Pie Đệ Nhất
Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000
Chương 121
Hàng ngày, nhiều đoàn xe dài từ khắp các cửa ô kéo vào Moskva: chở lính
mới mộ đến cho đạo quân thường trực, một số bị trói gô như bọn trộm cướp; nhưng
phần đông tình nguyện đi lính để thoát khỏi cuộc đời cùng khổ.
Ở các quảng trường trong thành phố, có
những bản chiếu chỉ mộ lính vào đội quân thường trực, viết trên những tấm sắt
tây đóng vào cột. Người ta hứa trả cho mỗi người lính mười một rúp một năm, ăn
uống đầy đủ và cả một khẩu phần vodka.
Nông nô, gia nô, sống cuộc đời ăn đói nhịn
khát trong đám quân hầu đầy tớ quá đông đúc ở các gia đình quý tộc, đã cãi lộn
với bọn quản gia hoặc quẳng mũ xuống ngay chân người chủ nhân quý tộc rồi kéo
nhau đến Preobrazenskoe. Ngày nào cũng có hàng nghìn người được đưa tới đó.
Có khi, họ phải chờ ngoài trời rét mướt cho
đến chiều tối, các viên sĩ quan mới ra, đứng bên trên thềm đọc danh sách điểm
danh. Người ta đưa họ đến tầng dưới của tòa lâu đài. Những anh lính rậm ria của
trung đoàn Preobrazenski ra lệnh cho họ cởi hết quần áo.
Anh lính mộ sợ sệt, tháo những băng vải
quấn ở chân thay bít tất, cởi quần áo và lấy tay che hạ bộ đi vào phòng. Những
sĩ quan, để tóc dài, đội mũ dạ, ngồi giữa những ngọn nến đương cháy. Như những
con chim ưng, họ nhìn chòng chọc vào người lính mộ vừa bước vào phòng: “Tên mày
là gì? Tên tự mày là gì? Bao nhiêu tuổi?”.
Nhưng họ không hỏi người lính mộ là ai dù người
đó là một nông nô bỏ trốn hay một tên kẻ cướp.
Họ đo chiều cao, vạch môi khám răng, bắt bỏ
tay ra để xem hạ bộ. “Chấp nhận. Phân vào trung đoàn N...”
Bên kia tòa lâu đài, trên cánh đồng tuyết,
doanh trại mới cất chạy dài hàng dãy. Người ta phân phối đoàn người được chấp
nhận về các nhà. Nhà nào cũng chật ních. Mỗi nhà có một thủ trưởng là một hạ sĩ
quan cấp dưới, tay kè kè một chiếc gậy. Hắn bảo những người mới đến: “Mày phải
tuân lệnh tao như tuân lệnh Chúa. Lệnh không nhắc đến lần thứ hai. Tao là Trời,
là Sa hoàng, là cha của chúng mày”.
Lính mới được ăn uống đầy đủ, nhưng chế độ
rất nghiêm ngặt, không phải như hồi xưa ở các trung đoàn xtreletz. Chẳng khác gì một nhà tù.
Một hồi trống đánh thức mọi người dậy. Chưa
ăn uống gì đã bị dẫn đến bãi tập. Người ta bắt họ xếp thành hàng bốn. Trước hết
người ta dạy họ phân biệt tay trái và tay phải. Có anh nông dân suốt đời chưa
bao giờ tự hỏi xem bàn tay mình là thế nào. Người ta luyện trí nhớ cho họ bằng
gậy gộc.
Thỉnh thoảng có viên sĩ quan đến bãi tập;
phần nhiều là người ngoại quốc, thường chếnh choáng say. Hắn giạng hai chân,
đứng trước hàng lính, trợn hai con mắt đục ngầu nhìn những tấm áo acmiac, áo lông cừu, giầy gai, ủng dạ,
mũ lông cừu. Hắn phùng mồm trợn mắt hò hét bằng tiếng ngoại quốc. Hắn giơ gậy lên
bắt mọi người phải hiểu. Cực chẳng đã, mọi người bắt đầu hiểu dần dần: “Marschieren” - tiến lên! “Halt” - đứng lại. Schlvein(1) hoặc “Russisches
Schwein”(1) - là câu chửi...
Sau bữa ăn lót dạ, người ta lại dẫn họ ra
bãi tập. Sau bữa ăn trưa lại phải tập đi lần thứ ba, vai vác gậy hoặc súng hỏa
mai. Người ta dạy họ xếp thành hàng như quân đội của vương hầu xứ Xavoa, dạy đi
đều bước, dạy bắn liên hồi, dạy xung phong đánh lưỡi lê. Phạm một lỗi nhỏ cũng
bị lột quần ngay trên bãi tuyết, và bị đánh không tiếc tay trước toàn đội.
Khó mà nhớ được các danh từ quân sự. “Chuẩn
bị nhồi súng!”. Phải nhớ hết mọi thứ, theo thứ tự: “Mở ống đựng thuốc, cho
thuốc vào ống. Đóng ống thuốc. Lấy một viên đạn. Cắn đầu đạn. Nạp đạn vào nòng.
Rút thông súng ra, Nhồi thuốc. Mở cò. Ngắm...”. Họ bắn theo từng tiểu đội: một
hàng quỳ một bên gối xuống đất nhồi súng; hàng sau đứng, nổ súng. Họ nằm bắn:
trừ một hàng ra còn tất cả các hàng khác lần lượt nằm rạp xuống đất.
Một người Áo, tướng Adam Ivanovich Vaide
điều khiển việc huấn luyện quân sự. Hắn và tướng Artamon Mikhailovich Golovin
và vương hầu Anikita Ivanovich Repnin đã nhận được lệnh thành lập ba sư đoàn,
mỗi sư đoàn có chín trung đoàn.
Trung úy Aleksey Brovkin đã mộ ở miền Bắc
được gần năm trăm người đủ tiêu chuẩn nhập ngũ, nơi thì giao cho tổng trấn, nơi
thì giao cho Iandrat - xưa kia gọi là
tỉnh trưởng - đưa họ về Moskva. Nay hắn đi xa nữa, quá Povonez, vào sâu trong
rừng thẳm. Người ta nói rằng ở vùng này có nhiều nông dân đào vong và những kẻ
vô công rồi nghề ẩn náu trong những tu viện. Những người thông thạo tình hình
khuyên hắn đừng nên đi quá sâu vào rừng:
- Các tu viện đã biết tin ông đến, bọn razkonic đã đề phòng. Bọn họ thì đông,
các ông chỉ có mười người trên ba cỗ xe trượt tuyết. Họ sẽ thủ tiêu các ông,
chẳng ai biết đấy là đâu.
Ở những vùng này, người dân tính tình thô
bạo; họ làm nghề săn bắn hoặc là dân sơn tràng. Họ ở những nếp nhà gỗ rộng rãi,
chắc chắn. Nhà ở, chuồng bò và kho cùng chung một mái. Làng xóm gọi là giáo
khu.
Đi từ nhà này sang nhà khác phải mất hàng
ngày đường trong rừng rậm. Aleksey hiểu rằng công việc sẽ khó khăn. Nhưng ở đời
người ta không thể sống mà không biết cái sợ là gì. Và, nếu báo cáo với vua
Piotr rằng mình đã đến tận phương Bắc, nhưng đến đó lại sợ, thì hẳn là Sa hoàng
sẽ hằm hằm nhìn hắn chòng chọc từ đầu tới chân, như một con sếu rồi nhún một
bên vai và quay mặt đi, cái đó mới khủng khiếp, và Aleksey có dập sứt trán
xuống đất thì hắn cũng cứ tiêu ma sự nghiệp.
Aleksey còn trẻ, hăng hái, bướng bỉnh. Ngay
trong giấc ngủ, hắn cũng không quên, khi mới đến Moskva, hắn chỉ có một đồng
nửa kopeik giấu trong mồm; hắn đã
phải dùng răng dành lấy tấm đai trắng sĩ quan trong tay thần tư mệnh.
Đến Povenez, Aleksey gặp anh thợ săn Yakim
Krivovalov ở chợ và mướn anh ta dẫn đường.
Đã hai mươi năm nay, Yakim làm việc cho các
nhà buôn họ Reviakin: anh săn cáo lông bạc, chồn, sóc; xưa kia anh săn hắc điêu
nhưng loại điêu đó đã tuyệt mất giống ở vùng này.
Anh giao hàng cho nhân viên hãng buôn
Reviakin ở Povenez rồi ở lại uống rượu, uống cho đến khi gán nợ bằng hết mọi
thứ cho đến cả cây thánh giá lễ rửa tội vẫn đeo ở cổ. Người thư ký của hãng
Reviakin lại cấp cho anh quần áo, một cây súng, thuốc, đạn. Vụ săn mùa thu năm
nay kém, và Yakim được biết rằng theo sổ sách chẳng những anh không được lĩnh
đồng nào mà hai mùa đông nữa cũng chưa chắc đã trả xong nợ.
Anh nguyền rủa, văng tục và uống rượu say
mềm.
Aleksey Brovkin tìm thấy anh nằm vật trên
đống tuyết, trước quán rượu, quần áo bị lột hết, mình mẩy thâm tím. Yakim đáng
giá ngàn vàng, với điều kiện là lúc nào cũng phải có một chai vodka để dưới ghế
xe và cho anh ta biết điều đó.
Chân xỏ bàn vợt(2), anh chạy trước đoàn xe
để dẫn đường. Rừng thực hùng vĩ và rùng rợn.
Giữa hai thân cây lại nhìn thấy rừng mọc
kín những mỏm núi đá rất lớn. Ra khỏi rừng đến bờ hồ vắng vẻ, mặt nước đóng
băng phẳng lì như gương, nhìn nhức mắt. Đôi khi nghe thấy tiếng thác đổ ầm ầm.
Yakim ngồi lên thành xe:
- Người ta chưa điều tra dân số ở đây bao
giờ. Có những nơi hẻo lánh chỉ mình tôi biết đường tới. Nhưng dân vùng này cứng
đầu cứng cổ lắm, ông khó mà mộ được người.
Đêm đến, họ rẽ sang một con đường ngoặt,
đến nghỉ ở một túp lều ẩn mùa đông hoặc ở một khu rừng thưa, cạnh một dòng
nước, nơi có những thân cây vùi dưới tuyết ngả sẵn để sang xuân sẽ đốt. Trước
túp lều mục nát, họ tháo ngựa. Bọn lính lấy rìu đẵn cành thông kéo vào trong
nhà. Họ nhóm lửa trên nền đất nện. Khói lặng lẽ bốc qua khe mái nhà bay lên
trên khu rừng toả vào bầu trời xám xịt. Yakim bứt rứt đứng ngồi không yên, cho
đến khi được một cốc vodka.
Yên tâm, anh ngồi trên đống cành, cạnh lửa:
bộ râu quai nón xòe ra như một chiếc quạt, môi đày, mũi to, mắt tròn như mắt
thần rừng. Trông anh quả là một thần rừng thực sự.
Anh kể:
- Ông ạ, chỗ nào tôi cũng đã tới, tôi thuộc
vùng này như túi áo tôi; tôi đã sống mấy tuần liền ở tu viện Vyga. Tôi còn biết
nhiều tu viện khác, chỉ đến được bằng một con đường độc đạo, mà đi cũng hãi
lắm. Tôi không tài nào biết thánh lão Nectari ẩn ở đâu. Không ai nói hở cho
biết. Gặp một tín đồ razkonic, chỉ
hơi đả động đến vị thánh lão là y im bặt: có chặt y ra từng khúc y cũng chẳng
hé răng. Vậy mà đối với công việc của ông, nếu gặp được ông cụ thì tốt hơn: ông
cụ có thể cấp cho ông hai trăm người... Ô, ông cụ có thế lực lắm!
- Nhưng ông cụ là thế nào đối với họ, -
Aleksey hỏi. - Một thứ giáo trưởng chứ gì?
- Là một thánh lão. Trước khi bị hành hình,
quyền giáo trưởng Apvakum đã ban phước lành cho lão, ở Puxtozesk... Cách đây
mười hai năm, ở tu viện Paleostrov, lão đã thiêu chết chừng hai nghìn năm trăm
tín đồ razkonic. Họ đi trên băng, kéo
đến ban đêm, phá cửa tu viện, nhốt cha bề trên và các thầy tu vào hầm, phá các
kho. Nectari cho họ ăn uống. Họ lấy hết vàng bạc. Đến giáo đường họ lấy nước
thánh rửa tượng, thắp nến rồi làm lễ theo kiểu của họ. Đàn ông đi theo lão
không nhiều lắm, nhưng đàn bà trẻ con thì nhiều vô kể! Từ Povenez, tổng trấn
dẫn một đội quân xtreletz vượt băng
giá kéo đến. “Đầu hàng đi!” Suốt ba ngày, đám nông dân dọa giao chiến. Nhưng
quân xtreletz có một khẩu đại bác.
Đám tín đồ razkonic liền đem rơm,
nhựa thông, diêm tiêu vào giáo đường và giữa đêm Noen, họ đốt lửa tự thiêu.
Nectari cùng một số nông dân trốn thoát. Ba năm sau, ở giáo khu Puzoi, Nectari
lại hỏa thiêu lối một nghìn năm trăm người nữa. Gần đây lại xảy ra một vụ hỏa
thiêu mới ở trong rừng, cạnh hồ Voronez. Người ta bảo rằng lại cũng lão ta. Bây
giờ, có tin đồn sắp xảy ra chiến tranh, nhà vua cho đi mộ lính. Vậy thì chẳng
bao lâu nữa sẽ lại có một vụ hỏa thiêu lớn... Ông có thể tin được lời tôi.
Người ta lũ lượt tìm đến Nectari.
Aleksey và những người lính lấy làm lạ:
- Tự thiêu mình, tự nguyện à? Những người
ấy ở đâu đến thế?
- Rất đơn giản, - Yakim nói. - Nông nô phải
chịu thuế má, và sai dịch và lại nợ địa tô, nên bỏ trại ấp, bò ngựa, chạy trốn
theo Nectari. Họ từ khắp nơi đến từ vùng Novgorod
và Tver, từ vùng Moskva và Voloda. Lạy Chúa, trong rừng có biết bao nhiêu hải
cốt. Khi họ tụ tập mấy nghìn người thì phải biết. Lấy gì mà ăn? Vùng này không
trồng được lúa mì. Rồi họ bắt đầu kêu ca, rình mò ăn trộm. Nectari đưa thẳng họ
lên thiên dường, còn hơn để họ đi sâu vào vòng tội lỗi vô ích.
- Ồ có lý nào, anh nói láo.
- Aleksey Ivanovich, tôi không nói sai bao
giờ. Có người còn sống hẳn hoi mà tự mình nằm vào áo quan, đúng như thế đấy...
Ở một nơi kia, về phía Bạch Hải, có một lão già người nhỏ bé làm lễ thông công
cho người ta bằng quả nho khô: lão bỏ vào miệng người nào một quả nho khô tức
là đã làm lễ ban phước cho người đó để người đó tự nằm vào trong áo quan, còn
sống hẳn hoi.
- Khuya rồi, thôi, hãy gác câu chuyện hoang
dường của anh lại... - Aleksey quấn chiếc áo lông cừu, nằm xuống đống cành cây
bên ngọn lửa, một lát sau, nói: - Yakim, ta phải đi tìm thánh lão Nectari ấy
mới được!
Hai người đi ván trượt tuyết ra khỏi rừng,
dưới ánh trăng. Mùi khói ở túp lều bay ra. Vài con ngựa đứng cạnh những cỗ xe,
đầu cúi thấp, mình phủ tải gai. Anh lính gác nằm ngủ gật trên ghế xe, hai tay
áo lông cừu ôm lấy khẩu súng hỏa mai.
Hai người lặng lẽ đi quanh túp lều. Chống
gậy nhọn, họ đứng lại, lắng tai nghe. Một quầng sáng nhạt bao quanh mặt trăng.
Khu rừng phủ băng giá im phăng phắc. Sau bức tường, có tiếng người ú ớ trong
lều. Một con ngựa phồng bụng hít mạnh. Anh lính gác nằm ngủ như tê cóng lại,
khuôn mặt để ria sáng ánh trăng.
Một người nói:
- Hay ta trói nó lại? Nó ngủ say như chết.
Xong rồi vứt nó vào lửa rồi cầu kinh cho nó.
Người kia vểnh râu ngắm anh lính:
- Trói nó à? Động mất. Nó sẽ kêu lên. Bọn
chúng có mười đứa ở trong kia.
- Vậy làm thế nào?
- Cho nó một gậy rồi chặn cửa lều lại.
Người thứ nhất, đội mũ lông có tai, lắc
đầu:
- A, Petrusa, Petrusa. Ai bảo anh ăn nói
thế? Nó cũng là người như chúng ta, cùng dòng máu như ta, có phải là con vật
đâu... Bề trên đã dạy rằng người ta được rửa tội trong lửa thiêu. Trong lửa...
Còn anh, anh lại định dùng gậy đánh chết nó! Làm thế anh sẽ giết mất cả phần
hồn của một con người
- Tôi sẵn sàng phạm tội đó!
- Ngay nghĩ đến việc đó cũng không nên nữa
là. Nhân danh chúa Jesus, đừng cám dỗ tôi!
- Vì rằng, làm thế dễ hơn: vừa gọn lại vừa
êm thấm.
- Rồi anh xem cha Nectari sẽ bảo gì anh về
những ý nghĩ ấy.
- Tôi chỉ muốn làm cho gọn, cho tốt thôi!
Họ im bặt, suy tính: làm thế nào? Bóng một
con cú lướt loằng ngoằng trên lớp tuyết xanh lam: con chim gở ấy đã đánh hơi
thấy mồi, nó đang lượn. Bỗng cửa lều kêu cót két, cái đầu thần rừng của Yakim
thò ra, - chắc anh ra đi tiểu... Trông thấy hai người, anh kêu “a” rồi nhảy vội
vào nhà, báo động. Hai người lẩn sau những cành cây đầy sương giá, bỏ chạy. Một
tiếng súng nổ, phá vỡ bầu không khí yên lặng của khu rừng.
Họ chạy một hồi lâu, cố ý đi vòng vèo để
đánh lạc hướng. Họ chạy qua một rừng thông rậm đến một dòng sông. Trời sắp
sáng, mặt trăng treo cao trên trời. Gần đây có tiếng gõ vào một mảnh gang,
thong thả, buồn bã.
Andriuska Golikov đánh kẻng báo lễ nhất.
Anh mặc một chiếc áo bông rất cũ lót lông cáo nhưng chân lại đi đất. Chân bị
tuyết lạnh tím bầm, anh nhắy như choi choi, miệng ê a nhắc câu phương châm của
giáo trưởng Apvakum: “Với các bậc tuẫn tiết vì đạo, con sẽ thăng tiến; với các
đấng sứ đồ, con sẽ đứng trong hàng ngũ; với các vị thánh, con sẽ có được ánh
hào quang”. Anh vừa đọc vừa cầm chiếc vồ nhỏ đánh vào mảnh gang thay chuông,
treo ở cột dưới mái hiên, trước cửa tu viện. Thánh lão đã bắt anh chịu hình
phạt sám hối này, vì hôm qua, ngày ăn chay, anh đã uống kvas cho đỡ khát.
Nghe tiếng kẻng, giáo hữu tập hợp lại. Họ ở
những phòng tu kín đi ra, đàn ông một bên, đàn bà một bên. Tu viện không rộng,
có rào chung quanh. Nhiều giáo hữu sống ở gần đó; dọc theo bờ sông, ở rìa một
cù lao lầy lội.
Họ đi xuyên qua rừng đến tu viện. Những
người ở xa, vội rảo bước, sợ đến chậm: thánh lão rất nghiêm khắc. Giữa tu viện,
ở lọt vào giữa những đụn rơm đánh đống sát nhau là nhà nguyện, thấp, dựng bằng
gỗ cây, có bốn mái rộng giữa là một cột bát giác bên trên có nóc hình chóp lều.
Qua cổng tu viện, tín đồ khép nép đi từng
bước, đầu cúi thấp, tay chắp trước ngực; đàn ông, có người còn trẻ, có người đã
đứng tuổi, đàn bà bận áo dài vải thô ra ngoài áo bông, mặt che khăn. Trong
sương mờ ánh trăng, tiếng kẻng gang âm thầm thánh thót tỏa nỗi buồn thảm của
cuộc đời trần thế; tiếng giầy gai dẫm lạo xạo trên tuyết.
Tới trước cửa nhà nguyện, tường bằng gỗ cây
phủ sương giá, tín đồ làm dấu bằng hai ngón tay rồi khúm núm bước vào nhà.
Trước các bức tranh thánh cổ kính, những cây nến nhỏ leo lắt cháy. Ở nơi rừng
thẳm này mà cũng có nến thắp ư? Phải chăng là một phép lạ?
Tín đồ quỳ gối, đàn ông bên phải, đàn bà
bên trái. Một bức rèm khâu bằng nhiều mụn vải khác nhau căng trên một sợi dây
thừng ngăn họ ra hai bên.
Hai người thở hồng hộc, chân đi giầy trượt
tuyết, chạy vào cổng tu viện, gọi to Andrey Golikov:
- Đừng đánh kẻng nữa, tai họa đến nơi rồi!
- Đi trình với thánh lão đến gặp chúng tôi...
Nhanh lên.
Tâm hồn Andrey căng thẳng như một sợi gân
khô, vì những ngày nhịn đói, những đêm thức, vì luôn luôn lo sợ. Anh hốt hoảng
đánh rơi chiếc vồ, người run bắn lên, hơi thở dồn dập.
Nhưng Nectari đã không uổng công dạy anh
thắng bọn yêu ma. “Yêu ma đầy rẫy: mỗi ý nghĩ là một con quỷ” - Anh vội vã hét
thầm trong bụng: “Quỷ Satan, kẻ thù của ta ơi, hãy để cho ta yên!” Anh nhặt
chiếc vồ, đánh vào chiếc cồng cạnh bức tranh thánh và lắc đầu:
- Đừng quấy rầy ta, cút đi!
- Andrey, tôi đã bảo anh là viên sĩ quan
đưa lính đến cách đây năm dặm
- Ít ra cũng đừng đánh cồng to thế, chúng
nó có thể nghe thấy... Yakim cùng đi với chúng. Nghe tiếng cồng, nó sẽ dẫn
chúng đến thẳng đây!
Hai hàm răng Golikov va nhau lập cập; anh
nói lí nhí trong miệng:
- Thánh lão còn ở trong phòng kín, các anh
đến đấy mà tìm người.
Họ bỏ vợt trượt tuyết ra và đi tìm Nectari.
Cả hai người, Xtiovka Bacmin và Petruska Kozevnikov, đều quê ở ngoại ô Povenez;
họ làm nghề chài lưới và săn bắn. Để phạt họ về tội làm dấu thánh giá bằng hai
ngón tay, viên tống trấn đã nhiều lần cướp bóc họ, làm cho họ khánh kiệt, tịch
thu hết gia súc của họ. Họ không chịu được nữa. Đã hai năm nay, vợ con họ nương
náu ở tu viện Vyga; bản thân họ sống nay đây mai đó tìm những nơi chài lưới và
săn bắn khá hơn.
Khi có tin đồn một sĩ quan đem lính đi khắp
các tu viện - bọn lính cạo râu cạo mặt, ăn thịt, hơi thở sặc mùi thuốc lá xa
hàng dặm - Nectari ra lệnh cho Xtiovka và Petruska đi theo dõi họ, đánh lạc hướng
họ, và nếu cần có thể được thì thủ tiêu những tên bộ hạ của Quỷ vương, thủ tiêu
chúng không có tội lỗi gì hết.
Đến chỗ Nectari ở không phải là việc đơn
giản.
Một chú tiểu đi ra tiền đình lạnh lẽo.
Thánh lão có hai tiểu để hầu hạ: Andrey Golikov và anh què Porfiri, một thanh
niên ốm yếu, đôi mắt trợn ngược. Hai người vừa tới khẽ kể cho Porfiri biết
chuyện. Porfiri ngoẹo đầu sang một bên, thì thào: “Các anh vào...”
Hai người đi rừng vội vàng bỏ mũ; đi qua
tiền đình vào phòng tu kín của Nectari, họ cố co rúm người lại, thân thể họ quá
cao lớn và thô kệch, Thánh lão không ưa những thân thể đẫy đà, da thịt nở nang.
Nectari người nhỏ bé, lưng gù, bận áo khoác
đen bằng dạ thường kiểu cổ, đang đứng trước giá kinh, Lão liếc nhìn Xtiovka và
Petruska. Bộ râu nhỏ nhọn hoắt dài gần chấm gối: dưới bộ lông mày đen, đôi mắt
sáng như hai cục than hồng. Cây nến cắm ở gáy quyển sách bị mọt ăn, khẽ nổ lách
tách, báo trước những ngày đại hàn... Lò xây bằng đá tảng lấy ở hố, tỏa hơi
nóng sực. Vách phòng ghép bằng gỗ cây, cạo sạch sẽ. Trên trần, lủng lắng những
túm cỏ khô treo ở những sợi dây gai.
Những hòn nước đá nhỏ đọng trên ria Xtiovka
và Petruska tan ra nước, chảy ròng ròng; nhưng chừng nào vị thánh lão chưa đọc
kinh xong, hai người không dám đưa tay chùi, không dám đụng đậy. Giọng lão đọc
nghe rợn người. Một anh chàng bị ma ám nằm nghiêng trong xó tối nhìn lão: một
chiếc xích quấn ngang người buộc anh ta vào một cái đinh có ngạnh đóng ở tường.
Trước lò, bột đang nở trong chậu ngào có đậy chiếc áo thầy tu đã cũ.
- Có chuyện gì đấy?
Nectari quay về phía hai người mugic, đi đến chỗ họ, chòm râu trắng
vểnh lên. Họ là những người không sợ gấu, một mình dám đánh nhau với con nai
lớn vùng hàn đới, thế mà đứng trước Nectari họ run sợ. Xtiovka lúng túng kể lại
sự việc vừa xảy ra. Petruska, vẻ luống cuống, gật đầu đồng ý.
- Vậy ra là, - Nectari ngọt ngào nói, - vậy
ra là con, Petruska, con muốn lấy gậy nhọn đánh chết tên lính; còn con,
Xtiovka, con sợ phạm tội với Chúa?
Xtiovka hăng hái trả lời ngay:
- Thưa cha, chúng con theo vết họ đã mười
lăm ngày nay. Yakim, thằng trời đánh, rất thông thạo vùng này. Nó dẫn bọn chúng
đến thẳng đây. Làm thế nào bây giờ? Chúng con suy nghĩ mãi. Chúng đề phòng cẩn
thận. Nếu không, việc đã dễ dàng: chỉ việc chẹn cửa lều lại, nhóm lửa đốt.
Chúng con sẽ cầu kinh rửa tội cho chúng. Thực thanh thoát cho chúng và cho
chúng con. Nhưng, cha xem đó, chúng con không thực hiện được. Còn như giết
chúng như giết quân kẻ cướp thì chúa Jesus không cho phép. Ma quỷ đã cám dỗ
chúng con.
- Ta đã ban phước cho phép các con làm lễ hỏa
thiêu đó à? - Thánh lão hỏi.
Hai anh mugic
ngạc nhiên nhìn lão, không trả lời.
- Con đã hết lòng cầu xin, phải không,
Xtiovka? Rửa tội cho mười người bằng lửa? Ồ ồ! Ai cho con quyền ấy? À, thế ra
là ma quỷ đã xúi giục Petruska; còn con, con đã thắng ma quỷ? Đắc đạo nhỉ! To
quyền nhỉ?
Xtiovka xịu mắt. Petruska chớp chớp mắt
nhìn thánh lão; anh không hiểu.
- Porfiri, con bỏ một cục than vào lư và
đọc kinh thổi lửa lên, - thánh lão nói.
Anh què Porfiri tháo cái lư treo ở một
chiếc đinh gỗ, và tập tễnh đi đến lò; anh thổi cục than tẩm nhựa bách rồi hôn
tay Nectari, đưa lư hương cho lão. Cánh tay dài của Nectari đu đưa lư hương kêu
xủng xẻng gần sát đất, tung khói vào mặt và hai bên sườn hai anh mugic rồi lão quay ra sau lưng họ đi một
vòng, mồm lẩm bẩm, đầu cúi chào. Lão đưa lư cho Porfiri, rút chiếc roi da tết
gài ở thắt lưng, quất thật đau vào mặt Xtiovka, rồi quất Petruska. Hai người
quỳ xuống. Miệng lẩm bẩm, môi tím ngắt, Nectari càng nổi nóng quất vào má họ: “Tính
kiêu căng, cái tính kiêu căng đáng nguyền rủa”. Bỗng anh chàng bị ma ám phá lên
cười, giằng xích, nhảy chồm chồm như một con chó giữ nhà:
- Đánh nữa đi, đánh nữa đi, cụ ơi, đuổi tà
đi!
Thánh lão mệt nhoài, thở hổn hển, bỏ đi.
Lão đằng hắng.
- Sau này, - lão nói, - tự các con sẽ hiểu
vì sao ta đánh các con. Thôi các con đi cho bình yên, cầu chúa Jesus phù hộ các
con!
Hai anh mugic
lặng lẽ ra khỏi phòng kín. Ánh trăng đã mờ, phía sau nhà nguyện, bên kia khu
rừng tối om, trời đã ló ánh rạng đông. Trời băng giá rất lạnh. Hai anh mugic giang hai tay: họ phạm tội gì? Tại
sao? Làm gì bây giờ?
- Chúng ta đi đã nhiều mà chưa ăn uống gì
mấy, - Petruska khẽ nói.
- Làm thế nào xin cụ cho ăn được bây giờ?
- Có thể cụ sẽ cho bánh mì chăng?
- Tốt hơn hết là đừng giơ mặt ra. Cứ thế này
mà đi theo dõi bọn chúng ở đó. Ta sẽ kiếm một con sóc làm thịt ăn!
Andrey Golikov leo lên ổ rơm trên mặt lò,
chân tay run bần bật. Trên đường đi đến nhà nguyện, thánh lão đã ra lệnh cho
anh ngừng đánh kẻng; lão không cho anh dự lễ: “Đi nướng bánh” - Bàn chân cóng
rét dẫm vào các hòn đá nóng lại càng đau nhức, anh đói mụ cả người.
Anh nằm sấp cắn vào mép ổ rơm. Để khỏi kêu
lên, anh nhẩm lại trong trí một đoạn kệ của Apvakum: “Con người là một đống
thối nát, một đống phân... ta thích sống với loài chó lợn, chúng tỏa mùi hôi thối
như linh hồn ta. Tội lỗi của ta làm ta hôi thối như một con chó chết...”
Anh chàng bị ma ám bị xích trong xó, cựa
quậy và nói:
- Đêm qua, lão già lại chén mật ong.
Lần này, Andrey không quát hắn: “Đừng có
điêu toa?”. Anh nghiến răng cắn chặt hơn nữa mép ổ rơm.
Anh không còn sức bóp chết con quỷ nghi ngờ
ghê gớm đang dày vò anh. Nhân một việc rất nhỏ nhặt, con quỷ đó đã nhập vào
người Andrey. Đã bốn mươi ngày rồi, cả ba người - Nectari và hai người học đạo
- đều chịu lễ khẩu trai, không ăn uống gì, chỉ uống một hớp nước nhỏ. Để
Porfiri và Andrey khỏi lả đi trong khi đọc kinh thánh, Nectari bảo họ nhấp môi
bằng nước kvas và giữ ngực cho ấm.
Lão nói: “Còn ta, ta không cần. Có một vị thiên thần cho ta nhấp môi bằng những
giọt sương hứng trên thiên đường”.
Và lạ lùng thay: Andrey và Porfiri mệt lả,
ấp úng không nên lời, trông chỉ còn thấy đôi mắt, mà lão thì vẫn tươi tỉnh,
khỏe mạnh.
Nhưng một đêm, Andrey nhìn thấy thánh lão
từ mặt lò nhẹ nhàng tụt xuống, múc trong hũ ra một thìa mật ong và ăn với bánh
chưa làm phép. Andrey lạnh toát chân tay: thà phải nhìn tận mắt cắt cổ một
người còn hơn phải chứng kiến cái cảnh tượng này. Và anh không biết xử trí ra
sao: im đi hay nói ra? Sáng dậy, anh khóc nức nở, và liều kể cho Nectari những
điều anh thấy. Nectari nghẹn thở:
- Đồ chó, đồ ngu! Ma quỷ hiện hình đấy, có
phải tao đâu. Thế mà mày lại khấp khởi mừng thầm. Đó, cái xác thịt đáng nguyền
rủa đó! Mày thì có thể bán rẻ cả thiên đường để lấy một thìa mật ong!
Lão vác cái chĩa, dùng để đưa những chiếc
hũ vào lò, đánh Andrey; lão không cho anh ở trong phòng, đuổi anh ra ngoài trời
băng tuyết, mình chỉ bận có chiếc áo lót. Sau trận đòn này, đầu óc Andrey tạm
yên một thời gian. Nhưng một hôm, nhân lúc không có ai trong phòng kín, anh
chàng bị ma ám - bị xích từ mùa thu, nhưng nhờ trời, được ấm - nói với Andrey:
- Nhìn xem, thìa còn dính mật ong kia kìa,
thế mà chiều hôm qua đã rửa sạch rồi đấy. Liếm đi.
Andrey mắng hắn. Một đêm khác, thánh lão
lại ăn mật ong, vừa ăn vừa khẽ chép môi như một con thỏ.
Tảng sáng, khi mọi người còn ngủ, Andrey
xem kỹ chiếc thìa, - mật còn đọng trên thìa, có cả một sợi râu bạc dính vào
thìa.
Một mối ngờ vực ghê gớm làm tan vỡ tâm hồn
anh. Vậy thì ai nói dối? Mắt anh dối anh chăng, - thìa còn dính mật kia, cái
lông trắng rõ ràng là một sợi râu. - chẳng lẽ lại là lông một con quỷ - Hay
chính thánh lão nói dối? Tin ai được? Có lúc, anh suýt phát điên: đầu óc rối
beng, tràn đầy thất vọng! Nectari luôn miệng nhắc nhở: “Quỷ vương đã đến cửa
ngõ trần gian, bộ hạ của nó lúc nhúc dưới gầm trời. Trên đất ta có một con quỷ
khổng lồ to bằng cả địa ngục bao la thăm thẳm”. Nếu quả như vậy, ai bảo rằng
chính Nectari lại không phải là con quỷ? Vác chĩa đánh vào lưng người, quỷ cũng
làm được như vậy... Cái gì cũng có hai nghĩa, cái gì cũng lùng nhùng như một
vũng lầy rêu phủ. Chỉ còn một cách: không nghĩ gì hết, cúi đầu cụp tai như một
con chó bị đòn, và tin, nhắm mắt mà tin. Nhưng nếu lòng tin đã mất? Nếu đầu óc
cứ suy nghĩ? Không thể đè bẹp, dập tắt ý nght được, nó cứ lập lòe như chớp
nguồn. Vậy thì cái đó cũng do Quỷ vương xui nên ư? Ý nghĩ là những ánh chớp
nguồn của Quý vương ư?
Bỗng Andrey thấy lòng mình tê tái: ta rơi
vào đâu, ta lăn đi đâu thế này? Ta nhỏ bé, nghèo hèn... A, giá như anh có thể
phủ phục dưới chân thánh lão, - người hãy dạy dỗ con, hãy cứú vớt con!
Nhưng anh không làm thế được; anh nhìn thấy
bộ ria dính mật ong... Anh đến nơi heo hút này tìm một cuộc sống thanh thản,
nhưng anh đã tìm thấy một nỗi hoài nghi.
Rồi một phần do thân thể suy nhược, Andrey
sinh ra ủ rũ: ý nghĩ anh cùn đi, dịu đi. Anh chịu đựng đòn vọt hàng ngày như
thể gãi ngứa. Thánh lão ngày càng lồng lộn, đánh anh ngày càng dữ. Đối với anh
chàng học đạo kia, thì: “Porfiri, con ơi”. Còn đối với Andrey, lão đánh anh hơn
là đánh ngựa. Bỏ đi? Nhưng đi đâu? Đúng là Denixov có nói với anh, khi xe đã
chở lúa mì đến tu viện Vyga hồi cuối tháng chạp:
- Anh hãy ở với tôi, làm công việc trang
hoàng thánh đường. Đến mùa băng tan, tôi sẽ cử anh đi Moskva áp tải hàng. Tôi
tin anh.
Andriuka đã từ chối - anh ước mong điều
khác: sự yên tĩnh, cõi chí phúc...
Anh tưởng như nhìn thấy một túp lều ẩn
trong rừng, một thánh lão đội mũ ngồi trên phiến đá bên bờ sông, kể chuyện
thiên đường với người đệ tử thân yêu, với bầy thú ở rừng lần ra nghe lời thuyết
pháp, với chim chóc đậu trên cành, với mặt trời phương Bắc tỏa ánh sáng mở nhạt
soi mặt gương lặng lẽ của dòng sông hiu quạnh.
Ôi, sự yên tĩnh anh tìm thấy là thế này
đây!
Một đêm, giữa cơn bão tuyết, nấp ở khe
tường thành khu phố Kitaigorod ở Moskva, anh run cầm cập lắng nghe xác những
người xtreletz lạnh cứng va dập vào
nhau, giá treo cổ kêu ken két - ngay cái đêm hôm đó, tâm tư anh cũng không đến
nỗi quay cuồng, xáo động như ngày nay.
Anh chàng bị ma ám nhìn ổ rơm trên lò nơi
Andrey đương nằm sấp và nói:
- Ở đây cậu chẳng thọ được bao lâu đâu, cậu
gầy yếu quá. Lão già sẽ vùi cậu xuống đất, cậu như cái xương mắc trong cổ lão.
Ồ, lão hách dịch kiêu căng lắm? Các thánh đồ không để lão được ngủ yên. Lão đọc
“Đời các thánh”, thế là lão giở đủ trò! Giả sử không có mùa đông giá lạnh thì
lão có thể ngồi chót vót trên một cành thông mười năm liền. Lão thiêu người ta
cũng vì lẽ đó - lão say mê quyền lực! Lão là Sa hoàng trong rừng... Tớ đi guốc
trong bụng lão, tớ thông minh hơn lão, không nói ngoa đâu... Tớ thông minh hơn
tất cả các cậu. Đúng là có ba con quỷ nhập vào người tớ... Con quỷ thứ nhất là
bệnh động kinh, con quỷ này mạnh... con quỷ thứ hai là bệnh lười... Không mắc
bệnh lười thì việc gì bị xiềng xích ở đây? Con quỷ thứ ba là tớ quá thông minh,
thông minh đến phát sợ lên được! Ấy, cứ trước ngày lên cơn động kinh là tớ hiểu
tất. Tớ trở nên xấu tính, chán ghét tất cả... Tớ biết rõ từng người ở đâu đến,
thằng ngu xuẩn ấy là ai, nó muốn gì... Tớ cố ý nói lếu láo, chế giễu mọi người...
Tớ gặm xích, tớ lăn lộn. - ai cũng tướng tớ rồ, ngộ thật... Cả đến lão già cũng
tin, trố mắt nhìn tớ... Này, người anh em, tớ nói cho mà biết, lão sợ tớ đấy.
Đến mùa xuân, tớ sẽ lại bỏ lão mà đi... Còn cậu, Andriuska, lão sẽ lấy chĩa
đánh cậu gẫy lưng, cậu sẽ mòn mỏi mà chết. Chắc chắn hơn cả là trong cuộc hỏa
thiêu đầu tiên, cậu sẽ là người bị lão thiêu trước nhất.
- Ồ im đi tôi van anh!
Andrey ở mặt lò tụt xuống, rửa tay, sắn tay
áo mở chậu ủ bột. Ở các phòng khác, bột bánh một phần ba là bột mì, còn hai
phần ba là vỏ cây phơi khô giã nhỏ; ở đây bột nguyên chất nở phồng như chiếc
mũ.
Anh chàng bị ma ám muốn xem bột. Anh ta kéo
xích, giật xích với đinh có ngạnh bật khỏi tường. Andrey hoảng sợ. Anh chàng bị
ma ám sắn tay áo nói:
- Không sao cả... Tớ vẫn làm thế luôn. Khi
thánh lão trở về, tớ sẽ đóng lại chiếc đinh, ngồi vào chỗ cũ.
Hắn cũng rửa tay. Andrey và hắn cùng nhào
bột nặn bánh thánh và cho bánh vào lò.
- Kể cũng buồn, Andriuska ạ... Ồ, giá mà
đem được một người đàn bà đến đây.
- Im đi... - Andrey nhổ nước bọt; anh muốn
giơ tay làm dấu đuổi tà, nhưng ngón tay anh dính đầy bột. - Tôi sẽ mách thánh
lão
- Đố đấy. Đồ ngu! Vậy ra cậu tưởng là ở các
tu viện gió thổi làm cho đàn bà to bụng đấy hả? Ở tu viện Vyga có ba mươi mụ
đều bụng ễnh ra như bò cái đến tháng đẻ... ấy thế mà ở đấy là nghiêm lắm đấy
- Toàn những chuyện dựng đứng
- Tớ cuộc rằng cậu chưa được nếm cái mùi
đời đó, có phải không, Andriuska?
- Cho đến chết, tôi cũng không làm việc ô
uế!
- A, nếu ta đem đến đây được một mụ béo
tốt, giao cho việc lau sàn. Mụ lau sàn, còn anh cứ việc ngồi trên ghế dài mà
nóng sực người lên... Cái đó mạnh hơn cả vodka đấy!
Andrey vội vàng gạt bột dính ở ngón tay.
Anh rời phòng bước ra ngoài trời lạnh, cho mát... Bên kia khu rừng, ánh rạng
đông đã tỏa rộng, chỉ một lát nữa là mặt trời sẽ mọc. Bóng tối ấm áp còn đọng
trên những vết chân in sâu trong tuyết, những cồn tuyết trắng toát như đường
nghiêng mình bên cạnh những túp nhà nhỏ, ngọn những cây tùng cao lớn xanh rờn.
Qua cánh cửa hé mở ở nhà nguyện vọng ra một
điệu hát buồn tẻ.
Xtiovka và Petruska lại chạy qua trước mặt
Andrey; họ gọi anh:
- Chúng nó đến đấy! Đóng cổng cái lại!
Aleksey Brovkin cử Yakim đến thương thuyết
với bọn razkonic; hắn muốn biết họ là
ai, có bao nhiêu người và tại sao họ không mở cửa tiếp sĩ quan của Sa hoàng.
Hắn buộc ngựa trong rừng, trên đường đi, rồi ra lệnh cho lính nạp đạn vào súng,
dẫn toán lính đến tu viện. Phía trên hàng rào cao, chỏm tuyết trên các mái nhà
lấp lánh sáng, cây thánh giá tám nhánh xanh biếc trên nóc nhà nguyện; tuy giờ
làm lễ qua đã lâu, người ta vẫn nghe thấy tiếng hát từ trong vọng ra.
Yakim gõ cổng một hồi lâu. Anh ta trèo lên
hàng rào, nhìn xem có chó không, rồi nhảy xuống sân.
Để ra oai với bọn razkonic, Aleksey đội mũ ba cạnh, thắt đai ra ngoài áo lông cừu, đeo
gươm vào; ở đây trông chừng có thể mộ được nhiều người, với điều kiện phải làm
cho họ sợ oai. Chắc rằng các ông lục sự hoặc các phái viên của Hội đồng xã
trưởng, - thường vẫn đánh thuế gấp đôi những người làm dấu bằng hai ngón tay
khi cầu kinh, - không bước chân đến nơi heo hút này.
Thời gian trôi qua. Binh lính nhìn mặt trời
đã xế, từ sáng đến giờ họ chưa được ăn uống gì. Aleksey, bực mình, đưa bao tay
lên che miệng ho húng hắng.
Cuối cùng, Yakim ở trên hàng rào nhảy
xuống.
- Aleksey Ivanovich, may quá: Nectari có ở
đây!
- Vậy lão làm sao thế, tại sao tên đồng
đảng của quỷ Satan này không mở cửa ra? Lính của ta đến chết cóng mất.
- Aleksey Ivanovich, bọn họ trốn trong nhà
nguyện. Ông xem sự tình đấy... Tôi có gặp ở đây một anh mugic quen. Hắn quê ở Novgorod ;
hắn bị họ xích lại... Hắn bảo: ở trong đó có chừng hai trăm tín đồ, nhiều người
đủ tiêu chuẩn đi lính nhưng khó mà mộ được vì lão già muốn hỏa thiêu họ.
Aleksey ngờ vực, trừng mắt nhìn Yakim:
- Hỏa thiêu? Thế nghĩa là thế nào? Ai cho
phép lão? Ta sẽ không để cho lão làm như vậy. Người không phải của lão mà là
của Sa hoàng.
- Là vì, ở trong khu rừng này, lão là Sa
hoàng đối với họ!
- Thôi im đi! - Aleksey cau có gọi lính.
Đám lính miễn cường đi lại, biết rằng đây không phải là một việc bình thường. -
Chuyện này không thể kéo dài. Hăng hái lên, anh em phá vỡ cửa đi!
- Aleksey Ivanovich, nên thận trọng. Chung
quanh nhà có nhiều đụn rơm, trong nhà lại có rơm, nhựa thông và một thùng thuốc
súng... Để tôi đi gọi lão tu sĩ, như vậy thì hơn. Tự lão cũng hiểu rằng thuyết
phục được hai trăm con người không phải dễ dàng gì. Aleksey Ivanovich, ông nên
tỏ vẻ cung kính, lão già vốn hách dịch, hai bên nên thỏa thuận với nhau.
Aleksey gạt anh mugic lắm lời ra. Hắn lại gần cửa, lắc xem có chắc không.
- Này, anh em, mang một cái xà gỗ lại đây!
Yakim đứng riêng ra một chỗ. Anh chớp mắt
tò mò nhìn: sắp xảy ra chuyện gì bây giờ đây?
Binh lính lấy đà đu thanh xà thúc vào những
phiến gỗ cửa đã đóng băng. Thúc được ba cái thì tiếng hát văng vẳng của những
người razkonic im bặt.
* * *
- Đi đến nhà nguyện!
- Tôi đã bảo là tôi không đi mà, để tôi
yên, - anh chàng bị ma ám trả lời, vẻ bực rọc.
Nectari, râu lốm đốm những giọt sáp dài, từ
sân quay vào, thở không ra hơi. Trong cặp mắt nhợt nhạt của lão, đôi con ngươi
quắc lên như hai cái chấm đen, lão muốn nạt anh chàng bị ma ám, hay nói cho
đúng hơn, lão giận điên lên. Lão hét to, giọng khàn khàn:
- Evdokim, Evdokim, giờ phán quyết cuối
cùng đã đến... Hãy cứu vớt lấy linh hồn mi. Chỉ còn một giờ nữa, sẽ bắt đầu
kiếp khổ ải vô cùng tận... Ôi, kinh hãi xiết bao? Tà ma trong người mi đang
mừng rỡ! Hãy lo cứu vớt lấy linh hồn mi!
- Bước đi! - Evdokim kêu lên lắc mạnh cái
đầu to sù. - Ma nào? Tao không hề bị ma ám bao giờ. Mi đi mà làm trò hề trước
bọn ngu xuẩn
Nectari giơ roi da. Người mugic cúi xuống, ngước mắt nhìn lão
trừng trừng, khiến lão bỗng thấy sỉu đi, phải ngồi xuống ghế dài. Hai người im
lặng một lúc.
- Andriuska đâu?
- Ma biết được Andriuska của mi ở đâu
- Đồ trời đánh, mày thực hết đường cứu vớt!
- Thôi, thôi, đừng có lải nhải!
Lão già đứng phắt dậy đi xem Golikov có sợ
chết trốn vào sau lò không... Giữa lúc đó, vang lên một tiếng ầm ngoài sân, có
cái gì kêu răng rắc.
Anh mugic
toác miệng ra cười, nói:
- Họ phá cửa.
Nectari chưa đi được tới lò, lão loạng
choạng, run lên bần bật. Lão đâm bổ ra sân, chiếc áo khoác phồng lên như cánh
buồm. Lão để cửa phòng mở toang.
- Andriuska, - anh mugic gọi - đóng cửa lại, lạnh lắm.
Không có tiếng trả lời. Hắn nhổ chiếc đinh
trên tường, làu nhàu chửi rủa, đi ra đóng cửa.
- Còn ở đây làm gì nữa. Phải chuồn thôi.
Hắn ngó vào sau lò. Andriuska Golikov đứng
nấp vào cái khe giữa lò và tường, mặt tái nhợt, rõ ràng là mụ mẫm chẳng còn
hiểu chuyện gì nữa. Anh khẽ nấc.
Evdokim kéo tay anh:
- Cậu không muốn chết chứ? Thôi, không sao:
cậu chẳng cần nhảy vào lửa làm gì... Đi tìm chìa khóa, nghe không? Lão già giấu
chìa khóa ở đâu? Tớ muốn tháo xích. Andriuska! Tỉnh lại chứ?
* * *
Toàn thể tín đồ đều quỳ. Đàn bà lặng lẽ
khóc, ôm chặt con vào lòng. Đàn ông, người thì để tóc xõa đưa bàn tay sần sùi
lên ôm lấy mặt, người thì giương cặp mắt đờ đẫn nhìn vào những ngọn nến cháy
leo lét.
Thánh lão đã đi ra ngoài nhà nguyện một
lát. Sau những giờ dài đằng đẵng, tín đồ mệt mỏi được nghỉ ngơi đôi chút. Làm
cho họ ngoan ngoãn như bầy con nít, lão già vẫn chưa vừa lòng... Trên đài giảng
kinh, lão thét to với một giọng ghê rợn:
- Ta sẽ phun ra lửa! Ta muốn nổi lửa! Không
phải là ta chăn đàn cừu lên thiên đường, mà là những bụi cây rực cháy!
Thực khó mà làm theo lời lão: trong lòng
phải bốc cháy bừng bừng... Tất cả những người có mặt ở đây đã trải qua nhiều
khổ ải; họ đã trốn tránh kiếp nô lệ; họ đã rời bỏ xóm làng, nơi mà người ta
không để cho nông dân sống, người ta bóc lột nông dân như gọt lông cừu.
Họ đến đây tìm sự yên ổn. Đồng lầy ẩm ướt
làm họ phù nề, họ ăn bánh làm bằng vỏ cây tán nhỏ, họ không quản ngại! Trong
rừng và ngoài đồng, dù sao họ cũng cảm thấy làm chủ cuộc đời mình... Nhưng hình
như chẳng có ai cho không sự yên ổn. Nectari chăn dắt các linh hồn một cách rất
khắc nghiệt. Không lúc nào ngơi, lão nung nấu lòng căm thù Quỷ vương, chúa tể
trần gian. Những ai lòng căm thù tỏ ra biếng nhác, lão trừng phạt họ hoặc đuổi
đi. Người nông dân đã quen nếp từ bao giờ: có lệnh thì phải nghe theo. Đã có
lệnh bảo trong lòng phải bốc cháy bừng bừng thì đành vậy: phải bốc cháy bừng
bừng.
Ngày hôm nay, lão già làm tình làm tội họ
hơn mọi khi; rõ ràng chính bản thân lão cũng kiệt sức.
Trong chỗ hát kinh, Porfori to tiếng đọc,
giọng như tách khỏi sự đời. Hơi thở như khói bốc lên vòm nhà ghép ván. Nước nhỏ
giọt từ trần xuống.
Lão già trở lại nhanh hơn mọi người tưởng:
- Các con nghe thấy chưa! - từ ngưỡng cửa
lão lớn tiếng nói - Các con đã nghe thấy bọn thủ hạ của Quỷ vương chưa?
Lão rảo bước vào nhà nguyện, tà áo khoác
của lão quét lên đầu các tín đồ. Râu vểnh lên, lão vái một mạch liền ba vái bộ
mặt tối sầm của các vị thánh. Lão quay về phía con chiên, vẻ mặt cuồng loạn của
lão làm cho trẻ con sợ khóc thét lên. Tay lão
cầm một chiếc búa sắt và một nắm đinh.
- Linh hồn ta ơi, linh hồn ta ơi, hãy tỉnh
dậy, sao còn ngủ? - lão gào lên. - Lời sấm truyền đã nghiệm, giờ tận cùng đã
đến... Chúng ta không còn chỗ dung thân trên trần gian nữa, chỉ còn những bức
tường này. Hãy cất cánh bay lên, các con hỡi... Trong ngọn lửa hồng. Vừa ngay
đây, ta trông thấy ở phía trên giáo đường của chúng ta, trên trời có một lỗ
hổng to tướng, ta thề với các con là đúng như thế... Các vị thiên thần đang
xuống với chúng ta, các con yêu quý ạ, các vị thiên thần xinh đẹp đang mừng rỡ.
Những người đàn bà ngẩng đầu lên, khóc sướt
mướt. Trong đám đàn ông, nhiều người thở hồng hộc:
- Bao giờ chúng ta lại thấy được cái quang
cảnh như ngày hôm nay? Thiên đường tự rơi vào miệng chúng ta... Anh em, chị em!
Có nghe thấy không, chúng đang phá cửa... Đội quân của ma quỷ đã bao vây hòn
đảo nhỏ của sự siêu thoát này... Bên ngoài những bức tường này là cõi tối tăm,
một ngọn gió xú uế!
Giơ cao chiếc búa và nắm đinh, lão chạy đến
cửa phòng nơi đã để sẵn ba tấm ván. Lão ra lệnh cho bọn đàn ông giúp lão rồi tự
tay đóng ba tấm ván chặn ngang cửa. Lão thở phì phò.
Bầy con chiên nhìn lão, sợ chết khiếp. Một
thiếu phụ, mặc áo xô trắng, hét lên một tiếng, vang khắp giáo đường:
- Các người làm gì thế? Ôi, các người yêu
quý của tôi đừng làm thế?
- Phải như vậy! - Lão già thét.
Lão trở lại, đi về phía đài giảng kinh:
- Các con là tín đồ Gia tô mà sợ lửa ư?
Chúng ta sẽ bốc cháy nhưng chúng ta sẽ sống mãi. - Lão dừng lại, đánh vào má người
thiếu phụ. - Đồ ngu! Được, mày có chồng, ở nhà mày có một hòm đầy chứ gì? Nhưng
rồi ra thì sao? Chẳng phải một cỗ áo quan đang đợi mày sao? Trước đây ta thương
các ngươi, vì các ngươi ngu dốt. Hôm nay không thể thế được nữa! Kẻ thù đã đến
cửa... Quỷ vương say máu cưỡi ngựa hồng đứng ngoài cửa kia. Nó giận dữ tay cầm
một bình chứa đầy đồ uế tạp và phân... Hãy xin thánh thể trong bình ấy đi! Hãy
xin thánh thể! Ôi kinh tởm!
Người thiếu phụ gục xuống, mặt úp vào hai
đấu gối, người run lên, miệng càng la hét thất thanh. Những người khác bịt tai,
hai tay chẹt lấy cổ để khỏi bật lên tiếng thét.
- Đi, đi ra đi... - Tiếng đập phá và tiếng
răng rắc lại tiếp tục. - Nghe thấy chưa? Sa hoàng Piotr chính là Quỷ vương hiện
thân... Thủ hạ hắn muốn xông vào đây đoạt linh hồn chúng ta... Địa ngục! Mi có
biết địa ngục là thế nào không? Địa ngục đã được tạo ra trong khoảng trống của
vũ trụ ở trên đất liền... Địa ngục là một vực thẳm khôn lường, đời dời tối như
đêm... Các hành tinh xoay chung quanh, ở đó lạnh đến chết người không thể nào
chịu nổi... Một ngọn lửa bốc cháy, không bao giờ tắt... Ruồi bọ lúc nhúc, mùi
lưu huỳnh sặc sụa! Nhựa sôi nóng rẫy... Giang sơn của Quỷ vương! Mi muốn đến đó
chăng?
Rồi lão thắp nến lên; lão bốc ra từng nắm
nến trong rương nhà thờ, lanh lẹn chạy đi gắn nến vào tranh thánh, vào bất cứ
đâu. Một ánh sáng vàng tỏa ra, sáng rực cả gian nhà nguyện.
- Hỡi anh em! Chúng ta đi thôi... Lên thiên
đường. Trẻ em đâu, đem trẻ em lại gần đây; Ở đây chúng sẽ dễ chịu hơn, khói sẽ
làm chúng thiếp đi... Hỡi anh chị em, hãy vui mừng lên... Cho con được dời đời
yên nghỉ cùng các đấng toàn phước, - lão cất tiếng hát, giương hai cánh tay ra
làm cho chiếc áo khoác ngoài tung bay phấp phới.
Những người đàn ông ngẳng nhìn lão, râu
vểnh lên, đồng thanh hát tiếp bản thánh ca, cứ quỳ mà lết lại gần giá kinh. Phụ
nữ lết theo, lấy khăn quàng che đầu con.
Tường nhà nguyện rung chuyển: ngoài sân, có
người lấy một vật gì thúc vào cánh cửa đã đóng ván chặn và có chống thêm cột.
Lão già trèo lên một chiếc ghế dài, áp mặt vào cửa sổ lùa trổ ở bên trên cửa ra
vào:
- Không được lại gần... Chúng ta không chịu
sống mà đầu hàng đâu!
Aleksey Brovkin hỏi:
- Mi là thánh lão Nectari có phải không?
Quân của Aleksey đã mở được cống cái của tu
viện, nay đang tìm cách phá cửa nhà nguyện.
Qua khung cửa sổ hình bầu dục dài, một bộ
mặt già nua, nhợt nhạt, ngoẹo về một bên nhìn Aleksey. Anh giận dữ nói:
- Các ngươi chưa hết giở những trò điên rồ
à?
Lão già phải khó khăn mới luồn được tay ra
ngoài cửa sổ, giơ hai ngón tay làm dấu thánh giá về phía viên sĩ quan của Sa
hoàng. Phía trong tường, hàng trăm miệng cùng cất tiếng: “Xin Chúa phục sinh?”.
Aleksey nổi khùng, mặt đỏ gay:
- Đừng có múa ngón tay, ta không phải là
quỷ, mà mi cũng chẳng phải là cha ta. Đi ra tất cả đi, nếu không ta sẽ dùng võ
lực bắt các ngươi phải ra.
- Còn mi, mi là ai? - Lão già hỏi với một
giọng lạ lùng, chế giễu. - Mi đến làm gì ở nơi rừng sâu vắng vẻ này?
- Ta mang chiếu chỉ của Sa hoàng. Nếu các
ngươi không tuân lệnh, ta sẽ trói gô tất cả, điệu về Povenez!
Đầu lão già biến đi, chẳng đáp lời. Làm thế
nào bây giờ đây? Yakim cuống cuồng thì thào:
- Aleksey Ivanovich, tôi thề với ông rằng
họ sắp tự thiêu đấy.
Trong nhà lại có tiếng hát: “Cho con được
đời đời yên nghỉ cùng các đấng toàn phước”.
Aleksey dậm chân trước cửa, cáu kỉnh thở
khụt khịt. Nhưng làm thế nào mà bỏ đi được?
Tiếng tăm sẽ đồn đại khắp các tu viện rằng
họ đã đuổi cổ anh đi, anh, một sĩ quan. Aleksey tháo bao tay, nhảy lên bíu lấy
thành cửa sổ, co mình lên, và trông thấy cảnh tượng như sau:
trong ánh sáng nóng bỏng của không biết bao
nhiêu ngọn nến, những bộ mặt râu ria xồm xoàm kinh hoảng quay về phía anh họ
vừa làm dấu vừa xì xào:
- Nơi chúng ta đây là đất thánh, bước đi,
quỷ Satan!
Aleksey nhảy xuống đất.
- Nào, thúc một cái nữa vào cửa!
Quân lính thúc một cái nữa, rồi đợi. Bỗng
có ba người hiện ra ở cửa sổ gác xép. Yakim nhận ra Xtiovka Bacmin và Petruska
Kozevnikov; hai người cầm cung săn, có gài sẵn một chiếc tên dự trữ ở thắt
lưng; người thứ ba mang súng hỏa mai. Họ leo ra mái nhà, nhìn bọn lính.
Người mang súng hỏa mai nói, giọng nghiêm
nghị:
- Lùi lại, nếu không chúng tôi bắn. Chúng
tôi đông người.
Thái độ táo bạo đó làm Aleksey Brovkin sửng
sốt.
Nếu là bọn khố rách áo ôm ở ngoại ô thì câu
chuyện sẽ không kéo dài. Nhưng, đây là những người dòng dõi nông dân lâu đời;
anh đã biết tính ương bướng của họ. Người cầm súng hỏa mai giống hệt người cha
đỡ đầu đã quá cố của anh: thắt lưng trễ thấp quá rốn, bắp chân mập mạp, râu
xoăn, mắt nhỏ như mắt gấu... Aleksey chỉ dậm dọa thôi. Yakim nói len vào:
- Tên anh là gì?
- Ta tên là Ioxif, - người nông dân mang
súng hỏa mai trả lời miễn cưỡng.
- Iosif, thế anh không thấy là ông sĩ quan
không được tự do à, ông ấy phái thi hành lệnh trên. Anh phải thưa chuyện với
ông ta, đôi bên cùng nhau dàn xếp chứ.
- Ông ta muốn gì? - Iosif hỏi.
- Giao cho ông ta mười lăm người đăng lính;
và cho binh sĩ chúng tôi sưởi. Đến đêm, chúng tôi sẽ đi.
Petruska và Xtiovka ngồi xổm ở ria mái nhà
để nghe. Iosif suy nghĩ hồi lâu:
- Không, chúng tôi không cho các ông được.
- Tại sao?
- Rồi các ông lại đưa chúng tôi về làng
sống trong cảnh giam cầm. Chúng tôi thà chết chứ không đầu hàng các ông. Chúng
tôi muốn được chết vì những bài kinh cổ, vì dấu thánh làm bằng hai ngón tay.
Thôi, không còn điều gì đáng nói nữa!
Hắn giơ súng, thổi máng thuốc, đổ thuốc ở
sừng (3) vào máng, đứng đợi sẵn bên trên cửa, dáng người thấp lùn, vững chãi.
Làm thế nào bây giờ? Yakim khuyên nên bỏ
cuộc: không thắng nổi Nectari đâu.
- Nó ương bướng, nhưng ta cũng ương bướng,
- Aleksey trả lời. - Không mộ được người, ta không rời khỏi đây. Ta sẽ bao vây
chúng.
Aleksey cắt hai người lính đi tháo ngựa cho
ăn, cho bốn người vào một phòng kín để sưởi.
Những người khác được lệnh canh phòng không
cho ai mang đồ ăn thức uống vào nhà nguyện. Trời đã tối. Rét càng dữ.
Tín đồ razkonic
hát như đưa đám ma. Petruska và Xtiovka đợi trên nóc nhà, thì thầm nói chuyện.
Họ hiểu chuyện này sẽ kéo dài.
- Chúng tôi muốn đi ngoài, - họ nói. - Ngồi
trên nóc nhà, phải tội. Cho chúng tôi nhảy xuống đất.
Aleksey bảo họ:
- Cứ nhảy xuống, chúng tôi sẽ không đụng
tới các anh.
Bỗng Ioxif dữ tợn lắc bộ râu rậm nạt họ.
Petruska và Xtiovka lưỡng lự, nhưng rồi sau, họ đi quanh vòm, nhảy xuống đụn
rơm.
Rõ ràng là thánh lão Nectari hiểu rằng cuộc
vây hãm sẽ gay go. Hai lần, lão áp mặt vào cửa sổ, đăm đăm nhìn vào ánh hoàng
hôn. Aleksey định nói chuyện với lão; lão nhổ toẹt không thèm bắt lời. Từ nhà
nguyện lại vọng ra giọng nói khàn khàn của lão át cả tiếng hát, tiếng van lơn,
tiếng trẻ con khóc. Một việc gì ghê gớm đang được sửa soạn trong ấy.
Khi mặt trời lặn hẳn, chừng mươi người nông
dân để đầu trần từ cửa gác xép chui ra mái nhà. Họ cuống cuồng vung hai tay kêu
to:
- Lùi ra, lùi ra!
Rồi họ vội vàng cởi hết quần áo. Họ trút áo
lông cừu tháo ủng dạ, cởi áo lót, quần lót.
- Đấy! - Họ vơ mớ quần áo vứt xuống sân cho
bọn lính. - Đấy, quân đi đàn áp người! Rút thăm mà chia nhau đi. Chúng tao sinh
ra trần truồng, chúng tao cũng trần truồng mà ra đi
Trần như nhộng, người tím ngắt, họ nằm sấp
xuống mái nhà, vốc tuyết sát vào mặt, nức nở khóc lóc và la hét. Rồi chân nhảy
chồm chồm, hay tay giơ cao, râu bám đầy tuyết, họ biến cả vào trong cửa sổ. Chỉ
có một mình Ioxif ở lại. Hắn giơ súng ngắm vào bọn lính, không cho họ lại gần
cửa. Nhìn đám người trần truồng, Aleksey hoảng sợ. Yakim hướng lên cửa sổ kêu
to, giọng đầy nước mắt:
- Dù sao nữa cũng thương lấy bọn trẻ? Anh
em ơi! hãy thương lấy đám phụ nữ!
Trong nhà nguyện tiếng kêu gào vang lên,
nghe không to nhưng xiết bao hãi hùng khiến mọi người muốn bịt tai lại. Bọn
lính lại gần, ai nấy vẻ mặt đăm chiêu:
- Thưa ông trung uý, việc hỏng rồi. Thà để
cho Ioxif bắn chúng tôi, còn như nếu chúng tôi phá cửa...
- Phá cửa! - Aleksey nghiến răng thét.
Những người lính lanh lẹn đặt súng xuống,
lại khiêng cái xà lên. Bỗng vòm nhà, với cây thánh giá mờ mờ trong ánh hoàng
hôn, lung lay nghiêng ngả.
Đất rung chuyển nặng nề, một tiếng nổ như
sấm dậy, đập vào ngực mọi người. Khói tuôn qua các khe, dưới mái nhà; khói đặc
sệt, bùng sáng... Lửa lem lém phun qua khe các cây gỗ, liếm vào các bức tường.
Cửa bị phá vừa sập đổ, một người nhảy vọt
ra ngoài, mình bốc cháy như bó đuốc, đầu đen sì, lăn lộn trên tuyết quằn quại
như một con giun. Trong nhà nguyện, một cơn bão khói và lửa hoành hành, đám
người bị lửa vây tứ phía lồng lộn nhảy chồm chồm. Lửa từ dưới sàn phun lên.
Khói đặc sệt đã bốc lên từ những đụn rơm quanh nhà.
Hơi nóng không tài nào chịu nổi buộc bọn
lính phải lùi lại. Họ không thể cứu được một ai.
Họ bỏ mũ, làm dấu thánh giá; có người để
nước mắt chảy ròng ròng. Aleksey bước qua cổng cái đã gẫy, để mắt khỏi trông
thấy gì hết, tai khỏi nghe tiếng người gào thét như thú vật. Đầu gối anh run
lẩy bẩy, anh thấy buồn nôn. Anh tựa lưng vào một thân cây, ngồi xuống, bỏ mũ
cho mát đầu, bốc tuyết ăn. Lửa cháy càng soi tỏ khu rừng phủ tuyết. Không sao
thoát khỏi cái mùi thịt nướng.
Bỗng anh nhìn thấy, trên bãi tuyết rực đỏ
không xa nơi anh ngồi, ba người đang đi, chân thụt sâu trong tuyết. Một người
tụt lại sau, trông như đang vặn tay, đứng nhìn: ở khoảng trên khu tu viện, một
ngọn lửa từ đám khói đặc bốc lên cao, cao hơn ngọn cây rừng rất nhiều; tàn lửa
cuồn cuộn vọt lên trời... Một người khác đang lồng lộn kéo tay một người thứ
ba, một lão già người bé nhỏ râu dài, mặc chiếc áo lông cừu khoác ra ngoài áo
choàng.
- Nó chạy trốn, nó đây rồi, quân chó đẻ! -
người kia điên cuồng kêu lên, lôi lão già đến chỗ viên sĩ quan của Sa hoàng. -
Phải phanh thây nó ra từng mảnh!
- Nó chui qua một cái lỗ vừa lọt người trổ
dưới hầm, trốn khỏi đám cháy... Nó định thiêu chúng tôi, Andriuska và tôi,
thằng quỷ trời đánh này!
-----------
Chú thích:
(1)
Tiếng Đức. Schwein con lợn. Russisches Schwein: bọn lợn Nga.
(2)
Đồ ở chân đi trên tuyết cho khỏi lún giống như vợt đánh bóng.
(3)
Thuốc súng đựng trong một chiếc sừng.
Chương 122
Sắc chỉ của Sa hoàng qui định:
“Theo gương tất cả các dân tộc theo đạo
Thiên chúa, từ nay tính năm sẽ không bắt đầu từ ngày khai thiên lập địa mà bắt
đầu từ ngày thứ tám sau ngày chúa Jesus giáng sinh, và năm mới sẽ không tính từ
ngày mồng một tháng chín mà từ ngày mồng một tháng giêng năm nay, 1700. Để đánh
dấu sự đổi mới tốt lành này và ngày bắt đầu thế kỷ mới mọi người sẽ vui vẻ chúc
tụng nhau nhân dịp năm mới. Ở các phố lớn và đông người qua lại, dân chúng sẽ
trang hoàng ngoài cửa và trong nhà bằng cây và cành thông, tùng, đỗ tùng, theo
những kiểu trưng bày ở hành lang các cửa hàng, trước cửa hiệu bào chế phía
dưới. Dân nghèo ít ra cũng phải cắm một cây hoặc ít cành trên cổng cái. Trong
sân các dinh thự, nhà các quân quan và nhà các thương gia, sẽ bắn súng đại bác
nhỏ hoặc từng loạt súng trường, sẽ đốt pháo càng nhiều càng hay, và sẽ nhóm lửa.
Ở những nơi sân nhỏ hơn, năm sáu nhà sẽ họp nhau lại để đốt rơm hoặc củi khô
chất đầy vào những thùng nhựa cũ. Trước dinh Thị trưởng, cũng sẽ bắn súng và
đốt lửa, nếu xét thấy thuận tiện...”
Đã lâu lắm, người ta chưa được nghe kéo
chuông như vậy ở Moskva. Có người kể rằng đức giáo trưởng Adrian , vốn không dám trái ý Sa hoàng điều gì
đã cấp cho các thầy thủ từ một nghìn rúp và năm mươi thùng rượu bia loại mạnh
lấy ở hầm riêng của người để tổ chức tuần chuông này. Những người kéo chuông
hết nhảy lên lại ngồi xổm xuống để rung chuông.
Moskva mịt mù khói và hơi bốc lên từ ngựa
và người. Tuyết đóng băng kêu lạo sạo. Cây cối nặng trĩu sương giá. Khói che
kín các quán rượu mở cửa suốt ngày đêm. Trong đám sương mờ đó, mặt trời một màu
đỏ quạch, chưa từng thấy bao giờ, mọc lên chiếu sáng lấp lánh những cây kích to
bản của lính gác đứng trước các đống lửa.
Xen vào tiếng chuông, tiếng súng nổ đì đùng
khắp thành phố Moskva, đại bác gầm lên nghe rầm rầm. Hàng mấy chục cỗ xe phi
nước đại chạy qua, chở đầy những người say rượu, ăn mặc trá hình, mặt bôi nhọ
nồi, mặc áo lông lộn trái. Họ ghếch chân thật cao, tay vung những chai vodka,
la hét, lồng lộn; đến những chỗ đường ngoặt, họ ngã lăn xuống từng đống dưới
chân những người dân thường bị mụ đi vì tiếng chuông và khói.
Suốt một tuần, đến tận ngày lễ Cứu Chúa
hiển hiện. Moskva ồn ào, ầm ĩ. Hầu như chỗ nào cũng xảy ra hỏa hoạn. May là
không có gió.
Hàng lũ cướp từ những khu rừng lân cận ùa
vào thành phố. Hễ đâu có những ngọn khói bốc lên sau những mái nhà phủ tuyết là
bọn du thủ du thực đi xe trượt tuyết phi nước đại kéo đến. Chúng đội đầu cừu
phơi khô và mũ hề, chúng phá cửa xông vào ngôi nhà đang cháy cướp phá sạch.
Người ta đuổi bắt, nhiều đứa bị dân chúng bóp cổ chết. Có tin đồn chính tướng
cướp Exmen Xokol cũng hoành hành trong thành phố Moskva.
Sa hoàng, cùng với đám cận thần, đại vương
trùm đạo, lão già trác táng Nikita Zotov và các tổng chủ giáo hề bận áo tế phó
chủ giáo cắm đuôi mèo, đi một vòng thăm các nhà quý tộc. No say rồi, họ vẫn kéo
đến như giặc châu chấu, ăn thì ít đổ đi thì nhiều, gào những bài thánh ca, và
đái dưới gầm bàn. Khi chủ nhà đã say khướt, họ gọi xà ích quất ngựa kéo đi nơi
khác. Để khỏi mất công tập hợp nhau ngày hôm sau, cả bọn ngủ lại ở một nhà nào
đó, bạ đâu ngủ đấy, chồng chất lên nhau mà ngủ. Họ nhởn nhơ kéo nhau đi khắp
thành phố, vui đùa và chúc tụng mọi người nhân dịp năm mới và thế kỷ mới.
Những ngày đó, dân các đại xã, vốn hiền
lành và ngoan đạo, sống trong lo âu: họ sợ không dám thò ra khỏi cửa. Tại sao
lại có cái sự cuồng loạn như vậy? Họ không hiểu. Phải chăng quỷ Satan đã xúi
giục Sa hoàng gây rối loạn trong đời sống nhân dân, phá tục lệ cũ, phá nếp sống
đã có từ bao đời nay... Xưa kia, người ta sống eo hẹp nhưng lương thiện; người
ta tần tiện từng kopeik, biết điều
hơn lẽ thiệt. Nhưng ngày nay, Sa hoàng cho tất cả đều là hỏng bét. Nhà vua
chẳng ưng cái gì cả. Những người không muốn công nhận cây thập ác mới và từ
chối không làm dấu thánh giá bằng ba ngón tay tụ tập nhau dưới hầm nhà để đọc
kinh vãn khóa.
Một lần nữa lại có tin đồn mọi người chỉ
sống được đến giữa tuần chay: tiếng kèn báo hiệu cuộc phán quyết cuối cùng sẽ
vang lên trong đêm thứ bảy rạng ngày chủ nhật. Ở xloboda Bronaia xuất hiện một người; người ấy tụ họp dân chúng ở
nhà tắm công cộng, rồi cứ quay, quay mãi, lấy bàn tay tự vả vào mặt, ê a tự
xưng là Xabaot(1) rồi xùi bọt mép ngã
vật xuống... Một người khác, trần truồng lông lá trông đến khiếp, ra mắt nhân
dân, tay cầm ba chiếc gậy cời than, nói lên những lời sấm không ai hiểu, dọa
rằng tai họa sắp đổ xuống đầu mọi người.
Một sắc chỉ thứ hai của Sa hoàng được đóng
ở các cửa ô khu Kitaigorod và khu Belogorod:
“Quý
tộc, triều thần, sĩ quan của Sa hoàng và viên chức các bộ, và cả các nhà buôn,
từ nay bắt buộc phải bận trang phục Hungary, và đến mùa xuân khi tiết trời đã
bớt lạnh, phải bận trang phục kiểu xứ Xăc(2)”.
Người ta treo mũ áo kiểu mới vào móc để
triển lãm. Lính đứng gác đồ triển lãm nói rằng rồi đây sẽ có lệnh cho vợ các
nhà buôn, vợ lính xtreletz, phụ nữ ở
các đại xã, vợ các giáo trưởng và các thầy trợ tế, khi ra phố phải để đầu trần,
mặc váy ngắn kiểu Đức, mang khung lồng ở hai bên sườn, bên trong áo dài...
Nhiều người lo sợ vơ vẩn, tụ tập từng đám
đông trước các cửa ô. Họ ghé tai nhau thì thầm kháo rằng người lạ mặt mang ba
chiếc gậy cời than đã ném phân vào một chiếc áo treo triển lãm mà kêu lên:
- Chẳng bao lâu nữa họ sẽ cấm các người nói
tiếng Nga, rồi các người xem! Bọn giáo sĩ La Mã và bọn giáo sĩ theo phái
Lute(2) sẽ đến đây làm lễ rửa tội lại cho tất cả mọi người. Dân các đại xã sẽ
bị bắt nộp cho người Đức làm nô lệ suốt đời. Từ nay, Moskva sẽ gọi là thành phố
Quỷ. Người ta đọc trong sách cổ thấy nói rằng Sa hoàng Piotr là một người Do
Thái thuộc bộ lạc Đan.
Làm thế nào mà không tin những lời đồn đại
ấy được, vì trước ngày lễ Cứu Chúa hiển hiện, bọn nhân viên của nhà buôn
Reviakin đã chạy khắp các cửa hiệu kể lại sự hy sinh tự nguyện to lớn và hãi
hùng để chuộc nhân loại khỏi tay Quỷ vương: trên bờ hồ Vyga hàng mấy trăm tín
đồ vẫn làm dấu bằng hai ngón tay, đã tự thiêu sống. Ở đúng bên trên nơi xảy ra
vụ hỏa thiêu, vòm trời nứt ra làm đôi, người ta nhìn thấy một khoảnh đất bằng
thủy tinh, bốn con vật đội một chiếc ngai. Đức Chúa Trời ngự trên ngai, bên
phải và bên trái có bốn mươi vị thánh lão, các thiên sứ có “hai cánh, hai mắt
và hai chân” vây quanh người. Một con chim bồ câu từ ngai Trời bay lên, tức thì
lửa tắt và hương thơm tỏa ngào ngạt, không còn mùi khét lẹt nữa.
Ở Bộ bưu vụ, một người tầm vóc và diện mạo
bình thường khi sắp đi ra, vứt một lá thư lại trên sàn. Người ta hỏi hắn “ Này,
anh đánh rơi vật gì đấy!” Hắn sợ hãi bỏ chạy mất. Trên phong bì niêm phong có
ghi; “Đệ lên Hoàng Đế, không được mở niêm phong”.
Viên lục sự Paven Vaxilievich Xuxlov phải
khó khăn lắm mới luồn được hai bàn tay run lẩy bẩy vào hai ống tay áo bông. Hắn
dọa đánh tuốt xác anh xà ích bắt phải phóng nước đại đến điện Preobrazenskoe.
Viên sĩ quan thường trực đứng ở tiền đình đưa cặp mắt khinh khỉnh nhìn viên lục
sự từ cái trán hói đến dôi ủng da dê lót lông: “Sa hoàng không tiếp khách”.
Paven Vaxilievich, lo sợ, chân tay bủn rủn,
ngồi xuống chiếc ghế dài. Một đám đông chen chúc nhau ở đây; quân nhân - họ là
những người Nga kiêu ngạo, người nào cũng cao lớn, vai rộng, lực lưỡng như
những con bò mộng; những người ngoại quốc, nhỏ nhắn hơn nhưng mặt mũi dễ coi.
Ít lâu nay nhiều người ngoại quốc đã bị đuổi ra khỏi quân đội vì ngu dốt và
rượu chè be bét, thật tội nghiệp; những người khôn ngoan, đi từ các tỉnh
Vladimir, Yaroslav, Oriel đến để cầu xin ân huệ; những ông chủ xướng, những nhà
buôn; hai vị đại thần dòng dõi hiển hách, ngồi kề bên nhau, một người tím bầm
một bên mắt, một người đầu quấn băng: sau khi đánh nhau, họ đến đây để thưa
kiện.
Hai tay khoanh sau lưng, bận áo ngắn màu
nâu, đầu đội bộ tóc tơ giả, một người ngoại quốc đi đi lại lại chẳng để ý đến
ai; mặt y hiền lành có vẻ đói, mắt đeo kính; đó là một nhà toán học, kiêm hóa
học, tiếng tăm lừng lẫy, đã phát minh ra cái perpetum mobile(4) - một bánh xe nước quay không bao giờ ngừng, -
sáng tạo ra người máy bằng đồng biết đánh cờ, phun ra rượu bia hay rượu nho,
như người thật. Nhà toán học này, đã đề nghị với Sa hoàng trên một trăm bằng
phát minh sáng chế có thể làm giàu cho nước Nga.
Nikita Zotov say khướt từ ngoài xộc vào
tiền đình, cùng đi với một người to béo lạ thường:
- Đừng sợ, nhà vua ưa quái vật, nhà vua sẽ
cho anh vô số vàng bạc.
Đại vương trùm đạo kéo người bụng phệ vào
phòng của Sa hoàng. Paven Vaxilievich đầy tinh thần mẳn cán, đến gần viên sĩ
quan thường trực nhìn thẳng vào mặt y nghẹn ngào nói:
-
Lời nói và hành động!(5).
Lập tức triều đình im phăng phắc. Viên sĩ
quan ưỡn thẳng người, khẽ thở dài rút kiếm ra và nói:
- Ta đi.
Bức thư do Paven Vaxilievich trao tận tay
Sa hoàng, được mở ngay. Vua Piotr nhức đầu, cau có miễn cưỡng tiếp viên lục sự.
Thư mang chữ ký của Alioska Kurchatov, đầy tớ vương hầu Piotr Petrovich Seremetiev.
Xem xong thư, vua Piotr đưa tay gãi cằm, nói: “Hừm!”. Nhà vua đọc lại bức thư,
ngả đầu ra đằng sau kêu “Hà”, rồi quên phắt viên lục sự Paven Xuxlov, nhà vua
rảo bước đi sang phòng ăn; các cận thần đã ngồi đó đợi bữa ăn trưa từ lâu.
- Các ông thượng thư! - mắt Sa hoàng sáng
lên. - Ta cho các ông ăn uống thoả thích, các ông đã làm lợi gì cho ta? Đây này!
- Nhà vua vung bức thư lên. - Một người tầm thường, một gã nông nô đã phát
minh! Hắn đã tìm được cách làm giàu cho Ngân khố. Fedor Yurievich... - Nhà vua
quay về phía vương hầu Romodanovki đang thở phì phò. - Cho tìm Kurchatov và dẫn
hắn đến đây ngay lập tức... Chừng nào hắn chưa đến, chúng ta chưa ăn... Đây này,
các ông thượng thư, ta phải bán giấy tín chỉ: dùng cho mọi chứng thư, đơn từ,
giá từ một kopeik đến mười rúp. Các ông hiểu chưa? Chúng ta không
có tiền theo đuổi chiến tranh ư? Thì tiền đấy !
-------------
Chú thích:
(1)
Tên người Do Thái gọi Chúa trời Jehova của họ với chức chỉ huy các tinh tú được
coi như những đạo quân của Chúa.
(2)
Một xứ ở miền Bắc nước Đức.
(3)
Tu sĩ người Đức chủ trương cải cách đạo Thiên Chúa chống lại Nhà La Mã. - 1483
- 1546).
(4)
Tiếng la tinh: chuyển động vĩnh cữu.
(5)
Khẩu hiệu báo có việc khẩn cấp quan trọng xin yết kiến nhà vua.
Chương 123
Trời chưa sáng rõ mà khắp nơi trong nhà
đã nghe thấy tiếng cửa mở đóng ầm ầm và tiếng cầu thang kêu cót két, - bọn hầu
gái kéo lê ngoài sân các thúng, gói, rương hòm đi đường.
Vương hầu Roman Borisovich dùng bữa điểm
tâm dọn tạm trên chiếc bàn có một cây nến mỡ bò soi sáng. Vừa ăn món xúp bắp
cải chua, ông vừa ngoảnh lại, vẻ bất bình:
- Avdochia... Antonida, Olga! A, lạy Chúa!
Ông vác cái bụng lên, với lấy chai vodka.
Lão quản gia cũng đã biến mất. Bỗng ông nghe thấy tiếng động, hình như có người
nào ngã lăn xuống chân cầu thang.
- Thôi ngay, đừng làm ầm nữa, bọn quỷ thọt!
A, lạy Chúa!
Antonida bước vào, đầu tóc rũ rượi, như một
mụ rồ, mình mặc chiếc áo bông cũ của mẹ.
- Antonida, ngồi xuống, ăn đi
- A, cha bảo sao chứ?
Nàng vớ lấy chiếc khăn quàng lông tơ chạy
bổ ra phòng ngoài. Roman Borisovich tìm xem có gì còn có thể ăn được nữa.
Trong phòng các cô con gái, ngay trên đầu
ông, người ta đang kéo lê cái gì rồi đánh đổ làm bụi bậm từ trên ván rơi xuống.
Cái gì thế? Phá nhà ư?... Ông lắc đầu dùng món cá chiên. Bà vương hầu Avdochia
chạy xồng xộc vào phòng ăn, mình mặc áo bông, tùm lum trong mấy lớp khăn quàng
dày. Bà lại ngồi sát bên tường, trên chiếc ghế Vơnidơ. Mặt bà méo xệch đi vì
sợ: suốt đời bà chỉ mới dời khỏi Moskva có hai lần để đến tu viện Ba Ngôi và
đến Novo-Ieruxalim. Nay bỗng chốc, một cuộc hành trình như vậy, mà lại quá hấp
tấp vội vã.
- Tại sao bà lại quàng khăn sẵn như vậy?
Cởi ra và ăn đi. Đi đường không ăn được đâu, ăn uống thảm hại lắm.
- Roman Borisovich, đi có xa lắm không?
- Tới Voronez, bà nó ạ.
- Trời ơi!
Bà nức nở, nhưng mắt ráo hoảnh. Từ trên
gác, tiếng Olga réo xuống:
- Mẹ ơi, mẹ nhét bộ tóc giả vào đâu rồi?
Avdochia đang ngồi vùng đứng dậy, như một
chiếc lá bị gió cuốn rồi biến mất.
Điều duy nhất an ủi Roman Borisovich là ông
biết rằng khắp Moskva chỗ nào cũng đều nhốn nháo như vậy. Vị vương hầu chấp
chính, ông chúa và niềm kinh hãi của thủ đô, hôm qua đã công bố sắc chỉ của Sa
hoàng: các quan chức trong triều cùng với vợ con họ, các thương gia, thân hào
và các bậc thượng lưu trong xloboda Đức
đều phải đến Voronez để dự lễ hạ thuỷ tàu “Định
mệnh”, chiếc tàu rất lớn, ngay ở nước ngoài cũng ít thấy có. Thời kỳ tuyết
tan sắp tới, đường xá sẽ không đi lại được nên phải lên đường ngay để tranh thủ
đi bằng xe trượt tuyết.
Tuy phải cố gắng nhiều, nhưng Roman Borisovich
cũng bắt đầu hiểu biết về chính trị. Sau những ngày hội hè ầm ĩ tháng giêng,
thư từ của viên đại sứ thần Emelian Ukrainsev từ Constantinop gửi về đã tới,
báo tin Thổ Nhĩ Kỳ sẵn sàng ký kết một hòa ước vĩnh cửu: họ chỉ yêu cầu những
nhượng bộ không đáng kể để xoa dịu những kẻ bất bình; Emelian Ukrainsev còn làm
cho họ phải thừa nhận rằng ta kiên quyết giữ nguyên tắc đã xác định ở hội nghị
Carlovitz: “Bên nào bên nấy có gì giữ nấy”. Nhưng đột nhiên, có chuyện gì đó đã
xảy ra ở Constantinop, một kẻ thù không biết rõ là ai đã xen vào các cuộc đàm
phán và người Thổ Nhĩ Kỳ hung hăng hơn hồi đầu, đã lên mặt: họ đòi phải hoàn
lại cho họ Azop và thành phố Kazykerman với những pháo đài nhỏ trên sông
Dniepr, họ muốn rằng các Sa hoàng Moskva phải nộp cống cho phiên vương xứ Krym
như xưa. Còn về Mộ thánh thì họ cũng không thèm nói tới.
Nhận được những tin đó, vua Piotr đâm bổ đi
Voronez. Alekxandr Danilovich, sau khi tắm trong phòng hơi nước để rã hết hơi
men của những yến tiệc bữa trước, lên chiếc xe ngựa lộng lẫy và đi khắp một
lượt các nhà thương gia lớn. Hắn ân cần nói với họ:
- Phải giúp hoàng thượng gỡ ra khỏi chuyện
mắc mớ này. Nếu đến mùa xuân, hạm đội hùng mạnh của ta không uy hiếp được bọn
Thổ Nhĩ Kỳ thì sẽ không có hòa bình. Tất cả những cố gắng của ta từ trước tới
nay tan thành mây khói.
Về phần mình, tại điện Kreml, Lev
Kirilovich, giọng đầy nước mắt, nói với các đại thần:
- Ta có thể chịu một nỗi nhục như vậy được
chăng? Nộp cống như trước cho tên phiên vương Krym, và mỗi kỳ xuân đến lại đợi
bọn rợ Tarta tràn vào những vùng đất đai phì nhiêu nhất của ta ư? Liệu có chịu
để cho bọn Thổ Nhĩ Kỳ và bọn Thiên Chúa giáo xúc phạm Mộ thánh không? Như thời
Minin và Pozaski(1), chúng ta sẽ hiến đến chiếc áo lót cuối cùng của chúng ta
để xây dựng hạm đội Voronez vĩ đại.
Các công ty đóng tàu lại phải mở hầu bao. Ở
Moskva có những lời đồn đại rùng rợn về chiến tranh sắp xảy ra đến nơi: người
ta nói là toàn thế giới, hoặc gần như thế, đang nổi dậy, vũ khí lăm lăm trong
tay để chém giết lẫn nhau. Bọn nước ngoài sục sạo như bày chuột nhắt, đến
Moskva rồi lại ra đi, phao tin khắp châu Âu rằng Moskva không còn là nơi trú
ngụ yên lành của đạo Cơ đốc chân chính như xưa kia nữa: Moskva chật ních binh
lính và súng ống; vị Sa hoàng trẻ tuổi tỏ ra nhiều tham vọng, các cố vấn của
nhà vua thì kiêu căng... Moskva đang lao xuống dốc.
Mới đây, tại điện Kreml, Roman Borisovich
không kịp suy nghĩ, đã hứa cung cấp đủ lương thực dự trữ một năm cho công
trường đóng tàu “Định mệnh”. Vênh
váo, bừng bừng tinh thần mẫn cán, ông hét vào mặt Lev Kirilovich:
- Tôi sẽ thân chinh lên ngựa nhưng danh dự
hoàng thượng sẽ được bảo toàn!
Và ngay lúc đêm hôm, khi xuống hầm bí mật
của mình với một cây nến, ông moi ở dưới đất ẩm lên một chiếc nồi chôn ở một
xó, lấy ra một trăm năm mươi rúp, đếm
từng kopeik một, - phần đóng góp của
ông vào công ty, - ngay lúc đó, một mình trong hầm, mân mê từng đồng kopeik dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn
nến, ông cũng không để cho những nghịch ý lung lạc.
Vương hầu Buinoxov đã khác hẳn xưa, ông đã
thông hiểu hơn trước. Ông đã nén chặt, khóa kỹ những nghịch ý trong lòng. Cũng
chỉ vì những nghịch ý đó mà vương hầu Lykov đã bị thất sủng, nằm tại quê nhà.
Vương hầu Xtepan Belovenski, cái lão ngu ngốc ấy, nhân lúc say đã thét lên
trong một bữa tiệc tại dinh vương hầu chấp chính:
- Sao, ông cũng cấm tôi suy nghĩ như tôi
muốn ngay cả trong giấc mơ ư? Người ta đã cạo nhẵn má tôi, tôi phải mặc quần
chẽn, theo kiểu Pháp, nhưng còn về phần hồn, thì đây này...
Và ông đã làm một cử chỉ tục tĩu, lấy ngón
tay làm lõ chó giơ ra.
Vương hầu chấp chính chỉ cười gằn, vẻ mặt
gườm gườm. Ngày hôm sau một sắc chỉ ra lệnh cho vương hầu Xtepan đi nhận chức
tổng trấn ở Putxtozesk.
Roman Borisovich vốn có thừa khôn ngoan.
Nhưng liệu người ta phải khôn ngoan đến thế nào mới có thể đeo đẳng được tất cả
các ý đồ điên rồ của Sa hoàng Piotr? Tưởng đâu như ngay đêm hôm, Sa hoàng cũng
không chịu nằm yên một chỗ: nhà vua không để cho mọi người yên thân được. Toàn
thể Moskva phải cấp tốc đến Voronez... Để làm gì? Để ngủ trên ghế dài, trong
những túp nhà gỗ thảm hại chật chội, ăn uống thiếu thốn. Để uống vodka với đám
thủy thủ ư? Còn phụ nữ? Lôi họ đến đó làm gì? Ôi lạy Chúa!
Roman Borisovich nốc cạn một cốc rượu nữa
để dập tắt những ý nghĩ đang day dứt ông.
Ánh sáng ban mai đã ló trên kính cửa. Mấy
con quạ nhỏ đỗ xuống ngọn cây trơ trụi trước cửa sổ. Dù Sa hoàng có ra sức
khuấy động cái cảnh yên lành của ta thì ánh sáng xanh buổi sớm mai vẫn là thứ
ánh sáng thời ông cha ta, vẫn những đám mây ửng hồng sau những mái nhà tròn...
Roman Borisovich rống thầm trong bụng, môi mím chặt. Ngoài sân có tiếng nhạc
ngựa loong coong: bọn mã phu vừa thắng xe, vừa quát tháo bầy ngựa.
Toàn thể gia đình đi trên hai chiếc xe
trượt tuyết che kín - ba xe khác chở quần áo và lương thực theo sau - Tiếng
nhạc ngựa lanh lảnh như báo trước nỗi buồn của cuộc hành trình.
Đường đi Kolomna, rất đông người qua lại,
khấp khểnh gồ ghề; mỗi dặm được đánh dấu bằng một cột đỏ; giữa những cột đó là
hàng cây bạch dương mới trồng. Antonida và Olga ngồi đếm cột và bạch dương -
các cô chẳng còn cách giải trí nào khác trên đường; dưới ánh nắng tháng ba,
tuyết được phủ một lớp vỏ băng rắn chắc; xa xa xuất hiện những cánh rừng màu
nâu - Theo điềm quạ đậu trên cây bên đường, các cô đoán sẽ có những cuộc tao
ngộ nên duyên.
Trên xe trượt tuyết thứ hai che kín, Roman
Borisovich, vai đè nặng lên vợ, ngáy khò khò, mỗi lần xe xóc môi lại rung rung.
Cuộc hành trình vô sự.
* * *
Đoàn xe dự định dừng lại làng Ulianino,
cách Moskva năm mươi dặm để ăn sáng. Những mái rạ bên dưới khe chưa xuất hiện
thì một xe trượt tuyết cao, che kín, mui da, đóng sáu con ngựa màu nâu, với hai
gã xà ích, phóng vùn vụt vượt qua xe nhà Buinoxov.
Một giai nhân, vẻ mặt thẫn thờ uể oải, tùm
hum trong mấy lớp áo lông hắc điêu thử, đưa mắt hờ hững liếc qua tấm kính nhỏ ở
cửa xe nhìn các cô gái đang tò mò, nhốn nháo ngó xem ai.
Antonida, thò đầu ra khỏi chiếc áo bông của
mẹ kêu lên:
- Mụ Monx, mụ Monx. Olga nhìn xem kìa, có
một kỵ sĩ đi với mụ... - Thực vậy, trong xe đang lướt rất nhanh người ta thoáng
nhìn thấy một bộ mặt cạo nhẵn trên mũ có một nẹp vàng.
- Không phải là Kornigxeg thì em cứ nổ con
ngươi! - Olga nói.
Antonida đập mạnh bao tay vào nhau;
- Em bảo sao? Trời, con mặt dày!
- Chị lạ lắm à? Nó là một con ngựa cái, một
con người Đức... Cả Moskva xì xào về Kornigxeg, chỉ có vua là mù thôi!
- Con đĩ ấy, phải lấy roi mà đánh tuốt xác
ra ở nơi công cộng!
- Rồi nó cũng đến cái nước đó thôi!
Tới làng, hầu hết sân nào cũng có xe đỗ,
qua các cổng nhà mở ngỏ, họ trông thấy xe trượt tuyết của các vị đại thần. Mấy
phụ nữ nông dân đuổi bắt gà trên các đống tuyết nhớp phân. Roman Borisovich nổi
xung với vợ:
- Đấy, cứ sửa soạn mãi đi, mẹ con bà thật
là đồ ngốc, lẽ ra phải đi từ tờ mờ sáng... Bây giờ làm sao mà tìm ra được một
nhà còn chỗ.
Ông ra lệnh cho xà ích đánh xe tới ngôi nhà
gỗ của Sa hoàng. Năm xưa, người ta cất những quán trọ có bốn cửa sổ, với một
thềm chính diện năm bậc, tại mỗi trạm nghỉ trên đường đi tới Voronez. Những
người phụ trách các quán đó phải có sẵn đồ ăn thức uống dự trữ và trước hết
phải chăm nom không để có gián, vì nhà vua rất sợ.
Người phụ trách quán trọ, nhảy một bước ra
tới thềm, đầu đội bộ tóc giả, gươm đeo bên sườn. Hắn xua tay về phía các xe
đang đỗ lại:
- Chật ních cả rồi, chật ních cả rồi, không
còn chỗ đâu.
Roman Borisovich, vẻ quan trọng, gạt hắn ra
và bước vào phòng ngoài. Vợ và các cô con gái theo sau. Người phụ trách bước
theo, mồm lầu bầu. Quả là hai căn phòng, bên phải và bên trái phòng ngoài, đã
đầy người. Áo bông, ủng da, mũ, gươm ngổn ngang, chất đống trên sàn; bọn hầu
gái rối rít, mùi súp bắp cải sực lên.
- Cha ạ, đây là nơi nhân vật quan trọng ở
đấy, - Olga thì thầm.
Chính Roman Borisovich cũng thấy rõ là nên
lặng lẽ rút khỏi đây. Bỗng từ buồng bên phải, nơi các trang công tử đầu đội tóc
giả đang cười đùa, nghe thấy có người nói tiếng Nga lơ lớ giọng Đức.
- Quận chúa Olga, quận chúa Antonida, mời
các quận chúa ngồi vào bàn với chúng tôi.
Các bộ tóc giả giạt cả ra. Trên bàn đã bày
biện sẵn, Anna Monx, mặc áo đỏ và đội mũ đi đường, cầm chiếc cốc cao có chân
rót đầy rượu, quay về phía các cô gái, vừa mỉm cười vừa lên tiếng gọi... Các
trang công tử, viên sứ thần xử Xăc Kornigxeg, người cháu viên công sứ Thụy Điển
Knipercron ở Moskva là Kacle Knipercron, và một người Pháp nữa mà các cô quận
chúa không biết - vội vã săn đón giúp các cô quận chúa cởi bỏ áo bông mặc ngoài.
- Xin các vị đừng phiền, chúng tôi tự cởi
lấy được.
Các cô vội trút bỏ các bộ đồ của mẹ rồi
giúi vào một đống áo bông khác.
- Mẹ ơi, rồi mẹ xem, chúng con không tha
thứ được cho mẹ cái nhục này đâu.
Khoác tay các công tử, các cô bối rối bước
vào, cúi chào lia lịa.
Một cậu bé tóc đen sẫm, mắt to, mồm mở,
đang ngồi trên ghế dài, quay lưng về phía cửa kính mờ vì hơi nước. Cái đầu ẻo
lả, ngoẹo xuống một bên vai, cậu bé uể oải nhìn những con người thân hình cao
lớn, béo tốt, má đỏ, và rõ ràng là làm cậu chói tai vì những lời nói, tiếng
cười ồn ào của họ. Cậu bé mặc bộ áo chẽn nhỏ của trung đoàn Preobrazenski, màu
lục tươi, một thanh gươm nhỏ khoác chéo vai, chân cậu bé đi ủng nhỏ bằng dạ
trắng, không chạm tới sàn.
Roman Borisovich, nấc lên ngay từ ngưỡng cửa,
thành kính bước lại gần cậu bé trạc mười tuổi đó, quỳ sụp xuống, trán chạm sàn
nhà, thở hổn hển xin hoàng thái tử Aleksey Petrovich(2) cho phép hôn tay.
Công chúa Natalia Alekseyevna, thay thế mẹ
hoàng tử từ khi hoàng hậu Evdokia bị đưa đi Xuzdan, nước da đỏ hồng, vui vẻ lên
tiếng, giọng như hát:
- Aliosenka, cháu đưa tay ra, đưa tay ra
cho ông ta.
Aliosenka chậm rãi nhìn cô rồi ngoan ngoãn
chìa mấy ngón tay ra, cổ tay áo viền đăng-ten chùm kín cả mấy ngón tay. Vương
hầu Roman áp đôi môi dầy vào tay hoàng tử. Hoàng tử muốn rụt tay lại. Olga và
Antonida, theo đúng phép tắc của nghi lễ xòe váy ra trước mặt cậu bé, các công
tử người cao lớn, lắc lư bộ tóc giả, dẫm dẫm chân, cùng với gia đình Buinoxov
cúi chào hoàng tử, cặp mắt buồn bã của cậu bé giàn giụa nước mắt.
- Lại đây, lại đây, Aliosenka! Mọi người
xúm quanh cháu mới đông chứ! - Natalia, bộ ngực nở nang, mái tóc màu nâu nhạt,
mặt tròn như mặt vua Piotr, có lúm đồng tiền ở cằm, kéo cháu lại, lấy vạt khăn
quàng len tơ khoác lên người cậu bé.
- Không sao cháu ạ. Cháu hãy đợi một chút.
Khi nào cháu lớn, cháu sẽ làm cho người khác sợ... Phải không, Aliosenka? -
Công chúa hôn vào thái dương, lấy một chiếc bánh ngọt đẹp tẩm mật ong để trên
đĩa, cắn một miếng rồi đưa cho hoàng tử. - Các quận chúa, ngồi xuống, ăn đi chứ...
Còn ngài vương hầu Roman, mời ngài hãy ngồi lại với các công tử. Các ngài sẽ ăn
sau chúng tôi
Ở bàn ăn, ngoài Natalia và Anna Ivanovna,
còn có một thiếu nữ cao lêu đêu, mặt vàng lợt, thông minh, lông mày và lông mi
cùng một màu với da. Mớ tóc vàng nhạt cuốn thành một búi chặt trên gáy. Vì đã
ăn rồi, cô gạt đĩa và chiếc cốc có chân trong hãy còn rượu, rồi tươi cười ngồi
đan len màu thoăn thoắt. Đó là một người bạn gái của Sa hoàng Piotr - Amalia
Knipercron, con gái viên công sứ Thụy Điển.
- Aleksey Petrovich, - cô âu yếm nói bằng
tiếng Nga lơ lớ, - nào, áp bộ mặt xinh đẹp của thái tử lại gần đây. - Cô ướm
chiếc áo đan vào cổ cậu bé. - A... thái tử sẽ khoác chiếc khăn quàng này
Chú bé không cười, cọ má vào bàn tay to lớn
của cô gái trông gần như tay nam giới. Anna Monx, ngồi rất thẳng, dịu dàng và
lịch sự, khẽ nhếch mép và cũng nói bằng tiếng Nga lơ lớ:
- Cuộc hành trình bằng xe trượt tuyết đã
làm hoàng tử mệt mỏi. Nhưng tất cả chúng ta đều tin rằng hoàng tử là một chiến
sĩ dũng cảm... Trông ngài đeo thanh gươm nhỏ của ngài mới hiên ngang làm sao.
Cậu bé, từ dưới nách cô, qua tấm khăn quàng
len, đưa mắt gườm gườm nhìn mụ người Đức mặt trắng toát.
Các trang công từ đứng sau lưng các ghế,
nhao nhao lên quả quyết rằng hoàng tử thực sự có tất cả những đặc điểm của một
người dũng cảm.
- Tâu bệ hạ, cha của chúng thần, niềm hy
vọng của chúng thần... - Roman Borisovich bỗng kêu lên; ông ta cong đít khom
gối xuống, nhìn thẳng vào mặt cậu bé. - Ngươi hãy nhảy lên một con tuấn mã, cầm
lấy một thanh gươm thật sắc và đánh bại muôn ngàn đội quân địch... Người hãy
bảo vệ lấy nước Nga chính thống: nước Nga độc nhất vô nhị trên đời này, hỡi
người cha bé nhỏ của chúng thần.
Ông muốn ôm hôn đầu cậu bé nhưng không dám
mà hôn vào vai hoàng tử. Rất mãn nguyện, ông vừa đứng thẳng người lên vừa xoa
lưng... Không biết vì sao, công chúa Natalia Alekseyevna hoảng sợ, nhìn ông.
Anna Monx, nhún một bên vai, nói với một nụ
cười khoan dung.
- Vương hầu Roman, ngài giận dữ với ai vậy?
Hình như ngoài bọn Thổ Nhĩ Kỳ ra, chúng ta chẳng còn kẻ thù nào khác, mà ngay
với bọn Thổ, ta cũng muốn ký hòa ước... Phía ta, ta đâu có tính đến chiến tranh...
- Nàng khôn ngoan liếc về phía Amalia Knipercron.
- Anna Ivanovna, lệnh bà nói sao, lệnh bà
nói sao? Đường xá khô ráo là ta sẽ đứng lên mở một chiến dịch lớn. Không phải
là vô cớ mà ta chiêu mộ cả một đạo quân, trang bị bằng súng sản xuất ở Liegiơ...
Không phải là để mà chơi!
Amalia Knipercron bỏ chiếc áo đan xuống,
con mắt mở to vì kinh ngạc, cái miệng nhỏ lại, mặt dài ra. Các vị công từ đưa
mắt nhìn nhau, đứng nghe Buinoxov đang cơn huênh hoang, tả lại công việc chuẩn
bị chiến tranh. Sứ thần xứ Xăc Kornigxeg hoảng sợ, vội rút trong áo ra một hộp
đựng thuốc lá, gí vào dưới mũi Roman Borisovich. Nhưng ông này gạt ra: “Để
thuốc lá đấy, mặc tôi”.
- Không, không, thưa lệnh bà Anna Ivanovna,
cả Moskva đều nói đến chuyện ấy. Chúng ta đang chuẩn bị... Tất cả chúng ta sẽ
vùng dậy để thu hồi lại những đất đai cũ của ta ở miền Livonni
Lần này, Kornigxeg dẫm lên chân vương hầu
Roman.
Công chúa Natalia, mặt đỏ bừng vì tức giận,
thét lên:
- Thôi đừng nói xằng nữa... Phải chăng ông
đã nằm mơ thấy chiến tranh? Dáng chừng ông say rượu từ hôm qua đến giờ?
Nàng nắm vai Aliosenka, dắt vào sau một tấm
màn bằng vải chéo go, ở đó nghe có tiếng cúi nổ lốp bốp trong lò. Anna Ivanovna
bệ vệ đi theo, có Olga và Antonida đi vùng. Amalia Knipercron, nét mặt vẫn giữ
nguyên vẻ kinh ngạc, một lúc sau cũng theo vào.
Các vị công tử ngồi vào bàn. Chẳng ai buồn
nhìn Roman Borisovich, dường như ông ta không có mặt ở đó. Ông hiểu mình đã lầm
lỗi... Về vấn đề gì? Thế ra không được quyền lên tiếng bảo vệ nước Nga chính
thống nữa sao?
Một người Nga phải im hơi lặng tiếng trước
những người nước ngoài ư? Ông sịu mặt nhìn cái bàn. Các món ăn đã được đưa lên.
Chỉ còn mỗi một chỗ trống ở cuối bàn. Ông thấy hổ thẹn vì mình đã đợi người ta
mời ngồi như một thằng ngốc. Xéo đi cho rảnh! Vương hầu Roman quay gót, bước ra
phòng ngoài. Bà Avdochia bình thản ngồi trên chiếc ghế, bên đống áo bông.
- Bà làm gì đấy, ngồi đợi như một mụ ăn mày
ấy?
- Người ta không mời tôi vào, ông ạ!
- Người ta không mời bà vào! Thôi đi đi, đồ
quạ cái! Bà quên mất dòng dõi nhà bà rồi... Sang phòng bên kia!
Ăn uống no say rồi, Roman Borisovich lại
thấy bình tâm. Quá thực có lẽ ông đã vô ý nói cái gì quá trớn, trước mặt hoàng
tử và công chúa chăng... Các bậc quyền quý ấy khó tính lắm, nhất là trước mặt
người nước ngoài. Nhưng không sao, người ta sẽ miễn thứ cho ông già thôi.
Quá trưa, Roman Borisovich vừa buồn ngủ vừa
nặng bụng, nằm lăn ra trong xe trượt tuyết; ông ngáp và lấy đít ấn nệm xe để
nằm cho êm rồi ngủ ngon lành dưới làn gió hiu hiu tháng ba, phảng phất mùi
tuyết tan
Dù cho lương tâm ông có điều gì cắn rứt đi
nữa - nhưng không, lương tâm ông rất yên ổn - thì ông cũng chẳng làm sao mà
lường được những hậu quả nặng nề và ghê gớm do câu chuyện bề ngoài có vẻ nhỏ
nhặt xảy ra ở khách xá của nhà vua sẽ gây ra cho ông sau này.
Các lữ khách của chúng ta còn gặp nhiều
chuyện bực bội trên đường đến Voronez. Không có trận gió rét lên như bão thì có
lẽ họ hãy còn lặn lội ở mãi đâu đâu thậm chí còn có thể chết đuối khi vượt qua
một dòng sông. Họ bỏ ngựa của họ lại và dùng ngựa trạm để đi cho nhanh hơn.
Càng gần đến vùng sông Đông, nông dân các nhà càng trở nên ngang ngược, mắt họ
hầm hầm, dữ tợn. chỉ khi nào bị quát hỏi họ mới chịu bỏ mũ ra. Roman Borisovich
khản cả tiếng vì hò hét ở các quán trọ đề đổi lấy ngựa. Ông xộc vào các nhà,
túm lấy ngực người nông dân, lắc mạnh:
- Đồ chó đẻ, mày có biết tao là ai không?
Tao sẽ làm cho mày khánh kiệt cơ nghiệp!
Người nông dân, gườm gườm, nghiến răng, lắc
đầu; những con mắt của đàn sói con nằm trong ổ trên mặt lò lóe sáng; đó là bọn
trẻ con. Người vợ, thân hình lực lưỡng, vẻ hăm dọa cầm cái chĩa lò hoặc chiếc
gậy cời than:
- Này, ngài quý tộc, ngài không làm chúng
ta khánh kiệt được đâu, có người khác đã làm hộ ngài việc đó rồi: chúng tôi
không có ngựa, ngài hãy xéo đi và nhờ Thượng đế phù hộ cho ngài.
Gia đình Buinoxov đã phải trú chân hai mươi
bốn giờ đồng hồ tại một làng độ mươi nóc nhà, mái rạ tả tơi vì mưa gió, trên
một ngọn đồi nhìn xuống một con sông. Trong làng chl toàn là phụ nữ. Không có
lấy một người đàn ông, không có một con ngựa nào. Ban đêm, họ ngủ trong một
ngôi nhà gỗ không có ống khói, khi đứng thẳng người thì đầu biến vào trong
khói. Các quận chúa rên rỉ, nằm trên những ghế dài kê sát lại nhau, đắp áo lông
cừu. Khói cay cả mắt. Gió gào thét, cô quạnh.
Roman Borisovich bừng tỉnh dậy, nghe thấy
tiếng nói bên ngoài, - có người nào mới tới.
Ông miễn cường chui ra khỏi chiếc áo bông,
miệng rên rẩm. Bên ngoài, mọi vật đều trắng xoá; sao lấp lánh trên bầu trời
giữa những đám mây đang chuyển dộng. Vương hầu Roman đi tiểu tiện, rồi lại gần
cống cái. Bên ngoài có tiếng thì thầm.
- Ivan Vaxilievich, mùa xuân tới, anh em mugic ở Zukovo sẽ trốn hết.
- Trước khi có cái chuyện làm bùn này, người
ta còn sống được, nhờ ơn Chúa. Azmut mà người ta thường gọi là Quỷ vương đã đến
và thế là cơ sự bất đầu. Người ta chế tạo đồ xúc, rồi xúc bùn ở bãi lầy để làm
gạch, đem phơi khô trong các kho lúa... Dân làng ta chuyển cái đống bùn này từ
sáng đến tối, các kho đều đầy ắp. Ngựa của chúng ta mệt lử, không sao cày bừa,
gieo rắc gì được nữa!
- Sa hoàng đã tới... Nhà vua bảo như thế
không đủ. Rồi ra lệnh dựng một chiếc cối xay có mắc thùng để múc cái chỗ bùn
khốn nạn ấy từ dưới đáy lên... Người ta đã đem gạch trong các kho ra nung trước
mặt nhà vua... Không, không sức nào lại được với cái công việc nặng nhọc này.
Phải trốn thôi, cắm đầu cắm cổ mà chạy trốn.
- Ivan Vaxilievich, họ trốn vào các khe.
Chỉ đến đêm, họ mới trở về nhà kiếm một mẩu bánh. Sống thế mà gọi là sống ư?
- Thưa ataman,
ngài cho biết đã đến lúc tập trung chưa?
Roman Borisovich - người lạnh buốt trước
gió, dưới tấm áo bông khoác trên đầu, nhưng ông không cảm thấy - dán mắt vào
khe cửa. Ông nhận ra dưới ánh sao lờ mờ nhiều nông dân, vẻ mặt ủ rũ, đang xúm
quanh một chiếc xe, tay cầm cương; hắn mặc áo choàng và đội mũ lông kiểu
Cô-dắc; bộ râu đen trắng như lấm tấm vôi. Roman Borisovich hoảng sợ, nghĩ thầm:
- Ồ thằng kẻ cướp này, ta đã thấy nó ở đâu
rồi thì phải.
Một nông dân cúi xuống chỗ đằng sau xe
trượt tuyết;
- Thế thưa ataman, trên sông Đông, tình hình thế nào?
Người có bộ râu đen trắng, lắc lắc dây
cương, nghiêm trang trả lời:
- Hãy đợi tới mùa hạ
Đám nông dân xúm lại gần:
- Hay là định đợi đến lúc có chiến tranh
chăng?
- A, nếu Chúa muốn thế!
- Cầu sao cho tình cảnh này chấm dứt cho
nhanh, dù bằng bất cứ cách nào.
- Rồi cũng sẽ chấm dứt thôi, - người có bộ
râu đen trắng đáp, giọng trách mắng, dậm dọa - Chúng ta cũng có nanh vuốt chứ.
Hắn quay ngoắt lại - Này các bạn, để ngựa vào đâu đây?
- Đáng lẽ ngài có thể để ngựa ở nhà tôi
được, Ivan Vaxilievich ạ. Nhưng hôm qua quỷ đã dẫn đến một quý tộc với bọn đàn
bà nhà nó. Cái bọn kẻ cướp ấy, chúng làm loạn cả lên! Chúng bới tung rơm rạ.
Lúa mạch tôi đã giấu kín thế mà chúng nó cùng mò ra. Tôi nói ngài muốn tin thì
tin, chúng lấy cho mỗi con ngựa của chúng một thùng đầy. Còn tôi thì được cái
gì? Nó sẽ chẳng cho tôi lấy một kopeik.
Người có bộ râu đen trắng mở miệng cười
vang:
- Ha, ha, ha... Lấy con dao con, trong túi
của ta để dưới ghế. Rồi anh sẽ có đồng kopeik
ấy. Đấy, các anh là một bọn nông dân khốn khổ. - Hắn giật dây cương. - Nào, ta
ngủ đảu đây?
Một nông dân nhảy ra, chỉ đường:
- Tại nhà tôi, Ivan Vaxilievich ạ, có chỗ
đấy!
Đến lúc này, Roman Borisovich mới đột nhiên
thấy lạnh. Răng đánh lập cập, ông vội và chạy vào trong ngôi nhà gỗ tối om om.
- Avdochia... - Ông vừa gọi vừa lay vợ đang
bị chếch choáng vì khói trong giấc ngủ. - Bà đút những khẩu súng ngắn của tôi
vào đâu rồi? Dậy, Olga, Antonida... Nhóm lửa lên... Bà nhét đá lửa, bật lửa vào
đâu rồi? Miska, Vanka, dậy ngay, thắng ngựa vào.
* * *
Dinh Sa hoàng mới cất bằng gỗ tròn, sừng
sững phía bên kia mặt nước, trên một bán đảo, giữa lòng mới và lòng cũ của dòng
sông. Vua Piotr hầu như không ở đấy. Sẩm tối, gặp đâu nhà vua ngủ đấy. Natalia
Alekseyevna và hoàng tử đến dinh cùng một lúc với bà thái hậu Praxkovia(3) và
các con gái bà: Anna Ivanovna, Ekaterina Ivanovna và Praxkovia Ivanovna.
Người ta cũng xếp các phu nhân và các tiểu
thư đến dự lễ ở lẫn lộn tại đó. Không thể ra khỏi dinh được; chung quanh toàn
là đầm lầy và suối. Nhìn qua các cửa sổ, chỉ thấy những mái kho lợp bằng gỗ ván
của các công trường đóng tàu, những khung tàu màu vàng chói còn đặt trên giá,
trên bờ con sông Voronez cổ xưa, các khe rãnh phủ tuyết bần và những ngọn đồi
lởm chởm gốc cây.
Các tiểu thư Buinoxov, trong đầu óc đang
đợi chờ những buổi vũ hội và pháo hoa, ngồi ủ rũ trước cửa sổ: cái nơi này mới
khốn khổ làm sao! Thật không còn đâu tồi tệ hơn! Chẳng có những khu rừng niềm
nở đón khách dạo chơi, chẳng có những bờ sông đẹp đẽ để khách ngồi nghỉ; chung
quanh chi toàn là bùn lầy, rác rưởi, vỏ bào. Về phía sông, từ những con tàu
vàng khè, vọng lại tiếng búa, tiếng kêu của đám mugic. Thường có những nhóm thanh niên đi ngựa đến đó. Nhưng các cô
chi có thở dài mà ngồi xa nhìn những chàng kỵ sĩ mảnh dẻ.
Chẳng ai biết bao giờ mới bắt đầu các cuộc
vui. Giờ đây, cứ sẩm tối người ta lại nhóm những đống lửa gần các tàu đang
đóng, làm việc suốt đêm. Các cô lấy váy che kín hai chiếc cửa nhỏ của phòng ngủ
đề khỏi bị những ánh lửa ghê rợn đánh thức dậy.
Khi bùn trong cái sân có những bức tường
bằng gỗ cây bao quanh đã khô ráo, các cô ra thềm, ngồi buồn giữa ánh nắng mặt
trời. Tất nhiên các cô có thể vui chơi với các cô khác ngồi ở các thềm bên: với
quận chúa Lykova, to béo ngốc nghếch, cả ngang và hai con mắt húp híp mỡ, hoặc
với quận chúa Dolgorukova, kiêu kỳ, đen đủi, dù cô ta cố giấu, toàn thể Moskva
cũng vẫn biết là hai chân cô ta đầy lông, hoặc với tám cô quận chúa
Sakhovskaia; nhưng bọn này, cái ổ ăn hại đó, lúc nào cũng luôn miệng thầm thì
kháo chuyện riêng với nhau. Olga và Antonida không ưa giao du với giới phụ nữ.
Một hôm, người ta đưa đến một đám mugic, trong một buổi sáng, họ đã dựng
xong ở ngoài sân các cột đu và một vòng ngựa gỗ, có cả giỏ ngồi. Nhưng không
thể lại gần được: khi thì hoàng tử muốn cưỡi ngựa gỗ, ngài đẩy bọn hầu gái
không cho họ giữ thắt lưng ngài, khi thì các cô công chúa nhỏ chơi. Một gia sư
đi kèm đám ông hoàng bà chúa ấy: hắn mặc áo dài màu thuốc lá, một bên túi có
chiếc mùi soa lụa để sỉ mũi và túi bên kia để mấy cái roi. Johan Oxterman là
người Đức, hắn có một khuôn mặt bè bè ngốc nghếch, lúc nào cúng quàu quạu tưởng
mình quan trọng và đeo kính tròn.
Hắn đặt các cô công chúa vào các giỏ ngồi,
chính hắn cùng leo lên lưng một con ngựa sơn màu sặc sỡ và bảo những người mugic đứng đó để quay vòng ngựa gỗ:
- Quay đi, aber langsam, langsam(4)”, - mắt nhắm lại dưới kính, đế giầy to
tướng của hắn lết trên sàn gỗ, hắn cứ quay mãi đến chóng mặt mới thôi.
Đôi khi từ phía thềm lớn, người ta thấy
nhảy ra một đám đông quần áo sặc sỡ: bọn hề mặc áo nẹp mặt trong lộn ra ngoài,
những người Ethiopi đen như bồ hóng, hai người làm trò giả mặc áo đàn bà, bọn
con gái hầu phòng mông đít to bè bè; sau cùng là thái hậu Praxkovia, mặc áo
nhung đen rộng, đường bệ bước ra: người ta đỡ khuỷu tay bà đưa bà bước xuống
bậc thềm.
Người ta đem ra cho bà một chiếc ghế và gối
tựa: bà ngồi xuống và quay mặt đi đề tránh ánh nắng, khuôn mặt trát phấn sáp,
tròn như quả dưa với đôi mắt xanh. Vì có bộ tóc đen đẹp, bà không mang tóc giả.
Đám người lùn, người làm trò, bọn hề phồng má trợn mắt, chạy lại ngồi dưới chân
bà. Các cô gái hầu phòng, đứng cả phía sau ghế, vẻ mặt cảm động.
- Ngồi xuống, ngồi xuống, các cô. - bà thái
hậu uể oải nói, bảo các tiểu thư đừng lạy chào nữa và cứ việc ngồi trên thềm,
bà nhìn các đu quay, vòng ngựa gồ, và ngoẹo đầu sang một bên khẽ rên rỉ. Đám
phụ nữ hoảng sợ lại gần:
- Tâu lệnh bà, ánh sáng trong trẻo của
chúng con, lệnh bà làm sao vậy, lệnh bà đau ở đâu?
- Không sao... Cứ để mặc ta... - Thái hậu,
người ốm yếu lúc nào cùng đau mình đau mẩy. - Này, Johan. Đừng quay nữa! ngươi
làm các công chúa chóng mặt bây giờ. Cái anh người Đức này mới ngu ngốc làm sao
chứ, lạy Chúa... Cái lão lênh khênh đeo kinh này, hắn mà đã quay thì không còn
cách nào hãm hắn lại được nữa...
Johan Oxterman dẫn các cô bé lại gần mẹ. Bà
thái hậu rất thương cô con gái lớn Ekaterina lên tám, vừa rỗ lại vừa lác; bà
quý cô út, cô Praxkovia mũm mĩm và vui tính, bà xiết chặt cô bé vào lòng giữa
hai đầu gối, vuốt ve mái tóc búp và hôn con vào trán. Cô giữa, Anna
Ivanovna(5), một cô gái nhỏ nhắn, da sạm, môi tái nhợt, vẻ ủ rũ, rụt rè lại gần
bà, bao giờ cô cũng lẩn sau chị và em.
Thái hậu nói:
- Có cái gì mà con cứ nhìn xuống chân thế,
mẹ có ăn thịt con đâu! - Bà lấy bánh kẹo trong chiếc đĩa do lão hề già nhỏ bé dâng
lên, rồi đưa cho Pasenka(6) yêu quý, cho Katenka(7) rất nhiều, còn Anna thì bà
chỉ giúi cho chiếc bánh ngọt mà bảo:
- Này, cầm lấy.- Bà thở dài, nhìn viên gia
sư từ đầu đến chân, từ đôi tất dạ màu nâu đến bộ tóc giả nhỏ bé bẹp gí. - A, ta
giao các con cho hắn sớm quá, lẽ ra chúng còn được vui chơi với nhũ mẫu của
chúng lâu hơn nữa mới phải?
Các mụ hầu phòng đít to, giũ váy sau chiếc
ghế:
- Tâu lệnh bà, sớm quá ạ, bắt các công chúa
học sớm quá đấy ạ!
- Các ngươi im đi, đừng thét vào tai ta nữa...
- Thái hậu nhăn mặt. Bà gọi Oxterman. - Thế nào lão người Đức kia, ngươi đã đọc
sách cho các công chúa nghe chưa? Ngươi đã dạy các cô tiếng Đức, các con số
chưa?
Johan Oxterman, cong chân, sửa lại kính,
lên tiếng trình bày dài lê thê, rất lờ mờ. Thái hậu thong thả gật gù chẳng hiểu
cái gì hết. Bà chỉ hiểu có một điều: ngày nay không thể sống theo kiểu cũ như
xưa được. Phái thích ứng với những phép tắc mới dù rằng như vậy có khó khăn. Bà
còn nhớ rõ cái năm 1698, khi người ta gạt bỏ các “nhân vật tai to mặt lớn” ở
điện Kremlin vẫn khăng khăng muốn giữ lại trật tự cũ: công chúa Sofia và các cô
em bà ta chỉ suýt nữa thì bị trượng hình; hoàng hậu Evdokia, chồng vẫn còn sống
sờ sờ mà đã phải làm một nữ tu sĩ áo xám đang nhỏ lệ ở Xuzdan.
Praxkovia thực xứng đáng dòng dõi nhà
Xantykov, - bà hay đau ốm nhưng thông minh. Anh bà, Vaxili, là cố vấn, quản lý
và quản gia của bà, cũng thông minh.
Hai người đều hiểu rằng Piotr Alekseevich
không thể không cần đến một triều đình hẳn hoi ở Moskva: các sứ thần, các thân
hào nước ngoài đều khó tính - không phải muốn lôi ai đến nhà mụ Monx ở Kukui
cũng được. Thái hậu Praxkovia đã đưa những phép tắc lịch sự vào cung mình và
tiếp các sứ thần, các lữ khách, các nhà buôn lớn từ nước ngoài tới. Trật tự cũ
mà bà ưa thích vẫn còn tồn tại ở nhà bà, trong các phòng phía sau, - khi cần,
người ta sẽ che giấu cái trật tự ấy khỏi con mắt thiên hạ. Vì tất cả những cái
đó, vua Piotr yêu quý thái hậu Praxkovia và chẳng tiếc gì bà.
Sau khi ngồi giữa nắng mãi đã chán, thái
hậu Praxkovia Fedorovna cùng các cô con gái và những người hầu cận rút lui. Các
cô tiểu thư Buinoxov trèo lên vòng ngựa và ra lệnh cho bọn mugic quay thật nhanh. Các cô kêu rú lên.
Từ xa vọng lại tiếng đại bác và tiếng kêu
của đám mugic đang dựng cột buồm trên
tàu. Rồi đến bữa ăn trưa. Mọi người ngủ trưa trong các phòng được sưởi nóng
sực, nồng mùi nhựa thông. Đã hai lần, Roman Borisovich cho người từ tỉnh về lấy
quần áo. Người đó kể lại rằng vương hầu sống rất chật chội, tại nhà Apraxin,
bốn người một căn phòng nhỏ, và chẳng ai biết được bao giờ thời gian ở lại
Voronez chấm dứt.
Một hôm, giữa trưa, vua Piotr, người hốc
hác, má sạm nắng, râu vừa cạo, đi ngựa vào trong sân. Nhà vua vui vẻ quay đầu
về phía vòng ngựa gỗ, đưa mắt nhìn lên các khung cửa sổ nhó; sau cửa sổ, đám
phụ nữ nửa thức nửa tỉnh đang rối rít nhốn nháo. Nhà vua xuống ngựa, xốc lại
cái đai thắt ngang áo chẽn, rồi chạy vội lên gác tới phòng thái hậu Praxkovia.
Một phút chưa qua mà cả cung điện đã biết:
sáng ngày kia, một chiếc tàu sẽ được hạ thủy và các cuộc vui chơi sắp bắt đầu.
Bên bờ sông thoai thoải, con tàu Định mệnh có hai tầng và năm mươi khẩu
đại bác, sừng sững trên giá. Phần đuôi tàu cao ngất, bằng gỗ sồi, được chạm trổ
rất khéo, có ba hàng cửa sổ vuông. Hai sườn tàu sơn đen, kẻ hai vạch trắng, nắp
đậy các lỗ súng đại bác lắp bản lề đồng đều lật ngửa. Buồm bằng vải thô được
cuộn vào các trục buồm. Ở mũi tàu nguýt tròn thấp hơn phần lái nhiều, một nữ thủy
thần khỏa thân, giơ hai cánh tay to như những thanh xà đỡ lấy cột buồm cái, rất
cao, và khác với những tàu đã đóng trước, cột buồm này chỉ mang những cánh buồm
tam giác. Tàu đã được đóng theo các bản thiết kế của vua Piotr và dưới sự trông
coi của nhà vua cùng với Feodoxi Xkliaev và Aladuskin.
Mặt trời đã mọc sau những quả đồi xanh lá
mạ ngả màu vàng non, sau những ngọn tháp cổ kính của thành Voronez. Bầu trời
màu lam tươi, không gợn một bóng mây. Gió hiu hiu mát mẻ gợn sóng lăn tăn, như
giục giã kéo buồm, đi về phía dòng sông cuồn cuộn chảy, tới những nơi xa xăm
một màu xuân sắc.
Bên cạnh con tàu, trên một cái bục lắp bằng
gỗ ván, có kê những bàn ăn chất đầy thức ăn đồ uống. Gió lay động các góc khăn
trải bàn bằng dạ đỏ, các lông chim cắm trên mũ, búp tóc các bộ tóc giả, quả tua
trên đai các sĩ quan. Ngồi xung quanh bàn ăn có thái hậu Praxkovia và công chúa
Natalia với các con cháu, các sứ thần, phái viên, một số thương nhân Hà Lan,
Anh, một số người Ba Lan, Đức, một vị tu sĩ dòng Tên ở Paria, Amalia
Knipercron, kỹ sư quân sự Halac người xứ Xăc và quận công Karx Oghen Von Kroi
vừa tới mang theo một lá thư của vua Auguste. Các vị khách, dù dòng dõi danh
gia thế tộc, nhưng nay kém quyền thế, đều đứng phía sau các bàn.
Quận công Von Kroi, uể oải, tựa trên khuỷu
tay, ngồi giữa thái hậu và công chúa vừa xoăn xoăn bộ ria mép vàng hoe vừa lơ
đãng nhìn qua đầu mọi người. Mũi hắn dài, hơi vẹo, mặt mềm nhẽo với những túi
quầng dưới mắt; bộ tóc giả bẹp gí chụp xuống tận lông mi.
Hắn đeo một dải băng lớn dưới cái áo màu
hoa cà, cổ đeo một dây chuyền vàng, hai bên ngực đính những hạt kim cương hình
ngôi sao. Ngay cả thái hậu và công chúa cũng cảm thấy e dè trước mặt hắn: điều
đó không phải không có lý do! Ông quận công của Đế quốc La Mã thần thánh này,
một vị tướng bách chiến bách thắng, đã từng tham dự mười lăm trận đánh nổi
tiếng. Nhưng rõ ràng là - người Moskva nghĩ vậy, mà không để lộ ra - túi hắn
rỗng tuếch, nếu không việc quái gì hắn phải đến Voronez... Đứng sau ghế hẳn là
Pitor Paplovich Safirov, người phiên dịch.
Quận công lên tiếng, nhấp nháy đôi mi đỏ
nhạt:
- Nước Nga là một đất nước tuyệt vời, dân
tộc Nga chăm làm và kính Chúa. Phụ nữ Nga thật đáng yêu. Ở châu Âu, người ta
hơi lấy làm lạ tại sao người Nga lại cứ cố bắt chước phong tục, tập quán, kiểu
quần áo của chúng tôi. Chính Chúa Trời đã ra lệnh cho nước Nga phải nhìn về
châu Á. Dẫn đến chân ngai vàng cửa Sa hoàng vô số các dân tộc châu Á, vạch một
con dường thênh thang đến Ba Tư và Trung Quốc, đó là một nhiệm vụ đẹp đẽ vì lợi
ích của toàn thế giới Gia Tô giáo.
Quận công chưa nói hết lý lẽ, các vị khách
đã làm ồn ào, cọ xát đế giầy vào sàn ván, Sa hoàng, từ phía chiếc tàu bước
nhanh tới; nhà vua mặc quần chẽn bằng nhung kiểu Hà Lan ngắn tới đầu gối, áo
sơ-mi vải thô, ống tay xắn lên, đội mũ tròn bằng vải sơn, hất ra đằng sau, Sa
hoàng dừng lại trước bục và kính cẩn bò mũ trước viên đô đốc Golovin to béo,
đầu đội một bộ tóc giả to sù, tay cầm một cốc rượu nho Hungary:
- Thưa ngài đô đốc, tôi hân hạnh được chào
ngài!
- Chào thợ cả Piotr Alekseevich, - Golovin
nghiêm trang trả lời.
- Thưa ngài đô đốc, tàu đã sẵn sàng hạ thủy.
Ngài cho phép rút đòn kê.
- Cầu Chúa phù hộ, làm đi!
Ông quận công, ngừng xoắn bộ ria mép, kinh
ngạc nhìn Sa hoàng: không khác gì một người thợ mộc bình thường, một người dòng
dõi thấp kém, nhà vua cúi chào viên đô đốc, đội mũ vào rồi hấp tấp bỏ đi, chân
dẫm lên đống vỏ bào.
- Chuẩn bị! - nhà vua thét to ra lệnh cho
thợ; đám thợ nhốn nháo hai bên sườn tàu dựng đứng. Đang đi, nhà vua vớ lấy một
cái búa bằng gang. - Đứng sát vào đòn kê... Chú ý! Tất cả cùng đập nào, đập!
Người ta nghe thấy tiếng búa nện trên các
rầm chống phía trước thân tàu đồ sộ. Tiếng kèn vang lên hồi lâu. Khách khứa đều
đứng cả dậy, tay nâng cốc thật cao. Dưới lần áo sơ-mi của Sa hoàng, xương bả
vai nhô lên thụt xuống mỗi lần nhà vua nện búa. Các cột buồm lắc lư, thân tàu
nhẹ nhàng hạ xuống các đế trượt, ngập ngừng một lát rồi trôi tuột trên các đòn
kê đặt nghiêng trát đầy mỡ. Mọi người trên bục kêu: “Xuống rồi, xuống rồi...”
Tàu trượt mỗi lúc một nhanh hơn về phía
sông.
Mỡ bốc khói dưới các đế trượt. Mũi tàu chạm
nước. Nữ thủy thần thếp vàng ngập nước tới ngang lưng. Con tàu nhào xuống sông,
rẽ nước, tung lên hai làn sóng: tàu quay đi và đung đưa. Cờ được kéo lên dọc
các cột buồm, gió thổi các lá cờ đuôi nheo bằng lụa bay phấp phới. Lửa tóe ra ở
hai bên mạn tàu, súng đại bác nổ ầm ầm.
Tại nhà Melsikov, tiệc tùng linh đình kéo
dài đã hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ liền, hắn đóng tại một ngôi nhà về phía
thành phố gần cầu. Một số khách không hề chợp mắt, một số khác nằm lăn lóc dưới
gầm bàn trong đống cỏ khô, người ta đã phải thay tất cả cỏ khô trái trên sàn
buồng ăn nhiều lần. Các vị phu nhân sau khi nghỉ ngơi một chút, đã thay áo, rồi
phấn sáp xong, lên xe ngựa phi nước đại trở lại, tiếng xe chạy rầm rầm. Đêm
trước đã có đốt pháo hoa, hôm nay sẽ có một buổi vũ hội rất lớn. Khách nước
ngoài rất hài lòng về cuộc vui chơi đó.
Piotr Paplovich Safirov không quản khó
nhọc, đãi họ một loại rượu vang Hungary hảo hạng và rượu vang nặng - người ta
mời người Nga loại rượu không ngon bằng - Gã Do Thái này rất tinh ranh đã tìm
cách làm cho một số sứ thần viết thư cho bạn bè của họ ở Constantinop kể lại
tất cả những gì họ đã thấy ở đây: sau chiếc Định
mệnh, người ta đã hạ thủy năm chiếc tàu lớn và mười bốn thuyền có chèo tay;
người ta vội vã hoàn thành những tàu khác; mọi người trông thấy những khung tàu
rải ra đến tận xloboda Shiovka.
Tất cả những tàu đó sẽ bổ sung cho hạm đội
Azop; hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đang canh giữ Hắc Hải như một cô gái đồng trinh trong
trắng, sẽ không còn có thể quá vênh váo trong các cuộc đàm phán hòa bình
Antonida, mặc áo màu lam dịu, Olga mặc áo
màu vàng chóe ngồi ở phòng trên, cất vội vã bằng ván. Một trăm năm mươi khách
ngồi phía ngoài bàn đặt theo hình móng ngựa; ở khoảng giữa bọn hề đang múa may,
chơi trò nhảy cừu, đánh nhau bằng những bong bóng nhét đầy đậu, bắt chước chó
sủa, mèo kêu, làm ồn ào dữ dội đến nỗi cỏ khô bay cả vào các đĩa ăn và lên các
bộ tóc giả. Không còn ai chú ý đến nữa. Vị đại vương trùm đạo, đầu đội mũ tế
bằng sắt tây, ngồi dưới tán; lão mệt nhoài vì vẫy mãi chiếc khăn tay ra hiệu
cho các pháo thủ mỗi lần chúc rượu; súng đại bác nổ làm rung chuyển các bức
tường. Lão hề Yakov Turgenev đã làm cứ tọa lăn ra cười: lão cưỡi trên lưng một
con lợn gù, gớm ghiếc đi vào phòng ăn, đầu quấn khăn mặc áo nẹp và đi giầy mõm
nhái kiểu Tarta; lão lắc lư bộ mặt phị, có đính một chòm râu. Lão la to:
- Lại đây, lại đây hãy hôn gót chân đức
hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. - Bây giờ, say như chết lão nằm lăn dưới gầm bàn.
Các thủy thủ hát đã khản cả giọng, những
người thổi tù và dạo một bản nhạc kỳ quái. Mọi người đều mong đợi đến lúc khiêu
vũ.
Ngồi bên Olga là Leopondux Mirbac, người
bạn nhảy của cô, đóng trung úy ở trung đoàn Preobrazenski; bên cạnh Antonida là
một thủy binh, trung úy hải quân Vacfolomey Bram.
Người bạn nhảy của Olga líu la líu lô bằng
tiếng Nga câu được câu chăng: hắn lấy hai tay bóp mặt cho rã rượu.
Nhưng anh chàng Bram, người Đan Mạch, mặt
đỏ như thịt sống chỉ ra sức nốc rượu, vừa uống vừa nháy cô gái đang ngây ngất.
Ôi, nói làm gì, mà nói cái gì mới được chứ? Tất cả những cái đó chẳng là gì
hết? Nàng chi ao ước có một điều: nhón đầu ngón tay đưa cho người bạn nhảy, khẽ
nâng gấu váy lên và theo tiếng đàn vĩ cầm, vừa lướt trên sàn xi vừa cúi đầu
chào. Các cô gái xôn xao như mặt nước hồ trong rừng buổi giông tố.
Roman Borisovich, ngồi với bà vợ Avdochia ở
tít cuối bàn, buồn rầu thấy mình cách hoàng thượng quá xa. Xung quanh vua Piotr
toàn là khách nước ngoài: một bên là quận công Von Kroi, say đến nỗi chỉ còn
biết lúc lắc cái đầu như một con ngựa bị ruồi đốt, phía bên kia là Amalia
Knipercron. Cho đến phút cuối cùng, vua Piotr vẫn vui vẻ, bỡn cợt, vui đùa...
Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra: Melsikov
lại gần nhà vua và ghé vào tai thì thầm. Nụ cười biến mất trong khóe mắt nhà
vua. Rõ ràng là Sa hoàng đang cố kìm mình lại. Khi một loạt món ăn mới được dọn
ra, tay nhà vua cầm dao và dĩa rối loạn lúc đâm vào đĩa, lúc đâm vào mặt, đến nỗi
Amalia Knipercron, trìu mến đặt bàn tay lên lai tay áo của nhà vua:
- Herr
Pite, xin bệ hạ hãy bình tâm lại!
Nhà vua vứt dĩa, vứt dao, nhăn mặt cười.
- Bàn tay ta là kẻ thù của ta... - Nhà vua
đút hai tay xuống dưới bàn - Sao, cô em bé bỏng ngoan ngoãn kia, tại sao cô em
lại nhìn ta như vậy ? Đợi đấy, hôm nay chúng ta sẽ nhảy đến gãy gót chân thì
thôi!
Những nếp nhăn nhỏ lăn tăn trên trán người
con gái, Nàng khẽ nói, giọng trách móc:
- Herr
Pite, thần thiếp không còn xứng đáng với sự tin cậy của bệ hạ nữa chăng?
Mắt Sa hoàng long lên sòng sọc, hai cánh
mũi phồng lên:
- Hừ, sao lại nói bậy nói bạ thế!
- Herr
Pite, thần thiếp linh cảm một sự gì không hay.
- Chắc có mụ già nào bói hạt đậu lại đoán
cho cô cái gì rồi phải không?
Nhà vua quay mặt đi. Đôi môi Amalia run
lên:
- Thân phụ thần thiếp cũng rất lo lắng...
Hôm nay, thần thiếp vừa nhận được một bức thư...
- Một bức thư à? - nhà vua đưa cặp mắt tròn
xoe như mắt một con mãnh cầm chòng chọc nhìn vào khuôn mặt xúc động của người
con gái. Knipercron đã viết cái gì?
- Herr
Pite, chúng thần không muốn nhìn vào cái điều đã rõ ràng... Chúng thần không
muốn nghe. Nhưng người ta đã nói đến rồi, không hề giấu giếm... - Amalia sợ nói
ra một lời gì đó, mũi nàng đỏ lên. - Cái đó trái với đạo lý. Làm thế sẽ là một
sự phản trắc... - Nàng cố gắng đến ứa nước mắt. - Chỉ một lời nói của bệ hạ...
Nàng hé miệng, như để thở dài.
Vaxili Volkov, vẻ nghiêm trang, đến đứng
sau ghế vua Piotr.
Bộ mặt sạm gió không được cạo, tấm áo dạ đã
nhàu, rách - rõ ràng là hắn vừa lôi bộ áo ở hòm hành lý ra; góc một bức thư lòi
ra khỏi lai tay áo.
Amalia tái mét mặt, đôi mắt hốt hoảng hết
nhìn Sa hoàng lại nhìn Volkov. Nàng biết là Vaxili và vợ mới đây còn ở nước
ngoài. Hắn vội vã về đây rõ ràng là mang những tin chẳng lành.
Vua Piotr chỉ cho hắn một chiếc ghế bên
cạnh mình:
- Ngồi xuống đây!
Melsikov lại gần, đầu đội một bộ tóc giả
tuyệt đẹp nhếch mép cười nửa miệng. Vua Piotr đưa tay ra, Volkov vội vàng trao
bức thư cho nhà vua.
Sa hoàng nói không nhìn Amalia:
- Đây là thư của vua Auguste... những tin
xấu. Tình hình ở Livoni không ổn. - Nhà vua xoay xoay bức thư trong tay rồi
cương quyết nhét bức thư vào bên trong tay áo. - Nhưng kể ra thì Livoni cũng xa...
Chẳng ai ngăn ta vui chơi được... - Và nói với Volkov - Cứ kể cho ta nghe cũng
được
Volkov định đứng dậy. Melsikov đặt hai tay
lên vai hắn, ấn hắn ngồi xuống còn chính Melsikov thì vẫn đứng, dựa lưng vào
ghế.
- Quân đội xứ Xăc của vua Auguste đã đột
nhập Livoni mà không tuyên chiến, - Volkov lựa lời kể. - Họ đã đến gần Riga
nhưng chỉ chiếm được có pháo đài Kobersanz nhỏ bé. Họ sợ không dám tấn công
thành phố vì hỏa lực ác liệt của người Thụy Điển. Cuộc hành quân nghi binh đó
thất bại, tướng Carlovit bèn tiến ra biển và đã hạ được pháo đài Dunamunde.
Dưới chân pháo đài này, vào cuối trận đánh, Carlovit đã bị một phát súng chết
tươi.
- Đáng tiếc, ta rất tiếc Carlovit, - vua
Piotr nói. - Thế nào, tin tức của nhà ngươi tất cả chỉ có thể thôi ư? - Nhà vua
đặt bàn tay lạnh ngắt lên bàn tay Amalia.
Người con gái thở hổn hển. Nhà vua xiết
chặt tay nàng đến đau lên. Volkov ngập ngừng không dám kể tiếp.
Alekxandr Danilovich, đưa ngón tay đeo đầy
nhẫn vuốt những búp tóc của bộ tóc giả, thủng thẳng nói:
- Thần đã hỏi anh ta, anh ta không biết gì
hơn. Anh ta ở Warsawa khi có tin tức từ Riga tới. Ngay ngày hôm đó, vua Auguste
phái anh ta đến đây. Người Xăc không chiếm và sẽ không chiếm được Riga, - Người
Thụy Điển có nanh nhọn, có mỏ sắc. Đây là một việc chưa làm đã thấy rõ là thất
bại.
Amalia không rút tay ra, vội cúi khuôn mặt
run rẩy:
- Thế là chiến tranh rồi, thế là chiến
tranh rồi Herr Pite, - nàng thì thầm.
- Không nên giấu thần thiếp... Thần thiếp đã được biết trên đường đi đến đây,
Ôi thật là tai hoạ.
Trong một phút, vua Piotr nín lặng. Rồi
giọng khàn khàn, nhà vua nói:
- Thế cô đã biết cái gì? Người ta đã nói
với cô cái gì chăng? Ai nói?
Giọng ngập ngừng, Amalia bèn nói lên nỗi
ngạc nhiên của nàng về câu chuyện của vương hầu Roman ở quán trọ.
- Buinoxov nói những chuyện đó à? - vua
Piotr hỏi, giọng đe dọa. - Thằng nào, thằng hề kia đấy à?
Amalia lắc những giọt nước mắt chảy ròng
ròng trên má, gật đầu.
- Cô lại đi tin cái thằng ngu xuẩn ấy à?
Thế mà ở đây, người ta cứ cho cô là người thông minh đấy. Lấy mùi-soa lau nước
mắt đi! - Vua Piotr cảm thấy Amalia, dù không đồng ý cũng vẫn nghe mình và bình
tâm lại.
- Viết rõ cho ông thân sinh ra cô biết:
không bao giờ ta đồng ý gây ra một cuộc chiến tranh bất công, phá vỡ nền hòa
bình lâu dài với vua Charles. Ngay dù cho vua Ba Lan có chiếm được Riga đi nữa
thì hắn cũng không giữ được thành phố này trong tay, ta sẽ đoạt lại trong nanh
vuốt của hắn. Ta thề trước Chúa như vậy!
Vua Piotr, vẻ ngay thật, tròn xoe đôi mắt.
Alekxandr Danilovich gật đầu tán thành; nhưng y lấy ngón tay che miệng: bây giờ
mà mỉm cười thì quả là không đúng lúc.
Amalia cầm chiếc mùi soa nhỏ thấm thấm nước
mắt và ngượng ngùng mỉm cười. Đúng, nàng đã tin và lấy làm hối hận. Vua Piotr
vui vẻ ngả người vào lưng ghế bọc da và gọi:
- Vương hầu Roman, lại đây.
Bọn hề đang tranh ăn ầm ĩ chung quanh đĩa
cá nhệch, chúng lăn lộn, giật những con cá nhệch ở mồm nhau, làm Roman
Borisovich không nghe thấy ngay, ông cười nấc lên, Antonida và Olga trợn mắt ra
hiệu cho bố biết là Sa hoàng gọi ông. Bà Avdochia thì kéo quần chồng.
- Ra mà nhận ân huệ vua ban, ra đi, đến
lượt nhà ta rồi đấy!
Roman Borisovich tất tả chạy lại: thanh
gươm nâng đuôi áo lên, ông cúi chào.
- Tâu bệ hạ, niềm hy vọng của chúng thần,
thần xin bái kiến trước long nhan, cả sinh mệnh và linh hồn thần là của bệ hạ!
Vua Piotr không thèm quay mặt lại, nói với
Amalia:
- Người này là một nhà chính trị xuất sắc
và táo bạo. Có lẽ phải phong ông ta lên làm tổng tư lệnh chăng? Chỉ sợ ông ta
gây ra đổ máu nhiều quá. Hay là ta lấy ông ta để hầu hạ trong nhà? - Nói đến
đây, nhà vua quay ngoắt về phía Roman Borisovich khiến ông vương hầu cảm thấy
như có một làn sương mù đỏ làm mờ mắt.
- Ta nghe nói nhà ngươi đang chuẩn bị chiến
tranh. Để thu hồi những đất đai miền Livoni từ bao đời nay vẫn là của ta có
đúng thế không? Ta hỏi ngươi đấy?
Roman Borisovich chớp chớp mắt, người nôn
nao như muốn mửa.
- Ta đang cần những tướng soái gan dạ. Vì
tinh thần dũng cảm lớn lao của ngươi, ta cứ ngươi làm tổng tư lệnh toàn thể
đoàn quân hề.
Nhà vua đứng phắt dậy và nắm lấy tay Roman
Borisovich, lôi ông về phía bục, đến chỗ đại vương - trùm đạo đang ngồi, hai
tay buông thõng, bộ mặt phị nhăn nhó, đang mơ màng gầm thét, tướng như sắp
chết.
Nhà vua lắc mạnh y.
- Cút đi! - đại vương trùm đạo lè nhè.
Khách khứa đoán chừng sắp có một trò giải
trí mới, túm tụm quanh bục gỗ. Bọn hề chui qua chân khách đến ngồi ở các bậc.
Người ta nhét vào tay đại vương trùm đạo
cây thánh giá làm bằng hai cái tẩu buộc vào nhau và nhét vào tay kia một quả
trứng sống, rồi bắt Roman Borisovich quỳ xuống.
Đại vương trùm đạo lúc đó đã tỉnh dậy, nuốt
nước bọt:
- Lễ thăng cấp à? - y hỏi. - Được, cho nó
đáng kiếp!
Và y đập quả trứng lên đầu Roman
Borisovich, - lòng đỏ trứng chảy ròng ròng trên bộ tóc giả; y gí những chiếc
tẩu vào mũi Roman và đá ông ta ngã quay đơ ra đó. Bọn hề hét to: “Cúc cù cu!”
Người ta bắt vương hầu Roman cưỡi lên một chiếc ghế, nhét vào tay một ông khúc
xương đùi lợn đã gặm nhẵn rồi lôi ông ra giữa nhà. Roman Borisovich sững sờ,
ngơ ngác; ông há hốc mồm, tay nắm chặt khúc xương. Khách khứa chỉ trỏ ông, ôm
bụng cười.
Amalia Knipercron cũng cất tiếng cười vang:
tất cả những nỗi lo sợ băn khoăn của nàng đã chấm dứt bằng một trò vui.
Antonida và Olga chỉ hiểu hết tầm tai họa
của mình khi quay đầu lại, các cô không còn thấy các bạn nhảy bên cạnh nữa,
Leoponduyx Mirbac và Vacfolomey Bram, đứng ở cửa phòng khiêu vũ đang cúi rạp
chào với thái độ khăng khăng của những gà say rượu, các cô quận chúa gian xảo
nhà Sakhovski. Tám cô quận chúa, cánh tay trần cong cong, lắc bộ tóc giả đầy
phấn vừa cúi chào lia lịa vừa ranh mãnh liếc nhìn các tiểu thư nhà Buinoxov.
------------
Chú thích:
(1)
Anh hùng dân tộc Nga, cầm đầu phong trào chống xâm lược Ba Lan ở đầu thế kỷ 17.
(2)
Con trai Sa hoàng Piotr đệ nhất và hoàng hậu Evdokia, sinh năm 1690, sau này âm
mưu chống lại bố, bị bắt, tra tấn và chết trong tù năm 1718.
(3)
Vợ góa của Sa hoàng Ivan (chú thích của tác giả). Sa hoàng Ivan là anh của Sa
hoàng Piotr.
(4)
Tiếng Đức: làm chứ, chậm chứ (chú thích của tác giả)
(5)
Tức nữ hoàng Anna về sau này (chú thích của tác giả) trị vì nước Nga từ 1730
đến 1740.
(6)
Gọi Praxkovia một cách trìu mến.
(7)
Gọi Ekaterina một cách trìu mến.
Chương 124
Mùa đông đó, vợ chồng Volkov không đến được Riga. Con đường rộng phủ
tuyết chạy từ Smolensk đến Krazburg qua Orsa. Qua biên giới Ba Lan rồi thì
đường đi không còn như ở đất nước Nga nữa. Ở Nga, đi từ làng này sang làng khác
phải mất hàng ngày đường, qua những cánh rừng rậm rạp, ở đây làng mạc san sát:
trên đồi là một tu viện hoặc ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo và cơ ngơi của lãnh
chúa; đây đó sừng sững một tòa lâu đài có tường đá và hào hố vây quanh. Ở ta,
chỉ có những địa chủ nhỏ sống ngay tại đất đai của họ, hoặc một vị đại thần
thất sủng, âu sầu sống như loài chồn cáo sau một lớp hàng rào cao. Còn đám quý
tộc Ba Lan thì họ sống vui vẻ, phóng khoáng.
Alekxandra Ivanovna khao khát được rời khỏi
đường cái để rẽ vào một trong những tòa lâu đài tuyệt vời ấy mà người ta trông
thấy mái lợp đá đen, nhọn hoắt và những khung cửa sổ lớn thấp thoáng sau hàng
cây bồ đề cổ thụ. Volkov phát cáu:
- Chúng ta là sứ giả của Sa hoàng, mang
công thư đi, buộc người ta phải đón tiếp mình là điều không nên, cô phải hiểu
cái đó mới được chứ?
Họ không phải buộc ai tiếp rước. Một buổi
tối, đã khá khuya, họ vào một làng lớn hình như không có người ở, thậm chí
không nghe thấy cả tiếng chó sủa.
Họ dừng lại trước một quán ăn. Trong khi
người chù quán, một người Do Thái cao lớn, lưng gù, đội mũ lông cáo, khó khăn
mới mở được cánh cổng lớn thì Alekxandra Ivanovna từ trên xe bước xuống, đi lại
trên tuyết cho đỡ tê chân. Nàng nhìn vầng trăng lưỡi liềm, ánh sáng thê lương
không át nổi ánh sao. Xanka cảm thấy thẫn thờ, chẳng hiểu tại sao... Nàng chậm
rãi đi theo đường phố... Hầu hết nhà cửa đều xiêu vẹo, nhiều cái không có mái;
chỉ có những chiếc sào in những vạch đen lên bầu trời trăng suông, Nàng đi tới
một cây liễu phủ sương giá dưới gốc cây có một ngôi đền nhỏ. Trước cánh cổng khóa
trái, một người đàn bà mặc áo trắng, đang phủ phục, tay che kín mặt. Bà ta
không quay đầu lại mặc dầu có tiếng chân lạo xạo trên tuyết. Xanka dừng lại đó
một lát rồi thở dài bỏ đi. Hình như tai nàng lúc nào cũng nghe thấy có tiếng
nhạc văng vẳng ở xa xa đâu đó.
Volkov lên tiếng gọi. Cả hai người bước vào
quán ăn qua một phòng ngoài chạy dài, ngổn ngang những chậu con và thùng nhỏ.
Chủ nhà cầm cây nến mỡ soi đường - bộ râu rậm vểnh lên dưới khuôn mặt choắt;
bác ta có cặp mắt già nua, âm thầm:
- Ở nhà tôi không có rệp đâu, các ngài tha
hồ mà ngủ. - bác nói bằng tiếng Bạch Nga. - Chỉ mong sao đức ông Malasovski
không có ý nghĩ mò tới đây, tới quán ăn này, ôi, lạy Chúa, lạy Chúa!
Trong quán nóng sực, phảng phất mùi chua
chua. Sau một bức rèm rách, một em bé đang khóc trong nôi.
Xanka bỏ áo ngoài ngả mình lên những tấm
đệm đem từ bên ngoài lạnh lẽo vào. - nàng cũng thấy muốn khóc. Mắt nhắm lại,
nàng cảm thấy ở cách tim một chút, về phía bên phải - chỗ trú ngụ của linh hồn
- một mối lo âu không sao chịu nổi... Có lẽ nàng động lòng thương xót ai chăng,
có lẽ nàng muốn yêu chăng? Nàng chẳng thể biết được.
Cửa quán cứ đóng mở sầm sầm không lúc nào
ngớt. Chủ quán và khách ra ra, vào vào. Đứa bé cứ oe oe khóc. “Đêm nay mình lại
không ngủ được đây!”. Chồng nàng gọi: “Xania, em có dậy ăn tối không?” Nàng giả
vờ ngủ. Nàng lại hình dung thấy vầng trăng lưỡi liềm soi sáng lưng người đàn bà
nông dân mặc áo trắng, trước ngôi đền... Nàng những muốn xua đuổi hình ảnh đó
nhưng không được... Rồi những kỷ niệm cũ lại hiện lên: nàng lại nhìn thấy đôi
mắt ghê rợn của mẹ chết trên giường... Ngọn nến cháy leo lét, mấy đứa em nhỏ
mặc áo lót ướt nằm ở trên lò, thò đầu ra ngoài ổ, lắng nghe mẹ chúng rên rỉ;
chúng nhìn bóng chiếc guồng sợi in trên vách gỗ, - trông như bóng một ông già
với cái cổ gầy ngẳng và bộ râu dê... “Xania Xania, - mẹ nàng thều thào gọi -
Xania, mẹ thương chúng nó...”.
Volkov đang ung dung ngồi ăn món súp mì
ống. Cửa lại mở rồi đóng sập lại; một người nào đó bước vào và khẽ thở dài.
Xanka nuốt nước mắt:
- Ta sẽ để hạnh phúc lọt đi mất như thế
đấy.
Chồng nàng lại lên tiếng:
- Xania, uống ít sữa vậy!
Có tiếng đàn bà ở ngưỡng cửa:
- Cầu Chúa phù hộ cho đức ông được mạnh
khỏe. Ba ngày nay, chúng con chưa được một miếng gì vào bụng. Đức ông làm phúc
cho chúng con xin ít bánh.
Như có cái gì đâm nhói vào lòng. Xanka nhổm
dậy ngồi lên chiếc ghế dài. Gần ngưỡng cửa, một người đàn bà đang quỳ; giữa hai
vạt áo khoác trắng hé mở, lộ ra khuôn mặt thảm hại trông nghiêng của một đứa
bé. Xanka chồm dậy vớ lấy một đĩa thịt ngỗng.
- Đây, cầm lấy! - Nàng chìa chiếc đĩa và
bất giác lắc lắc đầu như kiểu phụ nữ nông thôn - Thôi đi đi, thôi đi đi.
Người đàn bà đi ra. Xanka ngồi vào bàn ăn;
tim nàng đập mạnh đến nỗi sữa nàng cũng không nuốt nổi.
Volkov hỏi người chủ quán Do Thái.
- Có chuyện gì vậy? Các ông mất mùa à?
- Không ạ, chúng tôi chưa đến nông nỗi ấy,
Chúa không muốn vậy. Nhưng đức ông Malasovski đã tịch thu vụ thu hoạch rất tốt
của chúng tôi đem đi bán ở Koenigsberg.
- Ông nói thật chứ, - Volkov ngạc nhiên đặt
thìa xuống bàn. - Ra người ta đem lúa mì đi bán ở Koenigsberg. Thế bán được giá
hời chứ?
- Ô giá cả! giá cả! - người chủ quán đằng
hắng, lắc lư bộ râu mềm. Bác đặt giá nến lên ghế dài nhưng không dám ngồi
xuống, - Hiện nay, bọn nhà buôn ở Koenigsberg biết rõ rằng chỉ có thể bán được
lúa mì cho họ thôi. Không ai đem bán ở Riga đâu, ai mà chịu đóng thuế quan cho
người Thụy Điển? Thế là chúng trả một florin.
- Một florin,
một pud? - Volkov không tin, cặp mắt
xanh mở to tròn xoe. - Nhưng có lẽ ông nói dối?
- Tôi xin thề là tôi không nói dối. Tôi nói
dối đức ông làm gì? Thời tôi còn trẻ, người ta đem bán lúa mì ở Riga, giá một florin rưỡi, có khi hai florin một pud. Đức ông cho phép tôi ngồi chứ? Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa. Tất cả
những chuyện đó đều là những thủ đoạn độc ác của lãnh chúa Malasovski đối với
chúng tôi... Ngài Malasovski đã chém chết bác Do Thái Ante tại làng của lãnh
chúa Badovski. Mà lãnh chúa Badovski thì chỉ cần mất một con gà ranh cũng huy
động hết thảy giới quý tộc của phe mình. Ante trước kia làm thư ký cho lãnh
chúa Badovski. Thế là lãnh chúa Badovski dẫn đầu các vị quý tộc của phe mình.
Đến đánh lãnh chúa Malasovski. Súng bắn như pháo ran! Ôi! lạy Chúa! Lạy Chúa...
Rồi thì lãnh chúa Malasovski với phe quý tộc của mình lại tấn công lãnh chúa
Badovski. Họ phung phí không biết bao nhiêu thuốc súng, tất cả chỉ vì một anh
Do Thái chết... Rồi hai bên lại giảng hòa với nhau và đã uống hết năm mươi
thùng bia. Các vị quý tộc phe lãnh chúa Malasovski ào ào kéo đến đây; họ đã bắt
tôi, bắt năm người Do Thái nữa, ném tất cả lên xe ngựa, rồi lấy sào chẹn chúng
tôi tựa hồ chúng tôi là những bó lúa và dẫn chúng tôi đến nhà lãnh chúa
Badovski... Lãnh chúa Malasovski ôm bụng cười: “Này, lãnh chúa Badovski, ông
mất một thằng Do Thái thì ta trả lại cho sáu đứa đây”. Khi nằm ở trên xe.
Yanken Kagan đã bị gãy một xương sườn, Moxey Levit thì bị vỡ gan, còn tôi thì
hai chân bị teo từ ngày đó.
Volkov vừa rót sữa vào cái đĩa sành vừa
nói:
- Vậy nếu ông không nói dối thì tại sao
làng này khổ cực đến như thế?
- Thưa đức ông, đám mugic ăn gì cho béo được?
- Ăn cho béo? Không. Béo để làm gì? Không
nên để cho nông dán béo quá... Nhưng dù sao, ít ra cũng phải lợp mái nhà chứ!
Là vì, chuyện gì đã xảy ra? Ta đã trông thấy nhà cửa ở đây: súc vật ở còn sung
sướng hơn. Vậy ra ở đây không có nông dân phải nộp thuế à?
- Ở đây tất cả nông dân đều phải đi xâu.
- Thế phải đi bao nhiêu ngày?
- Họ làm cho lãnh chúa mỗi tuần sáu ngày.
Volkov lại sửng sốt...
- Ở nước ta, Ngân khố của Sa hoàng sẽ không
cho phép làm thế. Một tên nông dân như lão này thì dù chỉ là một nửa kopeik thuế cũng không thu được! Vậy ở
nước ông, ai đóng thuế cho Ngân khố? Các lãnh chúa à?
- Không, các lãnh chúa không đóng thuế.
Chính chúng tôi nộp cho các lãnh chúa!
- Quốc gia gì mà lạ vậy? - Volkov lắc đầu
cười.
- Xania, em xem đấy: đám lãnh chúa Ba Lan
thật tự do phóng túng.
Nhưng Xanka nào có chú ý nghe. Mắt nàng mở
to, nhìn trân trân. Nàng quay về phía cửa sổ, áp hắn mặt vào cửa kính ướt. Bên
ngoài, tiếng đàn địch mỗi lúc một to hơn, nghe có tiếng nhạc ngựa, tiếng người.
Chủ quán lo lắng cầm giá nến, và lê chân lom khom bước ra phía cửa.
- Tôi đã bảo mà, lãnh chúa Malasovski sẽ
không để đức ông và phu nhân ngủ yên đâu
Chừng mười chiếc xe trượt tuyết dừng lại
trước quán. Một bọn Do Thái cò cưa những cây vĩ cầm, thổi những chiếc kèn rè.
Những gã quý tộc Ba Lan, nằm lăn lóc thành đống trên những tấm thảm, giơ chân
lên, cười sằng sặc, la hét cổ vũ đám nhạc công. Một trong số những tên mới đến,
một gã có ria mặc áo bông ngắn, nhảy múa trên tuyết đã bị dẫm nát; khi thì oai
vệ đi từng bước, xoăn xoăn bộ ria, khi thì hắn quay tít, thanh gươm của hắn bay
theo sau. Một đám kỵ sĩ cầm đuốc phi ngựa tới và nhảy xuống. Trong khoảng tối
tăm mù mịt, bốn con ngựa cao lớn xuất hiện, đầu cắm lông công nghểnh cao: trong
xe trượt tuyết mui trần có một số phụ nữ.
Xanka dán mặt vào cửa kính, giương to mắt
nhìn những người đàn bà nước ngoài ấy: họ đều mặc áo kép chẽn ngắn bằng nhung,
cổ áo viền lông thú, mũ nhỏ đội lệch sang một bên mang tai. Họ cười vang, các
ngọn đuốc soi sáng họ.
Một lãnh chúa béo lùn, từ sau xe bước
xuống, loạng choạng đi về phía quán ăn. Hắn trông thấy khuôn mặt Xanka sau cửa
kính mờ và ra hiệu cho bọn quý tộc:
- Vào đi!
Hắn và theo sau hắn là những gã quý tộc,
đứa thì mặc áo lông cừu thường, đứa thì quần áo rách rưới, nhưng tất cả đều mang
kiếm và súng ngắn xộc vào quán ăn. Tên lãnh chúa, mặt đỏ như gấc chín, đứng
giạng chân, đưa tay lên vuốt ria, bộ ria dài đến nỗi bàn tay che không kín. Áo
ngoài của hắn lót lông chồn ánh bạc, phủ đầy tuyết, rõ ràng hắn đã từ sau xe
ngã xuống đất nhiều lần. Hắn gõ kiếm kêu loảng xoảng, mắt long lên sòng sọc
nhìn Xanka, rồi với những lời lẽ văn hoa, hắn nói một cách khó khăn, giọng nói
của một người say rượu:
- Kính thưa quận chúa kiều diễm, quận chúa
đến mà tên chủ quán khốn nạn báo cho tôi biết quá chậm. Sao! Một vị phu nhân
xinh đẹp, cao quý nhường này mà lại phải ngủ đêm tại một quán trọ ghê tởm như
thế này ư! Chúng tôi không thể để như thế được. Này, các vị hãy quỳ xuống kính
mời quận chúa về lâu đài!
Bọn quý tộc trong đó có nhiều tên đầu tóc
đã hoa râm, mặt đầy sẹo, hơi thở làm quán ăn nồng nặc mùi rượu mạnh, quỳ một
gối xuống đất trước Xanka, trật mũ ra và một tay đấm ngực nói:
- Kính thưa quận chúa kiều diễm, tôi xin
thề sẽ chết ngay nếu tôi đứng dậy không quỳ mãi trước đôi chân xinh xắn tuyệt
vời của quận chúa! Kính mời quận chúa tới viếng thăm nhà lãnh chúa Malasovski.
Alekxandra Ivanovna, từ sau bàn đứng phắt
dậy, chiếc khăn quàng đi đường trên vai tụt xuống, nàng đứng như vậy, mặt tái
nhợt, lông mày nhướn cao, cánh mũi phập phồng, trước bọn quý tộc Ba Lan đang
quỳ gối.
Chử quán giơ thật cao cái giá nến. Nhìn
thấy nàng đẹp lộng lẫy, lãnh chúa Malasovski xô mạnh một tên quý tộc rồi gạt
một tên khác ra và bước tới gần, nặng nề quỳ xuống một gối xuống:
- Xin kính mời quận chúa!
Xanka nhanh trí đưa mắt ra hiệu cho chồng.
Vaxili hoảng sợ hết hồn, run rẩy cởi khuy
cổ áo sơ mi để lấy ở bên trong ngực ra chiếc túi đựng công thư chứng nhận tư
cách bất khả xâm phạm của mình.
Xanka ngập ngừng một phút rồi cất giọng
thánh thót lên tiếng:
- Tôi rất sung sướng biết ngài!
Hơn một tuần nay, lãnh chúa Malasovski chè
chén ăn chơi làm huyên náo toàn trấn Orsa.
Vợ lãnh chúa, Augusta phu nhân thích khiêu
vũ và các trò giải trí, đến nỗi mụ bắt các bạn nhảy khiêu vũ đến mệt cả người.
Có kẻ kiệt sức phải trốn vào một xó - người ta đánh thức y dậy, lôi y ra phòng
lớn - mặt mũi y phờ phạc vì ngái ngủ; ngoài hành lang, các nhạc công gầy nhom
mặc áo dài vá đụp đánh đàn, thổi kèn đến rã tay, hết hơi. Dưới trần nhà vẽ vời
rất tráng lệ, từ những ngọn đèn chùm sản xuất ở Vơnidơ, sáp nến nhỏ giọt xuống
những bộ tóc giả đẫm mồ hôi và những tấm xiêm đang tung bay; tại những phòng
bên, đám quý tộc nốc rượu ừng ực và hò hét.
Giữa đêm khuya, Augusta phu nhân, một người
đàn bà nhỏ bé, tóc quấn thành búp, má lúm đồng tiền, bỗng nghĩ ra một trò chơi
mới và vỗ tay lên tiếng:
- Nào, ta lên đường!
Dưới ánh đuốc, mọi người chồng chất lên xe
trượt tuyết, cho ngựa phóng nước đại đến nhà một ông hàng xóm: tới đó lại có
rượu vang Hungary từng thùng, cừu quay nguyên cả con dành cho loại khách quý,
còn đám quý tộc khác thì ăn lòng nấu tỏi đựng trong những âu lớn.
Mọi người chạm cốc chúc sức khỏe các vị phu
nhân kiều diễm, chúc mừng thanh danh nước Ba Lan và nền tự do vĩ đại của giới
quý tộc Ba Lan.
Hoặc có khi Augusta phu nhân nghĩ ra trò
cải trang khách khứa thành người Thổ Nhĩ Kỳ: người Hy Lạp hoặc người Ấn Độ; mụ
lấy bồ hóng bôi mặt bọn quý tộc nghèo hơn, chơi đùa suốt đêm rồi đến tảng sáng,
họ vẫn để nguyên quần áo cải trang, kéo tới tu viện gần đó, có tiếng chuông
đang bính boong trên một ngọn đồi, sau đám cây trụi lá. Họ vào dự lễ, rồi trong
phòng ăn trắng toát, lò sưởi đốt củi cả cây cháy rừng rực, mọi người uống rượu
mật ong để đã hàng trăm năm, cười đùa với các tu sĩ phong nhã mặc áo thụng thơm
nức, và có khi mang cả giầy có đinh thúc ngựa.
Xanka lao vào các cuộc vui chơi đó với tất
cả tâm hồn nồng cháy của mình. Nàng chỉ bận mỗi việc thay hết áo ngoài đến áo
trong ướt đẫm, lấy vodka thơm xoa người, rồi người gầy đi, dáng thanh thoát
hơn, say sưa tiếng nhạc, nàng kiêu hãnh cúi chào nhảy điệu vũ nhịp ba hoặc quay
tít với điệu polka.
Lúc đầu, Vaxili còn chịu đựng được. Nhưng
về sau, người ta để hai gã nghiện rượu, ăn uống thô tục, to lớn như hộ pháp mà
toàn cõi Ba Lan đều biết tiếng, kèm hắn kè kè: lãnh chúa Sotkovski và lãnh chúa
Domoracki. Hai gã này có thể tu cạn một bình rượu bia khoảng tám lít, ăn hết cả
một con ngỗng nấu mận, rồi một bát lớn bánh bao nhắm với năm chai rượu vang
Hungary.
Vaxili và hai gã cứ hôn nhau suốt ngày suốt
đêm. Trong những giờ phút tỉnh táo, Vaxili lo ngại, can vợ:
- Xaneska, con bồ câu của anh, vui chơi thế
đủ rồi, ta đi thôi!
Xanka chẳng thèm ngoảnh đầu lại. Lãnh chúa
Sotkovski ôm chặt lấy vai Vaxili, rồi chuếnh choáng, loạng choạng, họ lại tiếp
tục chè chén.
Vaxili càu nhàu, vùi đầu vào gối. Có người
nắm vai hắn lay mạnh, hắn để nguyên quần áo nằm ngủ, chỉ bỏ có áo ngoài và
thanh kiếm. Đầu hắn nặng trĩu như chì, không nhấc lên nổi. Người nào đó vẫn cứ
cố lay hắn, hắn thấy móng tay cắm vào da thịt mình... “Ồ, lại còn cái gì nữa
thế này?”.
- Ra nhảy với em. Ra đi, ra đi nào, - Xanka
hớt hải nhắc đi nhắc lại, giọng nói nghe kỳ lạ khiến Vaxili phải chống khuỷu
tay nhỏm dậy. Đứng bên cạnh giường, Xanka hất cái đầu rắc phấn làm hiệu cho
chồng. Mắt nàng hốt hoảng như thể trong nhà đang cháy hoặc xảy ra một tai họa
nào khác
- Anh không muốn nhảy với em sao?
- Em điên rồi, em yêu quý ạ!
Ngoài trời đã sáng... Rạng đông lóe lên sau
cửa kính lớn trong suốt, nhuốm xanh bộ mặt phờ phạc và đôi vai trần của Xanka...
“Chỉ tại cô ta mà bây giờ nên nông nỗi ấy: mặt cắt không còn hột máu”.
- Đi ngủ đi, như thế tốt hơn.
- Anh không muốn, anh không muốn phải
không? Anh Vaxili?
Nàng vội vã ngồi phịch xuống một chiếc ghế
có tựa cao, buông thõng hai cánh tay để trần.
Người nàng thoang thoảng mùi nước hoa Pháp,
thơm như xạ, một thứ nước hoa xa lạ. Nàng nhìn chồng không chớp: một nỗi uất ức
nghẹn ngào trong cổ.
- Vaxia, anh có yêu em không?
Nào nàng có đặt câu hỏi đó một cách bình
thường, dịu dàng cho cam, không, nàng hỏi chồng với một giọng nghe như đe dọa.
Vaxili bực bội, đấm mạnh vào gối:
- Ít ra cô cũng nên để cho tôi sống yên ổn.
Nàng nuốt giận:
- Anh nói đi, anh yêu em như thế nào?
Biết trả lời gì đây? Thật là chuyện ngớ
ngẩn đàn bà! Nếu Vaxili không nhức đầu như búa bổ sau một đêm rượu say, chắc
chắn là hắn đã không nhịn được chửi rủa. Nhưng hắn chẳng còn sức đâu mà cũng
chẳng muốn vậy. Hắn nín lặng, ngắm nhìn vợ, với một nụ cười trách móc.
Xanka lặng lẽ chắp bàn tay lại:
- Anh không biết giữ em... Anh không tốt!
Nàng đứng dậy, lấy chân hất gấu váy dài bỏ
đi.
- Đóng cửa, đóng cửa lại, Xania!
Vaxili không ngủ được; hắn thở dài, trằn
trọc, lắng nghe tiếng nhạc văng vẳng đang vang lên ở bên dưới, tại các phòng
khách. Dù không muốn, hắn cũng phải suy nghĩ: “Hỏng, hỏng. - Hắn ngồi dậy, hai
tay ôm đầu - Sống thế này, không còn ra cái gì nữa?”. Hắn mặc quần áo vào, đi
qua cửa sau, xuống nhà ngang để xem chiếc xe hòm của hắn đã sẵn sàng chưa. Hắn
mừng rỡ trông thấy ở gần nhà xe một người của hắn, gã xà ích Antip. - hắn đã
mua Antip sáu mươi rúp ở trấn Smolensk, để thay người xà ích bị giết chết ở gần
Viazma.
- Này, Antip, ngày mai ta sẽ lên đường.
- A, Vaxili Vaxilievich, như thế thì tốt
quá. Ở đây buồn chết được.
- Tối nay, ngươi chạy đi tìm chủ quán,
chuẩn bị ngựa.
Vaxili thong thả trở về qua vườn hoa. Gió
thổi bay những bông tuyết trắng tinh: cây cối đầy tổ quạ, xào xạc. Một đám đông
nam nữ nông dân làm việc ở hồ, - rõ ràng người ta đã lùa cả làng ra để dọn
tuyết và cắm những cây sào treo cờ bay phần phật trước gió. “Họ chỉ tìm cách
vui đùa với những trò ngu xuẩn”. Bỗng Vaxili đứng sững lại như có người nắm
chặt lấy vai; hắn đau đớn nhăn mặt. Tim hắn đập rất mạnh, hắn đã đoán ra rồi:
đúng thằng cha ấy! Biết bao lần qua những cơn say túy lúy, hắn đã trông thấy
tên lãnh chúa Vladislav Tyklinski này, một gã đẹp trai cao lớn, mặc áo nhung
màu da cam may ở Paris. Alekxandra lúc nào cũng đi với gã: nàng nhảy với gã
điệu vũ nhịp ba, điệu vũ đối diện, điệu mazurka,
lúc nào cũng nhảy với gã.
Vaxili đứng đó nhìn xuống đất. Tuyết dính
vào má hắn, lọt xuống cổ. Nhưng giả định nóng bỏng đó vừa thoáng qua đầu óc thì
hơi men chuếnh choáng đã làm mờ đi tất cả. Hắn không quyết định gì hết. Người
ta tìm hắn mời đi ăn sáng. Đó là tục lệ ở đây: sau một đêm vui chơi là một bữa
ăn sáng rồi mọi người ngủ cho đến bữa trưa. Các ông bạn Sotkovski và Domoraki,
hắn đã thấy chúng khả ố quá, thật là những tên khoác lác, những tên bụng phệ
dối trá, nắm lấy cánh tay hắn, cười rộ lên:
- A, lãnh chúa Vaxili, cái món bigox chúng tớ chén ngon phải biết nhé!
Alekxandra không thấy có mặt ở bàn ăn, cả
tên kia cũng vậy. Vaxili nốc cạn một cốc rượu mạnh mà không thấy say.
Hắn rời bàn ăn, qua phòng khiêu vũ: ở đây
vắng tanh. Ngoài hành lang, một gã Do Thái xương xẩu, dài thườn thượt, nằm sóng
sượt ngủ gục bên một cái trống lớn. Vaxili thận trọng hé mở chiếc cửa hai cánh
thông sang phòng gương: trên sàn bừa bãi giấy màu, lãnh chúa Vladislav ngông
nghênh lấy mũi kiếm nâng cao đuôi áo da cam đang cùng với Alekxandra dạo bước
dọc bên các cửa sổ. Gã đang say sưa nói và kiêu căng lắc lắc bộ tóc giả.
Alekxandra cúi đầu nghe gã. Cổ nàng cúi
xuống, có một cái gì yếu đuối, trinh khiết: người ta đã đưa con bé ngu ngốc non
nớt này ra nước ngoài rồi bỏ mặc nó chơ vơ một mình, người ta có thể làm hại
nó: rồi thì tha hồ mà nuốt nước mắt.
Lẽ ra Vaxili phải hành động mạnh mẽ, đòi
tên Ba Lan kiêu ngạo kia phải tạ tội bằng vũ khí; nhưng lòng thương hại day dứt
hắn, hắn chỉ đứng nhìn qua khe cửa... “Ôi! Vaxili, mi thật là kém cỏi!” Trong
lúc đó, lãnh chúa Vladislav lịch sự, giơ tay chỉ một cánh cửa bên: xương bả vai
của Xanka hơi nhô lên, nàng khẽ lắc đầu: Hai người quay lại cùng bước về phía
vườn mùa đông. Bất giác, Vaxili định sắn tay áo... Nhưng tay áo không có: chỉ
toàn là những đăng ten? Và kiếm thì lại để trên gác... A, bực thật!
Hắn mở mạnh một bên cửa nhưng Sotkovski và
Domoraki, hai tên bụng phệ om sòm này, đã từ phía sau nhảy bổ tới...
- Lãnh chúa Vaxili, lại nếm món knitsi phết kem nóng xốt!
Và Vaxili lại ngồi vào bàn ăn, đầu óc rối
bời. Hắn cảm thấy nhục nhã và cơn giận làm hắn nghẹt thở. Rõ ràng đây là một âm
mưu. Bọn phàm ăn này được giao nhiệm vụ làm cho hắn say đây... Chạy đi lấy kiếm
đánh nhau chăng? Hừ? Vị sứ giả của Sa hoàng mới tài giỏi làm sao: đi đánh lộn
vì đàn bà, y hệt một gã mugic trong
quán rượu... A, nhưng dù sao cũng mặc? Phải chấm dứt cái trò này thôi?
Hắn gạt cốc rượu người ta mời và vội vã rời
khỏi phòng ăn. Trên gác, hắn nghiến răng tìm thanh kiếm. Cuối cùng hắn tìm thấy
kiếm dưới đống xiêm của Xanka.
Hắn thắt chặt đai vào ngang lưng rồi chạy
xuống cầu thang đá, nhảy bốn bậc một. Trong lâu đài, mọi người đã đi nằm ngủ
trưa. Hắn chạy quanh một vòng vườn hoa mùa đông - không một bóng người. Hắn gặp
một cô hầu phòng trẻ tuổi. Cô gái cúi rạp xuống chào hắn và nhỏ nhẻ nói:
- Quận chúa, Malasovska phu nhân và lãnh
chúa Tyklinski đã đi chơi bằng xe trượt tuyết và có hẹn là chiều tối mới về!
Vaxili quay lên phòng mình và ngồi trước
cửa sổ, nhìn xuống đường cho tới khi hoàng hôn đổ xuống. Thậm chí hắn còn nảy
ra ý nghĩ viết một bức thư cho Sa hoàng để thú nhận những lầm lỗi của mình.
Nhưng hắn không tìm thấy giấy bút.
Rồi người ta bảo cho hắn biết là Xanka đã
về từ lâu và đang nằm nghỉ tại phòng ngủ của Augusta phu nhân. Sau bữa ăn tối
sẽ có hội hóa trang và đốt pháo hoa ở hồ. Vaxili xuống nhà xe, ra lệnh cho
Antip bí mật chuẩn bị ngựa và đem hành lý để vào chiếc xe hòm. Hắn lầm lì trở
về lâu đài. Dọc các gờ tường đều thắp đèn lồng, gió lướt trên những ngọn lửa
nhỏ.
Gió đã xua tan những đám mây nặng trĩu
tuyết. Đêm xanh lam, vầng trăng chỉ có một nửa.
Bên cạnh một tòa nhà được trang trí bằng
những bức tượng phụ nữ lấm tấm tuyết phủ, Volkov bỗng nghe thấy những tiếng kêu
khàn khàn, những tiếng thở hổn hển, tiếng gươm khua loảng xoảng. Hắn đã định
bước qua: chẳng có gì đáng quan tâm. Nhưng sau một góc toà nhà, dưới chân tượng
Cupidon(l) tay cầm một mũi tên, có một phụ nữ đứng tựa vào tường tay giữ cổ
chiếc áo ngoài khoác trên vai, đầu đội bộ tóc giả trắng.
Volkov chăm chú nhìn: Alekxandra. Hắn chạy
lại. Ngay ở đấy dưới ánh trăng hai lãnh chúa Vladislav và Malasovski đang đấu
kiếm. Họ nhảy chồm chồm, hai chân giạng ra, đâm nhau, dậm gót, hung hăng khạc
nhổ, kiếm va nhau loảng xoảng.
Xanka lao về phía Vaxili, quàng tay ôm chặt
lấy chồng, đầu ngả về đằng sau, mắt nhắm nghiền, thì thào nói:
- Đưa em đi, đưa em đi...!
Trông thấy Volkov, gã Malasovski rậm ria
kêu lên một tiếng. Lãnh chúa Vladislav xông lại chỗ Vaxili.
- Nàng không phải là của ngươi, chúng ta
đây không cho phép!
Trong vườn, bọn quý tộc, gươm tuốt trần,
vội chạy ùa lại để can các vị lãnh chúa.
Khi đã đi khỏi địa hạt của lãnh chúa
Malasovski được năm mươi dặm, Vaxili mới yên tâm.
Hắn không trách móc Xanka một lời, cũng
chẳng hỏi gì hết nhưng tỏ ra rất nghiêm khắc.
Nàng ngồi trong xe, mắt nhắm nghiền, lặng
thinh. Họ tránh những dinh cơ giàu có.
Một hôm, người dẫn đường, ngồi bên người xà
ích, ngón tay cóng đút vào ống tay áo hẹp của chiếc áo lông cừu, bỗng nhớn
nhác, từ trên đỉnh đồi chỉ xuống mái ngói của một ngôi nhà thờ sừng sững bên
đường. Antip thò đầu vào trong xe nói:
- Vaxili Vaxilievich. Chúng ta sẽ buộc phải
dừng lại ở đây.
Họ được biết là ngôi nhà thờ này thờ thánh
Jhon Nepomuc, do lãnh chúa Boreiko lừng danh xây dựng.
Thân hình phì nộn, tính tham ăn phàm uống
và cái đức hiếu khách của Boreiko đã trở thành ngạn ngữ. Chỗ ở của ông ta xa
đường cái, bên kia một khu rừng âm u. Để mời các bạn rượu cho được dễ dàng, ông
ta đã cho xây ngôi nhà thờ này ngay bên đường: một tòa nhà trong có bếp và một
hầm rượu, một tòa nhà khác có phòng ăn. Một thầy tu, dòng thánh Françoise, bụng
phệ và vui tính ở liền tại đó. Lão làm lễ; những giờ nhàn rỗi, lão đánh bài với
lãnh chúa; cả hai cùng rình đợi khách qua đường.
Dù là ai đi nữa, một lãnh chúa quan trọng,
một vị quý tộc vô tư lự đã bán đến chiếc mũ cuối cùng để uống rượu, hoặc một gã
lái buôn của một thị trấn nhỏ, gia nhân của lãnh chúa Boreiko cũng chăng dây
thừng chặn đường. Lãnh chúa Boreiko, lạch bạch như con vịt, hơi thở khò khè,
mời khách qua đường một cốc rượu, trong lúc đó bọn gia nhân đã vội vã tháo
ngựa; ông khách sợ sệt bị lôi vào nhà thờ, lão thầy tu tụng bài kinh trước bữa
ăn, và thế là tiệc tùng bắt đầu. Lãnh chúa Boreiko chẳng làm gì hại khách nhưng
không để cho ai ra đi đói bụng: có người bất tỉnh nhân sự phải khiêng ra xe; có
người không hồi tỉnh lại được, đã trút linh hồn trong khi lão thầy tu tụng kinh
làm lễ xá tội
- Làm thế nào bây giờ, Vaxili Vaxilievich?
- Antip hỏi.
- Rời khỏi đường cái và cho ngựa phóng băng
qua đồng.
Rõ ràng là các lãnh chúa Ba Lan chỉ có một
ý nghĩ trong đầu: ăn chơi. Tưởng chừng như tất cả giới quý tộc Ba Lan chỉ có
chè chén không phải lo nghĩ gì.
Tại các làng xã và các thị trấn, bất cứ nhà
nào hơi bề thế một chút đều để ngỏ rộng cửa; trên thềm, một số quý tộc say
khướt ca hát om xòm. Trái lại, tại các thành phố, đường xá sạch sẽ, có nhiều
cửa hiệu, quầy hàng đẹp đẽ. Bên trên các cửa hàng và các hiệu cắt tóc, bên trên
các xưởng thợ thủ công, có những bảng hiệu tô màu rực rỡ treo ngang đường: khi
thì là một bà mặc áo ngắn, khi thì là một hiệp sĩ cưỡi ngựa, hoặc một cái chậu
cạo râu bằng đồng. Trên ngưỡng cửa, một người Đức đon đả tươi cười, miệng ngậm
tẩu bằng sứ, hoặc một người Do Thái mặc áo bông lành lặn, nhũn nhặn mời khách
quá bộ vào cửa hàng, ngó qua một chút.
Không như ở Moskva, bọn lái buôn thường túm
vạt áo khách lôi vào một cửa hiệu tồi tàn, chỉ có những hàng hóa hư hỏng mà giá
thì đắt vô chừng; ở đây vào bất cứ cửa hiệu nào, khách cũng phải choáng mắt.
Nếu khách không có tiền, chủ hiệu sẽ bán chịu.
Càng tới gần biên giới Livoni thì các thị
trấn càng nhiều. Cối xay gió quay cánh trên các ngọn đồi. Trong làng, người ta
đã chở phân ra đồng. Bầu trời xám báo hiệu xuân đến. Mắt Xanka lại long lanh.
Đã tới gần Krazburg. Nhưng một sự kiện không ngờ xảy ra.
Tại quán ăn, viên dapife Piotr Andreevich Tolstoy đang nằm nghỉ sau vách. Hắn từ nước
ngoài trở về Moskva. Nghe thấy có người nói tiếng Nga, hắn bước ra, áo lông cừu
khoác trên vai, khăn lụa quấn quanh cái đầu hói.
- Hãy tha thứ cho già này, - hắn vừa nói
vừa lễ phép chào Alekxandra Ivanovna. - Tôi rất sung sướng được gặp các vị ở
đây.
Dưới cặp lông mày đen nhánh như đuôi hắc
điêu thử, nhìn chằm chằm nhìn như ve vuốt Xanka đang cởi bộ áo ngoài. Hắn xấp
xỉ năm mươi tuổi, người gầy và nhỏ bé nhưng rắn rỏi.
Tại Moskva chẳng ai ưa hắn, Sa hoàng không
thể tha thứ cho quá khứ của hắn, hắn đã cùng Khovanski xúi giục bọn xtreletz nổi dậy ủng hộ Sofia. Nhưng
Tolstoy là người biết chờ đợi.
Hắn đảm đương nhiều nhiệm vụ khó khăn tại
nước ngoài và hoàn thành những việc đó tốt đẹp. Hắn biết nhiều thứ tiếng, am
hiểu văn học, biết mua một bức họa cho lâu đài Melsikov, một cuốn sách có ích
với giá phải chăng, biết dùng một người có tài. Hắn không tìm cách tự đề cao
mình. Nhiều người bắt đầu kiềng hắn.
- Có phải phu nhân định đến Riga không? -
hắn hỏi Alekxandra Ivanovna trong lúc người hầu gái người Kalmys tháo đôi ủng
dạ xinh xắn của nàng. Xanka lãnh đạm trả lời:
- Chúng tôi vội đi Paris.
Tolstoy lục trong túi, rút ra hộp thuốc lá
bằng đồi mồi, gõ ngón tay giữa lên nắp và gí cái mũi to vào hộp thuốc.
- Phu nhân sẽ gặp phải nhiều chuyện phiền
nhiễu đấy. Phu nhân nên đi đường Warsawa thì hơn.
Volkov vừa xoa mặt bị sạm gió vừa hỏi:
- Tại sao?
- Ở Livoni đang có chiến tranh, Vaxili
Vaxilievich ạ. Riga đang bị bao vây.
Xanka đưa hai tay lên ôm má. Volkov hốt
hoảng, chớp chớp mắt:
- Chiến tranh đã bắt đầu rồi à? Thế là thế
nào? Vậy ra một mình vua Auguste...?
Và hắn nghẹn lại không nói được: Piotr
Andreevich lạnh lùng soi mói nhìn hắn, khiến hắn phải giữ mồm giữ miệng.
Tolstoy ngẩng đầu lên, mũi lem luốc vì thuốc lá và hắt hơi; góc chiếc khăn quấn
đầu dựng lên như những cái tia.
- Vaxili Vaxilievich ạ, tôi xin khuyên ngài
nên rẽ ngay sang Mito. Vua Auguste hiện đang có mặt tại đó. Nhà vua sẽ lấy làm
sung sướng được gặp ngài và nhất là phu nhân đây, duyên dáng và đáng yêu biết
bao.
Tolstoy cho biết vài tin tức về cuộc chiến
tranh đã bắt đầu. Ngay từ mùa thu, các tiểu đoàn xứ Xăc của vua Auguste đã tập
trung tại biên giới Livoni, ở Janski và Mito. Danber, thống đốc thành Riga, ba
năm trước đã tỏ ra vô lễ với đoàn sứ thần Moskovi, trong đó có cả vua Piotr,
không thèm để ý hoặc giả cũng có thể là khinh thường cái trò thanh đông kích
tây ấy.
Khi đó có thể chỉ một trận là hạ ngay được
thành Riga. Nhưng những cuộc truy hoan thờ thần Vệ nữ và một sự nhẹ dạ điên rồ
đã làm mất đi một thời gian quý báu.
Fleming, viên tướng trẻ người xứ Xăc, tổng
chỉ huy, đã say mê người cháu gái lãnh chúa Xapieha: hắn đã bỏ cả mùa đông vào
những cuộc vui chơi yến tiệc tại lâu đài của Xapieha.
Binh lính thì uống rượu say khướt, cướp phá
các làng ở Kurlan, nông dân bắt đầu chạy trốn sang Livoni, và tại Riga, cuối
cùng người ta đã hồi tâm lại. Viên thống đốc ra sức củng cố thành.
Piotr Andreevich, vừa cau đôi môi cạo nhẵn,
vừa nói, thận trọng chọn từng lời:
- Trong quân đội, khi tướng Carlovit đến
thì, nhờ Chúa, các cuộc hành binh cũng đã bắt đầu. Nhưng chao ôi, thần Vệ nữ và
thần rượu Baccus chẳng ưa tiếng đạn réo: tướng Fleming đi tìm những cuộc giao
chiến nồng cháy hơn. Đáng lẽ đi tấn công quân Thụy Điển thì ngài lại anh dũng
bao vây cô nàng Ba Lan xinh đẹp, và đã đưa cô ta đến Dresden rồi, chẳng bao lâu
nữa, sẽ làm lễ cưới.
Qua câu chuyện đó, Volkov hiểu ngay là công
việc của vua Auguste chẳng tốt đẹp gì. Hắn lý luận như sau: để tránh một sự
thất thố, và để về sau không phải chịu trách nhiệm trước vua Piotr, cần rẽ sang
Mito.
* * *
- Các hiệp sĩ của ông đâu? Một vạn quân
giáp kỵ của ông đâu? Lời thề của ông đâu? Ông đã nói dối vua rồi?
Vua Auguste đặt mạnh giá nến đang cháy trước
gương, giữa những núm bông xoa phấn, găng tay, lọ nước hoa; một cây nến rớt
xuống và tắt ngấm. Nhà vua đi đi lại lại trên tấm thảm lóng lánh như bạc trong
buồng ngủ. Bắp chân cường tráng của nhà vua, nịt chặt trong tất run lên vì giận
dữ. Johan Patkun đứng trước nhà vua, mặt tái nhợt, ủ rũ, bóp chặt chiếc mũ
trong tay.
Johan Patkun đã làm tất cả những gì con
người có thể làm được; suốt mùa đông, y đã thảo những bức thư khuyến khích bí
mật gửi cho các hiệp sĩ ở các lãnh địa tại Livoni và Riga.
Cải trang làm lái buôn, coi thường những sự
đe dọa của pháp luật Thụy Điển, y đã qua biên giới và tới thăm các lâu đài của
phon Benkenborf, Von Xieve và Von Palen.
Các hiệp sĩ đọc thư y òa lên khóc, nhớ tới uy quyền cũ của đẳng cấp mình; họ
kêu ca về thuế lúa mì và những người theo đạo luật giảm trừ đã mất một phần đất
đai, đều thề sẽ không tiếc gì tính mạng. Nhưng rốt cuộc khi quân đội xứ Xăc
tràn vào Livoni đem theo những lời hiệu triệu của vua Auguste kêu gọi các hiệp
sĩ lật đổ nền đô hộ Thụy Điển thì không một người nào dám lên ngựa, và tệ hơn
nữa, nhiều người đã đi theo đám thị vệ để củng cố và bảo vệ thành Riga chống
lại đội quân đánh thuê của nhà vua đang lăm le cướp bóc thành phố.
Patkun đem những tin buồn đó về Mito. Nhà
vua ngừng bữa ăn, vớ cây giá nến đặt trên bàn, và nắm lấy tay Patkun lôi y vào
phòng ngủ:
- Chính ông đã đẩy ta vào cuộc chiến tranh
này, chính ông? Ta đã rút gươm ra, tin vào những lời hứa hẹn, thề bồi của ông.
Thế mà ông dám tuyên bố là các hiệp sĩ Livoni, cái bọn say rượu chuyên ăn xúc
xích chay ấy, còn do dự.
Vua Auguste, cao lớn và lộng lẫy, mặc quân
phục trắng, hai tay nắm chặt, tiến lại phía Patkun: nhà vua giận dữ vung cánh
tay áo viền đăng-ten và trong cơn tức giận thét lên những lời thật là thừa.
- Thế đạo quân hỗ trợ của Đan Mạch đâu? Ông
đã hứa với ta là sẽ có đội quân đó. Thế năm mươi trung đoàn của Sa hoàng Piotr
đâu? Hai mươi vạn đồng duca của ông
đâu? Quân Ba Lan đang đợi số tiền ấy đấy! Quân Ba Lan đang đợi ta chiến thắng
để rút gươm ra hoặc đợi ta thất bại để mở đầu một cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn chưa từng thấy.
Nhà vua sùi bọt mép trên đôi môi dày rõ
nét, khuôn mặt đỏm đáng run rẩy... Patkun nhìn ra chỗ khác; cố nén cơn giận
đang sôi sục lên tận cổ, y trả lời:
- Tâu bệ hạ, các hiệp sĩ muốn được đảm bảo
là sau khi lật đổ nền đô hộ Thụy Điển, họ sẽ không bị bọn man rợ xứ Moskovi xâm
lược. Thần nghĩ đó chính là điều khiến họ do dự!
- Nói bậy! Lo hão... Sa hoàng Piotr đã thề
trước thánh giá là sẽ không đi quá Hamburg. Người Nga chỉ cần miền Ingri và
miền Careli. Ngay cả Narva họ cũng sẽ không đụng đến.
- Tâu bệ hạ, thần e có một sự phản trắc.
Thần biết là có gián điệp từ Moskva tới Narva và Revan hoạt dộng, ngoài mặt nói
là đến mua hàng; chúng được lệnh vẽ lại sơ đồ các pháo đài ấy.
Vua Auguste lùi lại. Bàn tay có móng tay nhuộm
đỏ nắm lấy đốc kiếm; nhà vua kiêu kỳ vênh cái cằm tròn trĩnh:
- Ông Von Patkun: ta lấy lời bậc vương giả
mà hứa với ông là cả Narva lẫn Revan, và cố nhiên cả Riga nữa, sẽ không thấy
bóng người Nga. Dù thế nào đi chăng nữa, nhất định ta sẽ giật những thành phố
đó ra khỏi nanh vuốt của Sa hoàng Piotr.
Nhà vua hết sức buồn chán tại Mito trong
lâu đài của quận công địa phương. Sự có mặt của nhà vua bên cạnh quân đội cũng
không thúc đẩy được tình hình. Họ chỉ chiếm được pháo đài Kobersanz nhỏ bé, đã
bắn phá Riga hai lần nhưng không có kết quả. Đám hiệp sĩ Livoni vẫn do dự chưa
lên ngựa. Bọn lãnh chúa Ba Lan được báo tin, vẫn đợi chờ; rõ ràng họ dự định
tới kỳ hội nghị sau sẽ chất vấn nhà vua vì mục đích gì đã lôi kéo nước Ba Lan
vào cuộc chiến tranh nguy hiểm này.
Thời tiết tại Mito rất xấu. Tiền thì thiếu.
Bọn lãnh chúa ở Kurlan thì thô lỗ; phụ nữ ở đây trông giống những con bò chửa
hơn là thuộc phái đẹp. Fridric Winhem, vị quận công trẻ tuổi xứ Kurlan, hay
rượu chè và kiêu căng, đến đâu gây buồn chán đến đấy, không ai chịu nổi.
Nếu không có sự sốt sắng của Atalia Demon,
bạn tình mới của vua Auguste đã rời bỏ Warsawa vui tươi để đi theo nhà vua thì
với tính tình nồng nàn của mình, vua Auguste đã sầu muộn ủ rũ rồi.
Atalia Demon tổ chức các cuộc khiêu vũ và săn
bắn, cho gọi các diễn viên Ý từ Warsawa đến, vung tiền không tiếc tay đến nỗi
bản thân vua Auguste khi ra lệnh cho vị thượng thư của triều đình lấy cho nữ bá
tước từng nấy đồng tiền vàng, đôi khi cũng phải thở hắt ra.
Khí hậu giá lạnh ở đây làm các diễn viên Ý
hắt hơi và ho. Tại những buổi vũ hội sang trọng, đám quý tộc địa phương vốn
không hề biết những thú vui lọc lõi, chỉ tròn xoe mắt trước sự sa hoa này: họ
nhẩm tính tất cả những cái đó tốn kém cho nhà vua bao nhiêu.
Một hôm, trong bữa ăn trưa, nhà vua ngồi ăn
một mình như thường lệ, trước chiếc bàn nhỏ, lưng quay về phía lửa trong lò
sưởi. Các vị phu nhân thì ngồi theo hình cánh cung trước mặt nhà vua trên những
chiếc ghế nhỏ thếp vàng. Nhà vua đội một bộ tóc giả ngắn, lịch sự mặc áo mỏng
thêu hoa; những đường viền đăng-ten của chiếc sơ-mi bằng thứ vải mịn rủ xuống
tận bụng dưới. Quan bồi tửu, một ông già mặt như da trống, với bộ ria nhuộm,
rót rượu đã hâm nóng. Ngày hôm đó sáu bà nam tước địa phương, má đỏ chót, tham
dự buổi chiêu đãi; sáu vị nam tước to béo, dáng điệu cứng nhắc đứng sau những
bộ tóc giả của vợ rắc bột mì lấm tấm. Hai chỗ ngồi bỏ trống.
Vua Auguste nhai paté thỏ thỉnh thoảng lại
đưa mắt buồn bã nhìn các vị phu nhân. Củi nổ lép bép. Các vị nam tước và vợ
không dám nhúc nhích, rõ ràng là sợ phát ra những tiếng động thô lỗ, như khịt
mũi chẳng hạn: Sự im lặng đã kéo quá dài. Vua Auguste chống khuỷu tay lên bàn,
chùi môi và buông chiếc khăn ăn xuống.
- Thưa các vị, quả nhân không ngại nhắc đi
nhắc lại mãi rằng quả nhân hết sức hài lòng được là khách của thành phố mỹ lệ
của các vị. - Nhà vua khẽ hất tay để nhấn mạnh thêm những lời nói đó - Cần phải
nêu gương những đức tính cao quý của giới quý tộc Kurlan là những người biết
kết hợp khéo léo nếp suy nghĩ cao thượng với tinh thần thực tế rất lành mạnh.
Các vị nam tước trang nghiêm cúi các bộ tóc
giả làm bằng sợi gai; các bà nam tước, không hiểu rõ tiếng Pháp, sau một phút
do dự, nhấc bộ mông phì nộn lên và kính cẩn cúi chào.
- Than ôi, thưa các vị, ở thời đại thực tế
chúng ta đang sống đây, ngay các bậc vua chúa thường lo lắng bảo đảm hạnh phúc
tối đa cho thần dân của mình, đôi khi cũng buộc phải hạ mình xuống đất. Tiếc
thay, không phải ai cũng hiểu chân lý đó. - Nhà vua thở dài và trợn mắt - Sự
phung phí ngông cuồng và hão huyền của một vị quý tộc kiêu ngạo, vung vãi hàng
nắm vàng cho những bữa tiệc và những cuộc săn bắn, để nuôi bọn say rượu và bọn
lười biếng, trong khi đó thì vua của họ, như một người lính thường, tay cầm
gươm, xung phong tiến đánh một pháo đài địch. Thử hỏi sự phung phí đó sẽ gây ra
kết quả gì, nếu không phải là một sự cay đắng ngậm ngùi.
Vua Auguste uống một ngụm rượu. Các vị nam
tước chăm chú lắng nghe.
- Không ai được phép chất vấn vua. Nhưng
chỉ nhìn vào mắt của thần dân, bậc vương giả cũng hiểu thấu được những nỗi lo
âu xáo động tâm hồn họ. Thưa các vị, quả nhân đã độc lực mở cuộc chiến tranh này
với một vạn quân của đội vệ binh. Thưa các vị, quả nhân đã mở cuộc chiến tranh
này vì một nguyên lý vĩ đại. Những cuộc nội chiến đã xâu xé đất nước Ba Lan.
Tuyển hầu xứ Brandeburg, con chó sói tham tàn ấy, đang gặm ruột gan ta. Quân Thụy
Điển làm bá chủ biển Baltic, vua Charles không còn là một đứa trẻ nữa, y rất
táo tợn. Nếu quả nhân không phải là người đầu tiên tiến vào Livoni thì ngày mai
quân Thụy Điển sẽ tới đây. Chúng sẽ đánh thuế lúa mì Kurlan gấp năm lần và mở
rộng luật giảm trừ tới đất đai của các vị.
Đôi mắt trong sáng của nhà vua mở to thêm.
Các vị nam tước bắt đầu thở mạnh, các vị phu nhân rụt cổ lại.
- Chúa đã trao cho quả nhân một sứ mạng:
thiết lập nền hòa bình và sự thịnh vượng trên một cường quốc lớn thống nhất, từ
sông Elb đến sông Dniepr, từ xứ Pomerani đến bờ biển Phần Lan. Sẽ có người được
ăn món súp nấu sẵn ấy. Bọn thương gia Thụy Điển, bọn thương gia ở Brandeburg và
Amsterdam đang thò thìa ra định múc súp. Quả nhân là một nhà quý tộc thưa các
vị. Quả nhân muốn chính các vị sẽ là người yên ổn ăn món súp đó... - Nhà vua
ngước mắt nhìn lên trần, như để lường xem phải tự hạ mình xuống bao nhiêu. -
Hôm qua, quả nhân đã cho treo cổ hai tên kỵ binh, chúng ăn cướp nhiều trại ấp
trong lãnh địa của nam tước Ixkun... Nhưng thưa các vị... Quân lính của quả
nhân đổ máu chỉ cần có vinh quang đền bù lại. Nhưng ngựa thì cần có thóc, có
cỏ, chứ gì nữa! Quả nhân buộc phải kêu gọi sự sáng suốt của những người vì họ
mà quân đội của quả nhân đang đổ máu.
Các vị nam tước đỏ bừng mặt, bây giờ họ đã
hiểu ý nhà vua muốn gì. Sự im lặng của họ làm vua Auguste càng bực bội thêm.
Bài diễn thuyết của nhà vua bắt đầu pha trộn những lời lẽ tục tĩu của bọn lính
tráng.
Atalia Demon bước vào. Đôi mắt lim dim của
nàng làm gương mặt mịn đượm một vẻ say đắm. Với một vẻ ung dung lịch sự, nàng
cúi chào nhà vua, phe phẩy chiếc quạt xà cừ. (Các bà nam tước liếc nhìn cái vật
mới lạ này của Paris) và vừa chào vừa nói:
- Tâu bệ hạ, cho phép thần thiếp được hân
hạnh trình diện với bệ hạ thần Vệ nữ của Moskva.
Quét lê trên sàn cái đuôi váy dài lê thê,
nàng đi ra cửa và cầm tay Alekxandra Ivanovna đưa vào: quả thật là trong tất cả
những trò nàng đã nghĩ ra để nhà vua tiêu khiển, cái trò mới mẻ này có lẽ là ý
nhị nhất.
Atalia, người đầu tiên được tin vợ chồng
Volkov đến đây đã tới gặp họ tại quán trọ; nhận thấy những ưu điểm của
Alekxandra, Atalia đã đưa nàng về lâu đài của mình; sau khi xem xét quần áo tư
trang của Alekxandra, Atalia cấm nàng nhất thiết không được dùng một thứ gì của
Moskva:
- Cô bạn của tôi ơi, đây là quần áo của dân
Eskimo(2)! (Và đấy là những bộ quần áo đẹp nhất của Alekxandra, mua một trăm duca một chiếc). Lại còn những bộ tóc
giả này nữa! Thế kỷ trước người ta mới đội! Sau buổi hội nữ thần tại Vecxay(3),
không ai đội tóc giả nữa, cô em ạ!
Atalia ra lệnh cho người hầu gái của mình
vứt tất cả những bộ tóc giả đó vào lò sưởi đang cháy. Xanka rất e sợ, chớp chớp
mắt và bảo gì cũng gật. Atalia mở những hòm quần áo của mình, mặc cho
Alekxandra như một vị “phu nhân sang trọng trong bộ áo dạ hội”.
Vua Auguste ngây người nhìn nàng Vệ nữ
Moskva - mái tóc màu vàng nho uốn thành hai làn sóng trên cái đầu nghiêng
nghiêng, một búp buông lơi xuống ngực để hở rất thấp, vài bông hoa cài ở tóc và
trên áo, kiểu áo rất giản dị, không chít nếp ở ngang hông, trông tựa một chiếc
áo Hy Lạp, và khoác trên vai là một chiếc áo choàng bằng gấm vàng đuôi dài kéo
lê trên thảm.
Vua Auguste đỡ lấy đầu ngón tay của Xanka,
cúi xuống hôn. Nàng chỉ thoáng trông thấy khuôn mặt đỏ bừng bừng của các bà nam
tước. Cái giờ phút xiết bao mong đợi đã tới rồi đây. Nhà vua không khác gì một
nhà vua trong truyện thần tiên, trông như vừa bước từ một bộ bài lá ra: cao
lớn, lịch sự, niềm nở, môi đỏ, lông mày cao, đen như lông hắc điêu thử.
Xanka ngây ngất nhìn cặp mắt sáng long
lanh. bình tĩnh của nhà vua. Nàng nghĩ thầm: “Ta nguy mất rồi”.
Vaxili chờ đợi hoài ở quán trọ đã gần một
tuần. Người ta đã đưa Xanka đi, còn hắn thì họ đã quên khuấy mất. Hắn tới lâu
đài hỏi dò tin tức; viên sĩ quan trợ tá của nhà vua lần nào cũng vồn vã quả
quyết rằng thế nào ngày hôm sau nhà vua cũng sẽ tiếp hắn. Buồn chán, Vaxili
lang thang suốt ngày trong thành phố qua những đường ngõ quanh co khúc khuỷu.
Nhà cửa ở đây nhỏ hẹp, tối tăm, mái trổ nhiều cửa sổ tròn, cổng bằng sắt im lìm
như chết, họa hoằn mới thấy tít trên cao, trong khuôn cửa sổ nhỏ, một bộ mặt
lầm lì, đội mũ trùm đầu bằng vải bông, dán mũi vào kính. Ở các khu chợ, phần
lớn các cửa hiệu đều đóng cửa. Thỉnh thoảng những cỗ pháo do bốn con ngựa gầy
còm kéo, ầm ầm lăn trên đường phố lát đá tảng. Bọn kỵ binh, vẻ mặt ủ rũ, thu lu
trong áo choàng len để chống lại cơn gió buốt thấu xương. Chỉ có những kẻ ăn mày,
- những nông dân, đàn ông và đàn bà, mặt mày rầu rĩ, những trẻ em rách rưới, -
đi lang thang từng lũ trong thành phố; họ bỏ mũ và để đầu không ngước nhìn lên
các cửa sổ
Chiều tối, sau bữa ăn, Vaxili ngồi lại ở
bàn, một tay chống má, dưới ánh sáng một ngọn nến.
Hắn nghĩ đến vợ, đến Moskva, nghĩ đến cái
công việc gian truân của mình. Cứ theo những bài học của cha ông để lại - phải
ngoan ngoãn, sợ Chúa, kính trọng các bậc đàn anh, thì ngày nay chẳng đi đến
đâu. Muốn leo lên thì phải có sừng có mỏ.
Alekxandr Melsikov, cái tên trơ tráo, táo
tợn ấy - cách đây chưa bao lâu chẳng phải hắn mới chỉ là một tên lính hầu bình
thường đấy ư, thế mà nay đã là tổng trấn, hiệp sĩ; hắn chỉ đợi một thời cơ nào
đó để vượt hẳn tất cả mọi người khác.
Alioska Brovkin, chỉ vì mộ được người cho
quân đội, đã được phong là đại úy cận vệ binh:
hắn đã ngang nhiên túm bộ tóc giả của các tổng
trấn. Vaska Brovkin, tên mugic lỗ
mãng, xấu bụng và thô bạo ấy, bây giờ chỉ huy một chiếc tàu... Xanka, a, Xanka,
lạy Chúa, lạy Chúa! Giá phải một người chồng khác thì cô ta đã ăn roi lằn lưng
lên rồi.
Như vậy là còn phải hiểu biết một số điều
khác nữa. Ngày nay, những người im lặng giữ mồm giữ miệng không còn được coi
trọng ở trong triều. Dù muốn hay không cũng cứ phải leo lên. Hắn buồn bã nhìn
ngọn lửa nhỏ của cây nến... Hắn ước ao nghe gió bão ầm ầm gào thét trên mái nhà
phủ tuyết... Cái lò với những con dế, rồi những ý nghĩ chậm rãi, dễ chịu. Hay
là bắt đầu đọc cuốn “Sử ký” của Pufendorf. Buôn bán như Alekxandr Melsikov hay
như Safirov? Khó quá, có ai dạy mình đâu? Hãy mau mau nổ ra chiến tranh đi thôi...
Dòng họ Volkov vốn lành nhưng một khi họ đã lên ngựa, thì rồi xem bọn Vaska và
Alioska Brovkin có ở hàng đầu hay không?
Một buổi chiều tối, hắn đang nghĩ ngợi lan
man như vậy thì sĩ quan trợ tá của nhà vua tới quán ăn; với thái độ niềm nở,
lịch sự, hắn xin lỗi và đề nghị Volkov đến trình diện tức khắc tại lâu đài.
Vaxili, rất đỗi cảm động, vội vã mặc quần áo. Một chiếc xe ngựa đợi hai người.
Nhà vua tiếp Vaxili trong phòng ngủ, giơ
tay ra không để hắn quỳ gối rồi ôm hôn hắn, đặt hắn ngồi bên cạnh:
- Trẫm chẳng hiểu gì cả, ông bạn trẻ ạ. Chi
còn có cách xin lỗi về sự lộn xộn trong triều đình của trẫm. Mãi đến bữa ăn
trưa hôm nay trẫm mới được tin ông đến... Nữ bá tước Atalia là người đàn bà
đãng trí nhất trên đời, bà ta say mê quý phu nhân, đã lôi nàng rời khỏi tay
chồng và một tuần nay, giữ rịt lấy nàng để hưởng một mình mối tình thân đó!
Volkov chưa kịp đáp lại lời chào, định đứng
dậy nhưng vua Auguste đã đặt bàn tay lên vai hắn ấn xuống. Nhà vua nói oang
oang, vừa nói vừa cười. Nhưng rồi nhà vua không cười nữa:
- Ông đi Paris, trẫm biết thế. Ông bạn của
trẫm, trẫm muốn đề nghị với ông đưa những bức thư bí mật cho ông anh Piotr của
trẫm, Alekxandra Ivanovna sẽ đợi ông hoàn toàn yên ổn tại nhà nữ bá tước
Atalia. Ông biết những tin tức cuối cùng rồi chứ?
Tựa hồ như có ai vừa xua đuổi tiếng cườì
bay khỏi gương mặt nhà vua, những nếp nhăn xấu hiện lên trên khóe mép
- Tại Riga, tình hình không tốt, bọn hiệp
sĩ Livoni đã phản trẫm. Carlovit, viên tướng tài giỏi nhất của trẫm, đã hy sinh
như một người anh hùng, cách đây ba ngày
Nhà vua lấy bàn tay che mặt, mặc niệm một
phút để tưởng nhớ đến tướng Carlovit xấu số.
- Ngày mai, ta đi Warsawa, đến Nghị hội, để
ngăn chặn một sự xao xuyến khủng khiếp... Tại Warsawa; ta sẽ trao cho ông thư
và giấy tờ... Ông không nên tiếc sức hãy cố gắng chứng minh rằng sự can thiệp tức
thì của quân đội Nga là cần thiết
Nửa đêm, Atalia đánh thức người hầu phòng
gái của mình, thắp nến, đốt lửa trong lò sưởi, khiêng ra một chiếc bàn tròn
chất đầy hoa quả, paté, thịt thú và rượu. Atalia và Xanka từ trên chiếc giường
rộng bước xuống, mặt áo lót và mũ ngủ viền đăng ten, ngồi vào bàn ăn. Xanka
buồn ngủ vô kể - vì cớ gì thì cũng dễ hiểu - suốt ngày không được lấy một phút
nghỉ ngơi, người ta nói năng không đơn giản, không một lời nào mà lại không ngụ
ý ngầm, luôn luôn phải cảnh giác, nhưng sau khi dụi đôi mắt sưng húp, nàng mạnh
dạn uống rượu trong chiếc cốc lấp lánh ngũ sắc như bong bóng xà phòng và nhếch
miệng mỉm cười. Nàng ra nước ngoài không phải để ngủ mà để học những cung cách “lọc
lõi”. Những cung cách đó - như Atalia đã giảng giải cho nàng - thì ngay ở triều
đình các vua chúa chẳng phải ai cũng hiểu cả đâu; thậm chí ở Vecxay, vẫn còn
thấy nhiều thái độ thô lỗ và những hành vi bỉ ổi.
- Em hãy tưởng tượng mà xem, cô em yêu quý
của chị, vào những buổi chiều ẩm ướt, mà cũng không mở được các cửa sổ vì mùi
hôi thối từ các bụi cây xung quanh lâu đài và ngay ở các bao lơn xông lên nồng
nặc... Bọn triều thần ăn ở chật chội, bạ đâu ngủ đấy, trong sự nhớp nhúa, họ
tưới nước hoa vào người để át cái mùi hôi hám từ quần áo bẩn thỉu của họ xông
ra. A, chị em ta phải sang Ý mới được... Một giấc mơ kỳ diệu... Nơi đấy là tổ
quốc của tất cả cái gì lịch sự thanh tao... Ở đó sẽ được nếm đủ mùi; thơ ca, âm
nhạc, tình yêu say đắm, những thú vui tế nhị của tinh thần.
Atalia cầm con dao bạc nhỏ gọt táo. Chân nọ
vắt lên chân kia, mắt lim dim, nàng vừa đung đưa chiếc giầy vải nhỏ vừa nhấm
nháp rượu:
- Những con người lọc lõi mới là những ông
vua thực sự của cuộc đời... Em nghe người ta nói đây này: “Người nông dân tốt
thì theo sau cái cày của mình, người thợ thủ công chăm chỉ ngồi dệt ở khung cửi
của mình, người lái buôn dũng cảm dong buồm ra khơi dù có nguy nan đến tính
mệnh”. Họ làm như vậy để làm gì? Thần thánh chẳng chết cả rồi sao? Không, giữa
những áng mây hồng, chị thấy những vị thần khác trên Olimp.
Xanka ngồi nghe không khác một con thỏ bị
thôi miên. Những nếp nhăn nhỏ in trên trán Atalia. Nàng đưa cốc không cho
Xanka, bảo: “Rót cho chị”, rồi tiếp tục:
- Em ạ, thực chị cũng chẳng hiểu tại sao em
lại e ngại không dám nhận mối tình của vua Auguste, hoàng thượng đau khổ đấy...
Đức hạnh chỉ là biểu hiện của sự thiếu thông minh. Người phụ nữ lấy đức hạnh để
che đậy sự xấu xa về tinh thần của mình, chẳng khác gì nữ hoàng Tây Ban Nha
giấu đôi vú nhẽo dưới tấm áo cổ cao kín ngực. Nhưng em thì em thông minh, tài
trí... Em yêu chồng em. Chẳng ai cấm đoán em thổ lộ mối tình tha thiết của em
với chồng, nhưng em nên làm chỗ kín đáo. Đừng tỏ ra lố lăng, cô bạn của tôi ạ.
Gã trưởng giả dạo chơi với vợ ngàỷ chủ nhật, ôm ngang lưng vợ dưới thắt lưng,
để chẳng ai dám chiếm đoạt vật quý đó của hắn... Nhưng chúng ta là những phụ nữ
lịch sự tinh tế, và điều đó ràng buộc ta.
Sau diềm đãng-ten của chiếc mũ ngủ, người
ta không trông thấy khuôn mặt cúi xuống của Xanka. Nàng phải làm gì bây giờ?
Nàng có thể khiêu vũ liền hai mươi bốn giờ đồng hồ, không hề ngồi nghỉ, nàng có
thể đóng tất cả các vai nữ thần Hy Lạp, đọc một cuốn sách trong đêm, học thuộc
lòng những câu thơ. Nhưng có những điều nàng không thể vượt qua được: nàng sẽ
bị đau khổ giầy vò, nàng sẽ chết vì hổ thẹn nếu Atalia dỗ dành được nàng siêu
lòng chiều ý nhà vua theo kiểu các bà... “Tất cả những cái đó tất nhiên rồi sẽ
đến, nhưng không phải bây giờ” - Làm thế nào để giải thích được điều đó? Chẳng
lẽ nàng lại đi thú thật rằng mình không sinh ra ở miền núi Parnax(4), mà xưa kia
đi chăn bò, rằng nàng sẵn sàng hy sinh đức hạnh của mình nhưng trong lòng nàng
còn có cái gì đó mà nàng chưa dứt được, tựa như đôi mắt ghê rợn của bà mẹ vẫn
đang chăm chú gìn giữ một cái gì đó quý báu vô cùng, trụ cột của tất cả.
Atalia không nài thêm chỉ véo má Xanka rồi
nói sang chuyện khác.
- Ước mơ của chị là được gặp Sa hoàng
Piotr. Chà, lúc đó chị sẽ kính cẩn hôn cái bàn tay biết cầm búa và cầm gươm. Sa
hoàng Piotr làm chị nhớ đến Hecquyn và mười hai kỳ công của ông ta, - đánh chết
mãng xà vương, dọn sạch chuồng ngựa Ogiax, ghé vai đỡ bổng quả địa cầu... Trong
có vài năm, Sa hoàng Piotr đã xây dựng được một hạm đội hùng mạnh và một đội
quân bách chiến bách thắng, đó chẳng phải là câu chuyện thần thoại đó sao, hở
em? Chị muốn biết tên tất cả các tướng soái. Đức hoàng thượng của em quả là đối
thủ xứng đáng của Charles, châu Âu chờ đợi cái giờ phút cuối cùng con phượng
hoàng Moskva sẽ cắm vuốt vào bờm con sư tử Thuỵ Điển. Em phải làm thỏa mãn cho
được tính tò mò của chị đấy?
Lần nào Atalia cũng xoay sang chuyện
Moskva. Xanka biết sao trả lời vậy. Nàng không hiểu tại sao giọng nói của cô
bạn làm ra mơn trớn, lại trở nên khó nghe như vậy? Sau đấy, nằm trong giường,
kéo chăn lên tới mũi, nàng cứ trằn trọc mãi không ngủ được, tâm trí bối rối vì
những câu chuyện đêm hôm. Chà, cái lối sống “lịch sự tinh tế” này quả thực
không phải là dễ!
-------------
Chú thích:
(1)
Thần ái tình.
(2)
Dân tộc thiểu số ở Bắc cực.
(3)
Cung điện vua Pháp
(4)
Theo thần thoại Hy Lạp nơi ở của các nữ thần thơ ca.
Chương 125
“...
Và rốt
cuộc, tất cả cái liên minh ấy chỉ còn là một mảnh giấy chỉ có thể dọa nạt được
các ông thượng nghị viện đạo mạo, chứ không thể lay chuyển được lòng dũng cảm
hăng hái của bệ hạ... Người Đan Mạch không dám vi phạm hòa bình, xin bệ hạ hãy
tin ở sự minh mẫn của thiếp. Sa hoàng Piotr bị trói buộc vào những cuộc thương
lượng hòa bình, chừng nào người Thổ Nhĩ Kỳ chưa nới tay cho hắn thì hắn chưa
dám gây chiến. Nhưng điều đó sẽ không thể xảy ra được. Ukrainsev đã phân phối
hết tất cả những bộ lông hắc điêu của hắn cho các quan đại thần Thổ Nhĩ Kỳ, hắn
không còn gì mà nói nữa. Sa hoàng Piotr hạ thủy hạm đội Voronez mới thành lập
của hắn có ý muốn dọa nạt người Thổ Nhĩ Kỳ - nhưng làm như vậy hắn khiến người
Hà Lan và người Anh phải để ý. Sứ thần của họ ở Constantinop thậm chí không
muốn nghe nói đến chuyện tàu chiến Nga vào Hắc Hải. Người kiên quyết nhất là
viên sứ thần Ba Lan Lekxinski, kẻ thù không đội trời chung của vua Auguste.
Nhân danh giới quý tộc Ba Lan, hắn đã vật nài hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ “giúp người
Ba Lan đoạt lấy xứ Ukraina với Kiev và Poltava của người Nga...”. Đây là những
tin tức mới nhất hay những chuyện thóc mách mới nhất nếu hoàng thượng muốn gọi
là như vậy. Warsawa đầy rẫy những chuyện loại đó. Vua Auguste và thần thiếp đã
chi những món tiền lớn vào những buổi vũ hội và những trò vui chơi. Than ôi,
lòng dân đối với nhà vua vẫn tiếp tục giảm sút. Ông ta nổi giận và đã tự đặt
mình vào một cảnh ngộ lố lăng, đi ve vãn một con bé người Nga khờ dại. Như vậy
là cơn gió thuận của lịch sử đang thổi căng những cánh buồm của bệ hạ và reo
hát trong dây, cột, ca ngợi bước vinh quang sắp tới của bệ hạ. Phải khởi sự bây
giờ hoặc không bao giờ nữa.
Thần
thiếp Atalia một lòng một dạ vì bệ hạ”.
Vua Charles nhận được bức thư này trong khu
rừng Kungxo. Nhà vua đọc thư, lưng tựa vào một thân cây. Tiếng thông reo vi vu,
những áng mây nặng trĩu cuồn cuộn bay trên bầu trời tháng ba. Bên dưới, dưới
vực sâu mù sương, đàn chó săn sủa vang; nghe tiếng sủa gấp của chúng rõ ràng là
chúng đang rượt theo một con thú lớn. Một viên quan hộ lạp đã già, lấy chân lèn
tuyết giữa những tảng đá, tụt xuống vài bước và quay lại, chờ đợi. Nhà vua đọc
đi đọc lại bức thư. Người liên lạc đưa thư đến, cầm cương giữ ngựa, con ngựa
liếc con mắt tím nhạt về phía có tiếng chó sủa vọng tới. Bỗng một con nai xuất
hiện, từ dưới vực chạy ra, dũng mãnh nhảy những bước dài leo lên dốc. Vua
Charles không giơ súng lên. Con nai ngửa cặp gạc nhiều nhánh ra đằng sau, lao
qua những thân cây như một mũi tên. Một tiếng nổ đoàng cách đấy khoảng năm mươi
bước, chỗ viên sứ thần Pháp đứng nấp. Vua Charles không quay lại, bức thư phần
phật bay trong bàn tay lạnh đỏ. Viên quan hộ lạp, thụt cái cằm nhăn nheo vào
trong cổ áo da, trở về chỗ đứng sau gã thanh niên đầu nhỏ, mặt choắt, mảnh
khảnh như một cây sào, mặc áo da hươu, lưng dài ấy.
- Ai đưa cho nhà ngươi bức thư này? - vua
Charles hỏi.
Viên sĩ quan, không buông cương, tiến lại
một bước:
- Tâu hoàng thượng, bá tước Pipe và ngài có
ra lệnh cho thần tâu miệng lên hoàng thượng rõ những tin tức hết sức quan trọng
mà Thượng nghị viện chưa biết.
Mặt viên sĩ quan béo phị và hồng hào, cặp
mắt xám, xấc xược, dò hỏi. Vua Charles quay đi.
Bọn quý tộc này đều một giuộc; họ nhìn nhà
vua chằm chằm, chờ đợi; cả đội vệ binh đều như một bầy chó săn đói khát.
- Ông ta ra lệnh cho nhà ngươi tâu lên
những gì?
- Quân Đan Mạch, mười lăm hoặc hai mươi
tiểu đoàn, đã vượt qua biên giới Honxten.
Vua Charles thong thả vò nhàu bức thư của
Atalia. Tiếng chó sủa lại tới gần. Từ một hẻm rừng, tiếng gầm gừ của một con
gấu vọng tới. Vua Charles cầm khẩu súng dựng ở gốc cây giơ lên và nói qua vai,
ra lệnh cho viên sĩ quan:
- Nhà ngươi hãy thay ngựa và trở về
Stockholm. Nói với bá tước Pipe là ta vui chơi ở đây rất thích chưa bao giờ
bằng. Ta đã dò ra được dấu ba con gấu to... Ta mời bá tước Pipe, tướng Renxkjon,
tướng Lovenhop, tướng Slipenbac đến đây đi săn. Đi đi và nhanh lên.
Trên khuôn mặt nước da lúc nào cũng tái mét
xuất hiện những chấm đỏ. Ngón tay run run, vua Charles lên cò súng. Nhà vua quả
quyết bước về phía dốc thẳng đứng, đôi ủng đóng giá bì bõm trong bùn. Con mắt
nhạo báng của viên sĩ quan nhìn theo cái lưng lom khom như lưng trẻ nhỏ, cái cổ
vươn dài vì tự ái của nhà vua. Hắn nhảy lên yên, cho ngựa chạy chồm chồm trên
tuyết dày và biến vào trong rừng.
Đoàn người đi săn đã giết và đánh lưới bắt
sống mười bốn con gấu. Nghe tiếng gầm thét tuyệt vọng của những con gấu con mắc
bẫy, vua Charles thích thú như một đứa trẻ; người ta trói chặt những con vật
lại bằng dây da sống để gửi về Stockholm.
Pipe, Renxkjon, Lovenhop và Slipenbac tới
ngày hôm đó vào lúc tảng sáng. Họ mặc áo da và đội mũ có cài một chiếc lông gà
rừng, mỗi người đã giết một con thú bằng gậy nhọn. Sứ thần Pháp Gisca đã tự tay
hạ được một con vật rất lớn cao bảy bộ
(1). Đoàn người đi săn mệt mỏi trở về tòa lâu đài làm bằng gỗ để cả cây, sừng
sững bên một ngọn thác, nước ầm ầm đồ xuống băng đá, dưới đáy vực. Trong phòng
ăn, cành thông cháy bùng bùng trong lò sưởi tỏa hơi nóng sực. Trên tường có
treo các đầu hươu gắn mắt thủy tinh lóng lánh. Gisca, béo lùn, nốc đẫy rượu
vang đỏ khua đôi cánh tay ngắn, xoăn xoăn bộ ria; ông ta say sưa kể lại con thú
dữ từ trong hang chồm ra, làm tuyết bay ào ào như bão, sắp sửa ăn thịt ông ta
như thế nào:
- Tôi đã ngừi thấy trên mặt tôi hơi thở hôi
thối của nó! Nhưng tôi đã nhanh nhẹn lùi lại giương súng ngắm. Trượt rồi! Trong
phút chốc, tất cả cuộc đời tôi hiện ra trước mắt... Tôi vớ lấy khẩu súng dự bị...
Đám người Thụy Điển vốn ít lời, ngồi nghe,
uống rượu và mỉm cười. Trong bữa ăn tối, đến một ngụm bia vua Charles cũng
không uống. Sau khi khó khăn lắm mới dìu được sứ thần Pháp vào phòng ngủ, vua
Charles ra lệnh đặt một lính gác ở cửa và ngồi xuống bên cạnh lửa. Pipe và các
tướng tiến lại gần ghế nhà vua.
- Ta muốn biết ý kiến của các vị? - Nhà vua
nói, môi mím chặt. Cái mũi con nít của nhà vua, sạm nắng gió, đỏ rực dưới ánh
lửa.
Các tướng lĩnh cúi đầu. Vấn đề nào cũng thế
và nhất là vấn đề nầy, cần phải suy nghĩ cho kỹ. Pipe chậm rãi xoa xoa cái cằm
vuông cạnh.
- Thượng nghị viện sợ, không muốn có chiến
tranh. Trước khi chúng thần đi, nghị viện đã họp một phiên đặc biệt. Tin đồn
vua Ba Lan đột nhập Livoni, và nhất là việc quân Đan Mạch khởi chiến đã làm
Stockholm xúc động. Bọn chủ tàu, bọn khai thác lâm nghiệp, bọn lái buôn lúa mì
đã cứ một đoàn đại biểu đến nghị viện. Người ta đã lắng tai nghe chúng, và trong
số các ông nghị, không một ai lên tiếng tán thành chiến tranh. Họ đã quyết định
cử sứ thần đến Warsawa và Copenhagen để ký kết hòa ước với bất cứ giá nào.
- Thế còn ý kiến của vua họ về vấn đề này?
- vua Charles hỏi. - Hình như Thượng nghị viện cho rằng lòng tự ái của hoàng
thượng đã được thỏa mãn trong cuộc săn gấu rồi. Tốt lắm. - Vua Charles, tựa một
con mèo rừng, quay ngoắt bộ mặt choắc về phía Renxkjon. Vị tướng nầy hít mạnh
không khí qua hai lỗ mũi to tướng của cái mũi huếch. Mắt tròn xoe và trong
sáng, ông ta thật thà nhìn nhà vua và nói rành rọt:
- Thần có ý kiến là trong quân đội có nhiều
thanh niên quý tộc sống ở Thụy Điển cảm thấy chật chội. Sẽ có nhiều người sẵn
sàng đi đoạt lấy vinh quang ở đầu mũi kiếm. Nếu hoàng thượng đưa chúng thần đến
tận cùng trời cuối đất, chúng thần sẽ đi đến cùng trời cuối đất. Đối với người
Thụy Điển, đây không phải là lần đầu.
Miệng ông ta rất thẳng, cười hiền hậu. Các
tướng lĩnh gật đầu, tỏ ý tán thành: “Đây không phải là lần đầu người Thụy Điển
rời bỏ núi non quê hương để đi tìm vàng và vinh quang ở những nơi xa lạ”. Khi
mọi người đã ngừng gật gù, Pipe lên tiếng:
- Thượng nghị viện sẽ không bỏ ra một xu
cho chiến tranh. Ngân khố của nhà vua thì rỗng. Cần phải nghiên cứu vấn đề này.
Các tướng lĩnh nín lặng. Vua Charles cắn
môi. Đế đôi ủng lớn của nhà vua, đặt trên chấn song lò sưởi, bốc khói.
- Ta chỉ cần tiền cho những ngày đầu thôi,
để đưa quân lên tàu và chở họ đến Đan Mạch. Sứ thần Pháp sẽ giúp ta số tiền đó.
Hắn sẽ phải giúp ta vì nếu không ta sẽ hỏi người Anh... Còn các cuộc hành binh
về sau, thì chính vua Đan Mạch sẽ phải trang trải. Hắn nhất định sẽ phải trả.
Các tướng lĩnh tiến lại sát ghế nhà vua
ngồi và tán thành: “Đúng thế, đúng thế”. Pipe nhăn nhăn trán: một lần nữa, đứa
con nít này lại làm ông ngạc nhiên.
- Cho dù chúng ta không khởi sự cuộc chiến
tranh này thì các cường quốc cũng sẽ ép buộc ta phải gây chiến. - vua Charles
nói. - Ta hãy làm hơn thế: tấn công trước... Gã Auguste hào hoa mơ tưởng một đế
quốc rộng lớn. Hắn không có nhiều tiền hơn ta, hắn ngửa tay xin tiền Sa hoàng
Piotr để rượu chè với gái. Kể ra Auguste chỉ có thể trở thành một tay leo dây
múa rối giỏi mà thôi. Sa hoàng xứ Moskovi lại càng làm ta ít lo ngại: chưa dạy
cho đạo quân mugic của hắn biết bắn
súng thì hắn đã mất hết bạn đồng minh rồi... Thưa các vị, ta muốn trình bày với
các vị kế hoạch của ta...
Buổi tối hôm đó, cúi xuống tấm bản đồ vua
Charles mở ra trên đầu gối, ba vị tướng bố trí các đạo quân:
- Welling, thống đốc Narva sẽ đảm đương
việc chỉ huy các đạo quân Thụy Điển ở Estonia và Livoni và sẽ đến tiếp viện cho
Riga; Lovenhop và Slipenbac lấy cớ là tập trận, sẽ tập trung đội vệ binh và
quân đội ở Lanxkrona, quân cảng ở miền Xunde; Pipe sẽ làm mọi việc cần thiết ở
Stockholm để đánh lạc sự chú ý của Thượng nghị viện về những công cuộc chuẩn bị
đó.
Người ta cho thêm một ôm rễ thông vào lò
sưởi, bãi bỏ lính gác ở ngoài cửa và dọn bữa ăn tối. Ông Gisca sau khi đánh một
giấc ngủ ngon, xoa xoa tay bước vào phòng ăn. Vua Charles mời ông ta ngồi bên
cạnh lửa, và vừa húng hắng ho vừa nói, tựa hồ những câu nói nghẹn lại trong
họng.
- Ông bạn thân mến, ngài có thể tin chắc về
tình cảm nồng nhiệt và trung thành của ta đối với người anh em của ta và là
hoàng thượng của ngài...
Gisca lập tức sinh nghi, xoa xoa hai lòng
bàn tay với nhau chậm lại.
- Thụy Điển sẽ mãi mãi là người bảo vệ
trung thành cho quyền lợi của Pháp tại các biển phía Bắc. Trong cuộc tranh chấp
ngai vàng Tây Ban Nha, ta sẵn sàng đem lưỡi gươm của ta ủng hộ vua Louis. -
Gisca dang đôi cánh tay ngắn cũn, cúi rạp đầu chào. - Nhưng ta cũng không muốn
giấu ngài là người Anh đang dùng đủ mọi cách để tranh thủ Thụy Điển đứng về phe
họ... Ở Thụy Điển, ngoài nhà vua ra còn có một Thượng nghị viện mà ta thì không
biết được ý nghĩ của các ông nghị... Hỡi ôi, thế giới hiện nay đầy rẫy mâu thuẫn...
Hôm nay ta được biết hạm đội Anh đã xuất hiện ở eo biển Xunde... Để tránh một
sự sai lầm tai hại, ngài Gisca, ngài cần phải tỏ rõ mối tình thân hữu của ngài
bằng những bằng chứng vật chất.
Một chiếc xe chở những con gấu con đang gầm
gừ, đi qua các phố Stockholm. Vua Charles, đoàn người đi săn và các quan hộ lạp
cưỡi ngựa theo sau. Kèn đồng thổii vang, bầy chó săn sủa ầm ỹ. Dân chúng chạy
ra cửa sổ lắc đầu: “Nhà vua vui chơi thật chẳng đúng lúc tý nào”.
Những tin đồn hốt hoảng làm xôn xao cả
thành phố, bao năm ròng đã quen với cuộc sống thanh bình.
Hạm đội Anh và Hà Lan đã xuất hiện ở vùng
biển Xunde. Để làm gì? Có lẽ để hội quân với Đan Mạch và đánh đổ uy thế của Thụy
Điển trên các biển miền Bắc chăng?
Đất nước Ba Lan mênh mông hăm dọa quét sạch
các đồn trại Thụy Điển khỏi miền duyên hải Baltic.
Ở phía Đông, biên giới tiếp giáp với xứ
Moskovi, dài hàng ngàn cây số, hầu như không được phòng thủ, nếu không kể pháo
đài Niensanz nhỏ bé ở cửa sông Neva và pháo đài Notebo ở ngay cửa hồ Ladoga.
Chỉ nghĩ đến cũng đã thấy kinh khủng: gây
chiến với toàn thể Đông Âu hoặc gần như thế, với một đạo quân nhỏ bé gồm hai
vạn người và một ông vua ngông cuồng.
Hòa bình, nhất thiết phải giữ lấy hòa bình;
nếu cần sẽ hy sinh một bộ phận để cứu vãn lấy cái chủ yếu.
Vua Charles đến thượng nghị viện trong bộ
quần áo đi săn; nhà vua lơ đãng một cách ngạo nghễ ngồi nghe những bài diễn văn
kẻ cả nói về khôn ngoan và đức hạnh trong vấn đề bàn tay phải của Chúa đang giơ
lên trên đất nước Thuỵ Điển trong giờ phút này. Tay nghịch cái chuôi kiếm nhỏ
bằng ngà, nhà vua trả lời là mình còn bận tổ chức hội giả trang mùa xuân tại
lâu đài Kungxo và chỉ sau ngày hội đó, mới tuyên bố về chính sách đối ngoại
được. Ông nghị cao niên nhất đứng lên, cúi rạp xuống chào và với những lời lẽ
hoa mỹ, chúc nhà vua vui chơi thỏa thích. Vua Charles nhún vai ra về.
Vài ngày sau, quả thật nhà vua lên đường đi
Kungxo. Ở đó, sau khi thay ngựa, có Renxkjon và mười sĩ quan cận vệ theo hầu,
nhà vua phi ngựa tới Lanxkrona. Trong cuộc hành trình hầu như liên tục này, nhà
vua không hề tiếc sức người sức ngựa, tựa hồ trong người vua Charles có một con
người khác - một ý nghĩ duy nhất đã choán hết mọi say mê và ý chí của nhà vua.
Vào một buổi sáng mùa xuân êm ả, đoàn tàu
chiến Thụy Điển chở một vạn rưỡi quân tinh nhuệ, chạy vào eo biển Xunde.
Đến buổi trưa, trên mặt nước rực rỡ ánh
sáng, xuất hiện hình thù đen ngòm của những tàu và thuyền chiến, trông như lơ
lửng ở chỗ tiếp giáp giữa mặt biển và bầu trời trong sáng. Hàng trăm lá cờ phần
phật trước gió. Đó là hạm đội Anh - Hà Lan đang lênh đênh trên mặt nước.
Khi lá cờ hoàng gia được kéo lên đỉnh cột
buồm của chiếc chiến thuyền Thụy Điển đi đầu thì những đám mây nhỏ, tròn từ mạn
tàu bốc lên và súng đại bác nổ ran. Gió cuốn lớp khói về phía Nam. Các đô đốc
Anh và Hà Lan, tua ngù vàng chóe ngồi xuồng tiến về phía chiếc kỳ hạm.
Vua Charles đứng trên cầu tàu đợi họ: nhà
vua mặc áo dạ chẽn màu xám xanh, cài khuy lên tận chiếc cà vạt đen, chân đi ủng
lớn có bôi mỡ, ống ủng loe rộng, thích ứng với mọi sự biến chuyển của thời vận.
Dưới chiếc mũ ba cánh, bộ tóc giả được tết lại và bím tóc nhét vào trong một
cái túi da. Nhà vua đứng chống tay lên thanh kiếm dài như chống chiếc gậy. Vua
Charles đã ra đi như vậy, để bắt đầu cuộc hành trình dài: đi chinh phục châu
Âu.
Các đô đốc trước đây đã nghe nói nhiều về
chàng trai trụy lạc này, đều kinh ngạc trước sự kiên quyết kỳ lạ và thái độ
thận trọng của nhà vua.
Vua Charles nhắc đến những sự xúc phạm quá
quắt của vua Ba Lan và vua Đan Mạch đối với mình và rộng lòng nhận sự giúp đỡ
của hạm đội Anh - Hà Lan nhằm trừng phạt sự phản bội của người Đan Mạch.
Ngay ngày hôm đó, ba hạm đội thống nhất
lại, cánh buồm rợp mặt biển, tiến thẳng về Copenhagen.
-------------
Chú thích:
(1)
Một bộ dài 0,324 mét.
Chương 126
Mưa đã tạnh, cuốn mây đi. Buổi tối ấm áp, tỏa mùi cỏ và khói. Xa xa,
trong xloboda Đức, gióng giả tiếng
chuông nhà thờ.
Vua Piotr ngồi trước cửa sổ kéo để mở, -
trong phòng chưa thắp nến - đọc nốt các đơn từ.
Gần cửa ra vào, cuối phòng ngủ, Nikita
Demidov, thợ rèn ở Tula, đứng im không nhúc nhích, cái đầu hói điểm một vệt
trắng trong phòng.
“Tâu
bệ hạ, thực ra dân không còn dễ bảo như trước, và chỉ lỏng lẻo một chút là
chúng nghĩ ngay rằng rồi ra đâu sẽ lại vào đấy như trước... - Bức thư do
viên quan thu thuế Aleksey Kurchatov viết. - Thương gia Matvei Suxtrov đã khai là hắn chỉ có vẻn vẹn hai ngàn rúp và
hắn đã hoàn toàn bị phá sản. Nhưng hạ thần biết rằng tại nhà hắn ở Zaryadie,
dưới sàn trong nhà xí - chỉ nghĩ đến chỗ đến đó cũng đã thấy xấu hổ rồi, -
Matvei đã chôn bốn mươi ngàn đồng rúp vàng thừa hưởng của ông hắn để lại. Còn
về tên Matvei thì hắn là một gã không có nghị lực; hắn chẳng tìm cách làm giàu
thêm mà chỉ phung phí tiền vào rượu chè. Nếu không ngăn chặn, hắn sẽ phá tán
hết cơ nghiệp. Tâu hoàng thượng, hãy ra lệnh cho hạ thần phái một viên môn lại
với hai chục lính đến nhà tên Matvei ở Zaryadie để moi số tiền đó lên...”.
Vua Piotr lắc mạnh đầu, đặt lá đơn xuống
bậu cửa sổ bên trái để thi hành. Đơn thỉnh cầu tiếp theo là của viên pháp quan
Miska Beklemisev, nét chữ run rẩy. Sa hoàng chỉ đọc thấy:
“...
kẻ hạ thần đã phụng sự tiên đế và vương huynh của hoàng thượng, đã qua nhiều
chức vụ và đã được bổ nhiệm làm pháp quan ở Bộ tư pháp. Cho tới nay kẻ hạ thần
vẫn giữ chức vụ pháp quan và là một pháp quan liêm khiết... Thái độ ngay thẳng
thật thà của hạ thần khiến hạ thần mang công mắc nợ và rơi vào cảnh túng thiếu
nghèo khổ. Tâu hoàng thượng hãy gia ân cho hạ thần, hãy tưởng lộ cho sự liêm
chính của hạ thần và bổ nhiệm hạ thần làm tổng trấn một địa phương dù là ở
Poltava cũng được”.
Vua Piotr ngáp và ném lá đơn vào đống giấy
bên phải. Ngoài ra còn có những tờ trình từ Belgorod và Xepsk gửi về, nói rằng
các viên chức đủ các cấp, các nông nô và nông dân đã từ chối phục vụ Sa hoàng,
cự tuyệt việc đóng tàu và đốn gỗ, bỏ trốn ở khắp nơi, ẩn náu vào các đồn lũy
Cô-dắc nhỏ ở miền sông Đông. Vua Piotr phê vào góc tờ trình:
“Triệu
các tống trấn Belgorod và Xepsk về và chất vấn kỹ càng”.
Lại còn có một đơn thỉnh cầu thảm thiết của
nông dân làm việc cho Nhà nước kiện viên tổng trấn Xukhotin ở Kungur:
“... ngoài mọi thứ thuế khác ra, viên này đã
thu của mỗi hộ tám lần ba kopeik bỏ túi; hắn đã niêm phong các nhà ở và nhà
tắm; làm thế nào bây giờ? Đang vụ rét dữ, nhiều phụ nữ đã phải vào chuồng bò
sinh nở, trẻ mới đẻ chết ngay, và tại đồn cảnh sát, viên tổng trấn túm vú phụ
nữ, bóp đầu vú họ đến tóe máu ra, và còn hành hạ đủ đường”.
Vua Piotr gãi gáy. Toàn thể cõi bờ rên
xiết. Truất một tên tổng trấn này thì tên tổng trấn mới lại còn thậm tệ hơn...
Tìm đâu ra người? Toàn những tên gian tham cả.
Vua Piotr viết, chiếc bút lông ngỗng gãi
giấy tóe mực:
“Phái
đến Kungur...”. Nhà vua quay về phía Demidov:
- Nikita, nếu ta bổ nhiệm ngươi làm tổng
trấn, người có ăn cắp không?
Không rời khỏi chỗ, Nikita Demidov thận
trọng thở dài:
- Tâu bệ hạ làm sao khác được. Làm chức vụ
ấy phải thế.
- Thế thiếu người sao?
Nikita nhún vai, vẻ muốn nói, lẽ dĩ nhiên, một mặt thì thiếu người.
- Người ta bẻ chân bẻ tay chúng trên cột
điếu hình... - vua Piotr nói... Người ta cho chúng ăn lương hậu... Chúng vẫn cứ
ăn cắp... - Nhà vua chấm bút vào lọ mực rồi viết, mặc dù trời đã tối mịt -
Chúng không có lương tâm. Không liêm chính. Ta đã biến chúng thành những tên hề...
Vì sao vậy? - Nhà vua quay về phía Nikita.
- Tâu bệ hạ, kẻ no nê lại càng ăn cắp
nhiều, càng táo tợn.
- Im đi, ngươi thật táo gan.
- Thật đáng buồn, tâu bệ hạ... Bệ hạ than
phiền, bệ hạ kêu thiếu người. Thế mà người ta đã lấy mất của thần mười một
người thợ rèn trong số những người lành nghề nhất để bắt họ đi lính.
- Ai lấy?
- Ngài đại thần Romodanov của bệ hạ đấy ạ.
Ông ta tới Tula cùng một số thư ký để lập những bản thống kê dân số... - Nikita
dừng lại, ngập ngừng; y cố nhìn nét mặt vua Piotr nhưng không được, Sa hoàng
quay lưng lại phía cửa sổ. - Chẳng giấu gì bệ hạ, ở Tula đã xảy ra rất lắm
chuyện? Những kẻ có tiền đều tự chuộc được. Romodanov đã sai một gã thư ký đến
xưởng của hạ thần... Nếu hạ thần ở Tula khi đó, thì năm trăm rúp hạ thần cũng
bỏ ra ngay để chuộc lấy những người thợ cả cừ như thế... Xin bệ hạ hãy gia ân
cho hạ thần, thu xếp chọ hạ thần việc này... vì họ toàn là những thợ chế tạo vũ
khí chẳng thua kém gì người Anh.
Vua Piotr nói qua kẽ răng:
- Viết cho ta một lá đơn!
- Xin tuân lệnh... Không, tâu bệ hạ, rồi sẽ
tìm được người thôi, nhất định được!
- Tốt... Nói cho ta hay việc của ngươi!
Nikita thận trọng bước lại. Việc này rất
quan trọng. Mùa đông đó, Nikita đã tới vùng Ural cùng với con trai là Ankinfi
và ba nông dân tín đồ razkonic ở sa
mạc Danilovo, chuyên về mỏ. Họ đã leo khắp các dãy núi Ural, từ Neviansk cho
tới Tsuxovski Gorodki. Họ đã phát hiện hàng núi, sắt, đồng, quặng bạc, amiăng
v.v...
Những của cải đó cho đến nay chưa được khai
thác. Xung quanh là sa mạc. Nhà máy đúc duy nhất xây dựng hai năm trước đây
theo lệnh của vua Piotr, trên sông Neva chỉ sản xuất được gần năm mươi pud, và vì thiếu đường xá nên ngay việc
chuyên chở cái khối lượng nhỏ bé đó cũng khó.
Viên quản lý, con lãnh chúa Daskov, chán
nản, uống rượu ngày đêm, cả Protaxiev, tổng trấn Neviansk cũng vậy. Những thợ
khỏe mạnh nhất bỏ trốn, chỉ còn lại những người gầy yếu. Các mỏ đã bị lấp kín
quá nửa. Xung quanh là những rừng cây cổ thụ, ao ngòi đầy vàng; chỉ việc múc
nước lên và lấy áo lông cừu mà lọc cũng được. Thực khác hẳn xưởng của Nikita
Demixov tại Tula, ở đó quặng nghèo và ít rừng (từ năm kia đã có lệnh cấm chặt
cây sồi, tần bì, phong... để đốt than), và cứ tên thơ lại nhiễu sự nào cũng
nhúng mũi vào công việc của ta. Ở đây thì đất rộng mênh mông nhưng phải có
nhiều vốn: vùng Ural, thưa dân, khó vào.
- Tâu bệ hạ, ta sẽ chẳng đi tới kết quả gì.
Hạ thần đã trình bày với Xvesnikov, với Brovkin, với nhiều người khác nữa...
Ngay các ông ấy cũng ngần ngại không dám bỏ tiền vào một việc bấp bênh như vậy...
Còn đối với hạ thần thì thật là bực mình: hạ thần chẳng khác gi tay sai của họ
vậy... Là vì muốn khai thác vùng Ural phải bỏ vào đấy nhiều công của...
Bỗng vua Piotr dậm gót giầy xuống sàn:
- Vậy nhà ngươi cần gì? Tiền ư? Ngươi ư?
Ngồi xuống đây... - Nikita vội ngồi ghé xuống ghế và đôi mắt sâu hoắm nhìn nhà
vua chằm chặp. - Mùa hè này, ta cần mười vạn pud gang hòn, năm vạn pud
sắt. Ta không có thì giờ đợi các ngươi bàn tán, suy nghĩ... Hãy lấy xưởng
Neviansk, chiếm lấy tất cả Ural... Ta ra lệnh cho nhà ngươi!
Nikita vểnh chòm râu cằm kiểu Digan và nhà
vua nhích lại gần y:
- Ta không có nhiều tiền, nhưng về việc này,
ta sẽ đưa tiền cho nhà ngươi. Ta sẽ sáp nhập những xóm làng vào nhà máy. Ta sẽ
ra lệnh mua người cho nhà ngươi tại các địa hạt của các lãnh chúa... Nhưng cẩn
thận đấy! - Nhà vua giơ ngón tay dài lên đe Nikita hai lần. - Sắt ta trả bọn Thụy
Điển mỗi pud một rúp, nhà ngươi sẽ
phải bán cho ta với giá là ba mươi kopeik.
Nikita vội vã trả lời.
- Không thể được ạ. Không thể làm được. Năm
mươi kopeik!
Vua Piotr tròn xoe đôi mắt lòng trắng xanh
nhạt; trong một phút, nhà vua giận dữ nhìn Nikita rồi nói:
- Được, ta sẽ liệu sau. Mà ta nhìn thấu tâm
gan ngươi rồi, đồ kẻ cướp... Ngươi sẽ phải trả ta tất cả bằng gang và sắt trong
một thời hạn ba năm. Ta thấy nhà ngươi táo gan thật... Nhưng nhớ đấy, ta quyết
sẽ bẻ gãy chân tay nhà ngươi trên bánh xe nhục hình, ta cam đoan là như vậy!
Nikita khẽ đằng hắng và giọng như rít trong
cổ, nói:
- Hạ thần quyết sẽ trả hết tiền của bệ hạ
trước thời hạn, xin cam đoan như vậy!
Một buổi tối thật kỳ lạ, - vua Piotr không
biết đi đâu. Nhà vua liếc nhìn mớ giấy tờ chưa đọc đến và định ra lệnh thắp nến
nhưng rồi nghĩ lại, nằm dài trên bậu cửa sổ, thò đầu ra ngoài.
Trời đã tối mà người ta có cảm tưởng như
nóng bức hơn. Nước từ trên cành lá nhỏ xuống từng giọt, từng giọt. Một làn
sương nhẹ tỏa trên cỏ... Vua Piotr hít thở không khí nực mùi cây cỏ căng nhựa. Một
giọt nước rơi xuống gáy, nhà vua rùng mình từ đầu tới chân, chậm rãi lấy lòng
bàn tay xoa vết ướt trên cổ.
Trong cảnh tịch mịch mùa xuân, mọi vật đều
ngủ, một giấc ngủ lo âu. Không đâu thấy có ánh sáng: xa xa, từ xoloboda của quân lính vọng tới tiếng hô
kéo dài của lính gác: “Vểnh t...ai tai nghe!”
Vua Piotr cảm thấy uể oải mỏi mệt, dường
như chân tay đều tê dại. Tim nhà vua tì lên bậu cửa sổ đập rất mạnh. Chỉ có mỗi
việc là nghiến chặt hai hàm răng lại mà chờ đợi. Chờ đợi, chờ đợi... Tựa một
người đàn bà nhu nhược trong đêm khuya tĩnh mịch, nhấc đầu khỏi cái gối nóng
hổi để nghe một tiếng guốc tưởng tượng.
Từ sáng đến giờ công việc chẳng ra làm sao
cả. Người ta mời nhà vua tới ăn bữa tối tại nhà Melsikov, nhà vua đã không đi:
Ta đánh cuộc vào giờ này họ đang tiệc tùng ở đó! Chưa bao giờ lại khó khăn như
hiện nay.
Giờ đây tất cả là chờ đợi, biết chờ đợi...
Vua Auguste trong một lúc liều lĩnh dại dột
đã lao vào chiến tranh không biết chờ đợi và đang sa lầy trước thành Riga.
Chrixtian nước Đan Mạch cũng thế, không biết chờ đợi; đó là lỗi của hắn.
- Đó là lỗi của hắn, lỗi của hắn, - vua
Piotr vừa lẩm bẩm vừa giương to mắt nhìn ra những bụi tử đinh hương tối om,
nặng trĩu nước mưa. Có người nào đó ngọ nguậy ở đằng kia; chắc hẳn tên lính hầu
đang ghẹo gái...
Hôm đó đại tá Langhen, do vua Auguste phái
tới, đã đem đến những tìn tức đáng lo ngại: con sư tử con Thụy Điển đột nhiên
đã nhe nanh... Cầm đầu một hạm đội lớn, hắn đã xuất hiện trước đồn lũy kinh
thành Copenhagen và đòi thành phố phải đầu hàng. Vua Chrixtian kinh hoảng,
không dám nghênh chiến và đã tiến hành thương lượng. Trong lúc đó, vua Charles
đã cho mười lăm nghìn bộ binh đổ bộ lên phía sau quân Đan Mạch đang bao vây
pháo đài Honxten. Quân Thụy Điển tràn vào Đan Mạch như vũ bão. Người Thụy Điển
cũng như mọi người khác, không ai có thể tưởng tượng được rằng thằng bé phóng
đãng ấy, chàng thanh niên ẻo lả ấy bỗng chốc đã tỏ ra thông minh và dũng cảm
như một vị tướng thực sự.
Ngoài ra Langhen còn đệ trình một yêu cầu
lên vua Auguste, vua Ba Lan, đề nghị giúp tiền: cứ theo lời ông ta thì có thể
làm cho dân Ba Lan nổi dậy, thúc đẩy họ tham chiến, với điều kiện là giao cho
vị giáo trưởng và viên hetman của
triều đình khoảng hai vạn đuca để họ
phân phát cho bọn lãnh chúa. Langhen, nước mắt giàn giụa, khẩn khoản van nài
vua Piotr đừng chờ đợi ký kết hòa ước xong với Thổ Nhĩ Kỳ mới tham chiến.
Nghe tất cả những chuyện đó, vua Piotr ngứa
ngáy cả người. Nhưng không thể thế được. Không thể can thiệp vào chiến cuộc
được khi mà phiên vương Krym còn đó, ở sau lưng mình. Phải đợi chờ thời cơ...
Hồi nãy, Ivan Brovkin vừa tới, kể lại là
tại hội đồng xã trưởng đã xảy ra một sự huyên náo lớn: Xvesnikov và Sorin đã
bắt đầu bí mật vơ vét lúa; họ đang vội vã cho chở số lúa đó bằng đường thủy và
đường bộ đến Novgorod và Pskov. Giá lúa mì đã tức khắc tăng thêm ba kopeik. Reviakin thét lên với họ: “Các
anh điên à, vùng Ingri còn chưa thuộc về ta, và bao giờ mới thuộc về ta? Các
anh sẽ để thối lúa của các anh tại Novgorod và Pskov một cách vô ích thôi...”.
Nhưng họ đã trả lời ông ta: “Đến mùa thu, vùng Ingri sẽ về ta, kỳ tuyết đầu
mùa, chúng tôi sẽ cho chở lúa đến Narva...”.
Các bụi cây ẩm ướt bỗng đung đưa, những
giọt nước mưa rơi xuống lộp bộp. Hai bóng người cựa quậy. “Ồ không, anh yêu quý
của em... Bỏ em ra, bỏ em ra...”. Cái bóng nhỏ bé hơn lùi lại, rồi bỏ chạy, nhẹ
nhàng, chân không giầy... Cái bóng kia, cái bóng dài (đó là Miska, tên lính
chạy giấy) đuổi theo, đôi ủng lớn bì bõm trong bùn. Dưới cây bồ đề, hai cái
bóng dừng lại, rồi lại: “Ô, không, anh yêu quý của em...”.
Vua Piotr cúi ra ngoài khuôn cửa sổ, người
thò ra tới gần thắt lưng. Tại một chỗ đất trũng, sau những cây liều xám xịt,
trăng tròn đang mọc, lờ mờ sau làn sương mù. Trên cánh đồng nổi lên rõ nét
những đống rơm, những lùm cây; dải sông nhờ nhờ màu sữa... Mọi vật hình như vẫn
đó đã hàng bao thế kỷ nay: bất động, không thay đổi, huyễn hoặc... Và hai cái
bóng kia dưới cây bồ đề tối om, vẫn thì thầm vội vã, nhắc đi nhắc lại mãi một
câu ấy.
- Mi có thôi đi không hả? - Vua Piotr thét
lên, giọng ồ ồ - Miska! Ta tuốt xác mi bây giờ?
Người con gái núp vào thân cây bồ đề. Không
đầy một phút sau, người lính chạy giấy rón rén leo lên cầu thang kêu cót két
bốn bậc một và gãi gãi vào cửa.
- Thắp nến lên, - nhà vua ra lệnh. - Lấy
cho ta cái tẩu!
Vua Piotr vừa hút thuốc, vừa đi đi lại lại,
nhặt một tờ giấy trên bàn, gí gần vào ngọn nến rồi lại vứt tờ giấy đi. Trời mới
bắt đầu tối. Đi nằm, ngủ ư? Chỉ mới nghĩ đến chuyện đó thôi đã thấy là kỳ!
Khói thuốc lá bị hút ra phía cửa sổ để ngỏ,
uốn theo gờ khung cửa rồi bay vào đêm tối mát mẻ.
- Miska!
Người lính chạy giấy vội nhảy vào; hắn có
đôi má phính, chiếc mũi tẹt và cặp mắt ngớ ngẩn.
- Liệu hồn với bọn con gái đấy! Thế nghĩa
là thế nào? - Nhà vua bước lại gần hắn: hiển nhiên là nếu nhà vua có đánh hắn
với bất cứ cái gì tiện tay vớ được thì Miska cũng sẽ chẳng hiểu gì. - Chạy mau,
bảo đánh xe ra cho ta. Mi sẽ đi theo ta.
Trăng đã mọc trên cánh đồng, những giọt
nước mưa lấp lánh trên đám cỏ xanh lam. Con ngựa vừa thở vừa liếc mắt về phía
các bụi cây hình thù lờ mờ. Vua Piotr lấy dây cương quất ngựa. Bánh xe làm bùn
bắn lên tung tóe; nước từ các rãnh sâu loang loáng như gương vọt lên. Chiếc xe
chạy qua phố Kukui đã yên giấc, nơi đây chẳng khác gì bao năm trước kia, hoa
thuốc lá trong các khu vườn xinh xắn vẫn toả hương thơm nồng. Tại nhà Anna
Monx, sau rặng bồ đề cành lá sum suê thấy có ánh sáng qua những hình trái tim
khoét ở cánh cửa.
Anna Ivanovna, mục sư Xtrum, Kornigxeg và
quận công Von Kroi, đang đánh bài dưới ánh sáng hai ngọn nến. Thỉnh thoảng mục
sư Xtrum lại nhồi thuốc lá vào mũi rồi rút ra một chiếc khăn mùi soa kẻ ô vuông
và hắt hơi một cách khoái trá, - cặp mắt ướt của ông vui vẻ nhìn mọi người.
Quận công Von Kroi chăm chú xem bài của
mình, đăm chiêu chớp chớp đôi mi không lông; bộ ria mép thõng xuống, đã từng
chứng kiến mười lăm trận đánh lừng lẫy, vểnh lên, sát gần lỗ mũi.
Anna Ivanovna, mặc bộ áo trong nhà màu xanh
da trời, cánh tay mũm mĩm để trần tới khuỷu, kim cương lóng lánh ở tai và trên
dải nhung đeo ở cổ, khẽ cau trán tính nước bài.
Kornigxeg lịch sự, xoa phấn, chỉnh tề, lúc
thì mỉm cười âu yếm với Anna, lúc thì khẽ mấp máy đôi môi, tìm cách mách nước.
Chắc chắn là mọi trận bão táp có tràn qua
cũng chẳng hề khuấy động căn phòng yên ấm này, nơi đây thoang thoảng hương vani
và sa nhân pha vào bánh mì nhỏ, nơi đây ghế bành và đi-văng đã được choàng bao
vải và đồng hồ thủng thẳng tích ta tích tắc.
Mục sư Xtrum, vừa thở dài vừa đưa mắt nhìn
lên trần, nói: “Chúng tôi xin gọi: nhép”. “Pích”, quận công Von Kroi tiếp lời
tựa hồ ông ta đang rút thanh kiếm gỉ ra khỏi bao nửa chừng. Kornigxeg khẽ
nghểnh sau lưng Anna Ivanovna, để nhìn bài, dằn từng lời, giọng ngọt ngào: “Còn
chúng tôi, chúng tôi lại xin gọi “Cơ”.
Vua Piotr vào qua lối cửa sau, bất chợt mở
cửa. Quân bài trong tay Anna Ivanovna rơi xuống. Mọi người hấp tấp đứng dậy.
Rất tự chủ, Anna Ivanovna thốt lên một tiếng vui mừng; miệng cười tươi như hoa,
nàng cúi rạp mình xuống chào, hôn tay Sa hoàng và áp bàn tay nhà vua vào ngực
mình phủ tấm khăn san nửa kín nửa hở.
Nhưng vua Piotr thoáng thấy trên khóe mắt
xanh trong như có một ánh kinh hoàng. Lưng khom khom, nhà vua bước về phía
đi-văng:
- Cứ chơi đi ta sẽ ngồi hút thuốc ở đây.
Nhưng Anna Ivanovna, thoăn thoắt trên đôi
gót giầy nhọn hoắt đã chạy lại bàn, xóa lộn đống bài.
- Chúng thần chơi để giải buồn thôi... A,
Piotr, thật là sung sướng, bệ hạ bao giờ cũng đem lại niềm vui, sự hoan hỉ cho
cái nhà này. - Nàng vỗ tay như trẻ con - Chúng ta ăn bữa tối đi.
- Ta không muốn ăn, - Sa hoàng càu nhàu,
miệng gặm đầu cán tẩu.
Cơn giận dữ đang dâng lên như một cục tròn
chẹn lấy cổ, nhà vua cũng chẳng hiểu tại sao. Nhà vua liếc nhìn những bao
choàng ghế, chiếc khung thêu và những cuộn len... Một nếp nhăn nhỏ rõ nét hiện
ra trên vầng trán thanh thản của Ansen, đây là lần đầu tiên nhà vua nhận thấy
nếp nhăn đó.
- Ồ Pite, thế ta bày ra một trò vui gì vậy...
- Một lần nữa, trong khóe mắt nàng thoáng có một vẻ gì thiểu não.
Vua Piotr ngồi im. Mục sư Xtrum, sau khi
nhìn chiếc đồng hồ treo rồi xem giờ ở chiếc đồng hồ bỏ túi, lên tiếng; “Trời
ơi, đã quá hai giờ rồi”, rồi ông vớ lấy quyển kinh để trên bậu cửa sổ. Quận
công Von Kroi và Kornigxeg cũng cầm lấy mũ. Ansen giọng van nài quá cái mức cần
thiết của phép lịch sự, vừa bẻ ngón tay vừa kêu lên:
- Ồ, xin các vị đừng về vội!
Vua Piotr thở ra, tia lửa từ chiếc tẩu tóe
lên. Chân nhà vua như đang muốn co dúm lại. Nhà vua đứng phắt dậy và bước
nhanh, đi ra, đóng sầm cửa lại. Ansen thở mỗi lúc một gấp, và lấy khăn tay che
mặt; Kornigxeg rón rén chạy đi kiếm một cốc nước. Mục sư Xtum thận trọng lắc
đầu. Quận công Von Kroi xáo trộn bộ bài trên bàn.
* * *
Hơi nước từ các mái nhà gỗ, từ đường phố
đang khô bốc lên, dưới các vũng nước là một màu trời xanh thẳm. Tiếng chuông
gióng giả: hôm đó là ngày hội ngày chủ nhật thứ nhất sau lễ Phục sinh; những
người bán bánh ngọt và những người bán rượu bia réo gọi chào khách. Từng đám
người vô công rỗi nghề, phần lớn say mềm, thất thểu lang thang đây đó. Trên bức
tường đô nát của thành phố, giữa những lỗ châu mai, những gã thanh niên mặc sơ
mi mới cầm sào đầu buộc xơ gai, xua đuổi lũ chim bồ câu. Đàn chim trắng xóa lấp
lánh trên trời xanh, giỡn chơi, nhào lộn, bổ xuống.
Khắp nơi, sau những hàng rào cao, dưới
những cây bồ đề và liễu màu xám, sạch trơn sau trận mưa đêm, những cây đu lên
lên xuống xuống: khi thì những cô gái bím tóc phất phơ, tung bay tới cành lá,
khi thì một lão già phóng đãng đầu hói đu đưa một mụ béo tròn, ngồi trên tấm
ván mồm kêu the thé.
Con ngựa đi bước một trên đường phố. Đôi
mắt vua Piotr sâu hoắm, nét mặt lầm lì. Mặt trời sưởi ấm lưng nhà vua. Miska -
gã chạy giấy - đã ngồi trong xe chờ Sa hoàng suốt đêm, luôn luôn cố hất đầu
ngẩng lên cho khỏi rũ xuống ngủ. Đám đông giãn ra tránh đường cho ngựa; chỉ có
một người qua đường, nhận ra được Sa hoàng vội lột mũ, cúi rạp xuống tận đất
chào chiếc xe đang xa dần.
Bữa đêm, khi ra khỏi nhà Anna Monx, vua
Piotr đã đến nhà Melsikov. Nhưng nhà vua chỉ đứng nhìn những cánh cửa sổ lớn
treo rèm, vẳng ra tiếng nhạc và tiếng la hét om sòm của bọn sâu rượu. “A, ma
quỷ bắt chúng đi!”. Nhà vua cầm dây cương quất ngựa rời khỏi sân nhà Melsikov
và quay xe chạy về phía Moskva, về phía xloboda
của quân xtreletz. Ngựa mới đầu chạy
nước kiệu nhanh rồi sau phi nước đại.
Sa hoàng cho dừng xe trước một ngôi nhà bề
ngoài có vẻ xoàng xĩnh; trên cổng có cắm cây sào đầu buộc một túm rơm. Vua
Piotr quẳng dây cương cho Miska rồi đập vào cánh cửa nhỏ, nhà vua sốt ruột dẫm
dẫm chân trên đống phân gây thành tiếng ộp oạp. Nhà vua đấm mạnh vào cửa. Một
người đàn bà ra mở. Miska nhác thấy mụ cao lớn, mặt tròn, mặc áo dài cộc tay
màu sẫm. Mụ thốt lên và ôm lấy má. Vua Piotr cúi xuống, bước vào trong sân,
đóng sập cửa lại.
Miska đứng trên xe, thấy ánh sáng xuất hiện
ở hai cửa sổ nhỏ, tít trên cùng căn nhà gỗ. Rồi người đàn bà vội vã đi ra thềm
gọi to:
- Luka, ê, Luka.
Giọng một ông lão đáp lại:
- Cái gì thế?
- Luka, đừng để ai vào đấy, nghe không?
- Thế ngộ người ta tìm cách phá cửa vào thì
sao?
- Thế ông không phải là đàn ông à?
- Được tôi sẽ lấy gậy đánh đuổi họ.
Miska tự nhủ: “A, đúng, ta hiểu rồi”.
Một lát sau, ba người đội mũ lính xtreletz từ một ngõ ngang đi tới, quan
sát con đường vắng tanh, tràn ngập ánh trăng, rồi tiến thẳng về phía cổng.
Miska nghiêm giọng bảo họ:
- Đi đi!
Bọn xtreletz
có vẻ hung ác, lại gần chiếc xe:
- Thằng này là thằng nào thế? Sao nó lại mò
vào xloboda vào giờ này?
Miska thì thầm, giọng hăm doạ:
- Này các chú mày, cút ngay cho nhanh!
- Cái gì? - một gã trong bọn say hơn những
gã kia, dữ tợn quát. - Mày muốn làm chúng tao sợ chắc? Tao biết mày ở đâu đến
rồi... - Hai gã kia túm lấy vai hắn, thì thầm. - Đầu mày cũng vậy, cũng treo
trên sợi tóc thôi. Hãy khoan, hãy khoan...
Bọn hắn lôi hắn đi, không để hắn sắn tay
áo:
- Người ta chưa treo cổ được hết bọn tao
đâu... Chúng tao cũng có nanh có vuốt chứ! Cả thằng này cũng có thể đem ra đóng
nõ vào đít nó được đấy.
Hai gã kia đánh vào gáy hắn làm rơi chiếc
mũ và kéo hắn vào trong ngõ.
Lát sau, ánh đèn ở cửa sổ tắt phụt.
Không thấy vua Piotr ra. Phía bên kia cổng,
thỉnh thoảng lão Luka lại uể oải phe phẩy cái đuổi muỗi. Rồi bốn bề lại im
lặng. Con ngựa, mệt lử, rũ đầu xuống. Qua giấc ngủ, Miska nghe thấy tiếng gà
gáy. Ánh trăng mỗi lúc một thêm lạnh lẽo. Ở đầu phố, ánh rạng đông hoe hoe vàng
rồi ngả màu hồng. Một lần nữa, Miska lại thức giấc vì có tiếng thì thầm: một lũ
trẻ con - trong số đó có vài đứa cởi truồng xúm quanh xe. Nhưng Miska vừa mở
mắt ra thì cả bọn đã bỏ chạy, vung vẩy ống tay áo và giơ ra những gót chân đen
sì.
Mặt trời đã lên cao. Vua Piotr bước qua
chiếc cửa nhỏ đi ra, mũ đội sụp xuống tận mắt. Nhà vua húng hắng ho khù khụ và
cầm lấy dây cương. “Bây giờ thì dễ chịu hơn rồi!”, nhà vua nói, giọng trầm, rồi
thúc ngựa đi nước kiệu.
Khi ra khỏi Moskva, chạy tới một cánh đồng
xanh mướt thì thấy ở xa xa thấp thoáng những nóc nhà nhọn hoắt của xloboda người Đức, và phía sau, tựa hồ
như ở tít chân trời có những áng mây trắng như tuyết, vua Piotr lên tiếng nói:
- Đấy bọn chạy giấy các mi là phải làm như
thế! Ta mà còn bắt được mi đêm hôm trai gái như thế nữa ta sẽ nhốt mi vào trong
nhà để xe. - Và nhà vua phá lên cười, hất mũ ra sau gáy.
Hai người đuổi kịp một bán đại đội lính so
vai rụt cổ trong những bộ áo chẽn màu nâu. Chân họ đều buộc những túm cỏ và
rơm; họ đi lộn xộn, lưỡi lê chạm nhau lách cách. Viên đội thét lên: “Nghiêm!”
Vua Piotr xuống xe, nắm vai một người lính
rồi lại nắm vai một người khác, bắt họ xoay người, sờ lần áo dạ cứng đơ như
giấy bồi.
- Thật là cứt! - nhà vua thét lên, trợn mắt
nhìn viên đội mặt đầy trứng cá. - Ai cung cấp những bộ áo chẽn này?
- Bẩm thưa Ngài pháo thủ, xưởng Xukharepski
cung cấp những bộ áo chẽn đó đấy ạ.
- Cởi ra! - Sa hoàng túm lấy người lính thứ
ba, gầy nhom, mũi nhọn hoắt. Nhưng thấy khuôn mặt ngài pháo thủ tròn xoe, với
bộ ria đen vểnh ngườc, cúi xuống nhìn mình, người lính khiếp đảm như thề bị bóp
cổ. Bạn đồng ngũ của anh ta liền giật lấy khẩu súng, mở móc gài dây đeo, cởi
chiếc áo chẽn của anh ta ra. Vua Piotr cầm lấy cái áo, ném vào trong xe, không
nói thêm một lời, nhà vua lên xe và cho ngựa phi nước đại về phía dinh
Melsikov.
Người lính mất áo run cầm cập, như người
mất hồn nhìn chiếc xe xa dần trên đường đầy cỏ mọc.
Viên đội cầm gậy đẩy anh ta:
- Golikov, ra khỏi hàng và đi cuối cùng...
Nghiêm! - Mồm há hốc, viên đội ngửa cổ hét vang qua cánh đồng. - Chân trái, cỏ,
chân phải, rơm. Nhớ đấy... Bước đều, bước! Cỏ, rơm, cỏ, rơm...
Chính xưởng sản xuất dạ của Ivan Brovkin,
mới cất trên bờ sông Neglinaia, gần cầu các Nguyên soái đã cung cấp dạ cho
xưởng may quân đội Xukharepski.
Melsikov và Safirov có góp cổ phần trong
đó. Bộ Preobrazenski đã xuất một món tiền đặt trước là mười vạn rúp để xưởng này
cung cấp dạ cho quân đội.
Melsikov đã khoe với Sa hoàng là họ sẽ cung
cấp một loại dạ không kém gì dạ Hamburg. Thực ra họ đã nộp loại dạ một nửa làm
bằng xơ gai và bông. Alexaska Melsikov, xuất thân trong giới trộm cắp, đã là
một tên trộm cắp và đến nay vẫn là một tên trộm cắp.
“Hãy chờ đấy!”. Vua Piotr nghĩ thầm, sốt
ruột lắc lắc dây cương.
Alekxandr Danilovich, ngồi trên giường,
uống nước dưa chuột muối sau bữa chè chén đêm trước, tiệc tùng đến quá sáu giờ
sáng - cặp mắt xanh của hắn mờ đục, đôi mi sưng húp. Viên tư tế của dinh
Melsikov, biệt hiệu là Pedrila, một gã hộ pháp, giọng nói và hình thù tựa một
con dã thú; cao hai thước và to như một cái thùng, đứng trước mặt Melsikov, tay
cầm chén nước muối. Pedrila ái ngại, lấy ngón tay ngoáy ngoáy vào trong chén:
- Ngài ăn một quả dưa chuột nhỏ đi, đây...
- Xéo ngay!
Piotr Paplovich Safirov, - mặt mũi thông
minh, tròn xoe như chiếc bánh tráng, - có vẻ mặt hiền lành giả dối đang ngồi
trước cái giường lộng lẫy, tay cầm một hộp thuốc lá mở nắp sẵn sàng. Hắn khuyên
nên chích ít máu - khoảng nửa cốc - hoặc đặt đỉa vào gáy.
- A, ông bạn Alekxandr Danilovich thân mến,
ông dùng các loại rượu quý nặng này vô độ là ông tự giết mình đấy!
- Xéo nốt đi, cả ngươi nữa!
Viên tư tế là người đầu tiên trông thấy Sa
hoàng qua cửa sổ: “Nhà vua đang nổi giận, nếu tôi không lầm”.
Cả bọn chưa kịp định thần lại thì vua Piotr
đã bước vào phòng ngủ, chẳng chào hỏi ai, nhà vua đi thẳng tới chỗ Alekxandr
Danilovich và gí chiếc áo lính vào mũi hắn:
- Đây là loại dạ tốt hơn dạ Hamburg, hử?
Câm ngay, đồ kẻ cướp, câm ngay, dẫu sao ngươi cũng không thể cãi được nữa.
Sa hoàng túm lấy ngực áo sơ mi đăng-ten của
Melsikov lôi hắn tới bức tường, và khi Alekxandr Danilovich đã đứng tựa vào đó,
mồm há hốc, nhà vua liền tát hắn túi bụi hết má này đến má kia, - đầu Melsikov
cứ lắc qua lắc lại. Trong cơn thịnh nộ, Sa hoàng vớ lấy chiếc gậy dựng bên lò
sưởi, thẳng tay nện Alexaska gãy cả gậy. Sau đó quay về phía Safirov, - y đã
biết thân quỳ xuống chiếc ghế bành. Nhà vua thét trên đầu y:
- Đứng dậy. - Safirov choàng đứng lên! -
Ngươi sẽ đem bán tất cả cái dạ khốn nạn này sang Ba Lan cho vua Auguste, theo
giá ta đã trả các ngươi. Hẹn cho ngươi một tuần. Nếu không xong, ta sẽ lột trần
ngươi ra mà quất! Rõ chưa?
- Tâu bệ hạ, thần xin bán xong sớm hơn.
- Để bù vào đấy các người và Vanka Brovkin
sẽ phải nộp cho ta loại dạ tốt.
- Myn
Herz, lạy Chúa tôi - Alexaska vừa nói vừa lau rớt rãi, máu mũi chảy ròng
ròng. - chúng thần đã có lần nào dám dối trá bệ hạ? Thật lôi thôi cái chuyện dạ
này!
- Được, bảo dọn bữa sáng ra!
Chương 127
Trời oi bức ngột ngạt, không có lấy một chút gió nào. Mái ngói các
nhà trong thành Constantinop đã bạc màu. Thành phố bốc lên một làn hơi nóng
rực.
Ngay trong các khu vườn đỏ hoe và bụi bậm
của lâu đài hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ cũng không có lấy một bóng râm.
Dọc chân tường thành, những người ăn mặc
rách rưới nằm ngủ trên những phiến đá bên bờ mặt nước phẳng lặng như gương.
Thành phố im ắng. Chỉ có những tiếng ê a từ trên các tháp cao của giáo đường
vọng xuống, nghe như một lời nhắc nhở sầu muộn. Và đến đêm, chó nghếch đầu lên
sủa sao.
Vị đại sứ thần Emelian Ukrainsev và viên
lục sự Sheredeev sống tại một khách sạn ở Pera đã trên một năm nay. Họ đã họp
hai mươi ba cuộc hội nghị nhưng cả người Thổ Nhĩ Kỳ lẫn người Nga đều không
tiến mà cũng chẳng lùi. Mới đây một người liên lạc đem tới một mệnh lệnh của Sa
hoàng. Vua Piotr đòi phải ký kết hòa ước tức khắc; nhượng bộ người Thổ Nhĩ Kỳ
tới mức tối đa, trừ Azop; tốt hơn là không nên nói tới Mộ Thánh để tránh động
chạm đến những người theo Thiên chúa giáo. Nhưng một khi đã nhượng bộ rồi, thì
phải kiên quyết đối với những vấn đề khác.
Tại phiên họp lần thứ hai mươi ba;
Ukrainsev tuyên bố:
- Đây là lời nói cuối cùng của chúng tôi:
chúng tôi chỉ ở lại Constantinop hai tuần nữa... Nếu đến lúc đó chúng ta chưa
ký kết được hòa ước thì sau này các ngài chỉ nên trách cứ các ngài thôi, hạm
đội hồi năm ngoái không thể bì được với hạm đội hiện nay của đại hoàng đế...
Chắc các ngài cũng đã nghe nói...
Để gây tác động, cả đoàn sứ thần rời khách
sạn và dọn lên chiến thuyền. Chiếc La Sitadell đậu ở bến đã lâu không hoạt
động, đến nỗi hai bên mạn tàu mọc đầy rêu xanh; gián, rệp lúc nhúc trong các
phòng. Thuyền trưởng Pambur buồn chán phù nề cả người.
Trời chưa sáng, Ukrainsev và Sheredeev đã
tỉnh dậy trong căn phòng ngột ngạt, vừa gãi vừa khục khặc ho.
Hai người khoác khalat(1) kiểu Tarta ra ngoài quần áo lót rồi bước lên boong...
Buồn chán làm sao! Một buổi bình minh không mây, báo hiệu trời sẽ nóng bức,
đang lan rộng trên eo biến Bosfo còn mờ mờ tối, trên những ngọn đồi đỏ hoe.
Họ ngồi vào bàn ăn sáng. Ao ước gì được một
cốc kvas lạnh toát từ dưới hầm nhà đem lên... Trời, cá họ ăn thì tanh ngòm,
nước thì chua như dấm, thật ăn uống chẳng ngon miệng chút nào.
Thuyền trưởng Pambur, chưa ăn gì đã nốc một
cốc vodka, mặc quần đùi ngắn, đi đi lại lại trên sàn tàu nứt nẻ vì hanh khô.
Mặt trời màu da cam nhô lên. Và chẳng mấy
chốc, mắt chịu không sao có thể nhìn được mặt nước nhấp nhô, những thuyền bè
nặng trĩu dưa hấu, dưa bở đang uể oải đung đưa cạnh bờ, những nóc tròn của giáo
dường phơn phớt màu phấn, những hình lưỡi liềm trên nền trời xanh non như chọc
vào mắt. Tiếng nói, tiếng kêu, tiếng chuông của bọn lái buôn họp thành một
tiếng ồn ào ầm ĩ từ những ngõ hẻm khu Galata(2) vọng lại.
- Emelian Ignatievich, ngài còn cần gì đến
tôi nữa, - Sheredeev nói. - Ngài để cho tôi về... Nếu không tôi sẽ cứ đi bộ mà
về đấy!
- Hãy kiên nhẫn một chút, Ivan Ivanovich,
chúng ta sắp trở về rồi, về đến nơi rồi. - Ukrainsev trả lời, vừa nói vừa nhắm
mắt lại để khỏi phải nhìn thấy cái thành phố mà chính ông cũng đã thấy ghê tởm.
- Emelian Ignatievich, tôi chỉ mong muốn
một điều; nằm ngủ trong vườn nhà tôi, dưới những cành lê mát rượi... - Bộ mặt
của Sheredeev vốn dài thườn thượt, với bộ râu nhọn, giờ đây càng héo hon vì
thời tiết nóng bức và vì buồn bực đôi mắt sâu hoắm lại. - Ở Xuzdan, tôi có một
ngôi nhà nhỏ... Trong vườn có hai cây phong cổ thụ - tôi nằm mơ thấy hai cây đó...
Tôi dậy từ sáng sớm tinh sương, đi thăm đàn gia súc nhưng người ta đã dắt chúng
ra đồng... Tôi đi đến đõ ong, cỏ lút tới thắt lưng... Dưới sông, đám mugic đang quăng lưới. Đàn bà đập rũ
quần áo. Cảnh thật là đẹp!
- Ai,
ai, ai, đúng đấy, đúng đấy, đúng đấy, - vị đại sứ thần đáp lại, gật gù bộ
mặt nhăn nheo.
- Bữa ăn trưa - một món chả cá nheo.
Ukrainsev lắc lư trên ghế, mắt vẫn nhắm.
- Chà cá nheo à? Béo quá, Ivan Ivanovich ạ...
Mùa hè nên ăn canh rau... Uống kvas pha
bạc hà.
- Món xúp cá bống, thứ đó mới ngon, Emelian
Ignatievich ạ.
- Ấy cá bống là không có được đem rửa, cái
loại cá oắt đó cứ thế nào nấu thế. Khi chín rồi thì vớt chúng ra và bỏ cá chiên
vào!
- Trời ơi, đất nước mới thích thú làm sao?
Còn ở đây, Emelian Ignatievich? Toàn đồ tà giáo! Một ảo ảnh chứ gì nữa. Còn bọn
đàn bà Hy Lạp thì thực là một cái túi đựng ô nhục.
- Cái của ấy lẽ ra ông phải nhịn đi đấy,
Ivan Ivanovich ạ!
Mồ hôi lấm tấm trên cái mũi to tướng của
Sheredeev, tựa những hột kê. Mắt y lại càng hoắm thêm. Một chiếc thuyền sáu
chèo phủ thảm, rời khỏi bờ và tiến về phía tàu. Thuyền trưởng Pambur bỗng quát
to, giọng khàn khàn:
- Thủy thủ trưởng, cho mọi người lên cả
trên boong! Thả cầu tàu xuống.
Trên thuyền thấy có Salomon, một trong số
những viên thư ký của quan tể tướng Thổ Nhĩ Kỳ, lanh lợi, hoạt bát, khuôn mặt
có đôi gò má cao và chiếc mũi tẹt. Hắn vội vã leo lên cầu tàu, đôi dép lạch
bạch và đưa mắt liếc nhanh nhìn chiếc tàu, đặt nhanh tay lên trán, lên môi, lên
ngực và nói bằng tiếng Nga:
- Quan tể tướng chúng tôi yêu cầu tôi tới
hỏi thăm sức khỏe của ngài, thưa ngài Emilian Ignatievich... Quan chúng tôi sợ
ngài ở dưới tàu có chật chội quá chăng. Chúng tôi đã làm gì để ngài giận vậy?
- Chào ông Salomon, - Ukrainsev đáp hết sức
chậm rãi. - Xin ông cũng cho tôi rõ về sức khỏe của ngài tể tướng... Tôi mong
rằng mọi việc tại quý quốc, nhờ Chúa, đều tốt lành cả chứ? - Nói đến đó, ông mở
một con mắt sắc sảo. - Chúng tôi ở đây rất dễ chịu, chỉ nhớ gia đình. Vì ở đây,
nhà chúng tôi quanh quẩn chỉ có năm mươi bộ(3).
- Thưa ngài Emilian Ignatievich, chúng tôi
muốn thưa chuyện riêng với ngài, có được không ạ?
- Sao lại không được. Việc đó rất có thể. -
Ukrainsev húng hắng ho và nói với Sheredeev và Pambur. - Các ông tránh đi.
Rồi chính ông đứng vào dưới bóng một cánh
buồm. Salomon liền nhe bộ lợi xỉn ra mỉm cười;
- Thưa ngài Emelian Ignatievich, tôi là
người bạn thành thực của ngài, tôi biết rõ kẻ thù của ngài, tôi có thể đếm đầu
chúng được... - Hắn vẩy vẩy ngón tay trước mũi Ukrainsev, ông này chỉ đáp lại: “Tốt,
tốt”. - Tôi coi thường những mưu kế của chúng... Không có tôi thì Nội các Thổ
Nhĩ Kỳ cũng chẳng nói chuyện với ngài đâu. Tôi đã xoay hẳn được tình thế, quan
tể tướng sẵn sàng ký kết hòa ước vào ngày mai nếu ngài muốn. Nhưng cũng phải
mất ít tặng phẩm.
- Thật thế ư? - Ukrainsev nhắc lại. Giờ đây
ông thấy mọi việc đã rõ. Hôm qua, một người Hy Lạp, tay chân của ông, báo cho
ông biết là sứ thần Pháp đã từ Paris trở về Constantinop và nội các của hoàng
đế Thổ Nhĩ Kỳ đã họp, các quan thượng thư đã nhận được nhiều tặng phẩm quý giá.
Suốt đêm Emelian trằn trọc vì nóng bức và vì lũ gián, suy nghĩ: “Như thế nghĩa
là thế nào? Chắc chắn là chúng lại xúi giục bọn Thổ Nhĩ Kỳ gây chiến với hoàng
đế nước Áo. Do đó bọn Thổ phải dẹp công việc với Nga lại để được rảnh tay?”.
- Vâng, tặng phẩm thì cũng chẳng là bao.
Đây, ngài sẽ nói với quan tướng như thế này: chúng tôi chỉ đợi gió thuận. Nếu hòa
ước được ký kết thì tốt, nếu không cũng chẳng sao. Điều kiện ký kết hòa ước của
chúng tôi là như sau... - Ukrainsev chòng chọc nhìn Salomon dưới đôi lông mày
trắng. - Chúng tôi sẽ cho phá các đồn lũy nhỏ trên sông Dniepr như đã thỏa
thuận... Nhưng ngược lại, đất đai xung quanh Azop trong vòng mười ngày ngựa sẽ
thuộc về Nga. Chúng tôi sẽ không bớt đi một tí nào đâu.
Salomon sợ mất hết tặng phẩm - rõ ràng Nga
biết điều nhiều hơn là cần thiết - nắm lấy tay áo vị sứ thần. Hắn ráo riết bàn
cãi. Hai người xuống phòng riêng. Pambur biết rằng nhiều cặp mắt đang quan sát
chiếc La Sitaden qua ống nhòm liền ra lệnh cho thủy thủ leo lên các cột buồm
làm như chuẩn bị kéo buồm lên.
Emilian ra khỏi phòng trong chốc lát nói:
- Ivan Ivanovich, sửa soạn đi, chúng ta vào
thành phố.
Chẳng bao lâu, Ukrainsev cũng đi ra, đầu
đội tóc giả, gươm đeo bên mình. Salomon đỡ tay ông khi ông xuống cầu tàu để lên
thuyền.
Xế trưa, lần đầu tiên sau bao ngày đằng
đẵng, một lá cờ nhỏ nhẹ nhàng phấp phới phía lái chiếc La Sitaden. Một làn
sương mờ dần dần bao phủ các ngọn đồi xa xa. Bụi bậm bao bọc thành phố như hòa
vào đầy bầu trời xanh ngắt. Gió từ sa mạc thổi tới.
Ngày hôm sau, hòa ước được ký kết.
-------------
Chú thích:
(1)
Áo choàng mặc trong nhà.
(2)
Khu ngoại ô thành Constantinop.
(3)
Đơn vị đo lường cũ dài 0,32 mét.
Chương 128
Chiếc chuông lớn của nhà thờ Ivan Veliki gầm vang trên thành Moskva,
- hai mươi bốn gã thương gia khỏe mạnh kéo cái lưỡi chuông đồng. Người ta làm
lễ cầu Chúa phù hộ quân đội Nga chiến thắng quân thù.
Ngày hôm ấy, sau buổi lễ, viên lục sự viện
Duma, Prokofi Vozmixyn, theo một tục lệ cổ - mặc áo bông kiểu Nga, đội mũ lông
và đi ủng da dê, bước ra ngoài thềm buồng ngủ của Sa hoàng cất giọng rành mạch
đọc sắc chỉ của Sa hoàng trước đám đông dân chúng: tất cả các quân nhân phải ra
chiến trường để tiến đánh các thành phố Thụy Điển. Tất cả các dapife, các viên đại tụng, các nhà quý
tộc Moskva và sĩ quan cận vệ của Sa hoàng cùng tất cả các quân nhân khác đã
từng qua nghề võ bị đều phải lên ngựa.
Mọi người chờ đợi tin đó từ lâu, tuy vậy
nhân tâm Moskva cũng vẫn xúc động, xao xuyến. Từ sáng sớm các đơn vị quân sĩ và
các đoàn xe kéo qua các đường phố, bụi bay mù mịt. Vợ các binh lính, tuyệt vọng
chạy theo bên cạnh, vẫy cánh tay áo dài của họ. Dân các đại xã đứng nép vào
hàng rào tránh các cỗ đại bác đang nhảy chồm chồm trên những rầm gỗ lát đường.
Qua cánh cửa mở rộng của những ngôi nhà thờ
cổ, các viên trợ tế lớn tiếng gào: “Chi...ến thắ...ắng!”.
Cổng lớn các tòa nhà quý tộc mở toang: đoàn
kỵ sĩ vọt ra, có người mặc theo kiểu cũ, áo giáp và chiến bào, xuỵt ngựa, phóng
bừa vào đám đông, quất roi lên đầu họ. Xe ngựa bốn bánh húc phải nhau, trục xe
kêu răng rắc, ngựa hí, cắn lộn nhau.
Tại nhà thờ Đức Bà Thăng Thiên, dưới ánh
sáng của vô vàn ngọn nến, giáo trưởng Adrian, người vốn ốm yếu, khói hương bao
phủ quanh mình, đang khóc nức nở, hai tay giơ cao lên trời. Các quan đại thần
và sau lưng họ là đám đông dày đặc các thương gia thân hào đang quỳ. Mọi người
đều khóc khi thấy những giọt nước mắt ròng ròng trên mặt vị giáo trưởng, đang
ngước lên vòm nóc nhà thờ. Vị phó giáo trưởng, miệng há hốc, mạch máu trên thái
dương căn phồng, cầu xin chiến thắng, giọng tựa tiếng kèn ngày Phán xét cuối
cùng, át cả tiếng giáo trưởng. Áo lễ của vị giáo trưởng cũng đen sì như bộ mặt
các vị thánh trong những bộ khung vàng, - nhà thờ rực rỡ ánh vàng và vinh
quang.
Đây là lần đầu tiên người ta để các thương
gia vào đông như vậy trong nhà thờ Đức Bà Thăng Thiên, thành trì của giới quý
tộc. Nhân dịp đó, Hội đồng các xã trưởng đã tặng hai mươi lăm pud cây nến sáp; ngoài ra cá nhân nhiều
vị thân hào cũng tặng nến, người nửa pud,
người một pud. Người ta đã yêu cầu
trợ tế đừng dè sẻn hương thơm. Ivan Artemist Brovkin, khịt khịt mũi vì nước
mắt, nhắc đi nhắc lại:
- Vinh quang, vinh quang...
Bên phải lão, chủ tịch Mitrofan Sorin, say
sưa hòa giọng với ban hát; bên trái lão, Aleksey Xvesnikov đưa cặp mắt di-gan
hau háu nhìn ánh vàng trên tranh thánh, trên các đồ trang trí và trên vầng hào
quang của các hình ảnh thánh, tuồng như tất cả chỗ của cải quý giá đó là do y
mà có...
“Chi-ến thắ-ắng!”, vị phó giáo trưởng quần
áo lộng lẫy, gào lên, làm rung chuyển cả vòm nóc nhà thờ, - khói hương cuồn
cuộn bay lên bao phủ những bông hồng đỏ thêu trên áo lễ. Các con chiên tiến lên
để hôn thánh giá.
Người đi đầu, vưởng hầu chấp chính Fedor
Yurievich, bụng phệ, tóc trắng xóa, - hôn thánh giá lâu đến trọn một phút, lắc
lư đôi vai hom hem. Tiếp theo sau là các vị vương hầu, các quan đại thần, người
nào cũng già nua, lọm khọm. - tất cả những người trẻ đều đi làm công vụ hoặc ra
mặt trận - Các thương gia thành kính tiến lên. Họ ném những đồng tiền vàng,
nhẫn, chuỗi ngọc rơi leng keng vào chiếc khay lớn của người thủ quỹ nhà thờ
bưng trên tay. Họ rời khỏi nhà thờ, đầu ngẩng cao. Sau khi làm dấu một lần
chót, cúi lạy bức tranh thánh lớn treo trên cửa ra vào, họ vuốt tóc, chụp mũ
lên đầu, đi ngang qua quảng trường loang lổ, ngập cỏ mới để đi tới Hội đồng các
xã trưởng. Họ khoan khoái nện vang gót giầy, nghênh ngang như những ông chủ
nhìn đám dân hèn, nhìn cửa sổ các bộ.
Khi Ivan Artemist bước ra, chừng một chục
bàn tay đen sì và co quắp túm lấy vạt áo nhung của lão:
- Lạy vương hầu... xin vương hầu một đồng kopeik nhỏ, một mẩu bánh con! - những
người ăn xin râu tóc bù xù, răng mất hết, ở trần, lở lói đầy người, gào lên...
Họ bò dưới đất, chìa tay ra, rũ mớ áo quần rách rưới của họ.
- Lạy vương hầu, lạy vương hầu!
Khiếp sợ, Ivan Artemist nhìn quanh tứ phía;
- Chúng mày điên à, đồ ăn mày, ta có phải
là vương hầu đâu!
Lão lộn hai túi áo tung ra những đồng kopeik... Một gã dở người, đầu chốc, vừa
khua những que cời lửa lách cách vừa gào lên, không còn ra tiếng người nữa:
- Ta muốn có những hòn than hồng...
Vaska Reviakin đứng đó, cặp mắt xếch cười
tít, vuốt râu. Khi đã cố gỡ được vạt áo, Ivan Artemist hỏi hắn:
- Này thương gia, có phải quân của ông đấy
không? Tốt hơn là vào một ngày như hôm nay ông cũng nên làm dấu đi.
Reviakin hai tay áp vào bụng, cúi chào đáp:
- Ivan Artemits, tôi cũng như thiên hạ
thôi. Thiên hạ cam chịu thì tôi cũng thế... Thiên hạ khổ cực thì tôi cũng vậy.
Ivan Artemist khạc nhổ:
- Đồ chó, chỉ ba hoa! Thực là đồ chó!
Ivan Artemist bỏ đi. Gã dở người kêu be be
sau lưng lão như một con dê.
Chương 129
Chốc chốc quân lính lại phải gò người kéo xe ngựa và đại bác ra khỏi
bùn. Gió Tây thổi từ mấy ngày nay trong khi các đạo quân của tướng Vaide và
tướng Artamon Golovin đang chậm chạp tiến về phía Tây, rải ra trên khoảng một
trăm dặm. Sư đoàn Repnin vẫn chưa rời khỏi Moskva: hơn mười lăm ngàn bộ binh và
kỵ binh và khoảng mười ngàn xe ngựa.
Sương mù giá lạnh vương trên các ngọn cây
trong rừng. Mưa đã làm rụng nốt những chiếc lá cuối cùng trên những cây phong
và hoàn diệp liễu. Xe thụt đến tận trục bánh, nhiều con ngựa gãy chân trong bùn
xanh trên các ngả đường sụt lở. Suốt dọc đường, xác ngựa chết thối nằm sóng
sượt, bụng trương phình, chân chổng lên trời. Binh lính ngồi lặng thinh trên bờ
các hào hố, - có giết họ, họ cũng không nhúc nhích. Đặc biệt bọn sĩ quan nước
ngoài tỏ ra yếu sức; họ đã xuống ngựa từ lâu, áo khoác ngoài ướt sũng, bộ tóc
giả đẫm nước, họ ngồi run lập cập giữa một đống đồ táp nham lộn xộn, dưới mui
bằng vải gai của các xe ngựa.
Rời Moskva ra đi, đoàn quân trông thật đẹp
mắt, mũ lông, áo chẽn, tất xanh. Nhưng tới gần biên giới Thụy Điển thì họ đã
chân không giầy, quần áo bẩn thỉu, hàng ngũ xáo lộn. Khi họ vòng quanh hồ
Inmen, nước dâng cao, tràn lên các cánh đồng cỏ bên hồ: một số lớn xe quân
lương chìm nghỉm.
Tình trạng hỗn loạn đến nỗi các đoàn xe
không theo kịp, đoàn nọ đi lẫn vào đoàn kia. Tới các trạm nghỉ, không sao nhóm
được lửa, - trên đầu thì mưa dội xuống, dưới chân thì bùn lầy. Đám kỵ sĩ của
đội cảnh vệ quý tộc còn tệ hại hơn cả quân thù; không khác gì đoàn châu chấu, chúng
cướp lương thực của các làng lân cận.
Khi đi ngang qua bộ binh, chúng thét:
- Tránh ra, đồ súc sinh!
Aleksey Brovkin, đại úy của trung đoàn tiên
phong Von Sveden, thường chửi mắng và cầm gậy đánh bọn quý tộc nhỏ đi ngựa. Khó
khăn và thiếu thốn thì nhiều nhưng trật tự thì kém.
Mãi tới sông Luga, gần biên giới, đoàn quân
tiên phong mới thoát khỏi bùn lầy và hạ trại tại chỗ, chờ đoàn xe quân lương.
Mọi người dựng lều, hong tạm quần áo khô được tí nào hay tí nấy. Binh lính nhắc
đến những chiến dịch Azop; có người nhớ lại những cuộc hành quân của Vaxili
Golixyn ở Krym. So sánh làm sao được: trước kia là đi qua những đồng cỏ phóng
khoáng tiến về miền Nam ấm áp! Vừa đi vừa ca hát... Còn ở đây! Cái vùng này mới
tệ hại làm sao! Toàn những bãi sình lầy ảm đạm, toàn là mây và gió. Sẽ phải đổ
ra biết bao nước mắt mới chinh phục được cái vùng chết đói này.
Những đống lửa đốt trước các lều bốc lên
một làn khói cay xè. Binh lính vá víu áo quần, xuống bờ sông trơn tuột để giặt
rũ. Giầy quân đội phát đã nát bươm.
Sung sướng thay những kẻ kiếm được giầy gai
và tất, còn những người khác thì phải lấy giẻ rách quấn chân. Chưa cần chiến
đấu, một nửa số quân cũng có thể sẽ chết trước tháng mười một.
Thỉnh thoảng lính kỵ lại dẫn về một tù binh
Phần Lan, dây thừng thòng lọng ở cổ. Mọi người xúm quanh nó, hỏi nó bằng tiếng
Nga và tiếng Tarta về đời sống của dân vùng này.
Nhưng những gã Phần Lan này mới ngốc nghếch
làm sao chứ: chúng chỉ chớp chớp mắt, lông mi như lông mi bê con và chẳng nói
chẳng rằng. Người ta giải chúng đến lều của Aleksey Brovkin để lấy cung. Ít khi
chúng được thả về. Người ta trói gô chúng lại, giải chúng đến đoàn xe quân
lương, bán chúng lấy sáu mươi lăm kopeik,
- bọn khỏe mạnh thì giá đắt hơn, - cho bọn chủ quán. Bọn này đem chúng bán lại
ở Novgorod, nơi có đám nhân viên của bọn nhà thầu cho quân đội.
Aleksey Brovkin quản lý chặt chẽ đại đội
của hắn: binh lính của hắn được ăn uống no đủ, hắn chỉ trừng phạt họ khi họ
thực sự đáng tội, hắn ăn cùng với họ nhưng không tha thứ một sự cẩu thả nào.
Ngày ngày thường có người nằm sấp, hai mông đít lột trần, kêu la trước lều của
Aleksey vì bị đòn. Đang đêm Aleksey Brovkin thức giấc và đích thân đi kiểm soát
các trạm gác, có lần đi rón rén tới rìa rừng, hắn lắng tai nghe: có tiếng cây
cót két hoặc có lẽ là một con vật đang kêu rên. Hắn khẽ gọi. Hắn trông thấy lờ
mờ một người lính đang ngồi trên một gốc cây đã đốn, tay ôm khẩu súng, má áp
vào nòng súng. Aleksey hỏi gã:
- Ai đang phiên gác đấy?
Người lính bật dậy và thì thào:
- Chính tôi
- Ai đang phiên gác đấy? - Aleksey quát
lên.
- Golikov Andriuska.
- Chính mi đã kêu rên phải không?
Người lính nhìn thẳng vào mặt Aleksey một
cách kỳ quặc:
- Tôi không rõ!
- Tôi không rõ! Hừ, cứ thế đi, đồ mặt mẹt!
Đáng lẽ phải đánh gã, đúng thế... Aleksey
nhớ lại ngọn lửa bốc cao trên khu rừng, trên ngôi nhà thờ sụp đổ lên đầu đám
người bị thiêu sống và trên bãi tuyết sáng rực, gã nầy đang thất vọng vò đầu
bứt tai. Aleksey đã ra lệnh giải gã đi cùng với gã mugic điên dại và lão già Nectari. Dọc đường, một đêm ngừng lại
nghỉ dưới những cây tùng, Nectari đã trốn mất, có ma quỷ biết lão trốn bằng
cách nào. Andriuska Golikov nằm trong xe trượt tuyết, dưới tấm chiếu gai, bất
tỉnh, chẳng ăn chẳng nói. Tại Povenez, trong đồn cảnh sát, khi hỏi cung, người
ta lấy roi dọa quất gã, gã bỗng chồm lên:
- Tại sao lại hành hạ tôi? Người ta đã hành
hạ tôi đủ rồi... Cứ làm như người ta chưa hảnh hạ ai bao giờ.
Và gã đã khai hết. Viên lục sự viết không
kịp chấm mực nữa. Gã giật bỏ chiếc áo tu sĩ ngắn, chỉ vào những vết sẹo do các
trận đòn để lại. Aleksey nhận thấy gã không phải là một con người thường, và
lại có học. Hắn ra lệnh cắt tóc cho gã và dẫn gã đi tắm để đưa vào lính.
- Một người lính không được kêu rên...
nhưng có lẽ mi ốm chăng?
Golikov cứng đờ người trong tư thế nghiêm,
không trả lời. Aleksey giơ gậy lên dọa rồi bỏ đi. Golikov tuyệt vọng gọi:
- Thưa ngài đại úy!
Tiếng nói đó từ trong bóng tối vọng ra làm
Aleksey rùng mình: chính bản thân hắn xưa kia cũng đã từng như thế. Hắn dừng
lại và nghiêm giọng hỏi:
- Thế nào, còn cái gì nữa?
- Tôi sợ bóng tối, thưa ngài đại úy, tôi sợ
cảnh vắng lặng đêm hôm... Sự lo sợ còn tệ hại hơn cái chết! Tại sao người ta
lại dẫn chúng tôi đến đây?
Aleksey ngẩn người ra, hắn đi lại phía
Golikov:
- Sao mi dám nói năng như thế, đồ vô lại!
Với những lời lẽ như vậy, mi có biết mi đáng tội gì không?
- Aleksey Ivanovich, xin ngài cứ việc giết
chết tôi ngay tức khắc... Chính bản thân tôi là kẻ thù tệ hại nhất của tôi...
Sống như thế thì một con vật cũng đã chết toi từ lâu rồi... Thế giới này không
muốn thu nhận tôi! Tôi đã xoay đủ mọi cách - cái chết cũng không vời đến tôi...
Thật là vô lý... Súng của tôi đây, xin ngài đâm cho tôi một nhát lê!
Để đáp lại, Aleksey nghiến răng đánh vào
mang tai Andriuska - đầu anh ta lắc lư nhưng anh không than vãn một lời.
- Nhặt lấy mũ, đội vào. Đây là lần cuối
cùng ta nói tử tế với mi, đồ vô thần, vô đạo... Mi đã theo học các thánh lão! À
ra họ đã dạy mi khôn ngoan thế đấy! Mi là lính. Người ta bảo mi ra trận, mi
phải đi. Người ta bảo mi chết, mi phải chết. Tại sao? Vì phải làm như vậy. Hãy
đứng đó cho tới sáng... Nếu mi lại kêu rên và ta còn nghe thấy thì liệu hồn!
Aleksey bỏ đi không quay đầu lại. Trở về
lều, hắn ngả lưng xuống đống rơm. Còn lâu mới tới sáng. Không khí ầm ướt nhưng
trời không mưa cũng không gió. Hắn kéo chiếc chăn ngựa chùm lên đầu và thở dài:
- Đứa nào cũng im không nói, có thế, nhưng
chúng vẫn nghĩ cả đấy thôi... A, cái bọn người này...
Tên lính Fetka Mõm bẩn, vẻ mặt ủ rũ, lom
khom đổ nước trong gầu vào tay Aleksey.
Aleksey thổi vào nước lạnh buốt, da hắn sởn
gai lên. Buổi sáng trời lạnh: trên đám cỏ đổ rạp, sương giá nom như xanh lơ,
dưới gót những đôi ủng lớn, một thứ bùn quánh kêu lép nhép... Khói từ các đống
lửa bốc lên cao giữa các dãy lều. Trung úy Leopondux Mirbac tỉnh dậy hãy còn
ngái ngủ, tấm da cừu khoác trên chiếc áo có đính lon, không biết thét gì với
hai người lính: hai người này người cứng đờ, mặt ngước lên, lo sợ.
- Phải quật cho chúng mày một trận mới
xong! - Y nhắc lại giọng khàn khàn. - Quỷ bắt chúng mày đi!
- Schwein(1)
- Y nắm lấy mặt một trong hai người lính, bóp chặt, đẩy anh ta. Xốc lại tấm da
cừu trên vai, y bước về phía lều của Aleksey. Bộ mặt y đã lâu không cạo, sị ra,
mi mắt húp híp.
- Không có nước nóng... Không có gì ăn...
Không phải là một cuộc chiến tranh... Một cuộc chiến tranh chuẩn bị tốt thì
người sĩ quan hài lòng. Tôi không hài lòng chút nào... Lính của ông toàn là
lính tồi!
Aleksey không trả lời, đang bận lấy khăn
mặt xoa mạnh hai bên má. Hắn khục khặc ho, mình mặc chiếc sơ mi nhem nhuốc, hắn
giơ lưng ra cho Fetka:
- Đấm đi!
Fetka lấy lòng bàn tay đấm đấm...
- Mạnh vào.
Giữa lúc đó một chiếc xe chở nặng, mui làm
bằng một tấm vải dày căng trên những khung vòng cung, từ trong rừng chạy ra.
Sáu con ngựa màu lông khác nhau, bốc hơi dày đặc. Độ mươi kỵ sĩ, áo khoác ngoài
bê bết bùn, theo sau. Chiếc xe lắc la lắc lư trên những gốc rạ đã bị dẫm nát,
đi bước một tới chỗ trại quân. Aleksey vớ lấy chiếc áo chẽn, hắn vội quá đến
nỗi không sỏ được tay áo. Hắn vớ lấy thanh gươm và chạy về phía các lều:
- Trống đâu, nổi trống tập hợp?
Chiếc xe đã đỗ lại. Vua Piotr bước xuống,
đầu đội mũ cát két lông thú có che tai. Melsikov xuống sau, tấm áo choàng rộng
màu đỏ tươi lót lông hắc điêu thử vướng vào đinh thúc ngựa hình sao. Các kỵ sĩ
cũng xuống ngựa. Sa hoàng nheo mắt nhìn trại quân, hai bàn tay đỏ ứng thọc vào trong
túi áo bông ngắn. Trong không khí trong suốt, tiếng kèn, tiếng trống vang lên
giòn giã. Binh lính từ trên các xe nhảy xuống, từ các lều chạy ra, cài vội khuy
áo, quàng dây đeo kiếm. Họ tập hợp thành ô vuông. Các trung úy cưỡi ngựa phi
nước kiệu chạy dọc hàng quân, lấy gậy thúc họ, chửi bới bằng tiếng Đức. Aleksey
Brovkin, tay trái đặt trên đốc gươm, tay phải cầm mũ, dừng lại trước mặt vua
Piotr. Trong lúc hấp tấp hắn đã không tìm thấy bộ tóc giả. Sa hoàng vừa nói vừa
nhìn qua đầu tóc rối bù của hắn:
- Đội mũ vào. Trong chiến dịch, người ta
không bỏ mũ ra, đồ ngu. Đoàn xe chở thuốc súng của ngươi đâu rồi?
- Hiện ở lại bên hồ Inmen, thuốc súng bị ẩm
hết, thưa Ngài pháo thủ.
Vua Piotr đưa cặp mắt tròn xoe quay sang
nhìn Melsikov. Y uể oái bóp bóp bộ mặt cạo nhẵn nhụi.
- Đề nghị ông trả lời cho biết, - Melsitkov
vừa nói vừa nhìn qua đầu Alioska. - Các đại đội khác của trung đoàn đâu? Đại tá
Von Sveden đâu?
- Thưa tướng quân, các đại đội đó hiện đóng
rải rác dọc sông, mé hạ lưu.
Melsikov vẫn nhếch mép, gật gù. Vua Piotr
cau mày không nói gì cả.
Cả hai người, tầm vóc cao lớn, đi qua những
gốc rạ sắc về phía các ô vuông quân lính. Không rút tay khỏi túi áo, Sa hoàng
nom có vẻ như lơ đãng ngắm nhìn bộ mặt gầy nhom xám xịt của đám lính, những cái
mũ dạ tồi méo mó vì mưa gió. Áo chẽn nhàu nát, chân quấn giẻ rách. Chỉ có các
trung úy người nước ngoài là ưỡn thẳng người, ra vẻ oai hùng.
Họ đứng như vậy một lúc lâu trước đội quân
sắp thẳng hàng. Vua Piotr lắc mạnh đầu ngẩng lên:
- Chào các chú!
Các viên trung úy giận dữ quay lại phía
quân lính. Một tiếng hô chuệch choạc vang lên trong hàng ngũ:
- Chúc sức khỏe Ngài pháo thủ.
- Có ai phàn nàn kêu ca gì không? - Vua
Piotr vừa nói vừa tiến gần lại.
Binh lính đứng lặng thinh. Các viên trung úy,
một tay đặt trên chiếc gậy chống cách xa người, tung chân trái tiến lên trước,
chằm chằm nhìn Sa hoàng. Nhà vua liền nhắc lại, giọng xẵng hơn:
- Nếu ai có điều gì muốn kêu ca, hãy bước
ra khỏi hàng không việc gì mà sợ.
Bỗng có tiếng thở dài, não nuột như một tiếng
nức nở. Aleksey nhìn Golikov, khẩu súng ngọ nguậy trong tay gã, nhưng gã tự
trấn tĩnh được và không nói gì.
- Ngày mai, ta sẽ tiến đánh thành Narva. Có
rất nhiều việc phải làm, các chú ạ. Tên vua Thụy Điển Charles đang đích thân
tiến về phía ta. Phải đánh bại hắn. Ta không thể đem Tổ quốc nộp cho hắn được.
Vùng này có Yam-Gorod, Ivan-Gorod, Narva - tất cả miền đất đai chạy ra tới biển
là tổ quốc ta xưa kia. Chúng ta thắng càng chóng, sẽ càng sớm trở về nghỉ ngơi
tại nơi trú quân mùa đông. Các chú rõ chưa?
Nhà vua nghiêm nghị trợn mắt. Binh lính im
lặng nhìn Sa hoàng. Thật dễ quá, có gì mà không rõ. Một giọng nói buồn thảm
khàn khàn từ trong hàng ngũ thốt lên:
- Ta sẽ thắng, khoản người thì ta không
thiếu.
Melsikov vội tiến lên một bước để nhìn xem
ai nói.
Aleksey sững sờ cả người: chính là Fetka
Mõm bẩn, tên lính tồi nhất.
- Ông đại úy... - Aleksey vội nhảy tới - Ta
cám ơn đại úy về trật tự tốt trong đại đội của đại úy... Còn các chuyện khác
không phải lỗi tại đại úy. Hãy phát cho mỗì người ba khẩu phần vodka.
Vua Piotr đầu cúi gằm xuống ngực, bước
nhanh về phía xe ngựa. Melsikov nháy mắt với Aleksey, giờ đây y mới hạ cố nhận
ông bạn cũ của mình: y rút bàn tay chải chuốt từ trong áo choàng lông thú ra,
ôm hôn Alioska, và ghé vào tai bạn thì thầm:
- Tốt lắm, Piotr Alekseevich hài lòng đấy.
Tại đơn vị của cậu không như các đơn vị khác... Nếu cậu lập công trước thành
Narva thì sẽ được thăng đại tá đấy! Mình đã gặp Ivan Artemist ở Novgorod, ông
cụ có nhờ mình chuyển lời chào cậu.
- Xin cảm ơn, Alekxandr Danilovich!
- Chúc cậu may mắn!
Nâng phía trước áo choàng lên, Melsikov
chạy đuổi theo vua Piotr. Hai người lên xe. Xe chạy dọc theo bờ sông, tới nơi
dòng sông lượn quanh khu rừng tùng, phản chiếu bầu trời lạnh lẽo.
Cách Narva hai dặm về phía hạ lưu, người ta
dựng một chiếc cầu nổi vắt qua hai nhánh sông Narova ôm lấy hòn đảo Kampechom
dài thườn thượt và sình lầy. Các trung đoàn kỵ binh của Seremetiev đã vượt qua
cầu đó, tiến trên đường đi Revan để đánh địch.
Theo sau họ, các đơn vị của sư đoàn
Trubetxkoi đã vượt sang tả ngạn. Cách các pháo đài của thành Narva một dặm, họ
dừng lại đóng quân, cố thủ sau các xe quân lương. Quân lính đóng trong thành
Narva không ngăn cản họ vượt sông, có lẽ đội quân bị vây hãm trong thành có ít,
không dám kéo ra nơi trống trải.
Ngày hai mươi ba tháng chín, toàn bộ đội
quân tiên phong, rời con đường đi Yam-gorod, đổ vào cánh đồng ngổn ngang gò
đống; khi xa xa, xuất hiện những ngọn tháp to bè bè cỏ mọc kín của Ivan-gorod,
một ngôi thành cổ xưa kia của Ivan Hung đế, những ngôi nhà thờ xanh lơ trên có
mũi tên, và những mái ngói của thành Narva, nhấp nhô bên kia sông, đạo quân
tiến về phía đảo Kampechom và bắt đầu vượt qua sông trên những chiếc cầu rung
rinh của dòng sông nước đục và chảy xiết.
Ngày hôm đó yên tĩnh. Mặt trời chỉ hơi lóe
sáng, lờ mờ. Các nhà thờ xây bằng gạch ở Narva và Ivan-gorod kéo chuông báo
động.
Trên con đường rải cát, rộng thênh thang,
lồi lõm, gập ghềnh, binh lính nhốn nháo đổ về phía các cầu, quân xtreletz đầu đội mũ viền lông cáo mà Sa
hoàng ghét cay ghét đắng, những xe ngựa bốn bánh gẫy nát vá víu tạm bợ, chở đầy
thùng, bị, hòm, bánh mì mốc meo; những người mugic đánh xe, sau cuộc hành trình, áo quần rách bươm, quất đàn
ngựa nhỏ bé gầy còm, mệt lử, vòng cổ làm bằng sợi gai; bên trên đám người nhấp
nhô một lá cờ buộc vào cán hoặc một lá cờ hiệu ở đầu một ngọn giáo, hoặc cái
chổi thông nòng súng trên vai một pháo thủ bị lạc đơn vị; một sĩ quan cưỡi
ngựa, một vạt áo choàng vắt trên vai cầm gậy đánh vào đầu binh lính để mở
đường. Con một lãnh chúa, áo bông mở phanh, khoác trên người áo giáp của ông
nội, vừa phi ngựa nước đại vừa hét; theo sau gã, lính của gã tròn xoe như những
thùng rượu trong bộ áo giáp nẹp bằng dạ khâu đột, lưng đeo cung tên kiểu Tarta
nhấp nhổm trên lưng những con ngựa già hom hem.
Trên đường đi, mọi người đều quay đầu về phía
một ngọn đồi trọc, ở cách xa đường, nơi Sa hoàng mặc áo giáp sắt, cưỡi một con
ngựa xám, đang giương ống nhòm nhìn. Melsikov, bàn đạp chạm bàn đạp của Sa
hoàng, một tay chống nạnh, cưỡi một con ngựa ô, mặt mày tươi tỉnh, những chiếc
lông cắm trên mũ sắt thếp vàng óng ánh của y phất phơ trước gió.
Đạo quân triển khai thành hình móng ngựa
trước thành Narva cách xa một tầm súng đại bác, hai sườn dựa vào dòng sông
Narva; các đơn vị thuộc sư đoàn Vaide đã chiếm lĩnh vị trí trên mé thượng lưu,
ở chính giữa; dưới chân núi Hermansberg rậm rạp là sư đoàn Artamon Golovin; bên
cánh trái, trước chiếc cầu bắc tới đảo Kampechom là các trung đoàn Xemionovski,
Preobrazenski, và các trung đoàn xtreletz
của Trubetxkoi. Lều của quận công Von Kroi được dựng lên ở đó, ông ta đi theo
đạo quân với tư cách là cố vấn cao cấp. Vua Piotr và Melsikov vào nghỉ tại một
căn nhà gỗ của ngư dân ở ngay trên đảo.
Dọc suốt trận tuyến, binh lính đào một
đường hào sâu có lỗ khoét ở bờ, có ụ chiến đấu ở các góc và pháo đài quay ra
phía ngoài để đề phòng quân Thụy Điển từ phía đường đi Revan tiến đến. Trước
những pháo đài của thành Narva, quân Nga xây dựng những công sự cho pháo hãm
thành. Kỹ sư Halac điều khiển các công trình. Các lỗ châu mai trên thành nhả ra
những đám khói mù mịt, đại bác nổ ầm ầm trong không khí ẩm ướt mùa thu; đạn
trái phá vạch trên bầu trời những dường vòng cung cao ngất, xì khói, rơi xuống,
nổ tung bên cạnh xe ngựa, lều vải trong các hầm hố, binh lính ở đó nhảy vội cả
ra ngoài. Đạn trái phá đã đốt cháy nhiều trại ấp có vườn hoa và vườn rau xung
quanh.
Khói từ những đám cháy và các đống lửa của
đạo quân đóng ngoài trời bốc lên thành một đám mây trắng và bị cuốn về phía
thành phố, ở đó phụt ra những lưỡi lửa của đạn trái phá. Tư lệnh thành Narva là
đại tá Hooc, một viên tướng dũng cảm và dày dạn kinh nghiệm.
Vua Piotr và kỹ sư Halac, cưỡi ngựa, lẩn
trong vườn và núp sau những ngôi nhà, đi xem xét các pháo đài Toma, Gloria,
Chriation và Triumf. Đôi khi hai người tới gần quá đến nỗi trông thấy cả khuôn
mặt khắc khổ của bọn pháo thủ Thụy Điển qua những cửa súng trên thành. Không
hấp tấp vội vã, nhưng lanh lẹn, chúng chuyển pháo đến, ngắm thận trọng.
- Bắn!
Viên đạn phăng phăng đè không khí, rít qua
đầu. Mắt vua Piotr mở rộng, tròn xoe, các thớ thịt trên gò má căng lên nhưng
nhà vua không cúi đầu. Kỹ sư Halac vốn đã từng trải nhiều, ông ta là một con
người nghiêm trang, điềm tĩnh và không vui, thúc ngựa đúng lúc và lánh ra xa.
Melsikov, ăn mặc lộng lẫy, vả lại chính hắn là mục tiêu của mỗi phát đạn địch,
chỉ lắc lắc những chiếc lông cắm trên mũ; tính vốn huênh hoang, hắn thét bảo
bọn pháo thủ:
- Ngắm chệch rồi, Camarads(2) - và vỗ vỗ vào cổ con ngựa của hắn đang chồm. Khoảng
năm chục long kỵ binh, to lớn như hộ pháp, râu ria rậm rạp đứng đó đợi không
nhúc nhích: ai sẽ bị quả bóng đen quật phải đây.
Tường thành thì cao. Các pháo đài nhô ra
theo hình cánh cung xây bằng đá tảng, vững chắc đến nỗi những quả đạn gang văng
vào, vỡ tan như những quả hạt dẻ. Qua lỗ châu mai và cửa súng trên các tháp thò
ra những họng pháo hạng nặng, thành Narva có ít nhất ba trăm khẩu loại này;
quân đồn trú trong thành có khoảng hai nghìn bộ binh, kỵ binh và dân được vũ
trang. Quân trinh sát đã nói láo khi bảo rằng chỉ cần một trận xung phong là
chiếm được Narva.
Vua Piotr xuống ngựa ngồi lên một cái
trống, và mở một tờ giấy đặt lên đầu gối. Miska, người liên lạc của nhà vua đưa
ra một lọ mực. Halac, ngồi xổm bên Sa hoàng, ước lượng khoảng cách bằng mắt,
bàn tay to lớn của vua Piotr cầm chiếc bút lông ngỗng, thận trọng vạch lên giấy
những nét run rẩy. Melsikov đi đi lại lại trước hàng long kỵ binh ngồi trên
ngựa sắp thành hình cánh cung.
- Mỗi pháo đài phải có mười lăm khẩu pháo
hãm thành; và để chọc thủng tường thành phải có sáu mươi khẩu pháo đồng đen
nặng bốn mươi tám livrơ. - Halac nói, giọng đều đều, tẻ ngắt. - Tồi ra cũng
phải một trăm hai mươi nghìn viên đạn!
Vua Piotr nói:
- Hay lắm!
- Để gây ra những đám cháy trong thành;
trước khi xung phong phải có ít nhất bốn mươi khẩu súng cối mỗi khẩu một nghìn
viên đạn!
Vua Piotr vừa nói vừa ghi những con số:
- Đấy ở bên châu Âu, người ta lý luận như
thế đấy.
- Mười thùng lớn đựng dấm để làm nguội các
khẩu pháo. Chỉ có bắn liên tục, chỉ có một trận pháo kích dữ dội của tất cả các
khẩu đội như đổ lửa địa ngục mới đánh bại được quyết tâm của những kẻ bị vây
hãm trong thành. Thống chế De Lucxemburg dạy ta như vậy. Phải có mười lăm nghìn
thủ pháo. Một nghìn thang xung phong cao mười hai arsin khá nhẹ để hai người có thể vác chạy được. Năm nghìn túi đựng
len.
- Để làm gì?
- Để bảo vệ binh lính chống đạn súng hỏa
mai. Khi vây hãm thành Dunkeck, thống chế Voben nhờ có những túi len đó đã tiến
được tới sát cổng thành, mặc dầu súng hỏa mai bắn hết sức ác liệt vì đạn rất dễ
dàng bị len mút mất.
Giọng do dự, vua Piotr vừa nói vừa ghi vào
giấy:
- Được Danilys, cần có len đấy, năm nghìn
túi!
Melsikov, chống hai tay lên đầu gối giạng
ra, cúi xuống nhìn tờ tiấy phập phồng trước gió. Y bĩu môi:
- Thế thì xa xỉ quá, Myn Herz. Vả lại không
thể tìm đâu ra len được. - Nói với Halac - Tại Azop, người ta chỉ dùng gươm để
leo lên tường và đã chiếm được thành phố.
Phía sau họ, trong hàng long kỵ binh, một
con ngựa vùng vẫy, một người thốt lên một tiếng kêu ú ớ. Mọi người quay đầu
lại. Con ngựa trắng của một long kỵ binh, mình đè lên chân cố ngóc đầu dậy -
một tia máu đen, to bằng ngón tay, phọt ra qua mũi. Đám long kỵ binh rậm ria,
kinh hãi, liếc nhìn các bụi cây cách đó khoảng một trăm bước; từ đó tỏa ra
những làn khói nhỏ. Vua Piotr, tay cầm bút đang giơ lên, ngồi sững y nguyên
trên tang trống.
Trong tiếng đại bác nổ ầm ầm, một đơn vị kỵ
binh đã lén xông ra qua cửa một ngọn tháp của thành Narva, nấp sau một chỗ nhô
ra của pháo đài Gloria, và đã chạy men sau hàng rào các vườn rau. Theo sau
chúng, khoảng năm mươi tên kỵ binh Đức, mặc áo giáp sát và mũ sắt đội sụp xuống
tận mắt, cưỡi những con ngựa hồng to nặng, nhảy ra. Chúng vung gươm, phi nước
đại, trải ra trên cánh đồng thạch thảo, định bọc lấy cánh trái.
Alekxandr Danilovich, mắt mở thao láo, đưa
mắt nhìn một giây, không hơn, cái trò nghi binh ấy; rồi hắn lao đến chỗ con
ngựa ô, cởi áo choàng, quăng đi, nhảy lên yên. Hắn thét to, mặt đỏ tía:
- Tuốt gươm ra!
Hắn tuốt thanh gươm ra khỏi vỏ, thúc đinh
ngựa hình sao, nằm rạp xuống cổ con ngựa nòi đang chồm lên, rồi lại thúc ngựa
lao như bay về phía trước:
- Long kỵ binh, hãy theo ta!
Melsikov và toàn thể đám long kỵ binh, lượn
quanh Sa hoàng đang đứng bên chiếc trống, phi nước đại xông tới chặn đường bọn
kỵ binh Đức, lúc đó bọn này đã ghìm ngựa và quay trở lại
Halac, mím chặt đôi môi mỏng, vẻ lo âu,
giắt con ngựa cái màu xám bờm đen đang hoảng sợ lại gần Sa hoàng.
- Xin mời bệ hạ rời khỏi khu vực đạn bắn.
Vua Piotr nhún một chân nhảy lên yên. Nhà
vua nhìn đội long kỵ binh và đội kỵ binh Đức đang tiến lại gần nhau. Quân ta
phi ngựa thành một khối: phía trước, phất phơ chùm lông cắm trên cái mũ sắt sáng
loáng của Alexaska; quân Thụy Điển đã tản ra ở đằng xa trên cánh đồng; lúc đó
bọn kỵ binh ở hai bên cánh, bỗng rẽ ngang, thúc ngựa và lấy sống gươm đánh
ngựa. Nhưng chúng đã không kịp tập hợp lại. Vua Piotr thấy con ngựa ô của
Alexaska lao cả ức vào con ngựa hồng của một tên kỵ binh Đức, tên này ngã ngựa,
bám chặt lấy bờm
Chùm lông đỏ xuất hiện thoắt ở chỗ này,
thoắt ở chỗ kia, giữa đám mũ sắt. Nhưng đội long kỵ binh đã xông đến như thác
đổ và không dừng lại, tiếp tục phi nước đại. Họ vung kiếm lên như trò trẻ. Đằng
sau họ; người chết nằm la liệt dưới đất: kẻ thì lắc lư cái đầu gục trên ngực,
cố nhỏm dậy, kẻ thì ngọ nguậy đầu gối đang giơ cao. Nhiều con ngựa không người
cưỡi, hốt hoảng phi nước đại, băng qua cánh đồng.
Halac cứ một mực kéo cương ngựa:
- Tâu bệ hạ, ở lại đây nguy hiểm lắm.
Con ngựa cái màu xám khuỵu chân, hất hậu.
Vua Piotr lấy gót chân thúc vào hai bên sườn ngựa. Đi đã xa nhà vua vẫn ngoái
cổ lại. Lúc này, bọn kỵ binh Đức phóng thục mạng bỏ chạy trước quân Nga: để
chặn đường chúng chạy về phía thành phố, từ bên phải nhiều kỵ sĩ quần áo sặc
sỡ, vừa phi ngựa qua những luống rạ màu nâu, vừa vung cao lưỡi kiếm cong của
họ, với cái vẻ ngang tàng của người Tarta - đó là một số xotnia(3) của trung đoàn không chính quy của các nhà quý tộc. Từ
dưới mái lợp ván gỗ che bờ tường thành, những khẩu súng hỏa mai nhắm vào họ nổ
đì đùng.
Sa hoàng và Halac tiến vào một khu rừng
phong. Nhà vua hít không khí căng lồng ngực và cho ngựa đi bước một. Nhà vua tự
trả lời những ý nghĩ của mình: “A, đúng, không phải là chuyện dễ”.
- Tâu bệ hạ, xin có lời mừng bệ hạ, - Halac
nói. - Bệ hạ có những kỵ sỹ rất xuất sắc.
- Rồi thì sao? Như thế chưa đủ... Nổi giận
lên, phi nước đại, chém giết... Chỉ có thế thôi thì không đủ để chiếm được
thành...
Vua Piotr giật cương, leo lên một ngọn đồi
và trán nhăn lại, nhà vua đứng nhìn hồi lâu hàng quân và xe trải dài ra gần bảy
dặm. Khắp nơi, từ các hào hố, những hòn đất bay lên uể oải. Tiếng kêu, tiếng
chửi.
Mọi người không có việc làm xúm quanh những
đống lửa bên những cỗ xe đã tháo ngựa.
Đàn ngựa bé nhỏ, gầy nhom bị tròng chân
lại. Những mảnh quần áo rách rưới phơi lòng thòng trên các bụi cây. Người ta có
cảm giác như đạo quân to lớn này cử động và sống uể oải, miễn cưỡng.
- Đừng nghĩ đến việc đó trước tháng mười
một, vô ích, - vua Piotr nói. - Chừng nào trời chưa băng giá thì chúng ta chưa
có thể đưa pháo hãm thành đến được. Trên giấy tờ là một chuyện, trên thực tế
lại là một chuyện khác.
Nhà vua lại cho ngựa đi bước một và hỏi
Halac về các chiến dịch và các trận công thành của các vị thống chế lừng danh,
Voben và quận công De Lucxemburg, những bậc thầy của nghệ thuật quân sự. Nhà
vua hỏi về các xưởng quân giới và các xưởng đúc pháo của Pháp.
Nhà vua lắc lắc cái cổ ngẳng của mình, bó
chặt trong chiếc cà vạt vải.
- Tất nhiên... Ở đó, mọi việc đều được tổ
chức chu đáo có sẵn sàng đủ mọi thứ... Hãy so sánh đường xá của họ và của chúng
ta.
Melsikov nhảy qua các hào hố, phi nước đại
tới, đang còn hăng, hắn vui vẻ cười ha hả, cặp mắt long sòng sọc... Trên chiếc
mũ sắt chỉ còn lại một chiếc lông độc nhất, bộ giáp đồng mang đầy vết tích gươm
giáo. Hắn ghìm ngựa đứng sững lại, sườn con ngựa khó nhọc phập phồng:
- Thưa Ngài pháo thủ... Quân địch đã bị
đánh lui và bị nhiều thiệt hại. Chưa được một nửa số kỵ binh Đức chạy thoát
khỏi tay quân ta.
Trong lúc phấn khởi, dĩ nhiên hắn có khoác
lác chút ít:
- Quân ta có hai người chết và vài người bị
sây sát xoàng.
Vua Piotr thích thú nhìn Alexaska đến nỗi
nhăn cả mũi lại; nhà vua nói:
- Tốt, ngươi là một chiến sĩ dũng cảm.
Buổi tối, các tướng lĩnh họp trong lều quận
công Von Kroi; Artamon Golovin, kiêu kỳ và rất nghiêm nghị. ông là người đầu
tiên sáng lập ra đội quân cận vệ trẻ; vương hầu Trubetxkoi - con cưng của các
trung đoàn xtreletz - một nhà quý tộc
đẫy đà và giàu có: Burtulin, tư lệnh đội cận vệ, lừng danh vì tiếng nói ầm ầm
như sấm và quả đấm nặng nề, và Vaide, đầu hói, đang ốm thực sự, run rẩy trong
cái áo khoác da cừu.
Khi Sa hoàng, Melsikov và Halac tới, quận
công mời tất cả những người có mặt dự một bữa ăn xoàng tại chiến trường. Những
món hiếm và thậm chí chưa từng thấy được dọn ra do một liên lạc viên của quận
công đã đi kiếm các thứ đó tại Revan, rượu vang Pháp và vùng sông Ranh đổ ra
như suối.
Quận công khoan khoái như cá trong nước.
Ông cho thắp nến la liệt. Vung vẩy bàn tay xương xẩu, ông thuật lại những trận
đánh nổi tiếng mà chính ông, từ trên đỉnh cao một ngọn đồi chế ngự cả trận địa
đẫm máu, một chân đặt lên một khẩu pháo đã vỡ, ra lệnh cho quân giáp ky chọc
thủng ô vuông của quân địch và kỵ binh đánh vào hai bên cánh, ông nhận chìm hàng
sư đoàn chết đuổi dưới sông, ông đốt phá các thành phố.
Những người Nga, mắt nhìn xuống, vẻ lầm lì,
ăn món măng non và món thịt băm của thành Stradburg.
Vua Piotr lơ đãng nhìn khuôn mặt có cái mũi
dài nghêu và bộ ria ướt của quận công. Lúc thì nhà vua gõ gõ nhịp trên bàn. Lúc
thì vặn vặn xương vai như thể có cái gì làm nhà vua ngứa ngáy. Từ hồi đầu chiến
dịch, người ta đã để ý thấy cái nhìn lơ đãng của Piotr Alekseevich.
- Narva! - Ông quận công vừa thốt lên vừa
chìa cốc không cho viên quan hầu. - Narva! Chỉ cần một ngày pháo kích cho trúng
và một trận xung phong ngắn gọn vào các pháo đài phía Nam... là chìa khóa thành
Narva đặt trên chiếc khay bạc sẽ được dâng lên bệ hạ. Chỉ cần để đây một đơn vị
đồn trú nhỏ và tung tất cả lực lượng của ta với đoàn kỵ binh triển khai ở hai
bên cánh, đánh vào quân của vua Charles. Chúng ta sẽ dự bữa ăn nửa đêm ngày lễ
Giáng sinh ở Revan, tôi xin lấy danh dự ra đảm bảo.
Vua Piotr rời khỏi bàn đứng dậy, đi vài
bước, đầu cúi xuống để khỏi chạm vào vải lều; nhà vua nhặt dưới đất lên một
cọng rơm rồi ngả mình nằm xuống giường của quận công - chiếc giường lấy của một
trại ấp gần đấy. Nhà vua lấy cọng rơm xỉa răng.
- Halac đã trình ta bảng liệt kê những thứ
cần thiết.
Mọi người ngừng ăn quay cả về phía Sa
hoàng.
- Nếu chúng ta có tất cả những thứ nêu ra
trong bản kê thì chúng ta sẽ chiếm được Narva. Chúng ta cần sáu mươi khẩu pháo
hãm thành... - Nhà vua ngồi dậy rút trong ngực ra một tờ giấy nhầu nát ném lên
bàn, trước mặt Golovin. - Đọc đi... Trong lúc này, ta chưa có lấy một khẩu pháo
tốt ở chiến lũy. Revin đang chật vật trong bùn trước thành Tver với những khẩu
pháo hãm thành... Hôm nay ta được biết là các khẩu súng cối đều nằm cả lại trên
cao nguyên Vandai... Đoàn xe chở thuốc súng hiện nay còn ở trên hồ Inmen... Vậy
các ngài nghĩ gì về việc đó, các ngài tướng soái?
Các viên tướng nhích một ngọn nến lại gần,
cúi xuống đọc bản kê. Chỉ có Melsikov mỉm một nụ cười hiểm ác trước cốc rượu
đầy tràn của mình, ngồi riêng ra một nơi.
Sau một lát im lặng, Sa hoàng nghiêm nghị,
thong thả nói tiếp:
- Đây không phải là một doanh trại, đây là
nơi tụ tập của bọn digan. Chúng ta đã chuẩn bị trong hai năm ròng... Vậy mà
chẳng có gì sẵn sàng hết... Còn tồi tệ hơn cả trước thành Azop. Còn tồi tệ hơn
cả thời Vaska Golixyn...
Alexaska gõ đinh thúc ngựa kêu lách cách,
và cười, mồm rộng tới mang tai.
- Thằng vô lại. Một doanh trại mà thế này
à? Lính tráng thì thơ thẩn trong các đoàn xe quân lương... Đầy rẫy lũ đàn bà
nông thôn, bọn con gái Phần Lan... Tiếng ồn ào. Sự lộn xộn... Lính tráng làm
việc uể oải, trông chúng mà phát tởm... Bánh mì thì mốc xanh... Tại một số
trung đoàn, thịt muối chỉ có đủ cho hai ngày... Thịt đâu cả? Ở Novgorod à? Tại
sao không có ở đây? Mùa mưa sắp bắt đầu, chỗ trú của binh lính đâu?
Trong lều chỉ nghe thấy tiếng nến nổ lép
bép. Ông quận công không hiểu rõ vấn đề gì, tò mò hết nhìn Sa hoàng lại nhìn
các viên tướng.
- Chúng ta rời khỏi Moskva ra đi đã hai
tháng nay mà chúng ta vẫn chưa tới. Thế mà cũng gọi là chiến dịch? Các ngài có
biết vua Charles đã bắt vua Chrixtian phải ký kết một hòa ước nhục nhã và nộp
một món tiền là hai mươi lăm vạn đồng tiền vàng không? Hiện nay vua Charles đã
cho cả đoàn quân đổ bộ lên Perno và đang tiến về Riga... Nếu giờ đây hắn đánh
bại vua Auguste ở Riga thì đến tháng mười một, chúng ta phải đón hắn ở đây,
trên đất nước chúng ta... Ta sẽ đón tiếp hắn ra sao?
Artamon Golovin, cấp bậc cao nhất và lâu
năm nhất bọn, đứng dậy vừa cúi chào vừa nhíu đôi lông mày trắng xóa:
- Tâu bệ hạ, nhờ ơn Chúa...
Vua Piotr ngắt lời, một mạch máu căng phồng
trên trán:
- Chúng ta cần có pháo. Cần có đạn trái phá!
Một trăm hai mươi nghìn viên đạn pháo. Phải có thịt muối, lão già ngu ngốc kia.
Mưa lại trút xuống, không ngớt, liền trong
mười lăm ngày ròng rã. Những đám sương mù dày đặc từ biển bay vào. Nước ngập
các nơi trú quân, nước nhỏ giọt trong các lều vải, người ta chẳng còn biết
tránh ẩm ướt gió lạnh đêm hôm vào nơi nào nữa. Toàn thể doanh trại ngập bùn đến
thắt lưng. Binh lính mắc bệnh ỉa chảy, sốt; đêm đêm hàng chục xe mang xác chết
đi chôn ở cánh đồng.
Từ trong thành, địch không ngừng nã pháo và
các loại súng khác vào đoàn quân vây thành.
Thường thường vào tang tảng sáng, địch lại
xông ra đột kích: quân Thụy Điển giết các lính gác, bò tới các nơi trú quân,
ném thủ pháo vào binh lính đang ngủ. Ngày ngày, vua Piotr cưỡi ngựa đi thăm các
công sự. Lặng lẽ nghiêm nghị, áo choàng đẫm ướt, vành mũ rũ xuống, từ trong màn
mưa hiện ra trên con ngựa xám, nhà vua dừng lại, đưa đôi mắt lờ đờ nhìn quanh
rồi thủng thẳng bước một xa dần trên cánh đồng lầy lội, và biến vào sương mù.
Các đoàn xe chậm chạp tới. Báo cáo cho biết
họ gặp nhiều khó khăn: nông dân đã hết sạch trơn, nên họ buộc phải lấy xe cộ
của các điền chủ và các tu viện.
Ngựa thì bé nhỏ, gầy nhom, rơm cỏ cho ngựa
thì mục nát và tình hình một ngày một trầm trọng thêm vì những trận mưa lớn và
đường xá lầy lội. Có tin đồn là trong căn nhà gỗ của ngư dân, Sa hoàng đã tự
tay đánh tổng quản đốc quân nhu đến chết ngất, và đã ra lệnh treo cổ viên phó
tổng quản đốc. Về lương thực, tình hình như có khá hơn đôi chút. Và trong doanh
trại cũng trật tự hơn phần nào. Bọn tướng tá chẳng ra gì: người Nga thì chậm
chạp quá, vốn sống theo lề thói cũ, họ lại ngu ngốc và ba hoa. Còn bọn tướng tá
nước ngoài thì chỉ biết có một việc: nốc vodka để chống lại sự ẩm thấp và đánh
đập bừa bãi, chẳng cần biết đúng hay sai.
Duy có một điều chắc chắn là vua Charles
sau khi đổ bộ lên Perno đã quay về phía Riga.
Hắn chỉ cần xuất hiện cũng chinh phục được
các hiệp sĩ xứ Livoni và dồn được quân của vua Auguste lùi sang Kurlan, còn vua
Auguste thì hiện đang ở Warsawa, giữa cái tầng lớp quý tộc bị chia rẽ vì những
sự tranh chấp và từ đó nhà vua đã cử mật sứ đến gặp Sa hoàng xin tiền, xin quân
Cô-dắc, xin pháo, xin bộ binh...
Trước thành Narva, mọi người đều biết sẽ
phải chạm trán với quân Thụy Điển vào tiết băng giá đầu tiên.
Seremetiev dẫn đầu bốn trung đoàn kỵ binh
không chính quy, được vội vã phái đi tiến công địch, tiến đến tận Vedenberg và
đánh tan được đạo quân án ngữ của Thuỵ Điển, nhưng đột nhiên, ông rút lui về
phía hẻm núi Pihajogi, cách Narva khoảng bốn mươi dặm, và từ đó viết thư về cho
Sa hoàng:
“Thần
đã rút lui không phải vì sợ hãi mà là để tránh tổn thất cho quân ta. Trước
Vedenberg có những đầm lầy ghê gớm và những khu rừng mênh mông bát ngát. Cỏ
ngựa không những ở vùng đó mà cả ở các vùng lân cận đều bị thối nát hết. Và
điều làm thần lo sợ hơn cả là bị mất liên lạc với Narva... Còn bệ hạ bực bội vì
thần đốt phá làng mạc và giết dân Phần Lan thì xin bệ hạ cứ yên tâm: thần có
đốt một số nhỏ làng mạc cốt để cho địch không tìm được nơi trú ẩn. Hôm nay thần
đã ra lệnh cấm từ giờ trở đi, không được phá phách vùng đó nếu không có lệnh
đặc biệt. Tại nơi thần đang đóng quân ở Pihajogi, địch không thể nào lọt qua
mắt thần được. Thần sẽ không lùi nữa và ở nơi đây chúng thần sẽ hy sinh đánh
đến cùng, xin bệ hạ cứ tin như vậy”.
Sau đó, chẳng biết may hay rủi cho quân
Nga, trời nổi gió Bắc. Trong một ngày, gió xua tan hết sương mù ẩm ướt, mặt
trời thấp lè tè, le lói chiếu sáng nơi trú quân chìm ngập trong bùn. Trong
thành phố, một con gà trống vàng lóe lên trên đỉnh tháp một ngôi nhà thờ.
Băng giá khiến đất chắc lại. Các đoàn xe
chở đạn dược dần dần tới nơi. Hai mươi cặp bò kéo đến những khẩu đại bác lừng
danh: khẩu “Sư tử” và khẩu “Gấu”, mỗi khẩu nặng ba trăm hai mươi pud; những khẩu súng đó đã được Andrey
Sokhov và Xemion Dulbinka đúc một trăm năm trước đây ở Novgorod. Những khẩu
trái phá, những khẩu súng cối ngắn, có thể bắn những viên đạn nặng ba pud, trườn đi trên những bánh to và thấp
nom tựa những con rùa.
Tất cả bộ binh đều súng ống sẵn sàng, tất
cả các trung đoàn kỵ binh đều lên ngựa, kiếm tuốt trần, đề phòng quân Thụy Điển
xông ra đột kích.
Hai trăm người dùng dây thừng kéo khẩu “Sư
tử” và khẩu “Gấu” đưa lên lũy chính, đối diện với những pháo đài phía Nam của
thành. Suốt đêm hôm ấy, các khẩu trái phá và súng cối được đặt vào vị trí.
Trong thành, quân địch cũng không ngủ,
chuẩn bị đánh lui cuộc tấn công của đối phương; trên các tường thành lập lòe
những ngọn đèn con, quân canh gọi nhau í ới.
Tang tảng sáng ngày mồng năm tháng mười
một, vua Piotr leo lên đồi Hecmansberg, có ông quận công và các tướng soái theo
sau. Gió buốt căm căm, doanh trại còn chìm đắm trong cảnh chạng vạng, ánh mặt
trời đỏ lóe đọng trên những mái nhà nhọn hoắt của thành phố và trên lỗ châu mai
các tháp. Ở chân đồi, những tia lửa dài lóe lên, súng đại bác nổ vang, rung
chuyển cả cánh đồng, đạn trái phá vạch những đường cánh cung tóe lửa bay về
phía thành phố, khói phủ kín doanh trại và các bức tường thành. Vua Piotr hạ
thấp ống nhòm và phình lỗ mũi, gật đầu ra hiệu cho Halac. Halac cho ngựa tiến
lại gần, tặc tặc lưỡi:
- Hỏng. Đạn đi không được xa. Thuốc súng
chẳng ra gì!
- Làm thế nào bây giờ?
- Ngay tức khắc phải tăng liều thuốc...
Miễn là các khẩu pháo đủ sức chịu nổi.
Sa hoàng phóng xuống chân đồi, vượt qua
chiếc cầu rút và lao qua cổng làm bằng rầm gồ sồi, phi ngựa qua rào gỗ và các
chướng ngại vật cự mã. Ở khẩu đội trung tâm, pháo thủ tưới nước pha dấm vào
nòng súng dài nghêu của khẩu “Sư tử” và khẩu “Gấu”. Khẩu đội trưởng là người Hà
Lan Yakov Vintesievec, một thủy thủ già béo lùn với bộ râu dài nhét vào trong
cổ áo; y tiến lại gần Sa hoàng và bình tĩnh nói.
- Cái thứ này chẳng ra gì... Cái thứ thuốc
súng này chỉ để bắn chim sẻ thì tốt. Nó chỉ tóe ra khói và bồ hóng
Vua Piotr cởi bỏ áo choàng, áơ chẽn, sắn
ống tay áo lên và cầm lấy chổi thông nòng súng của pháo thủ, thọc mạnh lau nòng
súng đầy bồ hóng.
- Nhồi thuốc!
Từ dưới hầm, các pháo thủ làm dây chuyền,
chuyền tay nhau những gói thuốc súng bọc trong giấy màu xám.
Vua Piotr xé một góc gói thuốc, dốc thuốc
vào lòng bàn tay, và giận dữ thở phì phì như mèo.
Nhà vua nhét sáu gói vào nòng súng.
Yakov Vintesievec nói:
- Như thế nguy hiểm đấy ạ!
- Câm mồm, câm mồm... Đưa đạn đây!
Vua Piotr tung tung trên tay viên đạn tròn
nặng trĩu, lăn nó vào nòng súng rồi ấn mạnh chiếc chổi thông nòng lèn chặt viên
đạn. Nhà vua ngồi thụp xuống để ngắm, - quay một chiếc ốc.
- Châm ngòi! Tránh cả ra.
“Gấu” nổ một tiếng như xé màng tai, khạc ra
lửa, nặng nề giật lùi lại trên đôi bánh bằng gang và chúi nòng xuống: Viên đạn
bay đi, nom như một quả bóng cứ bé dần; đá trên tháp pháo đài Gloria bắn tung
tóe, một cửa pháo trên thành đổ ụp.
Yakov Vintesievec nói:
- Ồ khá đấy.
- Cứ tiếp tục như thế!
Vua Piotr mặc áo chẽn vào rồi phi ngựa đến
chỗ khẩu đội súng trái phá. Lệnh được truyền tới tất cả các khẩu đội phải tăng
gấp rưỡi liều thuốc nổ. Tiếng gầm của một trăm ba mươi khẩu pháo lại làm rung
chuyển mặt đất... Từ các khẩu súng cối, họng súng nghếch lên trời, một ngọn lửa
kinh khủng tóe ra. Khi gió đã xua tan những đám khói, người ta thấy hai ngôi
nhà cháy bùng bùng trong thành phố. Loạt súng thứ hai đã có kết quả tốt. Nhưng
ngay sau đấy, người ta được biết tại trận địa pháo phía Tây có hai khẩu mới đúc
ở xưởng của Lev Kirilovich tại Tula đã vỡ tan; trục giá súng của nhiều khẩu đã
rạn nứt.
- Cái đó sẽ xét sau... Ta sẽ tìm ra thủ
phạm... Cứ như thế mà tiếp tục bắn đi!
Trận bắn phá Narva đã mở đầu như vậy kéo
dài và không ngừng đến tận ngày mười lăm tháng mười một.
Fenten, đầu bếp của Sa hoàng, vừa bực bội
làu nhàu vừa làm món trứng tráng trên những thanh củi nhỏ đặt trước lò. Gã phụ
bếp đã phải phi ngựa đến tận vùng lân cận Yamburg, kiếm mãi mới được một chục
trứng nhưng trứng đều ung cả.
- Mi làu nhàu cái gì thế? Cho hạt tiêu vào,
Fenten, cho hạt tiêu vào!
- Tâu bệ hạ, thần nghe thấy rồi. Hạt tiêu
ạ!
Vua Piotr ngồi tựa lưng vào bức tường lò
nóng bỏng. Chi có chỗ đó là ấm. Trong căn buồng xép, sau bức vách, nơi Sa hoàng
và Alexaska ngủ, gió vẫn lọt qua các kẽ tường - Giờ đây, giữa nửa đêm, người ta
nghe thấy tiếng gió gào và cánh chiếc cối xay bên cạnh ngôi nhà nhỏ trên đảo kêu
ken két. Những thanh củi nhỏ gỗ phong nổ lách tách nghe vui tai. Anh chàng
Fenten béo lùn và hay càu nhàu đã bày thực phẩm ra trước lò thỉnh thoảng lại
ngửi. Ánh lửa đỏ rực chiếu sáng cái mũi to cau có.
- Này Fenten, nếu quân Thụy Điển bắt được
mi làm tù binh thì sao?
- Tâu bệ hạ, thần nghe đây!
- Chúng sẽ kêu ầm lên, a, a, tên đầu bếp
của Sa hoàng đấy? Và chúng sẽ treo ngược chân mi lên.
- Vâng, thì chúng cứ việc treo thần lên.
Thần biết rõ bổn phận của thần là thế nào!
Gã lấy một chiếc khăn lau tay sạch phủ lên
mặt bàn bằng gỗ ván, đã lung lay; đặt lên bàn một cái bình nhỏ bằng sành đựng
rượu nặng hòa với hạt tiêu, cắt chiếc bánh mì đen nguội ra từng khoanh. Sa
hoàng ngậm tẩu hút từng hơi ngắn, thán phục nhìn các động tác khéo léo, mềm
dẻo, nhanh nhẹn của Fenten; chân gã đi ủng dạ và mình mặc áo bông, ngoài thắt
một chiếc tạp dề.
- Ta không nói chơi đâu, điều ta nói về
quân Thụy Điển là ta nói thật đấy... Mi nên thu xếp đồ lề của mi lại cho gọn
gàng thì hơn!
Fenten liếc nhìn Sa hoàng. Gã đã hiểu: vua
Piotr không nói đùa. Gã nhấc chiếc chảo có đựng trứng tráng từ bếp lò, đặt
thẳng lên bàn, rót vodka vào cốc thiếc:
- Tâu bệ hạ bữa ăn đã dọn xong!
Gió làm rung chuyển cả ngôi nhà nhỏ. Ngọn
nến chập chờn, Melsikov ồn ào bước vào:
- Thời tiết xấu quá!
Hắn nhăn mặt, tháo nút đai và hơ tay sưởi
trên đống củi nhỏ phía trước lò.
- Ông ta sẽ tới ngay đây.
Nhà vua hỏi:
- Nhịn ăn mà đến à?
- Ông ta đang ngủ. Thần chẳng chờ đợi gì,
cứ kéo ông ta ra khỏi giường.
Alexaska ngồi đối diện với vua Piotr và xem
lại cái bàn có vững chãi không. Hắn rót vodka, uống và lắc đầu. Trong một lát,
hai người im lặng ngồi ăn. Vua Piotr khẽ nói:
- Chậm quá mất rồi... Chẳng còn sửa chữa
được gì nữa.
Alexaska nuốt vội, đáp lại:
- Nếu hắn ở cách đây một trăm dặm và nếu
Seremetiev không chặn được hắn lại, thì ngày kia hắn sẽ tới đây. Ta cứ ra ngay
nơi đồng trống, làm sao mà kỵ binh của ta lại không thắng được? - Hắn tháo khuy
cổ và quay về phía Fenten. - Còn ít xúp bắp cải nào không? - Hắn lại tự tay rót
cho mình một cốc rượu thứ hai. - Quân của hắn nhiều lắm là mười ngàn người -
bọn tù binh thề trên Kinh thánh là như vậy. Lẽ nào ta lại vụng về đến thế được?
Thật là bực mình!
- Thật là bực mình, - vua Piotr nhắc lại. -
Trong hai ngày, ngươi không thể làm cho người ta trở nên thông minh được đâu...
Nếu tình hình trở nên bất lợi ở Narva thì ta sẽ chặn hắn lại ở Pskov và ở
Novgorod.
- Myn
Herz, chỉ nghĩ đến việc đó cũng đã là có tội rồi!
- Thôi được, thôi được...
Hai người nín lặng. Fenten ngồi xổm, thổi
than cho hồng, hãm bia trong chiếc cà mèn đồng.
Trước thành Narva, tình hình trở nên bất
lợi. Trong hai tuần, quân Nga đã bắn phá thành phố, đã nổ mìn, đã đào đường hầm
để lấn dần tới - mà vẫn không phá nổi tường thành, cũng không đốt cháy được
thành phố. Các tướng lĩnh không dám quyết định xung phong.
Trong số một trăm ba mươi khẩu pháo thì một
nửa đã bị vỡ hoặc bị hỏng. Hôm qua, người ta đã kiểm lại kho: trong các hầm
pháo chỉ còn đủ thuốc súng và đủ đạn trái phá cho một ngày, vậy mà các đoàn xe
chở thuốc súng vẫn còn ì ạch tận đâu đó tại vùng lân cận Novgorod.
Quân Thụy Điển cố đi gấp tới bằng con đường
đi Revan và giờ đây có lẽ chúng đang giao chiến tại hẻm núi Pihajogi với
Seremetiev. Quân Nga bị kẹp trong thế gọng kìm, - giữa pháo binh của thành
Narva và quân của vua Charles đang tiến đến.
- Chúng ta làm ầm ĩ quá... Cái đó thì ta
giỏi lắm. - vua Piotr quăng chiếc thìa. - Chúng ta chưa học được cách điều
khiển chiến tranh. Chúng ta đã không bắt đầu bằng những việc đúng đắn... Tất cả
những cái này chẳng có giá trị gì. Muốn một khẩu pháo bắn được tốt ở đây phải
nhồi thuốc tận Moskva... Hiểu chưa?
Alexaska nói:
- Khi nãy đi ngựa qua doanh trại, thần có
nghe thấy binh lính đại đội một trò chuyện quanh đống lửa. Họ chờ đợi quân Thụy
Điển. Cả doanh trại đều xôn xao. Họ nguyền rủa các tướng soái ghê lắm... Một
tên nói: “Viên đạn thứ nhất, tớ sẽ dành cho thằng trung úy của tớ...”.
- Tướng soái gì cái lũ ấy! - Mắt vua Piotr
long lên. Họ chỉ được cái kéo cờ đi diễu trên tường thành thì giỏi thôi. Bọn
tổng trấn... mục nát cả rồi
Lức đó, Alexaska nhìn trộm Sa hoàng, thận
trọng nói:
- Piotr Alekseevich... Bệ hạ hãy giao quân
cho thần trong ba ngày tới! Thần xin thề là...
Làm như không nghe thấy, vua Piotr lấy túi
thuốc lá trong túi áo. Nhà vua vừa lấy ngón tay nén thuốc vừa khẽ bảo:
- Bắt đầu từ ngày mai Von Kroi sẽ là tổng
tư lệnh. Hắn là một thằng ngốc hoàn toàn, nhưng được đào tạo ở bên Âu: hắn là
một võ tướng. Dưới quyền hắn, bọn nước ngoài trong quân đội ta sẽ cảm thấy phấn
chấn hơn... Hãy chuẩn bị đi, nghe chưa? Tang tảng sáng ta sẽ lên đường!
Nhà vua thở rồi kéo cây nến lại châm tẩu.
Alexaska khẽ hỏi:
- Piotr Alekseevich, ta đi đâu?
- Đi Novgorod.
Cuối cùng Sa hoàng nhìn vào cặp mắt xanh
trong, tròn xoe vì kinh ngạc của Alexaska. Bỗng nhà vua đỏ mặt tía tai, mạch
máu căng phồng trên trán nhớp nháp mồ hôi, và cố ghìm cơn giận dữ:
- Thằng ranh con này, ngươi chẳng mất gì,
không như ta... Ngươi tưởng rằng thành Narva là khởi đầu và kết thúc sao? Chiến
tranh chỉ mới bắt đầu thôi... Ta phải thắng... Nhưng với quân đội kia thì không
thể nào được... Hiểu chưa? Cần phải bắt đầu từ hậu phương, từ những xe ngựa của
các đoàn vận tải... Phi ngựa, gươm tuốt trần chẳng là cái quái gì hết... Đồ
ngốc, ngươi muốn tỏ ra dũng cảm hơn Charles chăng? Cúi đầu xuống! - Một vẻ giận
dữ điên cuồng thoáng hiện trên mặt nhà vua. - Ta cấm ngươi nhìn ta như vậy!
Alexaska không tuân lệnh, không cúi đầu
xuống; một sự hổ thẹn chua xót làm nước mắt hắn trào ra, một giọt lăn trên gò
má rắn rỏi của hắn. Vua Piotr nheo mắt nhìn hắn trừng trừng.
Hai người đều nín thở. Bỗng nhà vua khẽ
cười, ngả người về đằng sau, tựa lưng vào tường và thọc hai tay vào túi.
Nhà vua nhại giọng nói của Alexaska:
- “Myn
Herz”, anh bạn tâm tình thân thiết của ta ơi. Nhà ngươi hổ thẹn cho ta ư?
Hãy kiên nhẫn. Nếu còn xảy ra chuyện gì nữa là mọi người sẽ quay mặt đi mà bảo
rằng: ông ta sợ vua Charles, ông ta đã bỏ quân đội ù té chạy về Novgorod, như
xưa kia trốn vào tu viện Ba Ngôi... Thôi được... Hãy chùi mõm đi. Ra đón các vị
khách của ta: các ngài tướng soái đã tới!
Tiếng lính gác hô. Tiếng vó ngựa gõ trên
mặt đất băng giá. Bên ngoài, lập lòe ánh đuốc. Ông quận công bước vào, đinh
thúc ngựa kêu lách cách, theo sau là các tướng soái mặt hoảng hốt và đỏ ửng vì
gió rét: có chuyện gì xảy ra vào lúc đêm hôm khuya khoắt thế này?
Vua Piotr gật đầu chào họ rồi bước lại chỗ
quận công, ôm hôn ông ta. Nhà vua giơ tay ra hiệu cho Melsikov cầm lấy cây nến
rồi đi vào buồng xép, sau bức vách gỗ ván.
Vào đến trong buồng, Melsikov đặt cây nến
xuống một chiếc bàn con, ngổn ngang giấy tờ và rắc đầy sợi thuốc lá vụn. Mọi
người đều đứng; vua Piotr ngồi xuống, cầm lấy một tờ giấy và mấp máy môi,
nghiêm nghị nhẩm đọc lại những dòng chữ nguệch ngoạc, lấm tấm tàn thuốc. Nhà
vua đằng hắng rồi chẳng nhìn ai, lên tiếng đọc giọng cương quyết, nghiêm khắc:
- In
Gottes Nanlen(4), nhân danh Chúa. Vì đức Sa hoàng có công việc cực kỳ quan
trọng đòi hỏi, phải rời khỏi quân đội, ta giao quân đội cho điện hạ quận công
Von Kroi, theo những điều khoản dưới đây...
Ông quận công lúc đó đứng sát ngay bên bàn,
rung đùi. Vua Piotr nhìn cái đùi gầy nhom bó chẽn trong ống quần dạ trắng rồi
nhìn hai bàn tay khắng khiu, đang nắm đốc kiếm bằng vàng.
- Khoản thứ nhất: Điện hạ quận công được bổ
nhiệm làm thống tướng... Thứ hai, tất cả các tướng sĩ cho đến binh lính đều
phải tuân lệnh quận công như tuân lệnh chính Đức Sa hoàng vậy... Thứ ba... -
Nhà vua cất cao giọng. - Phải làm tất cả để chiếm ngay Narva và Ivan-gorod...
Thứ tư... Trong trường hợp các tướng sĩ hoặc binh lính bất tuân thượng lệnh, có
quyền trừng phạt như thần dân, cho đến và kể cả xử tử.
Vua Piotr nhìn các tướng qua đầu ông quận
công: Vaide tỏ ý tán thành, gật đầu; vương hầu Trubetxkoi phùng đôi má đẫm mồ
hôi; mái tóc bạc trắng, cắt ngắn của Buturlin lay động trên vầng trán ngắn;
Artamon Golovin cúi đầu, dường như tủi nhục và tai họa đã đè nặng trên vai.
- Ngoài ra, điện hạ quận công sẽ tìm hiểu
cặn kẽ về viện binh của quân Thụy Điển. Khi biết rõ là vua Charles đã tới và
nếu lực lượng của y tỏ ra hùng hậu thì phải theo dõi y chặt chẽ, không để y lọt
được vào thành Narva, và nhờ ơn Chúa phù hộ, tìm cách đánh bại y. Nhưng nếu có
thể, đợi viện binh đến vẫn là hơn cả.
Nhà vua hạ thấp tờ giấy xuống và nói với
ông quận công:
- Repnin và viên Hetman chỉ huy đội quân
Cô-dắc cùng các đoàn xe chở đạn dược hiện cách đây vài ngày đường... - Nói với
Golovin. - Ngồi xuống và chép lại sạch sẽ.
Có người gõ cửa phòng chờ. Melsikov, vẻ lo
âu, lách ra, đi sang bếp. Có người nào đó bước vào qua cánh cửa để mở, cùng với
tiếng gió rít, tiếng la hét ầm ĩ của nhiều người ở xa xa lọt vào. Vua Piotr, xô
một người đứng đó, bước vào bếp.
- Cái gì thế? - nhà vua thét lên giọng dữ
dội.
Một người trai trẻ đứng trước nhà vua; mặt
mũi hốc hác, nhưng hồng hào như một cô gái, mũi hếch, mắt táo tợn; trên tai mớ
tóc vàng hoe bết máu đã đông lại.
Melsikov nói rất nhanh;
- Pavel Yaguzinski, trung úy, hầu cận của
Boris Petrovich Seremetiev.
- Thế sao?
Nét mặt người trai trẻ run lên, y ngẩng mặt
về phía Sa hoàng:
- Tâu bệ hạ, Boris Petrovich sai hạ thần
đến xin chỉ thị của bệ hạ về nơi đóng quân của các trung đoàn.
Vua Piotr nín lặng. Các tướng soái hốt hoảng,
chen chúc nhau trước cửa phòng xép.
Melsikov vội vàng mặc chiếc áo bông ngắn.
- Chúng đã nhục nhã bỏ chạy, chạy từ
Pihajogi trốn về đây, mất cả mũ... Thế mà cứ tự hào là quý tộc!
Sáng ngày 17 tháng mười một, các trung đoàn
chế ngoại của đội cảnh vệ quý tộc được các trạm gác cho biết là đêm qua, quân
tuần tra Thụy Điển tránh các đường hẻm đã men theo bờ biển lọt vào sau lưng họ,
trên đường đi Revan. Thế là hàng ngũ xáo trộn, bất chấp lệnh của Boris
Petrovich Seremetiev, họ bỏ Pihajogi, sợ bị cắt đứt với đại quân; Seremetiev
phóng ngựa đuổi kịp các đơn vị đã bị hỗn loạn, ông nắm lấy dây cương, gào thét,
lấy roi quất cả người lẫn ngựa, nhưng những người đến sau cứ xô lôi ngựa của
Boris Petrovich quay cuồng trong đảm loạn quân đang ào ào chạy trốn.
Ông chỉ tập hợp được vài đơn vị để bảo vệ
hậu quân, ngăn không để một phần đoàn xe rơi vằo tay quân Thụy Điển. Quân Thụy
Điển xuất hiện vào lúc mặt trời mọc, trên khắp các ngọn đồi đá, mình mặc áo
giáp sắt, đầu đội mũ sắt có múi. Quân Thụy Điển không đuổi theo họ. Các trung
đoàn quý tộc phi ngựa chạy trốn. Đến đêm, họ tới trước hàng rào của doanh trại
Narva. Các trạm gác trên đồn lũy, trong đêm tối, tường họ là quân địch, nổ
súng. Đám kỵ sĩ điên cuồng thét lên: “Bạn đây, bạn đây...”. Toàn thể doanh trại
ồn ào như một tổ ong.
Trung úy Pavel Yaguzinski được phép vào
doanh trại bèn phi ngựa đến gặp Sa hoàng. Một trận gió lạnh buốt thổi ào ào.
Các sĩ quan quý tộc, đã xuống ngựa, đứng ở bên kia hàng rào, trước cái cầu rút
đã được kéo lên. Từ trên các hàng rào có tiếng gọi họ:
- Này, các ngài quý tộc, sao các ngài chạy
đến đây nhanh thế? Các ngài muốn đến hãm thành chăng, các ông bạn thân mến?
Khắp doanh trại, tiếng trống nổi lên, ánh
lửa đi lại nhấp nhô, lính kỵ mã cầm đèn lồng phi ngựa chạy. Tại các trung đoàn
và các đại đội, bên quân kỳ, sắc chỉ của Sa hoàng được đọc lên, báo tin nhà vua
giao quân đội cho quận công quang vinh và bách chiến bách thắng Von Kroi. Mọi
người lặng ngắt, bàng hoàng và lo sợ. Chẳng mấy chốc, tin đồn truyền đi là Sa
hoàng đã rời khỏi doanh trại và quân Thụy Điển, binh lực hùng hậu, đóng ở cách
đấy có năm dặm.
Không một ai ngủ được. Họ đốt lửa, ngọn lửa
tan tác trước gió. Sáng tới, người ta đưa quân của Seremetiev sang bên cánh
phải. Không được vào bên trong hàng rào, họ bày trận ngay bên bờ sông Narva ở
mé thượng lưu phía trên thành phố, nơi dòng nước gào thét dữ dội ở chỗ thác đổ,
giữa những hòn đảo nhỏ. Trời sáng rõ, không thấy quân Thụy Điển. Những đội
trinh sát không phát hiện thấy địch đâu cả; quân của Seremetiev thì thề sống
thề chết là địch đã đuổi họ bén gót từ Pihajogi.
Giữa tiếng kèn đồng rè rè om xòm, quận công
Von Kroi, mặc chiến bào lộng lẫy, gậy thống chế chống bên sườn và theo sau ông,
cách nửa mình ngựa là các tướng Golovin, Trubetxkoi, Buturlin, hoàng tử xứ
Imerexi và vương hầu Yakov Dolgoruki, đi một vòng doanh trại.
Quận công lấy cạnh bao tay vuốt vểnh bộ ria
quặp, hô lớn với quân lính:
- Thào
các pạn thũng cảm! Thúng ta thề
hy thinh vì Sa Hoàng!
Tại tất cả các trung đoàn, quân lệnh được
đọc lên giữa tiếng trống rền:
“Đêm
nay, một nửa quân dội sẽ phải súng ống sẵn sàng... Tang tảng sáng, mỗi người sẽ
nhận được hai mươi bốn viên đạn. Khi mặt trời mọc, toàn quân sẽ đứng thành hàng
và sau ba phát trái phá báo hiệu, nhạc sẽ cử, trống sẽ nổi và sẽ cắm tất cả cờ
lên các công sự. Cách địch dưới ba mươi bước mới được nổ súng...”.
Tối đến, gió xoay chiều sang hướng Tây và
thổi từ phía biển vào. Trời đã rét. Lợi dụng đêm tối, tướng Thụy Điển Ribinh có
hai kỵ binh đi theo, quấn dạ vào vó ngựa, bí mật lần tới hàng rào, đo bề sâu
hào và bề cao lũy của doanh trại quân Nga.
Aleksey Brovkin, bụng đói meo, gió thổi
buốt thấu xương, đi đi lại lại trên bờ lũy - ba bước đằng trước lại ba bước
đằng sau, ngay bên lá cờ hiệu của đại đội.
Bờ lũy chạy dài trên bảy dặm, binh lính
đóng rất thưa. Tiếng kèn đồng vang lên, trống đánh dồn dập.
Súng đại bác, súng hỏa mai đều nạp đạn sẵn,
mồi bốc khói nghi ngút. Cờ bay phấp phới trước gió trên các công sự. Lúc đó vào
hồi mười một giờ sáng
Aleksey thắt chặt dây lưng. Vị tổng tư lệnh
mới không bỏ sót điều gì, ngài chỉ quên có vấn đề nuôi quân.
Lâu nay binh lính và sĩ quan cấp dưới nhá
toàn bánh mì khô mốc, dốc túi dết để nhặt vụn bánh. Đêm hôm đó, quân lính chẳng
được phát gì hết, kể cả bánh mì khô.
Họ đứng sừng sững trên bờ lũy như bù nhìn
giữ dưa. Đại đội của Brovkin chỉ còn tám mươi người khỏe mạnh.
Đã có một thời gian, Aleksey khao khát được
chiến đấu, dẫn đại đội xông pha nơi lửa đạn, cướp cờ địch... “Cảm ơn Aleksey,
ta thăng nhà ngươi lên cấp đại tá”. Giờ đây hắn chỉ mong muốn có một điều: chui
vào một cái hầm hôi thối nhưng ấm áp, nuốt một cà mèn cháo nóng bỏng
Mắt hấp háy trước gió, Aleksey thét người
lính đứng gần đó nhất là Golikov:
- Làm cái gì mà đứng ngẩn ra thế? Đứng cho
ngay ngắn nào!
Golikov không nghe thấy; gã so hai vai che
manh áo rách tơi tả: nghểnhh bộ mặt có cái mũi nhọn hoắt lạnh cứng, tưởng chừng
như gã đang trông thấy thần chết... Những binh lính khác cũng vậy, như đàn chó
xù lông, nhìn cả về phía đồi Hecmansberg. Bên trên đồi giữa những đám mây đang
lướt qua, mặt trời thấp lè tè xuất hiện rồi lại biến đi ngay. Giữa những gốc
cây đã đốn và những cây phong trụi lá, lay động trước gió, những người mang
nặng đang tiến bước. Người từ trong rừng đổ ra mỗi lúc một nhiều. Họ ném túi
dết và ba lô vác trên vai xuống đất rồi chạy về phía trước, sắp thành những
hàng rộng và dày đặc. Những cỗ pháo do sáu ngựa kéo tới cỗ thì kéo thẳng xuống
phía đồn lũy trung tâm, những cỗ khác thì vượt qua suối phóng về phía những
công sự vững mạnh của Vaide, những cỗ khác thì phi nước đại băng qua cánh đồng
về phía bên phải. Sáu đội bộ binh xếp thành hàng trên đồi Hecmansberg. Kỵ binh
từ trong rừng đổ ra sắp hàng đôi, áo giáp sắt ánh lên nhờ nhờ. Aleksey cuống
quít thét lên:
- Nổi hiệu trống cấp báo ngay!
Những hạ sĩ quan rậm ria vội nhảy choàng
lên lũy, họ kéo mũ ba cạnh xuống sát mắt để gió khỏi thổi bay đi mất. Trống
đánh rền. Leopondux Mirbac hoan hỉ chẳng hiểu vì sao, vừa trỏ vừa gọi Aleksey:
- Trông kìa, tên cưỡi ngựa kia là vua
Charles đấy!
Các đội quân Thụy Điển, hàng ngũ chỉnh tề
và đều tăm tắp trông thật khủng khiếp, dường như chúng không phải là những con
người mà là những sinh vật vô tri vô giác, bất tử, từ trên đồi tràn xuống, hàng
ngũ chúng nửa lam nửa đen, lắc lư lay động... Xa xa trên một ngọn đồi, có năm
sáu kỵ sĩ đứng; một kỵ sĩ người mảnh khảnh, đứng trước những người khác giơ tay
vẫy, một số quân ky phóng ngựa về phía hắn rồi lại lao xuống đồi, phi nước đại
về phía các đội quân.
Gió thổi uốn cong các cán cờ lớn, cờ nhỏ
trên lũy, tiếng trống dồn nghe thật não lòng. Một đám mây tuyết xám xịt màu chì
từ phía biển dâng lên nhanh chóng che kín cả bầu trời. Bốn cỗ pháo có ngựa kéo
phi tới và cách hào hai trăm bước thì quay ngang, chĩa nòng vào đại đội của
Brovkin. Phần trước xe được tháo ra, những xe đạn màu xanh được đưa tới và cũng
quay ngang.
Những tên lính vạm vỡ, quân phục màu lam
thẫm, từ chỗ ngồi trên xe nhảy xuống và đứng ngay vào bên các cỗ pháo. Một đội
bộ binh hàng ngũ thẳng tắp, chạy đến; nhiều người ve áo màu trắng, nhảy ra đứng
trước
Những lưỡi kiếm vung lên lóe sáng, ra lệnh,
hàng ngũ quân Thụy Điển dày đặc thêm, tản ra hai bên khẩu đội pháo nằm rạp
xuống đất, những tảng đất bay lên tung tóe
Aleksey lấy tay làm loa, thét to, át cả
tiếng gió thổi:
- Các trung úy... Hãy ra lệnh cho các hạ sĩ
quan. Hãy nói lại với binh lính... Chỉ nổ súng khi có lệnh, trái lệnh sẽ bị xử
tử.
Leopondux Mirbac, chân đi ủng vừa dài vừa
to, chạy trên bờ lũy, y quát tháo bằng tiếng Đức, tay giơ gậy lên dọa... Fetka
Mõm bẩn - rậm râu, gớm guốc, nom đúng là một con ngáo, dữ tợn nhe răng ra.
Leopondux đánh vào đầu hắn. Gió thổi lật các vạt áo chẽn, một chiếc mũ bay tít
lên cao.
Aleksey quay về phía khẩu đội pháo của hắn:
- Bắn đi nhanh lên!
Cuối cùng, một tiếng nổ nặng nề, xé tai,
vang lên...
- Á! Cái bọn trời đánh này! Chúng không
biết bắn...
Để trả đũa, bốn cỗ pháo Thụy Điển giật lùi
lại và khạc lửa... Cách đấy nửa dặm, khẩu “Sư tử” và khẩu “Gấu” oai vệ lên
tiếng như sấm nổ với kiểu cách riêng của chúng...
- A, pháo ta bắn yếu quá.
Bốn cỗ ngựa phi nước đại quay trở lại, các
khẩu pháo được mắc vào và kéo đến gần lũy hơn.
Các pháo thủ Thụy Điển chạy theo súng; rồi
lau nòng, nạp đạn và nhảy một bước tránh ra - hai tên bên bánh xe, tên thứ ba
quỳ xuống, mồi cầm ở tay. Một tên, ve áo màu trắng, giơ cao thanh kiếm... Một
loạt đạn nổ... Bốn quả đạn trúng vào rầm gỗ thông ở hàng rào: tiếng kim khí rít
lên, gỗ vụn bay tung tóe. Aleksey lùi lại, ngã xuống. Hắn vội chồm dậy... Trong
giây lát, nhưng rất rõ, chắc hắn sẽ nhớ suốt đời, hắn nhìn thấy: trên cánh đồng
mấp mô đất tảng, một người trẻ tuổi, khẳng khiu như cái que, ngồi rất thẳng trên
con ngựa xám phi nước đại dọc theo đường hào. Người đó đội chiếc mũ ba cạnh
nhỏ; dưới mũ, một cái túi da nhỏ nẩy nẩy trên lưng, hai chân duỗi thẳng ra phía
trước, không như kiểu người Nga, bàn chân thọc sâu vào bàn đạp tới gót, bộ mặt
choắt, ngạo nghễ quay về phía quân Nga đang nổ súng bên kia rào; theo sau hắn,
khoảng hai mươi quân giáp kỵ, cưỡi những con ngựa xương xẩu, phi thành hai hàng
kép đều tăm tắp, đầu người nọ không hề vượt khỏi đầu người kia...
- Lạy Chúa, hãy nhủ lòng thương chúng con!
- Chính Golikov đã thốt ra tiếng kêu tuyệt vọng đó.
Đám mây thấp không mấy chốc phủ kín bầu
trời. Trời tối sầm lại rất nhanh. Màn tuyết bao trùm cả doanh trại lẫn hàng ngũ
quân giáp kỵ đang phi và các đơn vị Thụy Điển đang tiến bước. Giữa tiếng gió
gào, đại bác bắn ình oàng, lóe lên những ánh lửa lập lờ. Hàng rào gỗ kêu răng
rắc, vỡ tung ra từng mảnh. Những quả đạn rít điên cuồng bay qua đầu. Bão tuyết
xoáy tít, một làn tuyết rơi chéo, lạnh buốt, táp vào mặt, bưng kín cả mắt.
Chẳng còn trông thấy gì nữa: cả những việc xảy ra phía trước, bên kia hào, lẫn
những việc đã bắt đầu từ mười lăm phút qua trong doanh trại.
Một tên lính của một đại đội khác, cắm đầu
chạy như một thằng điên, đâm sầm vào Aleksey... Aleksey ôm lấy hông hắn... Hắn
kêu lên như người bị ma bắt:
- Chúng ta đã bị phản!
Hắn vùng ra khỏi tay Aleksey rồi biến vào
trong cơn bão tuyết. Lúc đó Aleksey mới nhận thấy, qua màn lốc tuyết, hình như
có những mớ củi khô rơi tõm xuống hào. Vuốt mạnh tuyết bám vào mặt, Aleksey
thét lên:
- Bắn! Bắn!
Dưới hào đã lúc nhúc những tên lính nhanh
nhẹn. Lính thủ pháo Thụy Điển, tuyết táp vào lưng đã chạy đến, lấy sọt đất lấp
đầy hào rồi bước qua và chẳng cần đến thang, leo lên rào.
Aleksey còn trông thấy: sau khi nổ súng,
Golikov lùi lại và đâm lưỡi lê ra phía trước... Một gã cao lớn, tuyết lấm tấm
đầy người, nhảy qua rào, nắm lấy lưỡi lê: Golikov co khẩu súng lại, gã kia cũng
kéo... Aleksey rít lên và vung kiếm đâm gã này một nhát xuyên qua người như
chọc tiết lợn. Nhiều tên khác nhảy qua rào liên tiếp như thể cơn bão tuyết đẩy
chúng tới.
Aleksey cầm kiếm đâm tới tấp, đâm vào không
khí, đâm vào thịt mềm nhũn... Bỗng hắn bị một đòn đau nổ đom đóm mắt, tối tăm
cả mặt mũi; đầu hắn, tất cả mặt hắn như bẹp gí xuống.
Golikov không còn nhớ mình đã lăn xuống hào
ra sao... Hắn bò lổm ngổm, một nỗi kinh hoàng thú vật thúc hắn... Có người nào
đó vung hai tay chạy qua, hai gã Thụy Điển vai rộng, điên khùng đuổi theo, lưỡi
lê lăm lăm trong tay... Golikov nằm ép xuống đất như một con bọ hung... “Ôi
những con người mới hung dữ làm sao!” Hắn ngẩng đầu lên, tuyết ập vào đầy miệng
hắn. Hắn chồm đứng dậy, loạng choạng, đâm sầm vào hai bóng người. Fetka Mõm
bẩn, nằm đè lên Leopondux Mirbac, đang tìm cách cố bóp cổ hắn... Leopondux giật
râu Fetka...
- Mày không thoát tay tao đâu, thằng quỷ
sứ! - Fetka vừa rên lên, vừa lấy vai đè Mirbac xuống...
Golikov bỏ chạy...
- Ôi, những con người mới hung dữ làm sao!
Đạo quân trung tâm của Thụy Điển - bốn
nghìn quân thủ pháo - dữ dội đổ ập xuống đầu sư đoàn Artamon Golovin... Trận
chiến đấu bên rào gỗ kéo dài mười lăm phút... Quân Nga tối tăm mặt mũi vì cơn
bão, rã rời vì đói, mất hết tin tưởng vào cấp chỉ huy, không hiểu tại sao lại
phải bỏ mình trong cánh địa ngục bão tuyết này, đã rút lui khỏi lũy...
- Anh em ơi, chúng đã bán rẻ chúng ta...
Đánh chết bọn sĩ quan đi!
Họ bắn loạn xạ, chạy lung tung trong doanh
trại, người nọ đè lên người kia trong các chiến hào đầy ắp tuyết và trên những
sọt đất bảo vệ các khẩu pháo. Họ đẩy lùi các trung đoàn của Trubetxkoi và cuốn
họ theo. Hàng ngàn người chạy về phía các cầu, về chỗ bến qua sông.
Quân Thụy Điển không đuổi theo họ lâu, sợ
bị lạc trong bão tuyết, giữa cái doanh trại mênh mông này.
Tiếng kèn đồng rè rè khẩn thiết gọi chúng
trở lại ngay bờ lũy. Nhưng một phần quân thủ pháo đã tới hàng rào cự mã - sau
hàng rào này là đoàn xe... Bọn lính thủ pháo hét lên:
- Mit
Gottes Hilfel(5) Nhân danh Chúa, - và nhảy vào chiếm đoàn xe lương thảo.
Dưới những tấm vải gai phủ tuyết, chúng tìm thấy những thùng thịt muối đã thối
và những thùng vodka. Trên một nghìn lính thủ pháo ở lì tại đó cho đến khi trận
đánh kết thúc, bên những thùng rượu đã bị chọc thủng... Quân Nga chạy cuống
cuồng giữa đám xe ngựa: người thì bị chém chết, người thì chỉ bị đánh đuổi.
Tiếp sau bộ binh, đội kỵ binh xông vào
doanh trại qua cổng đã bị phá vỡ và lao thẳng đến pháo đài chính.
Hai khẩu đại bác “Sư tử” và “Gấu” bị chiếm
ngay, pháo thủ bị chém chết. Viên chỉ huy Yakov Vintesievec bị thương ở đầu,
nộp gươm hàng. Các khẩu đại bác quay nòng về phía Đông, nhả đạn vào các công sự
của Vaide.
Ở đây quân Thụy Điển vấp phải một sự kháng
cự quyết liệt; Vaide đã bố trí tất cả sư đoàn của mình bên các hàng rào gỗ
thành bốn hàng dày dặc; bản thân ông cầm một ngọn giáo sĩ quan, tự tay đâm ngã
những tên quân Thụy Điển đang leo lên. Binh lính đứng sau, nạp đạn vào súng hỏa
mai, những người đứng trước bắn liên tục... Hào đầy xác chết và người bị
thương. Khi đạn đại bác từ phía pháo đài chính bắn đến và khi mọi người nhận ra
tiếng gầm của các khẩu “Sư tử” và “Gấu”, Vaide liền phi ngựa lên bờ lũy:
- Anh em, hãy giữ vững trận địa!
Một viên đạn trái phá nổ ngay dưới chân
ngựa; giữa đám tuyết bay tung tóe, trong làn khói mù mịt, mọi người trông thấy
ngựa của ông chồm lên rồi ngã vật xuống.
Các trung đoàn kỵ binh của Seremetiev bị
dồn về phía sông giữa các hàng rào của Vaide và khu rừng.
Những cơn lốc tuyết đập vào mặt mọi người;
sau lưng họ dòng sông Narva gầm thét. Khu rừng xào xạc, đe dọa. Các kỵ binh
không còn nhìn thấy gì, không còn hiểu gì hết. Về phía bên phải, từ xa vọng lại
tiếng súng đại bác mỗi lúc một rền hơn... Gần ngay cạnh, trên các hàng rào, một
loạt súng hỏa mai nổ, tiếng kêu, tiếng rên la hấp hối ghê rợn đến nỗi tóc của
con cái bọn quý tộc dựng đứng lên dưới mũ.
Boris Petrovich đứng ở trên đồi, giữa đoàn
quân. Ông đã nhét chiếc ống nhòm vào túi. Ông chỉ lờ mờ nhìn thấy tai ngựa của
mình... Không sao biết được tình hình xảy ra trong doanh trại. Ông chờ đợi mãi
không thấy có lệnh của vị thống tướng. Hoặc ông này đã quên khuấy mất đoàn kỵ
binh quý tộc, hoặc họ không tìm ra đoàn quân, hoặc một tai họa đã xảy đến.
Tiếng súng nổ vang bên cánh trái, chắc từ
phía khu rừng bắn tới. Boris Petrovich nhướn mình trên bàn đạp lắng tai nghe.
Ông gọi vương hầu trẻ tuổi Rostovski:
- Này anh bạn, hãy lấy bốn trăm quân kỵ,
phi tới khu rừng và đánh bật bọn địch ra khỏi nơi đó... Với sự phù hộ của Chúa...
Vương hầu rét cóng trong bộ giáp sắt và
chiếc mũ sắt, đáp lại điều gì không rõ và lao xuống đồi... Một khẩu đại bác từ
khu rừng bắn ra. Một tiếng kêu vang lên, tiếng rên rỉ của một người hấp hối. Và
đột nhiên, từ bên phải, bên trái và phía trước, một loạt súng hỏa mai nổ, đạn
bay vun vút. Boris Petrovich quay lại để ra lệnh:
- Gươm tuốt trần, tiến lên. Nhờ ơn Chúa phù
hộ...
Nhưng chẳng còn ma nào mà ra lệnh: ngựa
nghẽo đang lùi cả lại, leo lên đồi... Hàng ngàn tiếng thét lên:
- Hỏng rồi, hỏng rồi, chạy đi, vượt qua
sông thôi.
Boris Petrovich chẳng còn làm gì hơn được;
để khỏi bị chết bẹp, ông cũng đành phải quay ngựa lại. Ông nhắm mắt, òa lên
khóc nức nở, giật cương.
Những tiếng kêu gào, những tiếng thét man
rợ. Đầu ngựa ngẩng cao nhấp nhô, bờm ngựa bù xù, lưng người lấm tấm tuyết, ào
ào đổ xuống phía sông. Bờ sông dốc đứng, ngựa vùng vằng, khuỵu chân, lê mông,
tụt xuống; những con ùa tới sau xéo lên những con trước, nhảy chồm qua những
con đã ngã xuống... Trên dòng nước vàng khè, dưới màn tuyết mù mịt, quay cuồng
những đầu ngựa, những mặt người đang nghẹn thở; những bàn tay giơ cao trên nước
xoáy, co quắp chới với trong không khí... Thêm hàng trăm kỵ binh nhảy xuống
sông Narva, bơi, giãy giụa giữa dòng nước chảy xiết, chết đuối.
Con tuấn mã của Boris Petrovich leo lên
được một hòn đảo con, giữa dòng sông, và đứng đó một lúc, bụng thở phập phồng,
rồi thận trọng, lại lao xuống nước nhe răng ra bơi và đưa chủ lên bờ bên kia.
Cơn bão tuyết phủ kín trận địa có lẽ còn
nguy hiểm cho quân Thụy Điển nhiều hơn là đối với quân Nga. Sự liên lạc giữa
các đội quân tấn công bị đứt, lính thông tin cuống cuồng trong trận lốc tuyết,
uổng công tìm kiếm các tướng lĩnh và nhà vua. Kế hoạch táo bạo - đánh bật hai
cánh quân địch bằng những cuộc tấn công dữ dội, rồi bao vây địch và dồn chúng
lùi về phía thành dưới hỏa lực của các pháo đài - kế hoạch này đã thất bại. Khu
trung tâm của quân Nga bị chọc thủng ngay tức khắc, quân của Artamon Golovin đã
hỗn loạn rút lui và biến mất trong cơn bão táp nhưng quân hai bên cánh đã chống
cự quyết liệt không ngờ, nhất là bên cánh phải, nơi có các trung đoàn
Xemionovski và Preobrazenski là những trung đoàn xuất sắc nhất.
Hơn ba tiếng đồng hồ đã trôi qua mà tiếng
súng vẫn không ngớt. Tuyết quay cuồng rơi xuống rất dày.
Phải kết thúc thắng lợi trận đánh trước khi
trời đổ tối. Nếu không, bốn tiểu đoàn quân Thuỵ Điển hiện đã lọt vào trung tâm
doanh trại Nga, bị tiêu hao và mệt mỏi, có thể đến lượt mình sẽ bị bao vây và
tàn sát, nếu quân Nga rốt cuộc dám xông ra khỏi hàng rào; theo một sự tính toán
thận trọng, chúng hãy còn những đơn vị nguyên vẹn ở hai bên cánh khoảng mười
lăm ngàn người.
Khi trận đánh bắt đầu, vua Charles chỉ huy
ba tiểu đoàn quân giáp ky, đứng ở giữa các đạo quân của Xtenboc và Mayden để
quan sát cuộc tấn công đồng thời vào trung tâm và vào cánh phải quân Nga. Chính
ở đó nhà vua đã bất ngờ bị cơn bão ụp xuống. Các đơn vị tấn công đã biến mất
sau một màn tuyết: thậm chí không còn trông thấy ngọn lửa ở họng các khẩu pháo.
Vua Charles ngẩng đầu lên, nghiến răng, say sưa lắng nghe những tiếng ầm ầm của
cuộc chiến đấu. Viên sĩ quan thủ pháo đã chọc thủng khu trung tâm và đang đánh
đuổi quân Nga về phía doanh trại. Vua Charles nắm lấy vai viên sĩ quan và thét
vào tai hắn:
- Về nói với tướng Renxkjon, nhà vua ra
lệnh ngừng đuổi địch, chiếm đóng pháo đài chính, chuẩn bị phòng ngự và đợi lệnh
của ta.
Nhà vua phái hết lính liên lạc này đến lính
liên lạc khác tới cánh phải gặp Slipenbac đang tấn công trận tuyến kiên cố của
Vaide một cách vô hiệu quả.
- Hãy nói với tướng Slipenbac là nhà vua
rất lấy làm lạ!
Vua Charles ra lệnh tiếp viện cho Slipenbac
hai đại đội dự trữ, nhưng người ta không tìm thấy hai đại đội đó và không phái
được viện quân đi. Quân Thụy Điển tấn công dữ dội vào hàng rào đã bị phá vỡ một
nửa; tướng Vaide bị thương vì một mảnh đạn trái phá; quân Nga tiếp tục chống cự
bằng bất cứ vật gì vớ được.
Nguy cơ mỗi lúc một tăng. Hôm trước tại hội
nghị quân sự, tất cả các tướng lĩnh đều lên tiếng phản đối cuộc hành binh điên
rồ trước thành Narva: với một vạn quân lính đói khát mệt lử, lại phải vác nặng,
cuộc tấn công diễn ra nhanh quá đến nỗi phải bỏ cả các đoàn xe quân lương lại,
xông vào một đội quân năm vạn người nấp sau những công sự kiên cố... Như thế
thật là liều lĩnh... Nhưng vua Charles đã nói:
- Kẻ nào tiến công là kẻ ấy thắng: nguy
hiểm làm sức mình tăng lên gấp bội, ngày mai các ngươi sẽ giải Sa hoàng Piotr
về tới lều ta...
Nhà vua trình bày với các tướng lĩnh cách
bố trí quân: nhà vua đã trù liệu trước tất cả mọi việc trừ cơn bão tuyết.
Dướn mình trên yên ngựa, người phủ đầy
tuyết, vua Charles nghếch mũi lên, lắng nghe tiếng ồn ào của trận đánh. Nhà vua
say sưa với mối hiểm nghèo. Ngay cả cuộc săn gấu ở khu rừng Kungxo cũng không
thể bì được cái trò chơi này. Gió ầm ầm đưa lại những tiếng nổ từ cánh trái, nơi
hai tiểu đoàn lính thủ pháo của tướng Lovenhop đang tấn công vị trí của các
trung đoàn Xemionovski và Preobrazenski. Có thể nào, cả ở đó nữa, tại điểm
quyết định nhất ấy, cũng chưa thu được thắng lợi sao?
Vua Charles quay lại nắm lấy dây cương ở
đầu một con ngựa, Vì bão tuyết nhà vua không trông thấy cả ngựa lẫn người cưỡi,
và hét to ra lệnh tiếp viện cho Lovenhop bốn đại đội dự trữ. Đầu con ngựa lắc
mạnh, ngẩng lên rồi biến mất. Người ta cũng không tìm thấy các đại đội đó và
như thế là không có quân đi tiếp viện. Tiếng súng nổ ở cánh trái mỗi lúc càng
thêm dữ dội. Một kỵ binh trắng toát từ trong cơn lốc tuyết nhảy ra.
- Tâu bệ hạ... Tướng Lovenhop xin tiếp
viện.
- Ta đã phái đi bốn đại đội rồi kia mà...
Lạ quá!
- Tâu bệ hạ... các hàng rào gỗ đã bị phá hủy,
hào đã bị sọt đất và xác chết lấp kín... Nhưng quân Nga cố thủ sau các chướng
ngại vật cự mã... Chúng điên khùng vì sợ hãi và máu.. Chúng gào thét nguyền rủa
và nhảy xổ vào mũi lê. Tướng Lovenhop đã bị nhiều vết thương và tiếp tục dẫn
đầu quân lính, đi bộ chiến đấu.
- Chỉ đường cho ta!
Vua Charles thúc ngựa; cúi rạp xuống cổ
ngựa để chống lại tuyết và gió, nhà vua phi nước đại, bàn đạp chạm sát bàn đạp
của viên sĩ quan, tiến về phía tiếng súng nổ, bên cánh trái.
Gió rét như cắt, nhưng lại như reo lên trong
lòng vua Charles... Say sưa với gió, tuyết và tiếng súng nổ ầm ầm... nhà vua
thấy thèm muốn phóng lưỡi kiếm vào làn da thịt sống...
Viên sĩ quan vừa thét lên cái gì đó vừa chỉ
một vệt vàng trải dài trên tuyết ở phía trước mặt... Đó là lòng một con suối
phủ tuyết. Vua Charles thúc gót vào bụng ngựa, con vật nặng nề vượt qua bãi
tuyết vàng nhưng sa xuống một chỗ lầy; càng muốn ngoi lên nó lại càng thụt đít
xuống sâu hơn và thở phì phì trong gió tuyết. Vua Charles nhảy xuống; chân trái
nhà vua thụt vào lớp bùn quánh đến tận bẹn. Nhà vua giật mạnh chân ra khỏi
chiếc ủng lớn, rơi mất cả mũ, cả kiếm, bò lồm cồm sang bờ bên kia; trên bờ,
viên sĩ quan đã xuống ngựa, giơ tay ra, lôi nhà vua lên.
Cứ như thế, với độc một chiếc ủng và đầu
trần, vua Charles leo lên con ngựa gầy gò đang run rẩy, mình phủ một lớp băng
cứng rồi thúc con vật bằng chiếc đinh ngựa duy nhất, nhà vua phi nước đại về
phía có tiếng súng nổ, những tiếng kêu man rợ, gần ngay đó. Con ngựa nhảy vọt
qua các đống tuyết, đó là những người chết hoặc bị thương. Trước mặt nhà vua,
những bóng người lờ mờ chạy đi chạy lại. Một khẩu pháo gầm lên, khạc lửa...
Bỗng vua Charles trông thấy ngay bên cạnh, đám quân thủ pháo của mình, hàng ngũ
lộn xộn; họ chống súng đứng đấy, vẻ mặt rầu rĩ, nhìn về phía xa xa, nơi bên kia
bãi tuyết bị dẫm nhoe nhoét, đẫm máu, sau những xác chết, sừng sững những cọc
chôn nghiêng và nhọn hoắt của các hàng rào cự mã. Sau hàng rào, quân Nga dày
đặc như một bức tường, nghiêng ngả lay động... Chúng hò hét, điên cuồng, giơ
nắm đấm và vung súng lên. Rõ ràng là một đợt tấn công vừa bị đánh lui.
Vua Charles thúc ngựa lại chỗ đám lính thủ
pháo. Tiếng nhà vua hét:
- Đưa ta một thanh kiếm. - vang lên như một
phát súng lục. Bọn lính thủ pháo quay lại, nhận ra vua Thụy Điển... Nhà vua
ngồi trên yên, cúi xuống, giơ tay, mấy ngón tay xòe ra:
- Một thanh kiếm!
Một người giúi đốc một thanh kiếm vào tay
nhà vua.
- Hỡi binh sĩ! Danh dự của vua các ngươi là
ở đây, tại những hàng rào cự mã này... Các ngươi phải chiếm lấy. Các ngươi hãy
xô quân dã man hèn hạ kia nhào xuống dòng Narova. - Nhà vua vung kiếm, lập tức
một tiếng kèn đồng vang lên giòn giã, rồi một tiếng kèn nữa, lại một tiếng kèn
nữa mà người ta không trông thấy người thổi vì bão tuyết.
- Hỡi binh sĩ! Chúa và vua các ngươi đang ở
đây, cùng với các ngươi! Ta dẫn đầu! Hãy theo ta!
Vua Charles phi nước đại xông tới, trên bãi
tuyết đẫm máu. Những tiếng hét ghê rợn vang lên sau lưng nhà vua: “Nhân danh
Chúa!” Từ phía bên kia hàng rào cự mã, tiếng súng bắn ra lẹt đẹt. Vua Charles
nhằm một tên lính Nga to lớn như hộ pháp, cái đầu to cúi xuống, đang đứng giữa
một lỗ hổng do đạn đại bác phá thủng ở hàng rào cự mã... Vua Charles cười gằn
giật ngựa chồm lên: gã lính Nga nét mặt bỗng trở nên hung dữ phóng lưỡi lê vào
ức ngựa như phóng một cái chĩa... Vua Charles nằm dài trên lưng ngựa, cảm thấy
mình trôi tuột xuống; nhà vua gắng hết sức dướn người lên, đâm phập lưỡi kiếm
vào ngực gã hộ pháp...
Nhưng vừa nhảy xuống đất, nhà vua loạng
choạng. Chung quanh toàn là những tiếng thét, tiếng sắt loảng xoảng, tiếng đâm
chẻm túi bụi, tiếng gẫy răng rắc.
Nhà vua bị xô đẩy, ngã xuống. Một chiếc ủng
nặng nề dẫm lên lưng nhà vua, gí nhà vua xuống tuyết... Nhưng ngay lập tức
người ta nâng vua Charles dậy, xốc nhà vua đi. Đầu óc nhà vua rối bời, vua
Charles tỉnh lại trên giá một khẩu đại bác, dưới một chiếc áo khoác của lính,
hôi thối đến lợm mửa. Kèn nổi lệnh rút lui: Vua Charles hất tung chiếc áo, ngồi
dậy.
- Cho ta đôi ủng, ta mất ủng rồi... ủng và
ngựa.
Các trung đoàn xáo lộn của Golovin và
Trubetxkoi, sợ bị cắt mất đường ra bến, chạy ra bờ sông và lao lên trên chiếc
cầu ghép bằng thuyền, người đông đến nỗi chiếc cầu phao võng xuống: dòng nước
vàng khè của sông Narva, nổi sóng to vì gió Tây, tung tóe qua lan can cầu. Ở
đó, trong dòng nước ngầu bọt dưới màn tuyết, xác người, xác ngựa của đội kỵ
binh Seremetiev trôi lềnh bềnh, bị chết đuối khi qua sông, cách đó năm dặm về
phía thượng lưu, sóng dồn xác người lại thành đống dọc chiếc cầu đã võng xuống.
Đám người gào thét từ bờ thúc tới. Chiếc cầu chòng chành võng thêm về bên phải,
nước tràn qua các tấm ván lan can gẫy răng rắc, thừng gai bắt đầu đứt, các nhịp
cầu ở đoạn giữa hoàn toàn bị ngập, vỡ tung.
Những người ở trên cầu ngã xuống dòng nước
gầm thét, nơi xác người xác ngựa đang quay lộn. Tiếng kêu la vang lên nhưng
phía sau, mọi người vẫn cứ xô tới. Binh lính ngã xuống sông Narva hàng trăm
người cho đến khi nửa chiếc cầu bị gãy đôi dạt vào bên bờ lầy bùn.
Xa xa, gần dòng sông, sừng sững chiếc lều
của quận công Von Kroi, phía sau các trung đoàn Preobrazenski và Xemionovski.
Một cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra đã hơn hai tiếng đồng hồ trên các chướng
ngại vật cự mã phía Nam và phía Tây doanh trại. Không tài nào chỉ huy ra lệnh
được trong cái địa ngục tuyết này... Trong lều, hai tay ôm đầu, đại tá Blumbec
béo phệ, chỉ huy trung đoàn Preobrazenski đang ngồi ở bàn. Thỉnh thoảng hắn lại
thở hồng hộc.
Trước mặt hắn, Halac âu sầu nhấp nháy cặp
mi, nhìn cây nến, bình thản đợi lúc phải chìa đốc gươm, cúi đầu chào nộp gươm
cho một sĩ quan Thụy Điển.
Ông quận công bước vào lều, chiếc áo cầu
bằng dạ nai khoác ngoài áo giáp, lấm tấm tuyết, lưỡi trai chiếc mũ sắt hất lên,
ria thõng xuống như thạch nhũ, cặp môi run run:
- Quỷ đi mà dẫn bọn Nga chó lợn này ra trận!
- y thốt lên. - Thiếu tá Cuningam và thiếu tá Gaxt đã bị bóp cổ chết trong hầm
của họ... Đại úy Vanbrec thì bị cắt cổ chết lăn ra kia, chỉ cách lều này độ
mười lăm bước... Sa hoàng giao cho ta cái đạo quân này là khôn ngoan lắm! Thật
là một đám súc sinh!
Halac vội vã đứng dậy và vạch bức thảm che
lối vào. Một cơn lốc tuyết ập vào trong lều.
Tiếng ồn ào của một đám đông hàng ngàn
người át cả tiếng súng.
Quận công Von Kroi lao ra khỏi lều. Phía
dưới, người ta nhận rõ hình thù chiếc cầu bị sóng đánh dạt vào bờ, nhiều người
đang la thét. Bên phải nơi hàng rào của doanh trại đâm xuống sông, người đông
vô kể, cuống cuồng nhốn nháo
- Mặt trận trung tâm đã bị chọc thủng, -
Halac, nói, - đó là các trung đoàn của Golovin.
Binh lính leo lên hàng rào, một vài nhóm lẻ
tẻ chạy về phía lều.
- A, trời ơi! - quận công kêu lên. - Lên
ngựa, các ngài! - y hất bỏ chiếc áo cầu bằng da nai, bộ áo giáp làm y khó cử
động. - Giúp ta với, trời ơi!
Quận công Von Kroi, Halac, và Blumbec, lên
ngựa, đi xuống phía sông và men theo sông lầy lội, nặng nề phi ngựa về phía
Tây, phía quân Thụy Điển đang nổ súng, để tự nộp mình làm tù binh, đề tự cứu
lấy tính mạng họ đang bị đám tàn quân điên khùng đe dọa.
* * *
Đêm đã xuống. Gió đã dịu, tuyết mềm nhũn
rơi xuống dày đặc. Thỉnh thoảng lại đoành một tiếng súng nổ đơn độc. Một cảnh
tĩnh mịch như ở nghĩa địa bao trùm nơi đóng quân của người Nga. Không một ngọn
lửa... Riêng ở khu trung tâm, tại đoàn xe quân lương chúng đã chiếm được, bọn
lính thủ pháo Thụy Điển say khướt, đang hát ầm ĩ, giọng ồ ồ. Từ những thùng gỗ
đang cháy, ngọn lửa bốc lên chiếu sáng màn tuyết trắng đang dần dần phủ kín bọn
lính đã say mềm nằm bất tỉnh và các xác chết.
Artamon Golovin, Trubetxkoi, Buturlin,
hoàng tử xứ Imerexi và Yakov Dolgoruki họp hội nghị.
Mười đại tá, trong số đó có con danh tướng
Gordon và con trai của Franx Lơfo, các trung tá, thiếu tá, đại úy, trung úy -
tất cả tám mươi sĩ quan chỉ huy - cưỡi ngựa hoặc đi bộ, tụ tập trước lều, nơi
các vị tướng đang họp. Người ta vừa mới cử người đi điều đình với vua Charles -
vương hầu Kozloski và thiếu tá Pien - nhưng họ đã rơi vào tay binh lính của họ,
những người này nhận ra họ và họ đã bị giết chết.
Trong lều, dưới ánh lửa một thanh củi nhỏ,
Artamon Golovin nói:
- Các chiến lũy đã bị chọc thủng, ông thống
tướng đã chạy trốn. Cầu gãy hết, các xe chở thuốc súng bị quân Thụy Điển chiếm
mất cả... Ngày mai, ta không thể tiếp tục chiến đấu được nữa... Nhờ đêm tối,
chừng nào quân Thụy Điển chưa trông thấy thảm họa của ta thì ta còn có thể dành
được ở vua Charles những điều kiện rộng rãi, cứu lấy vũ khí và binh lính của ta...
Ivan Ivanovich, - ông cúi chào Buturlin. - ông hãy đến gặp vua Thụy Điển và nói
với nhà vua là để tránh đổ máu, - dòng máu của những người theo đạo Cơ đốc, -
chúng ta muốn hai bên cùng rút, ta thì trở về lãnh thổ của ta, còn nhà vua thì
trở về đất nước của nhà vua!
- Thế còn đại bác? Phải nộp ư? - Buturlin
hỏi, giọng khàn khàn.
Không ai lên tiếng trả lời, các vị tướng
cúi gằm mặt xuống. Khuôn mặt của Golovin, con người vốn kiêu hãnh, co dúm lại,
vì đau khổ. Yakov Dolgoruki, ngăm ngăm đen, môi dày, vừa nói vừa nhướn cao cặp
lông mày.
- Việc gì phải dài dòng vô ích... Nhục nhã
đến thế này là hết mức rồi, còn gì mà xấu hổ nữa... Ta đầu hàng thôi.
Buturlin bật viên đá lửa của hai khẩu súng
ngắn đánh cách một cái, đút súng vào thắt lưng, kéo mũ sụp xuống tận mất và
bước ra khỏi lều:
- Lính kèn!
Một sĩ quan chạy lại:
- Thế nào, Ivan Ivanovich, ta hàng sao?
Ivan Ivanovich, chúng tôi không sợ chết... Nhưng chết vì chính tay quân mình
thì thực là khổ tâm
Vua Charles và các tướng lĩnh tiếp Buturlin
tại một cái ấp cách nơi quân Nga đóng một dặm.
Cũng như quân Nga, quân Thụy Điển lo ngại
cho ngày hôm sau.
Sau khi hoạnh họe để làm mẽ, họ đồng ý để
toàn bộ quân Nga vượt trở lại sông Narva với vũ khí và cờ xí nhưng phải để lại
đại bác và xe lương thảo. Để làm tin, họ buộc phải đưa tất cả các tướng tá và
sĩ quan Nga đến ấp này, còn quân lính thì họ để mặc cho trở về nhà, tùy theo
lượng Chúa... Buturlin muốn thảo luận. Nhưng vua Charles nói với nụ cười chế
giễu:
- Chính vì tình nghĩa với người anh em của
ta là Sa hoàng Piotr mà ta cứu vớt các vị tướng lĩnh lẫy lừng của ông ta khỏi
cơn cuồng giận của quân lính. Ở Narva, các ngài sẽ yên ổn hơn và được ăn uống
no nê hơn là ở trong quân đội các ngài.
Đành phải nhận tất cả các điều kiện. Một
đơn vị quân giáp kỵ Thuỵ Điển phi ngựa đi tìm các con tin.
Công binh Thụy Điển đốt những đống lửa ở
ngoài trời, và bắt tay ngay vào việc dựng một chiếc cầu để tống khứ quân Nga
sang bên kia sông càng sớm càng hay. Các trung đoàn Xemionovski và
Preobrazenski rời khỏi nơi đóng quân trước tiên: họ vượt qua cầu với cờ xí và
vũ khí trong tiếng trống đánh: tất cả quân lính, cao lớn, ria rậm bước đi, vẻ
mặt rầu rĩ. Họ khiêng thương binh trên vai. Khi sư đoàn Vaide sắp sửa qua sông,
quân giáp kỵ Thụy Điển tiến lại gần, hầm hầm đòi phải nộp vũ khí. Quân Nga vừa
nguyền rủa chửi bới vừa vứt súng xuống đất. Còn các trung đoàn khác thì chúng
chỉ nổ súng xua đuổi.
Tang tảng sáng, tàn quân Nga gồm bốn mươi
lăm ngàn người - đói khát, chân không giầy, không người cầm đầu, lộn xộn bước
đi trên con đường về. Các pháo đài của thành Ivan-gorod bắn theo vài quả trái
phá.
-------------
Chú thích:
(1)
Con lợn (tiếng Đức).
(2)
Các bạn.
(3)
Đơn vị gồm một trăm quân kỵ.
(4)
Nhân danh Chúa (tiếng Đức).
(5)
Nhân danh Chúa.
Chương 130
Tin bại trận ở Narva đến tai vua Piotr vào lúc nhà vua đang bước vào
sân dinh tổng trấn Novgorod. Theo sau xe của Sa hoàng, Pavel Yaguzinski, trên
con ngựa chuệnh choạng, phóng qua chiếc cổng mở toang. Hắn nhảy xuống đất trước
thềm, cặp mắt long lanh chằm chằm nhìn Sa hoàng.
- Nhà ngươi từ đâu tới? - vua Piotr cau có
hỏi.
- Từ đó lại, thưa Ngài pháo thủ.
- Thế sao? Có chuyện gì xảy ra?
- Thật là một sự sỉ nhục, thưa Ngài pháo
thủ!
Vua Piotr cúi gằm đầu xuống. Melsikov đang
dẫm chân cho hết tê cóng, vội lại gần; hắn hiểu ngay cà câu hỏi lẫn câu trả
lời. Viên tổng trấn Laduzenski, một lão già nhỏ bé, mắt lồi, lúc đó đang đứng ở
chân thềm, há hốc miệng làm gió buốt căm căm thổi bồng mớ tóc thưa của lão.
- Nào... Nhà ngươi lại đây và kể cho ta
nghe.
Vua Piotr đặt chân lên bậc thứ nhất, và đột
ngột quay lại nhìn chòng chọc viên tổng trấn Novgorod như tuồng rất ngạc nhiên:
- Ở tỉnh nhà ngươi, công việc phòng thủ đã
sẵn sàng cả rồi chứ?
- Tâu đại đế... Đêm đêm thần không ngủ,
thần chỉ nghĩ một điều: làm thế nào để bệ hạ được hài lòng. - Viên tổng trấn
Laduzenski quỳ sụp xuống, cặp mắt chó như van lơn, mi mắt lộn ngược chớp chớp.
- Tâu bệ hạ, làm thế nào mà phòng thủ được? Thành phố thì đổ nát, hào hố bị lấp
kín, cầu bắc trên sông Volkhov mục hết... Mà chẳng có cách nào lấy nông dân từ
các xóm làng tới được, ngựa đã bị trưng thu cho việc chuyên chở hết cả rồi...
Bệ hạ hãy rủ lòng thương.
Viên tổng trấn không nói mà vừa gào vừa níu
lấy chân Sa hoàng. Vua Piotr hất lão ra và chạy vào phòng ngoài. Tu sĩ, nữ tu
sĩ, giáo trưởng, những lão già đội mũ chóp đang ngồi ở đó, vội vã đứng dậy. Một
người, đầy xiềng xích loảng xoảng trên thân hình trần trụi, vội bò bốn chân
chui vào dưới gầm ghế.
- Những ai thế này?
Các tu sĩ và các giáo trưởng cúi rạp xuống
chào. Một tu sĩ tư tế béo tốt, vẻ mặt nghiêm nghị, lên tiếng, mắt trợn ngược.
- Tâu đại đế, xin bệ hạ đừng để cho các tu
viện và các nơi thờ Chúa tàn tạ. Bệ hạ đã ký sắc chỉ ra lệnh cho mỗi tu viện
phải nộp ít nhất là mười cỗ xe và mười người với xẻng sắt, lương thực càng
nhiều càng tốt. Mỗi giáo khu cũng phải nộp người và xe... Thực ra, điều đó vượt
quá sức người, muôn tâu đại đế... Chúng thần chỉ sống bằng của từ thiện mà vì
Chúa người ta bố thí cho thôi.
Vua Piotr đứng nghe, bàn tay đặt lên quá
đấm cửa; mắt trợn lên, nhà vua ngắm nhìn những con người đang chào mình.
- Các người từ tất cả các tu viện đến đây
xin ta ư?
- Vâng ạ, của tất cả các tu viện. - các tu
sĩ đồng thanh mạnh dạn trả lời.
- Của tất cả các tu viện, muôn tâu hoàng
thượng, - các nữ tu sĩ cất giọng trầm bổng.
- Danilys, không để một người nào ra khỏi
đây, đặt lính canh gác ngay!
Nhà vua bước vào phòng ăn và ra lệnh cho
Yaguzinski kể lại sự việc đã xảy ra. Nhà vua không ngồi, cứ đi đi lại lại trong
căn phòng thấp ấm áp, rồi cầm lấy một quả dưa chuột muối ở trên bàn, vừa nhai
vừa hối hả hỏi. Năm ngàn quân chết trên chiếc cầu bị gãy đôi và số người chết
trong cuộc chiến đấu còn lớn hơn nữa. Bảy mươi chín tướng và sĩ quan đầu hàng -
trong số đó có Vaide bị thương, cuộc rút lui đau khổ của đạo quân - không người
chỉ huy, không xe lương thảo - chỉ còn lại các sĩ quan hạ cấp và các hạ sĩ
quan, chủ yếu là trong các trung đoàn cận vệ.
- Tên quận công đã hàng đầu tiên. Cái tên
anh hùng người Áo này thật là chó đẻ! Và Blumbec đã hàng cùng với y à?
Alexaska, nhà ngươi có thể hiểu được điều đó không? Blumbec, một kẻ ta coi như
anh em, đã phi ngựa đến đầu hàng bọn Thụy Điển. A thằng kẻ cướp thằng kẻ cướp!
- Hạt dưa chuột từ miệng nhà vua bắn ra - Bảy mươi chín thằng phản bội!
Golovin, Dolgoruky... Vanka Burtulin, ta đã biết nó là một thằng ngu... nhưng
bây giờ thì chính nó là một thằng kẻ cướp! Trubetxkoi, con lợn ỉ ấy! Chúng đã
đầu hàng ra sao?
- Tên đại úy Vrangen và quân giáp kỵ của
hắn đã đến trước lều. Các tướng tá đã nộp kiếm.
- Và không có một tên nào?
- Có người khóc.
- Khóc ư? Anh hùng làm sao chứ! Thế chúng
mong muốn gì? Sau nỗi sỉ nhục này ta cầu hòa chăng?
- Cầu hòa bây giờ là chết, - Alexaska nói,
không cao giọng.
Vua Piotr ngừng lại trước khung cửa sổ nhỏ
gắn mica, dưới vòm trần thấp, chân giạng ra, bàn tay hết nắm chặt lại duỗi ra
sau lưng:
- Sự nhục nhã là một bài học tốt... Chúng
ta không chạy theo hư vinh... Chúng còn thắng ba mươi lần nữa, rồi ta sẽ thắng
chúng. Danilys... Ta giao thành phố cho nhà ngươi. Nhà ngươi sẽ bắt đầu tiến
hành các công việc phòng thủ, ngay từ hôm nay. Phải đào hào, dựng rào gỗ. Không
thể để quân Thụy Điển tiến qua Novgorod được. Chúng ta thà chết hết tất cả...
Rồi cho đi tìm và gọi ngay Brovkin và Xvesnikov tới đây. Bọn thương nhân ở
Novgorod, bọn giàu sụ cũng phải đến cả đây. Còn tên tổng trấn, ta cách chức nó...
- Nhà vua quát theo Alexaska. - Hãy cho nó mấy quả đấm tống cổ nó ra khỏi đây.
Melsikov vội vã bước ra. Vua Piotr nói với
Yaguzinski:
- Nhà ngươi hãy lấy ba trăm xe, chất đầy
bánh mì lên và vào lúc chiều tối, đưa đoàn xe đó đến gặp đoàn quân. Hiểu chưa?
- Xin tuân lệnh, thưa Ngài pháo thủ.
- Gọi các tu sĩ vào đây.
Nhà vua ngồi xuống một chiếc ghế dài, ngay
trước cửa ra vào, mặt hầm hầm dữ tợn, đúng là một Quỷ vương. Các tu sĩ bước
vào. Không có họ, không khí đã ngột ngạt rồi, giờ đây quả là khó thở.
- Đây là điều ta muốn nói với các ngươi,
những người bảo vệ Chúa, - Vua Piotr bắt đầu. - Các ngươi hãy trở về tu viện và
giáo khu của ngươi: ngay ngày hôm nay tất cả các ngươi sẽ đi làm việc, đào đất.
- Nhà vua hăm dọa nói với viên tu sĩ tư tế đang mấp máy cặp lông mày rậm dưới
chiếc mũ trùm đầu. - Hãy câm miệng đi cha ạ. Không phải chỉ có những người sơ
tu mới phải đi làm với xẻng sắt và ngựa, mà tất cả các tu sĩ, kể cả các cha bề
trên, và tất cả các nữ tu sĩ, tất cả các giáo trưởng và tất cả các trợ tế với
vợ con họ... Hãy làm việc vì vinh quang của Chúa... Câm đi, ta đã bảo nhà ngươi
mà, ông tu sĩ tư tế... Một mình ta sẽ cầu nguyện cho tất cả mọi người, giáo chủ
ở Constantinop đã xức dầu thánh cho ta để làm việc này... Ta sẽ cử một trung úy
đi khắp các tu viện và các nhà thờ: tất cả những ai không chịu làm việc sẽ bị
dẫn tới quảng trường, trói vào cột nhục hình và đánh năm mươi trượng... Tội lỗi
đó, ta cũng chịu trách nhiệm. Chừng nào các hào đào chưa xong, thì sẽ không có
các buổi lẽ tại các nhà thờ, trừ nhà thờ lớn Đức bà Sofia! Thôi, cho các ngươi
về!
Hai bàn tay nhà vua nắm chặt lấy mép ghế,
cổ vươn ra, má nhà vua tròn xoe tua tủa râu cứng, bộ ria vểnh lên. Ồ! trông nhà
vua thật là khủng khiếp! Các tu sĩ đi giật lùi, mông huých vào nhau, biến qua
cửa. Vua Piotr hét lên:
- Này, ngoài kia, ở phòng ngoài, bỏ lính
gác đi!
Nhà vua rót vodka vào cốc rồi lại đi đi lại
lại trong phòng... Được một lát cánh cửa phía ngoài nặng nề kêu cót két. Có
người khẽ hỏi ở phòng chờ:
- Nhà vua đâu? Giận dữ lắm à? A, gay thật,
gay thật... - Brovkin, Xvesnikov - những người này kinh hãi, cầm mũ trong tay
chớp chớp mắt - bước vào. Vua Piotr không để cho họ hôn tay, nhà vua vui vẻ nắm
lấy vai họ, hôn vào trán họ. Nhà vua hôn Brovkin vào miệng:
- Chào Ivan Artemist, chào Aleksey
Ivanovich!
Vua nói với các thương nhân Novgorod:
- Chào các vị thân hào! Mời các vị ngồi
xuống... Các vị trông thấy các đồ nhắm, vodka, tất cả đã được dọn lên bàn. Ta
đã cho đuổi tên chủ nhà đi khỏi đây rồi... Nếu các vị biết được tổng trấn đã
làm ta phiền lòng biết chừng nào; ta cứ tưởng ở đây mọi việc đã xong xuôi, các
chiến hào và các hàng rào bất khả xâm phạm... Vậy mà chưa xúc được một xẻng đất
nào.
Nhà vua rót vodka cho tất cả mọi người. Các
thương nhân thành Novgorod cầm lấy cốc nhà vua đưa cho và đứng bật dậy. Vua
Piotr uống trước tiên, khoái trá đằng hắng, cầm chiếc cốc đã cạn, đập mạnh lên
bàn:
- Chúng ta đã cạn cốc mừng khởi đầu thắng
lợi. - Nhà vua phá lên cười. - Nào các vị thương gia, các vị đã nghe thấy chưa?
Vua Thụy Điển đã nện cho chúng ta một trận khá đau. Đấy mới chỉ là bắt đầu,
chẳng sao... Một người đã bị đánh sẽ bằng hai người khác, rút cuộc lại có phải
thế không nào?
Các thương gia nín lặng. Ivan Artemist, hai
môi mím chặt, mắt dán xuống bàn. Xvesnikov, nhíu cặp lông mày rậm, cũng nhìn
lảng đi chỗ khác. Các thương gia Novgorod khe khẽ thở dài:
- Có thể quân Thụy Điển sẽ tới đây trong
tuần này. Nếu ta nộp Novgorod thì ta sẽ phải nộp cả Moskva. Lúc đó, ta sẽ bị
tiêu diệt hết.
- Á la, la... - Brovkin thở dài não nuột.
Bộ mặt Xvesnikov với bộ râu đen, trở nên vàng khè như dầu nhờn để đốt.
- Nếu ta chặn được bọn Thụy Điển ở Novgorod
thì đến mùa hạ, ta sẽ tập hợp và huấn luyện được một đạo quân mạnh hơn đạo quân
trước... Ta sẽ đúc đại bác nhiều gấp đôi trước. Các khẩu đại bác ở Narva chẳng
có ra gì cả... Ta sẽ không đúc những đại bác như vậy nữa... Các tướng lĩnh đã
bị bắt. Ta rất hài lòng về việc đó. Bọn già chẳng khác gì những quả tạ buộc vào
chân ta. Ta cần những tướng lĩnh trẻ, sung sức... Ta sẽ huy động cả nước... Ta
đã bị nhục một mẻ. Được! Bây giờ ta mới bắt đầu chiến tranh... Ivan Artemist,
Aleksey Ivanovich, hãy đưa cho ta một rúp để chi phí vào chiến tranh, hai năm
nữa, ta sẽ trả thành mười. - Nhà vua ngả lưng vào tường, đấm mạnh xuống bàn: -
Thế nào, được chứ, các vị thương gia?
- Piotr Alekseevich, - Xvesnikov nói, bệ hạ
muốn chúng thần lấy đâu ra đồng rúp đó? Bệ hạ tưởng là trong hòm của chúng thần
có tiền sao? Chỉ có chuột thôi!
- Đúng sự thật là thế đấy ạ, a, là là, đúng
sự thật là thế đấy ạ - các thương nhân Novgorod rên rỉ. Vua Piotr quắc mắt nhìn
họ. Họ còng lưng xuống. Nhà vua nặng nề đặt bàn tay lên cái lưng ngắn của Ivan
Artemist.
- Còn nhà ngươi, nhà ngươi nói sao?
- Piotr Alekseyvich, Đức Chúa lòng lành đã
gắn chặt thần với bệ hạ như thể buộc dây. Bệ hạ đi đâu thần cũng xin theo.
Khuôn mặt đầy đặn của Brovkin nom thật cởi
mở, lương thiện, Xvesnikov nhìn thấy mà há hốc cả mồm: hắn và Brovkin chẳng vừa
thỏa thuận với nhau là không nhả tiền ra đấy ư? Thế mà lão Vanka tinh quái này
lại vội tâng công ngay... Vua Piotr ôm lấy vai Brovkin, áp bộ mặt đẫm mồ hôi
của lão vào ngực mình, vào những chiếc khuy đồng của chiếc áo chẽn.
- Ivan Artemist, ta vẫn tin chắc là nhà
ngươi sẽ không trả lời gì khác... Nhà ngươi thông minh, táo bạo, nhà ngươi sẽ
được trọng thưởng... Các vị thương gia! Ta cần tiền ngay lập tức. Trong một
tuần, thành Novgorod phải được củng cố vững và sư đoàn Anikita Repnin phải
chuẩn bị chống lại cuộc bao vây.
* * *
“Người ta đào chiến hào và phá các nhà thờ...
dựng các hàng rào và khoét lỗ châu mai, đắp cỏ lên các bờ lũy.
“Tham gia vào công việc này có quân long kỵ
binh và binh lính, tất cả các loại viên chức và giáo trưởng, tất cả các loại tu
sĩ nam cũng như nữ.
“Người ta đắp đất lên các tháp rồi trồng cỏ
lên. Mái gỗ che các tháp và mái gỗ trên các tường đều bị dỡ đi hết... Cùng
trong lúc đó, các buổi lễ đều bãi bỏ tại tất cả các nhà thờ của các giáo khu,
trừ nhà thờ lớn.
“Trung tá Sensin được lệnh phải làm việc ở
tu viện Petsesk. Sa hoàng đến tu viện không thấy Sensin, đã ra lệnh quất hắn
bằng roi không tiếc tay ở ngay chân tường thành rồi tống hắn vào một trung đoàn
làm lính thường.
“Tại Novgorod, viên chỉ huy Aleksey
Poxkotsin đã bị treo cổ vì ăn của đút, cứ mỗi xe được miễn đem đến nơi làm
việc, hắn lấy năm rúp”.
Chương 131
Viên sĩ quan thường trực trên thềm lâu đài Preobrazenskoe trả lời tất
cả mọi người:
- Có lệnh không cho một ai vào. Mời ngài về
cho!
Trong sân tụ tập vô số xe trượt tuyết có
mui kín và xe ngựa. Gió tháng chạp đem mưa đá nhỏ đến lấp đầy các rãnh bánh xe
đen ngòm. Cây cối bị giá phủ xào xạc chong chóng xem chiều gió cót két trên các
mái hư nát của lâu đài. Các vị thượng thư và các quan đại thần ngồi trong xe
trượt tuyết có mui và xe ngựa chờ đợi suốt ngày ròng rã, từ sáng. Melsikov đi
xe thếp vàng đóng sáu ngựa đến, muốn vào; nhưng cả hắn cũng bị bắt quay lại.
Buổi tối, quá mười giờ, Romodanovski tới.
Viên sĩ quan thường trực run bắn cả người khi thấy vị vương hầu chấp chính mặc
chiếc áo cầu lông gấu, lắc lư leo các bậc gạch đã mòn. Để ông ta vào là trái
lệnh Sa hoàng; không để ông ta vào thì vị vương hầu chẳng cần thỉnh thị Sa
hoàng, sẽ lấy quyền lực của mình sai người quất cho hắn một trận đến tan nát
thịt da.
Romodanovski đi vào lâu đài; tới mỗi cửa,
lính gác nghe thấy bước đi nặng nề của lão đều lẩn tránh. Trước khi tới phòng
ngủ của Sa hoàng, lão phải ngồi lại ba lần để thở. Lão lấy móng tay gãi cửa rồi
bước vào và cúi chào nhà vua theo kiểu cổ.
- Ngươi đến có việc gì thế, ông chú của ta?
- Vua Piotr, khói thuốc lá mù mịt kín người, đi đi lại lại trong phòng, mồm
ngậm tẩu; nhà vua quay lại, tỏ vẻ không bằng lòng và không chào lại. - Ta đã
nói là không để ai vào kia mà?
- Tâu bệ hạ, họ đã làm đúng như thế: không
ai dám vào cả. Nhưng thần đây, ngay thái thượng hoàng cũng để thần vào mà không
cần phải báo trước.
Vua Piotr nhún vai và lại tiếp tục đi lại,
miệng nhấm nhấm cán tẩu.
- Bệ hạ nghĩ gì suốt cả ngày ròng rã như
vậy? Thái thượng hoàng và hoảng hậu đã căn dặn bệ hạ nghe lời khuyên bảo của
thần. Ta cùng nhau suy nghĩ chứ, bệ hạ? Có lẽ ta sẽ tìm được giải pháp nào
chăng?
- Thôi đừng nói suông nữa... Tự nhà ngươi
cũng biết rõ... là ta đang nghĩ gì?
Fedor Yurievich không trả lời ngay; lão
ngồi xuống phanh rộng chiếc áo cầu - trong cái không khí ngột ngạt này, lão
thấy khó thở - rồi lấy chiếc mùi soa thấm mồ hôi trên mặt:
- Có lẽ thần đến đây không phải là để nói
suông. Biết đâu đấy, biết đâu đấy!
Bỗng nhiên, vua Piotr như thể không nghe
thấy chính tiếng nói của mình, hét to đến nỗi tên lính gác đứng trong phòng
Ngai vàng tối om kề đó, đánh rơi khẩu súng vì hoảng sợ.
- Bọn giàu sụ ở Hội đồng xã trưởng lý luận
như sau: trước thành Narva, ta đã tỏ ra là không thể đánh nhau với quân Thụy
Điển được... Cần phải ký hòa ước. Chúng không dám nhìn thẳng vào ta nữa... Ta
đã nói với chúng như thế này... - Nhà vua túm lấy áo nẹp của Fedor Yurievich
lắc mạnh. - Chúng khóc thút thít: “Muôn tâu đại đế hãy chặt đầu chúng thần đi,
nhưng chúng thần không có tiền, chúng thần đã bị phá sản...”. Ta nghĩ đến cái
gì à? Ta cần tiền! Suốt hai mươi bốn giờ đồng hồ qua, ta tự hỏi không biết lấy
đâu ra tiền. - Nhà vua buông Fedor Yurievich ra. - Thế nào? Ông chú?
- Thần đang nghe đây. Tâu bệ hạ, thần sẽ
xin nói sau.
Vua Piotr chớp chớp mắt: “Hừ!” Nhà vua đi
đi lại lại một lát, liếc nhìn vương hầu, dịu giọng nói:
- Ta cần đồng... Có nhiều chuông thừa -
chẳng cần gì đến một tiếng kêu rỗng tuếch - ta sẽ tháo chuông xuống, đem đúc...
Từ Ural, Demidov viết thư cho ta: đến mùa xuân sẽ có năm mươi nghìn pud gang thỏi - Nhưng tiền? Lại moi tiền
của dân các đại xã, của nông dân chăng? Liệu có được nhiều không? Ngay bây giờ
họ đã thở không được rồi, vả chăng một năm nữa cũng chưa chắc đã thu thuế xong...
Thế mà có vàng, có bạc, có cả đấy nhưng bị cất giấu, vô dụng... - Piotr
Alekseevich chưa nói hết lời, cặp mắt của Fedor Yurievich đã trợn tròn xoe. -
Ta biết là nhà ngươi sẽ trả lời ta như thế nào rồi ông chú của ta ạ. Chính vì
thế mà ta đã không cho người đi tìm nhà ngươi... Nhưng chỗ tiền đó nhất định ta
sẽ lấy.
- Tâu bệ hạ, vào lúc này, không thể chạm
đến kho tàng của các tu viện được!
- Tại sao? - vua Piotr thét lên như tiếng
gà trống.
- Không phải lúc... Bây giờ... nguy hiểm
đấy... Thần không nói với bệ hạ về những người bị dẫn đến chỗ thần hàng ngày,
hoặc gần như thế... - Các ngón tay múp míp của Fedor Yurievich, đặt trên đầu
gối, động đậy, có vẻ lo ngại. - Bọn thương gia Moskva là đày tớ trung thành của
bệ hạ, trong lúc này... Narva đã làm chúng sợ... Mà kể ra ai mà chẳng sợ...
Chúng lải nhải một thời gian rồi chúng sẽ thôi... Chiến tranh có lợi cho chúng.
Chúng sẽ bỏ tiền ra, nhưng xin bệ hạ đừng bực bội... Còn nếu như ngay bây giờ,
bệ hạ đụng đến các tu viện, thành lũy của chúng... Những tên dở người sẽ la lên
khắp nơi những điều mà Griska Talitski(1) đứng trên mái nhà đã gào lên hôm vừa
qua ở chợ. Bệ hạ biết chứ? Bệ hạ thấy đấy... kho tàng của các tu viện ta phải
lấy dần dần, lặng lẽ.
- Nhà ngươi định mưu mẹo với ta đấy?
- Thần đã già, thần mưu mẹo làm gì?
- Ta phải có tiền ngay tức khắc. Nếu cần ta
sẽ cướp!
- Bệ hạ cần nhiều không? - Fedor Yurievich
đặt câu hỏi đó, miệng thoáng mỉm cười kín đáo. Nhà vua lại “hừ” một tiếng rồi
lồng lộn đi lại trong phòng ngủ, châm tẩu vào cây nến, thở ra một hơi khói, một
hơi nữa, và dằn giọng kiên quyết nói:
- Hai triệu!
- Có thể kém một ít chăng?
Vua Piotr bỗng ngồi thụp xuống trước Fedor
Yurievich, lắc mạnh đầu gối lão.
- Đừng làm ta nóng lòng sốt ruột nữa... Ta
hãy thỏa thuận với nhau: trong lúc này, ta sẽ không đụng đến kho tàng của các
tu viện... Được chứ? Nhà ngươi có tiền không? Nhiều không?
- Để mai xem sao?
- Không, ngay bây giờ...
- Nào đi! - Fedor Yurievich cầm lấy mũ,
nặng nề đứng dậy: - Thôi được... Bệ hạ đã cần quá như vậy... - Vương hầu đi ra
cửa, dáng đi như một con gấu. - Nhưng đừng cho ai đi theo bệ hạ. Chỉ hai chúng
ta đi thôi.
Trên tháp Xpaskaia, đồng hồ điểm một giờ,
chiếc xe trượt tuyết có mui của vương hầu chấp chính chạy vào điện Kreml, rẽ
vào các ngõ chật hẹp và tối om, giữa những ngôi nhà cũ kỹ của các bộ và dừng
lại trước một tòa nhà thấp bè bè, bằng gạch. Một ngọn đèn đặt ở bậc thềm. Một
người mặc áo lông cừu ngả mình vào cổng sắt đang ngáy khò khò. Vương hầu từ
trên xe trượt tuyết bước xuống sau Piotr Alekseevich, nhấc ngọn đèn lên, cây
nến mỡ bò chảy nước, khói um và lấy chân đá chiếc giầy gai thò ra ngoài cái áo
khoác lông cừu.
Người kia còn ngái ngủ nói:
- Anh muốn gì, anh muốn gì? - Hắn ngồi lên,
bẻ cổ áo bằng lông cừu xuống, nhận ra các vị khách vội choàng đứng dậy.
Vương hầu chấp chính gạt hắn ra, lấy chìa
khóa của mình mở cửa để vua Piotr đi qua, rồi bước vào theo và khóa cửa lại.
Giơ cao ngọn đèn, lão lặc lè đi qua căn phòng ngoài lạnh toát, qua một phòng
khác ấm áp, rồi một phòng thấp trần hình vòm, tường đã tróc vôi vữa của Bộ Cơ
mật do Sa hoàng Aleksey Mikhailovich lập ra. Mùi bụi bậm, mùi mốc khô, mùi
chuột xông lên. Hai khung cửa sổ nhỏ có chấn song phủ đầy mạng nhện.
Một cánh cửa hé mở, đầu một lão già sợ sệt
ló ra; đó là người gác bên trong, một người tin cẩn.
- Ai đấy? Ông là ai?
- Mitrits, đưa ta một cây nến, - vương hầu
chấp chính nói.
Những tủ thấp bằng gỗ sồi, đóng bằng khóa
sắt rèn, sắp thành hàng sát bức tường bên trong cùng. Không những cấm không ai
được sờ mó vào các tủ ấy, mà còn cấm cả tò mò dò hỏi bên trong đựng những hồ sơ
gì, trái lệnh sẽ bị xử tử.
Người gác đem đến một cây nến cắm trên một
cái giá bằng sắt. Vương hầu chỉ vào chiếc tủ giữa:
- Kéo chiếc tủ này ra... - Người gác lắc
đầu. - Ta ra lệnh cho ngươi... Ta chịu trách nhiệm.
Người gác đặt cây nến xuống đất. Hắn tì cái
vai hom hem vào tủ rồi đẩy: chiếc tủ không nhúc nhích.
Vua Piotr vội vàng cởi bỏ áo cầu ngắn, bỏ
mũ, và ghé người vào chiếc tủ, lấy hết sức đẩy mạnh - cổ nhà vua đỏ ửng lên -
và đẩy lùi chiếc tủ. Một con chuột nhắt từ dưới gầm tủ vọt ra. Bức tường có đục
một cánh cửa nhỏ bằng sắt, phủ kín mạng nhện, bám đầy bụi bậm.
Fedor Yurievich vừa thở vừa rút trong túi
ra một chiếc chìa khóa nặng hai livrơ(1)
và nói:
- Mitrits, soi cho ta, ta chẳng trông thấy
gì hết.
Lão vụng về đút chìa khóa vào lỗ. Đã ba
mươi năm nay không mở, ổ khóa hoen gỉ, không vặn được.
- Phải dùng đòn bẩy mới mở được; Mitrits,
đi tìm cho ta một cái đòn bẩy.
Vua Piotr cầm cây nến soi, xem xét cánh
cửa:
- Có cái gì trong đó?
- Bệ hạ sẽ thấy... Theo các bản kê khai của
lâu đài, những hồ sơ mật được cất trong đó. Trong chiến dịch của vương hầu
Golixyn ở Krym, bà chị Sofia của bệ hạ một đêm có đến đây. Thần cùng đi với
lệnh bà... Nhưng thần không mở được cửa, cũng như bây giờ... - Lão khẽ cười gằn
dưới bộ ria kiểu Tarta. - Lệnh bà Sofia đứng đó một lúc rồi ra về.
Người gác đem đến một cái đòn bẩy và một
cái rìu. Vua Piotr phá khóa - nhưng đánh gãy cán rìu và bị xước một ngón tay.
Nhà vua lấy chiếc đòn bẩy nặng nện mạnh vào cánh cửa.
Những tiếng nện vang lên choang choang
trong căn nhà vắng lặng. Fedor Yurievich lo ngại, nhìn qua cửa sổ. Cuối cùng,
vua Piotr đút được đòn bẩy vào khe. Nhà vua ấn mạnh đòn bẩy, làm bật ổ khóa -
cánh cửa sắt hé ra, rít ken két. Sốt ruột, nhà vua nắm lấy cây nến và tiến lên
trước, bước vào căn phòng xép, trần vòm, không có cửa sổ.
Mạng nhện, bụi bậm. Trên các giá chạy quanh
các tường, xếp những bình có quai chạm trổ từ thời Ivan Hung đế và Boris
Godunov; những bình rượu lớn chân cao của Ý; những chậu bạc nhỏ để Sa hoàng rửa
tay trong những buổi chiêu đãi lớn; hai con sư tử bạc bờm bằng vàng và răng
bằng ngà; hàng chồng đĩa vàng, những giá nến nhà thờ bằng bạc đã gãy, một con
công lớn bằng vàng khối, mắt ngọc bích, đó là một trong hai con công đặt bên
ngai các hoàng đế Bizăngxơ thời cổ; bộ máy của nó đã hỏng.
Trên các giá bên dưới có để những túi da:
qua những đường khâu đã bục của nhiều túi, lòi ra những đồng florin Hà Lan. Dưới những ghế dài, xếp
hàng đống lông hắc điêu thử, nhung, lụa, tất cả đều bị mối nhấm, mục nát.
Vua Piotr cầm lấy những đồ vật đó, nhấm
nước bọt vào ngón tay xoa xoa: “Vàng đây! Bạc đây!”.
Nhà vua đếm các túi tiền vàng, có bốn mươi lăm túi, có thể nhiều hơn... Nhà vua cầm lấy những bộ lông hắc điêu thử, những bộ đuôi cáo, rũ mạnh.
Nhà vua đếm các túi tiền vàng, có bốn mươi lăm túi, có thể nhiều hơn... Nhà vua cầm lấy những bộ lông hắc điêu thử, những bộ đuôi cáo, rũ mạnh.
- Này ông chú, nhưng những cái này mục nát
cả rồi!
- Mục đấy nhưng không phải là bỏ đi.
- Tại sao trước đây nhà ngươi không nói với
ta?
- Thần đã có lời hứa... Đức Thái thượng
hoàng Aleksey Mikhailovich mỗi lần đi chiến dịch đều giao cho thần giữ những
kho dự trữ tiền bạc và châu báu của Người. Đến cuối đời Người, Người có gọi
thần đến và dặn dò là không được đem cho một người kế vị nào của Người, trừ
trường hợp Nhà nước tối cần thiết, trong thời chiến.
Vua Piotr vỗ mạnh vào đùi:
- A, quả thực nhà ngươi đã giúp ta thoát
khỏi cơn bí... Như thế là đủ rồi... Bọn tu sĩ sẽ cảm ơn nhà ngươi! Hãy nhìn con
công này! Đủ để mua giầy, quân phục, vũ khí cho các trung đoàn và nện cho vua
Charles một trận nên thân... Nhưng còn các chuông, ông chú ạ, dù thế nào đi nữa
ta cũng sẽ cứ lấy, không nên vì thế mà giận ta.
-------------
Chú thích:
(1) “Nhà
chép sử” razkonic, tác giả các “cuốn vở” trong đó Piotr đệ nhất bị gọi là “Quỷ
vương”. Bị xử tử năm 1700. (Chú thích của tác giả).
(2)
Một livrơ bằng 0,453kg.
Chương 132
Ở
châu Âu, người ta chế diễu nhưng rồi cũng nhanh chóng
quên vị Sa hoàng của bọn dã man suýt nữa đã làm cho các dân tộc vùng Baltic
phải hoảng sợ - tựa những bóng ma, bầy khố rách áo ôm của ông ta đã tan tác.
Sau trận Narva, vua Charles, người đã dồn chúng về xứ Moskovi man rợ của chúng,
nơi chúng sẽ phải sống vất vơ vất vưởng mãi mãi trong cảnh tối tăm ngu dốt từ
ngàn xưa - vì qua lời tường thuật của các nhà thám hiểm nổi tiếng, ai cũng biết
bản chất hèn hạ và bất lương của người Nga, - chỉ trong một thời gian ngắn, vua
Charles đã trở thành người anh hùng lừng danh các thủ đô châu Âu. Ở Amsterdam,
tòa Thị sảnh và Sở giao dịch chứng khoán kéo cờ mừng chiến thắng Narva; ở
Paris, tại các hiệu sách, người ta trưng bày trong tủ kính hai kỷ niệm chương
bằng đồng - một cái mang hình thần Vinh quang đang đội mũ miện cho vua Thụy Điển
trẻ tuổi: “Chính nghĩa đã chiến thắng!”, còn chiếc kia ghi cảnh Sa hoàng Piotr
đang chạy trốn, rơi cả chiếc mũ Kamys.
Tại Viên, Inhatiux Garien, cựu sứ thần Áo ở
Moskva, cho xuất bản những ghi chép, hoặc nhật ký riêng, của viên thư ký của
ông ta là Johan George Kooe, tả lại một cách hào hứng những phong tục tức cười
và man rợ của xứ Moskovi, cùng là cuộc hành hình bọn xtreletz đẫm máu năm 1698.
Tại triều đình Viên, người ta công nhiên
bàn tán về tin thất bại mới của quân Nga trước thành Pskov, vua Piotr phải chạy
trốn chỉ có vài người theo sau, về cuộc nổi loạn ở Moskva, về tin công chúa
Sofia được giải thoát, đã từ tu viện ra nắm lại chính quyền.
Nhưng tất cả những sự kiện nhỏ nhặt đó liền
bị lu mờ ngay trước cơn bão táp chiến tranh rút cuộc đã bùng nổ. Vua Tây Ban
Nha băng hà, - Pháp và Áo mưu đồ tranh nhau kế vị. Anh và Hà Lan nhúng tay vào.
Các vị tướng soái lừng danh: Jhon,
Churchill, quận công Marlboro, vương hầu Ogien xứ Xavoa, quận công Vangdom bắt
đầu tàn phá các nước và đốt các thành phố.
Tại Ý, tại Bavie, tại xứ Flandre xinh đẹp,
trên tất cả các nẻo đường, bọn cầu bơ cầu bất có vũ khí đi lang thang khủng bố
dân lành, cướp bóc thực phẩm và rượu. Những cuộc nổi loạn nổ ra ở Hungary và ở
miền Xeven.
Vận mệnh các cường quốc đến lúc quyết định:
nước nào, hạm đội nào sẽ làm bá chủ các đại dương? Do đó họ đành bỏ mặc các
công việc của phương Đông.
Sau Narva, vua Charles say sưa với chiến
thắng, muốn đuổi theo vua Piotr đến tận cùng xứ Moskovi. Nhưng các tướng lĩnh
van nài nhà vua chớ có cầu may đến hai lần.
Quân đội mệt mỏi và bị tiêu hao được đưa về
doanh trại mùa đông tại Laixa, gần Dorpat. Từ đó, nhà vua viết cho Thượng nghị
viện một lá thư ngạo mạn, đòi viện binh và tiền. Ở Stockholm, những người trước
đây không tán thành chiến tranh bây giờ đều im lặng.
Thượng nghị viện ký pháp lệnh ban hành
những thuế mới và đến mùa xuân, gửi tới Laixa hai mươi nghìn bộ binh và kỵ
binh.
Một cuốn sách bằng tiếng La tinh được xuất
bản - “nguyên nhân cuộc chiến tranh của Thụy Điển chống Sa hoàng xứ Moskvi”.
Tại các triều đình châu Âu, mọi người khoái trá đọc cuốn sách đó.
Hiện giờ vua Charles có một đạo quân vào
loại mạnh nhất châu Âu. Chỉ có quyết định xem nên đánh về hướng nào: về phía
Đông - xứ Moskovi hoang vu, thành phố thưa thớt, cùng khổ, hứa hẹn những chiến
lợi phẩm nghèo nàn và ít vinh quang - hay về phía Tây Nam, chống tên vua
Auguste tráo trở, đánh vào tận nội địa nước Ba Lan, vào xứ Xăc, ngay trung tâm
châu Âu?
Tiếng súng đại bác của các vị tướng soái
lừng danh đã nổ vang ở đó. Vua Charles ngây ngất nghĩ đến vinh quang của một
Cséza thứ hai. Binh lính đội cận vệ của vua Thụy Điển, vốn dòng dõi trộm cướp,
đã mơ tưởng đến lụa là lộng lẫy xứ Florence, vàng bạc trong các hầm ở
Excurian,(1) những cô thiếu nữ xứ Flandre tóc vàng óng, các quán rượu ở các ngã
tư đường miền Bavie.
Đến mùa hạ, khi đường xá đã đi lại được dễ
dàng, vua Charles cử một đạo quân mạnh tám nghìn người do Slipenbac chỉ huy và
ra lệnh tiến về biên giới Nga. Đích thân nhà vua cầm đầu toàn đội binh mã, hành
quân gấp, vượt qua xứ Livoni; cách Riga hai dặm về mé thượng lưu gặp địch, nhà
vua vượt qua sông Dvina bằng thuyền và đánh tan đội quân xứ Xăc của vua
Auguste.
Trong trận này, xảy ra ngày mồng tám tháng
bảy, Johan Patkun bị thương, y chỉ vừa kịp lên ngựa chạy trốn, thoát khỏi tay
quân giáp kỵ của vua Thụy Điển đuổi theo; lần này y thoát được cảnh bị cầm tù
và nhục hình.
Trước thành Riga, không phải là đám lính
Nga rách rưới mà là đội quân oai hùng của xứ Xăc nổi tiếng khắp châu Âu đã bị
đánh bại.
Đôi cánh của vinh quang như dang rộng trên
lưng vua Charles.
“Vua
Charles chẳng còn nghĩ đến gì khác ngoài chiến trận... - Tướng Xtenboc đã
nói về vua Thụy Điển như vậy trong những bức thư gửi về Stockholm - Nhà vua không còn nghe những lời khuyên can
khôn ngoan nữa... Nhà vua nói năng cứ như là chính Chúa trời trực tiếp truyền
đạt cho mình mọi dự định. Nhà vua hết sức tự phụ và vô lý... Tôi cho rằng dù
chỉ còn một nghìn người, nhà vua vẫn cứ cùng với họ lao vào cả một đạo quân.
Nhà vua chẳng hề bận tâm về chuyện quân lính ăn uống ra sao, khi một người trong
chúng ta chết, nhà vua cũng chẳng hề mủi lòng nữa...”
Từ Riga, vua Charles đuổi theo Auguste. Ở
Ba Lan, một cuộc nội chiến đẫm máu bùng nổ giữa bọn quý tộc: một phe theo
Auguste chống lại người Thụy Điển, phe kia la lớn rằng chỉ có người Thụy Điển
mới thiết lập được trật tự và giúp người Ba Lan lấy lại vùng hữu ngạn xứ Ukrain
cùng với Kiev, và nước Ba Lan cần có vua mới.
Vua Auguste chạy trốn khỏi Warsawa. Không
phải giao chiến, vua Charles tiến vào thủ đô.
Tại Krakow, vua Auguste vội vã tập hợp một
đạo quân mới.
Một cuộc săn đuổi kỳ lạ bắt đầu - một ông
vua rượt theo một ông vua khác. Tại các triều đình châu Âu - một lần nữa người
ta lại ca ngợi vị anh hùng trẻ tuổi, tên vua Thụy Điển được nêu lên bên cạnh
tên vương hầu Ogien và quận công Marlbro.
Người ta nói rằng vua Charles không để một
người đàn bà nào tới gần, thậm chí để nguyên cả ủng mà ngủ; trước cuộc chiến
đấu, nhà vua ra mắt bá quan, - cưỡi ngựa, đầu không mũ, mặc chiếc áo chẽn màu
xám xanh muôn thuở cúc cài đến tận cổ, và miệng cầu Chúa, xông trước tiên vào
kẻ thù, cuốn theo cả đoàn quân. Nhà vua đã giao nhiệm vụ cho tướng Slippenbac
đánh bại Sa hoàng Piotr ở miền Đông chán ngắt.
Suốt mùa đông, vua Piotr khi thì ở Moskva,
khi thì ở Novgorod hoặc Voronez, nơi đây đang ráo riết tiếp tục đóng tàu cho
hạm đội Hắc Hải. Người ta đã nấu các quả chuông, chở đến Moskva chín mươi ngàn pud đồng.
Viniux, viên lục sự già của viện Duma vốn
thông thạo về khoa luyện, được chỉ định làm quản đốc xưởng đúc súng đại bác
mới. Viniux đã tổ chức, cạnh xưởng đúc ở Moskva, một trường gồm hai trăm năm
mươi học sinh: con các nhà quý tộc, dân các đại xã và thanh niên dòng dõi thấp
hèn nhưng thông minh, học nghề đúc, học toán, học cách xây dựng đồn lũy và sử
học.
Thiếu đồng đỏ để pha vào đồng chuông. Vua
Piotr cử Viniux đi Siberi tìm quặng. Ở Liege, Andrey Artamonovich Matveev, con
vị đại thần Matveev đã bị giết chết trên Thềm Đỏ, mua mười lăm ngàn khẩu súng
trường kiểu mới, súng đại bác bắn nhanh, ống nhòm và lông đà điểu cho mũ sĩ
quan.
Năm nhà máy sản xuất da và vải hoạt động ở
Moskva; người ta mộ thợ cả ở khắp châu Âu với giá cao. Binh lính tập tành từ
sáng đến tối.
Việc khó khăn nhất là đào tạo sĩ quan.
Họ phải huấn luyện binh lính và đồng thời
tự huấn luyện cho mình; hễ được thăng cấp một cái là quyền hành làm họ say sưa
choáng váng; hoặc họ ăn chơi phè phỡn hoặc sinh ra rượu chè be bét.
Hai tuần sau trận thất bại ở Narva, vua
Piotr viết thư cho Boris Petrovich Seremetiev, đang tập hợp tàn quân của các
trung đoàn kỵ binh ở Novgorod, người thì mất ngựa, kẻ mất gươm, kẻ thì chẳng
còn mảy may gì hết:
“Để
mất hết trong cảnh bất hạnh thì thật là vô lý. Vì vậy ta ra lệnh cho nhà ngươi
tiếp tục nhiệm vụ ta đã giao phó, tức là chỉ huy kỵ binh. Trong tương lai, nhà
ngươi sẽ giữ các miền kế cận, sẽ tiến lên đánh cho quân địch thiệt hại nhiều
hơn. Nhà ngươi không có lý do gì để từ chối: nhà ngươi có đủ quân lính; sông
ngòi và đầm lầy đã đóng băng... Ta nhắc nhà ngươi một điều nữa; đừng có tìm
cách lẩn tránh với bất cứ lý do gì ngay cả lý do bệnh tật... Nhiều kẻ bỏ trốn
đã mắc bệnh đó. Tên thiếu tá Lobanov đã bị treo cổ vì lý do ấy đấy.”
Nhưng vì đạo kỵ binh quý tộc chế ngoại
không được chắc chắn, người ta mộ quân tình nguyện ở mọi tầng lớp - nông dân và
nông nô; họ sung vào quân đội với lương mười một rúp một năm kể cả ăn. Mười trung
đoàn long kỵ binh được thành lập. Người xin đăng vào kỵ binh để trốn tránh cuộc
đời nông nô đông quá đến nỗi phải lựa chọn những người cao lớn khỏe mạnh nhất.
Các trung đoàn long kỵ binh vừa được huấn
luyện xong được đưa ngay đến Novgorod, ở đó tướng Anikita Repnin tập hợp và
huấn luyện các sư đoàn đã tham dự trận Narva.
Trước ngày năm mới, người ta đã hoàn thành
việc củng cố Novgorod, Pskov và tu viện Peseski.
Ở phía Bắc, Khomogory và Arkhagensk cũng
được xây thành đắp lũy.
Cách thành phố Arkhagensk mười lăm dặm, tại
cửa sông Berezovski, một thành trì bằng đá được xây dựng cấp tốc, thành
Novo-Dvinka.
Đến mùa hạ, nhiều tàu buôn từ Anh và Hà Lan
cặp bến Arkhagensk để dự hội chợ tháng sáu. Năm ấy, Ngân khố đã giữ độc quyền
những hàng hóa mới về ngoại thương: hải sản, keo cá, hắc ín, bồ tạt, sáp ong.
Thương nhân của Sa hoàng vơ vét cho Ngân khố, các nhà buôn tư nhân chỉ còn buôn
bán các đồ da và ngà chạm.
Ngày 20 tháng sáu, hạm đội Thụy Điển đột
nhập vào cửa sông Dvina miền Bắc. Trước thành trì mới xây dựng, hạm đội đó
không dám vượt qua để tiến về phía Arkhangensk, chỉ nã hết súng trên tàu vào
các pháo đài của Novo-Dvinka. Trong trận đánh ấy, một trong bốn chiếc thuyền Thụy
Điển mắc cạn trên bãi cát trước thành; rồi đến lượt một chiếc thuyền buồm.
Quân Nga nhảy xuống xuồng và sau một cuộc
chiến đấu, đã chiếm được chiến thuyền và thuyền buồm, các tàu khác liền quay
đầu chạy và nhục nhã tiến ra Bạch Hải.
Suốt mùa hạ luôn luôn có các cuộc giao
chiến giữa các đơn vị tiên phong của Seremetiev và của Slipenbac. Quân trinh
sát Thuỵ Điển tiến đến tận tu viện Peseski nhưng chỉ đốt phá được các làng mạc
xung quanh, không chiếm được thành.
Slipenbac lo lắng, đòi thêm tám ngàn quân
nữa và viết thư cho vua Charles:
“Quân
Nga ngày càng táo bạo hơn; thật không ngờ, chúng có vẻ đã phục hồi nhanh chóng
sau thất bại tại Narva, thậm chí lại còn có nhiều tiến bộ trong nghệ thuật quân
sự và về vũ khí là đằng khác; hiện nay khó mà đánh thắng được quân Nga với hai
lữ đoàn...”.
Trong khi đó, vua Charles đã chiếm được
Krakow, dồn vua Auguste về xứ Xăc cứ làm ngơ trước tiếng nói của lẽ phải.
Tình hình cứ như thế cho tới tháng chạp năm
1701.
Giữa mùa đông, qua lời khai của một tù
binh, Boris Petrovich Seremetiev được biết là tướng Slipenbac đang đóng doanh
trại mùa đông tại ấp Erexfe, gần Dorpat.
Ông liền nảy ra một kế hoạch táo bạo mà
ngay bản thân ông cũng phải kinh sợ: bất ngờ đột nhập vào sâu trong đất địch để
đánh úp kẻ thù đang nghỉ ngơi. Cơ hội hiếm có.
Xưa kia, chắc có lẽ Boris Petrovich chẳng
ưa mạo hiểm như vậy: nhưng năm đó, Piotr Alekseevich trở nên khó tính hơn bao
giờ hết: nhà vua chẳng để cho ai yên ổn nghỉ ngơi, quở mắng về chuyện làm sai
việc nầy việc nọ ít hơn là quở mắng việc bỏ lỡ một cơ hội tốt. Cho nên
Seremetiev buộc phải liều một phen may rủi.
Boris Petrovich cho mười ngàn quân mặc áo
cầu lông, đi ủng dạ - số quân mới mộ này vừa mới được tổ chức - và bổ sung cho
họ mười lăm khẩu pháo nhẹ đặt trên xe trượt tuyết; ông tiến nhanh nhưng hết sức
thận trọng, phái những trung đoàn kỵ binh nhẹ người Cherkassy, Kalmys và Tarta
đi tiên phong; sau ba ngày, ông tới Erexfe.
Khi quân Thụy Điển nhìn thấy trên bờ cao
đầy tuyết của dòng sông nhỏ Aya những mũ chụp có tai của đoàn kỵ binh cầm cung
và giáo đầu có buộc túm lông đuôi ngựa thì đã quá muộn.
Trung tá Lieven chạy ra sông với hai đại
đội và một khẩu pháo. Bờ bên kia, những con người man rợ, mắt xếch ngược,
giương cung lên, bắn ra một trận mưa tên; một tiếng hú như tiếng chó sói vang
lên, mỗi lúc một to hơn; từ bên phải và từ bên trái, quân Tarta mặc áo kẻ sọc,
cầm gươm cong và quân Cherkassy mặc áo nẹp xanh, tay cầm giáo và dây thòng
lọng, lao xuống dốc lởm chởm những đống tuyết dày, vượt qua dòng sông đóng băng
trong làn hơi nước bốc lên mù mịt; quân Kalmys thét lên những tiếng kêu chói
tai, tấn công chính diện.
Ba trăm quân mang súng trường người Estonia
của Lieven và ngay cả viên trung tá đều bị chém chết, bị cắt cổ và lột hết quần
áo.
Toàn thể doanh trại Thụy Điển chuyển động.
Một đơn vị mới, có sáu khẩu pháo yểm hộ, đẩy lui đám kỵ binh trinh sát sang bên
kia sông. Slipenbac phi nước đại khắp trại, có lính kèn chạy theo sau; quân Thụy
Điển mặc vội quần áo, vớ được gì mặc nấy, từ các ngôi nhà gỗ và các hầm trú ẩn
nhảy ra, chạy về đơn vị trên lớp tuyết dày. Toàn quân sắp hàng trước ấp và đón
quân Nga đang tiến lại bằng một loạt đạn đại bác.
Boris Petrovich, chỉ mặc áo nẹp dạ thường,
băng tam tài quàng chéo vai, phi ngựa giữa đội quân bày trận theo hình vuông. Hỏa
lực của quán Thụy Điển reo rắc sự rối loạn trong các đơn vị long kỵ binh tiến
lên trước, các đơn vị này chưa hề biết mùi lửa đạn. Quân Thụy Điển tiến công.
Nhưng mười lăm khẩu khinh pháo trên xe trượt tuyết xông lên và khạc ra một trận
mưa đạn ghém dày đặc và nhanh đến nỗi quân Thụy Điển kinh ngạc, ngần ngừ dừng
lại. Các trung đoàn long kỵ binh của Krovotop, Zybin và Gulitxa đã trấn tĩnh
lại, từ hai bên cánh xông vào.
- Anh em! - Seremetiev đứng ở giữa ô vuông
thét lên, giọng khản đặc, - Anh em! Giã mạnh vào quân Thụy Điển!
Quân Nga xông lên, lưỡi lê cắm đầu súng.
Ánh lửa đạn chiếu sáng buổi hoàng hôn đang đổ xuống nhanh. Slipenbac ra lệnh
lùi lại, nấp vào sau những ngôi nhà của ấp. Nhưng tiếng kèn não nuột vừa vang
lên báo hiệu rút lui thì từ tứ phía, quân long kỵ binh, Tarta, Kalmys,
Cherkassy càng thêm phần hung dữ ập tới những ô vuông của quân Thụy Điển lởm
chởm gươm súng đang lùi, đánh chúng tan vỡ hàng ngũ, đè bẹp chúng.
Cuộc tàn sát bắt đầu...
Nhờ đêm tối tướng Slipenbac chỉ vừa kịp
phóng ngựa trốn thoát với ba người đi theo và chạy về Revan.
Tại Moskva, nhân dịp chiến thắng đầu tiên này,
người ta đốt lửa ăn mừng và thắp đèn lồng.
Ở Hồng trường, hàng thùng vodka và bia được
đưa ra; người ta quay cừu cả con trên lửa, phân phát bánh cho dân chúng. Cờ Thụy
Điển được trưng bảy ở tháp Xpaskaia.
Melsikov phi ngựa tới Novgorod trao tặng
Boris Petrovich bức chân dung của Sa hoàng nạm kim cương lấp lánh và hơn nữa,
chức đại nguyên soái, xưa nay vốn chưa hề có. Mỗi người lính tham gia trận
chiến thắng đều được thưởng một rúp bạc - những đồng rúp này đã được đúc lần
đầu tiên ở nhà tiền Moskva, thay thế tiền bạc cũ.
Boris Petrovich ứa nước mắt cảm ơn và nhờ
Melsikov chuyển một bức thư đệ lên nhà vua, yêu cầu được phép trở về Moskva vì
có công việc cấp bách.
“Cho
đến nay, - ông viết, - tiện nội không
có nơi ở, thần phải tìm cho tiện nội một ngôi nhà nhỏ nào đó để tiện nội có được
nơi ăn chốn nằm...”
Nhà vua trả lời:
“Ngài
đại nguyên soái, nhà ngươi chẳng cần phải trở về Moskva. Nhưng trẫm để nhà
ngươi suy nghĩ và tự quyết định lấy việc đó... Và nếu nhà ngươi có về thì về
trong tuần Khổ nạn để trở lại vào Tuần lễ Thánh”.
Sáu tháng sau, Boris Petrovich lại một lần
nữa gặp tướng Slipenbac trước thành Humenshop: trong trận đánh đẫm máu này,
trong số bảy nghìn quân Thụy Điển, năm nghìn đã bị tiêu diệt.
Chẳng còn ai để bảo vệ xứ Livoni nữa: con
đường dẫn đến các thành phố miền duyên hải đã thông suốt. Và Seremetiev cho
quân tàn phá miền đó, tản phá các xóm làng, các trại ấp, các lâu đài cổ của các
hiệp sĩ...
Vào khoảng mùa thu, ông viết cho vua Piotr:
“Đức
thượng đế và Đức Bà Đồng trinh rất Thánh đã thực hiện ý muốn của bệ hạ: trên
đất địch chẳng còn gì mà cướp nữa. Chúng thần đã cướp phá, hủy hoại hết. Chỉ có
các thành phố Marienburg, Narva, Revan và Riga là toàn vẹn. Và giờ đây, thần
chỉ còn một nỗi lo âu: làm gì với bọn tù binh? Các trại giam, các nhà tù đã
chật ních cả rồi, thậm chí phải nhốt chúng cả vào nhà các sĩ quan... Bọn này dữ
tợn, nghĩa là nguy hiểm. Thần cúi xin bệ hạ ký một sắc chỉ: trong số các tù
binh, chọn lấy những tên tốt nhất, những tên biết sử dụng rìu, hoặc là nghệ sĩ,
và đưa chúng đến Voronez hoặc Azop, để có thể dùng chúng...”
-------------
Chú thích:
(1)
Cung điện của vua chúa Tây Ban Nha, gần Madrid (Chú thích của tác giả).
Chương 133
Suốt mười hai ngày, người ta nã pháo vào pháo đài Marienburg cổ kính.
Không sao tới gần được: pháo đài sừng sững trên một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ Poip,
tường thành bằng đá xây ngay từ dưới nước nhô lên, chiếc cầu bắc từ cổng thành
sang bờ - bên cạnh cổng có một vọng lâu - đã bị chính quân Thụy Điển phá hủy.
Trong pháo đài có nhiều kho lớn dự trữ lúa mạch. Quân Nga đói ăn trong cái xứ
Livoni đã bị tàn phá, rất cần đến những kho lúa này.
Boris Petrovich ra lệnh tập hợp quân tình
nguyện; ông đến gặp họ và nói với họ như sau:
“Trong
pháo đài có rượu vang và đàn bà. Cố gắng đi các anh em, ta sẽ cho phép các
ngươi hai mươi bốn giờ hoan lạc”.
Binh lính liền rỡ ngay nhiều ngôi nhà gỗ
của xloboda bên sông, đem đóng thành
những bè gỗ và khoảng một nghìn quân tình nguyện chống sào chèo về phía tường
pháo đài. Đạn trái phá của quân Thụy Điển nổ tung giữa đám bè.
Boris Petrovich ra đứng ở thềm ngôi nhà gỗ
ông đang ở và giơ ống nhòm lên quan sát. Quân Thụy Điển điên khùng, tức tối.
Nếu chúng đẩy lùi được đợt tấn công thì sao? Bao vây ư? Không, bao vây nhất
định sẽ dằng dai đến tận cuối mùa thu.
Bỗng nhiên một ngọn lửa lớn từ mặt đất phụt
lên; gần bên cổng pháo đài ngọn tháp nhỏ bằng gỗ tròn bên trên vọng lâu nghiêng
ngả. Một phần tường sụp đổ. Các bè gỗ đã tiến đến gần lỗ hổng.
Lúc bấy giờ một lá cờ trắng xuất hiện ở một
cửa sổ lâu đài, treo lủng lẳng ở đó.
Boris Petrovich xếp ống nhòm lại, bỏ mũ ra
và làm dấu.
Dân trong pháo đài leo qua những cọc của
chiếc cầu đã bị phá hủy, chạy vào bờ. Họ bồng bế con cái trên tay, kéo lê những
bọc áo quần, làn đồ. Đàn bà quay lại nhìn nơi ăn chốn ở họ phải bỏ mà đi, nức
nở khóc: họ kinh hoảng lấm lét nhìn quân Nga đang kiểm kê chiến lợi phẩm. Nhưng
những người bị nạn cuối cùng vừa rời khỏi pháo đài thì cánh cổng nẹp đai sắt
bỗng đóng sầm lại, từ những lỗ châu mai phụt ra những tia khói nhỏ - viên trung
úy đi thuyền vào để kéo cờ Nga lên trên thành bị bắn chết ngay trước tiên. Từ
bờ, súng cối bắn trả lại. Dân chúng đi ngang trên cầu hoảng hốt đánh rơi những
bọc quần áo, làn đồ xuống nước.
Một ngọn lửa khổng lồ hất tung mái lâu đài
lên không; tiếng nổ làm rung chuyển cả mặt hồ, đá từ trên không rơi xuống đập
vào mọi người. Thành và các kho tàng bốc cháy. Sau này người ta được biết là
trung úy Wulf và một tên quý tộc nổi điên vì thất bại, đã cho nổ kho thuốc
súng.
Trung úy Wulf không kịp chạy thoát. Gã quý
tộc bị bỏng và máu me đầm đìa, xuất hiện ở lỗ hổng của bức tường thành và rơi
xuống nước; người ta vớt hắn lên thuyền.
Viên tư lệnh pháo đài có các sĩ quan đi
theo, bước vào ngôi nhà gỗ, nơi đại nguyên soái Seremetiev đang ngồi, vẻ quan
trọng, lưng quay ra cửa sổ, trước bàn đã dọn sẵn bữa ăn chiều. Viên tư lệnh bỏ
mũ, lễ phép cúi chào và dâng kiếm. Các sĩ quan của y cũng làm theo.
Boris Petrovich ném kiếm lên chiếc ghế dài
và quát mắng bọn Thụy Điển tại sao chúng không chịu đầu hàng sớm, tại sao chúng
đã làm hại bao nhiêu người, tại sao chúng đã để bao nhiêu người khác chết, và
tại sao chúng đã thâm hiểm làm nổ tung thành? Các viên đại tá kỵ binh Nga can
trường, da rám nắng, râu tóc rối bù, lúc đó đang ở trong ngôi nhà gỗ, hầm hầm
nhìn bọn Thụy Điển.
Tuy nhiên, viên tư lệnh vẫn dũng cảm trả
lời đại nguyên soái:
- Trong số người của chúng tôi có nhiều đàn
bà trẻ con, có cả viên binh lương tổng giám, mục sư Ecxte Gluc đáng kính cùng
vợ và các con gái... Tôi đề nghị ngài cho họ được tự do ra khỏi thành, đừng
giao họ cho quân lính... Phụ nữ và trẻ con chắc chẳng làm ngài vinh dự gì.
- Ta không cần biết gì hết! - Boris
Petrovich quát. Trong cơn thịnh nộ, bộ mặt ông ta nhẵn nhụi, ẻo lả, có lẽ quen
với cuộc sống gia đình hơn, vã mồ hôi. Thót bụng lại, ông đứng dậy rời khỏi
bàn. - Ngài tư lệnh và các ngài sĩ quan, tôi ra lệnh giam các ngài!
Ông xốc lại tấm băng tam tài, hùng dũng
khoác lên vai chiếc áo choàng ngắn bằng dạ màu đỏ sẫm rồi bước ra ngoài để ra
mắt ba quân, có các đại tá đi theo.
Khói đen từ pháo đài cuồn cuộn bốc lên, che
lấp cả mặt trời. Khoảng ba trăm tù binh Thụy Điển đứng ủ rũ bên bờ sông. Quân
Nga chưa biết sẽ đối xử với chúng ra sao, đi đi lại lại trước đám nông dân xứ
Livoni quàu quạu - hai tuần trước đây, đám nông dân này đã rời bỏ xóm làng vào
nương náu trong thành Marienburg đang bị bao vây để tránh cuộc xâm lăng, - lên
tiếng hỏi đám phụ nữ đang ngồi trên bọc quần áo của họ, buồn bã gục đầu vào đầu
gối. Tiếng kèn vang lên. Đại nguyên soái trịnh trọng bước đi, vòng hoa thị ở
đầu đinh thúc ngựa dài hình sao kêu lách cách.
Từ phía sau một nhóm long kỵ binh đã xuống
ngựa, một cặp mắt sáng rực tựa than hồng nhìn ông chằm chằm: ông cảm thấy như
tim mình cháy bỏng... Trong thời chiến, một cặp mắt đàn bà đôi khi còn sắc hơn
cả một lưỡi dao... Boris Petrovich nghiêm trang đằng hắng “hừm!”. Đằng sau
những bộ quân phục bụi bậm là một chiếc váy màu xanh da trời... - Seremetiev cau
mặt, nhô hàm ra phía trước và bắt gặp đôi mắt ấy: đôi mắt âm thầm, long lanh
giọt lệ, một lời cầu khẩn thiết tha, vẻ thanh xuân mơn mởn... Một thiếu nữ
khoảng mười bảy tuổi đứng kiễng trên đầu ngón chân, nhìn vị đại nguyên soái qua
vai đám quân lính. Một gã long kỵ binh rậm ria đã khoác lên lưng cô gái chiếc
áo choàng nhàu nát. Nàng chỉ còn một chiếc áo tàng che thân và thời tiết tháng
tám đã chớm lạnh; lúc này người lính cố lấy vai đẩy nàng lùi lại để đại nguyên
soái khỏi trông thấy. Cô gái chẳng nói chẳng rằng, cứ nghểnh cổ lên; khuôn mặt
tươi tắn, bị nỗi hoảng sợ dày vò, cố gắng nhếch cặp môi mỉm cười. Một lần nữa,
Boris Petrovich lại “hừm” một tiếng và tiếp tục bước đi về phía đám tù binh.
Vào lúc hoàng hôn, sau khi ngủ trưa, Boris
Petrovich ngồi trên ghế, thở dài. Trong ngôi nhà gỗ, chỉ có ông và Yaguzinski
đang ngồi viết, ngòi bút sột soạt trên góc bàn:
- Cẩn thận không hỏng mắt đấy, - Boris
Petrovich khẽ nói.
- Thưa đại nguyên soái, tôi viết xong rồi
đây ạ.
- Ừ được được nếu thế thì viết cho xong đi...
- Và tự nói với mình - Đấy bọn ta thì bây giờ như thế đấy! Hừ... A, lạy Chúa
tôi!
Vừa nhẹ nhẹ gõ ngón tay xuống bàn, ông nhìn
qua tấm kính mờ mờ của cánh cửa sổ nhỏ. Trên mặt hồ, lửa còn cháy trong pháo
đài... Yaguzinski, đôi mắt giễu cợt liếc nhìn vị đại nguyên soái: chẳng hiểu
ông ta làm sao vậy? Cổ ông bạnh ra, mặt mày ngơ ngác.
- Anh đem lệnh này đến cho đại tá. - Boris
Petrovich nói. - Rồi anh tới trung đoàn hai long kỵ binh. Ở đó anh sẽ gặp viên
hạ sĩ quan Oska Đemin, Hắn có giữ một người đàn bà trẻ, trong đoàn xe quân
lương. Bọn long kỵ binh sắp đem cỏ ta ra hành đấy. Như thế thì thật đáng tiếc...
Dẫn cô ta về đây... Khoan... Đây cho Oska đồng rúp này, nói là ta thưởng cho
hắn.
- Thưa đại nguyên soái, xin tuân lệnh!
Boris Petrovich ngồi lại một mình trong
ngôi nhà gỗ rầu, rĩ lắc đầu. Làm thế nào được: cố gắng giữ gìn cũng không thể
nào sống mà không phạm tội... Năm chín mươi bảy, ông ta đã tới Naple... Một
nàng tóc nâu bé nhỏ đã chiếm đoạt trái tim ông... Thật khóc lên được.
Boris Petrovich đã leo lên ngòn núi Veduve,
đã ngắm nhìn ngọn lửa địa ngục; ở đảo Capri, ông đã trèo lên những ngọn núi đá
kinh khủng, đã tới thăm đền các vị thần La Mã ô trọc, và các tu viện Thiên Chúa
giáo. Ông đã nhìn thấy và đã tận tay sờ vào tấm ván xưa kia Đức Chúa đã ngồi để
rửa chân cho các tông đồ, miếng bánh bữa ăn cuối cùng của Chúa với các tông đồ,
một cây thập ác gỗ trong đựng một mẩu rốn và da bọc quy đầu của Chúa, một trong
hai chiếc dép của Người đã mòn nhẵn, đầu nhà tiên tri Zacari, thân sinh ra
Thánh Jean người Tiên khu, và nhiều vật khác rất lạ lùng và kỳ diệu... Thế mà,
không, nàng Julia với đôi mắt lanh lợi đã làm lu mờ tất cả; nàng múa theo nhịp
một chiếc trống nhỏ và hát... Ông muốn đưa nàng về Moskva, ông đã lê gối dưới
chân đứa con gái bé nhỏ ấy... A, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi!
Yaguzinski đi một mạch trở về theo thường
lệ, y khẽ đẩy vào trong ngôi nhà gỗ người thiếu nữ trẻ tuổi lúc nãy, mình mặc
áo màu xanh da trời, đi đôi tất trắng sạch sẽ, một chiếc khăn vuông buộc chéo
trên ngực, mấy cọng rơm vương trên mái tóc sẫm và quăn. Rõ ràng là trong đoàn
xe quân lương, bọn long kỵ binh đã vày vò cô gái dưới gầm xe ngựa...
Trên ngưỡng cửa, người con gái quỳ xuống,
cúi rạp đầu, tỏ rõ một thái độ ngoan ngoãn, van nài.
Yaguzinski láu lỉnh húng hắng ho và quay
ra. Boris Petrovich ngồi im một lát ngắm nhìn người con gái. Thân hình cân đối,
rõ ràng là khéo chân khéo tay, cổ và cánh tay trắng nõn nà... Thật là gợi tình.
Ông hỏi nàng bằng tiếng Đức:
- Tên em là gì?
Người con gái khẽ thở dài:
- Helen Catherine(1)
- Catherine... Tốt... Bố em là ai?
- Tiện tì là con mồ côi... hầu hạ ở nhà mục
sư Ecxte Gluc.
- Em là người hầu... Tốt lắm... Em giặt
được quần áo chứ?
- Tiện tì biết giặt giũ... biết làm nhiều
việc... Giữ trẻ...
- Ra thế kia đấy... Thế mà ta thì chẳng có
ai để giặt quần áo. Này, cho ta hỏi em, em còn là con gái phải không?
Catherine nấc lên một tiếng và không ngẩng
đầu lên, trả lời:
- Không ạ... Tiện tì đã lấy chồng cách đây
không lâu.
- A! Chồng em là ai?
- Johan Rap, lính giáp kỵ của nhà vua.
Boris Petrovich sa sầm mặt. Ông hỏi giọng
khó chịu.
- Anh ta giờ ở đâu? Có trong số các tù binh
không? hay có lẽ anh ta bị giết chết rồi?
- Tiện tì đã trông thấy Johan và hai người
lính bơi qua hồ... Từ đó tiện tì không thấy anh ấy nữa.
- Đừng khóc, Catherine... Em còn trẻ... Rồi
em sẽ tìm được một người khác... Em có muốn ăn không?
- Thưa có ạ. - cô gái nhỏ nhẻ đáp. Nàng
ngẩng khuôn mặt hốc hác lên, rồi lại mỉm cười, một nụ cười kính cẩn, tin cậy.
Boris Petrovich bước tới, nắm lấy vai nàng,
nâng nàng dậy và hôn lên mái tóc tơ ấm áp. Đôi vai nàng cũng ấm, thanh tú.
- Ngồi vào ăn đi! Ta sẽ cho em ăn. Ta không
làm hại gì em đâu. Em có uống rượu không?
- Tiện tì không biết có...
- Vậy thì uống đi!
Boris Petrovich gọi người lính hầu; vẻ
nghiêm nghị, (để người lính đừng nghĩ gì quá quắt, và lạy Chúa, để hắn đừng có
nhăn răng ra cười), ông ra lệnh dọn bữa ăn tối. Trong bữa ăn, ông ăn thì ít mà
nhìn Catherine thì nhiều. Trông cô ta mới đói làm sao chứ! Cô gái ăn một cách
gọn ghẽ, khéo léo; đôi lúc, nàng đưa đôi mắt ướt nhìn Boris Petrovich, hé mở
đôi hàm răng trắng tỏ lòng biết ơn. Thức ăn và rượu đã tô hồng đôi má nàng.
- Ta cuộc rằng quần áo của em đã cháy hết.
- Mất hết cả ạ, - nàng trả lời, tỏ vẻ không
hề bận tâm.
- Không sao, ta sẽ mua quần áo khác. Tuần này,
ta sẽ rời đến Novgorod, ở đó em sẽ dễ chịu hơn... Hôm nay, thời chiến đành phải
ngủ ở ổ trên lò vậy...
Catherine ngước đôi mắt ủ rũ liếc nhìn ông;
nàng đỏ mặt, quay đi và lấy tay che mặt.
- Nào, sao lại thế... Em Catherine...
Boris Petrovich không kìm được nữa, ông
thích cô bé hầu phòng này quá... Ông vươn tay qua bàn, nắm lấy cổ tay nàng.
Nàng vẫn lấy tay che mặt, mắt long lanh một cách tinh quái qua kẽ ngón tay.
- Nào, nào, ta sẽ không coi em như nông nô
đâu, đừng sợ... Em sẽ sống ở trong phòng... Đã lâu ta cần một người quản gia.
-------------
Chú thích:
(1)
Sau này là vợ thứ hai của Sa hoàng Piotr và là nữ hoàng Catherine đệ nhất kế vị
chồng, trị vì nước Nga từ 1725 đến 1727.
Chương 134
Trong khi đoàn quân bại trận trước thành Narva trở về Novgorod, nhiều
binh lính đã bỏ trốn - người thì lên phía Bắc vào các tu viện razkonic, kẻ thì đi về phía các con sông
lớn, miền sông Đông, phía bên kia sông Volga, miền hạ lưu sông Dniep... Cả
Fetka Mõm bẩn, gã mugic lầm lì đã
trải qua đủ mùi gian truân cũng bỏ trốn... Nếu không hắn sẽ có thể bị xử tử vì
tội giết chết trung úy Mirsac - Hắn đã kéo cả Andriuska Golikov cùng chạy trốn:
dù sao họ cũng đã cùng nhau làm nghề kéo thuyền trên sông Sesna, đã ăn chung
một nồi trong một thời gian dài. Sau những ngày khủng khiếp ở Narva, Andriuska
sẵn sàng đi bất cứ đâu miễn là người ta đừng bắt hắn lại cầm súng nữa.
Một đêm, tại một chỗ nghỉ, họ đã đánh cắp
một con ngựa cái của trung đoàn, đem bán cho một tu viện lấy năm mươi kopeik rồi chia nhau tiền, bọc tiền vào
những mảnh giẻ. Họ đi từ làng này sang làng khác, tránh các đường lớn; khi thì
xin ăn, khi thì ăn cắp; trong sân nhà một cha cố, họ đã ăn cắp một con gà giò;
tại nhà xã trưởng Oxtaskov, họ đã xoáy một bộ yên cương khảm bạc, đem bán cho
một chủ quán.
Hai lần họ đã cạy được hộp tiền quyên giáo
ở nhà thờ, nhưng một hộp thì rỗng không, còn một hộp thì chỉ có mỗi một đồng kopeik. Họ đã gặp chăng hay chớ sống qua
mùa đông ở miền Vandai, trong những ngôi nhà gỗ bị vùi sâu dưới tuyết. Nhà
không có ống khói, khói làm trẻ em nhiễm độc. Kèm theo tiếng trẻ sơ sinh khóc
thét trong nôi là tiếng gió đêm hôm gào thét bên ngoài...
Thường khi, Andriuska Golikov, giữa đêm
tỉnh giấc ngồi dậy hai tay ôm lấy đôi bàn chân để trần. Bên cạnh, trong một góc
nhà, một con bê đang nhai lại trên đống rơm hôi thối đến lộn mửa. Người mugic nằm ngáy trên ghế dài. Vợ anh ta
nằm co con tôm, ngủ trên mặt đất, trước lò. Bọn trẻ con nằm trên ổ, choáng váng
vì khói, ú ớ trong giấc ngủ. Gián cắn đầu ngón tay và má đứa bé sơ sinh đang
kêu trong nôi: u-a, i-a... Nó sinh ra làm gì? Tại sao gián lại nhấm tay nó? Bí
hiểm...
- Mày không ngủ à, Andrey? - Fetka hỏi, hắn
cũng không ngủ, nằm nghĩ ngợi miên man.
- Này, Fedia, ta đi thôi!
- Đi à? Đi đâu hở thằng ngốc, đang lúc bão tuyết
đêm hôm thế này?
- Tao chán lắm, Fedia ạ!
- Ở đây sao mà hôi thối thế, không thở
được. Họ sống bẩn hơn súc vật. Đấy mày xem lão chủ nhà ngáy. Khi đã ngáy no nê,
hắn sẽ nốc hết một gầu nước rồi đi làm như một con ngựa, suốt ngày... Hôm nay,
tao sẽ hỏi hắn - tất cả làng đều phải đi phu. Tên lãnh chúa trẻ đã vào quân
dội, nhưng tên lãnh chúa già vẫn ở đây, trong làng, đằng sau khe. Nó ở một ngôi
nhà đẹp đẽ. Nó là một thằng già keo bẩn mà lại hay đánh người. Nó vơ vét hết cả
của nông dân chỉ để lại cho họ có rau lê... Mà đám nông dân của nó đều ngu cả.
Có được đứa nào thông minh, lanh lợi, là nó liền ném lên xe ngựa, đích thân đưa
ra Vandai đem bán ở chợ.
- Nó đã trừ tiệt đám mugic thông minh: như vậy nó yên tâm hơn. Đến cả trẻ em ở đây sinh
ra cũng ngớ ngẩn nhẫn nhục.
Andriuska vẫn ngồi vậy, tay nắm chặt đôi
bàn chân để trần lạnh buốt, người lắc lư. Tất cả những điều Andrey đã chịu đựng
trong hai mươi bốn năm ròng thừa đủ cho đời của mười con người. Hắn sống dai
thật... Mà không phải nhờ ở thân hình gầy còm của hắn mà nhờ ở lòng khao khát
thoát khỏi cảnh tăm tối, không gì dập tắt được. Như thể hắn len lỏi qua một
rừng cây đổ gãy, qua những nơi khủng khiếp trầy da, tróc thịt, bụng đói meo,
hết năm này qua năm khác, hết dặm này đến dặm khác - mà vẫn tin là ở đâu đó có
một đất nước kỳ diệu, một ngày kia trên đường đời nhất định thế nào hắn cũng sẽ
tới. Đất nước đó ở đâu? Đất nước đó như thế nào?
Ngay lúc này, lơ đãng ngồi nghe Fetka nằm
bên cạnh trên ổ rơm đang nói, Andrey càng mở mắt đăm đăm nhìn vào đêm tối. Hắn
nhớ tới, hoặc hình như trông thấy: một ngọn đồi xanh rờn, một cây phong cành lá
rung rinh dưới ngọn gió ấm hiu hiu thổi... Ôi, khoan khoái làm sao! Nhưng cây
phong đã biến mất.
Một bộ mặt, một bộ mặt hắn chưa hề trông
thấy bao giờ, bồng bềnh tiến lại gần, sát ngay bên, mở mắt nhìn Andriuska, sống
hơn cả một bộ mặt sống... Nếu Andriuska có sẵn trong tay một tấm ván, một chiếc
bút vẽ và thuốc vẽ, hắn sẽ vẽ chân dung này... Nhưng bộ mặt mỉm cười rồi mờ đi...
Trong làn sương mù màu lam nhạt, hắn tưởng như nhìn thấy một thành phố. Lộng
lẫy kỳ diệu, ôi, một thành phố mới đẹp làm sao!
Nhưng tìm đâu thấy thành phố này, tìm đâu
ra cây phong cành lá rung rinh, bộ mặt tươi cười, kỳ lạ?
- Sáng mai ta sẽ đi thẳng đến nhà chúa đất,
ta sẽ kể chuyện lăng nhăng với lão ta, lão muốn nghe bao nhiêu thì ta cứ kể,
còn lão sẽ cho ta ăn ở nhà bếp, - Fetka nói, giọng khàn khàn.
Tại các nhà giàu có, Fetka bao giờ cũng bắt
đầu bằng trận thảm bại ở Narva; hắn kể những chuyện đã xảy ra và những chuyện
chưa hề xảy ra bao giờ; và nhất là hắn làm cho người nghe phải khóc. Có khi tên
lãnh chúa, vì buồn, cũng vào bếp ngồi nghe, mặt rầu rầu, một tay chống má, khi
kể đến chỗ vua Charles sau khi đã tàn sát vô vàn binh sĩ theo đạo chính thống,
đã phi ngựa qua chiến trường như thế nào: “Mặt nhà vua trong sáng, tay trái cầm
quyền trượng, tay phải cầm một thanh kiếm sắc, mình mặc áo dát vàng dát bạc,
cưỡi con ngựa trắng, hung hăng, bê bết máu người tới tận bụng; hai vị tướng
dũng cảm cầm cương dắt ngựa... Và đây, nhà vua đang đi tới. Lẽ dĩ nhiên là tôi
đang nằm với một viên đạn trong ngực... Bên cạnh tôi, quân Thuỵ Điển bị giết,
chồng chất thành đống, như những túi hàng. Nhà vua tiến về phía tôi, dừng lại
và hỏi các vị tướng: người nằm dưới đất này là ai? Các tướng trả lời: đó là một
người lính Nga dũng cảm đã chiến đấu vì đức tin của đạo chính thống; một mình
anh ta đã giết chết mười hai lính thủ pháo của ta. Nhà vua nói: “Anh ta đã chết
như một anh hùng”. Các tướng bèn nói: “Không, anh ta hãy còn sống, bị một viên
đạn vào ngực”. Họ đỡ tôi dậy, tôi cầm lấy khẩu súng và đứng nghiêm, đúng tư thế
một người đứng trước mặt vua. Thế là nhà vua nói: “Hoan hô!” - và rút trong túi
ra một đồng tiền vàng. “Này, - nhà vua nói - anh lính Nga dũng cảm hãy yên ổn
trở về tổ quốc anh và nói với Nga rằng: đừng có chống lại Chúa, đừng có kiện
cáo với người giàu, đừng có đánh nhau với người Thụy Điển”.
Sau câu chuyện do Fetka kể, thế nào người
ta cũng giữ hai gã ngủ lại ở bếp và cho ăn: chẳng sai lần nào bao giờ. Nhưng
hiện nay, thật khó mà lọt được vào nhà kẻ giàu có. Người ta đã trở nên đa nghi,
lúc nào cũng dè chừng. Số người bỏ trốn để tránh tòng quân và công việc phục
dịch quân đội, phục dịch các zemstvo(1),
mỗi năm mỗi tăng, họ trốn vào rừng đi ăn cướp lẻ tẻ từng người một, hoặc từng
bọn... Có những làng chỉ còn lại các cụ già và trẻ con.
Nếu hỏi họ, họ trả lời: anh này ở đội long
kỵ binh, anh kia được mộ đi xây thành đắp lũy hoặc bị đưa đi Ural, còn anh kia
vừa đây còn đứng chủ một cửa hiệu ở chợ, được mọi người kính nể và biết sợ
Chúa, thì bây giờ đã bỏ vợ, bỏ đàn con thơ, cầm chùy đứng rình người qua đường
trong khe, bên bờ đường cái.
Đã nhiều lần, Fetka tự hỏi: theo bọn giặc
đi ăn cướp chẳng phải tốt hơn ư? Fetka lý luận: làm gì, đi đâu? Không lẽ cứ
lang thang đây đó mãi suốt đời, rồi cũng phải chán chứ... Nhưng Andrey không
chịu nghe, hắn cứ khăng khăng: đi về miền Nam, hãy đi đến cùng trời cuối đất.
Fetka vặn lại:
- Được, thì đi, nhưng ở đó cũng vậy thôi,
chẳng ai cho ta ăn không cả; ta sẽ phải làm đầy tớ cho bọn chủ trại Cô-dắc hoặc
trở thành nông nô của một tên chúa đất, làm oằn lưng cho tên quỷ sứ đó. Còn như
nếu đi ăn cướp một thời gian, chẳng bao lâu mỗi đứa có thể sẽ có một trăm rúp
giấu trong lần lót mũ. Với số tiền như vậy, ta có thể đi buôn được. Bấy giờ thì
chẳng thằng long kỵ binh nào, chẳng thằng lục sự nào, chẳng tên chúa đất nào có
thể làm gì được ta, ta sẽ làm chủ cái thân ta.
Có một lần, hồi đó vào mùa hạ, hai gã đang
ngồi ở cánh đồng, trong buổi hoàng hôn. Một làn khói nhỏ bốc lên từ đám phân bò
khô đang cháy, gió rít uốn cong các thân cây.
Andriuska ngồi ngắm cảnh chiều tà: chỉ còn
lại một dải nhợt nhạt ở chân trời.
- Này Fedia, đây là điều tao muốn nói với mày
một lần cho trót... Một sức mạnh đang sống trong lòng tao, một sức mạnh hơn sức
người... Tao nghe gió rít trong cành lá, và tao hiểu, tao hiểu rõ quá đến nỗi
lòng tao đau như xé. Tao ngắm nhìn: đây là buổi chiều tà chạng vạng, buổi hoàng
hôn, và tao hiểu hết, niềm vui và nỗi buồn trong lòng tao lớn đến nỗi tao những
muốn bay bổng lên trời tỏa ra với ánh hoàng hôn đó.
- Ở quê tao, ở làng tao, có một gã dở người
chăn ngỗng. - Fetka vừa nói vừa cầm cành cây cời than đang tàn. - Nó cũng vậy,
nó kể cho tao nghe những chuyện như thế, thật chẳng còn hiểu ra làm sao... Nó
thổi sáo rất giỏi, sáo nó làm bằng ống sậy: cả làng đến nghe nó thổi sáo... khi
ấy, người ta tìm nhạc công cho mồ ma Franx Lơfo ấy, mày có tin thì tùy, người
ta đã tuyển nó.
- Này Fedia, trước thành Narva, một nông nô
của Boris Petrovich có kể chuyện tao nghe về một nước: nước Ý... Hắn nói với
tao về những họa sĩ bên đó. Hắn nói cho tao biết họ sống ra sao, làm việc như
thế nào... Tao mong muốn làm một tên nô lệ hạng bét cho một họa sĩ như thế, tao
sẽ nghiền thuốc vẽ cho ông ta. Fedia, công việc đó tao làm được... Tao lấy một
tấm ván gỗ sồi, đem xoa dầu nhờn rồi phết lên ván một lần nền... Tao nghiền
thuốc vẽ trong những chén nhỏ, thứ thì hòa với dầu, thứ thì chế với trứng...
Tao cầm lấy bút vẽ... - Golikov nói rất khẽ, tiếng nói của hắn không át được
tiếng gió rít. - Fedia, ngày bừng sáng rồi lại tắt, nhưng trên tấm gỗ của tao,
ngày rực rỡ sáng mãi mãi... Đây là một ngọn cây, một cây phong, một cây thông,
có gì là kỳ lạ? Nhưng hãy nhìn vào cây tao vẽ trên gỗ, mày sẽ hiểu, mày sẽ khóc...
- Thế nước đó ở đâu?
- Tao không biết, Fedia ạ... Phải đi hỏi
thôi, người ta sẽ giải thích cho.
- Ừ thì đi có sao đâu... Thế nào cũng được.
-------------
Chú thích:
(1)
Cơ quan hành chính địa phương ở Nga, do giai cấp quý tộc và các tầng lớp hữu
sản bầu ra dưới chế độ Sa hoàng.
Chương 135
Mùa xuân năm 1702, một chiếc tàu đưa đến Arkhangensk mười người thợ
cả chuyên xây dựng cửa cống do Andrey Artamonovich Matveev đã mộ ở Hà Lan với
giá đắt như vàng. - mười bảy rúp hai
mươi kopeik một người một tháng, kể
cả ăn - Người ta phái một nửa số thợ cả đó đến gần Tula, bên hồ Ivanovo, để xây
dựng ba mươi mốt cửa cống bằng đá giữa sông Đông và sông Oka, trên sông Upa và
sông Sat - như đã dự định từ năm trước - Còn những thợ cả khác thì đến Vysni
Volotsok để xây dựng một cửa cống giữa sông Tveritxa và Msta.
Cống Vysni Volotsok sẽ nối liền biển
Kaxpien với hồ Ladoga, các cống ở Ivanovo thì nối liền hồ Ladoga và toàn thể
lưu vực sông Volga với Hắc Hải.
Vua Piotr lúc đó ở Arkhangensk, nơi đây
người ta đang xây dựng công trình phòng thủ cửa sông Dvina và đóng tàu cho hạm
đội Bạch Hải. Các nhà nông nghiệp địa phương đã kể cho nhà vua nghe là từ lâu
người ta đã biết con đường đi từ Bạch Hải đến hồ Ladoga, qua sông Vyk, hồ Onega
và sông Xvia. Đường đi khó khăn, nhiều quãng phải khiêng hàng trên vai, lại có
nhiều thác.
Nhưng nếu đào kênh và đặt cửa cống đến tận
hồ Onega thì tất cả các nhà buôn ở bờ biển Bạch Hải sẽ chuyển thẳng được hàng
hoá của họ đến tận hồ Ladoga.
Ba con đường lớn từ ba biển tới đều đổ vào
hồ Ladoga: đường sông Volga, sông Đông và sông Xvia. Biển thứ tư - biển Baltic
- bị ngăn cách với hồ Ladoga bởi con sông Neva, nơi đây có hai pháo đài Noterbo
và Niensanz bảo vệ.
Kỹ sư Hà Lan Ixaac Abraham, vừa nói vừa chỉ
vào bản đồ cho vua Piotr thấy:
- Cho đào kênh với cửa cống, bệ hạ sẽ làm
sống lại những biển đã chết và hàng trăm con sông, nguồn nước của tất cả đất
nước bệ hạ sẽ đổ vào dòng sông lớn Neva và sẽ đưa các tàu của bệ hạ ra đại
dương mênh mông.
Kể từ mùa thu 1702, tất cả mọi cố gắng đều
hướng về phía đó, hướng vào công cuộc chinh phục sông Neva.
Apraxin, con trai vị thủy sư đô đốc, đã tàn
phá xứ Ingri suốt mùa hạ, tiến tới sông Izora nước chảy xiết, uốn khúc trên
cánh đồng duyên hải ảm đạm và trên bờ con sông đó, đã đánh bại tướng Thụy Điển
Gronhior và dồn hắn về phía đồi Dudechev. Từ Dudechev, viên tướng Thụy Điển đã
tiu nghỉu rút về bên kia sông Neva và đóng trong thành Niensanz, trên sông
Okhotka.
Apraxin dẫn đầu đạo quân, tiến về hồ Ladoga
và bày trận trên bờ sông Naxia. Boris Petrovich Seremetiev, từ Novgorod tới,
cũng tiến về phía đó, với rất nhiều cỗ pháo và xe lương thảo. Vua Piotr với năm
tiểu đoàn thuộc các trung đoàn Xemionovski và Preobrazenski, từ Arkhangensk tới
vịnh Onega và đổ bộ lên bờ hồ phẳng lì, cách làng ngư dân Niucsa không xa bao
nhiêu.
Từ đó, nhà vua cử đại úy Aleksey Brovkin
đến một tu viện razkonic ở ngay cửa
sông Vyk tại Xoraka. (Hồi mùa hạ, Ivan Artemist đã đánh đổi được con trai mình
với một trung tá Thụy Điển bị bắt làm tù binh; lão đã thân đến Narva và đã phải
trả thêm ba trăm florin). Aleksey đi
thuyền suốt dọc sông Vyk để xét xem có thể xây được các cửa cống không.
Từ Niucsa quân đội tiến về phía Povenez qua
hồ Pun và giáo khu Vozmoxamma, qua những đường rừng, đường đắp bằng sọt đất,
qua nhiều cầu. Viên đội Sepotov đã xây dựng con đường này trong ba tháng; để
làm con đường đó, hắn đã huy động nông dân và các tu sĩ tại gia ở Kem, ở đại xã
Xumi, ở các tu viện và các nơi ở ẩn của những người razkonic.
Binh lính kéo hai chiếc du thuyền có đầy đủ
buồm cột, đặt trên những khúc gỗ tròn. Họ vượt qua các bãi lầy đầy cây cối mục
nát, có những đàn muỗi vo ve như sáo thổi; những tảng đá lớn phủ rêu non như
khoác áo cầu lông. Mọi người trông thấy hồ Vyk kỳ diệu với vô số hòn đảo cây
cối um tùm, nhô lưng lởm chởm lên trên mặt nước tràn ngập ánh nắng, nom như
những quái vật vùng biển. Bầu trời nhợt nhạt không một gợn mây, hồ và bờ hồ vắng
ngắt, tựa hồ mọi sinh vật đều ẩn náu cả trong rừng sâu.
Cách con dường chiến lược khoảng mười dặm,
tại tu viện Daniel ở Vygoresk, người ta hát lễ đêm ngày như trong Tuần Khổ nạn.
Đàn ông, đàn bà, mặc áo liệm, quỳ xuống cầu nguyện, nến luôn luôn cháy sáng
không lúc nào tắt.
Bốn cánh cổng được khóa chặt; rơm và nhựa
thông đã được chuẩn bị sẵn sàng, trong nhà những người giữ cửa và ở bên các
phòng nguyện. Trong những ngày đó, thánh lão Nectari rời khỏi nơi ẩn dật. Sau
khi thiêu chết đám con chiên, lão đã bỏ chạy: không còn việc gì làm, lão đến ở
tại tu viện. Nhưng Andrey Denixov vốn chẳng ưa gì lão, không để lão đến gần ai.
Lão tức giận, phát nguyện sẽ im hơi lặng
tiếng rồi chui xuống hố, ở lỳ đó trong hai năm không hé miệng. Ai đến gần hố
phủ cây sào và cỏ lão già lại ném phân ra.
Ngày hôm ấy tuy không được phép, lão đã ra
mắt dân chúng - râu lão mọc dài đến tận đầu gối, chiếc áo khoác ngoài bị sâu bọ
cắn thủng lỗ chỗ, để hở xương sườn vàng khè. Giơ hai cánh tay gầy đét lên trời,
lão kêu to:
- Andriuska Denixov đã bán Chúa lấy bánh
nhồi nấm... Các con còn đợi gì? Đích thân Quỷ vương sẽ đến tìm chúng ta với hai
chiếc tàu đặt trên đế có bánh lăn... Chúng sẽ chất các con lên tàu như đàn lợn
và sẽ dẫn các con xuống địa ngục. Các con hãy nghĩ cách cứu vớt linh hồn...
Đừng có nghe Andriuska Denixov... Hãy nhìn vào cánh cửa sổ này xem cái mõm nó
đã sưng lên như thế nào... Sa hoàng Piotr đã gửi cho nó một cái bánh nhồi nhân...
Andrey Denixov nhận thấy tình thế xoay ra
bất lợi và có thể có kẻ thực sự muốn chết thiêu, bèn chửi rủa lão già qua cửa
sổ phòng kín:
- Nectari, hẳn là ở trong hố, ngươi đã trở
nên hoàn toàn rồ dại. Ngươi chỉ biết có thiêu người, ngươi muốn thiêu cả thiên
hạ... Sa hoàng không đụng gì đến ta, nhà vua cứ việc đi qua không dừng lại, ta
sẽ sống yên ổn ở nhà ta... Còn về chuyện bánh nhà ngươi mắng nhiếc ta, thì ròng
rã suốt đời ngươi, ngươi còn ăn nhiều hơn ta. Ta biết ban đêm ai đã mang gà giò
đến hố cho ngươi rồi, ngươi đã ăn hết cả gà của tu viện, trong hố còn đầy xương
kia.
Vài người chạy đi kiểm tra những lời nói
đó: quả thật có xương gà vùi trong một góc hố.
Mọi người bối rối hoang mang. Andrey
Denixov bí mật rời khỏi tu viện; cưỡi một con ngựa tốt, hắn vượt qua sông, đi
tìm quân đội: hắn tìm được nhờ có ánh lửa đóng trại ngoài trời, tiếng ngựa hí
và tiếng kèn đồng vang vang trong buổi hoàng hôn tranh tối tranh sáng.
Vua Piotr tiếp Andrey Denixov trong một lều
vải, nhà vua đang ngồi với các sĩ quan bên bàn, ai nấy đều hút tẩu để xua muỗi.
Trông thấy con người lực lưỡng mặc áo thầy
tu ngắn và đội mũ trùm đầu, vua Piotr khẽ cười:
- Chào Andrey Denixov, ngươi có điều gì tốt
lành nói với ta nào? Bọn các ngươi vẫn nhất định tự vệ chống lại ta bằng cách
làm dấu với hai ngón tay chứ?
Theo lời người ta đã dặn, Denixov ngồi
xuống bên bàn không nhăn nhó và chỉ xua khói thuốc lá khi khói bay đến gần mũi;
hắn nói, cặp mắt trung thực, trong sáng nhìn chằm chằm vào mặt vua Piotr:
- Muôn tâu đại đế chí tôn Piotr Alekseevich...
Chúng thần khởi sự tại một nơi hoang dã, đủ các hạng người đã tới nơi đây.
Chúng thần đã buộc họ phải phục tùng, người thì bằng vuốt ve mơn trớn, người
thì bằng cách làm cho họ sợ hãi. Chúng thần đã nêu tên bệ hạ để đe dọa, xin bệ
hạ tha thứ cho... Trong các sự nghiệp lớn, không thể nào không có lầm lẫn được.
Thôi thì cái gì cũng có một chút, thậm chí có cả những điều nên quên đi thì
hơn.
- Và giờ đây, bọn các ngươi làm gì? - Vua
Piotr nói.
- Giờ đây, muôn tâu đại đế, cơ sở làm ăn
của chúng thần đã vững chắc. Chúng thần đã phá rừng được hơn năm trăm dexiatin đất cày bừa và ngần ấy đồng cỏ.
Đàn gia súc có một trăm hai mươi bò cái. Chúng thần có nơi đánh cá, có xưởng
sấy, xưởng thuộc da và xưởng nện da. Chúng thần có hầm mỏ, với những thợ mỏ và
thợ rèn đến ngay ở Tula cũng không có.
Piotr Alekseevich không cười nữa; nhà vua
hỏi rất nghiêm chỉnh: quặng gì và ở đâu? Khi được biết có quặng sắt bên bờ hồ
Onega và ngay cách Povenez không xa, một pud
quặng có thể lấy ra được một nửa pud
sắt, nhà vua rít tẩu thuốc liên tiếp:
- Thế nào, bọn người không cần cha cố kia,
các ngươi muốn gì ta?
Denixov suy nghĩ rồi trả lời:
- Tâu Đại đế, bệ hạ cần sắt cho quân đội.
Bệ hạ cứ ra lệnh cho chúng thần, chúng thần sẽ dựng các lò đúc và lò rèn ở nơi
thuận tiện nhất. Sắt của chúng thần tốt hơn sắt Tula và giá rẻ hơn... Akinfi
Demidov ở Ural đòi những năm mươi kopeik...
- Nhà ngươi nói láo, ba mươi lăm!
- Thì vâng, chúng thần cũng vậy, chúng thần
cũng xin ba mươi lăm kopeik. Nhưng
Ural thì xa mà chúng thần thì ở gần... Ở đây còn có cả quặng đồng. Rừng già rải
rác quanh Povenez trên các ngọn núi Medvedi, gỗ đó có thể làm cột buồm cao bốn
mươi arsin, gõ vào kêu coong coong.
Khi sông Neva đã thuộc về bệ hạ, thần sẽ thả bè gỗ sang Hà Lan. Chúng thần chỉ
ngại có một điều; các cha cố và các thơ lại... Chúng thần không muốn giây với
họ... Xin bệ hạ hãy tha thứ cho thần biết sao nói vậy... Xin bệ hạ hãy để chúng
thần sống theo sở thích... Những việc đang xảy ra thật là kinh khủng... Tại tu
viện, ngày hôm nay là ngày thứ ba mọi người bỏ việc; họ mặc áo liệm và hát
thánh ca. Gia súc chẳng được ăn uống gì, rống lên trong chuồng. Nếu bệ hạ cho
một cha cố mang thập ác và bánh thánh đến chỗ chúng thần thì mọi người sẽ chạy
trốn hết không hề ngoái cổ lại... Không thể nào giữ được họ! Họ đều là những
người từng trải, đã từng khổ cực. Họ sẽ trốn vào rừng sâu và cơ sở làm ăn của
chúng thần thế là đi đứt!
- Lạ thực - vua Piotr nói. - Nhưng tu viện
nhà ngươi có nhiều người không?
- Năm nghìn người làm việc, cả đàn ông lẫn
đàn bà. Người già thì nghỉ ngơi và trẻ sơ sinh.
- Họ đều được tự do cả chứ?
- Họ đã trốn chế độ nô lệ.
- Ta có thể dùng các ngươi làm gì được?
Được, hãy cởi bỏ áo liệm ra. Cứ việc cầu nguyện và làm dấu với hai ngón tay,
một ngón cũng được, nhưng trên toàn bộ cơ sở kinh doanh của các ngươi, các
ngươi phải đóng thuế gấp đôi cho ta.
- Chúng thần xin vui vẻ tuân theo.
- Ngươi sẽ đưa các thợ cả đến Povenez, loại
thợ đóng tàu giỏi ấy. Ta cần loại tàu nhỏ chèo tay và xuồng khoảng năm trăm
chiếc.
- Chúng thần xin vui vẻ làm hầu bệ hạ.
- Thế thì hãy uống rượu mừng ta, Andrey
Denixov.
Vua Piotr cầm lấy cái bình bằng sắt tây,
rót đầy vodka vào chén, và khẽ gật đầu đưa mời Denixov. Denixov tái mặt. Cặp
mắt sáng trợn lên. Nhưng hắn đứng dậy một cách đĩnh đạc, khoát rộng tay chậm
rãi làm dấu với hai ngón tay rồi cầm lấy cốc rượu và nốc cạn. Hắn bỏ mũ ra và
lau đôi môi đỏ.
- Xin cảm ơn bệ hạ.
- Và bây giờ hãy nếm thử thứ khói này. -
Vua Piotr đưa tẩu của mình cho hắn, đầu tẩu ướt nước rãi chìa ra phía trước.
Lần này, một nụ cười lóe lên trong cặp mắt Denixov, hắn thản nhiên định cầm lấy
tẩu. Nhưng vua Piotr gạt tay hắn ra.
- Còn những nơi... - Nhà vua lại nói như
không có gì xảy ra. - Còn những nơi nhà ngươi sau này tìm thấy quặng và tất cả
đất đai xung quanh, cần bao nhiêu cứ lấy ngần ấy; hãy đo đạc những vùng đó rồi
đóng cọc đánh dấu, Ngươi hãy viết thư về vấn đề này cho Viniux ở Moskva. Ta sẽ
nói với Viniux không thu thuế các mỏ và các lò đúc của các ngươi, trong mười
năm. - Denixov nhướn lông mày. - Chưa đủ? Thôi được. Trong mươi lăm năm. Còn về
giá sắt, ta sẽ thỏa thuận với nhau sau. Khởi công ngay đi, đừng chậm trễ. Nếu
nhà ngươi cần nhân công, hoặc cái gì khác, cứ viết thư cho Viniux. Nhưng đừng
có hỏi tiền ta... Cạn một cốc nữa đi, thánh nhân...
* * *
Cuối tháng chín, vào ngày tiết trời xấu,
sau khi đã hội nhau trên bờ sông Naxia, ba đạo quân tiến về Notebo. Tòa thành
cổ này sừng sững trên một hòn dảo, giữa sông Neva, nơi dòng sông thoát ra khỏi
hồ Ladoga. Muốn tiến vào dòng sông bằng hai nhánh của nó, tàu bè phải đi qua
trước mặt thành, cách các pháo đài mười xagien,
ngay trước họng súng đại bác.
Các đạo quân tiến vào mũi đất trước Notebo.
Qua những đám mây nặng trĩu bay là là, người ta trông thấy các tháp đá với
những chong chóng xem chiều gió trên mái tháp hình nón, Tường thành cao ngất và
vững chắc quá đến nỗi binh lính Nga đào các đường hào để tiếp cận và các công
sự cho pháo ở chỗ mũi đất, chỉ thở dài sườn sượt.
Thời dân miền Novgorod xây dựng thành này,
không phải ngẫu nhiên mà họ gọi nó là Oresek (hạt dẻ); không dễ gì mà gậm được
nó.
Quân Thụy Điển hình như đang suy nghĩ lung.
Không thấy bóng một ai trên tường thành. Mây u ám phủ kín các mái nhà bằng chì.
Bỗng trên vọng lâu của tòa lâu đài lá cờ hoàng gia có hình con sư tử được kéo
lên đỉnh cột, phấp phới bay trước gió... Một khẩu pháo nặng gầm lên trong họng
súng bằng đồng đen: viên đạn xèo xèo rơi tõm xuống bùn, ở mũi đất, trước các
đường hào tiếp cận. Quân Thụy Điển nhận nghênh chiến.
Hữu ngạn sông Neva phía bên kia thành, được
phòng thủ vững chắc; từ phía hồ khó mà tới đó được vì có các bãi lầy. Từ lâu,
trước khi đoàn quân tới Notebo, người ta đã mở một con đường xuyên rừng bên tả
ngạn, đi từ hồ qua mũi đất tới sông Neva. Giờ đây, hàng ngàn binh lính dùng dây
cáp kéo các tàu bè trên hồ Ladoga lên bộ, băng qua đường rừng rồi lại hạ thủy
xuống sông Neva phía dưới thành. Năm mươi người nắm đầu dây cáp kéo, còn những
người khác thì đỡ hai bên mạn để sống tàu trườn trên các khúc gỗ tròn. “Dô ta!
Nào, cùng kéo nào!”, vua Piotr hét to. Nhà vua đã cởi bỏ áo chẽn, sơ mi ướt đẫm
mồ hôi, mạch máu căng phồng trên cái cổ dài ngoẵng thắt một chiếc ca vát quăn
queo: Nhà vua bị thương ở mắt cá vì bị lọt chân vào giữa các rầm gỗ. Nhà vua
nắm đầu một sợi dây cáp trợn mắt: “Dô ta! Nào, kéo!” Mọi người từ hôm qua chưa
được miếng nào vào bụng; tay họ đã rớm máu. Nhưng tên quỷ sứ này cứ hùng hục,
la hét, chửi rủa, đánh đập, cứ kéo...
Đến đêm, năm mươi chiếc thuyền lớn đã được
kéo đến sông Neva và hạ thủy; trên thuyền phía mũi và phía lái có những sàn
phẳng cho lính mang súng trường. Mọi người không còn sức ăn uống nữa, họ nằm
vật xuống nền rêu ẩm ướt, ngả lưng lên các mô đất lăn ra ngủ.
Tang tảng sáng, tiếng trống đã khua vang.
Các trung úy lay người của mình dậy. Có lệnh phải lắp đạn vào súng, cất hai gói
thuốc súng vào dưới lần áo sơ mi (để giữ thuốc khỏi bị nước mưa) và ngậm hai
viên đạn trong mồm. Quân lính lấy vạt áo chẽn che quy-lát, leo lên các sàn gỗ
phẳng của thuyền đang tròng trành. Sóng vỗ mạnh. Lợi dụng đêm tối, người ta
chèo gấp vượt qua dòng sông chảy xiết để sang bên hữu ngạn. Khu rừng bên đó xào
xạc. Quân lính nhảy lên các bụi sậy. Các sĩ quan vừa rủa thầm vừa tập hợp các
đại đội của họ.
Mọi người chờ đợi. Trời lộng gió, ánh bình
minh lóe lên trông như những dải màu hồng tươi mờ mờ dưới làn sương mù đang
tan. Trên mặt sông xám như chì, một chiếc thuyền chèo tay tới sát bờ, vua
Piotr, Melsikov và Kornigxeg nhảy lên. (Sứ thần xứ Xăc xin tham dự chiến dịch
với tư cách tình nguyện, người ta đã cắt hẳn làm tùy viên của Sa hoàng). Những
tiếng nói kéo dài vang lên: “Chú... ý... ý!”. Vua Piotr bám vào bụi cây, leo
lên bờ sông dốc ngược. Gió thổi lật vạt áo chẽn, nhà vua bước đi, bóng dài
nghêu lờ mờ; binh lính vội vã theo sau. Bên trái nhà vua là Melsikov, đeo súng
ngắn; bên phải là Kornigxeg. Đột nhiên, họ dừng lại. Hàng lính đi đầu tiếp tục
tiến vượt quá họ.
Vua Piotr ra lệnh:
- Súng lên vai! Lên cò! Từng hàng bắn!
Đá lửa lách cách nổ dữ dội suốt dọc hàng
quân... Hàng thứ hai tiến lên trước, vượt qua nhà vua.
- Nhìn phía trước! - Sa hoàng thét lên,
giọng dữ tợn. - Hàng đầu, bắn!
Đạn nổ chiếu sáng những cây thông nhỏ đơn
độc đang bị gió lay động. Cách đó không xa, dưới cánh đồng, phía bên kia gốc
cây đã đốn là bờ lũy không cao lắm của một đồn quân.
- Hàng thứ hai... Bắn!
Vừa bắn xong, hàng thứ hai cũng như hàng
thứ nhất, quỳ xuống.
- Hàng thứ ba... Hàng thứ ba! - tiếng thét
lạc cả giọng. - Xung phong lưỡi lê! Xông lên!
Vua Piotr chạy trên cánh đồng ngổn ngang gò
đống. Binh lính xông lên, hàng ngũ lẫn lộn, lưỡi lê chĩa về phía trước, về phía
cái đồn đắp bằng đất; tiếng họ hét vang mỗi lúc một thêm mạnh, thêm dữ dội. Tay
những kẻ đầu hàng đã hiện ra trên mặt hào. Một phần quân Thụy Điển bỏ chạy về
phía rừng. Các đồn bên hữu ngạn đã bị chiếm.
Khi trời sáng rõ, súng cối được đưa từ bên
kia sang. Và ngay ngày hôm đó, từ hai bên bờ, đạn bắt đầu rót vào Notebo.
Thành này đã chịu đựng một trận bắn phá
kịch liệt trong hai tuần, bây giờ một đám cháy lớn bùng lên, các kho đạn pháo
nổ tung, do đó tường thành phía Đông sập đổ. Khi ấy, một chiếc thuyền con với
một lá cờ trắng cắm ở đằng lái xuất hiện và vội vã tiến về phía mũi đất, về
phía các công sự. Pháo Nga ngừng bắn. Một làn hơi dày đặc bốc lên từ các khẩu súng
cối vừa được tưới nước. Một viên sĩ quan, mặt nhợt nhạt, người cao lớn, từ trên
thuyền bước xuống nhìn quanh. Aleksey Brovkin, nhảy vọt lên công sự, tiến lại
gần viên sĩ quan; y nhìn hắn chằm chằm vôi cặp mắt ngạo nghễ, hỏi:
- Ngươi có điều gì tốt lành nói với ta?
Viên sĩ quan nói rất nhanh bằng tiếng Thụy
Điển: hắn chỉ những đám khói lớn đang từ trong thành cuồn cuộn bốc lên bầu trời
yên tĩnh. Aleksey xẵng giọng ngắt lời hắn:
- Nói bằng tiếng Nga! Các ngươi có đầu hàng
hay không?
Kornigxeg, nhã nhặn, tươi cười, tiến lại
giúp Aleksey; y lễ phép bỏ mũ chào viên sĩ quan và sau khi yêu cầu hắn nhắc
lại, y dịch:
- Vợ viên tư lệnh và vợ các sĩ quan khác
xin phép ra khỏi thành, họ không thể ở lại được trong khói lửa mù mịt.
Aleksey cầm lấy trong tay viên sĩ quan một
lá thư gửi Boris Petrovich Seremetiev về vấn đề đó. Y vân vê lá thư trong tay.
Đột nhiên, mặt dúm lại vì tức giận, Aleksey vứt lá thư xuống bùn ngay dưới chân
viên sĩ quan:
- Ta sẽ không báo cáo gì với đại nguyên
soái hết! Như thế này nghĩa là thế nào? Để cái bọn giống cái ấy ra khỏi thành
à? Để rồi trong hai tuần lễ nữa, bọn ta lại phải hy sinh quân lính trong các
trận xung phong hay sao... Biết điều thì hàng ngay tức khắc đi, mọi việc sẽ
xong xuôi!
Kornigxeg lễ phép hơn: y nhặt lá thư lên,
lấy áo lau sạch, đưa trả viên sĩ quan và giải thích là lời đề nghị đó vô ích.
Viên sĩ quan nhún vai và giận dữ bước xuống thuyền. Hắn vừa rời khỏi bờ thì bốn
mươi hai khẩu súng cối của các khẩu đội Goska, Ginte và Piotr Alekseevich nhả
đạn.
Lửa cháy dữ dội suốt đêm. Trên các tháp,
mái chì chảy thành nước, các rầm gỗ cháy sập đổ, lửa bắn tung tóe. Ánh lửa soi
sáng dòng sông, hai doanh trại quân Nga và ở phía hạ lưu, khoảng một trăm chiếc
thuyền chở đầy quân cảm tứ, đứng chen chúc trên các sàn gỗ, thang xung phong
đặt ngang hai mạn thuyền. Quá nửa đêm thì tiếng đại bác ngừng nổ, chỉ còn nghe
thấy tiếng lửa cháy dữ dội.
Hai giờ trước rạng đông, một cỗ pháo của
khẩu đội Sa hoàng nổ súng. Trống đánh dồn, điên cuồng. Thuyền chèo mạnh về phía
thành, lửa chiếu sáng thuyền mỗi lúc một rõ hơn. Thuyền do các sĩ quan trẻ chỉ
huy: Mikhail Golixyn, Karpop và Alekxandr Melsikov.
Hôm trước Alexaska, nước mắt chạy quanh, đã
nói với vua Piotr:
- Myn
Herz, thế là Seremetiev được thăng chức đại nguyên soái... Mọi người chế
giễu hạ thần: “Này, tiến lên chứ ông trung tướng, tổng trấn thành Pskov! Kỳ
thực ngươi vốn chỉ là chân chạy giấy, bây giờ vẫn là chân chạy giấy...”. Hãy
cho phép hạ thần được tham gia trận đánh để kiếm lấy một cấp.
Nhà vua, đại nguyên soái và các trung tá
đứng ở mũi đất, gần khẩu đội pháo. Mọi người nhìn qua ống viễn kính. Các thuyền
nhanh chóng tiến đến sát thành về phía Đông, nơi bức tường đã sụp đổ - những
quả đạn gang nóng bỏng đón tiếp họ. Chiếc thuyền đầu xông vào bờ: quân cảm tử
từ trên sàn gỗ lăn xuống như những hạt đậu, kéo lê thang và leo lên. Nhưng
thang ngắn quá không tới được bờ lỗ hổng. Họ trèo lên lưng nhau, cố bám vào các
chỗ gồ ghề ở tường. Từ trên cao, quân Thụy Điển ném đá, đổ chì lỏng xuống. Binh
lính bị thương ngã từ trên cao ba xagien
xuống đất. Nhiều thuyền bị trúng đạn, cháy bùng bùng như ngọn đuốc, trôi theo
dòng nước.
Vua Piotr háo hức quan sát trong ống viễn
kính. Khi khói thuốc súng che lấp trận địa, nhà vua cặp ống viễn kính vào nách
và bắt đầu xoay xoay khuy áo chẽn, đã giật đứt mất nhiều chiếc. Mặt sạm lại,
đôi môi thâm sì, mắt trũng xuống, nhà vua nhắc đi nhắc lại, nghe không rõ:
- Thế nghĩa là thế nào?
Nhà vua ngoái cổ quay về phía Seremetiev.
Boris Petrovich chỉ chậm rãi thở dài; ông ta đã từng thấy nhiều cảnh ngộ trong
vòng hai năm nay.
- Lại xén bớt đạn dược chứ gì! Thế ra phải
chiếm thành bằng tay không? Không thể được, làm thế nào chứ?
Boris Petrovich trả lời, mắt nhắm lại:
- Chúa lòng lành, dù sao ta cũng sẽ chiếm
được...
Vua Piotr đứng giạng hai chân, lại đưa ống
viễn kính lên mắt trái.
Nhiều lính bị thương và bị giết nằm sóng
sượt dưới chân tường. Mặt trời đã lên cao nhưng bị sương mù che phủ. Khói từ
các tháp trên thành bay lên mây, nhưng lửa cháy rõ ràng là đã yếu đi. Lại một
đơn vị quân cảm tử nữa từ phía Tây tiến tới bằng thuyền, leo lên thang. Miệng
người nào người nấy cắn chặt những mồi đã châm sẵn, họ nhanh nhẹn rút thủ pháo
trong bao ra, cắn ngòi, đốt mồi rồi ném. Có người đã lọt được vào trong lỗ hổng
nhưng từ đó không sao nhô đầu lên được.
Quân Thụy Điển chống cự kịch liệt. Tiếng
súng đại bác, tiếng lựu đạn nổ ầm ầm, tiếng kêu la từ bên kia sông vọng tới,
lúc giảm đi, lúc lại mạnh lên hơn bao giờ hết. Cứ như thế một giờ đồng hồ, hai
giờ, tưởng chừng như mọi hy vọng, số phận của mọi sự nghiệp gian khổ, đều tùy
thuộc vào sự kiên trì của những con người nhỏ bé đang vùng vẫy trên thang, nép
vào những chỗ gồ ghề của tường thành, để lấy lại hơi thở, nấp sau những đống đá
để tránh hỏa lực của quân Thụy Điển và bắn lại. Không làm sao giúp đỡ họ được.
Các khẩu pháo buộc phải ngừng hoạt động.
Nếu có thuyền dự trữ thì có thể chở thêm
hai nghìn quân sang tăng viện. Nhưng chẳng còn dư một chiếc thuyền nào, chẳng
còn thang và thủ pháo thì thiếu.
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nên trở về lều vải, ăn
một chút rồi nghỉ ngơi... Bệ hạ bực bội buồn phiền làm gì, - Boris Petrovich
vừa nói vừa thở dài như một mụ đàn bà. Nhà vua mắt không rời khỏi ống viễn
kính, nhe răng ra, vẻ sốt ruột. Bên kia, một lão già cao lớn, râu trắng xóa,
mặc áo giáp sắt và đội chiếc mũ kiểu cổ, xuất hiện trên mặt tường thành chỉ tay
xuống quân Nga ở chân tường, lão há to miệng: có lẽ lão đang hét. Quân Thụy
Điển vây chặt quanh lão và cũng hét lên: có thể là chúng đang bàn luận. Lão già
gạt một tên ra, cầm khẩu súng ngắn đánh một tên khác rồi nặng nề tụt xuống chỗ
lỗ hổng, bám vào những chỗ gồ ghề ở tường.
Khoảng năm mươi người theo lão leo xuống.
Quân Thụy Điển và quân Nga trà trộn vào nhau trong lỗ hổng thành một đám hỗn
chiến hung dữ. Xác người rơi xuống chân tường như những cái bị. Vua Piotr rên
lên.
- Lão già kia là tên tư lệnh Eric
Slipenbac, anh cả tướng Slipenbac mà thần đã đánh bại. - Boris Petrovich nói.
Chẳng mấy chốc quân Thụy Điển đã chiếm được
lỗ hổng, từ đó chúng dùng súng trường bắn ra. Chúng theo thang tụt nhanh xuống
và chỉ có kiếm trong tay, xông vào quân Nga. Lão già cao lớn, mặc áo giáp, đứng
trong lỗ hổng, dậm chân giơ tay lên như con gà trống vỗ cánh...
- Khi một gã Thụy Điển đã nổi giận thì chết
hắn cũng không sờn, - Boris Petrovich nói.
Những quân Nga còn sống sót lùi về phía
sông, về phía thuyền. Một người, mặt băng một mảnh giẻ, lồng lộn, chặn bọn lính
lại ngăn không cho họ trèo lên thuyền, nhảy lên, đánh đập.
Hắn lấy cả sức nặng người mình tì vào mũi
một chiếc thuyền không, đẩy nó ra xa bờ. Rồi hắn nhảy tới một chiếc thuyền
khác, đẩy nốt ra xa...
- Đó là Miska Golixyn, - Boris Petrovich
nói - hắn cũng hăng lắm!
Hai bên giáp lá cà, đánh nhau ngay bên cạnh
chỗ thuyền đậu. Mười hai xuồng lớn chở đầy quân cảm tử giơ cao vũ khí bơi ngược
dòng về phía thành. Đó là đơn vị dự trữ cuối cùng, đơn vị của Melsikov. Alexaska,
mình chỉ mặc một chiếc sơ mi lụa màu hồng, đầu để trần, tay cầm kiếm và một
khẩu súng ngắn, nhảy lên bờ trước tiên...
- Đồ huyênh hoang, đồ huênh hoang! - Vua
Piotr làu nhàu.
Quân Thụy Điển thấy có lực lượng địch mới
tới, vội chạy về phía tường thành; nhưng chỉ có một số leo lên được: tất cả bọn
còn lại đều bị tiêu diệt. Đá, rầm gỗ lại từ trên tường thành lao xuống, một
khẩu pháo khạc đạn ghém. Và quân Nga một lần nữa lại leo lên thang.
Vua Piotr cầm ống viễn kính theo dõi chiếc
sơ mi màu hồng, Alexaska ra sức chiến đấu dũng cảm để kiếm thêm một cấp và vinh
quang... Hắn leo được lên lỗ hổng và chạm trán lão già Slipenbac; né tránh một
viên đạn súng ngắn, hắn tấn công bằng kiếm; quân Thụy Điển vừa kịp cứu thoát
được lão già và kéo lão lên trên... Qua đợt tấn công mới này, quân Thụy Điển
chống cự có yếu đi...
- A, thằng quỷ! - vua Piotr kêu lên, chân
đi ủng dậm mạnh xuống đất...
Chiếc sơ mi màu hồng của Alexaska đã vẫy
vùng trên cao kia, giữa những lỗ châu mai của tường thành. Qua ống viễn kính,
nhà vua nhìn không rõ. Ánh sáng bao la, đỏ rực của buổi chiều tà miền Bắc đã
lan rộng trên bầu trời, phía sau thành:
- Piotr Alekseevich, theo thần thì hình như
chúng đã trương cờ trắng, - Boris Petrovich nói. - Cũng không sớm lắm đâu,
chúng ta chiến đấu đã mười ba tiếng đồng hồ rồi còn gì nữa!
Đến đêm, quân lính đốt những đống lửa lớn
bên bờ sông Neva. Trong doanh trại chẳng ai ngủ. Những chảo đồng đầy sôi sùng
sục, cừu từng con treo lủng lẳng trên cọc được quay chín. Những viên đội rậm
ria đứng bên những thùng rượu đã cưa đứt đôi, rót vodka cho tất cả những ai
muốn uống, uống được bao nhiêu tùy sức.
Quân cảm tử còn đang hăng về cuộc chiến đấu
mười ba giờ đồng hồ ròng rã, hầu hết đều băng bó với những mảnh áo cũ dẫm máu,
ngồi trên các gốc cây, trên những cành thông, quanh đống lửa, kể lại những giờ
phút bi thảm, những trận giao chiến, những vết thương, cái chết của những bạn
đồng ngũ. Những người không tham dự trận đánh, mồm há hốc, vây tròn xung quanh,
sau lưng những người kể chuyện. Họ vừa nghe vừa đưa mắt nhìn những tháp đã bị
đốt cháy, bóng tháp đen ngòm lờ mờ in bóng trên mặt sông. Xa xa, dưới chân
tường thành nay đã vắng ngắt, xác chết nằm chất đống.
Hơn năm trăm quân cảm tử đã chết và khoảng
một nghìn người bị thương đang rên rỉ trên những xe ngựa của đoàn xe vận tải và
trong các lều vải. Quân lính vừa thở dài vừa nhắc đi nhắc lại:
- Đấy, quả hạt dẻ, ta đã cắn vỡ nó rồi.
Phía bên kia suối, trên một ngọn đồi, tiếng
kêu và tiếng kèn đồng vẳng ra, từ chiếc lều sáng trưng của Sa hoàng. Khi nâng
cốc chúc tụng, người ta không bắn những loạt đạn mừng, súng đã nổ khá nhiều
ngày hôm ấy rồi. Thỉnh thoảng có những viên sĩ quan say rượu bước ra khỏi lều
để đi ngoài. Một viên đại tá bước tới đống lửa trại của quân lính trên bờ bên
kia, y hét lên, giọng khàn khàn vì rượu.
- Hoan hô, anh em! Giỏi lắm!
Vài người lính ngẩng đầu lên lẩm bẩm:
- Làm cái gì mà gào lên thế? Hừ, cứ tiếp
tục, người chiến sĩ can trường kia, cứ tiếp tục mà say sưa đi!
Đến lượt vua Piotr ra khỏi lều. Nhà vua đi
giải, chân loạng choạng.
Lửa trại nhấp nhô trước mắt: ít khi nhà vua
say, nhưng hôm đó, nhà vua đã say mềm. Melsikov và Kornigxeg cũng theo ra.
- Myn
Herz, có lẽ cần đem đến cho bệ hạ một cây nến chăng? - Alexaska hỏi, giọng
say rượu. - Sao bệ hạ lâu thế?
Kornigxeg cười như gà túc túc: “Ha, ha”, vừa
nhảy múa vừa nâng vạt áo sau lên.
Piotr nói với y:
- Kornigxeg!
- Tâu bệ hạ, xin nghe lệnh.
- Khi ngồi ăn, nhà ngươi khoe khoang cái gì
thế?
- Tâu bệ hạ, đâu có ạ?
- Nhà ngươi nói dối, ta đã nghe thấy hết...
Nhà ngươi đã kể gì với Seremetiev? “Vật trang sức này đối với tôi còn quý hơn
cả sự siêu thoát của linh hồn...”. Vật trang sức đó là cái gì?
- Tâu bệ hạ, Seremetiev khoe người hầu của
ông ta, một người phụ nữ Livoni. Nhưng hạ thần nhớ là không có khoe khoang gì
cả.
Kornigxeg ngừng bặt, tựa hồ vừa tỉnh rượu
ngay tức thì. Nhà vua nhếch mép nhe răng ra, như con cò từ trên nhìn xuống bộ
mặt hoảng sợ của y.
- A, tâu bệ hạ... Có lẽ hạ thần khoe hộp
đựng thuốc lá của hạ thần, một hộp đựng thuốc lá của Pháp, hạ thần để trong
hành lý... Hạ thần xin đem lại hầu bệ hạ.
Y vội vàng lảo đảo đi về phía suối; y lo
sợ, cởi khuy áo lót trên ngực... “Trời ơi, trời ơi, làm sao mà hắn biết được?
Phải giấu đi, phải vứt đi ngay tức khắc...”. Ngón tay y vướng vào lớp đăng ten;
y nắm lấy chiếc trái tim đựng ảnh buộc vào sợi dây lụa đeo ở cổ, y cố giật, sợi
dây thít sâu vào cổ y... Vua Piotr vẫn đứng trên đồi nhìn theo. Kornigxeg hất
đầu về phía nhà vua, như muốn nói để nhà vua yên tâm: hạ thần xin đem lại ngay
bây giờ đây.
Một thanh rầm gỗ bắc ngang con suối sâu,
nước réo ầm ầm giữa những tảng đá hoa cương lớn. Kornigxeg bước lên rầm gỗ;
giầy y dính đất sét, trơn tuột. Y vẫn cố giật sợi dây lụa. Y bước hụt, chới với
giơ tay lên một cách tuyệt vọng rồi ngã ngửa xuống suối.
- Một thằng say rượu ngu ngốc, - vua Piotr nói.
Họ chờ đợi. Alexaska cau mày; vẻ lo âu, hắn từ trên đồi chạy xuống:
- Piotr Alekseevich, hình như một tai họa
đã xảy ra... Phải gọi người!
Mãi người ta mới tìm thấy Kornigxeg, mặc dù
suối không sâu hơn hai arsin. Rõ ràng
là trong khi ngã xuống, y đã đập gáy vào một hòn đá và đã chìm nghỉm. Quân lính
khiêng y lại gần lều và đặt y trước đống lửa... Vua Piotr uốn người y, giang
tay y ra, hà hơi vào miệng y... sứ thần Kornigxeg đã kết liễu cuộc đời một cách
ngu xuẩn...
Khi cởi khuy áo y, vua Piotr trông thấy
trên ngực, ngay trên người y, một trái tim đựng ảnh to bằng bàn tay trẻ con.
Nhà vua lục túi y, lôi ra một xấp thư và lập tức trở về lều với Alexaska.
Melsikov lớn tiếng nói:
- Thưa các vị, chúng ta tiệc tùng khá lâu
rồi, Sa hoàng muốn đi nghỉ!
Mọi người vội vã rời khỏi lều. Phải sốc
nách vài người lôi đi, đinh thúc ngựa cào lên mặt đất.
Giữa những đĩa thức ăn dở và cây nến sắp
tàn, nhà vua bày ra những lá thư ướt. Vua Piotr lấy móng tay bật nắp trái tim
đựng ảnh; đó là chân dung Anna Monx, nét vẽ tinh xảo một cách kỳ lạ. Ansen nom
như sống thật, mỉm cười với cặp mắt xanh ngây thơ, hai hàm răng đều đặn.
Dưới lần kính, quấn quanh bức chân dung là
một món tóc vàng óng mà vua Piotr đã bao lần hôn hít. Mặt trong nắp, có mấy chữ
tiếng Đức viết bằng mũi kim: “Tình yêu và chung thủy”.
Piotr lấy móng tay nậy mặt kính, sờ món tóc
và vứt chiếc trái tim vào vũng rượu trên khăn trải bàn, rồi đọc các bức thư.
Tất cả đều là của Anna Monx viết cho Kornigxeg, những lá thư ngu ngốc, nũng nịu
của một con đĩ đang ngây ngất say sưa vì sung sướng:
- Thế đấy, - vua Piotr nói. Nhà vua chống
khuỷu tay xuống bàn, nhìn ngọn nến. - Ngươi hãy giải thích cho ta nghe. - Nhà
vua lắc đầu, cười gằn. - Nó đã đánh đổi ta... Thật ta không hiểu... Nó đã nói
dối, Alexaska, nó nói dối mới gớm chứ, phải không? Suốt đời, có lẽ từ ngày đầu?
Ta không hiểu... “Tình yêu và chung thủy”!
- Myn
Herz, nó là đồ chó chết, một con đĩ rạc, một mụ chủ quán rượu... Lâu nay,
thần đã muốn nói để bệ hạ biết.
- Câm ngay, câm ngay, điều đó, ta cấm nhà
ngươi không được nói... Cút đi!
Sa hoàng nhồi thuốc vào tẩu, rồi lại chống
khuỷu tay xuống bàn và rít thuốc. Nhà vua nhìn bức chân dung nhỏ nằm trong vũng
rượu...
“Ấy thế mà ta đã đến thăm mi, leo qua hàng
rào..., biết bao lần ta nhắc đến tên mi... Ta tin cẩn nằm ngủ trên vai ấm của
mi... Mi mới ngốc làm sao, đồ ngốc... Đáng lẽ mi đã phải đi chăn gà... Thôi
được... Thế là hết...”
Nhà vua uể oải khoát tay một cái, đứng dậy
và quăng tẩu thuốc đi rồi nằm vật xuống giường cọt kẹt, lấy chiếc áo lông cừu
đắp lên người.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét