như lúc nào cũng ngoảnh trông lại đằng sau, như nghi ngờ điều gì; nhà vua soi mói nhìn bất cứ ai.
Hôm ấy, lúc Volkov nhảy lên ngựa, vua Piotr đứng trên cửa sổ đã gọi với hắn:
- Nếu Sofia có hỏi nhà ngươi về ta thì ngươi cứ nín lặng... Ngay dù cho họ có bắt nhà ngươi chịu điếu hình, nhà ngươi cũng không được nói...
Volkov đưa mắt nhìn quanh quảng trường vắng tanh và thúc ngựa đi nước kiệu.
- Đứng lại, đứng lại? - một tiếng hét dữ tợn kêu lên trong đêm tối mò. Một gã xtreletz cao lớn chạy tới cản đường Volkov, vừa chạy vừa tụt khẩu hỏa mai trên vai xuống:
- Mày đi đâu, đồ mặt l... - và nó nắm lấy cương ngựa.
- Này, liệu hồn, ta là dapife của Sa hoàng.
xtreletz đưa một ngón tay lên miệng và huýt còi. Năm tên xtreletz khác chạy tới.
- Thằng nào thế?
- Một tên dapife à?
- Chính chúng ta đang cần một thằng dapife...
- Tự nó đã dẫn xác vào miệng cọp...
Chúng vây quanh Volkov dẫn hắn về phía tòa nhà gỗ.
Tại đó, dưới ánh lửa đang cháy, Volkov nhận ra tên xtreletz cao lớn: chính là Opsey Rezov. Hắn co dúm người lại: tình hình này nguy rồi. Opsey không buông cương ngựa.
- Ê những đứa nào nhanh chân nhất, hãy chạy đi tìm Nikita Gladki mau.
Hai tên miễn cưỡng tuân lệnh. Bọn xtreletz ngồi xung quanh đống lửa hoặc ở dưới chân tường tòa nhà gỗ, đứng cả dậy; những tên khác, tung chiếu đắp trên người, ở trên xe ngựa bước xuống. Có tất cả chừng năm mươi tên. Chúng im lặng đứng đó, như thể không dính líu gì đến chuyện này. Volkov đánh bạo:
- Xtreletz, các ngươi làm thế này là không được... Chẳng lẽ mỗi ngươi lại có hai đầu hay sao? Ta mang sắc chỉ của Sa hoàng. Các ngươi bắt giữ ta lại: như thế là hành động kẻ cướp, là phản nghịch...
- Câm đi! - Opsey giơ khẩu hỏa mai lên dọa Volkov. Một tên xtreletz già ngăn nó lại:
- Đừng đụng đến nó, nó chỉ là một thằng đày tớ.
- Đúng thế. Ta là đày tớ của Sa hoàng. Còn các ngươi, các ngươi phục vụ ai? Coi chừng xtreletz, các ngươi có thể bị thiệt đấy. Trước đây người ta cho Khovanski là tốt, ấy thế mà bây giờ người ta đã làm gì hắn rồi? Trước đây người ta cho các ngươi là tốt và bây giờ cái cột trồng trên Hồng trường đâu rồi? Những quyền được miễn trừ của các ngươi bây giờ đâu rồi?
- Mày có im đi không, thằng chó đẻ kia? - Opsey hét lên.
- Ta thương hại các ngươi, Golixyn kéo các ngươi đi lếch thếch trên các cánh đồng còn chưa đủ hay sao? Cứ giúp hắn đi, cứ giúp hắn đi, rồi hắn sẽ đưa các ngươi đi một chiến dịch thứ ba nữa... Các ngươi sẽ đi ăn mày vỏ bánh mì trong sân các nhà... (Bọn xtreletz vẫn im lặng và lầm lì hơn). Sa hoàng Piotr không còn là trẻ con nữa... Cái thời các ngươi làm cho nhà vua sợ đã qua rồi... Coi chừng đấy, bây giờ thì chính nhà vua sẽ có thể làm cho các ngươi sợ. Chao, xtreletz, hãy bỏ cái nghề trộm cướp của các ngươi đi...
- I-ếc!
Một người hét lên với một giọng hung dữ đến nỗi bọn xtreletz giật nẩy mình. Volkov kêu ằng ặc ngã ngửa ra đằng sau, hai tay giơ cao. Nikita Gladki đã nhảy chồm lên ngựa, ôm lấy cổ Volkov, hai người ngã lăn xuống đất. Gladki xoay lại, cưỡi lên người Volkov, đấm vào quai hàm hắn, làm rơi cả mũ lông và giật lấy thanh gươm của hắn. Rồi gã vùng đứng dạy, vung thanh gươm lên cười ha hả: mồm há hốc, trán rộng, mặt rỗ.
- Các cậu trông thấy chưa, gươm của nó đây... Đối với Sa hoàng Piotr, tớ cũng sẽ làm như thế... Hãy tóm lấy nó, lôi nó đến điện Kreml, đem nó đến nhà Fedor Leontievich...
Bọn xtreletz dựng Volkov dậy, bắt hắn đi xuống đồi, dẫn hắn đi dọc theo bức tường của khu Kitaigorod, đi qua trước những cây liễu già cong queo đầy tổ quạ, mọc ven con sông Neglinaia mốc meo, trước những giá treo cổ và bánh xe tra tấn đặt trên đầu những ngọn sào.
Gladki đi theo sau, hơi thở nồng nặc mùi rượu. Chúng đi vào điện Kreml bằng lối tháp Kutafia. Bên kia cửa có những đống lửa của quân lính đóng ngoài trời.
Mấy trăm tên xtreletz ngồi dọc chân tường Hoàng cung, hoặc nằm dài trên cỏ, hoặc đi nhởn nhơ khắp chỗ. Chúng lôi Volkov qua một hành lang tối om om và đẩy hắn vào một căn buồng nhỏ, thấp, có những ngọn đèn thờ soi sáng. Gladki đi vào trong cung. Một tên xtreletz mặt mũi nhăn nheo, có vẻ hiền lành, đứng gác ở cửa. Tựa khuỷu tay trên cái phủ việt, nó khẽ nói:
- Không nên giận chúng tôi, ông thấy đấy, chính chúng tôi cũng chẳng biết xoay theo hướng nào nữa... Người ta ra lệnh là chúng tôi đánh... Ông lớn ạ, chúng tôi đói lắm... Gia đình tôi, tôi phải nuôi mười bốn miệng ăn... Ngày xưa chúng tôi còn buôn bán được tí chút chứ bây giờ chúng tôi chỉ sống vào những thứ người ta cho chúng tôi thôi... Có phải chúng tôi nổi loạn chống lại Sa hoàng Piotr đâu? Ai cai trị chúng tôi cũng được, chúng tôi bất cần, ấy tình trạng chúng tôi bây giờ là như thế đó.
Sofia bước vào, đầu để trần như một cô thiếu nữ, mặc áo nhung đen, có viền lông hắc điêu thử. Mặt mũi cau có, công chúa ngồi vào bàn. Đằng sau Sofia, gã Saklovity đẹp trai mỉm cười, hai hàm răng trắng nhởn. Hắn mặc áo nẹp của lính xtreletz, màu gai đỏ. Hắn ngồi xuống bên cạnh Sofia. Nikita Gladki, tên đày tớ trung thành, đi ra đứng dựa vào khung cửa vẻ mặt ngu độn. Saklovity xoay xoay trong tay bức thư của vua Piotr tìm thấy trong túi.
- Volkov. Đức Bà nhiếp chính đã đọc bức thư, thư này không có gì quan trọng cả. Vậy thì tại sao người ta lại khẩn cấp sai mày đi giữa đêm hôm khuya khoắt thế này?
- Nó là một tên gián điệp, - Sofia nói qua kẽ răng.
- Chúng tao rất lấy làm sung sướng được nói chuyện với mày, một dapife của Sa hoàng... Sa hoàng Piotr vẫn khỏe mạnh chứ? Và thái hậu nữa? Họ có ý định giận dỗi chúng tao lâu nữa không? (Volkov im). Trả lời đi, nếu không chúng ta sẽ buộc mày phải nói...
- Chúng tao sẽ buộc mày phải nói, - Sofia khẽ nhắc lại, mắt nhìn Volkov chằm chằm, nặng nề, một cái nhìn của đàn ông.
- Đội quân bày trò mua vui có đủ lương ăn không thế? Có cần gì không? Đức bà nhiếp chính muốn được biết hết thảy. - Saklovity nói tiếp. - Và tại sao chúng mày lại đặt lính canh gác các ngả đường? Để đùa nghịch hay là vì chúng mày sợ? Cứ cung cách ấy thì chẳng bao lâu sẽ không thể nào vào Moskva được nữa... Chúng mày chiếm đoạt các đoàn xe chở lúa mì, như thế có phải là chính đáng không?
Như đã được căn dặn, Volkov cúi đầu, nín lặng. Nín lặng, không nói thật là đáng sợ. Nhưng Saklovity càng nóng ruột hỏi dồn, mặt Sofia càng sa sầm lại và càng hăm dọa thì Volkov càng bướng bỉnh mím chặt môi. Chính bản thân Volkov cũng không lấy gì làm sung sướng lắm về sự bướng bỉnh của mình. Trong thời gian nằm ườn ra tại Preobrazenskoe, hắn đã tích lũy được nhiều sức lực. Lòng hắn bực tức: đấy, tra tấn tao đi, tao sẽ không nói gì đâu. Dù cho Saklovity có nhảy xổ vào lấy dao lóc da lưng hắn, Volkov cũng sẽ nhìn thẳng vào mặt nó một cách vui vẻ, một cách xấc xược. Sofia tái mặt, lỗ mũi phập phồng. Saklovity tức giận điên người, giậm chân, nhảy chồm lên:
- Mày muốn trả lời trên bục tra tấn phải không?
- Tôi không có gì để trả lời các người cả, - Volkov dằn giọng (chính hắn cũng thấy ghê sợ những lời hắn nói). Hắn bước lên một bước, so một bên vai. - Các người hãy tự mình đi đến Preobrazenskoe mà xem. Thiết tưởng các người không thiếu gì lính xtreletz để đi hộ tống.
Saklovity đánh túi bụi vào ngực hắn. Volkov tắc thở, lùi lại. Sofia ngồi ở bàn đứng dậy; bộ mặt nặng nề, sưng xỉa vì giận dữ, run lên.
- Chặt đầu nó đi! - Sofia nói, giọng khàn khàn. Nikita Gladki và tên lính xtreletz đứng gác lôi Volkov ra ngoài sân.
“Đao phủ đâu!”, Nikita quát to. Volkov ngã gục vào trong tay chúng.
Chúng buông hắn ra; hắn ngã sấp mặt xuống đất. Mấy tên xtreletz lại gần hỏi xem người đó là ai và tại sao hắn lại bị chặt đầu. Vừa cười gằn, chúng vừa lớn tiếng gọi qua khắp quảng trường tối om để kiếm một tên đao phủ tự nguyện. Chính Gladki muốn rút gươm của nó ra.
Chúng bảo hắn:
- Nikita Ivanyst, thật xấu hổ đem gươm của mình vấy máu vì một chuyện như thế này.
Gladki chửi rủa ầm lên chạy vội trở vào trong cung. Khi đó lão xtreletz già đứng gác cúi xuống và chạm vào vai Volkov đang nằm đờ đẫn cả người:
- Trốn đi, - lão nói. - Đừng có đi qua cửa, chạy dọc theo bức tường rồi tìm chỗ mà nhảy qua.
Những đống lửa trú quân trên quảng trường Lubianka đã tắt, chỉ còn một đống vẫn cháy âm ỉ trước tòa nhà gỗ; chẳng đứa nào chịu đi lấy củi về mặc dầu Opsey làm rầm lên. Nhiều tên xtreletz đã lợi dụng đêm tối để lẩn về nhà. Có đứa đã ngủ. Năm tên xtreletz đứng tụm vào một chỗ riêng, gần hàng rào, dưới bóng những cây bồ đề um tùm và thì thầm nói chuyện với nhau...
- Gladki bảo: Boris Golixyn giấu sáu mươi chuỗi bạc trong nhà lão ta ở Ryazanskoe Podvodne... Hắn bảo là ta sẽ chia nhau món đó...
- Thằng Gladki thì chỉ muốn ăn cướp thôi nhưng chẳng có ai theo nó cả.
- Mọi người hết tin tưởng rồi: chúng nó cướp còn bọn mình thì chịu tội...
- Gã dapife nói đúng, có lẽ chẳng bao lâu nữa chính Sa hoàng Piotr sẽ làm cho chúng ta phải hoảng sợ.
- Rất có thể lắm...
- Còn mụ ấy, bà chúa nhà ta, thì đem tiền cho những đứa kia còn bọn này thì cứ phải đứng gác suốt đêm ngày. Cả gia đình chúng ta khốn đốn...
- Tớ thì sẵn sàng đi theo đại đội cận vệ trẻ...
- Rất có thể nhà vua sẽ thắng...
- Nếu thế thì chẳng có gì là lạ
- Chúng mình còn chờ đợi gì ở đây nữa? Đợi người ta buộc thòng lọng vào cổ hay sao?
Cả bọn im bặt và quay lại. Từ phía điện Kreml, có người đang phóng ngựa phi nước đại tới. - Thằng Gladki đang trở về. Lúc nào nó cũng phi nước đại, cái thằng quỷ thọt ấy.
Gladki say mèm, thúc ngựa vào chỗ củi đang cháy, nhảy xuống đất và hét to.
- Tại sao quân xtreletz chưa tập hợp? Tại sao chưa phái chúng đi ra các cửa ô? Ở Kreml, mọi người đã sẵn sàng cả rồi mà ở đây, ngay đến lửa cùng không cháy? Chúng mày cứ ngủ đi? Đồ quỷ! Opsey đâu? Hãy cử người tới các xtreletz. Khi nào ta đánh chuông ở tháp Xpaxkaie, tất cả mọi người đều phải cầm lấy vũ khí...
Gladki chửi rủa om sòm, soạc hai chân ra, biến vào trong tòa nhà gỗ. Khi đó, mấy tên xtreletz đứng dưới những cây bồ đề, trao đổi với nhau như sau:
- Chuông báo động...
- Đêm nay...
- Chúng sẽ chẳng tập hợp được ai đâu...
- Không...
- Này, anh em, ví thử... hả? (Mấy cái đầu chụm lại và họ tiếp tục nói với nhau khẽ hơn nữa). - Ở đằng ấy, họ sẽ cảm ơn chúng ta...
- Tất nhiên rồi...
- Họ sẽ thưởng chúng ta và đủ mọi thứ...
- Ở đây hỏng rồi, chúng mày ạ...
- Rõ, ai đi nào? Cần hai người...
- Phải, ai? Dmitri Melnov, cậu đi không?
- Tớ đi.
- Yakov Ladygin, cậu đi không?
- Tớ ấy à? Được, tớ đi.
- Các cậu hãy xin được gặp đích thân nhà vua... Hãy phục xuống chân nhà vua và nói rõ câu chuyện cho nhà vua hay... Hãy nói với nhà vua rằng: tâu bệ hạ, người ta định ám sát bệ hạ đấy. Nhưng chúng thần, những người đày tớ trung thành của bệ hạ, đã từng hôn cây thánh giá.
- Thôi được, chúng tớ cũng tự biết phải nói gì rồi. Và chúng tớ sẽ nói...
- Đi đi thôi, các cậu...

Chương 53

Không thể nghĩ chuyện đánh nhau với hai tiểu đoàn trong tay, tiểu đoàn Preobrazenski và tiểu đoàn Xemionovski. Ba vạn quân xtreletz, bọn sĩ quan của triều đình, bộ binh ngoại quốc, trung đoàn của tướng Gordon sẽ đè bẹp quân lính của vua Piotr như một con ruồi.
Boris Golixyn cố can: phải bình tĩnh đợi tại Preobrazenskoe cho tới sang xuân. Chẳng bao lâu nữa sẽ là mùa thu, đường xá sẽ lầy lội, rồi sẽ rét to, thì dù cho có lấy củi gộc mà đánh cũng không thể nào bắt được bọn lính xtreletz rời khỏi giường để đi đánh nhau.
Sang xuân sẽ hay. Tình hình sẽ không tồi tệ đi, phải tin là như vậy. Tình hình chắc chắn sẽ xấu đi đối với Sofia và Vaxili Vaxilievich: đến mùa đông, bọn đại thần sẽ hoàn toàn lục đục với nhau và sẽ dần dần chạy sang Preobrazenskoe. Người ta sẽ không trả lương cho quân xtreletz vì Ngân khố rỗng tuếch. Nhân dân thì đói, các ngoại ô, các thợ thủ công đều phá sản, bọn thương gia đều oán thán. Nhưng nếu như Sofia vẫn đánh chuông báo động thúc được quân lính nổi dậy thì ta phải cùng với các tiểu đoàn cận vệ trẻ đi tới tu viện Ba Ngôi thánh Xecgiơ, trú vào trong những bức tường kiên cố của tu viện. Nơi này đã được thử thách rồi; ở đấy ta có thể chống lại một cuộc bao vây trong một năm trời, có khi hơn nữa.
Theo lời khuyên của Boris Golixyn, người ta bí mật gửi quà cáp từ Preobrazenskoe tới tu viện Ba Ngôi để biếu tu viện trưởng Vikenti. Đích thân Boris Alekseevich cũng đến đó hai lần và nói chuyện với tu viện trưởng, yêu cầu được che chở.
Hàng ngày tướng Xomme tổ chức duyệt binh - tiếng súng đại bác nổ đã làm vỡ hầu hết các cửa kính ở lâu đài. Nhưng khi vua Piotr nói đến Moskva thì Xomme sầm mặt lại, chỉ thở vào bộ ria mép:
- Được, chúng ta sẽ chống cự!
Lơfo cũng đến, nhưng không hay đến luôn, không uống rượu, lễ phép với một nụ cười sợ sệt; điệu bộ của Lơfo khiến vua Piotr lo lắng hơn hết thảy.
Ngay Lơfo, nhà vua cũng không tin nữa. Nhiều khi giữa đêm khuya, vua Piotr đánh thức Alexaska dậy, hai người mặc vội mặc vàng chiếc áo nẹp và chạy đi kiểm tra các trạm gác. Vua Piotr dừng lại hồi lâu bên bờ sông Yauza, trong đêm tối ẩm ướt, mắt soi mói nhìn vào bóng đêm về phía Moskva: đêm sâu thăm thẳm, không một ánh lứa và cảnh yên lặng thật ghê rợn.
Vua Piotr rùng mình vì lạnh; vẻ mặt tối sầm, nhà vua gọi Alexaska rồi chậm rãi trở về đi ngủ.
Từ ngày trở về, nhà vua chỉ ngủ với vợ có mấy đêm đầu. Sau đó nhà vua sai kê giường cho mình ở một chái lâu đài, trong một căn phòng thấp có một cửa sổ, gần giống như một cái buồng chứa đồ, tự mình thì ngủ trên một chiếc ghế dài, còn Alexaska thì ngủ dưới đất trên một tấm thảm nỉ. Evdokia đã khóc hết nước mắt chờ đợi chồng, nàng đã có mang được bốn tháng.
Cuối cùng chồng nàng đã trở về nhưng rồi nàng lại khóc không ngớt. Nàng những muốn chạy ra đường đi đón chồng, nhưng các bà già đã ngăn cấm nàng. Nàng đã trốn ra được và chạy tới đón người chồng thân yêu trong phòng đợi. Vua Piotr bước vào, cao lêu đêu, gầy gò, xa lạ. Nàng đã ép mặt, tay, ngực, bụng... vào người chồng. Nhà vua đã hôn nàng, đôi môi khô ráp, người nhà vua có mùi nhựa, mùi thuốc lá. Nhà vua lấy bàn tay xoa nhanh bụng vợ đã bắt đầu to và chỉ hỏi:
- Thế nào, thế nào, tại sao em không viết thư cho ta biết gì về chuyện này?
Và trong giây lát, mặt nhà vua dịu lại. Nhà vua cùng đi với vợ tới chào mẹ. Nhà vua nói nhát gừng, khó hiểu, một bên vai cứ giật luôn và nhà vua gãi luôn tay. Cuối cùng Natalia Kirilovna bảo:
- Sa hoàng Petenka thân mến, ta đã cho đun nồi hơi tắm từ sáng nay rồi đấy!
Nhà vua nhìn mẹ với một vẻ kỳ quặc:
- Thưa mẹ, không phải vì ghét bẩn mà con gãi đâu?
Natalia Kirilovna hiểu ra và nước mắt chảy ròng ròng trên má bà.
Evdokia chỉ giữ được chồng trong buồng ngủ của mình có ba đêm. Nàng đã chờ đợi chồng với biết bao thương mến, nàng đã mong mỏi xiết bao được vuốt ve âu yếm chồng! Nhưng, vì e sợ, nàng lúng túng, bối rối, còn lúng túng bối rối hơn cả đêm tân hôn nữa; thậm chí nàng không biết nói chuyện gì với chồng. Và nàng cứ nằm ườn trên những chiếc gối thêu ngọc trai như một ả ngu đần. Nhà vua giật mình, gãi sồn sột trong giấc ngủ. Nàng không dám động cựa. Và khi nhà vua đi ngủ trong căn buồng để đồ, nàng xấu hố quá, không dám nhìn mặt mọi người.
Nhưng vua Piotr như đã quên phắt mất vợ. Suốt ngày, nhà vua bận rộn, đi lại, bàn bạc với Golixyn...
Tháng tám đã bắt đầu như vậy. Tại Moskva không khí thật là đe dọa; tại Preobrazenskoe, ai nấy đều lo sợ và đề phòng.

Chương 54

- Myn Herz, hay là bệ hạ viết thư cho hoàng đế ở Rome xin một đạo quân?
- Đồ ngu...
- Hạ thần là đồ ngu ư? - Alexaska chồm dậy, bò bốn chân tay trên tấm thảm nỉ. Hắn bò lại gần vua Piotr. Hai mắt hắn long lanh.
- Myn Herz, lời hạ thần nói không phải là ngu dại đâu. Cần phải xin mười ngàn bộ binh. Không cần hơn... Bệ hạ nên bàn với Boris Alekseevich.
Alexaska ngồi xuống đầu giường vua Piotr. Nhà vua nằm nghiêng, đầu gối co lên bụng, chăn chùm kín đầu. Alexaska nhấm một mẩu da bong trên môi.
- Myn Herz, chúng ta không có tiền làm việc đó, quả có thế thật... Cần phải có tiền... Đã vậy, chúng ta sẽ đánh lừa hoàng đế... Chúng ta không đánh lừa nổi hoàng đế hay sao? Hạ thần sẽ thân đi Viên (1)... Sau đó ta sẽ tiến đánh Moskva, tiến đánh bọn xtreletz, thật đấy...
- Cút đi!
- Được. - Alexaska lanh lẹn chui vào trong cái áo lông cừu - Hạ thần không bảo là ta đi cầu xin bọn Thụy Điển hay bọn Tarta... Hạ thần hiểu sự việc. Bệ hạ không muốn thì tùy ý bệ hạ... Đó là việc của bệ hạ...
Vua Piotr lúng búng nói trong chăn, như là nói với hai hàm răng nghiến chặt.
- Ngươi có ý kiến đó quá chậm.
Hai người im lặng. Trong căn phòng nhỏ nóng dữ. Một con chuột nhắt sột soạt dưới lò sưởi.
Xa xa nghe có tiếng kêu: “Hãy mở mắt canh gác đấy”; đó là những lính gác đứng trên sông Yauza. Alexaska thở đều đều.
Những đêm ấy vua Piotr trằn trọc không ngủ được. Đầu nhà vua vừa bắt đầu chìm vào trong gối thì hình như nhà vua lại nghe thấy một tiếng la hét thầm lặng: “Cháy! Cháy!”. Và tim nhà vua đập thấp thỏm như đuôi một con cừu. Không còn một tí dấu vết buồn ngủ nào nữa. Cuối cùng nhà vua bình tĩnh lại, nhưng lắng tai nghe; nhà vua tưởng chừng như có tiếng khóc đâu đó trong nhà, sau những bức tường ghép bằng những thân cây gỗ... Trong những đêm ấy, nhà vua suy nghĩ rất nhiều...
Vua Piotr nghĩ: mặc dầu bị đè nén và buộc phải sống xa triều đình, nhà vua đã sống những năm vô tư lự vui vẻ, ồn ào và rất dại dột tại Preobrazenskoe... Nhà vua đã trở thành xa lạ với tất cả mọi người... Một con sói con, một gã đánh bạn với quân lính... Nhà vua đã rong chơi, nhảy múa hết ngày và thế đấy: một con dao găm nham hiểm đang đe dọa tim nhà vua.
Nhà vua lại mất ngủ. Nhà vua càng co ro dưới chăn.
Chị ta, chị ta, con mụ phóng đãng, khát máu ấy. Hông rộng, cổ béo mỡ... (Nhà vua nhớ lại mụ đứng dưới cái tàn ở nhà thờ như thế nào). Một bộ mặt đàn bà nhà quê đánh phấn, một mụ đồ tể! Mụ đã ra lệnh cài lựu đạn trên đường đi của nhà vua... Mụ đã phái tới những tên giết người dắt dao găm...
Hôm qua người ta đã tìm ra một thùng kvas trong bếp. May thay người ta đã cho chó uống trước - con chó đã lăn cổ ra chết.
Vua Piotr xua đuổi những ý nghĩ đó... Nhưng giận dữ cứ tự nó làm cho các mạch máu ở thái dương nhà vua căng lên... Cướp cuộc sống của nhà vua đi? Không có một con vật nào, một người nào ham sống bằng vua Piotr, chắc chắn là như vậy...
- Alexaska... Đồ quỷ, nhà ngươi ngủ ư? Lấy cho ta ít kvas!
Alexaska từ trong chiếc áo lông cừu vùng ra, mặt ngơ ngác. Vừa gãi, hắn vừa mang một môi kvas đến; hắn uống trước rồi mới đưa cho vua Piotr. Hắn ngáp. Hai người trò chuyện một lúc.
“Hãy mở mắt canh gác”, tiếng kêu cảnh giác đó, buồn bã vang lên ở xa.
- Ta ngủ đi thôi, Myn Herz.
Vua Piotr bỏ phắt đôi chân để trần và gầy gò ở trên ghế xuống đất... Bây giờ thì rõ ràng không phải là mê ngủ nữa, có tiếng chân người thình thịch chạy gấp ngoài hành lang...
Tiếng người, tiếng kêu... Alexaska, mặc quần áo lót mình, cầm hai khẩu súng lục, đứng chắn ở cửa.
- Myn Herz, họ chạy lại đây!
Vua Piotr nhìn ra cửa. Người ta đang chạy tới. Người ta dừng lại trước cửa. Một giọng nói run rẩy:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ tỉnh dậy... tai họa!
- Myn Herz, đó là Alioska.
Alexaska đẩy then cửa. Nhiều người bước vào, thở hồng hộc:
Nikita Zotov, chân đi đất, mắt trợn ngược trắng dã, và theo sau là binh lính trung đoàn Preobrazenski.
Aleksey Brovkin và gã Bukhbustov rậm ria lôi hai tên xtreletz sềnh sệch như hai cái bị không xương vào trong phòng: râu tóc hai tên bù rối, môi trễ xuống, con mắt như điên như dại.
Zotov sợ quá hầu như mất cả tiếng, nói như rít lên:
- Melnov và Ladygin, thuộc trung đoàn xtreletz. Chúng từ Moskva chạy về đây...
Ngay từ ngưỡng cửa, hai tên xtreletz đã nằm phủ phục xuống đất, râu để lên tấm thảm nỉ và ra sức gào thét rối rít, bằng một giọng chúng cố làm cho thật hết sức ghê sợ:
- Ô, ôi thưa đức vua, đức vua nguy mất rồi! Ôi ôi... Nếu như đức vua mà biết người ta đang âm mưu gì chống lại đức vua, người ta đang tập hợp một lực lượng đông vô kể, đang mài sắc những dao găm bằng thép hoa. Chuông báo động đang khua vang trên tháp Xpaxkaie, dân chúng từ các ngả đang đổ đến...
Vua Piotr, toàn thân run bắn, hất mái tóc quăn dính bết mồ hói, và đá mạnh chân trái, hét vang lên còn ghê rợn hơn cả hai tên xtreletz. Nhà vua đẩy Nikita ra rồi cứ mặc áo ngủ như thế mà bỏ chạy ra hành lang.
Những bà già bé nhỏ, sợ lạnh toát cả người, thập thò ở khắp các cửa. Trước bậc thềm cửa sau, bọn đày tớ hoảng sợ đứng túm tụm với nhau. Chúng trông thấy từ trong nhà chạy ra một người mặc đồ trắng, dài, hay bàn tay dơ ra đằng trước như một người mù... “Trời ơi, hoàng thượng đấy mà!”. Có người kinh hoảng, nằm phục xương đất.
Vua Piotr rẽ đám đông, giật lấy dây cương và roi ngựa trong tay một sĩ quan đứng gác và nhảy lên lưng ngựa; nhà vua không sao xỏ được chân vào bàn đạp, ra roi quất ngựa, nhà vua phóng nước đại và biến mất sau rặng cây.
Alexaska bình tĩnh hơn: hắn đã có thì giờ mặc áo nẹp và đi ủng vào. Hắn gọi Alioska:
- Cầm lấy quần áo của chúa thượng và đuổi theo chúng ta.
Rồi nhảy lên một con ngựa khác của trạm gác, hắn phóng theo vua Piotr. Mãi đến khu rừng Xokolniki, hắn mới đuổi kịp. Vua Piotr phi ngựa chẳng cần đến bàn đạp, dây cương.
- Dừng lại, dừng lại, Myn Herz!
Trong rừng, những ngôi sao mùa thu sáng lấp lánh qua những ngọn cây cao. Có tiếng rì rào.
Vua Piotr nhìn quanh, rùng mình và thúc gót vào bụng ngựa, lại tế ngựa chạy, Alexaska đuổi kịp và nắm lấy dây cương, thì thầm nhắc lại với một giọng bực bội:
- Hãy khoan đã nào, bệ hạ chạy đi đâu mà không mặc quần như thế. Myn Herz.
Trong đám phượng vĩ có tiếng sột soạt mạnh: một con gà rừng, hai cánh vướng vít, bay lên và vụt qua như một cái bóng che lấp các ngôi sao. Vua Piotr đưa tay lên ngực để trần, áp vào chỗ tim. Aleksey Brovkin và Bukhbustov, cả hai đều cưỡi ngựa đã đem quần áo tới. Ba người hấp tấp mặc vội quần áo vào cho vua Piotr. Độ hai chục dapife và sĩ quan phóng ngựa đuổi tới nơi. Cả bọn cẩn thận ra khỏi rừng.
Về phía Moskva, chập chờn có ánh lửa mờ mờ của một đám cháy và nghe như có tiếng chuông báo động. Vua Piotr nói que kẽ răng:
- Đi đến tu viện Ba Ngôi...
Qua những con đường nhỏ, qua những cánh đồng vắng vẻ, họ phi thật nhanh ra tới con đường đi tu viện.
Vua Piotr bỏ dây cương, phóng đi, chiếc mũ ba cạnh sụp xuống tận mắt. Thỉnh thoảng nhà vua lại ra roi quất mạnh vào cổ ngựa. Trước mặt và đằng sau, có hai mươi ba người. Vó ngựa lộp cộp trên con đường khô cứng theo một nhịp thưa. Gò, đồi, những bụi cây liễu, cây phong nối tiếp nhau. Bầu trời ngả màu xanh lục ở đằng Đông. Ngựa khục khặc, gió rít bên tai. Thình lình, một cái bóng vội nhảy lùi lại đằng sau: một con vật hay một gã nông dân đến gác ngựa ban đêm; không ai biết. Cái bóng kinh hoàng nép vào trong cỏ.
Cần phải đến tu viện Ba Ngôi trước Sofia. Bình minh sáng dần, vàng khè và hoang vắng. Nhiều con ngựa ngã. Tại quán trọ gần đấy nhất người ta lấy ngựa mới đóng yên cương vào rồi không nghỉ, lại phi nước đại tiếp tục đi.
Khi những mái nhọn trên những ngọn tháp của tòa pháo đài hiện ra ở xa xa và lúc này bình minh đỏ rực chiếu sáng các mái tròn, vua Piotr dừng ngựa, quay lại và nhe răng ra trong một nụ cười gằn. Đoàn người ngựa thong thả vượt qua cửa lớn của tu viện.
Người ta đỡ nhà vua trên ngựa xuống và đưa nhà vua mệt lử và xấu hổ đến chết điếng người, vào phòng riêng của tu viện trưởng.

Chương 55

Sự việc xảy ra, cả Moskva lẫn Preobrazenskoe đều không ngờ tới; Sofia đã không huy động được quân xtreletz, cuối cùng chuông báo động đã không đánh trên tháp Xpaskaia. Đêm ấy, Moskva thờ ơ, ngủ khì.
Người ta rời bỏ Preobrazenskoe... Natalia Kirilovna và con dâu bụng mang dạ chửa, các cận thần, đám dapife; tất cả người nhà và đám đày tớ, cùng với hai trung đoàn cận vệ trẻ đem theo cả đại bác, súng cối và đạn dược, tất cả đều rời đến tu viện Ba Ngôi.
Ngày hôm sau, Sofia đang dự buổi lễ chầu ở nhà thờ trong cung thì Saklovity chen vai huých cánh len lấy một lối đi giữa đám đại thần. Mặt hắn trông đến khiếp. Sofia sửng sốt, nhướn cặp lông mày lên. Hắn cúi xuống với một nụ cười trợn trạo:
- Chúng ta đã làm cho vua Piotr hoảng sợ. Thằng quỷ ấy đã mặc áo ngủ trốn khỏi Preobrazenskoe, không biết đi hướng nào...
Sofia mím môi và dằn giọng chua cay nói:
- Nó muốn chạy như ma bắt thì mặc nó.
Không có gì nghiêm trọng xảy ra, hình như vậy. Tuy nhiên cùng ngày hôm đó, người ta được tin toàn bộ trung đoàn xtreletz của Lavrenti Sukharev đã bỏ đến tu viện Ba Ngôi. Có một điều không sao hiểu được: ai đã kịp thời lung lạc trung đoàn này? Hẳn phải là Boris Golixyn, bạn lưu linh già của Lavrenti. Tại Moskva, mọi người bắt đầu xì xào, bàn tán dữ.
Tối đến, lúc thì ở chỗ này, lúc thì ở nơi kia, một cửa cổng lớn kêu ken két, cỗ xe ngựa của một vị đại thần chạy ra và lăn bánh rầm rầm trên lòng đường lát gỗ súc, phóng nước đại ra con đường đi Yaroslav.
Vaxili Vaxilievich Golixyn thức nhiều đêm trắng với Medvedev, tìm cách đoán mệnh vận bằng phép phù thủy. Ban ngày, hắn đi lang thang trong cung, nửa thức nửa ngủ, và ai bảo gì cũng gật.
Saklovity lồng lộn chạy từ trung đoàn này sang trung đoàn khác.
Sofia cố giấu sự điên giận của mình, chờ đợi...
Đột nhiên, viên đại tá Ivan Txykle bỏ đi tu viện Ba Ngôi cùng với bọn ngũ bách binh trưởng, bách binh trưởng và một phần quân xtreletz trong trung đoàn của hắn. Chính hắn, bảy năm trước đây, đã lôi Ivan Kirilovich, em trai hoàng thái hậu, ra khỏi chỗ ẩn nấp dưới bàn thờ một nhà thờ nọ. Hắn được Sofia hoàn toàn tin cẩn. Để được vua Piotr tha thứ, nhất định là hắn sẽ tiết lộ cho nhà vua biết những mưu đồ của bà công chúa.
Được tin Txykle bỏ đi, Sofia hốt hoảng. Còn biết trông cậy vào ai bây giờ, nếu những con chó trung thành như vậy cũng bỏ đi? Và trong mười chín trung đoàn xtreletz đều có người từ tu viện Ba Ngôi phái đến, mang theo những gramota (sắc chỉ) do Boris Golixyn tự tay viết và ký “Ptr” chéo ngang tờ giấy, mực tóe cả ra xung quanh, ra lệnh cho các đại tá và các uriatnich (1) phải đến chỗ vua Piotr ngay, không được chậm trễ, vì có vấn đề quốc sự quan trọng.
Ở các cửa ô của thành phố, người ta đánh gục bọn sứ giả và đoạt lấy các gramota; tuy nhiên một vài tên cùng tới được các trung đoàn và đọc sắc chỉ. Khi đó Sofia bèn tuyên bố:
- Kẻ nào dám đi đến tu viện Ba Ngôi sẽ bị chặt đầu.
Để trả lời lại, các viên đại tá tuyên bố:
- Được rồi, chúng tôi sẽ không đi.
Vaxili Vaxilievich nảy ra ý nghĩ cử những người tin cẩn đến gặp vợ những tên lính xtreletz đã bỏ đi theo vua Piotr, để đe dọa họ và thuyết phục họ viết thư cho chồng bảo quay về. Ý đó được thực hiện ngay nhưng kết quả hầu như không có gì.
Người ta cử Giáo trưởng Ioa kim đi tu viện Ba Ngôi để khuyên vua Piotr nên giải hòa. Giáo trưởng sẵn lòng đi ngay nhưng rồi ở lại luôn đó; lão cũng không buồn viết thư cho Sofia nữa. Nhiều gramota mới của vua Piotr được gửi tới các trung đoàn, tới các khu phố của các thương gia và đám tiện dân, tới các ngoại ô và các thị trấn:
- Hãy đến trình diện ngay ở tu viện Ba Ngôi thánh Xecgiơ, không được chậm trễ. Kẻ nào không tuân lệnh sẽ bị xử từ.
Như vậy là ở đây thì bị chặt đầu mà ở đó thì cũng thế. Bọn đại tá Netsaiev, Xpiridonov, Normatski, Durov, Xecgeyev, năm trăm uriatnich, một số lớn lính xtreletz, những đại biều của phường nhà buôn và các thợ thủ công của các thị trấn, hoảng sợ thất đảm bỏ đi tu viện Ba Ngôi.
Vua Piotr, đứng trên thềm, mặc theo kiểu Nga, có Boris Golixyn, thái hậu, hoàng hậu và giáo trưởng đứng bên cạnh mời những người mới đến một cốc vodka và bọn mới đến khóc sướt mướt lớn tiếng van xin nhà vua hãy chấm dứt sự rối loạn.
Ngày hôm đó, trong trung đoàn Xukharev người ta hô lên:
- Chúng ta hãy tiến vào Moskva để săn đuổi bọn gian ác!
Vaxili Vaxilievich nói thác là ốm. Saklovity, sợ không dám ló mặt ra ngoài, ở tịt trong các căn phòng bí mật trong cung. Gladki và bạn bè của nó trốn trong nhà Medvedev. Người ta đóng chặt các cửa điện Kreml lại, đưa các khẩu đại bác lên tường thành. Sofia đi lang thang như một linh hồn bị đày đọa trong các gian phòng hiu quạnh, bước chân nặng nề, hai tay khoanh chặt dưới bộ ngực. Thà một trận đánh nhau công khai, một cuộc nổi loạn, một trận tàn sát còn hơn là cái im lặng chết chóc này trong cung điện. Như một giấc mơ bay khỏi trí nhớ, uy quyền đang mất dần, cuộc sống đang mất dần.
Nhưng thành phố hình như có vẻ yên tĩnh. Như thường lệ, các quảng trường và các chợ vẫn ồn ào náo nhiệt. Đêm đến, người ta vẫn nghe thấy tiếng mõ của những người canh đêm và tiếng gà gáy. Chẳng ai muốn đánh nhau. Mọi người hình như đã quên mất Sofia đang sống cô độc giữa những bức tường của điện Kreml.
Khi đó Sofia bèn quyết định. Ngày hai mươi chín tháng tám, có người hầu gái Vecka và mấy tên vệ sĩ đi theo, công chúa lên xe ngựa, thân hành đến tu viện Ba Ngôi.
-------------
Chú thích:
(1) Hạ sĩ quan của quân Cô-dắc. 

Chương 56

Ngày cũng như đêm, một đám mây bụi đọng trên con đường đi Yaroslav: những người đi bộ, những người cưỡi ngựa rời khỏi Moskva, xe chạy rầm rập. Bên tường tu viện Ba Ngôi, tại các thị trấn và trên các cánh đồng, nhiều đoàn xe đổ ùn lại, những đống lửa bốc khói mù mịt; bất cứ lúc nào cũng xảy ra những cuộc đánh lộn ầm ĩ để tranh nhau một chỗ nghỉ, tranh nhau bánh mì, cỏ ngựa.
Tu viện không ngờ lại có nhiều người ùn ùn kéo đến đông như vậy: chẳng bao lâu các kho lúa đều rỗng tuếch; ngoài đồng, người ta ăn trộm các đống cỏ khô. Nhưng cần phải nuôi béo quân xtreletz và các quan chức của triều đình. Người ta phái những toán quân đi kiếm thức ăn trong các làng lân cận; không bao lâu chẳng còn lấy một con gà giò nào nữa.
Tuy vậy xung quanh tu viện Ba Ngôi, người ta sống chen chúc và đói. Nhiều vị đại thần sống trong lều, người thì ở trong sân tu viện, người thì ở bên ngoài. Họ ngồi trên bậc thềm, giữa nắng, ăn vội ăn vàng, đợi vua và các bà hoàng đi ra. Đối với họ, đánh đổi những tòa nhà của họ yên tĩnh biết bao ở Moskva mà một con gà hàng xóm cũng không lọt vào được, lấy cái cảnh chen chúc xô đẩy nhau này thật là một chuyện cực nhọc.
Nhưng tất cả đều hiểu rằng một sự việc lớn đang được quyết định, chính quyền đang đổi thay. Nhưng có phải thay đổi theo chiều hướng tốt hơn không? Không thể nào sống tồi tệ hơn thế này được, hình như vậy: toàn Moskva, toàn dân, toàn nước Nga đều nghèo khổ, mình đầy những vết lở loét che giấu dưới những bộ quần áo tả tơi.
Tối đến ngồi xung quanh đống lửa hoặc nằm dưới xe ngựa, mọi người nói chuyện với nhau thả cửa, tự do. Khắp các cánh đồng, xung quanh tu viện, vang lên tiếng người nói. Các đống lửa trú quân cháy đỏ rực. Không biết từ đâu xuất hiện ra những gã nông dân thạo nghề phù thủy; chúng nháy mắt một cách quái lạ, lắc những hạt đậu trong mũ của chúng; chúng ngồi xổm, trải ra đất một chiếc khăn tay và đoán vận mệnh cho những kẻ ưa chuộng. Gã nông dân xếp ba đống hột đậu nhỏ, múa ngón tay lên trên rồi thì thầm nói:
- Điều ông mong muốn, ông sẽ đạt được, không nên nghi ngờ gì về việc ông định làm, ông cần phải dè chừng những kẻ không đi giầy vỏ gai, không mặc áo lông cừu và mặt trắng. Đừng có đi qua một cái sân thứ ba, đừng có đái nếu trông thấy ba ngôi sao. Ông sẽ được cái ông muốn, có thể sớm thôi và có thể là không được. Amen. Đừng nói cảm ơn, hãy cho tôi đồng tiền nhỏ ông giấu trong mồm kia.
Bọn nông dân phù thủy này bò trong bóng tối giữa các cỗ xe ngựa, tung ra những tin đồn mờ ám. Chúng thì thào:
- Xương sống công chúa đã sụn rồi, vương hầu Vaxili Golixyn sẽ chết trước khi tuyết đầu mùa rơi... Ông bỏ họ là phải lắm... Vua Piotr hãy còn non trẻ đấy nhưng hoàng thái hậu và giáo trưởng nghĩ hộ nhà vua, họ là đỉnh chóp của tất cả. Họ sẽ giữ chặt lấy cái nhân... Và cái nhân sẽ là như thế này: người ta sẽ cấm các quan đại thần đi xe ngựa, người ta sẽ chỉ để lại cho mỗi quan đại thần một mảnh đất thôi, vừa đủ để mà sống. Thương nhân và thợ thủ công ở các xloboda, những kẻ cừ nhất trong số được lựa chọn, sẽ vào cung và được ăn nói đường hoàng. Họ sẽ nói: làm cái này, không nên làm cái kia. Người ta sẽ tống cổ tất cả bọn ngoại quốc ra khỏi nước Nga và sẽ để nhà cửa của chúng cho mọi người cướp. Người ta sẽ phóng thích nông dân và nông nô rồi họ muốn sống ở đâu cũng được, chẳng phải làm việc đến mất mạng và cũng chẳng phải nộp tô nữa.
Bọn mê hoặc và bọn phù thủy đó nói như vậy và những người nghe chúng nói cũng nghĩ như vậy. Tiếng chuông ngày hội gióng giả không lúc nào ngớt trên tu viện. Các nhà thờ, các giáo đường đều mở cửa, đèn nến sáng trưng; những bài hát trang nghiêm của tu viện vang lên suốt ngày đêm.
Sáng tinh mơ, vua Piotr cùng với hoàng thái hậu ở bên phải và giáo trưởng ở bên trái, từ trên thềm đi xuống, đến nhà thờ đứng nghe lễ chầu. Rồi hoàng thái hậu ra mắt dân chúng và thân mời những kẻ mới đến một cốc vodka. Giáo trưởng, người khô đét đi vì làm lễ và nhịn ăn, nhưng đã vững tâm hơn, nói:
- Các người rời bỏ quân cướp và biết sợ Sa hoàng là làm theo ý Chúa. - Nói đoạn, giáo trưởng nhìn vua Piotr chằm chặp, hai mắt sáng quắc. Sa hoàng, mặc theo kiểu Nga, hai bàn tay sạch sẽ nắm một chiếc khăn tay nhỏ bằng lụa, kính cẩn đứng đó, đầu cúi xuống, mặt gầy rạc đi. Đã hơn hai tuần nay, nhà vua không hút tẩu, không uống một giọt rượu. Thái hậu, giáo trưởng, hoặc Boris Golixyn bảo gì nhà vua đều làm theo; nhà vua không hề ra khỏi tu viện. Sau buổi lễ chầu, nhà vua vào ngồi trong phòng kín của tu viện trưởng, dưới tranh thánh và chìa bàn tay cho các đại thần hôn. Nhà vua không còn nói năng hấp tấp và không còn trố mắt nữa. Vua Piotr khẽ trả lời mọi người một cách dĩnh đạc, không nói theo lý lẽ của mình mà nói theo những lời khuyên bảo của các bậc huynh trưởng.
Natalia Kirilovna luôn miệng nói với những người thân cận trong đám đại thần:
- Ta không biết lấy gì cảm tạ Chúa, Sa hoàng của chúng ta đã trở nên đứng đắn, nhà vua đã trở nên lễ độ đức hạnh biết bao...
Lơfo là người ngoại quốc độc nhất được phép gần nhà vua, không phải trong lúc vua và hai bà hoàng đi ra ngoài hoặc tại phòng ăn mà là vào buổi tối, để giáo trưởng khỏi trông thấy.
Lơfo đến gặp Sa hoàng ở phòng riêng của nhà vua. Vua Piotr, không nói không rằng, nắm lấy hai má Lơfo hôn vào miệng, rồi thở dài nhẹ nhõm, ngồi sát bên cạnh. Lơfo thì thầm bằng một thứ tiếng Nga chọ chẹ, kể cho nhà vua nghe chuyện này, chuyện nọ, làm cho nhà vua phì cười, khuyến khích nhà vua và xen vào câu chuyện bông đùa những ý nghĩ rất khôn ngoan.
Hắn hiểu rằng vua Piotr rất xấu hổ về việc mặc áo ngủ chạy trốn và chỉ nghĩ đến chuyện đó nhà vua cũng đã thấy khổ sở. Cho nên hắn trích dẫn những ví dụ lấy trong cuốn Lịch sử của Broniux trong đó có nói đến các bậc vua chúa và những vị tướng oanh liệt đã từng thoát thân bằng mưu mẹo.
“Một vị quận công nước Pháp đã buộc phải cải trang làm đàn bà, nằm vào giường với một người đàn ông. Nhưng ngày hôm sau, ông ta đánh chiếm bảy thành phố... Đại tướng quân Nectariux thấy quân thù sắp sửa thắng thế bèn lấy cái đầu hói nhẵn ra dọa cho chúng sợ, làm chúng phải chạy. Nhưng về sau, ông ta cũng không tránh được nỗi nhục là đã cắm sừng lên cái đầu hói của mình nhưng không vì thế mà mất đi một chút vinh quang nào”, Broniux nói vậy...
Lơfo cười và siết mạnh hai bàn tay vua Piotr, hai bàn tay đầy những giọt sáp nến.
Vua Piotr nóng nảy và thiếu kinh nghiệm. Lơfo nhắc lại với nhà vua rằng đấu tranh với Sofia trước hết phải thận trọng: không phải lăn vào đánh nhau - đánh nhau thì mọi người chán lắm rồi - mà phải theo tiếng chuông tôn nghiêm của tu viện, hứa hẹn hòa bình và phồn vinh cho dân chúng đang từ Moskva ùn ùn kéo tới. Sofia sẽ tự nhiên mà đổ như một cái cột mục.
Lơfo thi thầm với Sa hoàng:
- Pete nầy, bệ hạ hãy đi đứng đạo mạo, nói năng dịu dàng, hãy dập tắt ngọn lửa trong con mắt đi, hãy dự lễ chầu thật lâu chừng nào mà hai chân còn đỡ nổi mình, như vậy bệ hạ sẽ được mọi người quý mến. Người ta sẽ nói: Chúa đã phái đến cho chúng ta một ông vua tốt biết bao, với vua này, mọi người sẽ dễ thở đây. Hãy để mặc cho Boris Golixyn hò hét, đánh nhau.
Vua Piotr ngạc nhiên về trí thông minh của người bạn thân.
- Cái mà tiếng Pháp gọi là chính trị là biết được ưu thế của mình, - Lơfo giải thích -. Vua nước Pháp Louis 11, khi nào cần đến một tên tiện dân là đến thăm đứa nghèo khổ nhất trong đám tiện dân; và khi nào cần, vua chặt ngay đầu một quận công hay một hầu tước lừng lẫy không thương tiếc. Vua Louis chăm lo chính trị nhiều hơn đi chinh chiến, khi thì vua là cáo khi thì lại là sư tử. Vua đó đã làm kẻ thù của mình lụn bại và làm giàu Nhà nước.
Nghe Lơfo nói thật là kỳ lạ: một gã ham nhảy múa, một tay trụy lạc, một anh chàng nghịch ngợm, thế mà hắn lại nói ra những điều người Nga không hề biết đến.
- Ở nước của bệ hạ, - Lơfo nói, - người nào cũng vồ lấy phần mình, chẳng ai nghĩ gì đến Nhà nước; người này thì nghĩ đến lợi của mình, kẻ kia thì chỉ nghĩ đến danh vọng, kẻ khác thì chỉ nghĩ đến chuyện ních cho chặt dạ dày. Có lẽ chỉ ở châu Phi mới tìm thấy một dân tộc mọi rợ đến như thế. Họ chi biết có mỗi một điều: lột da người ta ra bóc lấy ba mảnh da mà ba mảnh da ấy đều thối cả.
Lơfo mạnh dạn nói những điều đó, không sợ vua Piotr bênh vực La Mã thứ ba. Tưởng chừng như hắn cầm một ngọn nến trong tay, đi sâu vào những chỗ thầm kín nhất trong cái đầu óc dã man, háo hức, ngỗ ngược của vua Piotr. Ngọn lửa nhỏ của chiếc đèn thờ trước tranh thánh Xecgiơ đã liếm vào cái cốc thủy tinh màu lam, bên ngoài tiếng chân bọn lính gác đã tắt, - nhưng Lơfo, sau khi nói một chuyện bông đùa làm vua Piotr bật cười, lại nói tiếp:
- Pete này, bệ hạ là một người rất thông minh... Ồ, thần đã lang thang khắp đó đây trên thế giới, thần đã thấy đủ các hạng người... Thần xin đem lưỡi gươm và cuộc đời thần phụng sự bệ hạ... (Hắn trìu mến nhìn vào cặp mắt lồi màu nâu của vua Piotr; nhà vua có vẻ như đứng đắn ra, như thể mấy ngày nay, nhà vua đã sống qua nhiều năm dài dằng dặc). Pete này, bệ hạ cần có những người trung thành và thông minh... Không nên hấp tấp, hãy chờ đợi, chúng ta sẽ tìm ra những người mới, những người mà vì sự nghiệp, vì để tuân lệnh bệ hạ, sẽ nhảy vào lửa, sẽ không thương tiếc một ai, kể cả bố mẹ mình... Hãy để mặc cho bọn quý tộc đại thần tranh dành nhau địa vị danh vọng. Bệ hạ không cần phải lắp cho họ những cái đầu mới. Còn chuyện chặt những cái đầu đó đi, thì muộn một chút cũng chẳng sao... Hãy đón đợi thời cơ, hãy thu thập lực lượng, bệ hạ hãy còn yếu chưa đủ sức chống lại bọn quý tộc đại thần đâu. Rồi chúng ta sẽ vui chơi, sẽ còn nhiều thú vui, nhiều gái đẹp... Hãy hưởng thụ cuộc đời khi máu bệ hạ còn nóng. Ngân khố đủ để chi dùng cho những chuyện đó, bệ hạ là Sa hoàng kia mà.
Cặp môi mỏng của hắn thì thầm sát ngay bên, bộ ria nhỏ vểnh lên cù vào má vua Piotr, cặp mắt khi thì trìu mến khi thì cứng rắn, lộ rõ vẻ thông minh và sự trác táng. Con người đáng quý mến biết bao ấy đọc được ý nghĩ của người khác, nói ra thành lời những ý muốn hỗn độn đang nảy ra trong óc vua Piotr.
Natalia Kirilovna cứ ngạc nhiên mãi vì thấy Petruska của mình biết điều đến như thế. Cách cư xử đĩnh đạc của vua Piotr khiến bà vui sướng hết sức: nhà vua kính trọng mẹ và giáo trưởng, lắng nghe những vị đại thần thân cận, ngủ với vợ và tắm trong phòng tắm hơi nước nóng.
Sống trong tu viện, Natalia Kirilovna tươi hẳn lên như một bông hoa hồng mùa thu: suốt mười lăm năm trời, bà đã sống trong cảnh cô quạnh, ấy thế mà giờ đây, các vương hầu dòng dõi cao quý lại chen vai thích cánh nhau đến để chào bà hoàng thái hậu. Các vị quý tộc, các quan đại thần của triều đình theo dõi từng lời của bà để chạy đi thi hành những lệnh của bà.
Trong buổi lễ chầu, bà ngồi ở chỗ danh dự và giáo trưởng đưa cây thánh giá cho bà hôn đầu tiên.
Lúc các vị vương tể bước ra, dân chúng nằm rạp đầu xuống đất, đám ngây ngô đần độn, tàn tật, đám ăn mày, cất cao giọng ca ngợi bà, xô đẩy nhau để tới hôn gấu áo của bà. Giọng nói của Natalia Kirilovna trở nên bình tĩnh và chậm rãi, cái nhìn trở nên oai vệ. Trong phòng riêng của bà, bọn quý tộc đại thần mặc áo lông đại trào, ngồi im không cựa vì quá nóng, trên những chiếc ghế dài, trên các mặt hòm: Tikhol Nikitievich Xtresnev, người thân cận của hoàng thái hậu, trước đây là sư phó của vua Piotr hồi còn bé ngồi đó, một nụ cười mãn nguyện nở trên môi, lông mày che kín cặp mắt như một bức rèm để mọi người không thể xét đoán được ông ta láu cá hay thông minh; vương hầu Ivan Borisovich Troekurov, khắc khổ, tóc đỏ, mặt to; anh rể của hoàng hậu Piotr Abramovich Lopukhin, da gò má căng ra và đỏ gay, mi mắt đỏ không có lông mi vì ông lão thân hình cứng cỏi khỏe mạnh này rất thèm khát quyền hành; vương hầu Mikhail Alegukovich Seckaski, mũi khoằm khoằm khiến ông ta trông giống một gã Digan (1), đang tựa vào lò sưởi ngủ gà ngủ gật, hai tay khoanh lại một cách bình thản.
Vào khoảng giữa tháng, Fedor Yurievich Romodanovski đã tới, ông ta cũng vào ngồi trong phòng hoàng thái hậu, vuốt ve bộ ria mép, đảo cặp mắt lồi đục lờ lờ nhìn quanh và thở dài, lắc lư cái bụng phệ.
Bước vào trong phòng, bà hoàng thái hậu gọi mọi người bằng tên riêng và tên đệm của người đó, rồi ngồi xuống một chiếc ghế dựa thường, nhón tay cầm chiếc bánh thánh lấy trong khăn tay ra. Bên cạnh hoàng thái hậu là người em trai của bà, Lev Kirilovich trịnh trọng, bụng phệ, da dẻ hồng hào. Và đám đại thần ung dung bàn bạc công việc quốc gia với nhau: phải hành động thế nào đối với Sofia, phải xử trí thế nào với anh em nhà Miloslavski, - đứa nào sẽ phải đi đày và đứa nào sẽ bị nhốt vào một tu viện, và bộ nào sẽ trao cho vị đại thần nào.
Boris Alekseevich Golixyn ít khi tới buồng hoàng thái hậu trừ những trường hợp tối khẩn thiết; ông xấu hổ cho người anh em họ của mình, vả lại ông cũng không có thì giờ: suốt ngày đêm, ông thảo các đạo dụ, tiến hành các cuộc đàm phán với Moskva, tung tiền mua chuộc các trung đoàn, điều khiển các cuộc hỏi cung, lo việc cung cấp cỏ ngựa cho quân lính.
Ông chẳng nghe lời khuyên bảo của ai, ông ta còn tự phụ và kiêu căng hơn cả Vaxili. Mặc áo giáp nhẹ mạ vàng, đội mũ kiểu Ý trên có chùm lông đỏ, lịch sự, bảnh bao, hơi ngà ngà rượu, râu vểnh lên, ông cưỡi một con ngựa cái hăng như lửa, bờm và đuôi có tết sợi vàng, đi thăm các trung đoàn. Ngồi trên cái yên bọc nhung, ông cúi xuống ôm hôn các viên đại tá mới tới. Một tay chống nạnh, ông phi ngựa tới gần quân xtreletz, bọn này quỳ rạp cả xuống như cỏ bị cắt đổ.
- Chào những con người dũng cảm? - Ông kêu to, giọng khàn khàn. Ở chỗ cằm không có râu, đỏ ửng lên. - Chúa sẽ tha thứ cho các ngươi, Sa hoàng sẽ mở lượng bao dung các ngươi. Hãy tháo ngựa ở xe ra, hãy nấu cháo đi, Sa hoàng tặng các ngươi một thùng vodka...
- Cái nhà ông Boris này mới vui chứ, - quân xtreletz nói với vợ chúng trong các đoàn xe. - Như vậy tức là ở đây ổn. Chúng ta chạy sang phe này là đúng.
Boris Golixyn giải quyết công việc cho tất cả mọi người. Các quan đại thần chẳng mong gì hơn, - họ càng yên tâm mà suy nghĩ trong phòng bà hoàng thái hậu. Riêng có anh em Dolgoruki, - Yakov và Grigori, ở trong một chiếc lều căng thảm trong sân của đại chủ giáo, càu nhàu về Boris:
- Chúng ta đã chịu đựng thằng Vaxili trong bảy năm trời, thế mà bây giờ, hãy xem kìa, thằng Boris lại cưỡi lên lưng chúng ta! Chúng ta đã đánh đổi một con chim cu lấy một con cắt!
Giáo trưởng cũng không ưa gì Boris vì ông ta đã cùng ăn chơi với vua Piotr ở Kukui, vì ông ta biết tiếng la-tinh và chuộng tất cả những thứ gì của ngoại quốc đưa vào. Nhưng trong khi chờ đợi thì cả giáo trưởng cũng nín thinh.
Ngày hai mươi chín tháng tám, một tên xtreletz cưỡi ngựa phi nước đại tới trước cánh cửa bọc sắt của tu viện; hắn để đầu trần, chiếc áo nẹp mở phanh ra: trên khuôn mặt đầy bụi chỉ trông thấy lòng trắng của cặp mắt trợn ngược.
Ngửa đầu ra đằng sau, bộ râu nhọn xồm xoàm, chĩa lên phía vọng lâu, hắn hét lên bằng một giọng kinh khủng:
- Công vụ Sa hoàng!
Người ta mở cánh cửa kêu ken két, đỡ tên xtreletz từ trên con ngựa mệt nhoài bước xuống, - gã nông dân coi bộ lực lưỡng, nhưng hắn mệt quá chừng vì đã cố sức làm việc cho Sa hoàng đến nổi hình như không đi nổi nữa; người ta thận trọng dìu hắn tới trước mặt Boris Golixyn. Vừa đi hắn vừa quay đầu nhìn tứ phía. Trông thấy Boris đứng trên thềm, hắn sụp xuống chân vị vương hầu.
- Lệnh bà Sofia đến cách đây mười dặm, ở Vozvizenskoe...
-------------
Chú thích:
(1) Một dân tộc đi lang thang ở châu Âu, sống bằng nghề ca múa, bói toán.

Chương 57

Trạm tiền tiêu tại vùng Vozvizenskoe chặn xe của bà nhiếp chính lại. Sofia hé mở cửa xe có lắp kính; nhận ra mặt vài tên xtreletz, Sofia gọi chúng là quân phản bội, quân Judar(1) và giơ nắm đấm dọa chúng. Bọn xtreletz hoảng sợ, trật mũ ra, nhưng khi chiếc xe định tiếp tục đi thì chúng lấy cán kích chặn đường lại và nắm lấy dây cương ngựa - khi đó đến lượt Sofia hoảng sợ và mụ để chúng đưa tới căn nhà gần đấy nhất.
Đám nông dân và những mụ lắm mồm ra đứng ở cửa nhà họ, bọn trẻ con leo lên mái nhà để xem, các con chó nhe răng sủa theo cỗ xe ngựa. Sofia tái xanh mặt, ngả người ra đằng sau, xấu hổ và giận dữ mang trĩu trong lòng. Verka vật mình xuống chân mụ, thằng lùn Inliaska, cao không hơn một arsin, đầu đội mũ lông có đính nhạc dùng đeo cho chim ưng, mà người ta đưa đi để giải trí, khóc sướt mướt với bộ mặt dúm dó, nhăn nheo.
Chiếc xe ngựa rẽ vào sân một tay chủ quán giàu có. Sofia ra lệnh cho chủ nhà phải lánh đi hết; xong xuôi, công chúa mới bước vào căn phòng tiếp khách, Verka vội vã lấy ngay các vải bọc đem từ trong cung đi phủ lên giường, hòm, ghế; thắp đèn thờ trước các tranh thánh và Sofia nằm lên giường. Linh cảm trước một tai họa sắp tới đánh đai lấy đầu công chúa như một cái vòng sắt.
Chưa được hai tiếng đồng hồ có tiếng vó ngựa và tiếng gươm loáng xoảng đập vào bàn đạp. Chẳng hề xin phép, cứ như bước vào một quán rượu, gã dapife Ivan Ivanovich Buturlin bước vào phòng, hai tay đút túi, mũ lông đội lệch xuống mang tai:
- Bà chúa đâu rồi?
Verka chạy xổ lại, xòe ngón tay ra đẩy hắn:
- Đi ra, đi ra, rõ không biết xấu hổ. Lệnh bà đang ngủ...
- A, bà chúa ngủ thì mày sẽ bảo cho bà ta biết là đừng có đi đến tu viện Ba Ngôi.
Sofia ngồi nhỏm dậy. Công chúa nhìn Buturlin trừng trừng, nhìn mãi cho đến khi hắn phải bỏ mũ ra.
- Ta sẽ đi đến tu viện... Nhà ngươi hãy nói cho em ta biết, ta sẽ tới...
- Đó là việc của lệnh bà. Nhưng Sa hoàng có truyền rằng lệnh bà hãy ở đây đợi phái viên của Người là vương hầu Ivan Borisovich Troyekurov và nhà vua đã ra lệnh không được để lệnh bà ra khỏi nơi này cho tới khi vương hầu Ivan tới.
Buturlin bỏ đi. Sofia lại nằm xuống. Công chúa run bắn người lên khiến Verka phải lấy một chiếc áo lông đắp cho chủ. Cánh cửa sổ nhỏ gắn mica mờ đi. Người ta nghe thấy tiếng roi quất của một gã chăn bò: có tiếng bò kêu, các cánh cống rít lên. Tên hề lùn buồn bã ngồi trên mặt hòm, hai chân buông thõng.
“Cả cái thằng ấy nữa, nó cũng sửa soạn để chôn mình rồi...”. Sofia tức giận điên người. A, giá như mụ với tới chỗ nó ngồi, mụ sẽ hất nó ngã lăn xuống đất. Nhưng hai cánh tay mụ vẫn duỗi dài, nặng như chì...
- Verka, - mụ khẽ gọi, giọng trầm trầm, - khi nào ta tới tu viện Ba Ngôi, hãy nhắc ta nhớ đến thằng Vanka Buturlin...
Đôi môi lạnh của Verka lướt trên tay mụ. Trong ánh hoàng hôn màu xám, Sofia như nhìn thấy trong ý nghĩ cái lưng trần của Vanka, hai cánh tay hắn tím bầm, bẻ ngoặt ra đằng sau, một lưỡi gươm lóe sáng, hai xương bả vai hắn nhô lên rồi xẹp xuống, ở chỗ cái đầu là một cái bong bóng đỏ lòm máu... Cho đáng kiếp nó dám phạm thượng! Sofia khẽ thì thầm.
Troekurov sắp sửa từ tu viện Ba Ngôi tới, với tư cách là phái viên của Sa hoàng. Cách đây hai tuần lễ, Sofia đã cử hắn đi từ điện Kreml đến gặp vua Piotr; hắn đã trở về, chẳng dành được kết quả gì. Khi đó, Sofia tức giận đã không đưa tay cho hắn hôn; hắn cho thế là bị xúc phạm hay hắn sợ? Viên đại thần này trí thông minh rất bình thường, chỉ có bề ngoài của hắn trông là đáng sợ mà thôi.
Sofia bỏ cặp chân to xù từ trên giường xuống đất, buông tà áo phủ lên đôi giầy nhung.
- Verka, đưa cho ta cái hộp...
Verka đặt lên trên cái nệm lông chim một cái hộp có đai sắt; ả gắn một cây nến lên góc hộp và bật chiếc bật lửa lâu đến nỗi Sofia phải bực mình nhún vai...
Mùi bùi nhùi cháy tỏa ra; Verka châm một mẩu giấy rồi châm cây nến và Sofia hất mái tóc xõa xuống má ra đằng sau, cúi xuống ngọn lửa nhỏ. Mụ đọc lại bức thư của đứa em ốm, Sa hoàng Ivan. Vua Ivan viết thư cho Piotr nói rằng không nên đổ máu nữa mà phải giải hòa với nhau; vua Ivan cầu xin sự giúp đỡ nhân từ của giáo trưởng: nhà vua van nài giáo trưởng hãy làm cho trái tim cứng rắn của Piotr và Sofia ngả theo tình thương yêu.
Sofia đọc với một nụ cười nham hiểm. Đành vậy. Mụ cũng sẽ phải chịu cả nỗi nhục này nữa. Miễn sao kéo được con sói con ra khỏi tu viện... Mụ mải mê suy nghĩ không nghe thấy tiếng xe chạy qua cổng. Khi giọng lè nhè của Troekurov hỏi Sofia trong phòng đợi, mụ vớ lấy chiếc khăn đen để trên giường, trùm lên đầu và đứng dậy tiếp vị vương hầu. Ông này nghiêng người bước qua cái cửa chật hẹp, cúi chào, ngón tay chạm đất rồi đứng thẳng dậy, cao đến nỗi đầu chạm trần nhà; mặt ông ta đỏ như đồng, hai con mắt ở trong bóng tối; riêng có cái mũi sáng lên, dưới ngọn lửa nhỏ của cây nến chiếu vào... Sofia hỏi thăm sức khỏe của Sa hoàng và hoàng thái hậu. Troekurov oang oang trả lời:
- Nhờ ơn Chúa, mọi người đều khỏe cả.
Hắn đưa tay lên vuốt râu, gãi cằm rồi cuối cùng không hỏi thăm sức khỏe của Sofia. Công chúa hiểu và cảm thấy lạnh giá cả người. Đáng lẽ mụ phải ngồi xuống để khỏi nhục thêm nữa nhưng mụ vẫn đứng im.
- Ta muốn ngủ đêm ở tu viện Ba Ngôi, - mụ nói, - Ở đây ta đói, ta khó chịu lắm.
Mụ cố soi mói nhìn bóng tối để trong thấy mắt hắn. Lòng kiêu căng của mụ rên rỉ: mụ, bà nhiếp chính, mụ phải sợ cái thằng ngu ngốc mặc ba chiếc áo lông này; một nỗi sợ đàn bà mà mụ đã quên đi trước đây, khiến mụ so vai lại.
Troekurov đáp:
- Thưa lệnh bà, lệnh bà đến chỗ chúng tôi, không có người hộ vệ, không có quân lính đi theo, như thế thật là sai... Đường sá dạo này bất trắc lắm...
- Kẻ nên sợ không phải là ta: ta có một đội quân khá lớn hơn đội quân của các ngươi.
- Nhưng đội quân đó được việc gì cho lệnh bà?
- Nếu ta đến đây không có vệ sĩ thì tức là ta không muốn đổ máu nữa, ta muốn giảng hòa.
- Thưa lệnh bà, lệnh bà muốn nói đến máu ai? Sẽ không có đổ máu nữa. Có lẽ tên kẻ cướp, tên phiến loạn Fetka Saklovity và bạn bè của nó còn khát máu chăng? Nhưng chúng tôi sẽ tìm được chúng nó và trừng trị chúng nó...
- Ngươi đến đây làm gì? - Sofia quát to, giọng như bị nghẹn lại.
Troekurov lấy ở trong túi ra một tờ giấy sắc cuộn tròn có dấu si đỏ ở đầu một sợi dây.
- Ngươi đem đến cho ta một tờ sắc chỉ đó ư? Verka, lấy tờ sắc chỉ trong tay quan đại thần. Còn sắc chỉ của ta là như sau: hãy sai người đóng ngựa vào xe, ta muốn ngủ đêm nay ở tu viện.
Troekurov hất tay Verka ra, mở tờ sắc chỉ và không vội vàng, trịnh trọng đọc:
- “Chiếu theo sắc chỉ của Sa hoàng và đại quận công, trị vì tất cả Đại Nga, Tiểu Nga và Bạch Nga, nay ra lệnh cho ngươi phải về Moskva ngay tức khắc và ở đó đợi lệnh. Sa hoàng sẽ quyết định về ngươi...”
- Đồ chó! - Sofia giật lấy cuốn giấy, vò nhàu ném xuống đất... Chiếc khăn đen trên đầu mụ tụt xuống... - Ta sẽ trở lại với các trung đoàn của ta. Đầu nhà ngươi sẽ rụng trước tiên!
Troekurov vừa thở vừa cúi xuống nhặt tờ sắc chỉ lên và nghiêm nghị đọc nốt, như thể không có Sofia đang lồng lộn trước mặt:
- “Nhưng nếu ngươi cố tình tìm cách vào tu viện, nay ra lệnh hành động đối với ngươi không kiêng nể...”. Thế đó!
Sofia giơ hai tay lên, ấn móng tay vào gáy, và ngã vật xuống giường.
Troekurov cẩn thận đặt tờ sắc chỉ lên mép ghế rồi lại gãi râu và tự hỏi, với tư cách là phái viên, hắn phải xứ sự thế nào trong trường hợp này: chào hay không chào?
Hắn liếc nhìn Sofia, mụ vẫn nằm sóng sượt, úp sấp trên giường; chân mụ đi giầy nhung thò ra ngoài váy: như chân người chết rồi. Hắn từ từ đội mũ vào và đưa cái thân hình cao lớn của hắn ra khỏi cửa, chẳng chào gì cả.

Chương 58

Nhưng nếu anh chậm trễ trong công việc rất nghiêm trọng nầy, thì thật không còn có gì nguy hại hơn...

Bức thư run lên trong tay Vaxili Vaxilievich. Hắn đưa ngọn nến lại gần và nhìn trừng trừng những dòng chữ nguệch ngoạc vội vàng. Hắn đọc đi, đọc lại cố gắng tìm hiểu và sắp xếp lại ý nghĩ. Boris, người em họ của hắn, viết cho hắn:

Đại tá Gordon đã đưa trung đoàn Butxecski đến tu viện Ba Ngôi và đã được phép hôn tay Sa hoàng. Piotr Alekseevich đã ôm hôn hắn nhiều lần và khóc. Và Gordon đã thề sẽ phục vụ nhà vua cho đến chết... Cùng đến với hắn có các sĩ quan, các tên long kỵ binh và bọn kỵ binh ngoại quốc... Vậy còn ai ở lại với các anh nữa ? Một bộ phận nhỏ của quân xtreletz, những tên không muốn rời bỏ cửa hiệu, công việc làm ăn hoặc những nhà tắm công cộng của chúng... Vương hầu Vaxili, hãy còn kịp thì giờ, tôi còn có thể cứu anh được nhưng ngày mai thì sẽ muộn quá mất... Ngày mai người ta sẽ bẻ gãy chân tay Fetka Saklovity trên giá tra tấn”.

Boris viết đúng sự thật. Từ ngày người ta cấm Sofia không cho vào tu viện Ba Ngôi thì không còn gì có thể ngăn chặn được đám binh lính và quan chức của triều đình bỏ trốn. Các quan đại thần rời khỏi Moskva một cách trơ tráo, ngay giữa ban ngày ban mặt.
Gordon, viên tướng thanh liêm và khắc khổ ấy, đã đến gặp Vaxili Vaxilievich và đưa cho hắn xem sắc chỉ của vua Piotr ra lệnh cho Gordon phải đến tu viện Ba Ngôi trình diện.
- Đầu tôi đã bạc và người tôi đầy thương tích, - Gordon nói, lông mày cau lại, hai má cạo nhẵn đầy nếp nhăn, - tôi đã thề trên Kinh thánh và tôi đã trung thành phụng sự Aleksey Mikhailovich (1) và Fedor Alekseevich (2) và Sofia Alekseyevna. Bây giờ, tôi sẽ đến với Piotr Alekseevich. - Lão cầm đốc một thanh gươm dài trong hai bàn tay đi găng da và gõ thanh gươm xuống sàn. - Tôi không muốn đầu tôi rơi trên bục xử trảm.
Vaxili Vaxilievich không phản đối. Có phản đối cũng vô ích: Gordon đã hiểu rằng trong cuộc tranh chấp giữa Sofia và Piotr, Sofia đã thua. Và ngày hôm đó lão bỏ đi, trống dong cờ mở... Đó là đòn cuối cùng, đau nhất.
Đã bao ngày đằng đẵng, Vaxili Vaxilievich sống như bị một cơn ác mộng nặng nề trói chặt: hắn trông thấy những cố gắng vô ích của Sofia và không thể giúp đỡ gì được, mà cũng không thể bỏ mặc mụ ta được. Hắn sợ bị nhục và cảm thấy nỗi nhục đó đã đến gần và không thể nào tránh khỏi như nấm mồ vậy.
Với quyền hành của hắn là người bảo vệ ngai vàng và đại đô thống, hắn có thể huy động ít ra là hai mươi trung đoàn và tiến quân về tu viện Ba Ngôi để nói chuyện với vua Piotr...
Nhưng hắn nảy ra một mối nghi hoặc: nếu như, bỗng nhiên, đáng lẽ phải tuân lệnh, quân lính trong các trung đoàn lại kêu lên: “Đồ kẻ cướp, đồ phản loạn!”, thì sao? Bị mối nghi hoặc đó chi phối, hắn đã ngồi im không hành động; để tránh khỏi phải gặp riêng Sofia, hắn nói thác ra là ốm. Hắn sai một tay chân trung thành bí mật đưa những bức thư bằng tiếng la-tinh tới em họ hắn là Boris ở tu viện Ba Ngôi, trong thư hắn yêu cầu Boris đừng mở những cuộc hành binh đánh Moskva, gợi ra nhiều biện pháp để giải hòa Sofia với Piotr và khoe khoang những công lao, những nỗi đau khổ hắn đã phải chịu đựng trong khi phụng sự Sa hoàng.
Tất cả những cái đó đều vô ích. Thật hoàn toàn như thể hắn thấy trong giấc mơ một người nào đó mà hắn không nhận ra, xông vào đánh hắn; tâm hồn hắn rền rĩ vì khiếp sợ nhưng hắn không đủ sức nhúc nhắc được một cánh tay.
Một con ruồi chạm vào ngọn lửa nhỏ của cây nến đã cháy hết gần nửa. Con ruồi ngã ngửa và ra sức quay tròn, Vaxili Vaxilievich tỳ khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm lấy đầu.
Đêm qua, hắn đã ra lệnh cho con trai là Aleksey và vợ hắn là Avdochia (đã từ lâu, mụ sống cô quạnh và bị lãng quên) phải đi ngay lập tức đến nơi dinh cơ của gia đình hắn ở Medvedkovo, vùng lân cận Moskva. Nhà cửa vắng vẻ. Các cửa sổ và các thềm nhà đều được chặn lại. Nhưng bản thân hắn vẫn chùng chình.
Một hôm, hắn tưởng rằng tình thế đã xoay chuyển. Sofia từ vùng lân cận tu viện Ba Ngôi trở về, không kịp rửa tay, không kịp ăn một miếng nào, đã ra lệnh cho bọn truyền lệnh sứ và bọn mõ đi gọi quân xtreletz, các thương gia và các nhà buôn dạ, dân các thị trấn và tất cả những người dân lành đến điện Kreml. Mụ đã dẫn Sa hoàng Ivan ra trước Thềm Đỏ. Vua Ivan đứng không vững, phải ngồi xuống chân một cái cột, mỉm cười một cách thiểu não (người ta thấy rõ là nhà vua chẳng còn sống được bao lâu nữa). Sofia, vai choàng một chiếc khăn đen, tóc xổ tung như vừa đi xa về, nói với dân chúng:
- Đối với chúng ta hòa bình và hữu nghị là đáng quý hơn hết thảy... Ở tu viện Ba Ngôi, người ta đã không thèm đọc thư của chúng ta, người ta đã đuổi các phái viên của chúng ta một cách thô bạo... Khi đó, ta đã cầu kinh rồi lên xe để thân hành đến nói chuyện thân mật với em trai là vua Piotr... Người ta đã chỉ cho ta tới Vozvizenskoe, và ở đó, người ta đã sỉ nhục và nhạo báng ta, người ta đã chửi ta là đồ đĩ, làm như ta không phải là con gái Sa hoàng, - ta không hiểu làm sao ta còn sống sót được... Suốt ngày ta chỉ ăn có mỗi một mẩu bánh thánh nhỏ... Ở các làng xung quanh tu viện, tất cả mọi thứ đều bị cướp mất hết, theo lệnh của Lev Naryskin và Boris Golixyn... Cả hai đứa đã hùa nhau vào để làm cho vua Piotr sa đọa. Ngày nào cũng như ngày nào vua Piotr chỉ có say rượu ngủ lăn lóc trong một căn phòng xép... Chúng nó muốn tiến đánh Moskva và chặt đầu vương hầu Vaxili... Cuộc sống của chúng ta trở nên ngắn ngủi... Nếu các ngươi nói: chúng tôi không muốn có các người, chúng ta, em Ivan ta và ta, chúng ta sẽ đi thật xa tìm những phòng kín của một tu viện.
Nước mắt mụ ứa ra, không nói được, mụ cầm lấy một cây thánh giá cùng với các thánh tích giơ cao lên. Đám đông nhìn cây thánh giá, nhìn bà công chúa đang khóc nức nở; Sa hoàng Ivan, hai mắt nhắm lại, đã gục đầu xuống... Mọi người bỏ mũ ra, nhiều người thở dài, lau nước mắt...
Khi bà công chúa hỏi:
- Các ngươi sẽ không đi đến tu viện Ba Ngôi chứ? Chúng ta có thể tin cậy được các ngươi không? - thì mọi người kêu lên: “Có, xin lệnh bà hãy tin ở chúng tôi... Chúng tôi sẽ không phản bội lệnh bà...”
Đám đông giải tán. Nhớ lại những điều bà công chúa nói, mọi người lắc đầu. Dĩ nhiên là không nên để cho bà ta bị lăng nhục nhưng biết làm thế nào khác được? Ở Moskva, thiếu lúa mì; các đoàn xe đều rẽ ngang đi về phía tu viện Ba Ngôi; nạn trộm cướp và tình trạng lộn xộn thống trị trong thành phố. Tại các chợ người ta chẳng còn đầu óc nào mà buôn bán. Mọi việc đều chẳng còn ra làm sao nữa - thật là thời loạn lạc. Mọi người đã chán ngấy. Cần phải chấm dứt tình trạng này. Còn như chọn lựa Vaxili hay Boris Golixyn thì bên này méo miệng bên kia cũng lệch mồm.
Ngày hôm đó, hàng vạn người đã xộc vào điện Kreml, tay vung lên những bản sao một đạo dụ của vua Piotr hạ lệnh bắt tên phản loạn và kẻ cướp Fetka Saklovity cùng với đồng lõa của hắn, đem xích lại và giải về tu viện Ba Ngôi.
- Hãy trao thằng Fetka cho chúng tôi, - đám đông hét ầm và leo lên cửa sổ, leo lên Thềm Đỏ, y như mấy năm trước đây. - Hãy trao cho chúng tôi Nikita Gladki, Kuzma Tsemony, Obroxka Petrov, giáo sĩ Xelivecxka Medvedev!...
Lính thị vệ đã vứt vũ khí chạy trốn. Bọn đày tớ, bọn nữ tỳ trong cung, già cũng như trẻ, bọn hề và những tên lùn đều ẩn nấp vào dưới gầm các cầu thang, trong các hầm.
- Anh hãy ra mặt đi, hãy nói cho bọn thú vật hung dữ kia biết rằng ta không trao Fedor Leontievich cho chúng nó đâu! - Sofia thở hổn hển nói. Mụ nắm tay áo Vaxili Vaxilievich kéo ra cửa... Hắn không còn nhớ hắn đã ra ngoài Thềm Đỏ như thế nào; đám đông tiến lại gần, bốc lên một sự căm thù, một hơi nóng sực, một mùi hôi nồng nặc; gươm, giáo, dao chĩa cả ra phía trước, nhìn mà ghê cả mắt. Hắn nói to điều gì đó, hắn cũng chẳng còn nhớ là điều gì nữa, rồi đi giật lùi rút vào phòng ngoài. Ngay lập tức, cánh cửa bị vai nhiều người đẩy kêu răng rắc. Hắn trông thấy Sofia mặt tái nhợt, hai mắt nhìn trừng trừng như không có đồng tử...
- Không thể nào cứu được nó đâu, hãy trao nó cho chúng thôi! - hắn nói.
Cánh cửa vỡ toang, đám đông ùa vào. Sofia ép mạnh lưng vào người hắn, thân hình mụ mỗi lúc một đè nặng lên người hắn. Hắn muốn đỡ mụ. Mụ thét lên, giọng trầm trầm, đấy hắn ra rồi bỏ chạy. Trong khi hai người ở trong điện Hữu giác, họ nghe thấy tiếng kêu la khủng khiếp của Fetka Saklovity: người ta đã tóm được hắn trong phòng tắm của bà công chúa.
Tuy vậy Vaxili Vaxilievich vẫn chần chừ chưa muốn bỏ trốn. Cỗ xe đi xa của hắn vẫn đợi trước thềm sau từ chập tối; viên quản gia và nhiều tên đày tớ già đang ngủ gà ngủ gật ở phòng ngoài. Vaxili Vaxilievich vẫn ngồi trước ngọn nến, hai tay ôm lấy đầu. Con ruồi, hai cánh bị cháy, nằm ngửa, chân giơ lên trời. Tòa nhà to lớn yên lặng như chết. Mười hai cung Hoàng đạo sáng lờ mờ trên trần nhà và các thiên thần Hy Lạp, chìm trong bóng tối, nhìn vị vương hầu. Chỉ có những nỗi tiếc thương đang vò xé Vaxili Vaxilievich là còn sống thật.
Hắn không hiểu nổi tại sao sự thể lại xoay ra thế này. Lỗi tại ai ? Ôi, Sofia! Sofia... Giờ đây, hắn không còn tự dối mình nữa, từ những nếp thầm kín trong tâm hồn hắn, nổi lên bộ mặt nặng nề, không son phấn của một người đàn bà mà hắn không hề yêu bao giờ, một ả tình nhân vô độ, độc đoán, tàn bạo, ghê gớm.
Bộ mặt sự vinh quang của hắn?
Hắn sẽ nói gì với vua Piotr, hắn sẽ trả lời ra sao với những kẻ thù của hắn?
Hắn đã nắm được quyền hành bằng cách ngủ với một người đàn bà, hắn đã bị nhục nhã ê chề ở Krym và hắn đã viết một quyển; “Bàn về cuộc sống của dân hay là việc cải thiện mọi công việc theo như lợi ích chung của dân chúng đòi hỏi...”
Hắn bỏ hai nắm tay ở gáy ra, đấm xuống bàn... Nhục! Nhục! Vinh quang mới đây của hắn bây giờ chỉ còn lại nỗi nhục!
Một ánh sáng yếu ớt đỏ nhờ lọt qua khe cửa sổ. Đã rạng đông rồi sao? Hay là một vầng trăng đó như máu mọc trên bầu trời Moskva? Vaxili Vaxilievich đứng dậy, đưa mắt nhìn khắp vòm trần nhà có vẽ những cung Hoàng đạo sáng lờ mờ trong bóng tối, trên đầu hắn. Bọn chiêm tinh, bọn thầy bói, bọn phù thủy đã đánh lừa hắn. Họ sẽ không tha hắn.
Hắn từ từ ấn cái mũ sụp xuống tận lông mày, đút vào túi hai khẩu súng lục và nhìn cây nến đang lụi trên giá, - ngọn bấc rơi vào chỗ sáp chảy, nổ lép bép rồi tắt hẳn.
Ngoài sân tối om om, có những người cầm đèn lồng đi lại nhốn nháo. Bình minh vừa mới rạng xuyên qua ánh sáng một đám cháy ở xa xa. Vaxili Vaxilievich ngồi vào cỗ xe đi xa và đưa một chiếc chìa khóa cho viên quản gia.
- Đem nó ra đây...
Người ta chất các va-li lên xe, buộc các hòm vào đằng sau xe. Viên quản gia trở lại, Vaska Xilin đi trước, xiềng kêu loảng xoảng. Tên phù thủy lớn tiếng rên rỉ, quay về bốn phương trời làm dấu phép, mắt nhìn các vì sao. Bọn đày tớ đẩy nó vào trong xe, nằm dưới chân Vaxili Vaxilievich.
Tên đánh xe nghiêm trang khẽ nói:
- Ta đi nào, cầu Chúa phù hộ cho chúng ta!
Sáu con ngựa trắng, đang nóng nảy dậm chân, bèn phi nước đại trên nền đường lát gỗ.
Chúng rẽ để leo lên Tverskaia: phố xá hãy còn hầu như vắng tanh.
Một gã chăn bò thổi chiếc tù và nhỏ, gã đi trong đám bụi trước các cổng lớn, từ trong cổng đàn bò cái vừa đi ra, vừa rống lên. Trên thềm các nhà thờ, đám ăn mày lạnh cóng người, tỉnh dậy, vừa gãi vừa chửi nhau. Đó đây một lão giữ kho đồ thánh vừa ngáp vừa mở cánh cửa thấp của nhà thờ. Trong một phố ngang, một nông dân ngồi trên chiếc xe chở đầy than, rao: “Than đây! Than đây!...” Các bà nội trợ đổ nước rửa bát, đố tro ra phố; họ há hốc mồm nhìn những con ngựa trắng như tuyết phóng như bay, bọn đánh ngựa đội mũ lông có cắm lông công nhấp nhổm trên những chiếc yên cao thành, tên đánh xe, vẻ mặt dữ tợn, hai bàn tay to xù giơ thẳng, cầm mười hai chiếc dây cương bằng lụa trắng; hai gã hộ pháp, gươm tuốt trần, đứng ở đằng sau xe. Bà nội trợ đánh rơi xô nước, người đi dường vội vã trật mũ ra, có những người cẩn thận, quỳ xuống.
Vaxili Vaxilievich phóng nước đại đi qua Moskva lần chót như vậy. Ngày mai sẽ đem lại cái gì cho hắn? Lưu vong, tu viện kín hay tra tấn? Hắn vùi mặt vào trong cổ chiếc áo lông cừu dùng đi xa. Trông tưởng hắn đang ngủ gà ngủ gật. Nhưng khi Vaska Xilin định cựa quậy, Vaxili đá nó một cái thật mạnh...
“A, được” - Vaska ngạc nhiên tự nhủ.
Dưới con mắt nhắm nghiền, má vị vương hầu giật giật vì một cái tật cố hữu. Lúc cỗ xe đi qua cửa ô, Vaxili Vaxilievich khẽ nói:
- Dối trá, lừa bịp, trộm cướp, những lời bói toán của mày chỉ là thế thôi... Đồ chó, đồ con nhà nông nô, đồ khốn nạn... Đánh mày bật máu tươi ra cũng còn chưa đủ...
- Không, không, đức ông không nên nghi ngờ, đức ông sẽ có tất cả, và ngai vàng!
- Im đi, im đi, đồ kẻ cướp, con đồ đĩ!
Vaxili Vaxilievich ngả người ra đằng sau và ra sức đạp lên người gã phù thủy một cách hung dữ, cho đến khi tên này phải rên lên.
Cách Medvedkovo một dặm, một gã nông dân đứng báo hiệu, trông thấy cỗ xe bèn lấy mũ vẫy; một gã nông dân thứ hai đứng cạnh một khóm phong làm theo và trên một cái gò, bên kia khe một gã thứ ba cũng làm như vậy, “Đức ông đến kia rồi!... Đức ông đến kia rồi”. Năm trăm tên đày tớ - nông nô, quỳ xuống, trán chạm cỏ non, cúi lạy vị vương hầu. Người ta đỡ tay dìu đức ông ở trong xe ra, người ta hôn gấu áo lông cừu của đức ông, những bộ mặt hoảng sợ, những cặp mắt tò mò. Vaxili Vaxilievich đưa mắt lườm đám gia nhân: quả là quân này cúi chào quá thấp, quá vội vàng, chúng làm ra quá mẫn cán... Hắn nhìn những ô kính nhỏ ở sáu cửa sổ tòa nhà bằng gỗ, nóc kiểu Hà Lan, có bốn mái, với cái thềm lộ thiên và cầu thang hình móng ngựa... Xung quanh cái sân rộng thênh thang là những tàu ngựa, hầm, một chỗ dệt vải, các vườn kính, sân nuôi gà vịt, các chuồng chim bồ câu.
- Ngày mai, - hắn tự nhủ, - một bầy thơ lại sẽ ùa đến nhà ta, chúng sẽ tiến hành việc tịch thu, niêm phong, cướp phá... Mọi thứ rồi sẽ biến thành bụi...
Nghiêm trang, bình tĩnh, Vaxili Vaxilievich bước vào nhà. Con trai hắn là Aleksey đang ở phòng đợi, chạy ra; qua dáng dấp và khuôn mặt phủ lớp lông tơ đầu tiên, trông nó giống bố. Nó áp đôi môi run rẩy lên bàn tay bố, mũi nó lạnh.
Trong phòng ăn, Vaxili Vaxilievich miễn cưỡng làm dấu thánh giá, có vẻ như khó chịu, rồi ngồi vào bàn, trước một tấm gương Vơnidơ, phản chiếu những bức tường bào nhẵn, những tấm thảm, những giá để các bộ bát đĩa quý... Tất cả mọi thứ rồi sẽ biến thành bụi hết!... Hắn rót một cốc vodka, bẻ một mấu bánh mì đen, chấm vào lọ đựng muối, rồi không ăn mà cũng không uống, - hắn đã quên bẵng đi mất... Hắn tỳ khuỷu tay lên bàn, cúi đầu xuống. Aleksey đứng bên cạnh hắn, nín thở, sẵn sàng chạy tới, kể chuyện...
- Thế nào? - Vaxili Vaxilievich nghiêm nghị hỏi.
- Thưa cha, chúng đã đến đây...
- Từ tu viện Ba Ngôi đến à?
- Hai mươi lăm tên long kỵ binh, với một viên trung úy và viên dapife Volkov...
- Thế chúng mày nói sao?
- Chúng con bảo: cha tôi đang ở Moskva và không hề nghĩ đến chuyện về đây. Viên dapife nói: “Vương hầu phải đến ngay tu viện Ba Ngôi nếu ông ấy không muốn bị nhục”.
Vaxili Vaxilievich bĩu môi cười mỉm. Hắn nốc cốc rượu, nhai mẩu bánh mà chẳng thấy mùi vị gì. Hắn thấy con trai hắn cố gắng tự trấn tĩnh một cách khó khăn, vai rũ xuống, hai bàn chân khúm núm quay vào phía trong, sàn nhà khẽ rung lên dưới chân nó. Vaxili Vaxilievich sắp quát mắng con, nhưng liếc nhìn bộ mặt hoảng sợ của nó, hắn thương hại:
- Mầy đừng có run nữa, ngồi xuống.
- Thưa cha, cả con nữa, người ta cũng ra lệnh cho con phải đi cùng với cha đến trình diện ở tu viện Ba Ngôi.
Thế là Vaxili Vaxilievich đỏ mặt tía tai: hắn nhổm dậy nhưng lần này cũng vậy, lòng tự kiêu đã ghìm hắn lại. Hắn hạ mi mắt xuống, lấy hàng lông mi che giấu cái nhìn của hắn. Hắn rót một cốc rượu thứ hai, cắt một miếng thịt gà nhồi nấu tỏi. Con trai hắn vội vã đẩy lọ giấm lại gần.
- Aliosa, mày hãy sửa soạn đi, - Vaxili Vaxilievich dằn giọng. - Ta sẽ nghỉ một lát, đêm nay chúng ta sẽ đi. Lượng Chúa khoan dung.
Hắn vừa nhai, vừa chua chát suy nghĩ. Bỗng mồ hôi nhỏ giọt trên trán hắn, hắn trợn tròn mắt.
- Aliosa, có việc này phải làm: ta có đem theo một tên nông dân... Mày hãy trông coi cho chúng nó đưa tên đó vào nhà tắm hơi nước, ở bờ sông; nhốt nó vào đấy và phải canh giữ nó như tròng mắt mình.
Aleksey đi rồi, Vaxili Vaxilievich hạ con dao xuống, mũi dao có miếng gà nhồi rung rinh, - rồi ủ rũ còng cả lưng, mặt hắn đầy nếp nhăn, dưới mắt càng lộ rõ hai cái quầng, môi hắn trễ xuống.
Vaska Xilin bị nhốt vào nhà tắm hơi nước bên bờ sông, dưới chân một chỗ bờ sông dựng đứng như tường. Suốt ngày, nó gào thét, kêu la để người ta mang đồ ăn đến. Nhưng xung quanh chỉ có bụi cây rì rào, những con cá chép quẫy mình dưới sông chạy trốn những con cá măng, và chim sẻ đá chuẩn bị di cư, bay từng đàn, cánh loang loáng trong bầu trời xanh ngắt mà gã phù thủy trông thấy qua lỗ cửa trổ ở mái nhà, cánh cửa đẩy ra đẩy vào được để thoát khói. Đàn chim mệt mỏi, đậu trên một cây dẻ và cất tiếng hót líu lo, chẳng hề sợ hãi những tiếng thở dài của kẻ bị giam...
“Ôi Poltava trìu mến của ta ơi - gã phù thủy lẩm bẩm, - chính quỷ dữ đã đưa ta đến Moskva đáng nguyền rủa này! Bệnh dịch hạch bắt các ngươi đi, làm cho các ngươi tan tác đi hết thảy, cầu sao các thành phố của các ngươi bị hủy diệt!”.
Mặt trời đang lặn chiếu ánh sáng tràn ngập lỗ cửa trổ trên mái rồi biến mất sau những ngọn cây trong rừng. Vaska Xilin hiểu rằng người ta sẽ không cho nó ăn; nó nằm xuống một chiếc ghế dài nhỏ lạnh ngắt, đầu gối lên cái chổi làm bằng cành phong. Nó đã thiu thiu ngủ, bỗng nó hoảng sợ, ngồi nhỏm dậy, bộ râu chĩa về phía trước: Vaxili Vaxilievich đang đứng trên ngưỡng cửa, đầu đội chiếc mũ ba cạnh màu đen; dưới chiếc áo lông cừu dùng để đi xa, hắn mặc một bộ quần áo đen lạ kiểu, thanh gươm thò ra như một cái đuôi.
- Này nhà tiên tri, mày sẽ nói gì bây giờ? - Vaxili hỏi với một giọng lạ lùng.
Vaska Xilin bủn rủn cả người, toàn thân run lên bần bật: Chao, giá như nó có thể đoán biết được đức ông còn tin một chút nào vào lời tiên tri của nó... Nó sẽ nắm chặt lấy tay đức ông mà gào lên:
- Đức ông đi đến chỗ Sa hoàng sẽ phải chịu đựng một sự đày đọa chết người? Đức ông trốn đi, đừng sợ gì cả... Bốn con mãnh thú đã buông vuốt... Bốn con quạ đã bay rồi... Thần chết đã lùi bước. Tôi nhìn thấy, tôi nhìn thấy hết thảy...
Nhưng đáng lẽ nói như vậy, Vaska, vì sợ và vì đói lại đi thở ra những lời lẽ ngu xuẩn, vẫn nói về ngai vàng Sa hoàng. Nó òa lên khóc nức nở và van vỉ:
- Vì Chúa, xin đức ông hãy cho tôi trở về Poltava... Tôi sẽ không làm gì hại đến đức ông, tôi sẽ không tố giác đức ông đâu...
Vaxili Vaxilievich vẫn đứng nguyên trên ngưỡng cửa, nhìn nó với cặp mắt điên giận. Thình lình, hắn nhảy lùi ra một bước, đóng cửa lại, lấy một khúc gỗ chèn cửa và móc chiếc khóa vào. Vaska nghe thấy tiếng hắn bận rộn xung quanh nhà tắm. Nó hiểu ngay: Vaxili Vaxilievich đang chất củi. Nó gào lên:
- Ồ, không, đừng làm thế!
Vương hầu đáp lại:
- Mày biết nhiều chuyện quá, hãy chết đi!
Hắn vừa ho vừa thổi cho cái bùi nhùi bén lửa. Một mùi khói tỏa ra. Vaska vớ lấy một cái chậu, đập vào cửa, cái chậu vỡ tan, nó vẫn không phá được cửa. Nó nghiêng đầu thò ra ngoài lỗ cửa trổ trên mái và gào lên: khói xộc vào tắc cổ họng nó lại. Củi bắt lửa, nổ lép bép, réo ù ù. Những khe hở giữa các thanh xà sáng rực. Ngọn lửa bốc lên thành một bức tường kêu ầm ầm. Vaska leo lên gần trần nhà để tránh lửa. Mái nhà quằn quại. Các bức tường bốc cháy... Trong đêm tối yên tĩnh, lặng gió, ngọn lửa dập tắt ánh sao, bốc lên rất cao trên mặt sông.
Và một thời gian lâu, bóng đỏ nhạt của sáu con ngựa trắng và của cỗ xe bọc da đen đang phi về phía con đường đi Yaroslav, bay trên các gốc rạ, lúc thì kéo dài đến tận đáy một cái khe ẩm ướt lúc thì vọt lên các ngọn đồi, khi thì lướt qua và gãy nét trên các thân cây trong một khóm rừng phong.
- Cháy ở đâu thế? Thưa cha... Hay là cháy ở nhà ta chăng? - Aleksey hỏi đi hỏi lại nhiều lần.
Vaxili Vaxilievich không trả lời, ngồi thụt vào trong một góc xe, ngủ gà ngủ gật.
--------------
Chú thích:
(1) Sa hoàng, bố của Sa hoàng Fedor Alekseevich, vua Piotr; Sofia và vua Ivan.
(2) Sa hoàng nối ngôi Aleksey Mikhailovich. Khi Fedor Alekseevich chết, Sofia lên làm nhiếp chính.

Chương 59

Trong hầm ngầm dưới cái sân buộc bò, nơi vào thời loạn lạc vẫn chứa thuốc súng và bây giờ dùng làm kho chứa lương thực dự trữ của tu viện, thợ mộc đã dọn lấy một chỗ dưới những  vòm thấp; giữa hai cột gạch, họ đã đóng một cái xà ngang với một con ròng rọc treo một sợi dây thòng lọng; ở dưới đặt nằm một thanh xà với một cái vòng - bàn tra tấn; người ta đã đem một chiếc ghế dài và một cái bàn cho những viên lục sự ngồi ghi chép lời cung khai và một chiếc ghế dài thứ hai, bọc vải bông đỏ, để các nhân vật quyền quý ngồi.
Người ta đã chữa lại hai chiếc thang dựng đứng từ hầm tới nhà kho, xây bằng gạch, nơi Fedor Saklovity bị xiềng từ ngày hôm qua.
Chính Boris Alekseevich điều khiển cuộc hỏi cung.
Người ta đã cho gọi tên đao phủ Emelian Xvezev từ Moskva, từ Bộ Hình tới. Emelian Xvezev nổi tiếng là biết cách bắt tội nhân phải khai ngay từ đòn roi quật đầu tiên. Trong các cuộc xử tử công khai, trước cột trói tội nhân, y có thể đánh nương nhẹ, nhưng nếu y mà đã đánh thẳng tay thì chỉ đến roi thứ mười lăm là tội nhân gãy xương sống.
Người ta đã hỏi cung rất nhiều người; có những người tự động mang đến những bản tố giác viết tay và những tờ khai. Người ta đã tóm cổ được Kuzma Tsermony. Người ta đã dùng mẹo bắt được một tên tay chân tin cẩn của Sofia là Obroxim Petrov, tên này đã hai lần dùng gươm chống lại giáo mác và trốn thoát.
Nhưng Nikita Gladki và giáo sĩ Medvedev đã bỏ trốn. Những sắc chỉ ra lệnh bắt hai tên đó đã được gửi đi khắp các tỉnh.
Rồi đến lượt Fedor Saklovity. Hôm qua, trong lúc hỏi cung, trước những lời buộc tội người ta đưa ra dựa trên những lời tố giác, cung khai và hỏi cung, hắn đã trả lời một cách giận dữ:
- Đó là một sự vu khống, những kẻ thù của tôi muốn tôi chết, tôi vô tội...
Hôm đó, người ta cho gọi Emelian Xvezev để tra hỏi hắn. Nhưng hắn một mực nói là không biết gì hết và vẫn chối như trước; hắn không hề xúi giục nổi loạn và cũng không định ám hại Sa hoàng.
Lúc bắt đầu cuộc thẩm vấn, vua Piotr không dự các buổi hỏi cung. Buổi tối, Boris Alekseevich cùng đi với viên lục sự tới gặp nhà vua và viên lục sự đọc lại biên bản. Nhưng khi người ta đã bắt được Tsecmony, Petrov và tòng đảng của chúng; Ogryzokov, Sextakov, Evdokimov và Sesotka, khi bọn tử thù của nhà vua bắt đầu cung khai thì vua Piotr muốn tự mình nghe chúng nói.
Người ta mang một chiếc ghế dựa vào trong hầm cho nhà vua; nhà vua ngồi riêng ra một chỗ, dưới cái vòm mốc meo. Hai khuỷu tay tì lên đầu gối, cằm tì lên nắm tay, nhà vua không hỏi mà chỉ ngồi nghe.
Khi bàn tra tấn kêu lên ken két lần đầu tiên và Obroxim Petrov, thân hình to lớn, gân guốc, mình trần trùng trục đến ngang thắt lưng bị treo lên. - bộ mặt rỗ của nó xám xịt lại như màu đất, hai tai vểnh lên, răng nhe ra, nghiến ken két vì đau đớn, - vua Piotr đẩy ghế thụt lùi vào bóng tối, sau một cái cột gạch và ngồi đó, không động cựa, suốt thời gian tra tấn. Cả ngày hôm ấy, nhà vua tái xanh mặt và có vẻ tư lự.
Nhưng dần dà, nhà vua quen đi và không ẩn mình nữa.
Hôm đó, Natalia Kirilovna đã giữ vua Piotr dự buổi lễ chầu đầu tiên: vị giáo trưởng đã thuyết giáo và chúc mừng mọi người nhân dịp loạn lạc đã chấm dứt một cách tốt đẹp. Thực vậy, Sofia tuy vẫn còn ở điện Kreml nhưng từ nay đã bất lực. Các trung đoàn còn lại ở Moskva đã cử đại biểu đến yết kiến Sa hoàng Piotr để cầu xin nhà vua tha thứ và đại xá cho chúng; chúng nói sẵn sàng đi Axtrakhan, đi ra biên cương, đi bất cứ đâu miễn là người ta để cho chúng được sống với gia đình và công việc làm ăn của chúng.
Vua Piotr đi bộ ra ngoài nhà thờ. Sân để bò đầy quân xtreletz. Chúng kêu lên:
- Muôn tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng hãy trao tên Fetka cho chúng thần, chúng thần sẽ tự nói chuyện với nó... 
Đầu cúi xuống, hai tay hấp tấp vung lên, nhà vua chạy tới chỗ nhà kho cũ; vấp chân trên các bậc thang, nhà vua đi xuống gian hầm tối tăm, ẩm thấp. Hầm có mùi da thuộc và mùi chuột.
Nhà vua đi giữa những bao tải, kiện hàng và thùng và đẩy cánh cửa thấp. Ngọn nến đặt trên bàn viên lục sự chiếu ánh sáng vàng vọt lên những mạng nhện chăng trên nóc hầm, rác rưởi vương vãi trên nền đất nện và những thanh xà gỗ còn tươi của bộ máy tra tấn. Viên lục sự và Boris Alekseevich, Lev Kirilovich, Xtresnev và Romodanovski - ngồi ở bên cạnh, trên một chiếc ghế dài khác - trịnh trọng cúi chào. Khi họ đã ngồi xuống vua Piotr trông thấy Saklovity: hắn đang quỳ, cách họ một bước, cái đầu tóc quăn rũ xuống ngực, chiếc áo nẹp sang trọng, - người ta đã bắt được hắn ăn mặc như vậy trong cung, - rách ở nách, áo lót đầy vết bẩn. Fetka từ từ ngẩng bộ mặt mệt mỏi lên và bắt gặp cái nhìn của Sa hoàng. Dần dần, con ngươi hắn mở to, cặp môi đẹp nét của hắn giãn ra và run lên trong một tiếng nức nở thầm. Hắn vươn cả người về đằng trước, mắt không rời vua Piotr, Boris Golixyn cũng liếc nhìn về phía Sa hoàng và sau một tiếng cười khẽ, dè dặt:
- Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng ra lệnh tiếp tục chứ?
Xtresnev làu bàu trong bộ ria rậm:
- Đã có gan ăn cướp thì phải có gan chịu tội. Sao mày lại làm chúng tao vất vả thế? Sa hoàng muốn biết rõ sự thật...
Boris Alekseevich cất cao giọng:
- Nó chỉ trả lời có mỗi một câu: tôi không nói những lời ấy và tôi không làm những việc đó. Nhưng cuộc điều tra đã chứng minh nó hoàn toàn có tội. Cần phải bắt nó chịu nhục hình.
Như có người đẩy đằng sau, Saklovity chạy trên đầu gối như một con chuột: hắn những muốn trốn vào sau đống da, sau những chiếc thùng nồng nặc mùi cá mắm. Hắn nằm bẹp xuống đất giả vờ chết. Vua Piotr bước một bước lại gần hắn và nhìn thấy dưới chân mình cái cổ béo mập và cạo nhẵn của Fetka. Nhà vua đút hai tay vào túi chiếc áo khoác rộng, rồi ngồi xuống, nghiêm trang, khinh bỉ, và bằng giọng nói của một thiếu niên, đứt quãng, ra lệnh:
- Bắt nó phải nói thật.
Boris Alekseevich gọi:
- Emelian.
Từ sau bàn tra tấn, bước ra một người cao ngỏng, vai hẹp mặc áo sơ-mi đỏ dài đến tận đầu gối. Có lẽ là Saklovity không ngờ y đến sớm thế, hắn ngồi xổm, rụt đầu lại. Hắn nhìn bộ mặt ngựa, thản nhiên của Emelian Xvezev: tên đao phủ hầu như không có trán, chỉ có vành lông mày, quai hàm to. Y lại gần, nhấc Fetka lên như nhấc một đứa trẻ con, lắc hắn, dựng hắn đứng dậy. Thận trọng và khéo léo, y nắm hai ống tay áo nẹp giật mạnh lột chiếc áo ra, cởi cái cổ áo có đính trân châu rồi móc một ngón tay xé toang chiếc sơ mi lụa trắng đến tận rốn, giật chiếc áo ra, để người Saklovity trần trùng trục đến ngang thắt lưng. Fetka muốn gào lên rằng mình vô tội, nhưng hắn chỉ lắp bắp được bằng một giọng khàn khàn:
- Lạy Chúa, tôi sẽ khai hết...
Lập tức các quan đại thần ngồi trên ghế dài lắc đầu, rung cả râu, cả má. Emelian kéo giật hai tay Fetka ra đằng sau, buộc chặt cổ tay lại, đút vào nút thòng lọng của một sợi dây da và kéo mạnh đầu dây kia, Saklovity sững sờ. Con ròng rọc rít lên ken két và hai tay hắn bắt đầu bị kéo lên cao ở đằng sau lưng. Bắp thịt căng ra, hai vai gồng lên, Fetka cúi về đằng trước.
Emelia bèn đẩy mạnh vào ngang lưng hắn, rồi ngồi xổm xuống, bất thình lình kéo mạnh sợi dây. Hai cánh tay trẹo khớp ở vai, bị kéo lên cao quá đầu. Fetka rên lên một tiếng nghẹn ngào, và người hắn - mồm há hốc, mắt trợn tròn, bụng thắt lại - lơ lửng trên không, hai bàn chân quặt vào phía trong, cách mặt đất một arsin. Emelian cột sợi dây lại và tháo một chiếc roi da, cán ngắn, treo ở một cái đinh xuống. Boris Alekxevich ra hiệu, viên lục sự đeo cặp kính gọng sắt vào, gí cái mũi khô lại gần ngọn nến và bắt đầu đọc:
- Thế rồi, trong lúc hỏi cung, vẫn viên đại úy Philip Xapogov đã khai rằng: “Năm ngoái, vào tháng bảy - ngày nào thì hắn không nhớ, - lệnh bà Sofia Alekseyevna đã đến làng Preobrazenskoe, nhưng khi ấy hoàng thượng Piotr Alekseevich không còn ở Preobrazenskoe và lệnh bà chỉ ở lại đó đến trưa. Đi theo lệnh bà có Fedor Saklovity và một số lớn người của các trung đoàn mà Fedor đã đưa chúng tới để ám sát Lev Kirilovich và hoàng thái hậu Natalia Kirilovna. Khi ấy Fedor ở trong cung đi ra ngoài phòng và đã nói với nó, Philip Xapogov: “Các ngươi nghe kỹ đây. Khi nào nghe thấy tiếng kêu trong cung...”. Đúng lúc đó hoàng thái hậu đang quở trách bà công chúa, trong cung có tiếng kêu la rất to... “Khi nào nghe thấy tiếng kêu, các ngươi tất cả phải sẵn sàng: những kẻ mà ta bắt được trong cung đưa ra cho các ngươi, các ngươi cứ đập chúng cho chết đi...”.
Saklovity cố phát ra từ trong cổ họng:
- Tôi không nói những lời ấy, thằng Philip nói dối.
Theo hiệu lệnh của Boris Alekseevich, Emelian lùi lại lấy mắt đo, - thế này có thuận tay không? - ngả người về đằng sau lấy đà rồi đổ người về đằng trước, quật chiếc roi kêu lên vun vút. Người Fetka màu vàng ệch rung lên. Hắn hét lên một tiếng. Emelian đánh lần thứ hai. (Boris Alekseevich nói rất nhanh: “Ba”). Emelian đánh lần thứ ba. Saklovity gào lên nhổ nước bọt:
- Lúc ấy tôi có uống rượu, tôi đã nói như một thằng say, đầu óc tôi không được tỉnh táo...
- “Thế rồi, khi những tiếng kêu la im đi, - viên lục sự đọc tiếp, - nó đã nói với Philip về Sa hoàng Piotr Alekseevich những lời lẽ phiến loạn như sau: “Nó uống rượu và chỉ rong chơi suốt ngày tháng ở Kukui, không có cách gì làm cho nó tỉnh lại được vì nó say rượu. Nếu bí mật đặt lựu đạn vào phòng ngoài của nó để giết chết nó đi được thì rất tốt...”.
Saklovity lặng thinh. Boris Alekseevich gay gắt hạ lệnh: “Năm”. Emelian giơ tay lên và quật cái roi da dài ba arsin đánh một đòn khủng khiếp. Vua Piotr chồm dậy, đứng trước mặt Saklovity, - nhà vua cao đến nỗi mặt hai người ngang tầm nhau; lưng, tay, gáy nhà vua run lên, co giật. Nhà vua nhìn trừng trừng vào mắt hốt hoảng của Fetka:
- Nói thật đi, đồ chó, đồ chó... - Nhà vua nắm lấy hai bên mạng sườn Fetka - Chúng mày lấy làm tiếc là đã không cắt cổ tao khi tao còn nhỏ, có phải không? Đúng thế chứ, Fetka, đúng thế chứ.... Đứa nào đã muốn cắt cổ tao? Mày phải không? Không à? Thế thì đứa nào? Chúng mày đã sai người mang lựu đạn đến phải không? Những đứa nào? Hãy khai tên chúng nó ra... Vậy tại sao chúng mày đã không giết tao, đã không ám sát tao?
Fetka, gân cổ phồng lên vì cố gắng, lúng búng thanh minh vào giữa bộ mặt tròn, vằn đỏ của Sa hoàng, vào giữa cái mồm nhỏ méo xệch của Sa hoàng...
- Thần thực chỉ nhớ có những lời này thôi: “Vậy sao người ta đã không giết hoàng thái hậu và anh em của hoàng thái hậu đi có hơn không?...” Còn chuyện dao găm, lựu đạn thì không đúng, thần không nhớ... Và về hoàng thái hậu thì chính tên kẻ cướp Vaxili...
Hắn vừa nói đến tên Vaxili Vaxilievich, Boris Alekseevich đã từ trên ghế chồm dậy và điên cuồng quát tên đao phủ:
- Đánh!
Emelian, chú ý không đụng đến Sa hoàng, quất mạnh chiếc roi da bốn cạnh vào giữa hai bả vai Fetka rồi giật cái roi lại, làm toạc da, thịt trơ ra đỏ hỏn... Saklovity gào lên, yết hầu lồi ra... Đến roi thứ mười, đầu hắn lắc lư mềm nhũn rồi ngoẹo xuống ngực.
- Cởi nó ra, - Boris Alekseevich nói và lấy chiếc khăn tay nhỏ bằng lụa lau môi. - Đưa nó lên trên kia cho cẩn thận, lấy rượu mạnh xoa cho nó, hãy trông nom nó như một đứa trẻ... Ngày mai nó sẽ phải nói.
Khi các quan đại thần ở trong hầm đã đi ra ngoài sân để bò, Tikhol Nikitievich Xtresnev ghé vào tai Lev Kirilovich:
- Lev Kirilovich, ông có trông thấy vương hầu Boris không, hả?
- Không... Làm sao?
- Ông ta ngồi trên ghế, nhảy chồm lên mới khiếp chứ... Để bịt mồm thằng Fetka lại...
- Tại sao?
- Thằng Fetka đã nói nhiều quá. Boris và Vaxili, hai người cùng một dòng máu... Vậy thì dòng máu của họ, đối với họ, còn quý hơn sự nghiệp của Sa hoàng...
Lev Kirilovich đứng sững lại, - đúng lúc ấy ông ta đang đứng trên một đống phân, - kinh ngạc một cách quá đáng, dang hai tay ra và vỗ vào đùi:
- A, a... Thế mà chúng ta lại đi tin vào Boris...
- Cần phải tin nhưng nên dè dặt...
- A, a...

Chương 60

Trong túp nhà không có ống khói, lò đã nhóm; khói đặc sệt đến nỗi chỉ trông thấy mọi người đến ngang thất lưng, còn những người nằm trên gác bếp, thì không trông thấy được gì hết. Ngọn lửa chập chờn của thanh củi nhỏ dùng làm nến lở mờ soi sáng căn phòng; những mảnh vỏ bào cháy thành than rơi xuống cái âu đổ đầy nước, cháy xèo xèo. Bọn trẻ con thò lò mũi, bụng để trần, rốn lồi, đít bẩn, chạy đuổi nhau, chốc chốc lại ngã sóng soài ra đất rồi gào tướng lên. Một mụ nông dân có chửa, ngang lưng thắt một sợi dây gai, nắm lấy tay chúng nó, tống ra cửa và hét:
- Ôi, sao chúng mày không chết rấp đi! Đồ khốn kiếp, chúng mày làm khổ tao!
Vaxili Vaxilievich và Aleksey đã đến đây từ hôm qua, - người ta không để hai bố con hắn vào tu viện và bảo rằng:
- Đức vua sai nói với các người hãy ở lại ngoài làng cho đến khi có lệnh mới.
Hai bố con Vaxili Vaxilievich đợi lúc số phận họ được quyết định. Cổ họng nghẹn lại, họ không ăn uống gì được.
Sa hoàng không chịu nghe phân trần, thanh minh gì hết. Vaxili Vaxilievich sẵn sàng chịu đựng hết thảy: trong lúc đi đường hắn đã chờ đón những điều tệ hại nhất, nhưng hắn đã không dự liệu là sẽ phải sống trong một túp nhà không có ống khói.
Ban ngày, đại tá Gordon, được công nhận là vô tội, đã ghé thăm bố con Vaxili. Ra điều thương hại. Gordon kêu “ái chà, ái chà” và vỗ vỗ vào đầu gối Vaxili Vaxilievich như kẻ bằng vai bằng vế:
- Không sao đâu, ông đừng lo, vương hầu Vaxili Vaxilievich ạ, rồi mọi việc cũng sẽ ổn cả thôi.
Y bỏ đi, tự do và sung sướng, cái đinh to thúc ngựa ở gót giầy kêu lanh canh.
Chẳng có ai mà sai đến tu viện thăm dò tin tức. Dân làng cũng chẳng buồn ngả mũ trước cựu nhân tình của bà công chúa, Vaxili Vaxilievich xấu hổ không dám ló mặt ra ngoài phố. Mùi xú uế, những tiếng la hét của lũ trẻ con khiến hắn chóng mặt, khói làm mắt hắn cay sè. Và tên phù thủy đáng nguyền rủa cứ luôn luôn trở lại trong trí nhớ của hắn; trong tai hắn vẫn còn văng vẳng tiếng kêu gào của Xilin hét qua cửa sổ trổ trên mái, giữa đống lửa: “Mở cư-ửa ra-ra, nếu không ngươi sẽ chết, ngươi sẽ chết...”.
Trời tối được một lúc lâu thì một gã urianich có mấy tên lính đi theo, xộc vào trong túp nhà; khói làm gã ho sặc sụa. Gã hỏi người đàn bà nông dân có chửa:
- Ông Vaska Golixyn có đến nhà bà không?
Người đàn bà nông dân lấy khuỷu tay áo thụng trỏ:
- Ông ấy kia kìa, ngồi trên cái ghế dài ấy.
- Có lệnh triệu ông vào cung, vương hầu hãy sửa soạn đi.
Đi bộ như bọn tiện dân, xung quanh có lính đi kèm, Vaxili Vaxilievich và Aleksey đi qua cửa tu viện. Quân lính xtreletz đã nhận ra hai người; chúng vùng đứng cả dậy và cười ầm lên đứa thì ấn mũ trên đầu sụp xuống đến tận mũi, đứa thì nắm lấy râu, đứa thì đứng dang chân ra, trong một tư thế rất tục tĩu:
- Ê hãy đi cho vững nhé!...
- Trông ông đô thống đang cưỡi ngựa phi hai vó kìa...
- Nhưng mà này, ngựa ông ta đâu nhỉ?
- Ở giữa hai chân ấy chứ còn ở đâu nữa...
- Cẩn thận khéo không có ngã xuống bùn đấy, ông đô thống ạ?
Hai bố con vượt qua sự xấu hổ ấy. Vaxili Vaxilievich vừa leo lên bậc thềm nhà đại giáo chủ vừa chạy. Nhưng một gã thơ lại, ăn mặc tồi tàn mà hắn không biết, ở trong cửa nghiêm trang đi ra gặp hắn. Gã lấy ngón tay trỏ ngăn Vaxili Vaxilievich lại; mở một tờ dụ cuộn tròn, gã cất cao giọng thong thả đọc, như ấn từng chữ vào đầu Vaxili Vaxilievich:

Vì tất cả những trọng tội kể trên đây, các đức hoàng đế Piotr Alekseevich và Ivan Alekseevich đã quyết định biếm truất nhà ngươi, vương hầu Vaxili Golixyn, tước bỏ danh hiệu đại thần của nhà ngươi và đày nhà ngươi và vợ con nhà ngươi chung thân ra Kargopol. Dinh cơ, thái ấp và tài sản của nhà ngươi ở Moskva, cũng như gia súc của nhà ngươi, đều bị các đức hoàng đế tịch thu. Gia nhân của nhà ngươi, nông nô và các kẻ khác, không kể đám nông dân và con cái họ, sẽ được phóng thích...

Sau khi đã đọc xong đạo dụ rất dài, gã thơ lại cuốn tờ dụ lại, lấy ngón tay trỏ Vaxili Vaxilievich cho viên sĩ quan thường trực. Vương hầu Vaxili đầu trần, đứng hầu như không vững nữa, Aleksey phải đỡ lấy tay bố.
- Hãy bắt vương hầu, cho lính giải đi như đã nói trong dụ.
Người ta giải bố con Vaxili Vaxilievich đi. Tới sau sân nhà thờ, họ đưa hai bố con hắn lên xe ngựa, ngồi trên những chiếc chiếu gai; viên sĩ quan thường trực và một tên long kỵ binh nhảy lên đằng sau. Gã đánh xe, mặc áo nẹp bằng vải len thô đã rách và chân đi giầy bằng gai bện, quay tít dây cương; con ngựa gầy còm cất bước đi bước một, kéo chiếc xe băng qua đồng. Đêm đã xuống, một làn hơi nước ấm ướt dần dần che lấp các vì sao.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét