Con Đường Đau Khổ - Tập III
Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976
Tập III - Buổi Sáng Ảm Đạm
Sống chiến thắng hay chết vinh quang...
(Xvyatoxlav)
17
Katya đang ngồi chữa bài chính tả trong mấy
cuốn vở học trò đóng bằng đủ các thứ giấy dán tường, chỉ viết được một mặt. Những
cuốn vở này là một thành tựu lớn trong cuộc đời khốn khổ của nàng. Để có được
giấy đóng vở, nàng đã đi Kiev một mình. Tìm gặp ông ủy viên nhân dân bộ giáo dục
cũng dễ. Khi đã biết nàng là ai và đến có việc gì, ông ta cầm lấy cánh tay dìu
nàng ngồi xuống chiếc ghế bành, rót trong cái ấm ám khói đen sì để trên cái bàn
sang trọng ra một chén trà cà-rốt rồi đưa cho nàng, kèm theo một nửa miếng đường
phèn. Vai khoác cái áo choàng lông, ông ta đi đi lại lại trong phòng, đôi ủng dạ
thong thả giẫm trên tấm thảm, và trình bày cho nàng nghe một chương trình giáo
dục nghe mà chóng cả mặt.
- Mươi mười lăm năm nữa ta sẽ thành một nước
có văn hóa cao. Ta sẽ làm cho kho tàng văn hóa nhân loại trở thành tài sản của
nhân dân. - ông ta vừa nói vừa vân vê bộ râu, trên môi nở một nụ cười cuồng
tín. - Trước mắt ta là một công tác khổng lồ nhằm thanh toán nạn mù chữ. Nỗi ô
nhục này phải được rửa sạch: đó là một vấn đề danh dự của mỗi một người trí thức...
Toàn thể thế hệ trẻ phải được hưởng nền giáo dục, kể từ các nhà giữ trẻ, các vườn
trẻ cho đến các trường đại học. Sẽ không có ai và không có gì cản nổi chúng
tôi, những người bolsêvik, thực hiện bằng hành động những điều mà trước kia những
người trí thức ưu tú nhất của chúng ta chỉ có thể mơ ước mà thôi.
Ông ủy viên nhân dân hứa cấp cho Katya một
vạn cuốn vở, sách giáo khoa và các loại sách khác, bút chì, bảng đá. Ra khỏi
phòng ông ta, nàng bắt đầu gặp đủ các chuyện khó khăn, rắc rối: càng xuống đến
những cơ quan có quan hệ trực tiếp với việc cung cấp sách vở hơn, những thứ
sách vở ấy lại càng lùi xa hơn vào cõi hư ảo, và thái độ của những người tiếp
nàng lại càng lập lờ hơn, giễu cợt hơn hay lầm lì hơn. Trong căn phòng không đốt
lò sưởi của tòa khách sạn nàng trọ, đệm trên giường cũng chẳng có, điện thì chỉ
đủ làm cho sợi tóc trong bóng đèn đỏ lên một cách yếu ớt mong manh như hơi thở
của người hấp hối, Katya khoác áo lông ngồi trên chiếc đi văng ọp ẹp, đắm mình
trong tâm trạng tuyệt vọng.
Một hôm, có một người cao lớn đội mũ lông
xù xì, áo va-rơi thắt nịt ngang lưng, bước vào phòng trọ của nàng, chẳng buồn
gõ cửa, rồi cất giọng ồ ồ nói thẳng ngay vào việc:
- Cô còn ở đây à? Tôi có biết việc của cô.
Cô đưa các thứ giấy tờ của cô đây tôi xem thử...
Đứng trước ngọn đèn đỏ cành cạch, ông ta
xem xét các giấy giới thiệu của Katya. Nàng tin tưởng nhìn gương mặt ngạo nghễ,
cương nghị, tuấn tú của người khách.
- Quân đốn mạt - ông ta nói. - toàn một lũ
ăn hại, một lũ phá hoại... Mai cô đến thành ủy gặp tôi thật sớm, ta sẽ liệu
cách... Thôi, chúc cô khỏe.
Qua người ấy, Katya được cấp một số giấy
dán tường và bút chì lấy ở các kho ra, và cả một tủ sách trưng dụng của một ông
chủ nhà máy đường yêu chuộng văn chương, một nửa là sách tiếng Pháp. Mệt nhọc
hơn cả có lẽ là chuyến đi trở về với những của quý này trên toa hàng hóa: cứ mỗi
khi tàu hỏa đứng lại, lại có những gã mu-gích râu ria, mắt long lên dữ tợn, vai
mang những cái bị lớn, và những mụ đàn bà hăng máu, người phình to bằng con bò
vì giấu đủ các thực phẩm trong áo và dưới váy.
Đến nay, Katya cũng đã có được ít nhiều sức
mạnh. Nàng cũng chẳng đến nỗi là con mèo con yếu ớt tội nghiệp có cái lưng mềm
và đôi mắt xinh xinh, kêu rù rù trên giường của kẻ khác.
Nàng bắt đầu nhận thấy mình có được chút sức
mạnh ấy từ cái tối mà Alekxêy tuyên bố một cách sỗ sàng nàng là vợ chưa cưới của
hắn. Hôm ấy Katya đã nhìn vào cái cảnh sống yên ấm của một bà chủ hiệu nông
thôn mà người ta đã sắp sửa đưa nàng vào, và đã lùi lại, rùng mình ghê sợ như một
người trông thấy một cái huyệt đào sẵn chờ mình trên đường đi. Đôi mắt háo hức,
khao khát, long lanh rượu vôđka của Alekxêy, - ông chủ, ông chồng - nàng cũng
thấy nó giống một cái huyệt. Cả con người nàng đã phẫn uất lên, đã nổi loạn, và
điều đó đối với bản thân nàng cũng bất ngờ và đáng hoan hỉ như cảm giác của người
bình phục sau một trận ốm kéo dài. Cũng một cách bất ngờ như thế, nàng đã quyết
định hễ trời ấm lên một chút là sẽ trốn về Moxkva. Nàng cũng đã có được đủ trí
khôn để giấu những ý định ấy đi, Alekxêy và Matriôna chỉ thấy nàng vui lên, vừa
làm việc vừa hát khe khẽ.
Bây giờ trong bữa ăn trưa hay ăn tối (vào
lúc khác hắn đi đâu vắng suốt ngày) Alekxêy luôn luôn nháy mắt vui vẻ nói: “Thế
này mới ra dáng cô dâu chứ...”. Độ rày Alekxêy cũng vui hẳn lên: hắn đã được hội
đồng dân làng cho phép dỡ tòa nhà dọc của lão bá tước và chở gạch, gỗ về sân
nhà mình.
Đầu tháng giêng, khi Hồng quân đã chiếm
Kiev, có một đơn vị bộ đội đi qua làng Vlađimirxkôiê, và trong một buổi
mít-tinh Alekxêy đã là người kêu gào ủng hộ chính quyền Xô-viết trước tiên.
Nhưng chẳng bao lâu sự tình đã chuyển hướng khác hẳn.
Một đồng chí Yakôv nào đấy được phái đến
làng này. Ông ta tịch thu ngôi nhà rất tốt của ông linh mục, bắt hai vợ chồng
ông ra ở nhà tắm. Rồi ông ta ra triệu tập một cuộc mít-tinh, đặt vấn đề như
sau: “Tôn giáo là thuốc phiện đầu độc nhân dân. Ai phản đối việc đóng cửa nhà
thờ là kẻ ấy chống chính quyền Xô-viết...”, rồi không cho ai phát biểu hết, ông
ta cho biểu quyết và niêm phong nhà thờ lại. Sau đó ông ta tách những người cố
nông và bần nông không có ngựa, cả thảy chừng bốn mươi người, ra khỏi tất cả những
người nông dân khác trong làng. Với bốn mươi người ấy, ông ta tổ chức một ủy
ban dân nghèo. Tập hợp họ lại trong nhà ông linh mục, ông ta nói một cách hằn học
cường điệu:
- Người mu-gích Nga là một con vật ngu dốt.
Họ đã sống hàng nghìn năm trong đống phân. Ngoài nỗi oán giận ngu xuẩn và lòng
tham không đáy, trong tâm hồn họ không có gì và không thể có gì hết. Chúng ta
không tin bọn mu-gích và sẽ không bao giờ tin họ. Ta nương nhẹ họ trong khi họ
còn là bạn đồng hành của ta, nhưng chỉ ít nữa ta sẽ không nương nhẹ như thế nữa.
Các người là giai cấp vô sản ở nông thôn, các người phải nắm vững lấy chính quyền,
phải giúp chúng tôi bẻ gãy cánh của bọn mu-gích.
Yakôv làm cho cả làng phát hoảng lên, ngay
những người trong ủy ban cũng thế. Ở nông thôn, một lời nói ra cả làng đều biết.
Các nhà thì thầm rỉ tai nhau:
“Sao ông ta lại nói thế? Chúng ta đây là
loài thú vật gì vậy? Hình như chúng ta cũng là người Nga, chúng ta sống ở quê
hương chúng ta, thế mà bỗng dưng lại không thể tin được!... Mà làm sao lại đòi
bẻ cánh của mọi người đi một cách xô bồ như vậy? Có bẻ cánh thì bẻ của thằng
Alekxêy Kraxilnikôv ấy: hắn là đồ kẻ cướp... Hay của Konđratenkôv, Nitsiporôv:
chúng là những kẻ uống máu dân, ai ai cũng biết. Bẻ gãy cánh chúng đi là
đúng... Nhưng như tôi đây, sao lại phải bẻ cánh? Vì áo tôi thấm mồ hôi muối
chăng? Ờ không được, ở đây có cái gì không ổn rồi, sai mất rồi...”. Có người lại
nói: “Lạy Chúa, ra chính quyền Xô-viết là như thế đấy!...”.
Những khi Yakôv ra khỏi nhà đi làm những việc
đáng sợ của ông ta, mặt không rửa, râu đã từ lâu không cạo, mình mặc cái áo
khoác lính rách rưới, đầu đội cái mũ đã đứt mất lưỡi trai (nhưng ủng lại rất tốt,
và nghe đâu ở bên trong áo khoác lại ăn mặc rất sang), từ tất cả các khung cửa
sổ dân làng đều nhìn theo, bà con nông dân lắc đầu hoang mang lo lắng: rồi sẽ xẩy
ra những gì nữa đây?
Vào tháng ba, khi dân làng mới bắt đầu chở
phân ra đồng, Yakôv triệu tập một cuộc họp toàn thể, và lại dọa buộc tội phản
cách mạng, đòi phải kê khai tất cả số ngựa của từng nhà, trưng dụng số ngựa dôi
quá tiêu chuẩn và lập tức thành lập một nông trang công xã trong trang viên của
lão công tước... Thế là công việc chở phân ra đồng và cày ải mùa xuân đi đứt vì
cái thằng quỷ không tắm rửa ấy!
Chỉ ít hôm sau có một đội trưng lương vào
làng. Lập tức cả làng đều biết rằng Yakôv đã đưa cho họ những bản danh sách lúa
mì thừa dư với những con số kỳ lạ đến nỗi đội phải trợn mắt tròn xoe ra, họ nói
thế. Yakôv thân hành đi với đội đến từng nhà, lấy phấn ghi lên cổng số thóc phải
nộp...
“Nhưng từ khi cha sinh mẹ đẻ tôi đã bao giờ
nhìn thấy một số thóc như vậy đâu?” - người mu-gích vừa nói vừa lấy ống tay áo
cố chùi con số viết bằng phấn đi. Yakôv nói với đội trưng lương: “Đào dưới sàn
nhà nó ấy!...”. Người mu-gích không dám làm dấu chữ thập trước mặt Yakôv, vừa
khóc vừa xé áo ra nói: “Xin thề là dưới sàn chẳng có hột nào!”. Yakôv ra lệnh: “Đập
vỡ cái lò sưởi nhà nó ra, thóc chôn dưới lò sưởi ấy...”
Nhờ những cố gắng của Yakôv, thóc trong
làng bị vét sạch, ngay cả thóc giống cũng bị chở đi. Alekxêy Kraxilnikôv thì
ông ta gọi đến gặp riêng ở ủy ban, đóng chặt cánh cửa có treo ảnh chủ tịch Hồi
đồng quân sự tối cao của nước cộng hòa, đặt một khẩu súng lục lên bàn giấy và
ngạo nghễ nhìn gương mặt lầm lầm của Alekxêy.
- Nào, bây giờ ta sẽ nói chuyện theo kiểu
gì đây? Có lúa mì không?
- Tôi lấy đâu ra lúa mì? Mùa thu qua có cày
gieo gì đâu?
- Ngựa đem đi đâu hết?
- Cho người quen ở các ấp mượn hết rồi.
- Tiền giấu ở đâu?
- Tiền nào?
- Tiền ăn cướp được ấy.
Alekxêy cúi đầu ngồi yên, chỉ có năm ngón
tay phải duỗi ra bóp vào, khi buông khi nắm.
- Rốt cục chẳng hay ho gì, - hắn nói - nếu
cần nộp thuế thì được, tôi xin nộp... Nhưng đàng này lại thộp lấy cả người ta lột
cả áo trong áo ngoài là làm sao?
- Phải đưa anh ra Tseka mới xong...
- Nhưng, tôi có từ chối đâu, đã thế thì tôi
sẽ mang tiền đến.
Alekxêy về nhà, xuống hầm ngay, lôi lên những
đẫy, bị, gói, bao và những súc vải. Có một cái túi đựng toàn tiền Nikôlai và tiền
sông Đôn. Hắn lấy tiền ra nhét vào túi áo túi quần và vào bụng. Một cái túi
khác đựng tiền giấy Kerenxki, một mớ giấy lộn chẳng có giá trị gì, thì hắn đưa
cho Matriôna:
- Đưa ra ủy ban nói là nhà chỉ có thế. Họ sẽ
không tin đâu, họ sẽ đến đây giở sàn ra xem, cô cứ để cho họ làm. Bao nhiêu đồng
hồ và dây chuyền cô ném xuống giếng hết đi. Vải vóc thì chất lên xe tatsanka, lấy rạ che thật kín, đến đêm
sang nhà lão Afanaxi lấy con ngựa, đánh xe đến trại Đêmentyev. Tôi sẽ đợi ở đấy.
- Alekxêy, anh định đi đâu thế?
- Chưa biết. Đi chuyến này sẽ còn lâu mới về.
Đến khi ấy sẽ được nghe tin lạ về tôi.
Matriôna kéo tấm khăn trùm xuống tận lông
mày, hai múi khăn phủ lên cái đẫy đựng tiền giấy, rồi ra ủy ban. Alekxêy cài cửa
lại rồi quay về phía Katya đang đứng bên lò sưởi. Mắt hắn ánh lên một niềm vui
độc ác, hai cánh mũi hắn căng phồng lên.
- Cô mặc cho ấm vào, Êkatêrina Đmitrievna ạ...
lấy cái áo choàng lông ấy, đi đôi tất len vào. Đồ lót cũng mặc cho thật ấm...
Nhưng phải nhanh lên, ta còn ít thì giờ lắm...
Hắn nhìn Katya, mắt mở rộng, quanh đôi đồng
tử như ánh lên những tia lửa nhỏ, hàng ria mép màu hung rung rung trên đôi môi
hé mở. Katya đáp:
- Tôi không đi theo anh đâu...
- Cô trả lời thế đấy à? Không thể khác được
sao?
- Tôi không đi đâu hết.
Alekxêy xấn tới, đôi cánh mũi trắng nhợt
ra.
- Tao không để mày ở lại một mình đâu, đừng
hòng... Tao nuôi nấng nuông chiều mày không phải để cho thằng khác nó phủ mày
đâu, con chó cái kia. Con đàn bà quý phái dịu ngọt như đường kia!... Tao chưa động
đến da thịt mày, nhưng để tao vặn gãy chân tay mày xem mày kêu rên như thế
nào...
Hắn đưa hai cánh tay cứng như sắt ra ôm lấy
Katya, thở khò khè vì khuỷu tay Katya chặn lên cuống họng hắn, và chỉ hai bước
hắn đã đặt nàng lên giường. Katya gò cả người lại, vùng ra với một sức mạnh mà
không ai có thể ngờ là nàng có được. “Không đời nào, không đời nào, đồ thú vật!...”.
Nàng vùng ra, nhưng Alekxêy lại quật nàng xuống giường. Hắn thấy vướng vít và
nóng điên lên vì cái áo khoác nhét đầy tiền đang mặc trên người. Hắn quay ra đánh
Katya. Nàng giơ tay lên che mặt, căm giận nhắc đi nhắc lại qua hai hàng răng
nghiến chặt: “Mày giết tao đi, mày giết tao đi, đồ thú vật...”.
Cái then cửa nhảy lên tanh tách. Matriôna từ
ngoài phòng lót quát vào: “Alekxêy, mở ra!...”. Hắn rời cái giường, lùi lại,
giơ hai tay lên bưng mặt. Matriôna đạp cửa mạnh hơn. Hắn mở ra. Matriôna bước
vào nói:
- Đồ ngu, trốn nhanh lên. Họ sắp đến ngay
bây giờ!
Alekxêy nhìn Matriôna một phút, rồi chợt hiểu
ra, gương mặt bớt đờ đẫn đi. Hắn vơ những gói vải và những túi đồ rồi ra ngoài,
cưỡi lên con ngựa duy nhất còn để lại ở nhà, rồi đi ra cửa sau, băng qua mấy
dãy rào, cho ngựa chạy nước kiệu xuống bờ sông. Sang bên kia sông rồi, hắn cho
ngựa phi nước đại và khuất bóng sau khóm rừng.
Một lát sau Matriôna lấy trong hòm ra một
chiếc áo ngắn và một chiếc váy, ném lên cái giường Katya đang nằm sóng sượt, quần
áo rách bươm.
- Mặc vào, đi vào trong kia, nhìn cô mà xấu
hổ...
Yakôv đưa người đến soát nhà Alekxêy từ dưới
hầm lên đến gác xép, nhưng không tìm thấy những thứ giấu trên xe tatsanka. Đến đêm, Matriôna đi lấy ngựa
về và đánh xe ra khu trại. Suốt đêm hôm ấy Katya không cởi áo choàng lông, ngồi
trong căn nhà tối tăm và lạnh lẽo, đợi trời sáng. Cần phải suy tính mọi việc một
cách thật bình tĩnh. Hễ trời sáng là đi. Nhưng đi đâu? Chống hai khuỷu tay lên
bàn, nàng ôm chặt lấy đầu và khóc thút thít. Rồi nàng ra cửa, nơi có đặt xô nước,
lấy cái hũ con múc nước uống. Dĩ nhiên là đi Moxkva. Nhưng người quen cũ ở đấy
nay liệu còn những ai? Tất cả, tất cả đều đã mất... Nàng gục xuống bàn ngủ thiếp
đi, và khi giật mình tĩnh dậy thì trời đã sáng hẳn. Matriôna vẫn chưa về. Katya
sửa lại cái khăn trùm, nhìn vào tấm gương treo trên tường: đến sợ! Rồi nàng ra ủy
ban.
Nàng đứng rất lâu trên thềm sau, đợi cho những
người ở trong nhà ông linh mục thức dậy. Cuối cùng Yakôv bước ra, tay cầm cái
xô nước bẩn, hắt lên đống tuyết lẫn bùn và nói với Katya:
- Thế mà tôi định cho người đến gọi cô đấy...
Ta vào đi...
Ông ta đưa Katya vào nhà, mời nàng ngồi và
lục lọi trong ngăn kéo một lát.
- Chồng cô, hay là người thế nào đối với cô
đấy, chúng tôi sẽ đem hắn ra xử bắn.
- Người ấy không phải là chồng tôi, cũng chẳng
phải là gì hết, - Katya đáp nhanh. - Tôi chỉ xin một điều: ông cho tôi đi khỏi
nơi này. Tôi muốn về Moxkva...
- “Muốn về Moxkva!”! - Yakôv ngạo nghễ nhại
lại. - Còn tôi, tôi đang muốn cứu cô khỏi bị xử bắn đây.
Katya ngồi ở nhà Yakôv cho đến tối. Nàng kể
hết chuyện mình, nói rõ những mối quan hệ giữa nàng với Alekxêy. Thỉnh thoảng
Yakôv lại bỏ đi đâu rất lâu, khi trở về, ông ta gieo mình xuống ghế, châm thuốc
lá hút.
- Theo chỉ thị của Ủy ban Giáo dục, - ông
ta nói, - trong làng phải thành lập một trường học. Cô không phải là người
thích hợp lắm, nhưng bần cùng chúng tôi sẽ thử xem... Nhiệm vụ thứ hai của cô
là báo cho tôi biết tất cả những việc xảy ra trong làng. Về những chi tiết của
công việc này ta sẽ tính sau. Tôi nói trước cho cô biết: nếu cô bép xép về chuyện
này, cô sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Còn chuyện về Moxkva thì tạm thời cô hãy
quên đi.
Thế là Katya bỗng dưng đã trở thành cô giáo.
Họ cắt cho nàng một ngôi nhà nhỏ bỏ không ở cạnh trường học. Ông giáo già trước
kia ở đây đã chết hồi tháng một vì bệnh sưng phổi; quân lính Petlyura có một thời
gian đóng trong trường này đã xé hết sách vở ra quấn thuốc lá, ngay cả bản đồ địa
lý cũng không chừa lại. Katya cũng chẳng biết nên bắt đầu từ việc gì, bèn đến hỏi
ý kiến Yakôv. Nhưng ông ta không còn ở trong làng nữa. Cũng đột ngột như khi xuất
hiện, ông ta đã đi sau khi nhận được một bức điện bảo đảm, chỉ có đủ thì giờ
nói với ông lão Afanaxi bây giờ luôn luôn quanh quẩn bên ủy ban dân nghèo vì sợ
mất ảnh hưởng:
- Hãy nói lại với các đồng chí là chớ có
nhân nhượng gì bọn mu-gích, tuyệt đối chớ có nhân nhượng gì đấy. Khi nào trở về,
tôi sẽ kiểm tra lại...
Từ khi Yakôv đi khỏi, trong làng yên tĩnh hẳn
đi. Bà con mu-gích mỗi khi ra ngồi chơi ở thềm nhà ông linh mục, thường nói với
mấy người trong ủy ban:
- Các anh làm nhiều điều quá quắt như thế,
sau này sẽ ăn nói ra sao? Gay đấy...
Những người trong ủy ban cũng hiểu là tình
cảnh rất gay, và trong làng có yên cũng là yên bề ngoài thôi. Yakôv chẳng thấy
trở về. Có tin đồn là Alekxêy Kraxilnikôx đã chiêu tập được một toán cướp ở
trong huyện và đã nhập bọn với thủ lĩnh Grigoriev. Rồi chẳng bao lâu cả làng đã
bắt đầu kháo nhau rằng cái ông thủ lĩnh Grigoriev ấy đã ra một bản tuyên cáo và
đã xuất quân đánh phá các thành phố Xô-viết. Dân làng lại bắt đầu chờ đợi những
sự thay đổi.
Ở Xô-viết thôn người ta hứa sẽ giúp Katya một
số việc: chữa các lò sưởi, lắp các cửa kính. Katya tự tay lau rửa sàn nhà và cửa
sổ trong trường học, xếp các bàn học trò bị gãy ra một nơi. Vốn là người có
công tâm, cứ tối tối ngồi một mình trong căn nhà nhỏ nàng lại khóc, vì nàng thấy
xấu hổ khi phải lừa dối lũ trẻ con. Nàng còn có thể dạy gì cho chúng học, nếu
không có sách, không có vở. Nàng còn có thể dạy cho chúng những phép tắc gì,
trong khi nàng tự cho mình là người chẳng biết sống theo một quy củ nào?...
Thế rồi một buổi sáng sớm quanh trường đã rộn
rã những tiếng cười nói vui tươi của một đàn em nhỏ, con trai có, con gái có. Nàng
phải lấy hết sức mới tự chủ nổi. Nàng chải tóc thật sát và búi chặt lại ở sau
gáy, hai tay nàng rửa thật sạch. Nàng mở cửa trường ra, mỉm cười nói với lũ con
trai và con gái bé tí đang nghếch mũi lên nhìn nàng:
- Chào các em...
- Chào cô Ekaterina Đmitrievna ạ... - lũ trẻ
reo to lên giọng trong trẻo, vang dội, tươi vui đến nỗi cả một luồng không khí
trẻ trung tràn vào lòng nàng. Nàng phân phối chỗ ngồi cho lũ trẻ, bước lên bục,
giơ ngón tay trỏ lên nói:
- Các em, hiện nay ta chưa có sách vở và
bút viết. Cô sẽ kể cho các em nghe, có chỗ nào không hiểu, các em sẽ hỏi lại
nhé... Hôm nay ta bắt đầu học sử... cô sẽ kể cho các em nghe chuyện Rurik,
Xinêux và Truvor...
Nhà cửa Katya rất nghèo. Nàng không muốn lấy
chút gì ở nhà Alekxêy đi, và lại gặp Matriôna nàng cũng phiền lòng lắm: chị ta
bây giờ gầy rộc đi, lúc nào cũng lầm lì. Trong nhà Katya có một cái chổi đặt ở
ngưỡng cửa, trên giá để hai cái hủ đất, trong phòng lót để một cái chậu nước bằng
gỗ. Cảnh nhà cũng vui lên một chút nhờ mảnh vườn nhỏ có rào bọc xung quanh,
trong vườn có hai cây anh đào, một cây táo và một cây phúc bồn tử. Bên kia bờ
rào là cánh đồng.
Khi mấy cây anh đào nở hoa, Katya cảm thấy
như mình mới mười bảy tuổi.
Nàng thường ngồi trong vườn soạn bài, đọc
những cuốn tiểu thuyết Pháp trong tủ sách của ông chủ nhà máy đường, và hay nhớ
đến Pari trong màn sương xanh xanh của những năm dĩ vãng. Hồi ấy - năm một ngàn
chín trăm mười bốn - nàng ở ngoại ô Pari, trong một căn phòng nhỏ sát mái nhà,
có bao lơn trông ra một dãy phố hẹp yên tĩnh, nhìn xuống mái một ngôi nhà nhỏ
mà xưa kia Balzăc đã từng ở. Các cửa sổ ở phòng làm việc của ông không trông ra
phố, mà lại mở ra một khoảng vườn dốc dần xuống bờ sông Xen. Bấy giờ khu vườn ấy
thuộc quyền sở hữu một người đàn bà Mỹ giàu có nào đấy, và cứ tối tối, mỗi khi
Katya ra bao lơn, mấy con công lại cất tiếng kêu the thé đón mùa xuân, và
Katya, lúc bấy giờ đã đoạn tuyệt với chồng bỏ nhà sang đây sống trong cảnh cô
đơn, trong tâm trạng nhớ nhung, buồn chán, có cảm giác là đời mình đã hết.
Lũ trẻ đã đem lòng yêu mến Katya. Trong các
buổi học chúng nghe rất chăm chú những câu chuyện nàng kể về lịch sử Nga, giống
như những chuyện thần tiên. Dĩ nhiên những bài toán số học, bảng cửu chương và
những bài chính tả là những vấn đề khó giải quyết hơn nhiều đối với lũ trẻ cũng
như đối với bản thân Katya, nhưng nhờ những cố gắng chung, thầy trò đã thu được
những kết quả khả quan. Dân làng bây giờ đối với nàng tốt hơn trước nhiều. Ai nấy
đều biết rằng Alekxêy đã suýt giết nàng. Phụ nữ trong làng đến cho Katya người
thì sữa, người thì trứng, người thì bánh mì. Họ cho gì nàng ăn nấy.
Ngồi dưới cây táo già thân phủ rêu xanh,
Katya sửa bài vở của học trò. Sau dãy rào mắt cáo thấp lè tè, cũng già nua như
cây táo, nãy giờ có một thằng bé đứng khóc thút thít đã khá lâu.
- Cô Katya ạ, cháu chừa rồi.
- Không được, Ivan Gavrikôv ạ, cô giận cháu
lắm, cô sẽ không nói chuyện gì với cháu suốt hai ngày.
Ivan Gavrikôv, thằng bé có đôi mắt xanh
ngây thơ vô tội, là một đứa trẻ tinh nghịch đến mức khó lòng có thể tưởng tượng
nổi. Trong các buổi học nó thường kéo bím tóc bọn con gái, hễ quở mắng nó vì tội
ấy, nó giả vờ ngủ gật và ngã chúi xuống dưới bàn. Thôi thì đủ, không sao tả hết
được những trò tinh nghịch của nó.
- Không, không được đâu Gavrikôv ạ, cô thấy
rất rõ là cháu không hối lỗi, mà đến đây chỉ vì không biết làm gì cả...
- Thật đấy cô ạ, cháu xin thề là cháu chừa
rồi, chừa thật mà...
Từ ngoài đường có ai bước vào nhà, và có tiếng
Matriôna gọi Katya. Chị ta có việc gì? Katya vội vàng tha tội cho Gavrikôv và
đi vào nhà. Matriôna đón nàng với đôi mắt trừng trừng chẳng biểu lộ một chút
thiện cảm nào...
- Cô chưa biết à? Alekxêy sắp về đến nơi rồi...
Katêrina ạ, tôi không muốn chuyện cũ lại diễn lại lần nữa, cô không ở với chúng
tôi được đâu... Dù sao Alekxêy cũng sẽ giết cô mất... Hắn đã thành con thú dữ rồi,
chỉ thích đổ máu! Tại cô hết... Vừa rồi có người về nói là Alekxêy đang đi xe tatsanka về đây... Katya ạ, cô đi đi.
Tôi sẽ cho cô chiếc xe ngựa và một ít tiền...
* * *
Nằm trong bệnh viện Kharkôv, Vađim
Pêtrôvits có đủ thì giờ để suy nghĩ. Thế là bây giờ chàng đã ở bên này hỏa tuyến.
Cái thế giới mới này bề ngoài thật chẳng có chút gì hấp dẫn: gian phòng bệnh
không có lò sưởi, ngoài cửa sổ tuyết ẩm rơi đều đều, thức ăn thì quá tồi tệ - một
ít xúp cá màu xám ngoét - và những câu chuyện nhạt nhẽo của các bệnh nhân về thức
ăn, về thuốc lá, về nhiệt độ, về ông bác sĩ viện trưởng. Không một lời nào nói
về cái tương lại chưa biết ra sao mà nước Nga đang lao tới, về những biến cố
đang làm rung chuyển đất nước này, về cuộc chiến tranh đẫm máu mà những người
đã từng tham gia - giờ đây là những người ốm hay bị thương, đầu cạo nhẵn, mặc
áo bệnh nhân bằng vải bông đã nhàu nát - khi thì ngủ suốt ngày, khi thì ngồi
trên giường đánh cờ đam, quân tự làm lấy, khi thì khe khẽ hát một bài buồn da
diết.
Họ không lảng tránh Vađim Pêtrôvits, nhưng
cũng không coi chàng như một người của mình. Như thế cũng tiện cho chàng, vì
chàng đang cần đối thoại với bản thân: bấy lâu đã tích lũy lại bao nhiêu vấn đề
chưa được suy nghĩ kỹ, chưa giải quyết xong xuôi, và đã có bao nhiêu kỷ niệm bị
cắt đứt giữa dòng, khác nào một cuốn truyện bị xé mất một trang ở chỗ hồi hộp
nhất. Vađim Pêtrôvits đã chấp nhận cái thế giới mới ấy, không chút phân vân, bởi
vì cái đó đã xảy ra với chính tổ quốc
chàng. Bây giờ cần phải hiểu cho ra tất cả, lý giải ý nghĩa của tất cả mọi sự cố.
Một hôm bác sĩ chủ nhiệm đem đến cho chàng
mấy tờ báo Moxkva. Vađim Pêtrôvits đọc báo với một nhãn quan khác hẳn: không phải
như trước kia cầm tờ báo lên là trong lòng đã sẵn những ý nhạo báng cay độc...
Cuộc cách mạng Nga đã lan sang Hung, sang Đức, sang Ý. Các dòng chữ trên báo đều
tràn đầy quả cảm, tin tưởng lạc quan. Nước Nga, bị chiến tranh tàn phá, bị cuộc
tương tàn xâu xé, bị các đại cường quốc cắt phần chia nhau sẵn, đang nắm lấy
quyền chỉ đạo chính trị thế giới, đang trở thành một lực lượng đáng sợ.
Chàng bắt đầu hiểu cái điềm tĩnh tưởng như
tầm thường của các bạn cùng phòng mặc áo bệnh nhân màu xám: họ biết rõ họ đã
làm được những gì... Cái điềm tĩnh của họ - vĩnh cửu, thô lỗ, nặng nề, chứa chất
suy nghĩ - đã trải qua năm thế kỷ - mà trời ơi, năm thế kỷ ấy đã chứng kiến biết
bao nhiêu biến cố phi thường... Lịch sử của nhân dân Nga, của quốc gia Nga thật
là kỳ lạ và độc đáo. Những tư tưởng vĩ đại và thô lỗ, chưa thành hình, sống
phôi thai trong dân tộc Nga từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, luôn hướng về sự vĩ
đại của thế giới và về cuộc sống công bằng, chính trực. Ngày nay những tư tưởng
khởi thủy táo bạo, chưa từng có, đang trở thành sự thật, khiến cho thế giới Âu
châu hoang mang, và châu Âu sợ hãi và căm tức nhìn sang cái xứ sở phương đông kỳ
quái này, vừa yếu ớt lại vừa hùng mạnh, vừa bần cùng lại vừa giàu có khôn lường,
đang đẻ ra từ những chiều sâu tối tăm của nó những ánh rạng đông của những tư
tưởng và ý đồ có thể soi sáng toàn nhân loại...
Và cuối cùng nước Nga, chính nước Nga chứ
không phải một cái gì khác, đã chọn một con đường mới mà chưa có ai đi thử bao
giờ, và ngay từ đầu những bước chân của nó trên con đường này đã vang dội khắp
thế giới...
Đương nhiên là với những ý nghĩ như vậy
Vađim Pêtrôvits còn hơi đâu mà để ý đến những dòng nước bẩn lềnh bềnh những mảng
tuyết tháng ba đang trôi qua ngoài cửa sổ, hay người viên chức Xô-viết lầm lì
và bất mãn, với cái túi đựng thực phẩm và cái ống sắt tây đựng dầu hỏa lủng lẳng
sau lưng, chân đi đôi giày vải, đang lê bước đến dự một trong những buổi họp
nhiều vô số của một cơ quan nào đấy; chàng còn hơi đâu mà để ý nhìn món xúp
chàng nuốt hàng ngày xem thử những con mắt cá nổi lều bều ở bên trên là mắt cá
gì? Chàng chỉ thấy nóng lòng muốn tự mình góp phần vào sự nghiệp này.
Quân Petlyura đang bị quét sạch ra khỏi
Ukrain. Gần đây Hồng quân đã chiếm Êkatêrinôxlav. Petlyura hãy còn bám lấy
Txerkôv, nhưng rút cục cũng bị đánh bật ra, và hắn cùng đám tàn quân rút qua
biên giới, trốn sang Galitxi. Phía trước các đơn vị Hồng quân đang tiến công nổi
lên cả một làn sóng lớn những cuộc khởi nghĩa du kích. Quy mô của những cuộc khởi
nghĩa đó khó lòng có thể ước lượng và chỉ đạo được. Nó cứ bùng lên như những
đám cháy khắp các làng, các tổng đang bị cuộc đấu tranh ác liệt giữa nông dân
ít đất và bọn kulak giàu xâu xé. Cả
hai bên đều thành lập những đội kỵ binh và bộ binh, lao vào nhau một cách hung
hãn phi thường trong những trận giao tranh đẫm máu. Đâu đâu cũng có những tên mật
vụ ngụy trang của Petlyura, của Đênikin, của Ba-lan và của những tổ chức còn bí
mật và hắc ám hơn nữa len lỏi khắp nơi, khiêu khích bạo động. Chính quyền Xô-viết
có hiệu lực trong các thành phố và các đường xe lửa lớn, còn ở xung quanh,
ngoài tầm pháo của các đoàn xe lửa bọc sắt, chiến tranh vẫn hoành hành.
Cuối cùng Vađim Pêtrôvits nhận được sự bổ
nhiệm mong mỏi từ lâu: chàng được đưa vào bộ tham mưu của một đại đoàn học sinh
võ bị trong đó Tsugai làm chính ủy. Vào giữa tháng ba chàng nhận giấy ra viện -
chàng đi hãy còn khập khiễng phải chống gậy - và lên đường đi Kiev, về đơn vị
mình.
Toán cướp của Zêliôny, sau khi đã ly khai với
thủ lĩnh Grigoriev, chuyên đi càn quét các Xô-viết thôn xã và săn đuổi những
người cộng sản. Phóng đi rất nhanh trên hàng trăm xe tatsanka, chúng cướp phá đến tận sát thành phố Kiev. Dọc những con
đường Zêliôny đã đi qua, người ta tìm thấy những xác người bị lột hết da, hay bị
xóc vào những thân cây đẽo nhọn. Những người có chân trong các ủy ban dân nghèo
thì bị hắn thiêu sống trong các nhà kho, người Do-thái thì hắn đóng đinh vào cổng,
hoặc mổ bụng ra, cho một con mèo vào rồi khâu lại. Kế hoạch tiễu trừ bọn cướp
này được nghiên cứu ở bộ tham mưu của dân ủy Quân sự xứ Ukrain, có sự tham gia
của Rôstsin. Lực lượng đi tiễu trừ chẳng có được bao nhiêu. Ủy viên quân sự rời
Kiev lên tàu thủy đến tận nơi chỉ đạo các cuộc hành quân.
Vào tiết này sông Đniepr hãy còn rộng lắm.
Chuyến tàu thủy vỗ guồng bánh lép bép trên dòng nước trong chỉ có những luồng
xoáy lười biếng cuộn lên nhè nhẹ. Tiếng guồng bánh vỗ nước cũng như tiếng cười
nói của đoàn học sinh quân đều không át được tiếng hót của họa mi vang vọng từ
hai bờ phủ lá xanh mọng, nơi thì đeo những chùm quả lủng lẳng như hoa tai, nơi
thì điểm những chùm hoa vàng mịn như lông gà con. Boong tầu nóng ran lên vì ánh
nắng đang lên cao dần trên làn nước lũ. Vađim Pêtrôvits đứng bên mạn tàu nhìn
xuống dòng nước lấp lánh.
Chàng đã sống qua nhiều mùa xuân, nhưng
chưa có bao giờ chất rượu nồng của sự sống lại lên men mãnh liệt như vậy trong
các huyết mạch của chàng... Mà lại đúng vào một thời điểm ít thích hợp nhất, bất
ngờ nhất... Trí óc chàng chìm trong làn sương mù của những linh cảm mơ hồ. Thôi
thà đừng lục túi áo tìm thuốc lá, đừng cau mày nữa thì hơn, con người nghiêm
trang, con người của hành động ạ; cũng chẳng làm sao cưỡng nổi những cảm giác mầu
nhiệm đang tràn vào lòng anh đâu!... Ngoài kia, làn sương mùa xuân đang dâng
lên trên mặt sông, trên các hòn cù lao nhỏ, trên những nếp nhà ngập nước lưng
chừng, thấm đượm ánh nắng từ trên cao rọi xuống. Ánh nắng ấy dịu dàng trải trên
mặt nước, trên những khóm cây được phản chiếu dưới dòng sông thành những hình
bóng mờ nhạt lung linh, trên lưng mấy con bò nước ngập ngang đầu gối, trên ngọn
cỏ mọc xanh rờn, nơi có con bò mộng đang trèo lên ngắm cái quang cảnh huyền diệu
chưa từng thấy, chưa từng thể nghiệm của mùa xuân.
Có một điều rất lạ là suốt thời gian qua, kể
từ những ngày ở Êkatêrinôxlav, Rôstsin rất ít khi nhớ đến Katya. Cứ như thể
nàng đã mất hút đi cùng với dĩ vãng của chàng: kỷ niệm của nàng gắn bó quá mật
thiết với quãng đời mà bản thân chàng đã quyết liệt lên án. Mỗi khi trở về với
kỷ niệm của Katya, chàng lại trở về với chính cái gã Rôstsin mà chàng đã trông
thấy hồi nào trong tấm gương của hiệu cắt tóc: lúc bấy giờ chàng chưa đủ ghê tởm
để bắn một phát đạn hay ít nhất cũng nhổ một bãi nước bọt vào hình ảnh phản chiếu
của mình. Giá như bây giờ, chàng sẽ làm như vậy.
Hai mùa xuân trước, tình cảm của chàng đối
với Katya như tràn đầy vũ trụ, tất cả cái vũ trụ ở phía sau vầng trán của
chàng, cau lại vì hoang mang đến tột độ và vì tủi nhục tưởng chết đi được. Hồi ấy
chàng rất cần tình yêu của Katya, nhất là trong những giờ phút cô đơn ở khách sạn
Êkatêrinôxlav, khi chàng nhìn quả nắm cửa, nơi có thể buộc đầu dây thòng lọng...
Thế bây giờ, chàng không cần nữa hay sao? Có đúng thế không? Ở Roxtôv, chàng đã
phản bội Katya lần đầu. Phải chăng ở Êkatêrinôxlav chàng đã phản bội nàng lần
thứ hai?
Chàng nhìn lên đôi bờ đang trôi dần về phía
sau, hít thở làn không khí ngọt ngào cho căng hết lòng ngực, và không hề cảm thấy
hối hận, không hề thấy mình bị cắn rứt. Không, ở Êkatêrinôxlav chàng không hề
phản bội nàng... Ở đấy, chàng đã hoàn thành việc thanh toán với dĩ vãng. Và ở đấy
chàng đã gặp Maruxya... Người con gái ấy đã hát trọn bài ca ngắn ngủi, ngây thơ
và say đắm của mình về cuộc đời mới, về làn nước lũ mùa xuân này, về một hạnh
phúc không bờ bến.
Con bò mộng đứng trên gò rống lên một tiếng
và ở phía sau tàu các học sinh quân cười phá lên, một người trong bọn cũng rống
một tiếng để nhại con bò. Rôstsin khoái chá nhắm mắt lại. Có thật chết là tuyệt
vọng không? Cái chết của Maruxya tươi sáng vô ngần. Cái chết của nàng như một lời
dặn dò của người ra đi với những người ở lại: hãy yêu cuộc sống, hãy đón nhận
nó với tất cả niềm say mê, hãy biến nó thành hạnh phúc!
Chàng không hoãn việc đi tìm Katya. Theo
yêu cầu của chàng. Dân ủy quân sự đã chỉ thị cho ủy ban hành chính các huyện
thuộc vùng Êkatêrinôxlav và vùng Kharkôv điều tra về hành tung của Alekxêy
Kraxilnikôv, nhưng cho đến nay vẫn chưa nhận được tin tức gì về địa điểm hoạt động
của hắn. Hiện nay Vađim Pêtrôvits chưa thể làm gì hơn được: mấy tiếng đồng hồ đứng
trên boong tàu này là thời gian rỗi rãi duy nhất của chàng sau một tháng rưỡi
làm việc mỗi ngày mười tám tiếng.
Tsugai và ông ủy viên quân sự đến cạnh
chàng. Ông này là một người gầy gò, mặc áo vải thô kiểu Tolxtôi, mặt đỏ ửng lên
vì nắng, đôi mắt ươn ướt và trông như mắt người say, tuy ông không bao giờ uống
rượu và ghét những người say rượu đến nỗi đã có lần suýt bắn chết một viên đại
đoàn trưởng, một người rất tốt, chỉ vì bắt gặp anh ta ngồi uống rượu trong lều...
Chỉ lên dải bờ cao có cái tháp chuông trăng trắng, ông ủy viên quân sự nói:
- Làng tôi đấy... Ngày trước bà tôi hễ nghe
thấy tiếng còi tàu thủy là lập tức ấn cho chúng tôi một thúng đầy mận, lê, hạt
dẻ, bắt ra bến bán: thật là một bà già tham việc tiếc công... Nhưng rốt cục
cũng chẳng làm cho tôi thành lái buôn được.
- Còn bà tôi thì lại hì-iền hiền hiền, - Tsugai
nói, - cứ đi hết những nơi có thánh tích linh thiêng suốt mười năm, đi đâu cũng
dắt tôi theo; hai bà cháu đi ăn xin mà...
Ông ủy viên quân sự không để ý nghe, nói tiếp:
- Sau đó nhà cho tôi đến lò rèn học việc.
Cái lò rèn ấy chắc bây giờ cũng vẫn còn, kia kìa, ở phía dưới cái tháp chuông ấy.
Cho đến nay tôi vẫn thích cái mùi than củi. Đến khi họ bớp tôi dữ quá, tôi mới
lên Kiev làm trong xưởng sửa chữa đầu máy... Sau đó tôi đi Kharkôv làm ở nhà
máy cơ khí...
Tsugai cũng chẳng để ý nghe ông ta nói gì:
- Hồi ấy tôi là bậc thầy về cái môn lê la
trước thềm nhà thờ. Cào sứt một chỗ nào trên người, bôi máu lên mặt, mắt trợn
ngược lên, thế là bắt đầu ê a một bài kinh “Lazariux”... Sau đó nhiều khi còn
cãi cọ đánh nhau với bà tôi chỉ vì một đồng cô-pếch.
Rồi Tsugai lơ đễnh nhắc lại:
- Thế là hai bà cháu đánh nhau.
Anh nhìn lên chỗ bờ sông nhô ra thành mũi đất.
Ở chỗ này sông Đniepr chạy ngoặt vào một cánh đồng cỏ ngập nước. Đôi mắt lồi của
Tsugai đang nhìn trừng trừng phía trước mặt. Anh vỗ mạnh chiếc mũ lính thủy cho
nó dính xuống tóc rồi bước nhanh về phía cầu chỉ huy của thuyền trưởng.
- Này, bố ơi, - anh quát gọi ông thuyền trưởng,
một ông già khô đét có bộ ria buông thõng xuống hai bên, - cho tàu đi xa bờ ra,
đi về phía bãi cỏ kia!
- Không được, các đồng chí ạ, phải đi đúng
luồng, bên kia có cồn cát ngầm...
- Cứ đi, chẳng luồng lạch gì sất! - Tsugai
vỗ bao súng - Ngoặt hẳn sang!...
Con tàu đi vòng theo mũi đất, và trên dải bờ
thoai thoải dần dần hiện ra một làng lớn có cái tháp chuông cao ngất, mấy cái
chòi xay gió, những nếp nhà trắng và những khu vườn thấp, cành lá sum suê một
màu xanh mơn mởn.
- Anh có trông thấy không, kia có cái nhà nho
nhỏ đứng riêng ra một bên đấy. Tôi đã ra đời trong nếp nhà ấy, - ông ủy viên
quân sự nói với Rôstsin.
Tsugai nghiêm sắc mặt quát:
- Nào, cho tàu ngoặt sang trái đi, lái mạnh
vào!
Trên bờ có nhiều xe giàn đỗ, sát bờ có nhiều
thuyền đậu. Một đám người đang chen chúc nhau nhảy xuống thuyền và trên một chiếc
đã rời bờ, người ta đang ra sức chèo hối hả. Tsugai chạy xuống boong, chiếc áo
lính thủy bay phần phật. Ngay lúc ấy từ trên bờ và từ mấy chiếc thuyền có tiếng
súng nổ: họ đang bắn vào tàu thủy. Rồi trên tàu thủy những khẩu súng máy bắt đầu
nhả đạn. Đám đông trên bờ nhốn nháo chạy lên các xe giàn phóng nhanh lên con đường
dốc rộng, bụi tung lên mù mịt. Từ trên tháp chuông bắt đầu gióng giả một hồi
chuông báo động. Chỉ mấy phút sau, bờ sông đã vắng ngắt. Đôi mắt lồi ánh lên
vui vẻ, Tsugai lại bước lên cầu chỉ huy.
- Zêliôny đấy! Thằng chó đẻ ấy lại thoát rồi!
Thôi, phải đổ bộ lên thôi, đồng chí ủy viên quân sự ạ.
* * *
Toán cướp của Zêliôny lồng lộn trong vòng
vây như một đàn sói. Cuối cùng nó bị dồn vào đường sắt, vào vùng hỏa lực của một
đoàn tàu bọc thép, rồi bị tiêu diệt sạch trong một khóm rừng hồ đào rậm rạp, nơi
những chiếc xe tatsanka của chúng lao
vào để chọc thủng vòng vây. Cánh đồng mọc đầy những bụi bờ đã được đào tung lên
từ trước. Những con ngựa thắng vào xe từng cỗ bốn con, bị trúng đạn súng máy và
mảnh lựu đạn, lồng lên chạy ra khỏi khóm rừng, vấp phải hố rãnh phải dừng phắt
lại, những cỗ xe sau đâm sầm vào những cỗ xe trước vỡ tung ra hoặc đổ nhào xuống.
Bọn kẻ cướp vội lao vào các bụi rậm, nơi cái chết đang chờ chúng. Không có một
đứa nào dám kêu xin tha chết. Thủ lĩnh Zêliôny bị bắt dưới một đống củi cành chặt
từ năm ngoái: các học sinh quân nắm lấy hai chân hắn lôi từ trong đống củi ra.
Họ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy hắn: cứ tưởng là một ông hộ pháp dữ tợn lắm,
hóa ra chỉ là một anh chàng gầy guộc quắt queo, không đủ chỗ để nhổ một bãi nước
bọt. Chỉ có đôi mắt nhớn nhác, bạc phếch, hằn học, bộc lộ cái máu sói lang của
hắn! Họ trói chặt chân tay hắn lại để giải về Kiev.
Tuy vậy một chi đội trong toán cướp vẫn chọc
thủng được vòng vây ở bên sườn và chạy thẳng về phía đông. Ông ủy viên quân sự
liền phái một trung đoàn kỵ binh gồm ba trăm lưỡi kiếm cùng với Tsugai và
Rôstsin đuổi theo chúng. Một cuộc săn đuổi kiên trì và thận trọng bắt đầu. Đi
qua các làng trại, bọn cướp đều thay ngựa, còn hồng quân thì cứ đuổi riết theo,
không thay ngựa giữa đường. Họ được dân cư trong một làng nằm trên đường đi cho
biết rằng quân cướp đang chạy về phía làng Vlađimirxkoiê. Hôm trước quân cướp vừa
ghé vào làng này tịch thu ngựa và cướp tất cả những thứ gì có thể vơ vội được.
- Các đồng chí cố sao diệt sạch chúng nó đi
thật nhanh, chứ không thì thú thật là chúng tôi chán những cuộc đánh phá lắm rồi,
- nông dân nói với Tsugai và Rôstsin khi đoàn người ngựa dừng lại bên một cái
giếng để cho ngựa uống nước. - Thủ lĩnh của bọn này chúng tôi biết rõ lắm: quê
hắn ở làng Vlađimirxkôiê, hắn tên là Alekxêy Kraxilnikôv. Trước kia hắn là một
anh mu-gích làm ăn chí thú, ai mà chả biết, nhưng về sau đổ đốn ra, hóa điên
hóa dại mất rồi, thành một con quỷ dữ...
Thế là Vađim Pêtrôvits đột nhiên đã rơi
đúng vào dấu vết Alekxêy mà chàng đã tìm kiếm từ hai tuần nay, và do đó cũng đã
lần ra cả dấu vết của Katya nữa. Chàng bồi hồi xúc động là phải: Katya chỉ cách
chàng có một ngày đường nữa mà thôi. Khi tìm được nàng rồi, chàng sẽ thấy nàng
ra sao? Bị đày đọa khổ sở đến nỗi không nhận ra được nữa chăng? Nếu thế chàng
chỉ còn biết áp sát mái đầu điểm bạc của nàng vào ngực nữa mà thôi... ôi, mái
tóc bạc của nàng!... “Thôi thế là bây giờ em sẽ được nghỉ ngơi, Katya ạ, chúng
mình sẽ sống, chúng mình cần phải sống...”. Không, không, điều đó không thể nào
quan niệm nổi, nàng không thể cam tâm làm vợ Alekxêy được! Nhưng có lẽ đúng hơn
cả là cuối ngày hành quân, ngựa chàng sẽ dừng chân bên mộ Katya... Và đối với
nàng có lẽ như thế mà hơn. Hình ảnh nàng sẽ mãi mãi nguyên vẹn, trong trắng,
không gợn một vết nhơ...
Trung đoàn tiến rất nhanh trên con đường
trường bụi bặm. Người Rôstsin dập dình trên yên. Hình ảnh Katya nhòa đi và mờ dần
trong cái ký ức khắc khổ của chàng. Nàng ra sao, thì chàng sẽ cứ thế mà đón nhận
lấy nàng vào cuộc sống của mình.
Trong làng Vlađimirxkôiê những nếp nhà bị đốt
hãy còn bốc khói, lũ trẻ còn sợ sệt đứng nhìn những vũng máu vừa phủ tro lên,
những người đàn bà run rẩy, giàn giụa nước mắt vẫn còn lẩn trốn trong các nhà
hàng xóm, khi Tsugai và Rôstsin từ hai đầu làng kéo quân ập vào. Nhưng Alekxêy
Kraxilnikôv không còn ở đây nữa. Có người đã báo cho hắn biết trước: sau khi
chém chết mười bảy người có chân trong ủy ban dân nghèo và chém luôn cả ông lão
Afanaxi một thể cho vui, hắn đã dẫn toán cướp đi chừng nửa giờ đồng hồ trước
khi hồng quân đến.
Dân căm thù hắn đến nỗi hầu như cả làng đều
kéo đến vây quanh đội kỵ binh cưỡi trên những con ngựa chỉ chực quỵ chân xuống
vì mệt mỏi.
- Đuổi cho kịp đi, - họ hò hét - các ông giết
chết thằng Alekxêy đi cho chúng tôi. Quân hắn ít lắm, đạn thì hết nhẵn rồi. Hắn
chưa đi đâu xa, chúng tôi biết thừa cái lũ khốn kiếp ấy đi đâu rồi... Tay không
các ông cũng bắt được chúng nó.
- Nhưng thế nào đây, đồng bào có cấp ngựa mới
cho chúng tôi không nào? - Tsugai hỏi.
- Cấp chứ... Phen này thì phải cấp chứ.
- Bao nhiêu con?
- Gì chứ dăm chục thì có ngay... Ngựa của
các ông cứ để lại đây, xong đâu đấy ta sẽ đổi lại... Quả tình hắn không để cho
chúng tôi sống nữa đâu.
Trong khi họ chạy đi bắt ngựa và chuyển yên
cương, Rôstsin rụt rè bước lại gần mấy người đàn bà. Thấy người kia như muốn hỏi
điều gì, họ nhích gần lại.
- Tôi có biết Kraxilnikôv hồi chiến tranh với
Đức, - chàng nói. - Em trai hắn có vợ rồi, nhưng hắn thì hình như chưa có... Thế
bây giờ thì thế nào, hắn đã có gia đình chưa?
Mấy người đàn bà, chưa hiểu chàng muốn đi đến
đâu, sốt sắng trả lời nhao nhao:
- Có rồi, có rồi...
- Có đâu mà có! Có phải vợ hắn đâu mà...
- Ờ thì hắn cứ ở với người ta như thế cũng
chẳng khác gì vợ chồng...
- Cũng chẳng phải thế đâu. Đồng chí bộ đội ạ,
để tôi kể cho mà nghe... Hắn đánh bạc với Makhnô mới vớ được cô ta, hắn mới đem
về đây, định cưới làm vợ... Dĩ nhiên cô ta mới bảo hắn là có muốn lấy ai thì cứ
lấy, chứ cô ta thì không quen sống như con nhà mu-gích... Cô ta là người quý
phái, trẻ mà đẹp lắm... Nhà Alekxêy thì mùa xuân năm ngoái quân Đức đốt sạch...
Vừa rồi hắn mới bắt đầu xây lại... Thế rồi xảy ra cái vụ ông Yakôv...
Người đàn bà thứ ba, còn thông thạo hơn nữa,
chen đến gần Rôstsin:
- Đồng chí chỉ huy ạ, hắn đánh cô ấy dữ lắm,
nhưng rồi cũng không đánh chết được cô ta, cái thằng quỷ dữ ấy... Kể từ tháng
ba cô ấy làm cô giáo làng chúng tôi...
- Ra thế, ra thế, - Vađim Pêtrôvits vừa lẩm
bẩm vừa ho húng hắng. - thế bây giờ cô ta có còn ở đây không?
Mấy người đàn bà đưa mắt nhìn nhau. Lúc bấy
giờ một người thứ tư nữa mới vừa đến, nói:
- Hắn bỏ cô ta lên xe giàn, lấp rạ lên, chở
đi rồi, sống chết chẳng biết ra sao...
Một thằng bé con đang giương đôi mắt si mê
nhìn Rôstsin, nhìn thanh gươm đốc đồng, đôi ủng phủ bụi đường có đính cựa, cái
đồng hồ to đeo ở cổ tay, khẩu súng lục có buộc sợi dây tết, mặt ngửa hẳn lên để
nhìn mặt chàng, cất giọng ồm ồm nói:
- Chú ơi, các cô ấy nói bậy đấy. Các cô ấy
chả biết gì về cô Katya đâu. Cháu mới biết cơ, cháu biết hết.
Một đứa con gái đứng sau lưng thằng bé, gầy
gò, xấu xí, môi sưng vều lên, nói:
- Chú ơi, chứ cứ tin thằng này, nó biết hết
đấy.
- Nào, thế cháu biết những gì nào?
- Cô Matriôna cô ấy đưa cô Katya ra ga rồi.
Cô Katya không muốn đi, cô ấy khóc dữ lắm, nhưng cô Matriôna cũng khóc dữ lắm...
Rồi cô Katya bảo cháu: “Cô sẽ về, cháu nói với các bạn như thế nhé...”. Alekxêy
đi nhiều xe tatsanka vào làng, nhưng
cô Matriôna mấy cô Katya đã đi xa ra đến đằng kia rồi! lên đến ngọn dốc, hai cô
ấy bỏ cháu xuống đất rồi đánh xe đi thẳng...
- Lên yên!... - Tsugai quát.
Vađim Pêtrôvits không kịp nghe cho hết. Đội
kỵ binh đi ngựa mới, kéo theo nhiều xe tatsanka
chở đại liên, phóng ra khỏi làng. Phi bên cạnh Tsugai và Rôstsin, hai khuỷu tay
khuỳnh ra, là một người mu-gích thấp bé, tóc râu đen nhánh, suốt ngày vừa qua
đã phải nấp dưới giếng, nước và bùn lên đến rốn. Mình mặc chiếc áo rách bươm,
chân không giầy dép, râu ria bờm xờm, anh cứ thế nhảy lên con ngựa chưa đóng
yên đi theo đội tiễu phỉ. Anh đưa họ đi đường vòng đến một khu rừng sồi, nơi
duy nhất ở địa phương này mà toán cướp có thể đến được.
Phi đến nơi thì trời hãy còn sáng. Họ lập tức
vây kín lấy khu rừng, chỉ để cho quân cướp một lối bỏ ngỏ dẫn thẳng đến ổ phục
kích. Ánh tà dương chiếu xiên hông qua những thân sồi xù xì, dưới khóm lá lấp
loáng. Con ngựa Rôstsin cưỡi như có cái gì bứt rứt không yên, luôn luôn lắc lắc
cái đầu, dừng lại cắn cắn đầu gối chân trước, đá chân sau lên bụng. Cuối cùng
chàng buông cương cầm lăm lăm khẩu các-bin trong tay. Ánh nắng chiều rọi qua những
đàn muỗi thiếp vàng, nhuộm lên khu rừng từng mảng màu loang lổ: khó lòng có thể
nhìn rõ một vật gì ở phía trước hay ở hai bên, nơi các học sinh quân đã xuống
ngựa đi rải rác thành hai hàng dài, thận trọng lần bước trên lớp lá rụng, băng
qua những bụi rậm và những khóm phượng vĩ cao.
Như người hướng đạo đã báo trước, gần đâu
đây có một cái chòi canh của người gác rừng và một con đường độc đạo mà quân cướp
nhất định phải đi theo để vào sâu trong rừng rậm. Một mái nhà phủ rêu, nóc oằn
xuống như cái yên ngựa, bỗng hiện ra trước mặt cách có mấy bước. Vađim
Pêtrôvits dừng ngựa lại, cố nhìn qua các bụi rậm. Chàng huýt sáo một tiếng khe
khẽ. Những cành khô kêu răng rắc dưới chân các học sinh quân, mạnh hơn và gần
hơn. Chàng lại thúc ngựa đi qua các bụi rậm và trông thấy cái chòi canh bỏ
hoang. Trên một khoảng rừng thưa hẹp, cạnh chòi có mấy chiếc xe tatsanka đã tháo ngựa, giữa đất ngổn
ngang mấy mảnh giẻ rách và mấy thứ áo quần cũ. Quân cướp đã đi nơi khác.
Khẩu các-bin lăm lăm trong tay, Vađim
Pêtrôvits thận trọng cho ngựa đi quanh cái chòi. Ở phía trước mặt chàng, cũng
thận trọng không kém, Alekxêy Kraxilnikôv lùi dần từ góc chòi này sang góc chòi
khác, định bụng sẽ cướp lấy con ngựa của người kỵ binh kia, Rôstsin, mắt nhìn quanh,
dừng lại cạnh bức vách bên sườn nhà. Alekxêy đứng ở bức vách phía trước có cái
cửa sổ đã vỡ và cái cửa lớn đã tháo cánh. Để hành sự thật im lặng, tay hắn chỉ
cầm sẵn một con dao găm.
Khi ngựa của Rôstsin đã nhô ra quá góc nhà,
Alekxêy lao vào đâm chàng, nhưng Rôstsin đã kịp giơ súng lên đỡ, Alekxêy nhảy
lùi lại, lưng va vào vách nhà. Hắn buông con dao găm, nhìn trừng trừng vào
Vađim Pêtrôvits, người đã chết từ lâu mà nay bỗng hiện về. Lòng tràn ngập một nỗi
kinh hoàng mê tín, hắn thét một tiếng rợn người rồi cắm cổ chạy, hai tay vung vẩy
loạn xạ.
- Alekxêy! - Rôstsin quát lớn, giật cương
ngựa phi theo.
Chạy đến một cây sồi, Alekxêy bỗng ôm chầm
lấy thân cây, úp mặt vào lớp vỏ sần sùi. Rôstsin nhảy xuống đất trong khi ngựa
đang phi nhanh và ghé họng súng gần sát nổ mấy phát liền vào tấm lưng rộng của
Alekxêy đang run bắn lên.
* * *
- Cô ấy trước vẫn ở đây à?
- Vâng.
Rôstsin cúi xuống, bước qua ngưỡng cửa và
đi vào ngôi nhà gỗ xiêu vẹo chỉ có một cửa sổ, thấp đến nỗi những cành ngưu
bàng mọc ở bên ngoài che kín hẳn đi. Trong làn ánh sáng xanh xanh từ cửa sổ hắt
vào, trên một cái bàn cũng thấp bé như thế, có một chồng vở đóng bằng giấy dán
tường, và mấy cuốn sách. Một trong những cuốn vở ấy đang để mở, bên cạnh là một
lọ mực và một cây bút. Như thế tức là Katya chỉ có đủ thì giờ trốn đi. Chàng ngồi
xồm xuống trước cái bàn. Thằng bé con kín đáo giơ tay lên bưng miệng nhịn cười,
đưa mắt chỉ cái lò sưởi cho Rôstsin.
Trong miệng lò, có một con quạ con đậu trên
cái thanh sắt bắc ngang, đôi mắt tròn xoe nhìn ngơ ngác. Chắc nó vừa từ cái tổ
xây trên ống lò sưởi rơi xuống. Thấy có người chú ý đến mình, nó xốc lại đôi
cánh nhảy vụt vào trong lò sưởi.
- Ở trên ấy có cả thảy bốn con, - thằng bé
nói, - cháu sẽ bắt hết...
Xếp lại mấy thứ để trên bàn, Vađim
Pêtrôvits tìm thấy một cuốn nhật ký của lớp học, trong đó Katya ghi lại các đầu
bài và những sự việc bất thường xảy ra trong lớp. Hầu như cuối ngày nào cũng có
ghi: “Ivan Gavrikôv lại nghịch...” hay là: “Ivan Gavrikôv lại leo ra tận ngoài
rìa mái trường để dọa bọn con gái. Thật đến khổ với nó...”
- Cái anh chàng Ivan Gavrikôv này là ai thế?
- Rôstsin hỏi.
- Cháu đấy.
- Sao cháu lại nghịch ngợm, làm phiền lòng
Êkaterina Đmitrievna thế?
Ivan Gavrikôv buông một tiếng thở dài nặng
trĩu, đôi mắt xanh trở nên hoàn toàn ngây thơ vô tội:
- Cũng có khi tự nhiên cháu đâm ra thế...
Còn học thì cháu học giỏi lắm. Chú cứ xem bài viết tập của bọn con gái mà xem
chúng nó kẻ gậy như thế nào. Còn vở của cháu đây. Ấy đấy. Chú sẽ ngạc nhiên cho
mà xem. Cháu thuộc hết bảng cửu chương. Chú cứ thử hỏi cháu xem? - Nó lấy hết sức
bình sinh nhắm mắt lại rõ chặt.
- Chú tin rồi, chú tin rồi.
Vađim Pêtrôvits ngồi xếp chân xuống giữa
sàn giở tiếp các trang nhật ký. Trong nhật ký không có lấy một lời nào nói đến
bản thân. Nhưng mỗi trang giấy dường như tỏa lên người chàng cả cái trẻ trung
vĩnh cửu của Katya, lòng trìu mến trong sáng và cả tin của nàng. Và chàng thấy
hiện lên bàn tay thanh tú nổi những đường gân xanh, đôi mắt trong trẻo và ấm áp
của nàng...
- Chín chín tám mốt, có đúng không chú? - Ivan
Gavrikôv nói.
- Giỏi lắm, giỏi lắm... Cháu ạ, cô ấy không
nói với cháu là cô ấy đi đâu à?
- Đi Kiev.
- Cháu không nói dối đấy chứ?
- Cháu nói dối làm gì?
- Có lẽ cháu biết, cô còn cất thư từ, giấy
má ở chỗ nào nữa không?
- Ở đây cả... Mấy cuốn này chốc nữa cháu sẽ
đem về nhà, cô ấy dặn thế, phải cất cho kỹ đi không các bác mu-gích lại đem ra
quấn thuốc lá hết.
Ở trang cuối cuốn nhật ký có viết:
“... Không hiểu tại sao chị vẫn tin là em
còn sống và sẽ có ngày chị em mình lại gặp nhau... Em thử tưởng tượng mà xem:
chị vừa ra khỏi một đêm dài dằng dặc... Chị muốn kể cho em nghe về cái thế giới
nho nhỏ chị đang sống hiện nay. Sáng sáng, tiếng chim hót ngoài cửa sổ đánh thức
chị dậy. Chị ra sông tắm. Rồi dọc đường về, chị ghé nhà bác Agafya uống sữa: chị
đã nợ bác một rúp sáu mươi cô-pếch, nhưng bác ấy sẽ cho chị khất. Rồi lũ trẻ
kéo đến, thế là mấy thầy trò ngồi vào học. Không có gì quấy rầy mấy thầy trò,
cũng chẳng có một mối ưu phiền nào làm mấy thầy trò bận tâm. Té ra con người
hoàn toàn không cần đến những cái mà trước đây chúng mình cứ tưởng là cần, nếu
thiếu đi thì chúng mình không thể nào sống nổi... Nói ra cũng xấu hổ em ạ: chị
có cảm giác như mình trở lại tuổi mười bảy. Chị biết là em sẽ hiểu chị muốn nói
gì, Đasenka ạ... Chỉ có một điều đôi khi làm cho chị buồn, là thằng bé mà chị
yêu nhất, thằng Ivan Gavrikôv, lại là một đứa trẻ hết sức...”
Đến đây bức thư bị bỏ lửng, vì cuốn vở đã hết
giấy. Vađim Pêtrôvits kéo thằng bé Ivan Gavrikôv vào lòng.
- Nào, cho cháu cái gì bây giờ nhỉ?
- Cái vỏ đạn.
- Chú có cái vỏ không nào đâu?
- Thì chú bắn đi một viên, ta ra sân đi.
Vađim Pêtrôvits rời bàn đứng dậy, gấp cuốn
vở lại và luồn vào vạt áo.
- Chú lấy cuốn vở này, Ivan ạ.
- Không được, cô ấy mắng cháu chết.
- Chú sắp gặp cô Katya rồi. Chú sẽ nói cho
cô ấy biết. Nào ta ra sân bắn...
18
Không một hơi gió thoảng qua. Nắng thiêu đốt
những đường phố vắng vẻ của thành Txaritxyn. Bên cạnh các cổng sân mở toang,
rác tấp lại từng đống. Dân phố không ló mặt ra đường. Chỉ trên những con đường
dẫn xuống các bến sông Volga mới thấy những chiếc xe giàn chở tài sản nhà nước
và công văn lưu trữ phóng ầm ầm xuống bến. Thành phố đang sống nốt những giờ cuối
cùng. Ở vùng phụ cận Txaritxyn, Quân đoàn thứ Mười, hàng ngũ đã thưa thớt hẳn
đi sau trận Manyts, chật vật cưỡng lại sức ép của Quân đoàn Bắc Kavkaz mới xuất
trận dưới quyền chỉ huy của tướng Vranghel.
Trạm điện thoại hãy còn làm việc, nhưng
trong thành phố không có nước, cũng không có điện. Các nhà máy đã ngừng hoạt động.
Tất cả những gì có thể chở đi khỏi các xưởng đều đã được tháo rời chở ra bến.
Trong các xóm thợ thuyền chỉ còn lại trẻ em và người già... Giai cấp vô sản
Txaritxyn, trong mười tháng qua đã chịu những hy sinh lớn lao để phòng thủ
thành phố, không mong gì được bọn bạch vệ dung tha: những ai còn chiến đấu được
thì đã đi theo quân đội, còn những người khác thì rời thành phố trên các mái
toa, trên các boong tàu và dưới các hầm tàu... Họ đi về phương bắc, không hề biết
trước mình sẽ đi đến đâu. Những kho gỗ cháy ngùn ngụt trên bờ sông Volga. Tiếng
đại bác nổ rền, mỗi lúc một rõ hơn và gần hơn.
Tất cả sự sống của thành phố đều quy tụ vào
các nhà ga và các bến tàu. Bờ sông Volga ngổn ngang những thùng gỗ, những bao tải,
những bộ phận máy móc. Hàng trăm người mồ hôi nhễ nhại, vừa quát tháo chửi rủa
vừa vần các thứ đó tới cầu tàu. Hàng nghìn người đứng xếp hàng chật ních chờ đến
lượt xuống tàu, hoặc nằm dài ra trên bờ, lặng lẽ, đói khát, nhìn xuống dòng nước
quánh như dầu đang lấp lánh dưới nắng, qua lớp bụi im lìm lơ lửng trên không.
Sông Volga rộng là thế mà đến cuối tháng sáu nước cạn đi đến nỗi dải cát ở bên
kia sông nhích gần hẳn lại, có thể trông thấy rõ những người trần truồng đang
đi lại tắm rửa ở ven sông. Bờ sông hiện nay cũng có những người đang tắm giữa
các bến tàu, trong dòng nước bốc hơi lềnh bềnh rác rưởi. Nhưng ngay cả nước
sông cũng không tỏa ra một chút hơi mát nào.
Những chiếc tàu thủy sứt vẹo và bẩn thỉu lần
lượt ghé vào các bến, từ trên boong vang lên những tiếng quát tháo điên cuồng.
Các boong tàu đều đông nghịt những người dân đi lánh nạn và những chiến sĩ hồng
quân, người sống chen chúc giữa những xác chết và những người mắc bệnh sốt phát
ban đang rên rỉ, nói lảm nhảm và vật vã trong cơn mê sảng. Hàng chục tàu hơi và
tàu kéo đỗ san sát, chốc lại cất tiếng còi khản đặc. Tất cả những chiếc tàu ấy
đều ở mạn dưới lên, xuất phát từ Axtrakhan và Tsorny Yar.
Những người cứu thương, mình rắc vôi trắng
xóa, chạy lên các boong tàu, bước qua những người bệnh đang nằm ngổn ngang trên
boong, nhặt những xác chết khiêng lên bờ để lấy chỗ cho người sống. Họ rắc vôi
và phun nước tẩy trùng lên boong. Có lệnh xếp các xác chết vào những ngôi nhà
bát giác bán nước chanh và nước kvax. Vì không khí oi nồng, cái xác chết bắt đầu
trương lên làm cho mấy ngôi nhà bát giác đóng bằng ván mỏng nứt ra. Mùi nồng nặc
lại càng giục giã người ta rời cho nhanh bờ sông Txaritxyn. Trên trời, mấy chiếc
máy bay của Vranghel bay qua, hiện lên mờ mờ sau lớp bụi nhuộm nắng. Chúng ném
bom xuống sông.
Người ta ùa qua những sào chắn trên các bến,
túi và tay nải vướng vào lưỡi lê của các binh sĩ, xô nhau leo lên tàu. Thùng gỗ,
bao tải ném lên boong rầm rầm. Tàu phải chở nặng đến nỗi nước lút gần hết cả mạn
tàu.
Giữa đám người hỗn độn này, chiếc xe giàn
chở Anixya và Đasa đổ ngay sát bến. Kuzma Kuzmits đã đánh xe đưa họ từ mặt trận
về đây theo nghiêm lệnh của trung đoàn trưởng: có chết cũng phải đưa hai người
phụ nữ đi tản cư không phải bằng tàu hỏa, mà nhất nhất phải đi tàu thủy.
Têlêghin có dặn Kuzma Kuzmits:
- Đồng chí Nêlêđôv, đồng chí chưa bao giờ
được giao một nhiệm vụ nào đòi hỏi nhiều tinh thần trách nhiệm như lần này. Đồng
chí phải đưa hai người đến nơi an toàn và chỗ nào có thể thì thu xếp nơi ăn chốn
ở cho họ. Dù có phải cướp của giết người đồng chí cũng phải cho họ ăn uống tử tế...
Đồng chí phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính mạng của hai người...
Trên lớp cỏ khô rải lên chiếc xe giàn chăng
qua loa mấy mảnh giẻ rách để che nắng, Anixya và Đasa nằm yên: họ chỉ còn là
hai bộ xương bọc da. Anixya đã tỉnh, nhưng còn yếu đến nỗi không thể mở miệng
ra được. Kuzma Kuzmits phải lấy ngón tay cạy răng chị ra để cho chị tu ít nước
nóng đựng trong cái chai. Đasa, mắc bệnh sốt phát ban sau Anixya, bấy giờ đang
mê sảng, mồm không ngớt lẩm bẩm, giọng yếu ớt và bực bội.
Kuzma Kuzmits đã để nhỡ mất nhiều chuyến
tàu. Ông ta khóc lóc van lạy hết người này đến người kia, dùng đủ các thứ mưu mẹo
để họ giúp ông ta đưa hai người đàn bà lên boong tàu. Nhưng trong một hoàn cảnh
khắc nghiệt như thế này chẳng ai buồn nghe ông ta. Dựa vào xe, ông giương đôi mắt
sưng húp nhìn cái cảnh chẳng biết là hư hay là thực này: những ánh phản chiếu
đo đỏ của mặt trời xuyên qua màu bụi chập chờn trên dòng nước ấm bốc hơi, những
con tàu thủy chất đầy xác chết đang rống lên tu tu vì sốt ruột. Lại có tiếng động
cơ máy bay gầm gừ: lần này bom làm tung đất lên cách đấy không xa, bụi bay mù mịt
khắp bờ sông. Nhiều người nhảy xuống sông Volga bơi về phía chiếc tàu thủy đang
tiến lại, gọi to: “Ném đầu dây xuống...”. Nhưng chẳng ai ném dây cho họ, và một
hồi lâu những cái đầu người còn bồng bềnh quanh mạn tàu như những quả dưa hấu
đen.
Bây giờ hầu như chỉ còn một chuyến tàu cuối
cùng nữa: một chiếc tàu kéo thấp màu vàng, có đôi guồng bánh to tướng, lá chắn
đã móp nhiều chỗ, nó không ghé vào bến mà lại đi sang bên cạnh ghé thẳng vào
cái cầu ván vắng người. Kuzma Kuzmits quay xe lại trên lớp cát dày và thúc ngựa
chạy nước kiệu lên cầu ván, rồi xuống xe, vừa chạy trên cầu vừa vung vẩy hai
tay một cách tuyệt vọng.
- Này, ông thuyền trưởng ơi, đồng chí ơi, -
ông ta quát gọi ông già lù đù, kiểu người của chế độ cũ, đang đứng trên cầu chỉ
huy, - tôi đang đưa vợ và em gái đồng chí tư lệnh mặt trận đi tản cư. Ông mà
làm khó dễ thì coi chừng có thể ra tòa án binh đấy. Ông cho tôi hai thủy thủ để
khiêng hai người đàn bà này lên tàu...
Vẻ mặt khích động và lời lẽ quyết liệt của
Kuzma Kuzmits đã có tác dụng. Một người thợ đốt lò cởi trần, bẩn thỉu, lầm lì,
quần rách bươm, leo từ trên mạn tàu xuống cầu ván.
- Đâu?
- Đồng chí ạ, một mình đồng chí không xuể
được đâu.
- Cứ mặc tôi... Người thợ đốt lò đến cạnh
chiếc xe giàn nhìn hai người đàn bà rồi chỉ vào Anixya: - Cô này là vợ ông tư lệnh
mặt trận đây à?
- Chính thị... Nếu cô này mà có làm sao thì
các anh sẽ bị xử bắn tuốt...
- Ông lòe tôi làm gì. Anixya, cô đầu bếp của
chúng tôi đấy mà, - người thợ đốt lò nói, mặt cứ điềm nhiên như không.
- Đồng chí điên rồi à, đầu bếp nào?
- Này ông gàn vừa chứ, đừng có quát tôi. - Anh
ta đỡ Anixya lên một cách dễ dàng, vác lên vai, xốc lại cho thoải mái. - Đỡ tôi
một tay: cả cô này nữa chứ nhỉ?...
Anh ta bế xốc hai người hai bên vai rồi đi
lên tàu - mấy tấm ván oằn xuống đến sát mặt nước. Kuzma Kuzmits hớn hở bước
theo, một tay kéo lê cái bị đựng bánh mì và thịt mỡ, tay kia xách cái túi đựng
thuốc...
* * *
Sáng ngày mồng ba tháng bảy, Xtêpan
Alekxêyêvits, ông giáo dạy trường trung cao, lôi từ gian hầm dùng làm bếp ra
sân nào đệm, nào gối, nào ghế bành bọc nhung kẻ màu lục, những chồng sách và bản
thảo. Ông ta lảo đảo bưng ra một ôm lớn những quần áo, váy, khăn bám đầy bụi, vứt
cả xuống đất rồi há mồm ra thở, lấy ống tay áo quệt những dòng mồ hôi đang tuôn
ra như suối. Trên người ông cái gì cũng ướt nhòe nhoẹt: mái tóc và bộ râu vàng
khè, cái quần vải thô và cái áo sơ-mi đã lâu không giặt dính bết vào hai cái
xương bả vai gù gù.
Mẹ ông ta, một bà già yếu ớt mặc đồ đen, ngồi
ngay cạnh đấy trên một chiếc ghế tựa, khẽ gõ gõ đầu gậy lên một tấm thảm. Người
em gái của ông ta, bị bệnh bại liệt, có cái trán dồ và cái mặt choắt, khoan
khoái nằm dài trên cái ghế bành có bánh xe, dưới bóng cây xiêm gai. Đến lũ chim
sẻ cũng phải há mỏ ra vì nóng.
- Hình như hết rồi đấy mẹ ạ, - Xtêpan
Alekxêyêvits nói. - con kiệt sức rồi! Lạy Chúa, giá có cốc bia lạnh thì muốn gì
con cũng cứ đổi!
- Xtêbuska ạ, nhà chẳng còn giọt nước nào,
con phải cầm cái xô đi múc một ít.
- Thế hả mẹ! Thôi có được không? Ồ! Thật đến
khổ!
Xtêpan Alekxêyêvits vò đầu bứt tai: đi lấy
nước nghĩa là phải ra bờ sông Volga hãy còn đầy những đống tro và những xác chết
cháy thui trong mấy ngôi nhà bát giác bán nước chanh và nước kvax, lội xuống sông đến tận chỗ nước
sâu ngang ngực, vì ở đấy nước mới sạch hơn trong bờ một chút, múc đầy một xô nặng
rồi ì ạch xách xô leo lên dốc, cát ngập đến mắt cá, dưới ánh nắng như thiêu...
- Không thuê ai được hay sao, con sẵn sàng
thuê mười rúp một xô. Con thiết tưởng sức khỏe của một người yếu tim như con đắt
hơn thế chứ...
- Tùy con đấy...
- Vâng, nhưng mẹ cứ thích cho con phải è cổ
ra mà xách nước cơ!
Bà mẹ không đáp, vẫn tiếp tục gõ gõ đầu gậy
lên tấm thảm. Xtêpan Alekxêyêvits thở nặng nhọc, nhìn cái mặt béo phị, mồ hôi
nhễ nhại của bà già.
- Xô đâu? - ông ta hỏi khẽ. - Xô của các
người đâu? - ông ta ré lên, giọng khó chịu đến nỗi cô em bại liệt nằm dưới bóng
xiêm gai phải van lơn:
- Không nên thế, anh Xtêpan... ạ.
- Ồ, nên chứ, nên chứ! Tôi sẽ xách nước cho
các người, tôi sẽ đổ bô cho các người! Tôi sẽ làm lụng cho đến hết đời như một
con ngựa kéo xe! Cho đi tong hết: tương lai, sự nghiệp, luận văn! Thế là hết,
thế là tan tành!... một bãi sa mạc đầy dòi bọ, một đống rác cháy đen thui, một
bãi tha ma!... Không có một thằng Đênikin nào khôi phục được cái gì hết!...
Ông ta bắt đầu bẻ mấy ngón tay ướt đẫm mồ
hôi như dạo trước, khi đứng trước mặt Đasa. Bằng cách này hay cách khác, ông cố
lờ cái xô nước đi. Bỗng từ tháp chuông nhà thờ vẳng lại một tiếng đồng vang dội
phát ra từ cái chuông lớn đã im hơi lặng tiếng hơn một năm nay. Tiếng ngân nga
trang trọng lan đi trong thành phố vắng tanh, xoa dịu mọi nỗi xúc động. Xtêpan
Alekxêyêvits ngừng bặt, khuôn mặt gầy gò, có những thớ thịt co quắp của ông bỗng
điềm tĩnh lại và thậm chí còn nở một nụ cười khờ khạo.
- Xtêpuska ạ, - bà mẹ nói, - dù sao con
cũng nên mặc áo đi xem lễ một tí.
- Anh ấy là một người vô thần mẹ ạ, - cô em
nằm dưới bóng xiêm gai nói, giọng chứa chất một nỗi tức giận ngấm ngầm.
- Thì đã sao? Ít nhất cũng để cho thiên hạ
khỏi tưởng mình là cộng sản...
- Sao mẹ lại nói thế? - Xtêpan Alekxêyêvits
kêu lên, giọng đau đớn. - Ta vừa mới thoát khỏi cái chế độ tươi đẹp của bọn
bolsêvik thì mẹ đã vội kéo con xuống vũng lầy của bọn trưởng giả... Đúng thế,
đúng thế đấy! - Ông ta nhe răng nói chõ về phía cây xiêm gai; cô em gái đành nhắm
mắt lại để đừng nghe nữa. - Ai cho tôi là cộng sản nào? Lại những thằng
Saverđôv, những thằng Prêix của các người chứ gì?... Toàn một lũ trưởng giả tầm
thường, vô nghĩa lý. Hạ mình xuống ngang chúng nó ư? Lạy Chúa! Thế thì hủy bỏ cả
bản thân đi! Thế thì học hành, suy nghĩ, ước mơ mà làm gì? Tôi căm thù bọn
bolsêvik không phải vì chúng lùa tôi vào nhà hầm. Cũng không phải vì chúng chở
hết than của trạm máy nước đi... Không, tôi căm thù chúng chính vì chúng chà đạp
lên quyền tự do nội tâm của tôi. Tôi muốn suy nghĩ đúng như lương tâm và thiên
tài của tôi đòi hỏi. Tôi muốn đọc những cuốn sách có sức cổ vũ tôi... Nhưng tôi
không muốn đọc Karl Marx, các người nghe ra chưa, tôi không muốn dù ông ta có
đúng một nghìn lần chăng nữa... Tôi là tôi!... Và mặt khác cũng hoàn toàn đúng
như thế, mẹ ạ, em ạ: tôi sẽ không đời nào đi hôn tay cái lão Đênikin của các
người đâu... Cũng chính vì những lý do tôi đã nói rõ...
Sau khi đã tuôn hết những nỗi niềm ấy ra, vừa
nói vừa hoa chân múa tay hết sức hùng dũng dưới ánh nắng bốn mươi độ, Xtêpan
Alekxêyêvits lại quay ra lục trong đống áo quần một cái áo đuôi tôm đen, một
cái quần và đi xuống gian hầm, cũng một cách thiếu nhất quán không kém. Nửa giờ
sau ông ta bước ra, y phục chỉnh tề, cổ áo sơ mi hồ cứng, tay cầm cái mũ phẩm
phục và chiếc can. Trong sân không ai nói thêm một tiếng nào nữa. Xtêpan
Alekxêyêvits đi ra phố, men theo vỉa hè có bóng rợp đến nhà thờ lớn.
Những cây xiêm gai thấp trồng quanh nhà thờ
xám xịt những bụi. Dưới gốc cây có mấy gã ăn mặc rách rưới đang ngồi lê la. Một
gã trong bọn cứ nhìn thẳng lên mắt Xtêpan Alekxêyêvits nói giọng trầm, khẽ
thôi, nhưng đủ nghe rõ:
- Bộ mặt kỳ diệu đã trải qua nhiều biến đổi
thần kỳ.
Sau dãy rào có một đại đội cô-dắc đi bộ mặc
áo sơ mi màu ngụy trang đứng xếp hàng và một trung đội junker mặc đại quân phục lễ trưng, áo khoác cuộn tròn lại đeo khoác
qua vai, nịt đeo cà-mèn và xẻng, nằm la liệt trên lớp cỏ cháy xém...
Bên thềm nhà thờ tụ tập một tốp dân phố.
Xtêpan Alekxêyêvits nhận ra Saverđôv, ông chủ hiệu bán đồ da dùng cho phụ nữ,
con người ngọt ngào thớ lợ, mặc áo sơ mi thêu, cùng đứng với bà vợ và hai đứa
con, và ông chủ nhà in Prêix, một người Do thái theo đạo, dáng người nhỏ bé, ăn
mặc xốc xếch, lúc nào cũng nhặng xị lên, cùng đứng với bà vợ sáu đứa con.
Xtêpan Alekxêyêvits lơ đãng gật đầu chào họ và đi vào trong nhà thờ mát rượi.
Nhờ cái áo đuôi tôm phẩm phục, người ta để cho ông vào tự nhiên, có người lại
còn tránh ra nhường lối nữa.
Tuy tòa nhà thờ vẫn còn giữ những dấu vết của
tình trạng bỏ bê (dưới chính quyền bolsêvik nó được dùng làm kho lương thực)
kính trên các cửa sổ cao ngất đều bị vỡ và trên những bức tường tróc lở còn ghi
lại những dòng chữ đề: “Khoai tây 94 bao... Đã nhận (chữ ký không rõ)”, nhưng
cái bàn thờ thiếp vàng lấp lánh dưới ánh nến, mùi hương trầm bốc khói nghi ngút
lên tận mái vòm, những tiếng đáp của ông thày giúp lễ vang lên như tiếng thú gầm,
cũng như tiếng hát hồn nhiên của lũ trẻ con trong dàn đồng ca tất cả những thứ
đó gây nên trong lòng Xtêpan Alekxêyêvits một ấn tượng pha tạp: ông ta thấy
lòng mình tràn ngập cái cảm giác trang trọng quen thuộc và đồng thời là một cảm
giác tủi nhục cũng quen thuộc không kém: cái đuôi trí thức của ông trước đây vẫn
phe phẩy một cách tự do nay bỗng tự nó cụp xuống dưới đít.
Đứng phía trước, quay mặt vào bàn thờ, là
các quan to, các chức sắc cao cấp nắm quyền độc tài: mười viên tướng, thấp có,
cao có, béo có, gầy có, áo quân phục trắng lốp, trên vai đeo những đôi lon rộng
và mềm, đôi thì bằng kim tuyến, đôi thì bằng ngân tuyến. Mỗi người đều cầm mũ
lưỡi trai trên cánh tay trái gập lên ngang thắt lưng, còn tay phải thì mỗi khi
nghe ông thầy giúp lễ xướng: “ta hãy cầu nguyện Chúa...” lại làm dấu chữ thập
lia lịa trước ngực. Đứng tách hẳn ra phía trước trên tấm thảm nhỏ là một viên
tướng vóc người tầm thước, mặc chiếc áo quân phục rộng màu ngụy trang, quần dài
có nẹp đỏ, mái tóc hoa râm chải ngược ra phía sau trông như bị mòn đi một vạt ở
sau gáy. Viên tướng ấy ít làm dấu chữ thập hơn các viên tướng đứng sau. Ông ta
làm dấu rất chậm, bàn tay nhỏ, béo và trắng muốt vẽ thành những đường cong rất
rộng, mấy ngón tay áp chặt vào những nếp nhăn của cái trán hơi xuôi.
Xtêpan Alekxêyêvits hiểu rằng đó là
Đênikin. Trong khi háo hức nhìn nhân vật lịch sử này, ông ta vẫn không ngừng nhếch
đôi môi mỏng mỉm một nụ cười hoài nghi chua chát, nhưng hoàn toàn bất tự giác.
Một viên sĩ quan nãy giờ vẫn chăm chú quan sát ông ta, kín đáo đến đứng sát một
bên. Xtêpan Alekxêyêvits bị thu hút hẳn vào những cảm xúc trái ngược. Đặc biệt
có sức hấp dẫn đối với ông ta là cái bàn tay trắng trẻo của tướng Đênikin. Ai
mà không biết rõ những đôi bàn tay của các vị tướng, với những cử động uể oải,
chậm chạp đặc biệt của nó? Dù người ta cố gắng bao nhiêu thì cũng không thể làm
cho người khác coi trọng nó được, và vì những cố gắng vô hiệu đó, một bàn tay của
hàng tướng tá bao giờ cũng lố bịch, nhất là khi ông tướng hạ cố buông thõng nó
trước mặt ta để cho ta bắt, hay là khi ông ta cố làm cho nó có vẻ bao hàm nhiều
ý nghĩa quan trọng trong khi đưa cho ai một tập bản đồ hay nhét một cái khăn ăn
vào cổ áo. Những điều đó quả đều đúng cả. Nhưng bàn tay trắng của Đênikin đã từng
tóm lấy cổ lịch sử, những cử động của bàn tay ấy đã ném các quân đoàn vào trận
huyết chiến...
Những ý nghĩ ấy làm cho Xtêpan Alekxêyêvits
xúc động đến nỗi ông ta không nhận thấy buổi lễ đã kết thúc, và ông linh mục, một
ông già thấp lùn đeo mục kỉnh, bước ra trước bàn thờ, nhìn tướng Đênikin mở đầu
bài thuyết giáo:
- Bản mệnh lệnh lịch sử của vị thống soái
kính yêu của chúng ta là quan tổng tư lệnh các lực lượng bạch quân miền Nam nước
Nga, trung tướng Antôn Ivanôvits Đênikin, đã được ghi tạc thành những dòng chữ
lửa trong con tim của mỗi người Nga chính giáo. Quan tổng tư lệnh đã mở đầu bản
mệnh lệnh bằng mấy lời sau đây: “Với mục đích cuối cùng là chiếm lĩnh Moxkva,
trái tim của nước Nga, ngày mồng ba tháng bảy hôm nay tôi ra lệnh mở cuộc tổng
tấn công...”. Thưa các vị, phải chăng bầu trời đã mở rộng trên đầu chúng ta, và
tiếng nói của tổng lãnh thiên thần Mikhail đang kêu gọi đạo quân trắng, đạo
quân của chính nghĩa...
Xtêpan Alekxêyêvits thấy cay cay ở mũi, dưới
cái ức áo sơ-mi hồ cứng đã ướt đẫm mồ hôi, ngực ông ta phập phồng rất mau, niềm
hân hoan tràn ngập lòng ông ta. Ông ta trông thấy Đênikin chậm rãi đưa bàn tay
lên trán. Xtêpan Alekxêyêvits chợt hiểu ra rằng mình phải hôn bàn tay ấy, nhất
thiết phải như vậy... Và mấy phút sau, khi Đênikin đã đến hôn cây thánh giá trước
mọi người và bước trên tấm thảm dẫn ra cửa, dáng dấp hiền lành giản dị, với
chòm râu bạc xén ngắn, trông giống như một ông bác hồn hậu trong nhà, Xtêpan
Alekxêyêvits hân hoan đến cực độ, bước nhanh về phía ông ta. Đênikin giật mình
lùi lại một bước, giơ tay lên đỡ, mặt biến sắc đi một cách khổ sở, thảm hại. Mấy
viên tướng khác lập tức lấy thân che cho tổng tư lệnh. Có ai đứng sau lưng nắm
chặt lấy hai khuỷu tay Xtêpan Alekxêyêvits kéo giật xuống, mạnh đến nỗi đầu gối
ông ta gập lại.
- Tôi... Tôi muốn...
Viên sĩ quan vừa nắm lấy Xtêpan
Alekxêyêvits nhìn trừng trừng khắp khuôn mặt ông ta.
- Anh làm thế nào lọt được vào đây?
- Tôi chỉ muốn...
- Giấy thông hành đâu?
Viên sĩ quan vẫn tiếp tục lôi ông ta vào
trong đám đông, không buông ra. Đến một cửa ngang hắn hất hàm gọi hai người junker trẻ măng cầm súng đến:
- Bắt tên này, giải đến đồn của tư lệnh
thành...
* * *
“Ivan Ilyits rất mực kính mến, như sau đây
quý đồng chí sẽ có lòng nhã giám, chúng tôi đã kỳ khu rong ruỗi đến tận
Koxtrôma. Dọc đường tôi không dám xuống xe một chỗ nào, ngay thành Nijni
Nôvgôrôđ tôi cũng không dám coi là một nơi an toàn nếu xét những biến cố quân sự
có cơ xẩy ra. Xuống xe ở Koxtrôma, ở khu ngoại vi, bên sông Volga, trong một ngôi
nhà nhỏ có một cây hoa kalina và một cây thùy liễu. Thị trấn này rất rộng
thoáng, xây trên đồi như thành La-mã xưa kia, mà lại tĩnh mịch, hẻo lánh xiết
bao!... - nhưng chính đó là điều chúng tôi đang cần.
Đarya Đmitrievna đang bình phục dần, tuy có
chậm chạp. Cô ấy hãy còn yếu lắm, tôi cứ phải bế cô ấy từ trong giường ra sân
như bế trẻ. Theo tất cả những dấu hiệu có thể quan sát được, cô ấy rất thèm ăn,
tuy không nói ra được, nhưng mắt thì cứ ra hiệu: có gì ăn không nhỉ!... Ngoài
đôi mắt ra có lẽ cô ấy chẳng còn chút gì nữa: mặt thì bằng cái nắm tay, lại hay
khóc. Khóc là vì yếu quá, nước mắt cứ thế chảy ròng ròng trên má, Đarya
Đmitrievna mê sảng gần ba tuần, trong khi tàu ngược dòng sông Volga. Cơn mê sảng
của cô ấy, bất an và đau đớn, tâm hồn luôn luôn vật vã trong những hồi ảnh gì đấy
của quá khứ. Có điều đáng lấy làm lạ: đóng một vai trò khá quan trọng trong những
cơn mê sảng này là một cái kho tàng nào đấy, những viên kim cương nào đấy.
Trong khi mê sảng, Đarya Đmitrievna nói hai giọng khác nhau: một giọng thì lên
án, giọng kia thì thanh minh - nói cứ lí nhí, thổn thức khe khẽ. Lẽ ra tôi
không kể việc này ra làm gì, nếu không tình cờ phát hiện ra một điều phi thường.
Vốn đã ghi lòng tạc dạ lời dặn của quý đồng
chí là phải cho hai bệnh nhân thân yêu của chúng ta ăn uống tử tế, và tự đặt ra
cho mình cái bổn phận chủ yếu là phải thực hiện cho kỳ được lời dặn ấy, tôi đã
nhiều lần lâm vào tâm trạng ưu phiền và thậm chí hoảng sợ nữa. Thời buổi rất
khó khăn. Người ta bây giờ có hai hạng: người thì tư duy bằng những phạm trù lớn
lao, cảm xúc với quy mô toàn nhân loại chứ không chịu kém, kẻ thì chỉ lo cứu lấy
cái mạng mình một cách vô liêm sĩ đến cùng cực. Cả hai hạng người đều thiếu
lòng trắc ẩn bình thường: hạng người thứ nhất thì ta có thể làm cho say mê được,
hạng thứ hai thì ta có thể dọa nạt được, nhưng muốn làm cho họ động lòng trắc ẩn
trước những giọt lệ đói khát của ta mà cho ta mươi lạng bánh mì thì thường phải
thất vọng.
Những thứ vật dụng thừa, tất cả những gì mà
chúng tôi đã vớ theo, tôi đều đem đổi lấy bánh mì, trứng, cá hết. Đã mấy lần
tôi cứ muốn đem bán cái áo bành tô bằng dạ của Đarya Đmitrievna, cái áo cô ấy mặc
từ dạo mùa thu năm ngoái khi rời Xamara. Nhưng tôi đã cưỡng lại sự cám dỗ đó,
chủ yếu không phải vì lo xa là mùa thu đã chớm, mà là vì chiếc áo bành-tô này
luôn luôn có mặt trong cơn mê sảng của Đarya Đmitrievna như một kẻ buộc tội bí
hiểm mà tôi không thể nào hiểu được. Thế là tôi đành phải dùng đến mưu mẹo, tôi
quay ra lừa bịp những tâm hồn cả tin, và trộm cắp thực sự. Đến đây cái khoa xem
tướng tay đã lại cứu tôi. Hễ gặp trên bến tàu một chị nhà quê nào xách cái bị
là tôi bám riết lấy tán chuyện, vừa tán vừa tìm những chỗ yếu của chị ta. Và
bao giờ cũng tìm được: kinh nghiệm sống là một nhân tố tối quan trọng. Tôi chuyển
câu chuyện sang Ma vương phản Cơ đốc - hiện nay ở dọc sông Volga người ta nói về
cái anh Ma vương này rất nhiều, nhất là ở mạn trên Kazan. Muốn làm cho một chị
nhà quê khờ khạo phát sợ lên, có cần gì nhiều đâu? Chỉ cần chị ta tin, thế là một
nửa nội dung của cái bị kia đã là của tôi rồi...
Mới hôm qua, ngày chủ nhật, sáng sớm tôi xếp
dọn quần áo cho Đarya Đmitrievna. Ở Koxtrôma có lẽ tôi là người duy nhất có được
một cuộn chỉ lớn - một sự kiện khá quan trọng; thậm chí người ta còn kéo đến
chúng tôi như đi hành hương để xin sợi chỉ đính cái khuy hay vá cái áo... Không
chút ngượng ngùng, tôi bắt họ đem các thức ăn đến rồi tôi mới đổi cho. Tôi ngồi
trên thềm chăng cái áo bành-tô của Đarya Đmitrievna ra: chắc đồng chí còn nhớ,
bên trong áo lót bằng nỉ Tô-cách-lan kẻ ca-rô. Tôi nghĩ bụng, nếu tháo lần nỉ
lót này ra có thể may được một cái váy đẹp tuyệt trần đấy! Cái váy cũ của Đarya
Đmitrievna thì đã thủng lỗ chỗ như cái sàng rồi... Sẽ lót lại cáo áo bằng một
thứ vải xấu hơn. Ý nghĩ ấy cứ ám ảnh tôi, hỏi Anixya Kônxtantinôvna thì cô ấy
cũng khen phải. Tôi bèn bắt tay vào tháo lần nỉ lót; thế là rơi ra một mớ kim
cương loại quý, ba mươi bốn viên cả thảy... Thật là một giấc chiêm bao giữa ban
ngày! Ngay hôm ấy tôi đưa mấy viên kim cương cho Đarya Đmitrievna xem. Thế là
cô ấy chợt nhớ ra! Trong mắt cô ấy lộ vẻ hoảng sợ và van lơn, môi lắp bắp muốn
nói điều gì... Nhưng từ khi lâm bệnh cô ấy cấm khẩu... Tôi ghé sát tai vào đôi
môi nhợt nhạt của cô ấy, thế là cô ấy lắp bắp nói ra được hai tiếng - những tiếng
nói đầu tiên kể từ khi lâm bệnh: “Vứt đi! Vứt đi!...”. Ivan Ilyits ạ, không có
ý kiến của đồng chí, tôi không dám làm gì hết. Tôi không biết vì đâu Đarya
Đmitrievna có được chỗ kim cương ấy và tại sao cô ấy lại ghê tởm nó đến như vậy.
Tôi không biết nên xử trí ra sao: giữ ở nhà thì sợ lắm, mà vứt đi thì tôi cho
là không hợp lý. Tôi mới nói dối với Đarya Đmitrievna là tôi mượn thuyền chèo
ra giữa sông Volga và vứt kim cương xuống đấy. Cô ấy lập tức yên tâm, mắt sáng
lên, như thể mãi đến giờ cô ấy mới trút bỏ được một cái gì nhầy nhụa cứ dính
vào thân thể mình...
Ivan Ilyits ạ, tôi xin đồng chí thứ lỗi cho
tôi đã viết quá dài, nhưng tôi vốn là người ba hoa lắm lời. Đồng chí vui lòng
cho chúng tôi được biết tin về sức khỏe của đồng chí, và xin đồng chí cho biết
là chúng tôi nên ở đây qua mùa đông hay là về Moxkva?... Tôi vẫn là người hết
lòng tận tụy với đồng chí và Đarya Đmitrievna cho đến khi xuống mộ - Kuzma
Nêfêđôv...”
* * *
- Tôi lấy cả thư từ về đây này, - Xapôjkôv
vừa bước lên chiếc xe tarantax đan bằng
mây vừa nói, đoạn ngồi xuống lớp rạ bên cạnh Têlêghin, - Tôi xin có lời mừng cậu,
Ivan ạ.
- Buồn lắm, Xerghêy Xerghêyêvits ạ. Giá có
thể làm theo ý mình, tôi sẽ ở lại chỉ huy anh em ở trung đoàn ta. Phải tiếp xúc
với những người mới, những nỗi lo âu mới - việc đó không hợp với tôi chút nào.
- Sao cậu lại làm ra dáng ông cụ thế?
- Rồi cũng qua thôi, tôi hơi mệt...
Mấy con ngựa chạy nước kiệu dọc con đường
làng, chiếc xe lắc lư trên những ổ gà. Bên trái chạy dài một khu rừng sồi tối
tăm; bên phải, trên cánh đồng mới gặt, hiện lên mờ mờ trong bóng hoàng hôn những
bó rạ xếp thành hình chữ thập. Không khí phảng phất mùi rơm lúa mì. Những ngôi
sao tháng tám bắt đầu mọc rải rác trên nền trời.
- Ai sẽ là tham mưu trưởng ở đại đoàn cậu?
- Họ sẽ chỉ định một người nào đấy.
Con đường rẽ vào sát ven rừng. Từ đấy
thoang thoảng đưa ra một làn hơi ẩm ướt. Mấy con ngựa bắt đầu khịt mũi phì phò.
- Tôi không có thư từ gì sao? - Têlêghin hỏi.
- Ôi, xin lỗi, cậu có thư đây này.
Ivan Ilyits nãy giờ ngồi ủ rũ, mệt mỏi ngủ
gà ngủ gật, bỗng ngẩng phắt lên.
- Chà! Thế mà cậu lại quên! Thư đâu?
Xapôjkôv lục lọi hồi lâu trong túi dết. Họ
cho ngựa dừng lại, quẹt diêm. Mấy que diêm kêu xì xì rồi rụng đầu ngay.
Têlêghin cầm lấy bức thư - đó là thư của Kuzma Kuzmits - trăn đi trở lại trên mấy
ngón tay.
- Dày ghê, viết gì mà lắm thế không biết, -
Xapôjkôv nói thì thầm.
- Thế thì sao? - Têlêghin cũng thì thầm hỏi
lại. Điềm xấu à?
Chàng nhảy xuống xe và đi ra ven rừng vội
vã bẻ mấy cành khô, quẹt diêm nhóm lửa, thổi phù phù vào dúm củi.
- Lấy một bó rạ mà đốt thì bén ngay thôi.
Xapôjkôv ôm một bó rạ lúa mì chạy lại rồi bỏ đi. Rạ cháy bùng lên ngay.
Têlêghin ngồi xổm xuống đọc thư. Xapôjkôv thấy chàng đọc hết bức thư, giụi mắt
rồi đọc lại từ đầu. Như thế nghĩa là cơ sự đã rõ ràng. Xerghêy Xerghêyêvits khịt
mũi, leo lên xe và châm thuốc hút. Ông lão đánh xe, đang nóng lòng muốn về nhà,
nói:
- Không khéo nhỡ tàu mất, từ đây trở đi đường
toàn cát, lại còn phải dò chỗ lội qua sông nữa... Sẽ mất khối thì giờ.
Xapôjkôv tránh nhìn Têlêghin khi chàng trở
về xe, leo lên làm cho xe nghiêng hẳn về một bên và buông mình xuống lớp rạ. Mấy
con ngựa chạy nước kiệu. Trên đầu Xapôjkôv, cách ba triệu năm ánh sáng, dải
Ngân hà chạy dài thành một đường mờ mờ có những chỗ chẻ đôi ra. Cái bánh sau
không thẳng trục cứ đảo ngoằn ngoèo, kêu cót két. Nhưng ông lão đánh xe không để
ý đến: có gãy thì gãy bố mày đi, chẳng còn biết làm thế nào được...
Têlêghin nói, giọng như nghẹn ngào:
- Cô ấy có một sức mạnh tinh thần kỳ lạ.
Không một lúc nào không đấu tranh để tự đổi mới, làm cho mình trong sạch hơn,
hoàn thiện hơn... Tôi thật khâm phục...
- Nhưng vẫn còn sống đấy chứ?
- Thế cậu tưởng sao? Đang dưỡng bệnh ở
Koxtrôma...
Xerghêy Xerghêyêvits quay phắt lại, và cả
hai cùng cười phá lên. Xapôjkôv huých quả đấm vào sườn Têlêghin, Têlêghin cũng
huých quả đấm vào sườn Xapôjkôv. Rồi chàng kể tỉ mỉ cho bạn nghe nội dung bức
thư, chỉ bỏ qua câu chuyện mấy viên kim cương. Đó chính là những viên kim cương
mà mùa hè năm ngoái nàng đã từng nói trong bức thư viết cho cha nàng, trong khi
đang vật lộn giành lấy quyền sống và đồng thời lại tự hủy diệt bản thân. Có lẽ
chính trong thời gian đó, vào những ngày hoang mang bối rối, nàng đã khâu mấy
viên kim cương vào gấu áo bành tô. Và nàng chưa lần nào nhắc đến những viên kim
cương ấy với Ivan Ilyits. Chắc là nàng đã quên khuấy đi: tính nàng xưa nay vẫn
thế. Nàng đã quên đi, và chỉ trong cơn mê sảng nàng mới nhớ lại. Thế là nằng nặc
đòi “vứt đi, vứt đi” - cổ Ivan Ilyits nghẹn ngào vì một nỗi xúc động hân
hoan... Dĩ nhiên trong câu chuyện này còn có nhiều chỗ mờ ám, nhưng chàng không
bao giờ cố hiểu Đasa đến cùng.
- Tôi chỉ thấy có một điều rõ nhất, Xerghêy
Xerghêyêvits ạ, là được một người phụ nữ yêu, một người phụ nữ như Đasa chẳng hạn,
đó là một thành đạt lớn trong đời.
- Đúng, số cậu may thật đấy, xưa nay tôi vẫn
nói thế.
- Ôi, nhưng cứ phải luôn luôn cố vươn lên
cho ngang tầm, Xerghêy Xerghêyêvits ạ! Mà cũng có đôi khi người ta vấp ngã...
Chắc cậu cũng thế, cũng có khi vấp ngã chứ?
- Tôi thì lại khác hẳn...
- Chả nhẽ cậu lại không có hoài bão tìm được
một người phụ nữ như Đasa của tôi?
- Không hiểu sao phụ nữ chẳng có vai trò gì
trong đời tôi cả... Tôi xử lý những chuyện như thế một cách giản dị hơn nhiều...
Không lo sầu phiền phức...
- Lại thế nữa! Tôi biết cậu rồi... Xerghêy
Xerghêyêvits ạ, đời chúng mình đặt trên một bình diện rất cao: chiến thắng hay
là chết - tất cả chung quy là thế! Và chúng mình đang sống! Mà lại sống thực sự!
Trong quan hệ với phụ nữ, mọi chuyện vặt vãnh đều phải gạt ra... Tình yêu phải
được giữ gìn nâng niu. Lúc nào cũng phải thận trọng! Cậu đã có bao giờ thử nhìn
sâu vào đáy mắt người yêu chưa? Đó là phép mầu của cuộc sống...
Xerghêy Xerghêyêvits không đáp. Dần dần mũ
lưỡi trai của anh tụt hẳn ra sau gáy. Anh lại nhìn lên dải Ngân hà.
- Ở một nơi nào đó phía bên kia có một lỗ hổng
vũ trụ - anh nói - một khoảng đen ngòm, không có lấy một vì sao, đường viền
mang máng giống cái đầu ngựa... Nhìn vào ảnh chụp chỗ ấy rất khủng khiếp. Rồi
có lúc ta sẽ hiểu, một cách hoàn toàn đơn giản và hiển nhiên, rằng không gian
vô cùng vô tận không có gì đáng sợ. Mỗi nguyên tử trong thân thể của ta cũng đều
là một hệ tinh cầu vô cùng vô tận. Phía này hay phía kia đều là cõi vô cùng vô
tận cả. Và bản thân ta cũng vô cùng vô tận, và trong ta cái gì cũng vô cùng vô
tận hết. Cậu với tôi, chúng mình đang chiến đấu cho cái vô cùng chống lại cái hữu
tận...
Phía trước hiện ra những bóng cây đồ sộ,
nhưng đến gần mới biết đó chỉ là những bụi cây thấp lè tè mọc ở ven sông. Mùi
nước sông bốc lên, ẩm ướt. Chiếc xe tarantax
tụt xuống dốc. Mấy con ngựa chột dạ thở phì phò, giẫm lép bép trong dòng nước cạn.
- Chỉ sợ sỉa xuống hố, - ông lão nói.
Nhưng xe đã qua sông an toàn. Sang đến bờ
bên kia, ông lão nhảy xuống đất, nhanh nhẹn như thanh niên, chạy một bên xe, vừa
giật cương vừa quát ngựa. Cỗ ngựa kéo xe lên hết dốc rồi dừng lại thở hổn hển.
Ông lão lại lên xe. Từ đây đến ga chẳng còn bao xa nữa. Ông lão quay người lại
nói:
- Những
việc hắn ta làm rồi chẳng ăn thua gì đâu, chỉ tổ làm khổ dân vô ích. Ở làng tôi
họ nói thế này: dù sao chúng ta cũng không trả đất lại, không dùng sức mạnh mà ức
hiếp chúng ta được đâu, bây giờ không phải như năm mười sáu, dân mu-gích vững
vàng lắm rồi, chẳng sợ gì nữa. Ở Kolokôltxevka, - ông lão lấy roi ngựa chỉ vào
đêm tối. - có máy bay đến thả truyền đơn, đọc thì thấy là hắn ta đề nghị chuộc
lại ruộng đất. Đấy, bây giờ hắn đã đi đến nước ấy cơ đấy: hắn không còn mong gì
chúng tôi trả không ruộng đất cho bọn hắn nữa... Không sao chúng tôi sẽ đợi: hắn
đến như thế nào thì cũng sẽ đi như thế... Chao ôi, Đênikin, Đênikin!
* * *
Sáng hôm sau Têlêghin và Xapôjkôv đến bộ tham
mưu Mặt trận miền Nam ở Kozlôv, vương quốc của táo. Một thị trấn Nga điển hình!
Những ngôi nhà nho nhỏ mái đã phai bạc, mấy chậu hoa hải đường đặt trên những
khung cửa sổ hẹp, đám bụi cuốn theo chiếc xe ngựa thuê ọp ẹp chạy trên con đường
phố khum khum lát đá cuội giữa hai dãy cột dây thép vương mấy mảnh diều, ngôi
hàng bằng gạch có treo biển trước cái cửa đã bịt hẳn bằng hai tấm ván đóng chéo
chữ thập, đứa con gái đi chân đất sợ sệt chạy qua đường, lôi theo thằng em chạy
lặc lè trên đôi chân vòng kiềng, những mảnh tường vỡ của một ngôi nhà nguyện đổ
nát bên cạnh bể nước công cộng trên một quãng trường bẩn thỉu trước kia là bãi
chợ nhưng bây giờ bỏ trống không. Sau những dãy rào mục nát đã tháo mất một nửa,
những cành táo trĩu những quả đã chín đỏ hoặc còn giữ màu vàng phơn phớt xanh
như màu sáp ong. Trên các mái nhà và trên các mảnh vườn, một đàn sáo vui vẻ bay
vút lên cùng nhô mặt dưới của đôi cánh ra một lúc.
Ở đây người ta có cảm giác như cư dân sẽ cứ
sống mãi như thế này hàng nghìn năm nữa, ngoài lề thời gian, nếu không xẩy ra
cái biến cố phi thường kia: cách mạng. Vả chăng ở đây có mất mát gì cũng chẳng
ai tiếc: cuộc sống quá ư hèn mọn. Chỉ được cái ngủ nhiều.
- Cậu thử nghĩ mà xem, - Xapôjkôv nói, người
lắc lư bên cạnh Têlêghin trên chiếc xe thuê. - bên kia đại dương mỗi giây đều được tính thành
tiền, con người bị gò vào một cái máy ép quái gở để cho thích hợp với sản xuất.
Như trong cơn mê, từ các nhà máy của họ hàng hóa cứ tuôn ra như nước. Họ đã phải
giết mười triệu người để cho số hàng hóa ấy tiêu đi thật nhanh. Văn minh! Còn ở
đây thì mấy con diều giấy lủng lẳng trên dây thép... Kìa cậu xem, bên cửa sổ có
một ông ngái ngủ đang gãi cái trốc bờm xờm. Và chính xuất phát từ đây ta lao
vào cõi xa lạ - xây dựng ước mơ của loài người... Nước Nga-mẹ-hiền là thế đấy!
Sống vui lắm, Vanka ạ... Mùi táo thơm, gần như da thịt một cô con gái... Nếu được
sống đến lúc bấy giờ nhỉ! Có lẽ tôi sẽ viết một cuốn sách...
Chiếc xe thuê đưa họ đến bộ tham mưu của Mặt
trận. Từ tất cả các khung cửa sổ mở rộng đưa ra tiếng máy chữ rào rào.
Trong khi chờ được tiếp, Têlêghin và
Xapôjkôv tranh thủ tìm hiểu các tin tức chiến sự mới nhất. Tình hình đại thể
như sau: các lực lượng vũ trang của tổng tư lệnh Đênikin, sau một thời gian ngắn
bị chặn lại, tiếp tục tấn công về phía Moxkva thành ba đạo. Quân đoàn Bắc
Kavkaz của tướng Vranghel tiến dọc sông Volga, cắt trung bộ nước Nga ra khỏi những
vùng lúa mì (vào tháng bảy, Quân đoàn thứ Mười đã bứt được ra khỏi đạo quân
này, sau khi hy sinh Kamysin); thủ lĩnh Xiđorin với quân đoàn sông Đôn, đã được
thủ lĩnh mới của vùng này là Bôgaievxki - một tay sai của Đênikin - phục hồi lại,
gây sức ép về phía Vôrônej, đi đầu là hai lữ đoàn kỵ binh xung kích của
Mamontôv và Skurô; một viên tướng có tài nhưng lúc nào cũng say rượu, tiến công
thành một chiến tuyến rộng, đồng thời quét sạch các đơn vị hồng quân và các đội
du kích ra khỏi Ukrain, đồng thời hướng quả đấm sắt của nó - lữ đoàn cận vệ của
tướng Kutêpôv - vào Orel, Tula, Moxkva.
Những thắng lợi quân sự của Đênikin đã hiển
nhiên. Quân đội của y được vũ trang và tiếp tế rất đầy đủ; các trung đoàn tình
nguyện, tuy đã pha loãng rất nhiều vì bổ sung thêm những phần tử nông dân, vẫn
chiến đấu một cách tự tin và thành thạo. Nhưng ở hậu phương của y tình hình
nhân tâm mỗi ngày một thêm nguy hiểm (điều này Đênikin đánh giá thấp đến mức
tai hại): xứ Kuban muốn ly khai thành một vùng hoàn toàn độc lập, và để thiết lập
ở đây nền trật tự Đại Nga, Đênikin phải treo cổ hai ủy viên tai mắt nhất của hội
đồng Rađa xứ Kuban; ở vùng Têrek nổ ra những vụ xích mích đẫm máu; dân cô-dắc
sông Đôn, khi nghe tuyên bố mở cuộc tấn công lên Moxkva, đã nói: “Vùng sông Đôn
êm đềm xưa nay là của chúng ta và mãi mãi vẫn là của chúng ta, còn Moxkva thì
Đênikin cứ việc tự mình chiếm lấy”; vấn đề nông dân trong những khu vực bị quân
tình nguyện chiếm đóng được giải quyết một cách đơn giản theo lối nhà binh: bằng
que thông nòng, Đênikin lập lên những tỉnh trưởng, huyện trưởng và cảnh sát trưởng:
thế là nông dân lại cưa cụt nòng súng như năm ngoái hồi quân Đức chiếm đóng, và
chờ đợi hồng quân; Makhno, sau khi dùng mưu tự tay bắn chết kẻ kình địch chủ yếu
của hắn là thủ lĩnh Grigoriev, đã công khai tuyên bố thiết lập chế độ vô chính
phủ tự do trong khắp tỉnh Êkatêrinôxlav, chiêu tập khoảng năm vạn thổ phỉ và đe
dọa đánh chiếm Roxtôv, Taganrog, Êkatêrinôxlav, Ôđexxa trong tay Đênikin... Lại
thấy xuất hiện một loại phỉ đặc biệt gọi là quân Xanh, gồm những tên đào ngũ
hung hãn, và ở nơi nào có rừng núi là bọn chúng sẵn sàng thọc vào sườn Đênikin.
Hồng quân, sau những trận thất bại nặng nề của
hai quân đoàn thứ Mười và thứ Mười ba, và sau cuộc rút lui anh dũng của Quân
đoàn thứ Mười hai qua sông Đniextr và sông Bug, đã ổn định lại chiến tuyến.
Tinh thần quân đội được chấn chỉnh và khả năng chiến đấu được nâng cao, chủ yếu
là nhờ có hàng loạt chiến sĩ cộng sản từ Pêtrôgrad, Moxkva, Ivanôv và các thành
phố khác ở miền Bắc đến bổ sung. Các đơn vị đang chờ đợi từng ngày một lệnh phản
công của tổng tư lệnh.
Làm xong thủ tục nhận nhiệm vụ mới - Têlêghin
lên chỉ huy một đại đoàn độc lập, Xapôjkôv lên làm trung đoàn trưởng trung đoàn
Katsalinski - ngay hôm ấy hai người lên đường trở về. Suốt dọc đường họ bàn luận
về những tin tức mới nhận được; cả hai đều nhất trí nhận định rằng cái kế hoạch
đồ sộ của Đênikin treo lơ lửng giữa khoảng trống, và những việc mà năm ngoái y
đã làm được ở Kuban không thể lặp lại lần thứ hai ở Đại Nga được: ở Kuban y đã
đánh bại được Xôrôkin, còn ở đây sẽ phải đương đầu với chính Lênin, với giai cấp
vô sản cha truyền con nối, mà dân mu-gích ở đây cũng sừng sỏ hơn: họ đã từng xóc
Napôlêông trên nạng chĩa.
* * *
- Quân kỳ lên phía trước, tháo vỏ ra!
Người chiến sĩ cầm cờ, có Latughin và
Gaghin đứng kèm hai bên, bước lên một bước. Hôm nay Têlêghin giao lại trung
đoàn cho người chỉ huy mới, Xerghêy Xerghêyêvitsy Xapôjkôv. Gương mặt chàng
nghiêm trang, đăm chiêu tư lự, và nước da rám nắng của chàng cũng không đỏ ửng
lên như ngày thường. Tay chàng cầm một tờ giấy nhỏ, trên đó chàng đã phác qua
những lời sẽ nói trước hàng quân.
- Các chiến sĩ Katsalinski! - chàng nói, mắt
nhìn vào các chiến sĩ đang cầm súng đứng nghiêm trước mặt: chàng biết rõ từng
người một, ai bị thương ở đâu, ai có những mối ưu phiền gì, chàng đều biết hết,
đó là những người thân thuộc, những anh em ruột thịt của chàng. - Các đồng chí
với tôi, chúng ta đã cùng hành quân qua mấy nghìn dặm, giữa băng giá mùa đông
và dưới ánh nắng mùa hạ... Ở Txaritxyn các đồng chí đã hai lần chiến thắng vẻ
vang... Những khi phải rút lui - cũng chẳng phải tại lỗi của mình - các đồng
chí đều bắt quân thù trả giá rất đắt những thắng lợi bấp bênh và nhất thời của
chúng. Các đồng chí đã lập nhiều chiến công oanh liệt, tuy chưa ai viết những lời
tường thuật khoa trương về những chiến công ấy, và những bản báo cáo của chúng
ta đều lút ngập đi trong những bản thông cáo chiến sự chung... Nhưng như thế
cũng chẳng sao... (Têlêghin liếc xuống tờ giấy nhỏ cầm trong lòng bàn tay khum
khum). Tôi xin nói trước để các đồng chí biết: trước mắt còn nhiều gian lao,
quân thù chưa bị đánh ngã, mà có đánh ngã rồi cũng chưa đủ, cần phải tiêu diệt
hẳn chúng đi... Trong cuộc chiến tranh này, ta phải chiến thắng, ta không thể
không chiến thắng được. Ở đây con người đang đấu với con thú: kẻ chiến thắng phải
là con người... Hay cũng có thể nói ví dụ như thế này: một hạt lúa nảy mầm, mầm
tuy non yếu, nhưng vẫn đâm qua đất đen, qua đá mà mọc lên. Trong cái mầm đang
nhú lên đó có tất cả sức mạnh của cuộc sống mới: nó sẽ lớn lên và không có gì
ngăn chặn được nó... Trong một buổi sáng sớm u ám tối tăm, chúng ta lên đường
chiến đấu để giành lấy ánh ban ngày xán lạn, còn kẻ thù của ta lại muốn trở về
với đêm tối của phường trộm cướp. Nhưng ngày nhất định sẽ tới, bất chấp tiếng
nghiến răng hằn học của chúng. (Chàng lại lo lắng nhìn xuống tờ giấy, rồi vò
nát nó đi). Các đồng chí ạ, tôi xin thú thật là tôi chẳng thấy vui chút nào, xa
các đồng chí, tôi rất khổ tâm... Suốt một năm trời cùng ngồi với nhau bên những
đống lửa trại hành quân tuyệt nhiên chẳng phải là vô nghĩa. Tôi xin từ biệt các
đồng chí, từ biệt lá quân kỳ của các đồng chí. Tôi mong muốn và đòi hỏi rằng lá
cờ này sẽ không ngừng dẫn dắt trung đoàn Katsalinski vinh quang đến thắng lợi.
Ivan Ilyits bỏ mũ, đến trước lá cờ, cầm một
góc tấm vải đã bạc màu, thủng lỗ chỗ lên môi hôn. Đoạn chàng đội mũ lên, giơ
tay chào, nhắm mắt lại, chặt đến nỗi nhăn cả mặt.
Sau bữa tiệc tiễn đưa do Xapôjkôv và các đồng
chí chỉ huy trong trung đoàn tổ chức thết chàng. Ivan Ilyits hơi choáng váng.
Ngồi trên chiếc xe đan mây, cái túi đựng đồ dùng ôm bên nách (trong đó có cả
con mèo và con chó bằng sứ của Đasa) chàng ngạc nhiên hồi tưởng lại những lời lẽ
nhiệt thành đã nói xung quanh bàn tiệc. Tưởng không thể nào yêu quý nhau một
cách tha thiết hơn thế nữa. Họ ôm lấy nhau, hôn nhau, bắt tay nhau rõ chặt. Ôi,
thật là những con người tốt lành, trung thực, tận tụy! Mấy anh chỉ huy trẻ tuổi
đã đứng bật dậy hát một bài ca ngợi cách mạng toàn thế giới - lời ca rất giản dị,
thậm chí hơi sáo nữa, nhưng họ hát rất quả quyết, chân thành. Một anh tiểu đoàn
trưởng hiền lành ít nói bỗng dưng muốn leo lên bàn, và cuối cùng anh ta leo lên
thật, nhảy một điệu trêpak điên cuồng
giữa những đống xương ngỗng đã gặm cụt và những miếng vỏ dưa hấu. Nhớ đến cảnh ấy,
Ivan Ilyits cười ha hả.
Chiếc xe nhỏ dừng lại ở cuối làng. Ba người
đi tới: Latughin, Gaghin và Zađuyviter. Chào nhau xong, Latughin nói:
- Ivan Ilyits ạ, chúng tôi cứ tưởng anh sẽ
không quên chúng tôi, nhưng rốt cục anh vẫn quên như thường.
- Phải, chúng tôi đã mong anh - Gaghin xác
nhận.
- Khoan đã, khoan đã các cậu ạ, các cậu muốn
nói đến việc gì?
- Chúng tôi đợi anh đấy. - Latughin ghếch
chân lên bánh xe nói. - Dù sao cũng đã sống với nhau một năm trời, vui buồn đều
chia sẻ với nhau... nhưng thôi, nếu cái đó đối với anh cũng chẳng có nghĩa lý
gì thì thôi, từ biệt vậy - giọng anh ta run run vì căm giận.
- Khoan đã, khoan đã - Têlêghin xuống xe.
Zađuyviter nói:
- Chúng tôi là cái thá gì ở đây, trong bộ
binh? - chỉ là những người lạ! Chẳng lẽ chúng tôi cứ phải lê chân trên bụi đường
thế này mãi sao?
- Chúng tôi là pháo binh hải quân, anh cứ
thử tìm đâu ra được những người như thế xem! - Gaghin nói, mắt sáng quắc lên.
- Khi đổ bộ lên Nijni, chúng tôi có mười
hai anh em cả thảy. - Latughin nói - Nay chỉ còn có ba, anh nữa là bốn... Anh
ngồi lên xe ngựa, thế là thôi, xin chào... Còn chúng tôi có phải là người đâu,
chúng tôi chỉ là những thằng Ivan, những cái áo ca-pốt xám xịt... Chúng tôi đến
cũng như không, chúng tôi đi cũng như không. Nhưng thôi, anh say thế kia thì
còn nói chuyện làm gì!
Zađuyviter nói:
- Ivan Ilyits ạ, bây giờ anh chỉ huy đại
đoàn rồi, có cả trọng pháo trong tay...
- Thôi cậu dẹp mấy khẩu pháo chết tiệt của
cậu đi. - Latughin quát - Tôi sẽ đi quét chuồng xí cũng được, nếu cần! Tôi chỉ
buồn vì mất một người bạn. Tôi đã tin anh, Ivan Ilyits, tôi đã đem lòng quý mến
anh. Anh có biết đem lòng quý mến một con người là thế nào không? Nhưng té ra đối
với anh tôi chỉ là thằng thứ năm đứng bên sườn phải. Thôi, nói thế là đủ... Dọc
đường anh sẽ hiểu nốt phần còn lại...
- Các cậu ơi! - Mấy câu nói vừa qua đã làm
cho Ivan Ilyits tỉnh hẳn rượu. - Các cậu buộc tội cho tôi sớm quá. Chính tôi đã
trù tính là hễ lên đến đại đoàn bộ, tôi sẽ ra lệnh chuyển cả ba cậu về đơn vị
pháo binh.
- Thế thì còn gì bằng! - Zađuyviter nói, mặt
rạng rỡ hẳn lên. Nhưng Latughin giận dữ giẫm gót ủng rách xuống đất nói:
- Nói dối! Vừa mới nghĩ ra đấy mà. - Đoạn
anh nói thêm, giọng đã dịu hơn, tuy vừa nói vừa giơ ngón tay bẻ gập lên dọa
Têlêghin: - Biết hối hận chưa đủ đâu, đồng chí ạ, chỉ thế thôi thì chẳng tiến
xa được đâu. Tuy nhiên, dù chỉ thế thôi cũng xin cảm ơn đồng chí.
Têlêghin vỗ lưng Latughin cười lớn:
- Chà cái cậu này nóng gớm! Cậu lại bất
công nữa...
- Nói chuyện công bằng với tôi làm gì. Tôi
chẳng có ý muốn lừa ai cả. Sở dĩ có thể tha thứ cho anh cũng chỉ vì anh chất
phác thật thà. Các cô yêu anh cũng vì thế đấy. Thôi được rồi, đừng giận nhé,
lên xe đi. - Rồi bỗng nắm chặt lấy khuỷu tay Têlêghin, anh nói tiếp: - Anh có
biết người ta đón lấy mũi dao chết thay cho bạn như thế nào không? Chưa lần nào
phải thế à? - Đôi mắt sáng, cách xa nhau của Latughin ánh lên lạnh lùng đưa qua
đưa lại nhìn vào mặt, vào hai mắt Têlêghin. - Vừa rồi anh nói dối phải không?
Đúng không nào?
Ivan Ilyits cau mày gật đầu:
- Ừ, vừa rồi tôi nói dối. Còn các cậu nhắc
nhở tôi như thế là rất đúng, rất tốt. Các cậu đã dạy cho tôi biết cách ăn ở
hơn...
- Bây giờ anh nói nghe được rồi đấy...
- Thôi buông anh ấy ra, sao cậu cứ bám riết
lấy thế... Lại dở cái giọng “chúa tể thiên nhiên” ra đấy chắc, - Gaghin nói ồm ồm.
Không nói gì thêm, Têlêghin bắt tay từ biệt
họ, ngồi lên xe, và dọc đường vẫn còn lắc đầu cười khe khẽ một mình mãi.
Từ đây lên bộ tham mưu đại đoàn độc lập, nếu
đi máy bay thì mất một tiếng đồng hồ, đi ngựa thì phải hơn hai mươi bốn tiếng.
Ivan Ilyits ngồi xe lửa mất bốn ngày bốn đêm, luôn luôn phải chuyển tàu và ngồi
đợi đến mụ cả người ở những nhà ga bẩn thỉu, xơ xác. Cái toa tiếp khách đặc biệt
mà người ta đã hứa chắc là sẽ dành riêng cho chàng dĩ nhiên là không làm gì có,
cho nên đoạn đường cuối cùng chàng phải leo lên một toa hàng chở vôi hết một nửa:
chẳng biết chở cho ai và để làm gì trong một thời buổi như thế này. Ngoài ra
trên toa còn có một hành khách trải chiếu ngồi, mặt béo phị trông như cái hũ,
đeo kính cặp mũi. Hắn ta cứ luôn mồm hát ư ử một đoạn ca kịch của Offenbăc: “Giăm-bông
Tuluz, ôi món giăm-bông... Không có rượu vang, món giăm-bông này có ra gì...”.
Rồi đến khi trời sẩm tối, hắn ta bắt đầu loay hoay với mấy cái túi vải, sắp sắp
xếp xếp những gì ở bên trong, lấy mấy thứ ra ngửi ngửi rồi lại đút vào.
Ivan Ilyits, lúc bấy giờ đã mệt lử, lại đói
nữa, bắt đầu phân biệt được rất rõ mấy mùi thức ăn khác nhau. Rồi đến khi cái
thằng cha khốn kiếp ấy quay ra đập canh cách một quả trứng luộc, bóc vỏ rồi vừa
ăn vừa thở phì phò, Ivan Ilyits không chịu được nữa:
- Này, anh kia, sắp đến ga rồi đấy, hễ tàu
đỗ là anh phải mang mấy cái bị của anh xéo ngay khỏi chỗ này.
Trong bóng tối, người kia thôi nhai ngay và
ngồi im không nhúc nhích. Một phút sau Ivan Ilyits chợt ngửi thấy mùi xúc xích
rất nồng ở ngay sát mũi mình, bèn giận dữ ẩy bàn tay vô hình đang chìa xúc xích
ra.
- Đồng chí hiểu lầm tôi rồi, đồng chí bộ đội
ạ, - người kia cất giọng tenor nói dịu dàng, chẳng qua tôi muốn mời đồng chí cạn
chén và nhắm đôi chút với tôi. Hà! - hắn thở dài một tiếng, và khứu giác của
Têlêghin lại cảm thấy miếng xúc xích nhích gần tới. - Ở ta bây giờ chỉ toàn những
nguyên tắc với nguyên lý! Phỏng trong một miếng xúc xích Tiểu Nga có một nguyên
lý gì đặc biệt không? - chỉ có tỏi và mỡ mà thôi. Có rượu mạnh đây, cũng đủ mỗi
người một hớp.
Hắn im lặng chờ đợi, Têlêghin cũng im lặng.
- Chắc đồng chí tưởng tôi là một thằng đầu
cơ hay buôn lậu gì đấy chứ gì?... Xin lỗi, tôi là một nghệ sĩ. Có lẽ tôi chưa
phải là Katsalôv, là Yurev, là Mamônt-Đalxki - lạy Chúa cho cái linh hồn đen tối
của hắn ta được bằng an. Đây mới thật là một nhà bi kịch vĩ đại! Cái thằng súc
sinh ấy nó tưởng tượng mình là lãnh tụ của phái vô chính phủ trên toàn thế giới,
hắn lại đâm ham cái món cướp phá các biệt thự Moxkva; còn đánh bài với hắn thì
chỉ có chết... Tôi đây, tiện danh là Baskin-Đadorxki, một cái tên không đến nỗi
không được ai biết đến ở các tỉnh, thường có mặt trên các áp-phích... - Chắc hắn
ta yên trí là Têlêghin sẽ thốt lên: “À! Ra ông là Baskin-Đadorxki đấy à, tôi
còn lạ gì, rất hân hạnh...”. Nhưng Têlêghin vẫn lặng thinh. - Tôi đã biểu diễn
hai mùa ở Moxkva: ở rạp Ermitaj và rạp Kors... Vlađimir Ivanôvit
Nêmêrôvits-Đantsenkô đã bắt đầu lượn vòng quanh tôi. Tôi trả lời: “Ồ, không
đâu, Valđimir Ivanôvits ạ, ông để cho tôi biểu diễn thỏa thích đã, rồi hẵng lấy
tôi về”. Năm một nghìn chín trăm mười tám chúng tôi dựng “Cái chết của Đăngtông”
ở nhà hát Kors, tôi đóng Đăngtông... Một con sư tử đang gầm, một nhà hùng biện
của thứ dân, một đôi môi dẩu ra, một con bò tót, một con thú, một thiên tài, một
tay ăn khỏe như sói, một con người hiếu sắc... Tuyệt! Thành công thật là rực rỡ!
Trong khi đó củi không có, Moxkva tối om, chẳng thu được đồng nào, đoàn kịch mỗi
người chạy một ngả. Chúng tôi còn lại năm người, cứ thế kéo nhau đi diễn ở các
tỉnh, quấy quá thế nào cho xong thì thôi, cũng vẫn cái vở “Cái chết của
Đăngtông” ấy. Ở Moxkva, ông ủy viên giáo dục Lunatsarxki còn cấm, chứ ở các tỉnh
thì tha hồ: ở màn cuối chúng tôi đưa lên sân khấu một cái máy chém, tôi chui đầu
vào, thế là ph-phập!... Chao ôi, tiền thu hàng đống: Đồng chí không tin chứ
công chúng họ cứ reo: “Làm lại đi! Chém lại lần nữa!...”. Chúng tôi đi diễn ở
Kharkôv, Kiev - ấy là hồi còn hồng quân ở đấy, - sau đó là Uman, diễn trong một
trại cứu hỏa, rồi Nikolaiev, Kherxôn, Êkatêrinoxlav. Quỷ đưa đường chúng tôi đến
Roxtôv-na-Đônu. Chúng tôi diễn xong, khán giả hoan hô như sấm. Thậm chí một sĩ
quan ngồi trong lô còn bắn vào Rôbexpier nữa. Ngày hôm sau ông thị trưởng gọi
tôi tới và tống một quả đấm vào mặt tôi theo kiểu chế độ cũ: “Các anh hãy cầu
nguyện cho quan tổng tư lệnh Đênikin: không có ngài thì tôi đã treo cổ các anh
lên rồi... Cút ngay ra khỏi Roxtôv...”. Phải, bây giờ làm nghệ thuật gay lắm.
Chúng tôi cứ đi khắp các hang cùng ngõ hẽm như phường Tzigan. Phông màn rách hỏng
hết, dựng lên mà xấu hổ... Ở Kozlôv người ta không cho chúng tôi bốc cái máy
chém lên toa xe lửa, vì lý do đó là một vật không rõ công dụng... Thôi vậy! Sẽ
chém đầu tôi bằng rìu cũng xong! Đồng chí có diêm không? Tiếc nhỉ: giá có diêm
tôi sẽ cho đồng chí xem cái đầu của tôi ở trong cái bị này. Do người làm diễn cụ
của Nhà hát Maly ở Moxkva chế tạo - một thiên tài... Rồi cái chế độ kiểm duyệt
kia nữa! Anh đem vở đến, đồng chí kiểm duyệt đọc qua đọc lại một hồi... Anh
phân trần: đây là một sự kiện lịch sử... Đồng chí lại liếm ngón tay dở từng
trang... “Ở đây có thấy chứng nhận rằng đó là sự kiện lịch sử đâu nào?”. Anh
đưa ra bài phê bình nồng nhiệt của Lunalsarxki... Đồng chí ta cũng đọc... “Thế
các anh không thể phản ánh cái gì vui hơn một chút à?”. Đồng chí ấy, cứ thế mà
cào móng tay lên dây thần kinh của tôi... Không biết bây giờ rồi chúng tôi sẽ
ra sao đây... Chúng tôi đi Enxk diễn đây, đến bộ tham mưu đại đoàn độc lập.
Têlêghin trả lời - một điều rất đột ngột đối
với anh chàng nghệ sĩ:
- Thế đoàn kịch các anh đâu?
- Ngồi bên kia, bên toa chở phông màn ấy.
Rôbexpier thì ngồi trên đầu máy. Đó là nghệ sĩ Tinxki, chắc đồng chí có nghe
nói, đó là vai Rôbexpier ưu tú nhất trong nước cộng hòa... Đồng chí có thể yên
tâm: đi đâu hắn ta cũng tìm ra rượu, dù ở sâu dưới đất hắn cũng chui xuống lôi
lên - một thiên tài! Hắn ngồi ngay lên đầu máy, thế là chúng tôi đi yên ổn. Thế
nào, đồng chí bộ đội, ta nhắm tí chứ? xin đồng chí đừng từ chối.
- Vâng, cũng được.
- Thế thì còn gì bằng. - Baskin-Đadorxki lục
lọi lấy trong cái túi, thở hì hục và nói lẩm bẩm: “Đâu rồi nhỉ, mình nhét ở đâu
thế không biết?”. Hắn ta giúi vào tay Têlêghin một quả trứng, một mẩu xúc xích,
một cái bánh khô. - Diễn ở Enxk xong là chúng tôi đi Moxkva... Xin đủ, đi lang
thang mãi rồi! Ở phố Nêghinny nhà số năm trong sân sau có một lão người Armêni mở
một hiệu điểm tâm - thiên tài! Xúc xích, pa-tê-sô, muốn gì cũng có. Công an
ngày nào cũng soát nhà. Tại sao? - số là người nào ở đấy ra cũng sực mùi rượu. Soát mãi
mà chẳng thấy rượu đâu, và sẽ không bao giờ thấy... Lão ta có một thùng rượu ở
gác xép tầng bốn thông với một ống nước bỏ không. Ở nhà dưới, trong tiệm điểm
tâm có một cái lavabô và một cái vòi nước thông thường. Mở vòi ra, rót đầy cốc,
thế là cứ như ở nhà.
Nhai ngon lành miếng xúc xích và thấy lòng
dịu hẳn đi sau hớp rượu mạnh, Têlêghin nói:
- Tôi sẽ cố gắng tạo cho các anh mọi điều
kiện thuận tiện, các anh cứ nghỉ ngơi, tập tành cẩn thận, chẳng đi đâu mà vội,
- và hãy cho chúng tôi xem một buổi biểu diễn thật hay. Ở Enxk, các anh sẽ là
khách của tôi, tôi là đại đoàn trưởng...
- Ú-ù-ù, - Baskin-Đadorxki kêu lên một tiếng
kéo dài - thế mà tôi không biết... Suốt nãy giờ tôi cứ nhìn đồng chí, tự nhủ:
ôi chao, cái chết của mình đây rồi! Đồng chí làm tôi sợ hết hồn! Tôi cứ nói
huyên thiên, vừa nói vừa lấy làm lạ, không hiểu tại sao mình vẫn chưa bị ném xuống
đường tàu... Ông bạn quý mến ạ, chúng tôi sẽ diễn cho các bạn xem, sẽ đem hết
lòng hết dạ ra mà diễn, diễn cho mình, theo lối con nhà diễn viên.
Têlêghin xách túi đồ đạc bước xuống sân ga.
Ngọn đèn dầu hỏa đã vỡ kính hắt ánh sáng mờ mờ xuống mấy người mặc quân phục
đang đứng trước ga.
- Chào các đồng chí, - Ivan Ilyits đi về
phía họ, nói. - Các đồng chí ra đón đại đoàn trưởng phải không? Thế thì tôi
đây, Têlêghin đây. Xin lỗi nhé, tôi ăn mặc thế này, các đồng chí bỏ qua cho...
Trong khi bắt tay họ, chàng ngạc nhiên đưa
mắt nhìn một người trong bọn, tóc hoa râm, vóc người tầm thước, mảnh dẻ khô
khan, nghiêm nghị, phong thái rất chững chạc... Khi họ đi qua nhà ga ra cái quảng
trường tối om, chàng ngoái cổ lại nhìn người ấy một lần nữa, nhưng vẫn không
trông rõ mặt. Họ đưa Têlêghin lên một chiếc xe ngựa, và chiếc xe đưa chàng đi
qua một cánh đồng rất rộng tối mịt mùng, phảng phất mùi rạ ải. Đến một ngôi nhà
dài, trông giống như một cái kho có mái cao, xe dừng lại. Ở đây, đã dọn sẵn cho
Ivan Ilyits một căn phòng mới quét vôi, chưa bày biện gì cả. Trên bậu cửa sổ đặt
một ngọn đèn nến, bên cạnh là hai cái đĩa úp lên nhau, đựng thức ăn dành cho
chàng. Chàng ném cái túi xuống nền nhà, cởi áo ngoài ra, vươn vai, rồi ngồi lên
chiếc giường con trải khăn sạch sẽ, bắt đầu rút đôi ủng dính đầy vôi bột.
Có ai gõ cửa khe khẽ. “Ban nãy thổi quách nến
đi có hơn không. Bây giờ lại phải nói chuyện, khỉ thật, quá bốn giờ sáng rồi
còn gì...” - chàng bực mình nghĩ bụng, rồi trả lời:
- Vâng, mời vào.
Chính người quân nhân ban nãy nhanh nhẹn bước
vào, vóc người tầm thước, mái tóc hoa râm. Người ấy đóng cửa lại, và bằng một động
tác ngắn gọn, đưa bàn tay rất thẳng lên thái dương chào Têlêghin. Têlêghin giẫm
gót chân lên chiếc ủng đã rút được nửa, ngừng tay lại, sửng sốt nhìn đăm đăm
vào con người thứ hai ấy...
- Xin lỗi đồng chí, - chàng nói - ban nãy
ngoài sân ga tôi vụng về quá, nhưng vì tôi đã quyết định hoãn việc giới thiệu
nhau và công việc nói chung đến sáng mai... Nếu tôi không lầm thì đồng chí là
tham mưu trưởng của tôi?
Người kia vẫn đứng ở cửa trả lời gọn:
- Đúng...
- Xin lỗi, tên họ đồng chí là gì?
- Rôstsin, Vađim Pêtrôvits.
Têlêghin bắt đầu thảng thốt nhìn quanh.
Chàng mở miệng hớp hớp, mấy lần nuốt không khí.
- À... Ra thế... - Mặt chàng run run, chàng
nói tiếp, lần nầy thì thầm rất khẽ - Vađim đấy à?
- Vâng.
- Tôi hiểu, tôi hiểu... Rất kỳ lạ. Anh lại ở
đây, là tham mưu trưởng của tôi... Lạy Chúa!
Rôstsin nói, giọng vẫn rắn rỏi, khô khan
như cũ:
- Ivan ạ, tôi đã quyết định nói chuyện với
cậu ngay bây giờ, để đến mai cậu khỏi lâm vào một tình thế khó xử.
- À vâng... Nói chuyện...
Ivan Ilyits hối hả kéo ống chiếc ủng đang cởi
dở lên, đứng dậy lấy áo ngoài mặc vào. Vađim Pêtrôvits, đầu hơi cúi xuống, theo
dõi từng cử động của chàng như đang quan sát một cách khách quan, không sốt ruột,
không xúc động.
- Vađim ạ, tôi sợ chúng mình sẽ có chỗ
không hiểu nhau.
- Hiểu chứ...
- Anh là một người thông minh, đúng,
đúng... Tôi chân thành quý mến anh, Vađim ạ... Tôi vẫn nhớ cuộc gặp gỡ ở nhà ga
Rôxtôv hồi năm ngoái... Anh đã tỏ ra rất đại lượng... Tâm hồn anh bao giờ cũng
hăng say, nồng nhiệt... Ôi, trời ơi, trời ơi...
Chàng thít chặt thắt lưng lại, vân vê mấy
cái khuy, lục lọi trong túi áo túi quần, không biết vì đang bối rối đến cùng cực,
hay vì muốn tìm cách trì hoãn cuộc nói chuyện khổ tâm lại...
- Chắc anh trông đợi là bây giờ hoàn cảnh
đã đảo ngược vị trí của chúng ta lại, thì đến lượt tôi, tôi cũng phải tỏ rõ một
tình cảm lớn lao... Có, đối với anh, trong lòng tôi vẫn nuôi một tình cảm rất lớn
lao... Chúng ta gắn bó với nhau mật thiết hơn bất cứ đôi bạn nào trên đời
này... Thế đấy... Vađim, anh làm gì ở đây? Tại sao anh lại ở đây, với mục đích
gì? Anh nói đi...
- Tôi đến đây chính là để nói cho cậu rõ đấy,
Ivan ạ...
- Tốt lắm... Nếu anh trông mong rằng tôi có
thể che giấu một điều gì... Anh là người thông minh, vậy ta cứ nói thẳng với
nhau ngay từ đầu: tôi không thể làm gì cho anh được hết... Ở đây chúng ta sẽ bất
đồng với nhau từ căn bản... - Têlêghin cau mày, tránh nhìn Rôstsin. Rôstsin lắng
nghe chàng nói và mỉm cười. - Cái tin đồn anh chết nữa chắc cũng nằm trong mưu
đồ ấy... Anh kể đi, nhưng tôi xin nói trước là tôi sẽ bắt anh... Trời ơi, làm
sao lại thế này...
Têlêghin tuyệt vọng khoát tay: chàng đành
cho đi tong hết, cả Rôstsin, cả bản thân chàng, cả cuộc đời chàng từ nay tan vỡ.
Vađim Pêtrôvits bước nhanh lại, ôm lấy chàng và hôn thật mạnh lên môi chàng.
- Ivan, cậu tốt vô cùng... Tâm hồn cậu chất
phác thật thà quá... Tôi rất mừng được thấy cậu vẫn thế... Tôi yêu cậu quá. Ta
ngồi xuống đi. - Và chàng kéo Têlêghin lại giường. Têlêghin cưỡng lại. - Kìa cậu
đừng thế nữa. tôi không phải là gián điệp đâu, không phải là mật vụ đâu... Cậu
yên tâm: từ tháng chạp tôi đã gia nhập Hồng quân.
Ivan Ilyits, vẫn chưa hoàn hồn hẳn sau cái
quyết định của mình, một quyết định đã làm cho chàng rung chuyển đến tận tâm
can, vẫn còn ngờ vực nhưng đồng thời cũng đã bắt đầu tin, nhìn chăm chăm vào
gương mặt đen xạm, rắn rỏi mà hiền dịu của Vađim Pêtrôvits, vào đôi mắt đen
thông minh, cương nghị của chàng. Hai người ngồi xuống giường, không buông tay
nhau ra. Vađim Pêtrôvits bắt đầu kể lại tất cả những gì đã đưa chàng về phía
bên này chiến tuyến, về nhà, về với tổ quốc.
Ngay từ đầu câu chuyện, Têlêghin đã ngắt lời
chàng:
- Thế còn Katya ở đâu? Có còn sống không,
có khỏe không, hiện nay ở đâu?
- Tôi hy vọng rằng Katya bây giờ ở
Moxkva... Tôi lại vừa để lỡ mất: tôi đến Kiev quá muộn, ngay trước khi thành phố
tản cư đi hết... Nhưng tôi đã tìm được dấu vết của Katya...
- Nhưng chị ấy có biết là anh còn sống và ở
trong quân đội của ta không?
- Không... Tôi đến phát điên lên vì điều
này.
19
Hai tháng trôi qua.
Hồng quân không chặn đứng được cuộc tấn
công của các quân đoàn dưới quyền tướng Đênikin. Kolsak, nhà cầm quyền tối cao
của nước Nga, đánh vào vùng Ural trong một cố gắng tuyệt vọng cuối cùng. Ở vùng
duyên hải Baltic những tai ương thảm họa cứ chồng chất lên đầu Quân đoàn thứ Bảy
của hồng quân, đang rút lui trong bùn lầy trước các lực lượng của tướng
Yuđênits, để mất Pxkôv, Luga, Gatsina. Yuđênits đã ra lệnh cho quân đội: “Thọc
thẳng vào Pêtrôgrađ”.
Nước cộng hòa Xô-viết đã bị cắt hẳn ra khỏi
nguồn lúa mì và nhiên liệu. Những phương tiện giao thông chỉ tạm đủ cho việc
chuyên chở quân đội và đạn dược. Bầu trời tháng mười khóc sướt mướt trên đất
Nga, trên những thành phố đói khát và ủ dột, trong đó cuộc sống cứ thoi thóp
trong khi chờ đợi một mùa đông vô hy vọng hơn nữa, trên những ống khói nhà máy
không bốc khói và những công xưởng vắng tanh vì công nhân đã ra các mặt trận hết,
trên những bãi nghĩa địa đầu máy và toa hỏng, trên cảnh tĩnh mịch cổ kính của
những làng mạc lợp rạ chẳng còn được mấy người đàn ông; ở đấy, giống như thời
các tổ phụ, cây đóm nhựa lại được thắp lên và những khung cửi tự làm lấy đã bắt
đầu cất tiếng kẽo kẹt hòa với tiếng thoi đưa lách cách.
Trong cái tiết mưa gió sụt sùi này tướng
Mamôntôv lại chọc thủng mặt trận của Hồng quân một lần thứ hai, phá phách hậu
phương và cắt đứt tất cả các đường giao thông, rồi đưa một lữ đoàn cô-dắc thọc
sâu vào nội địa.
Têlêghin, Rôstsin và chính ủy Tsexnôkôv
đang ngồi quanh một tấm bản đồ sờn rách, có nhiều chỗ dán lại bằng nước miếng.
Chính ủy Tsexnôkôv là người mới được cử về đây thay cho viên chính ủy cũ của đại
đoàn đang mắc bệnh sốt phát ban. Đó là một công nhân Moxkva, sức khỏe đã bị những
năm khổ sai dưới thời Sa hoàng làm suy sụp, gầy rạc đi vì thiếu thốn, trông già
hơn tuổi nhiều. Tay xoa xoa vầng trán hói như thể đang đau nhức ở phía trên
lông mày, ông đọc lại lần thứ mười bản mệnh lệnh tác chiến mới nhất của tổng tư
lệnh.
Têlêghin ngồi rít tẩu thuốc. Trong thời
gian gần đây chàng đã bỏ lối vấn thuốc sâu kèn, chuyển sang hút ống tẩu. Cái tẩu
này là do Latughin lấy được của một sĩ quan bạch vệ trong một chuyến đi trinh
sát đem về cho chàng. Nó là một niềm an ủi và một phương thuốc an thần trong những
phút gay go: những phút như thế gần đây chẳng thiếu gì. Nếu lâu ngày không lau
chùi phía trong, nó phát ra một tiếng rít ấm cúng, tương tự như tiếng xamôvar trong một buổi tối mưa gió sụt
sùi.
Vađim Pêtrôvits mới đọc qua lần đầu đã nhìn
thấy rõ hết cái tính chất điên loạn và vô hy vọng của bản mệnh lệnh. Đợi cho
chính ủy suy nghĩ hết lẽ về cái tác phẩm buồng giấy kia, chàng lim dim đôi mắt
dựa lưng vào bức tường ghép bằng thân cây. Dưới đôi mi hé mở, mắt chàng long
lanh một ánh sáng hằn học.
Họ đang ngồi ở một khu trại, nơi đặt đại bản
doanh dã chiến của đại đoàn, cách mặt trận khoảng mười dặm. Trong hai trung
đoàn mà Têlêghin tiếp quản hồi tháng tám, bây giờ không còn lấy được ba trăm
chiến sĩ: những số quân bổ sung được gửi đến sau này khó lòng có thể gọi được
là chiến sĩ. Bộ tổng tư lệnh thành lập các đơn vị bổ sung này một cách hối hả,
chủ yếu lấy những người đào ngũ, đi bắt những phần tử “quân xanh” ở các thành
phố và các làng mạc: bây giờ những phần tử ấy bắt đầu mò về đây, vì không chịu
nổi những trận mưa thu. Chẳng kịp huấn luyện, chuẩn bị gì, người ta cứ thế ghép
bừa họ vào các đại đội dã chiến và chở ra mặt trận, nơi họ phải thi hành những
mệnh lệnh chiến đấu mà người ta chỉ có thể thực hiện một cách minh xác bằng động
tác của cây bút chì đỏ trên tấm bản đồ 1/25.000, trong cõi tĩnh mịch trang trọng
của phòng giấy tổng tư lệnh.
- Tôi không hiểu, - chính ủy Tsexnôkôv nói
đoạn lật sấp tờ giấy lại xem, tuy ở phía sau chẳng có chữ nào. - Tôi không hiểu
được ý nghĩa khái quát của bản mệnh lệnh này...
Rôstsin đáp:
- Vả lại chẳng có gì mà hiểu hết: đây là một
mệnh lệnh có tính chất hàn lâm viện thuần túy. Ông tổng tư lệnh ngồi lót dạ hai
quả trứng, một chén ca-cao, châm một điếu thuốc lá thơm rồi đến gần bản đồ. Ông
tham mưu trưởng, bấy lâu chỉ mong sao một buổi sáng đẹp trời nào đấy ngủ dậy đã
thấy cơn ác mộng qua rồi, dùng hai ngón tay rút ra một lá cờ tí hon cắm trên địa
đồ, tượng trưng cho trung đoàn 123 của đại đoàn ta. - Theo tài liệu của ban
nhân sự thì nó có hai ngàn bảy trăm quân - và cắm nó vào một điểm khác cách một
trăm dặm về phía nam. “Như vậy, sau khi chiếm làng Đermôvka, chúng ta tạo nên một
thế uy hiếp sườn trái của địch...”. Ông ta lấy một lá cờ tí hon khác tượng trưng
cho trung đoàn 39 của đại đoàn ta - gồm hai nghìn một trăm quân theo tài liệu của
ban nhân sự, cắm nó xuống cách chín mươi lăm dặm về phía đông nam “Như vậy,
trung đoàn 39 sẽ tiến đánh vỗ mặt địch quân, vân vân...”. Ông tổng tư lệnh nheo
nheo đôi mắt nhìn bản đồ qua khói thuốc lá thơm và gật đầu đồng ý, vì dù sao
đêm qua ông tham mưu trưởng cũng đã suy tính kỹ lưỡng rồi, các đường ngang dọc
và các mũi tên đều được kẻ cẩn thận bằng mực đỏ và mực xanh, cho nên dù có cắm
cờ thế này hay thế khác thì kết quả cũng vẫn là một: sẽ có một sự di chuyển náo
nhiệt trên chiến tuyến, và người ta cũng chỉ đòi hỏi có thế thôi...
- Này, anh bạn ạ, - Tsexnôkôv lắc cái đầu
to và hói ngắt lời. - Như thế không còn là phê bình nữa, như thế là đả kích hằn
học.
- Ừ thì hằn học... Tại sao tôi lại phải làm
thinh trong khi tôi nghĩ đúng như thế... Cả Têlêghin cũng nghĩ như thế, và các
chiến sĩ của ta cũng đều nghĩ như thế và nói như thế.
Têlêghin, mồm vẫn ngậm tẩu thuốc, buông một
tiếng thở dài nặng trĩu. Trong lòng chính ủy dấy lên một nỗi buồn cay đắng, một
mối ngờ vực khiến ông hoang mang bối rối - tất cả những cảm xúc mà ông vẫn cố
trấn áp trong lòng mình. Sau mười năm khổ sai, không phải ông đã lạc hậu với cuộc
sống, nhưng trong cuộc sống ấy đã xuất hiện quá nhiều điều phức tạp: những luồng
nước đục như vậy chỉ mong sao đừng ai dây phải làm gì... Tấm lòng đã trong sáng
hẳn lên sau bấy nhiêu năm tù đày khổ cực khó lòng có thể chấp nhận được thái độ
nghi kỵ đối với những người đang đấu tranh trong hàng ngũ cách mạng. Gặp một
người như thế, ông đem lòng quý mến ngay, nhưng nhiều khi về sau lại thấy đó là
một con người thâm hiểm, ngụy trang. Sở dĩ ông có cảm tình với Rôstsin chính là
vì chàng hung hăng, bộc trực và không hề mảy may sợ hãi điều gì, dù có chĩa một
khẩu đại bác vào chính giữa mặt chàng cũng vậy.
- Thì các chiến sĩ nói gì nào, có gì đặc biệt
đâu? - chính ủy hỏi. - Chỉ ít nữa ta sẽ phát áo bông và ủng dạ mới: họ sẽ nói
giọng khác ngay. Ai nói? Mấy gã đào ngũ nói à? Mưa ướt thấm xương, bụng rỗng tuếch
thì họ phải nói thôi.
- Bao giờ sẽ phát ủng dạ và áo bông? - Rôstsin
hỏi.
- Ở Cục hậu cần họ đã hứa chắc với tôi như
thế... Tôi đã trông thấy cả phiếu xuất kho... Họ hứa gửi một nghìn rưỡi ngỗng,
nửa toa mỡ ướp...
- Thế họ không hứa gửi chả phượng à?
Chính ủy chỉ khẽ đằng hắng, không đáp. Quả
nhiên ngoài những lời hứa và những giấy tờ này nọ, ông chưa đem về cho đại đoàn
được chút gì. Ông đã đi Xerpukhôv, quát tháo qua điện thoại, đêm đêm chẳng ngủ
ngáy gì nữa, cứ đi đi lại lại trong nhà theo cái thói quen từ dạo ở tù... Đã xảy
ra một việc gì không thể nào hiểu được, ở bất cứ nơi nào mà lương tri của người
cách mạng giục ông đến, ông đều vấp phải một chướng ngại khó hiểu, làm cho mọi
việc rối tung lên và đình trệ lại.
- Thế nhưng anh em họ nói cụ thể những gì
nào? - chính ủy hỏi. Rôstsin giận dữ gõ ngón tay lên bản mệnh lệnh.
- Trong này có nói là cho hai đại đội đánh
chiếm làng Mitrôfanôvka và ấp Đalni, rồi cố thủ ở đấy. Làng Mitrôfanôvka và ấp
Đalni ta đã đánh chiếm một lần rồi, theo lệnh của bộ tổng và ngay sau đó đã phải
chạy vụt ra như tên bắn. Đến ngày kia sự việc sẽ lặp lại đúng hệt như vậy sau
khi ta thi hành những điều viết trong tờ giấy này.
- Sao thế?
- Vì cái vị trí này không thể nào giữ được
và lẽ ra không nên đến đấy chút nào.
- Đúng, - Têlêghin gật đầu nói, cả cái tẩu
thuốc cũng gật theo.
- Chúng ta sẽ đến đấy, sẽ ném một trăm chiến
sĩ vào cuộc hành quân này, sẽ thọc một mũi vào trận tuyến địch, mà không có
cách gì liên lạc với đại quân, và đến khi bị ép từ hai bên sườn, ta sẽ lập tức
phải nhảy ra khỏi cái bẫy chuột ấy, mà lại phải vượt sông ba lần, mỗi lần như
thế tha hồ ăn đạn, sau đó là cánh đồng bằng phẳng trơ trụi: lại tha hồ cho kỵ
binh địch chém giết, rồi đến bãi lầy, ở đấy ta sẽ phải bỏ lại một nửa số xe.
- Xin lỗi, chắc hẳn trên bình diện chiến lược
chúng ta cần chiếm cái làng và cái ấp ấy vì một mục đích mà chỉ có bộ tổng biết
rõ...
- Không có mục đích gì hết... Anh cứ nhìn
lên bản đồ thì biết... Chính các chiến sĩ họ nói đúng cái chuyện ấy đấy: những
cuộc hành quân của ta trong hai tháng gần đây không hề có chút ý nghĩa gì, cũng
không hề có mục đích, không hề có kế hoạch. Chúng ta cứ giẫm chân tại chỗ một
cách vô vọng, chúng ta cứ thọc những mũi tấn công vô nghĩa lý, chúng ta mất người,
mất lòng tin vào thắng lợi... Rồi anh sẽ thấy: đêm nay sẽ có mấy chục chiến sĩ
tự ý bỏ mặt trận cho mà xem... Rồi một tháng sau người ta lại chở họ về để bổ
sung cho chúng ta... Cái gì đã xảy ra thế, thử hỏi, việc gì đang diễn ra thế
này? Một tình trạng tê liệt.
Cái tẩu của Têlêghin khịt khịt. Chàng nói:
- Hôm nay trong đại đội kỵ binh của đại đoàn
bộ có người cho tôi biết một tin là Mamôntôv đâu như đã lại vượt qua sông Đôn
và đang hành quân ở hậu phương chúng ta. Có một điều quái lạ là không biết họ lấy
tin này ở đâu ra?
Rôstsin cầm bản quân lệnh lên, đôi đồng tử
chạy lia lịa trên tờ giấy một lát, rồi ném xuống mặt bàn và lại ngả lưng ra sau
tường.
- Rất có thể như thế... Tuy trong này chẳng
hề đả động gì đến...
Người liên lạc của đại đoàn bộ, một ông già
râu ria, người thấp bé, bước vào phòng, vai đeo một cái túi dết vải bạt bẩn:
- Đồng chí đại đoàn trưởng, có điện thoại gọi
riêng đồng chí.
Têlêghin ngạc nhiên nhìn chính ủy, khoác vội
cái áo ca-pốt rồi đi ra. Chính ủy nói, tay lại xoa xoa lên trán:
- Rôstsin ạ, nếu cứ nghe anh thì mất hết cả
tin tưởng. Vậy thì tình hình ra sao? Trong hàng ngũ ta có sự phản bội chăng?
- Tôi chẳng giả định gì hết, tôi chả khẳng
định gì hết. Nhưng tôi biết chắc là cứ tiếp tục đánh nhau với địch theo cái kiểu
này thì không thể được.
- Nhưng mệnh lệnh tác chiến vẫn phải được
thi hành chứ?
- Đúng, phải thi hành. Ngày mai chính tôi sẽ
thi hành...
Chính ủy suy nghĩ một lát rồi cười nhạt:
- Anh muốn đi tìm cái chết chứ gì?
- Điều đó hoàn toàn không liên quan gì đến
công việc, mà lại càng không liên quan gì đến anh... Vả lại tôi không có ý muốn
đi tìm cái chết... Giá anh về sớm hơn, anh sẽ biết rằng trung đoàn sẽ không chịu
thi hành mệnh lệnh ấy. Thế nhưng lại phải làm sao cho họ thi hành... Sự sống
còn của một quân đội là ở chỗ thi hành mệnh lệnh tác chiến. Nếu không, mọi sự sẽ
sụp đổ hết, sẽ là tình trạng vô chính phủ, là cái chết... chính tôi sẽ đọc mệnh
lệnh và sẽ đưa họ đi tấn công... Anh hãy coi cuộc hành quân này là một dịp kiểm
tra lại tinh thần kỷ luật... Và đến đây, ta nên chấm dứt cuộc thảo luận...
Têlêghin trở về. Không rút hai tay ra khỏi
túi áp ca-pốt, chàng ngồi xuống. Hai mắt chàng tròn xoe.
- Các đồng chí ạ, chủ tịch Hội đồng quân sự
tối cao đang đi kiểm tra mặt trận. Một giờ nữa sẽ có mặt ở đơn vị ta...
Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Trời mưa
lâm thâm. Toàn thể đại đội kỵ binh và đội cảnh vệ của đại đoàn bộ, hàng ngũ chỉnh
tề, đứng đợi trên một bãi cỏ chăn gia súc ở phía sau ấp. Những giọt nước mưa long
lanh trên các bờm ngựa chải chuốt cẩn thận và những chiếc áo ca-pốt bạc màu của
các kỵ binh. Ngựa cứ giẫm giẫm bộ vó xuống lớp bùn nhão. Càng về sau, mấy con
ngựa trông càng giống những cái xác chết trôi mới lôi từ dưới nước lên, xương
sườn hằn rõ, xương hông nhô ra, môi chảy xệ xuống... Đại đội trưởng kỵ binh
Immerman, cựu trung úy của trung đoàn phiêu kỵ Grôđny, mặt tròn vành vạnh, mũi
hếch lên như trẻ con, tuyệt vọng đưa mắt nhìn sang Têlêghin. Thật là nhục nhã!
Nhưng thế vẫn chưa đủ, không biết từ đâu chạy ra một con chó con chân to, nhìn
hàng quân một cách tò mò đầy thiện ý, và ngồi xuống ngay trước mặt đại đội kỵ
binh.
Immerman hết xuỵt lại xua tay, nhưng con
chó con chỉ vểnh tai nghe ngóng, đầu nghiêng sang một bên. Vừa lúc ấy người cảnh
giới cưỡi ngựa đứng trên ngọn gò cách đấy không xa vội vàng thúc gót ủng vào sườn
ngựa, cho ngựa quay lại và phi nước đại nặng nề về phía Têlêghin, bùn bắn tung
tóe.
Một cái mũi xe hơi to tướng, bóng loáng,
hai ngọn đèn pha cách xa nhau, vụt nhô lên thẳng đứng trên ngọn gò, và một chiếc
xe hơi dài, mui trần, màu xám nhạt hiện ra.
Tiếng máy rú inh tai làm cho mấy con ngựa
trong đại đội kỵ binh giẫm chân lia lịa và lắc đầu nhớn nhác. Immerman hô: “Nghiêm!”
Chiếc xe hơi dừng lại, suýt đè phải con chó con: nó vụt nhảy bật sang một bên
như một dúm bông, rồi lại ngồi xuống. Têlêghin cưỡi ngựa đến bên xe, giơ gươm
lên chào hú họa một trong ba người mặc quân phục ngồi trên xe, đều mặc áo mưa
màu lông bò trùm ra ngoài áo ca-pôt. Người ngồi cạnh lái xe đứng dậy, đặt tay
lên trên tấm kính chắn gió và tiếp nhận báo cáo, mắt không nhìn vào Têlêghin.
Rồi ông ta quay ngoắt về phía hàng quân.
Hai người ngồi ở ghế sau - người thứ nhất mặt trắng nhợt như tờ giấy, râu ướt
sũng, người kia béo phị, hai má phúng phính, vẻ mặt hung dữ, - cùng đứng dậy
đưa tay lên vành mũ. Người đứng ở ghế trước cất tiếng nói, giọng như sủa, mặt cứ
giây giây lại hất ngửa ra, phô bày hai cái lỗ mũi đen ngòm và làm cho cái kính
cặp mũi toát mồ hôi nhảy lên bần bật:
- Hỡi các chiến sĩ, nhân danh chính quyền
công nông tôi ra lệnh cho các chiến sĩ mài gươm cho thật sắc và cắm lưỡi lê vào
đầu súng cho thật chặt. Trong các chiến sĩ, ai là người không muốn cho ngựa
mình uống nước trên dòng sông Đôn êm đềm? Chỉ có kẻ hèn nhát mới không muốn như
vậy... Tại sao các đồng chí vẫn còn đứng đây, mà chưa chịu đến nơi ấy? Nước cộng
hòa đang chờ đợi những chiến công thần kỳ của các đồng chí. Hãy tiến lên! Hãy đánh
ngã quân thù và rắc tro tàn của chúng lên cánh thảo nguyên thân yêu của chúng
ta...
Ông ta nói mỗi lúc một hùng hồn hơn, nội
dung vẫn đại loại như thế. Nói xong ông đưa mắt nhìn qua hàng quân một lượt, rồi
giơ cao quả đấm lên hô: “Ura!”. Các chiến sĩ hô theo, mỗi người một phách. Bài
diễn văn ấy làm cho họ hoang mang. Cứ như thể một người trên mặt trăng rơi xuống
nói với họ. Lại còn gọi họ là hèn nhát nữa. Gì thì gì, chứ một lời lăng nhục
như vậy thì họ không hề ngờ tới.
Ông ta gật đầu ra hiệu gọi Têlêghin đến:
- Tôi không hài lòng về tình trạng của các
chiến sĩ trong đơn vị đồng chí: đó là một lũ ăn mày ngồi trên lưng ngựa! Tôi
không hài lòng với tình trạng ngựa cưỡi của các đồng chí, đó là một lũ xác ngựa
chết trôi! Theo tôi!...
Ông ta rơi phịch xuống ghế bên cạnh người
lái xe. Chiếc xe hơi khổng lồ lập tức phóng về phía ấp.
Têlêghin phi ngựa theo, trong bụng bỗng nảy
ra một nỗi lo lắng mơ hồ: liệu phen này có thoát được cái án xử bắn không đây?
Chiếc xe hơi dừng lại cạnh nhà của bộ tham
mưu dã chiến. Têlêghin, theo sau là Tsexnôkôv, người rập rình một cách vụng về
trên yên ngựa, vội vàng phi tới. Trên thềm, người điện thoại viên trực nhật, mặt
mày hốt hoảng, đang đứng nghiêm, bàn tay đặt ngang vành mũ run cầm cập. Anh ta
đưa mắt van lơn Têlêghin cho phép anh ta nói. Vì cố dùng lối diễn đạt đúng quy
chế nhà binh, anh ta ấp a ấp úng mãi mới nói được rằng trước đây một phút bộ
tham mưu đại đoàn có gọi điện thoại đến đây (tất cả các văn phòng, tài sản,
ngân quỹ và tài liệu lưu trữ của đại đoàn đều đặt ở làng Gaivorôny, cách đây
khoảng bốn mươi dặm về phía Bắc). Họ chỉ kịp báo cho anh ta biết rằng có mấy đội
tuần tiễu của địch tràn vào làng Gaivorôny, chắc chắn là quân của Mamôntôv. Chỉ
nói được đến đấy thì im bặt, đường dây điện thoại đã bị cắt.
Người có đôi má phính - tham mưu trưởng của
tổng tư lệnh - nặng nề bò lổm ngổm lên ghế trước, ghé tai chủ tịch hội đồng
quân sự nói thì thầm mấy tiếng. Ông chủ tịch gật đầu và ngoái cổ lại nói với
Têlêghin qua vai:
- Đồng chí sẽ nhận được chỉ thị của tôi qua
bưu vụ dã chiến.
Têlêghin và Tsexnôkôv mãi hồi lâu còn đứng
sững ra, im lặng nhìn lên con đường đen xỉn nơi chiếc xe hơi trông như con thú
dữ phóng vút đi và tan dần như một bóng ma trong làn mưa mờ mịt.
* * *
Đasa làm việc ở ủy ban hành chính, trong
ban cải tạo chất đất, với tư cách trợ lý thứ hai của trưởng phòng đồ án. Khi
thì nàng dùng thuốc nước bôi lên bản đồ tỉnh Koxtrôma những vết màu chỉ những
nơi dự định sẽ rút khô các bãi lầy, khai thác than bùn và quặng với một số lượng
khổng lồ. Khi thì nàng sao lại những bức thư của kỹ sư Gribôxôlôv viết cốt để ủy
ban hành chính không lúc nào ngừng phấn khích trước quy mô hùng vĩ của những ý
đồ của ông, tuy những ý đồ này hoàn toàn viễn vông, vì ngoài hộp thuốc vẽ, mấy
cái bút lông và một ít giấy vẽ ra, ban cải tạo chất đất không còn gì nữa hết: xẻng
cũng không, xe cũng không, ngựa cũng không, bơm cũng không, tiền cũng không,
nhân lực cũng không.
Đasa hưởng một khẩu phần gồm một lạng bánh
mì lẫn cả rơm vụn, đôi khi thêm một ít lá nguyệt quế hay hạt tiêu.
Anixya làm liên lạc trong ủy ban, vì có
thành tích chiến đấu cho nên được hưởng một khẩu phần nhỉnh hơn: ngoài nửa lạng
bánh mì và một ít hạt tiêu ra còn có một ít cá nữa.
Đồng thời Anixya còn làm việc trong một
nhóm kịch và đi nghe những bài giảng phổ cập ở khoa văn sử lúc bấy giờ sơ tán về
Kazan. Đối với công vụ chính của mình - ngồi đợi trên chiếc ghế bành kiểu
Volter rách bươm đặt trong hành lang bên cạnh cửa phòng ông phó chủ tịch ủy ban
- Anixya có một thái độ hết sức trịch thượng: hoặc giả chị cặm cụi ngồi đọc bi
kịch Sêkxpir, hai tay ôm đầu để che tai lại, và khi có ai gọi, chị trả lời lơ
đãng: “Tí nữa! Tí nữa...”, thậm chí còn gắt khi người ta giục đến lần thứ hai,
bảo chị đi đưa một gói thư vào một trong những gian phòng nhiều vô số của ủy
ban, bày đầy những bàn và ngồi đầy những người đang tự bày ra việc mà làm; hoặc
giả chị đi đâu mất, bỏ chiếc ghế bành đứng trơ ra đấy. Có lần một bà cán bộ có
cái mặt bợt như củ khoai tây phê bình chị về điểm đó. Anixya hầm hầm nhìn bà ta
nói: “Đồng chí đừng có to tiếng với tôi, lưỡi gươm của bọn cô-dắc tôi còn không
sợ nữa là...”. - mắt chị dữ tợn đến nỗi bà kia, một cán bộ trí thức trước đây
đã từng hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng phụ nữ, phải thấy là đừng
dây vào cái phần tử công nông xấc xược này thì hơn...
Đasa về nhà lúc năm giờ chiều. Anixya thì
đôi khi mãi đến khuya mới về. Họ ở trong một ngôi nhà nhỏ trên bờ sông Volga.
Kuzma Kuzmits, vẫn nhớ như in lời dặn của Ivan Ilyits là phài cho Đasa và
Anixya ăn uống tử tế, lại tiếp tục làm những việc mờ ám để kiếm thức ăn và củi
đốt, trái với lương tâm của ông ta, và mặc dầu đôi khi ông cũng thấy vất vả
quá: tuổi tác đã vậy, thời tiết mùa thu rét mướt lại khiến cho người ta cứ muốn
xa lánh những mối lo toan phù phiếm ở đời để lui về bên lò sưởi ấm áp ngồi trầm
tư mặc tưởng về những vấn đề triết học, giữa tiếng mưa rơi dìu dịu trên mái
nhà.
Thường thường, khi ánh bình minh in một màu
xanh dịu lên khung cửa sổ, Đasa và Anixya uống chén nước chè cà-rốt, ăn dăm ba
miếng rồi đi làm. Kuzma Kuzmits rửa chén dĩa rồi vừa đi đổ nước bẩn và quét sàn
trong hai căn buồng nhỏ vừa thong thả bắt tay vào bày mưu tính kế, nhiều khi vừa
nghĩ vừa thở dài: liệu hôm nay có thể moi được của ai vài quả trứng, một miếng
mỡ ướp, một chai sữa, nửa mũ khoai tây... Kuzma Kuzmits không xin xỏ ai - lạy
Chúa che chở khỏi nông nỗi ấy! Ông ta chỉ tiến hành một cuộc đổi chác sòng phẳng,
đem những tư tưởng triết học và luận lý đổi lấy những chất dinh dưỡng mà thôi.
Qua hai tháng ở đây, hầu như khắp thị xã Koxtrôma đều đã biết ông ta, và ông ta
cũng đã nhiều lần du lịch vào tận các làng ngoại thành.
Trong khi suy nghĩ, ông ta thường ngồi khâu
vá bên khung cửa sổ đang sáng dần. Cuộc sống là một sức mạnh lớn lao. Ngay
trong khi đang diễn ra những chuyển biến lịch sử kinh thiên động địa nhất và những
trận thử thách gay go 652 nhất con người ta vẫn chui ra khỏi bụng mẹ, đầu đi
trước, và gào toáng lên đòi một chỗ đứng trong thế gian này, dù bố mẹ có hài
lòng hay không cũng mặc; người ta vẫn phải lòng nhau, mặc dầu những phương tiện
bên ngoài của loài người để làm việc này kém xa con gà gô chẳng hạn, khi nó xòe
cái đuôi lộng lẫy ra nhảy nhót trên khoảng đất mùa xuân đã tan hết tuyết. Con
người ta cần được an ủi, sẵn sàng cắt một nửa ổ bánh mì cho người nào đem lại sự
yên tĩnh cho tâm hồn mình đang bị mối ngờ vực giày vò: “Rốt cục ta sẽ đi đến
đâu; ăn thì ăn cỏ, chỗ kín thì lấy lá bắp cải mà che sao?” Cũng có người lại rất
biết ơn kẻ nào biết nghe họ, hiểu được họ: trước kẻ đó, họ có thể phô bày hết cả
cái bầu tâm sự đang sôi sục lên vì căm giận ra, chẳng sợ gì sở an ninh hết.
Kuzma Kuzmits lần lượt đến từng nhà. Ông ta
chùi đôi chân lấm bùn trong căn phòng lót tối om và bước vào gian bếp. Cũng có
bà chủ nhà giận dữ quát:
- Lại mò đến đấy à, đồ ăn hại! Hôm nay chẳng
có gì hết, chẳng có gì đâu...
Lúc bấy giờ Kuzma Kuzmits niềm nở lắc lắc
cái mặt đỏ gay và chúm chím đôi môi, đáp:
- Tôi đến hỏi thăm sức khỏe bà Marya
Xavvisna đây. Bà ấy mệt lắm à?
- Mệt lắm.
- Bà Anna Ivanôvna ạ, nghĩ đến cái chết chẳng
có gì đáng sợ, nghĩ rằng đời mình qua đi một cách phí hoài mới làm cho ta khổ
tâm. Ấy, ở đây con người ta mới cần được an ủi. Phải có ai đặt bàn tay lên trán
người ta mà nói: đời bà nghèo khổ quá, bà Marya Xavvisna ạ, chẳng nên luyến tiếc
làm gì, nhưng bà đã làm lụng vất vả như con kiến hèn mọn nhất suốt đời lúi húi
tha cái cọng rơm, chẳng hề được hưởng lấy phút vui nào. Nhưng công sức của con
người ta không bao giờ mất đi một cách phí hoài, tất cả đều tích lũy lại: ngôi
nhà của loài người mỗi ngày một thêm cao ráo, rộng rãi, và ở một góc nhà nào đấy
cái cọng rơm của bà cũng đã góp phần vào đấy. Bà đã nuôi dạy con cháu nên người,
nay đời bà đã đến lúc xế chiều: hãy nhắm mắt mà yên giấc ngàn thu. Bà đừng hối
tiếc gì hết: bà nghèo khổ chẳng phải tại bà...
Kuzma Kuzmits ngồi trên chiếc ghế đẩu đặt ở
cửa ra vào, lời tuôn ra thao thao như suối. Bà chủ nhà đang chẻ củi bỗng buông
dao ra, thở dài thườn thượt mấy tiếng liền, hai dòng nước mắt lã chã trên má...
- Mình cứ sống mòn mỏi suốt đời, đến khi chết
cũng chẳng ai thèm nói một lời cám ơn...
- Là vì cuộc sống của ta còn bất công... Lẽ
ra phải dựng cho mỗi người một pho tượng để nhớ những công lao của người ta...
Sau này rồi sẽ như thế đấy bà Anna Ivanôvna ạ, sau này cuộc đời sẽ tốt đẹp
hơn...
- Ở thế giới bên kia chứ gì?
- Không, ở thế gian này chứ...
- Chỉ có một mình ông tốt bụng thôi, ông rồ
ạ...
- Đó là nghề nghiệp của tôi, bà Anna
Ivanôvna ạ, vả lại tôi chẳng tốt bụng đâu... Tôi chỉ là người tò mò. Con người
không cần người ta thương đâu. Con người vốn thích được người khác tò mò muốn
biết về mình. Sao, tôi sang nhà bà Marya Xavvisna một chút có được không ạ.
- Ông cứ sang đi...
Vào một nhà như vậy, Kuzma Kuzmits chẳng mấy
khi ra đi tay không. Đến tối, khi đã cưa và chẻ một tấm ván lấy được ở nhà ai về,
nhóm lò sưởi bên gian của hai cô, thổi cho sạch tro trên cái ấm xamôvar đang reo và đặt nó lên bàn,
Kuzma Kuzmits kể lại cho Đasa và Anixya nghe những cuộc bôn ba của mình trong
ngày vừa qua.
- Tôi mới có một kẻ kình địch, - ông ta vừa
nói vừa thổi lên cái đĩa tách đựng nước chè, - ở đây vừa xuất hiện một lão già,
đi lò dò từ nhà này sang nhà khác, mình chỉ mặc chiếc áo bao tải, đi chân đất,
râu cố ý để bờm xờm, có một cái mũi có sức gây ấn tượng phi thường, choán hết cả
mặt. Tục gọi là ông già Anghel. Cái lão bợm ấy nghĩ ra một câu chuyện hết sức
đơn giản, lão xông vào nhà, ngồi bệt ra giữa sàn, bắt đầu lắc lư bên này bên nọ,
vừa lắc lư vừa vỗ tay đen đét: “Đấy nhé, thật đáng đời cho mày, Anghel ạ, ai bảo
mày không tin, xì, xì... Trông tận mắt, sờ tận tay mà vẫn không tin, xì xì...”.
Những người ngồi quanh cứ há hốc mồm ra. Lão ta làm bộ làm tịch một lúc nữa rồi
kể: hôm trước vào đêm thứ năm có một người đàn bà chồng đi bộ đội Hồng quân vừa
đẻ ra một thằng con trai bu bẫm có đủ cả hàm răng. Người ta tắm rửa cho nó, quấn
tã lót rồi trao cho mẹ nó. Mẹ nó cho nó bú nhưng nó không bú, chỉ nhìn mẹ chằm
chặp rồi nói: “Mẹ ơi, mẹ ơi, con đã về đây!...”.
Kuzma Kuzmits nhấp tí nước chè trên dĩa
tách rồi cười ha hả.
- Cái lão Anghel ấy rồi sẽ tranh mất khách
của tôi thôi. Lão hay ghen tị lắm! Hôm nay gặp nhau trong cùng một nhà, lão ấy
bắt ngón tay cái lên mũi chế nhạo tôi, nói: sao, Kuzma, chú mày lại đến vét đĩa
cho tao đấy à? Hễ còn lẽo đẽo theo tao, sẽ có ngày ăn đòn đấy...
- Ông bỏ hết những trò vớ vẩn ấy đi. Kuzma
Kuzmits ạ, - Đasa nghiêm mặt nói - Đi mà làm việc cho chính quyền Xô-viết. Không
sao đâu, cứ ăn khẩu phần cũng đủ... chứ không thì người ta đã bắt đầu dị nghị về
chúng ta rồi đấy, tôi không chịu được đâu.
Anixya, vừa tỉnh giấc mơ thường lệ, nói:
- Hôm nay tôi vừa gặp một thằng cha đến là
khỉ. - Chị quay ra đóng hai vai, mỗi vai một giọng khác: - Tôi đang ngồi, dĩ
nhiên là mải đọc sách. Một tay cán bộ ở ban tiếp tế dân sự, người rữa ra, mặt rỗ
hoa, mồm méo xệch, đến nói:
“Tôi rất muốn làm quen với ông bác nhà cô”.
“Ông bác nào?”
“Cái ông ở với cô ấy mà, tôi cần đến gặp
ông ta để ông ta khuyên nhủ...”
“Ông ấy có khuyên bảo gì ai đâu!”
“Tôi lại nghe nói ngược lại, đó là nhiều
người đến gặp ông ta và đã được yên lòng”.
“Đồng chí ạ, tôi không có thì giờ nghe những
chuyện vớ vẩn ấy đâu; đồng chí không thấy tôi đang bận đây à?”.
Thế là hắn ghé sát tai tôi nói, bắn cả nước
bọt vào mặt tôi:
“Thế cô chưa nghe nói chuyện thằng bé mới đẻ
đã biết nói à?”...
“Thôi ông cút về nhà ma đi cho rảnh...”.
“Muốn về nhà ma thì chẳng phải đi xa đâu:
đã từ lâu ta ở với ma rồi. - Nhưng thằng bé ấy có phải là Ma-vương phản cơ đốc không
nhỉ?”
Hắn nói thế đấy.
- Thật rất khó chịu, rất khó chịu, - Đasa
nói.
- Phải, đây là một nơi khỉ ho cò gáy... - Kuzma
Kuzmits rót thêm cho mình một cốc nước sôi nữa. - Hoang vắng đến nỗi tai cứ ong
ong lên. Nhưng dù sao con người Nga cũng rất ham hiểu biết, mà lại nhạy cảm nữa.
Họ có một cái đầu rất quý. Giá họ có được trí thức và có được một con đường
đúng đắn để ra khỏi cái mê hồn trận này! Đã lâu tôi cứ muốn bàn với hai cô một
điều, nhưng mãi không dám nói, hai cô bạn thân mến, hai cô bạn vô giá của tôi ạ:
tôi muốn bàn với hai cô là ta về quách Moxkva.
- Về Moxkva? - Anixya hỏi lại, đôi mắt xanh
mở to.
- Về với ánh sáng, với các tư tưởng cao cả,
về sống cho gần những sự nghiệp lớn. Tôi xin lấy danh dự mà hứa rằng tôi sẽ bỏ
những thói hư tật xấu... Bản thân tôi cũng đã thấy buồn nôn lắm rồi, từ lâu rồi...
Đến khi tôi nhìn thấy bức chân dung của mình - ông già Anghel - tôi không thể
nào chịu được nữa...
- Về Moxkva, về Moxkva! - Đasa nói. - Ở đấy
ta lại còn có cả chỗ chui ra chui vào nữa là khác: chị Katya còn một căn nhà ở
chung với một bà già - Marya Kônđratyevna... Có lẽ bây giờ chẳng còn gì nữa
cũng nên... Ôi, Kuzma Kuzmits thân mến, ta đi đi, đừng trì hoãn nữa. Ở đây chỉ
vì những thứ bánh mì nướng của ông mà chúng ta đang để mất tất cả những gì quý
giá nhất. Cả ông nữa cũng khác đi, tệ đi... Ông ạ, đến Moxkva ta sẽ xin ngay
cho Anixya vào trường kịch...
Nghe nói thế, Anixya lặng thinh, chỉ đỏ mặt
và cụp đôi mi xuống.
- Kuzma Kuzmits ạ, mai ông đi hỏi ngay nhé,
xem có chuyến tàu thủy nào đi Yarôxlavl không...
Đasa xúc động quá không nói được nữa, chỉ
thở dài, Kuzma Kuzmits ngồi co ro, hai bàn tay đặt trước bụng, ngẫm nghĩ. Ông
ta suy tính là ở Moxkva có lẽ về phương diện cấp dưỡng cho hai người đàn bà
cũng không đến nỗi gay go lắm; cùng lắm cũng còn có thể dùng đến mấy viên kim
cương của Đasa mà ông đã bí mật cất đi... Vả lại khi rời Koxtrôma cũng có thể
mang theo vài yến bột mì tiểu mạch... Mà sao hôm nay ông ta lại buột miệng nói
ra cái chuyện đi Moxkva thế không biết! Ừ thôi đã nói ra thì còn biết làm thế
nào. Vả chăng cũng càng tốt chứ sao?... Và trong óc ông ta đã nhẩm viết một bức
thư phân trần với Ivan Ilyits (Gần đây chàng có gửi một tờ bưu thiếp ngắn cho
biết chàng vẫn sống, vẫn khỏe, rất yêu Đasa và hôn nàng).
Anixya, khuỷu tay chống lên bàn, ngồi nhìn
ngọn đèn leo lét, và mường tượng thấy cái cầu thang trong lâu đài Macbeth (giống
như cái cầu thang ở trụ sở ủy ban) mà nàng đang bước xuống, hai vai để trần, tà
áo lụa kéo lê sau chân, và lau mãi hai bàn tay vấy máu; hoặc giả lại thấy hiện
lên cỗ quan tài gỗ thông (giống cái thùng dài), trong đó nàng tỉnh dậy và trông
thấy xác Rômêô và lọ thuốc độc bên cạnh chàng...
Ba người cứ thế ngồi bên nhau quanh cái ấm xamôvar đang khe khẽ hát. Mưa đêm hắt
rào rào từng đợt lên mấy tấm kính cửa sổ. Nhưng họ còn thiết gì nghĩ đến mưa
gió, đến căn nhà tồi tàn, đến cảnh túng thiếu nhất thời này? Lòng họ đang nhiệt
thành và quả quyết gõ cửa cuộc đời, như thể họ thấy mình trẻ mãi không già...
* * *
Têlêghin vẫn tự cho mình là người điềm đạm:
gì thì gì chứ rối trí đến mất hết tự chủ thì không bao giờ. Thế nhưng lần này
không biết cơ sự ra sao mà không hề suy nghĩ gì hết, như thể bỗng dưng mê muội
hẳn đi, chàng đưa mấy ngón tay lóng ngóng mở nắp bao da, rút khẩu súng lục ra
áp đầu nòng vào đầu và bóp cò. Súng không nổ, vì đã có ai lấy hết đạn ra rồi,
chẳng biết để làm gì.
Rôstsin và chính ủy Tsexnôkôv quay phắt lại
và tuôn ra một tràng những lời mắng nhiếc cay độc nhất, gọi chàng là đồ nhãi
con, đồ trí thức, đồ giẻ rách, thậm chí lau đít cho ngựa già cũng chẳng sạch.
Việc này xảy ra trên một cánh đồng nơi họ vừa
xuống ngựa bên cạnh một đụn rạ đã đen xỉn lại vì dầm mưa. Đại đội kỵ binh và đội
cảnh vệ của đại đoàn bộ, bấy giờ cũng cưỡi ngựa, đang dừng lại cách đấy không
xa. Cả đại đoàn của Têlêghin nay chỉ còn có thế.
Lữ đoàn của Mamantôv tiến công thành một
chiến tuyến rất rộng đánh vào sau lưng đại đoàn, cắt hết mọi đường liên lạc,
phá hết các đường giao thông, xông vào làng Gaivorôny hủy diệt các kho lương thực
và đạn dược; chỉ trong mấy ngày hậu phương của đại đoàn đã biến thành một cõi hỗn
mang, trong đó các đơn vị tản mác và từng chiến sĩ đơn độc, không hề có chút
liên lạc gì với chỉ huy sở, đều hối hả rút lui, lẩn trốn, đi lang thang vô định.
Hai trung đoàn bộ binh chưa kịp định thần lại
đã bị kẹp chặt giữa hai gọng kìm: phía sau thì quân Mamantôv thốc vào lưng,
phía trước thì bộ binh cô-dắc sông Đôn đánh vỗ mặt. Họ bỏ mặt trận chạy tán loạn.
Quy mô của thảm họa này lộ rõ dần dần, từng
ít một. Têlêghin cùng với đại đội kỵ binh và đội cảnh vệ đại đoàn bộ cưỡi ngựa
đi tìm đại đoàn của mình. Chàng vẫn còn nuôi hy vọng thu nhặt lại được ít nhiều
tàn quân, tình trạng hốt hoảng đã qua, Mamantôv đã đi xa. Nhưng chẳng bao lâu
chàng thấy rõ rằng dưới bầu trời màu chì, trên những cánh đồng rạ ướt sũng và
những khoảng đất cày lầy lội, trong những lũng đất và những khóm rừng phủ kín
sương mù, đều không thể tìm thấy một ai được... Người thì đã đi tìm một đơn vị ứng
chiến nào đấy để gia nhập, người thì tản vào các ấp trại đứng dưới cửa sổ xin
phép vào sưởi, lại cũng có người chỉ chờ có cơ hội này để chuồn đi thật xa, đi
thẳng về nhà, về với vợ con, bò lên lò sưởi mà nằm cho ấm.
Hai chiến sĩ của trung đoàn 39 đã kiệt sức
phải ngồi lại dưới một đụn rạ, đã kể cho Têlêghin, Rôstsin và Tsexnôkôv, lúc bấy
giờ vừa cưỡi ngựa đến, một câu chuyện thật đáng buồn...
- Thôi, cưỡi ngựa đi khắp đồng như thế chỉ
uổng công, chẳng tìm được ai đâu. - một người nói. - làm gì còn trung đoàn nữa
mà tìm!
Người kia, vẫn ngồi quay lưng vào đụn rạ,
nhe răng ra:
- Chúng nó bán đứt chúng ta rồi, trước sau
chỉ có thế... Sao? Dễ chúng tôi không hiểu các mệnh lệnh tác chiến đấy! Chúng
tôi hiểu hết: chúng nó bán đứt rồi. Bộ tư lệnh! Đ.. mẹ chúng nó! Chúng nó lót đế
ủng bằng bìa! - Anh ta ngo ngoe mấy ngón chân thò ra ngoài mũi ủng. - Thế là hết
đi đánh nhau... Hết thật rồi... Amen!
Chính trên đụn rạ này Têlêghin đã ngã lòng.
Trong ký ức chàng hiện lên cái mũi xe to tướng với hai ngọn đèn pha xoạc rộng
ra hai bên. Thôi còn thanh minh làm gì nữa. Với cái tính thật thà lười biếng của
chàng, chàng đã làm hỏng hết, đã đánh vỡ hết, mất hết...
- Các anh khoan hẵng quát mắng tôi, - chàng
nói với Rôstsin và Tsexnôkôv. - Vâng, quả tôi đã yếu đuối, đã hèn nhát, vâng,
tôi có lỗi... - Chàng nhăn mặt ghê tởm, bỏ khẩu súng vào bao. - Suốt đời tôi đã
gặp may, biết thế nào cũng có lúc phải bù lại... Thôi được, cứ để cho tòa án
cách mạng họ xét xử.
- Ồ, cậu là cái quái gì, vấn đề bây giờ đâu
có phải là cậu? - Rôstsin quát vào mặt chàng, mấy thớ thịt trên má rung rung. -
Bây giờ cậu đưa đội kỵ binh đi đâu? Về phía đông hay về phía tây? Cậu dự tính
thế nào đây? Nhiệm vụ trước mắt là gì? Nghĩ đi!
- Đưa bản đồ đây...
Têlêghin giận dữ cầm lấy tấm bản đồ trong
tay Rôstsin, rồi vừa xem vừa lẩm bẩm chửi những câu rất tục nhắm vào bản thân
chàng. Những tên thành phố, tên sông, tên làng cứ nhảy múa trước mắt chàng. Cuối
cùng chàng cũng trấn tĩnh được. Sau khi bàn bạc, ba người quyết định đi về phía
đông tìm gặp các đơn vị của Quân đoàn thứ Tám.
Từ đấy cho đến tối họ cho ngựa chạy nước kiệu,
trừ những nơi không thể đi nhanh được, Đến khi trời đã tối mịt không còn trông
thấy tai ngựa trước mặt nữa, họ phái một đội trinh sát đi tìm thôn
Rôjđextvenxkôiê, chắc hẳn chỉ quanh quẩn đâu đây thôi, nhưng tối quá không
trông thấy gì. Họ dừng lại, và vẫn ngồi trên lưng ngựa, họ chờ đợi hồi lâu.
Vađim Pêtrôvits cho ngựa nhích lại gần ngựa Têlêghin, chạm đầu gối vào đầu gối
chàng.
- Sao? - Rôstsin hỏi, - có lẽ dù sao cậu
cũng nên nói rõ đi chứ?... Nói chuyện với cậu một chút có được không?
- Được.
- Vừa rồi cậu bày ra cái màn kịch ấy để làm
gì?
- Kịch nào thế Vađim?
- Với khẩu súng không có đạn ấy mà...
- Anh điên rồi à!... - Ivan Ilyits chồm hẳn
người về phía Rôstsin, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài một mảng mờ mờ với hai
cái hốc mắt đen ngòm. - Vađim, thế ra không phải anh lấy đạn ra à?
- Không phải tôi lấy đạn ở súng của cậu
ra... Tôi bắt đầu nghĩ là cậu khôn hơn người ta vẫn tưởng...
- Tôi không hiểu anh muốn gì... Tôi đã có
phút hèn nhát... Ở đây có gì liên quan đến chuyện khôn ngoan?... Lẽ ra anh đừng
nhắc đến việc ấy mới phải...
- Cậu đừng quanh co, đừng quanh co...
Hai người đều nói rất khẽ. Toàn thân
Rôstsin run bắn lên như con chó săn bị giữ chặt lại ở đầu dây tròng.
- Cả đại đội kỵ binh đã trông thấy rất rõ
cái cảnh bỉ ổi bên đụn rạ... Cậu có biết họ nói gì không? Họ bảo cậu đóng kịch
đấy... Để chuộc lấy cái mạng trước tòa án binh mà...
- Anh nói gì lạ thế?
- Không, cậu phải nghe đây! - Con ngựa của
Rôstsin bắt đầu nổi nóng. - Cậu phải trả lời tôi hết sức thật tâm... Những ngày
như thế này chính là lúc con người được thử thách... Vừa qua cậu có chịu đựng
được cuộc thử thách ấy không? Cậu có hiểu rằng cậu đang mang một vết nhơ không?
Cậu không có quyền mang một vết nhơ...
Con ngựa của Rôstsin, trong khi cựa quậy,
quật đuôi lên trúng vào mặt Têlêghin một phát rất đau, Têlêghin liền quát lên,
giọng khản đặc, cổ như nghẹn hẳn lại:
- Lùi ngay ra!... Tôi chém chết bây giờ...
Lập tức có tiếng chính ủy Tsexnôkôv nói
trong bóng tối:
- Thôi các cậu đừng cắn nhau nữa, chính tôi
lấy đạn ra đấy.
Rôstsin và Têlêghin không ai nói gì nữa.
Không nhìn thấy nhau, họ vẫn thở hổn hển, một người vì nỗi bị lăng nhục tàn nhẫn,
người kia thì hãy còn run lên vì căm giận.
Trong bóng tối bỗng vang lên những tiếng
quát ngắn gọn như những phát súng.
“Đứng lại! Đứng lại!”
“Ai?”
“Buông ngay!”.
“Quân nào?”
“Chúng tôi là quân ta, còn các anh là quân
nào thế hả?”
Đó là một cuộc chạm trán bất ngờ giữa hai đội
trinh sát. Mấy kỵ binh cứ quay vòng quanh nhau, không dám tuốt gươm trong bóng
tối quá dày đặc, mà cũng không chịu rời nhau ra vì đã bắt đầu cay cú, họ quát
tháo chửi rủa, tuy chỉ nghe những câu chửi họ cũng đã bắt đầu cảm thấy rằng cả
hai bên đều là quân ta, đều là hồng quân cả.
“Sao lại nắm lấy cương của người ta!...”
“Đơn vị nào?...”
“Hỏi cái mả mẹ mày ấy! Chúng tao là một đơn
vị kỵ binh lớn”.
“Đơn vị các anh đâu?”
“Đi theo chúng tao!”
Mãi một lúc sau hai đội trinh sát mới nguôi
hẳn và điềm tĩnh cưỡi ngựa đi về phía đại đội kỵ binh. Té ra thôn
Rôjđextvenxkôiê rất gần đây, chỉ cách một khóm rừng và một con ngòi. Khi nghe hỏi
đơn vị nào đang đóng trong thôn, một người trinh sát ở đội bên kia trả lời
không lấy gì làm lễ độ cho lắm:
- Đến nơi rồi sẽ biết.
* * *
Trong ngôi nhà bằng gỗ súc, Xêmiôn
Mikhailôvits Buđionny và hai sư đoàn trưởng của ông đang ngồi uống trà quanh cái
bàn có đặt một cái ấm samovar lớn.
Trông thấy Têlêghin, Rôstsin và Tsexnôkôv vào, ông vui vẻ nói:
- À, quân tiếp viện đây rồi. Chào các anh.
Ngồi xuống đây uống trà với chúng tôi...
Họ đến cạnh bàn bắt tay Buđionny đang ranh
mãnh nhìn anh đại đoàn trưởng lang thang và bộ tham mưu của anh ta (ông đã biết
rõ mọi việc), bắt tay sư đoàn trưởng sư đoàn Bốn, người thấp bé nhưng có bộ ria
khủng khiếp có thể vắt ra sau tai được, bắt tay sư đoàn trưởng sư đoàn Sáu có
bàn tay hộ pháp: trong khi bắt tay từng người, ông bóp mạnh đến nỗi dù tay họ
có là cái móng ngựa cũng phải oằn lại. Gương mặt trẻ trung và hồng hào của ông
thể hiện một tính điềm đạm không gì lay chuyển nổi.
Xêmiôn Mikhailôvits hỏi thăm xem họ đã bố
trí chu đáo chỗ nghỉ đêm cho đơn vị họ chưa, có khiếu nại hay yêu cầu gì nữa
không. Rôstsin đáp rằng họ đã phân phối chỗ nghỉ trong chừng mực có thể, và
không có điều gì khiếu nại cả.
- Không à? Thế thì càng tốt, - Buđionny
đáp: ông biết rất rõ rằng trong làng này, nơi lữ đoàn kỵ binh của ông dừng chân
đêm nay, dù chỉ một con ruồi cũng không kiếm đâu ra một chỗ mà ngủ cho tử tế. -
Kìa sao các đồng chí cứ đứng thế, lấy cái ghế dài lại đây mà ngồi. Tôi vẫn nhớ
đồng chí lắm đấy Têlêghin ạ, từ cái hồi đồng chí đánh cho bọn cô-dắc sông Đôn một
trận tơi bời... Ê hề!... - Và rất hài lòng, Buđionny nheo nheo đôi mắt nhìn mấy
người ngồi quanh bàn. Sư doàn trưởng sư đoàn Sáu điềm tĩnh gật đầu, xác nhận rằng
quả nhiên dạo ấy bọn cô-dắc sông Đôn đã bị đánh một trận tơi bời; sư đoàn trưởng
sư đoàn Bốn cũng gật đầu, gương mặt giống người Kalmưk vẫn giữ nguyên vẻ kiêu
hãnh, lạnh lùng. - Thế là lần này Mamantôv lại đánh các anh một trận hơi đau đấy.
Thế cùng đi với các anh là một đội cảnh vệ đại đoàn bộ hay là một đơn vị chiến
đấu?
- Một đơn vị chiến đấu, một đại đội kỵ binh
có tăng cường, - Têlêghin nói.
- Ngựa ra sao?
- Ngựa rất tốt, - Rôstsin đáp nhanh, - chân
trước đều đóng móng cả.
- A! Lại đóng móng chân trước nữa cơ đấy! -
Buđionny ngạc nhiên. - Theo tôi, các đồng chí đi tìm Quân đoàn Tám làm gì xa thế,
có lẽ nó không còn ở chỗ cũ nữa đâu...
- Tôi phải trình báo cáo lên tư lệnh quân
đoàn, - Têlêghin nói.
- Cứ trình báo cáo cho tôi... Thế nào, các
đồng chí sư đoàn trưởng, ta thu nạp đồng chí đại đoàn trưởng này với cả cái đại
đội tăng cường của đồng chí ấy chứ?
Cả hai ông sư đoàn trưởng đều gật đầu tán
thành. Buđionny lấy trong cái hộp sắt tây con con ra một dúm thuốc lá và bắt đầu
cuốn hút.
- Các anh chẳng phải đi đâu xa, - ông nhắc
lại - Cứ sát nhập vào lữ đoàn chúng tôi. Vừa qua tôi với hai đồng chí sư đoàn
trưởng đây cứ ngồi nghĩ mãi, nghĩ xong thì quyết định: ngựa của chúng tôi phát
phì ra, chiến sĩ của chúng tôi ngồi không mãi đã phát chán. Vậy chúng tôi sẽ đi
lên phía Bắc tìm tướng Mamontôv. Thế là cả hai bên đều cắm cổ chạy: Mamontôv
thì chạy cho thoát chúng tôi, còn chúng tôi thì chạy theo hắn.
Buđionny nói đùa như thế chứ thật ra tình
hình rất nghiêm trọng. Được tin lữ đoàn Mamontôv đánh thọc qua chiến tuyến đỏ,
ông đã liều mạng không chịu tuân theo mệnh lệnh của Chủ tịch Hội đồng quân sự tối
cao buộc ông phải tiếp tục thi hành đúng cái kế hoạch tác chiến mà đến nay ai cũng
thấy rõ là ngu xuẩn và đã mất tín nhiệm từ lâu, nếu không nói là một kế hoạch
phản bội; và đã tự ý xuất quân đuổi theo Mamontôv. Buđionny và các sư đoàn trưởng
của ông đều hình dung rất rõ ở văn phòng tổng tư lệnh những cây bút sắt đang
két lên một cách giận dữ như thế nào, và những lời hăm dọa sặc mùi tử khí như
thế nào đang chờ họ ở đầu dây bên kia của tuyến điện báo trực tiếp. Nhưng họ
quý trọng việc cứu thoát Moxkva hơn cả cái đầu của họ. Mà muốn cứu Moxkva thì họ
chỉ thấy có một cách duy nhất là đuổi theo Mamontôv và đánh tan đoàn kỵ binh ưu
tú nhất của bạch quân ấy đi. Họ không chút nào hồ nghi rằng đoàn kỵ binh ấy sẽ
không sao chống nổi cuộc công phá của bảy nghìn tay kiếm trong lữ đoàn Buđionny
và sẽ nằm phơi xác ở một nơi nào đấy trên những cánh đồng chạy dài từ sông Txna
đến sông Đôn. Cái khó nhất là làm sao đuổi cho kịp Mamontôv, lúc bấy giờ đã tiếp
thụ cái phong tục của thổ phỉ là đến làng nào, trại nào cũng đổi những con ngựa
kiệt sức lấy ngựa mới.
Trong các trung đoàn dũng cảm nhưng phóng đãng
của Mamontôv số quân lớn hơn số quân của Buđionny khá nhiều. Nhưng Mamontôv
không muốn đọ sức với Buđionny. Y rất gờm kẻ đối thủ đang đuổi theo sau lưng y:
đây không còn là một đội quân du kích cưỡi ngựa nữa, mà là một cái gì hết sức
đáng sợ - lạy Chúa đừng để ai vấp phải một đạo quân như thế giữa đồng không: đó
là một đạo kỵ binh Nga chính quy. Buđionny di chuyển chậm hơn, nhưng khôn ngoan
hơn: khi thì ông chọn một con đường ngắn hơn hay thuận tiện hơn, khi thì ông ép
Mamontôv vào những nơi khó kiếm lương thảo và ngựa mới.
Cuộc săn đuổi này tiếp diễn hết ngày này
qua ngày khác - một trò chơi chết người giữa hai đạo kỵ binh hùng mạnh. Đường
đi của Mamontôv được đánh dấu bằng những cái ráng đỏ của những đám lửa cháy nhà
hắt lên đám sương mù mùa thu. Y lần lượt lao vào các đơn vị hậu tuyến của hồng
quân rồi lập tức nhảy sang một bên. Nhưng rồi cuối cùng Buđionny cũng đã lừa được
y và đuổi kịp y. Một buổi sáng sớm, khi những đường viền kẻ bằng bút chì than của
những cây dương liễu già mới chỉ hiện lên mờ mờ trong các vườn rau, Xêmiôn
Mikhailôvits dẫn một đại đội kỵ binh xông vào cái xóm nghèo nơi Mamontôv nghỉ lại
đêm qua.
Nhưng ngay lúc ấy ở cuối làng mé bên kia, một
cỗ xe thắng ba con ngựa hồng lao ra khỏi cổng và chạy biến đi. Ngồi quay người
lại trên cỗ xe không mui, Mamantôv, đầu để trần, áo ca-pốt chưa kịp cài khuy, bắn
mấy phát vào người kỵ binh để ria mép mặc áo burka đen đang dẫn đầu tốp người ngựa rượt theo xe: y đã nhận ra
Buđionny, nhưng khẩu các-bin cứ nhảy bần bật trên tay y. Quân đỏ đuổi riết, nhưng
ba con ngựa hồng sông Đôn phi như gió kéo cỗ xe đi xa dần.
Trong xóm hãy còn vang lên những tiếng quát
tháo man dại, những tiếng vũ khí va vào nhau chan chát: đó là những tên cô-dắc
trong đội vệ binh của tướng Mamontôv đang chống cự đến cùng. Trong khi lục soát
trong xóm, quân Buđionny bắt đầu lùa từ khắp các xó xỉnh ra đường làng một tốp
người hồn xiêu phách lạc đi đâu hết, người thì chỉ mặc quần lót, người thì chỉ
mang một chiếc ủng. Sau mới biết đó là mấy anh nhạc công. Các chiến sĩ quây
quanh họ cười cợt. Xêmiôn Mikhailôvits phi ngựa về, nghe nói thế, liền bảo họ
đưa nhạc cụ ra.
Thấy quân bolsêvík không chém giết họ mà chỉ
cười ha hả, các nhạc công hấp tấp chạy về nhà mặc áo quần tử tế rồi mang nhạc cụ
ra: nào những chiếc hêlicôn khổng lồ,
nào co, nào cornê, nào trompét: kèn của
họ toàn bằng bạc sáng loáng. Quân sĩ Buđionny cứ tặc lưỡi mãi, trố mắt ra nhìn.
Thật là một chiến lợi phẩm tuyệt vời!
- Thôi cũng được. - Xêmiôn Mikhailôvits
nói, - chó ghẻ cũng còn lấy được chùm lông lành... Này thế các anh có biết thổi
bài “Quốc tế ca” không?
Các nhạc công ấy thì muốn thổi gì cũng thổi
được tất: trong bọn họ có những người đã học qua Nhạc viện Moxkva. Đã một năm
rưỡi nay họ chạy hết thành phố này sang thành phố khác đi tìm miếng ăn, luôn
luôn phải trốn tránh những cuộc vây ráp, những cuộc hỏi cung và và những trận bắn
nhau trên đường phố. Rốt cục ở Roxtôv họ bị trưng tập vào quân đội. Ông nhạc
trưởng có cái mũi xốp xồm xộp thậm chí còn tuyên bố rằng ông ta là một nhà cách
mạng già kiên định. Nhìn cái mũi màu xám tim tím của ông ta, họ tin rằng con
người này sẽ không làm điều gì tai hại.
Một lần nữa Mamantôv đã lại tránh cuộc giao
chiến. Bằng một cuộc chuyển quân nhanh chóng, lữ đoàn của y bứt ra khỏi quân
Buđionny. Cuộc săn đuổi lại tiếp tục. Nhưng bây giờ ý đồ của Mamantôv đã rõ: vượt
qua chiến tuyến đỏ về phía quân mình. Đó là điều mà Buđionny sợ hơn cả: nếu y
làm được như vậy, cả cái chiến dịch này chỉ công cốc, và lúc bấy giờ không còn
biết ăn nói ra sao trước tổng tư lệnh và càng không có cách gì tự bào chữa trước
Hội đồng quân sự tối cao nữa.
Có một cái tệ nữa là không sao bắt được
liên lạc với bất cứ nơi nào, để biết rõ những gì đang xảy ra xung quanh... Cuối
cùng họ đến một con đường sắt. Buđionny cùng với tham mưu trưởng và chính ủy của
ông phi lên trước, đi vào nhà ga và ngồi vào máy. Qua những đường dây điện thoại
Buđionny nhận được những tin tức bất ngờ đến nỗi ông lập tức cho gọi các sư
đoàn trưởng và các cấp chỉ huy đơn vị từ đại đội trở lên đến nhà ga.
Họ tụ tập trong phòng giải khát. Qua những
khung cửa sổ lớn đã mất kính có thể thấy rõ các đại đội kỵ binh xếp thành đội
ngũ hành quân đang tiến lại gần và vượt qua đường sắt. Sau lưng họ vầng tà
dương hắt ra một dải ánh sáng ảm đạm mấp mé chân trời, bị một lớp mây đen dày
đè lên nặng trĩu. Từng hàng kỵ binh, những lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phơ trên ngọn
dáo, đang đi lên dốc đường tàu. Bóng họ như những pho tượng đồng đen, dũng mãnh
lạ thường trên lưng những con ngựa dũng mãnh. Têlêghin phải kinh ngạc khi trông
thấy gương mặt Vađim Pêtrovits lúc bấy giờ đang nhìn ra cửa sổ. Trong ánh chiều
tà, gương mặt ấy ngưng đọng lại trong một niềm kiêu hãnh say sưa.
- Lẽ ra từ đầu ta phải biết tổ quốc là như
thế nào... - chàng nói rất khẽ, giọng trầm trầm. Ivan Ilyits nhích lại gần để
nghe cho rõ: - chúng ta quên mất điều đó. Không có một tử hình nào đủ để trừng
phạt một sự phản bội như thế... Hãy hôn lên mảnh đất để tạ ơn tổ quốc đã tha thứ
cho mình...
Sau cuộc xung đột bên đụn rạ, đây là lần đầu
tiên Vađim Pêtrôvits nói như vậy. Têlêghin hiểu rằng chàng đang rất khổ tâm, và
sở dĩ chàng không nói gì, không phải vì kiêu hãnh, mà vì tuyệt vọng khi thấy rõ
mình không còn cách gì để xin lỗi Têlêghin - chẳng lẽ chỉ nói: “Ivan, mình xin
lỗi cậu”? Giờ đây, trong trạng thái mệt mỏi và căng thẳng kéo dài, Rôstsin đã
đi đến cái giây phút mà lòng chàng tràn đầy nỗi xúc động của một người đã có lại
được tổ quốc, cái tổ quốc mà mình đã để mất, đã quên lãng đi. Và đó cũng là lời
cầu xin tha thứ của chàng...
Ivan Ilyits ho húng hắng. Chàng cũng muốn
nói một lời thân ái với Rôstsin, để xóa hẳn câu chuyện xích mích rồ dại ấy đi,
coi như không hề xảy ra bao giờ... Vừa lúc ấy Buđionny từ phòng điện báo bước
ra. Các cấp chỉ huy vội quây quần xung quanh ông. Buđionny nói:
- Có nhiều tin tức quan trọng các đồng chí ạ...
Ta hãy nói tin dữ trước, Orel đã bị Kutepôv chiếm. Trinh sát của hắn đã mon men
đến Tula. Với đợt tấn công này, hắn đã chọc sâu một mũi vào trận tuyến của ta.
Quân đoàn Tám và quân đoàn Chín đã bị đánh bật về phía đông. Quân đoàn Mười và
quân đoàn Mười ba đã bị đánh bật về phía tây... Đấy là vào tuần trước.
-Buđionny im lặng một lát, đôi mắt vui vẻ long lanh. - Từ bấy đến nay tình hình
đã có nhiều thay đổi, các đồng chí ạ... Trước hết, xin báo để các đồng chí mừng:
toàn thể bộ Tổng tư lệnh đã được thay thế. Và ông chủ tịch Hội đồng quân sự tối
cao không còn làm vương làm tướng ở Mặt trận miền Nam nữa... Quân ta đã chiếm lại
Orel... Các trung đoàn lừng danh của Kornilôv, Markôv và Đrozđôv đã bị đánh tan
giữa Orel và Kronny... Những điều mà ta vẫn mong đợi từ lâu nay đã bắt đầu...
Hiện nay chưa rõ những chi tiết, nhưng có một tập đoàn ứng chiến đặc biệt đang
hoạt động có hiệu quả chống lại quân của Kutepôv...
Xêmiôn Mikhailôvits lại im lặng, tay vân vê
băng điện báo, bộ ria nhích nhích, đôi mắt diều hâu nhìn qua những người chỉ huy
đang đứng xung quanh.
- Những cuộc hành quân của lữ đoàn ta đã được
tiến hành không phải theo mệnh lệnh của bộ tổng tư lệnh, mà ngược lại với mệnh
lệnh đó... Chúng ta được lệnh tiến về phía Nam, vào cánh thảo nguyên vùng
Xalxki, tới sông Mannyts, nơi quân đoàn Mười suýt bỏ xác, nhưng chúng ta đã tiến
lên phía Bắc. Đáng lẽ phải ở tả ngạn sông Đôn thì ta lại ở hữu ngạn sông Đôn.
Đáng lẽ phải tránh cho xa đạo kỵ binh sông Đôn, thì ta lai bám riết lấy đuôi
nó: như thế là không tốt, không được!... Còn như cái ý kiến thô lậu của chúng
ta, thì những cái dầu mu-gích, những cái đầu cô-dắc của chúng ta không được có
ý kiến riêng gì hết, ở bộ tham mưu tổng tư lệnh đã có những đầu óc sáng suốt
nghĩ thay cho chúng ta... Thế là chúng ta cứ đi, và những bản mệnh lệnh của tổng
tư lệnh cứ lẽo đẽo đi theo chúng ta. Tôi không cầm những bản mệnh lệnh đó, tôi
không đọc: nếu đọc thì e đến rụng rời chân tay, gươm buông đằng gươm, súng
buông đằng súng. Tuy vậy, dù muốn dù không, mệnh lệnh vẫn đã đuổi kịp tôi... Một
mệnh lệnh không nhiều lời... - Ông chăng dải băng điện báo ra cho nó khỏi xoắn
lại, rồi đọc: - “Gửi lữ đoàn trưởng Lữ đoàn kỵ binh Buđionny. Những tài liệu
trinh sát mới nhất cho thấy đạo kỵ binh địch đang di chuyển từ khu Voronej lên
phía Bắc. Tôi ra lệnh cho lữ đoàn trưởng kỵ binh Buđionny đánh tan đạo quân kỵ
binh này của địch...”. Chỉ có thế. Thật là ngắn gọn và đơn giản. Như thế tức là
đầu óc chúng ta đã nghĩ đúng - Mệnh lệnh này ký tên Xtalin, chủ tịch hội đồng
quân sự cách mạng Mặt trận miền Nam, ban hành tại bản doanh bộ tổng tư lệnh ở
Xerpukhôv.
* * *
Katya đã trở về Moxkva, trở về với chính
cái ngõ Xtarokônyusenny trên phố Arbat, trong ngôi biệt thự nhỏ có cái nhà chòi
ở phía trên (hồi đầu chiến tranh Nikôlai Ivanôvits Xmokôvnikôv đã cùng Katya từ
Pêterburg đến đây, và hồi ở Pari về Katya cũng ở đây), cũng trong gian phòng mà
hôm an táng Nikôlai Ivanôvits nỗi chán chường vô hy vọng đã từng kết tụ lại dày
đặc trên cuộc đời nàng. Hôm ấy, đắp tấm áo lông nằm trên giường, nàng đã không
muốn sống nữa... Sau mấy tiếng thở dài, nàng đã đứng dậy, đi sang phòng ăn lấy
ít nước để uống morphin, và trong
bóng hoàng hôn nàng đã chợt nhìn thấy cuộc đời thứ hai của nàng: Vađim
Pêtrôvits đang ngồi ở phòng ăn đợi nàng...
Thế rồi cái chu kỳ thứ hai của đời nàng - một
quãng đời căng thẳng, chan chứa tình yêu, đầy những nỗi khổ, - đã lại khép kín.
Phía sau lưng nàng để lại một chặng đường dài dằng dặc đầy những tổn thất không
thể nào hàn gắn lại được. Katya đã cảm thấy như thế một cách xót xa nhất là khi
nàng xách cái gói nhỏ đựng quần áo bước ra khỏi nhà ga Kiev ở Moxkva, hồi giữa
tháng bảy... Trên sông Moxkva, mấy đứa trẻ đang lội bì bõm trong dòng nước đã
rút cạn, và tiếng cười nói của chúng vang lên lanh lảnh giữa cõi im lặng; trên
bờ, một ông già cầm cần câu ngồi yên trên lớp cỏ tàn úa; bước ra đại lộ
Xadôvaia mà bao nhiêu dãy song sắt rào quanh các sân nhà đều đã biến đi đâu hết,
Katya phải kinh ngạc trước sự im lặng khác thường bao trùm lên khắp đại lộ: chỉ
có tiếng lá rì rào của rặng cây bồ đề cổ thụ đang trang trọng phủ bóng rợp xanh
um lên những ngôi biệt thự vắng vẻ; phố Arbat xưa kia đông đúc nhộn nhịp là thế,
mà nay không có một bóng tàu điện hay xe ngựa thuê, chỉ lác đác vài người qua
đường cúi đầu đi giữa mấy đường tàu ray han rỉ. Katya đến ngõ Xtarokônyusenny,
rẽ vào và cuối cùng đã trông thấy ngôi nhà của mình. Chân tay khuỵu xuống. Nàng
đứng hồi lâu trên vỉa hè đối diện. Trong kỷ niệm nàng vẫn hình dung ngôi biệt
thự nhỏ này rất đẹp, màu hoàng kim lấp lánh, với dãy cột trắng bóng, với những
khung cửa sổ sạch sẽ buông rèm. Hình bóng của Katya, của Vađim Pêtrôvits, của
Đasa đã từng sống ở đây... Chẳng lẽ tất cả những cái gì đã từng có nay đều mất
đi không còn để lại một dấu vết nào? Chẳng lẽ cuộc sống lại trôi qua như một giấc
mộng trong cái đầu đặt trên gối, và sau khi đã phỉnh phờ người ta một cách hão
huyền, lại tan biến đi trong tiếng thở dài tỉnh giấc? Không, không, trong những
ngày qua, nhất định hình bóng của họ phải đọng lại ở một nơi nào đấy trong một
niềm vui bất ngờ: hình bóng Katya vừa đánh rơi lọ morphin xuống đất và rũ rượi
ngả vào đôi tay cứng rắn của Vađim Pêtrôvits đang bồi hồi xúc động thì thầm với
nàng những lời yêu thương. Đó không phải là một giấc chiêm bao, những hình ảnh ấy
chưa hề mất đi, ngay bây giờ nó cũng đang ở đấy, sau những cánh cửa sổ đóng kín
kia. Và cũng ở đấy trôi qua đêm đầu tiên của họ, một đêm không ngủ, trôi qua
trong những cái hôn lặng lẽ và sâu xa như một niềm đau khổ, và trong những lời
thì thầm kinh ngạc được nhắc đi nhắc lại mãi mà bao giờ cũng mới mẻ, kinh ngạc
vì đây là phép nhiệm màu duy nhất trên thế gian đã gắn bó khắng khít cái gì mềm
dịu nhất với cái gì cường tráng nhất qua đôi cánh tay nõn nà mảnh dẻ của nàng
và đôi cánh tay rám nắng lực lưỡng của chàng quyện chặt lấy nhau...
Ngôi biệt thự vẫn đứng đấy, tiều tụy, tồi
tàn, tróc lở, và không hề có dãy cột trắng. Dãy cột ấy chỉ có trong trí tưởng
tượng của Katya mà thôi. Hai cửa sổ ngoài cùng ở tầng thứ nhất được bịt lại ở
phía trong bằng những tờ báo, còn những cửa sổ khác đầy những vết bùn đã khô:
có thể thấy rõ là nhà chẳng có ai ở cả. Trong căn nhà chòi, nơi đặt buồng ngủ của
Katya, bao nhiêu kính đều đã vỡ hết.
Katya đi qua lòng đường và gõ lên cánh cửa
trước, trên đó lớp sơn màu nâu đã tróc ra từng mảng dài. Katya gõ cửa một hồi
lâu mới nhận thấy rằng thay cho quả nắm nay chỉ có một cái lỗ đầy bụi. Bây giờ
nàng sực nhớ ra rằng từ ngõ hẻm có thể đi vào cổng sau. Cổng mở toang, nhưng
trên khoảng sân cỏ mọc xanh rì có một con đường mòn mờ mờ dần từ cổng vào. Như
thế nghĩa là ở đây vẫn có người ở.
Katya gõ cửa nhà bếp. Một lát sau có người
ra mở cửa. Đó là một người đàn ông thấp bé, nước da nhợt nhạt như tờ giấy, tóc
vàng, đeo kính trắng, đầu to, tóc rối bù:
- Tôi đã quát ra là cửa không đóng kia mà.
Cô cần hỏi gì?
- Xin lỗi ông, tôi muốn hỏi bà Marya
Kônđratyevna có còn ở đây không?
- Đúng, ở đây, - người kia trả lời bằng cái
giọng người ta vẫn dùng để bình luận những công thức toán học. - Nhưng bà ấy chết
rồi...
- Chết rồi ư? Từ bao giờ?
- Cũng chưa lâu lắm, tôi không nhớ rõ...
- Bây giờ tôi biết làm thế nào đây? - Katya
bối rối thốt lên - căn nhà của tôi hiện có ai ở không?
- Tôi không biết căn nhà ấy có phải của cô
không, nhưng nó đã có người ở...
Người kia đã toan đóng cửa lại, nhưng thấy
người đàn bà xinh đẹp kia rưng rưng nước mắt, hắn ngần ngừ.
- Thật rầy rà quá... - Katya nói. - Tôi từ
nhà ga về thẳng đây, nhưng bây giờ biết đi đâu? Đã hai năm nay tôi không về
Moxkva, bây giờ về nhà thì lại...
- Cô về nhà à? - người kia kinh ngạc hỏi lại
- về Moxkva à?...
- Vâng. Suốt thời gian qua tôi ở miền Nam,
rồi ở Ukrain...
- Cô làm sao thế nhỉ? Người không được bình
thường phải không?
- Có gì đâu... Sao ông lại hỏi thế? Chả nhẽ
về nhà lại là một chuyện lạ đến thế hay sao?
Trên gương mặt gầy gò nhợt nhạt của người
kia, đôi môi mỏng nhếch chéo sang một bên, làm cho cái má hóp nhăn lại:
- Thế cô không biết là ở Moxkva người ta
đang chết đói à?
- Tôi có nghe nói là tình hình thức ăn rất
gay go. Nhưng tôi cần ít lắm... Với lại tình hình đó cũng nhất thời thôi... Khi
nào khó khăn, ở nhà mình vẫn hơn.
- Thật ra cô là ai?
- Tôi là Rôstsina Êkatêrina, tôi làm giáo
viên... Giấy tờ đây. - Katya dùng răng tháo cái nút thắt ở túi vải. Nàng lấy tờ
giấy chứng nhận của dân ủy giáo dục ra. - Tôi làm việc ở Kiev mãi cho đến khi
có lệnh tản cư. Tôi dạy ở một trường vỡ lòng... Ông ủy viên nhân dân yêu cầu nhất
thiết tôi đừng ở lại với bạch vệ... Vả lại bản thân tôi cũng không muốn ở lại
chút nào... Ông ấy lại có đưa cho tôi bức thư này, gửi ông dân ủy
Lunatsarxki... Nhưng thư có niêm phong...
Người kia đọc giấy chứng nhận, đọc địa chỉ
đề ngoài phong bì. Tất cả những cử chỉ của hắn đều chậm rãi.
- Thật ra, phòng của bà cụ không có ai ở cả.
Nếu cô nhất định muốn ở đây, cô cứ vào... Tuy ở đây mục nát mốc meo cả rồi... Ở
Moxkva có thể chiếm bất kỳ biệt thự nào chưa có người ở...
Hắn tránh ra để cho Katya bước vào một gian
nhà bếp tranh tối tranh sáng ngổn ngang những bàn ghế gãy, Hắn chỉ cho nàng cái
chìa khóa phòng bà già treo trên một cái đinh đóng trên tường một dãy hành lang
ám khói, rồi chậm rãi trở về phòng mình (phòng làm việc trước kia của Nikôlai
Ivanôvits). Katya chật vật mãi mới mở được cửa căn buồng ngột ngạt có hai cửa sổ,
bên ngoài bê bết những bùn khô. Trước kia đó là buồng ngủ của nàng. Giường của
nàng vẫn ở chỗ cũ, và trên tường vẫn treo cái tủ thuốc con con chạm trổ có hình
Alkonost và Xirin trên cánh cửa: dạo ấy nàng đã lấy lọ morphin trong tủ này ra. Bà Marya Kônđratyevna quá cố đã lôi về đây
những đồ đạc tốt nhất trong cả căn nhà - đi-văng, ghế bành, giá để đồ cứ chồng
chất lên nhau, nhiều cái đã gãy, phủ đầy bụi và mạng nhện.
Katya thấy nản quá: trong cái thành phố
Moxkva rộng mênh mông, vắng vẻ và đói khát, bị nắng tháng bảy thiêu đốt, trong
căn phòng ngột ngạt chất đầy những đồ đạc không cần thiết này nàng phải bắt đầu
sống, bắt đầu bước vào vòng thứ ba của đời mình. Nàng ngồi lên tấm đệm để trần
và lặng lẽ khóc. Nàng rất mệt và đói. Nàng thấy cái sức lực nhỏ bé của mình
không sao khắc phục được những khó khăn phức tạp trước mắt. Nàng nhớ lại ngôi
nhà nhỏ xiêu vẹo đáng yêu, thân thiết bên cạnh trường học, mảnh vườn nhỏ, cánh
đồng mấp mô ở bên kia hàng rào... Cái chổi bên ngưỡng cửa, chậu nước trong
phòng lót, cái ánh sáng xanh xanh lọt qua khóm lá chiếu vào cửa sổ, soi lên những
cuốn vở học trò... Những đứa trẻ vui tươi, vô tư lự, thằng bé Ivan Gavrikôv mà
nàng yêu quý...
Tại sao lại không thể ở lại đấy mãi mãi?
Katya xuống giường để đi lấy ít nước nhúng
cái bánh mì đem từ Kiev về cho mềm bớt mà ăn. Ngay đến một cái cốc cũng không
có để mà bắt đầu sống! Katya tức tối gạt nước mắt đi sang phòng người có cái mặt
nhợt nhạt.
Nàng gõ cửa khe khẽ rồi nói, giọng nhỏ nhẻ:
- Xin lỗi ông, tôi cứ quấy rầy ông mãi...
Hắn chậm rãi ra mở cửa, rồi như thể băn
khoăn điều gì, hắn nhìn Katya đăm đăm.
- Xin lỗi ông, ông có cái cốc nào không,
tôi muốn uống tí nước.
- Tôi tên là Maxlôv, đồng chí Maxlôv, - hắn
nói - Cô cần cái cốc như thế nào?
- Cốc nào thừa ông cứ cho tôi mượn...
- Được.
Hắn đi về phía cuối phòng, cửa vẫn để mở.
Katya trông thấy trên mấy cái giá bằng ván có để nhiều sách, trên cái bàn viết
có một cuốn sách mở và những bản thảo viết tay. Trong phòng còn có một cái giường
sắt tồi tàn, cũng ngổn ngang những sách. Sàn nhà đầy những rác rưởi, giấy dán
trên mấy khung cửa sổ đã ngả sang màu vàng. Maxlôv trở ra, vẫn chậm chạp như thế,
và đưa cho Katya một cái cốc bẩn:
- Cô có thể lấy hẳn về mà dùng...
Trong gian bếp, Katya chật vật len đến cái
chậu rửa tay ngập ngụa dưới đống giấy lộn. Nhưng vòi vẫn có nước. Rửa sạch cái
cốc, Katya vặn nước uống ngon lành, rồi trở về phòng mình. Trước khi ăn, nàng
muốn mở các cửa sổ ra và rửa ráy một chút. Nhưng tháo mấy cái khung kính đã
trát kín chẳng phải là dễ. Katya hì hục hồi lâu, cào sồn sột, lấy cái chân ghế
gãy gõ thình thình vào mấy cái then dọc, chốc chốc lại thở dài một tiếng rõ to.
Nghe tiếng ồn, Maxlôv sang xem. Hắn im lặng nhìn Katya một lát, vẻ ngạc nhiên.
- Tại sao cô lại phải mở cửa sổ?
- Ở đây e chết ngạt mất.
- Cô tưởng không khí ở ngoài đường sạch hơn
sao? Bụi bặm và hôi hám lắm... theo tôi thì không nên. - Katya đứng trên bậu cửa
sổ nghe hắn nói, rồi lại cầm cái chân ghế gõ tiếp. - Cứ cho là cô sẽ mở được
đi, nhưng đến đêm lại phải đóng lại... Mở làm gì cho mất công...
Cuối cùng cái then dọc bật ra, và Katya nhảy
trên bậu cửa sổ xuống, khao khát hít thở không khí ngoài đường.
- Phải, phải, - Maxlôv nói, vẻ trầm ngâm, -
vấn đề thành phố ta chưa giải quyết được.
Bỗng hai đầu gối hắn run run như chỉ chực
khuỵu xuống, hắn nhìn quanh xem có chỗ nào ngồi được không, rồi tựa vào khung cửa,
hai ngón tay cái thọc vào dải thắt lưng lỏng lẻo nịt quanh cái áo sơ-mi vải
phin đã lâu không giặt.
- Tuyết đã tan hết từ lâu, thế mà bùn, rác,
xác chó, xác mèo và cả xác ngựa nữa vẫn còn ngổn ngang trên các đường phố và
trong các sân nhà... Mưa cũng có làm trôi đi một ít, nhưng đó không phải là một
cách giải quyết vấn đề...
Katya ngắt lời hắn:
- Ông ạ, buồng tắm của ông có còn tắm được
không?
- Tôi cũng không biết nữa... Hồi trước có một
anh thợ lắp ống dẫn nước ở đây... Cứ đến chủ nhật anh ta lại loay hoay sửa chữa
gì ở trong nhà bếp và trong buồng tắm, nhưng anh ta đi ra mặt trận mất rồi...
- Ông ạ, bây giờ ông đi ra chỗ khác nhé, - Katya
nói, giọng cương quyết, - cho tôi dọn dẹp, tắm rửa một tí, rồi tôi sẽ sang
ông... Trước hết tôi cần biết một số địa chỉ... Ở Moxkva tôi chưa biết đâu vào
với đâu cả... Ông sẽ giúp tôi một chút, có được không?
- Được, được, hôm nay là chủ nhật, tôi sẽ ở
nhà cả ngày...
Hắn chậm chạp tách người ra khỏi cái khung
cửa và bỏ đi. Katya khóa trái cửa lại. Điều thiết yếu là phải can đảm lên, rồi
mọi việc sẽ trôi chảy. Nàng cởi áo và cởi váy cho khỏi dây bẩn, rồi bắt tay vào
giao chiến với bụi bặm. Trong mấy cái thùng tha hồ lấy giẻ rách. Trong khi lục
lọi, Katya tìm thấy mấy tấm khăn trải giường còn nguyên cả dấu của nàng đánh ở
nóc, rồi lại tìm thấy mấy thứ áo quần của nàng và vài đôi tất mạng. Marya
Kônđratyevna thật là con người vàng ngọc: bà ta đã giữ lại cho nàng những vật
vô giá!... Còn nói chung thì sinh thời bà ta vốn tham lam và hay táy máy...
Thôi cũng cầu cho bà ta yên giấc dưới mồ...
Ngay tối hôm ấy Maxlôv cho Katya xem những
bản thảo của hắn, lại còn đọc mấy đoạn lên cho nàng nghe nữa. Đó là một công
trình nghiên cứu về các tác gia kinh điển của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Ngồi
trên cái gường sắt bừa bộn hắn nói với Katya:
- Chắc cô lấy làm lạ rằng thời buổi này mà
lại đi nghiên cứu về những con người không tưởng phải không? Chủ nghĩa không tưởng
ở thời đại chuyên chính vô sản! Cái lô-gích nội tại ở chỗ nào? Cô thú nhận đi:
cô lấy làm lạ lắm phải không?
Katya, mắt đã ríu lại, gật đầu xác nhận rằng
nàng có lấy làm lạ.
- Ấy thế mà vẫn có lô-gích đấy... Tôi chú ý
nghiên cứu cặn kẽ những cố gắng của một số người và một số nhóm nhỏ ở giữa thế
kỷ thứ mười chín nhằm thực hiện những tư tưởng không tưởng. Đó là một trong những
trang kỳ thú nhất của lịch sử chuyển biến xã hội.
Hắn quay mặt đi để giấu một nụ cười để lộ
hai hàng răng hạt đỗ.
- Nhưng tôi chỉ viết được vào những ngày chủ
nhật. Tôi bận túi bụi ở ủy ban khu; ở ủy ban bây giờ thiếu người lắm. Ở Moxkva
hầu như không còn đảng viên... Sở dĩ tôi được miễn ra mặt trận chỉ vì tình trạng
sức khỏe quá kém... Tôi đã kiệt quệ về thể xác và tinh thần...
Tuy ốm đau và người hầu như chẳng còn chút
gì là vật chất nữa. Maxlôv vẫn tỏ ra khá tháo vát. Ngay hôm sau hắn đi với
Katya ra Dân ủy giáo dục, giới thiệu nàng với những cán bộ cần gặp, giúp nàng
đăng ký hộ khẩu và lĩnh phiếu thực phẩm.
Không có hắn thì Katya sẽ hoàn toàn rối trí
trong cái trụ sở rộng mênh mông của dân ủy, với vô số những vụ, những phòng và
những ông thủ trưởng; hơn nữa cái tâm lý hiếu động và sợ trì trệ cứ thúc đẩy
các cán bộ chuyển hết chỗ này sang chỗ khác, hết tầng trên đến tầng dưới ít nhất
là mỗi tuần một lần, mang theo cả bàn, tủ và hồ sơ, đồng thời cũng thay đổi cả
cơ cấu tổ chức bên trong, quan hệ và trách nhiệm của từng cán bộ nữa.
Katya lập tức được bổ nhiệm làm giáo viên ở
một trường vỡ lòng trên phố Prexnya. Ở một phòng khác nàng được huy động vào một
công tác xã hội là dạy lớp thanh toán nạn mù chữ vào buổi tối. Ở một phòng thứ
ba nàng gặp một người gầy đến mức không thể tưởng tượng được, da mặt bủng beo,
đôi mắt to tướng sáng long lanh như lên cơn sốt. Ông ta đưa Katya qua mấy dãy
hành lang và mấy cái cầu thang, đến ban tuyên truyền nghệ thuật. Ở đấy người ta
giao cho nàng đi nói chuyện ở các nhà máy.
- Nội dung của những buổi nói chuyện ta sẽ
định sau. - Người có nước da bủng beo nói. - cô sẽ được cung cấp tài liệu, sách
vở và sẽ được phổ biến kế hoạch. Đừng lo, cô là người có văn hóa, thế là đủ rồi.
Tấn bi kịch của chúng ta là ở chỗ ta ít người có văn hóa quá: hơn một nửa số
trí thức đang bất hợp tác với ta. Họ sẽ tiếc cay tiếc đắng vì đã làm như vậy.
Phần còn lại thì mặt trận đã nuốt hết. Cô đến đây đã đem lại cho mọi người một ấn
tượng tốt đẹp...
Và cuối cùng, trong hành lang Katya vấp phải
một người to béo, vẻ hết sức bận rộn, môi dày, mình mặc chiếc áo vải thô kiểu
Tolxtôi, hai nách mốc xanh ra.
- Cô là diễn viên phải không? Người ta vừa
giới thiệu cô cho tôi, - hắn nói vội vã, và không để ý đến câu trả lời của
Katya nói rõ mình là giáo viên, cứ nắm lấy hai vai Katya lôi nàng đi dọc hành
lang. - Tôi sẽ ghép cô vào một đoàn biểu diễn lưu động, cô sẽ đi toa riêng ra mặt
trận. Khi ở Moxkva ra đi, bánh mì, đường và bơ loại một tha hồ lĩnh, không hạn
chế... Còn tiết mục thì không lo! Với dung nhan, dáng dấp của cô, cô tha hồ muốn
hát thì hát, muốn múa thì múa, các chiến sĩ hồng quân sẽ vỗ tay như sấm... Tôi
đã từng gửi ra mặt trận một ông giáo sư Tsêbectykin, năm nay sáu mươi tuổi,
chuyên về hóa học hay là thiên văn gì đấy tôi cũng chẳng biết nữa. Thế thì bây
giờ ông ta được mệnh danh là “ông vua biểu diễn lưu động”: ông ta chuyên hát những
ca khúc của Bêrăngjê... Cô không cần cám ơn tôi làm gì, tôi là một người sống
thuần túy bằng nhiệt tình...
- Này ông! - Katya vừa kêu lên vừa vùng ra
khỏi tay ông ta. - Tôi có trường học của tôi, có những bài nói chuyện ở các
công xưởng, có công tác thanh toán mù chữ... Tôi không thể xẻ thân ra làm đôi làm
ba được...
- Xẻ thân là thế nào? Thế dễ tôi có thể xẻ
thân ra chắc? Salyapin cũng không xẻ thân ra được, thế nhưng tôi xoay được một
chai cô-nhắc cho ông ta, thế là bây giờ chính ông xin ra mặt trận... Thôi được,
cô cứ nghĩ kỹ đi... Tôi sẽ tìm ra cô...
Katya về nhà, lòng nặng trĩu dưới những
trách nhiệm quá lớn lao mà nàng đã phải nhận. Gió nóng hầm hập lùa qua các ngõ
hẻm vắng tanh, cuốn lên những cột bụi và giấy vụn xoáy tít trên mặt đường lát
đá. Katya rẽ ra đại lộ Tverxkôi. Nàng trù tính xem mình có đủ thì giờ làm việc
không, nếu mỗi ngày ngủ sáu tiếng. Sẽ còn lại vị chi mười tám tiếng... Ít quá!
Đi dạy ở trường, chấm bài, sửa bài ngày mai... Dạy lớp thanh toán nạn mù chữ
cũng mất hai tiếng là ít... Trời ơi, lại còn phải tính thì giờ đi về nữa chứ! Rồi
lại nói chuyện nữa, kể cả đi về Vả lại nói chuyện cũng phải chuẩn bị chứ... Mười
tám tiếng e không đủ mất!
Katya ngồi xuống một chiếc ghế dài bên vệ
đường, hình như chính cái ghế mà nàng và Đasa đã ngồi dạo trước, vào năm chín
trăm mười sáu, khi họ gặp Bexxônôv đi thất thểu trên đường, quần áo bám đầy bụi
bặm... Thật là kỳ quặc! Hai người đàn bà hoàn toàn vô ích, quá nhiều thì giờ
không biết làm gì cho qua ngày, mà cũng thấy mình đang sống qua một tấn bi kịch
chẳng biết là vì cái nỗi gì, khi Bexxônôv, đúng như trong thơ của Alkxanđr
Blôk: “Nhọc nhằn thay một người đã chết phải giả vờ sống, giả vờ say mê giữa
đám người đang sống” - đến cúi chào họ và chậm rãi đi qua, còn họ thì nhìn theo
và thấy thương hại hắn, đặc biệt là khi trông thấy cái quần bán quân phục của hắn
có vẻ như chỉ chực tụt xuống giữa đường...
Phải ngủ bốn tiếng một ngày, và ngủ bù vào
những ngày chủ nhật thôi. Lại còn phải xếp hàng mua thức ăn nữa! Katya nhắm mắt
lại và rên lên một tiếng... Gió thổi mấy món tóc quăn bay lất phất trên cái cổ
mảnh dẻ của nàng, lùa vào cây bồ đề già trên đầu Katya, làm cho khóm lá xào xạc
lên một cách tàn nhẫn... Và trong tiếng lá xào xạc ấy Katya dần dần bớt khổ tâm
với bài tính đố ác nghiệt: làm thế nào mỗi ngày phải có được hơn hai mươi bốn
tiếng đồng hồ. Không sao, rồi sẽ có cách!... Rồi ý nghĩ của nàng lại tha thẩn
xung quanh sự thay đổi trong bản thân nàng, sự thay đổi kỳ lạ vẫn không ngừng
làm cho nàng ngạc nhiên và mừng rỡ. Cái giây phút mà nàng tựa gáy vào lò sưởi
nhìn thẳng vào gương mặt giận dữ điên cuồng của Alekxêy và nói thẳng vào mặt hắn:
“Không!” - trong người nàng đã bắt đầu nảy nở một nỗi chờ mong điềm tĩnh và vững
chắc, hướng về một hạnh phúc mới mẻ. Mùa xuân qua nàng đã được thể nghiệm ít
nhiều cái hạnh phúc ấy. Mỗi tối trước khi đi ngủ nàng ôn lại ngày vừa qua:
trong đó không có một chút gì u tối, không có một chút gì ngột ngạt. Katya thấy
thích mình. Thế mà bây giờ nàng lại chơi cái trò phóng đại nỗi sợ hãi và tuyệt
vọng của mình lên, tưởng đâu mình không thể nào đảm đương nổi những công tác xã
hội sắp phải gánh vác... Vấn đề tuyệt nhiên không phải ở đấy: mới gần đây thôi,
con mèo con tội nghiệp được người ta nhặt giữa đường bỗng đâu đã thành một sinh
vật có ý nghĩa: kể ra người ta cũng cần đến Katya, rất cần nữa là khác, cái đồng
chí phụ trách có bộ mặt bủng beo và đôi mắt rất đẹp đã nói chuyện với nàng một
cách kính cẩn... Phải xứng đáng với những điều đó. Nếu sau này ở Dân ủy Giáo dục
người ta phải nói: “Thế mà chúng mình cứ trông mong vào cô ta...” thì như thế mới
thật khủng khiếp. Ở đây, ở thành phố Moxkva này, hoàn toàn không phải như khi
ngồi lắc lư trên chiếc xe giàn đi theo Alekxêy trên thảo nguyên, mồm gặm cái cọng
rơm, và nghĩ bụng: “Ôi, nữ tù nhân, mày đẹp mà làm gì?”.
Maxlôv bắt Katya phải báo cáo lại thật cặn
kẽ. Khi nàng thuật lại cuộc trao đổi với người cán bộ có bộ mặt bủng beo, cả
cái má bên phải của Maxlôv hằn lên những đường nhăn đồng tâm bao quanh cái mép
nhếch cao lên vì một nụ cười nửa miệng:
- Phải, phải, - hắn quay mặt đi, - tấn bi kịch
của giới trí thức mới chỉ là một phần nửa tai họa... có một cái còn bi đát hơn
nhiều.
Ngày mồng một tháng tám Katya mở cửa trường.
Những đứa con gái nhỏ, bím tóc buộc chỉ hay thắt bằng những mảnh vải nhỏ, những
đứa con trai mặc áo sơ-mi rách lặng lẽ đến trường và lặng lẽ ngồi vào bàn học. Nhiều
đứa mặt cứ trong suốt đi và choắt lại như mặt ông già.
Katya dành ngày đầu để làm quen với lũ trẻ.
Nàng ngồi ghé vào bàn học của chúng, hỏi thăm và gợi cho chúng nói chuyện. Nàng
đã có được chút ít kinh nghiệm, biết cách làm cho trẻ quan tâm ngay từ đầu.
Nàng cầm một cuốn sách nhỏ lên, giơ ra: “Các em xem cuốn sách này: ở trong sách
có giấy trắng, in chữ đen, từng dòng xam xám. Các em cứ nhìn mãi từ sáng đến tối
cũng chẳng trông thấy gì hơn. Nhưng nếu các em học đến khi biết đọc, biết viết,
biết sử ký, địa dư, biết làm toán và biết nhiều thứ khác nữa, cuốn sách này bỗng
chốc sẽ sống dậy...”.
Nàng nhớ lại những đôi mắt trẻ thơ ánh lên
vì tò mò háo hức hồi nàng dạy ở trường làng Vlađimirxkôiê. Dạo ấy lũ trẻ say mê
nhất là khi nghe nàng kể chuyện cổ tích Vua Xaltan.
“Em bắt đầu học a, b, c, rồi tập viết chữ
trên bảng đá, rồi tập đọc, nhất thiết phải đọc to lên, từng câu, từ chấm này đến
chấm nọ... Thế rồi bỗng một ngày kia, những hàng chữ bắt đầu biến đi đâu mất hết,
và trên trang sách em sẽ thấy một mặt biển xanh biếc với những làn sóng chạy
vào bờ, lại còn nghe cả tiếng sóng vỗ lên bờ nữa, và từ dưới biển sẽ bước lên bốn
mươi trang dũng sĩ mặc áo giáp và đội mũ sắt, mặt tươi cười, áo quần ướt sũng,
và cùng đi với họ là ông Tsernômor râu dài...”.
Kể lại những chuyện như thế ở đây, trên phố
Prexnuya này, nàng có cảm giác là lời lẽ của nàng không lọt vào tai lũ trẻ, nó
cứ phai nhạt dần đi trong cái lớp học tồi tàn, hết một nửa khung kính cửa sổ bịt
bằng gỗ dán, vữa trên tường thì tróc nham nhở để lộ cả gạch ra. Mấy đứa con gái
tay gầy như tay mèo con, và mấy đứa con trai mặt nhăn nheo và đầy những vết xước,
im lặng ngồi nghe, và trong khóe mắt chúng nàng chỉ thấy có sự hạ cố... Cả lũ
trẻ đều đang nghĩ đến một cái gì khác.
Đến giờ ra chơi, lũ trẻ đi ra sân, nhưng chỉ
có dăm đứa con gái chơi lò cò, tung sỏi, với lại hai đứa con trai sinh sự cãi
nhau. Còn phần đông đều ngồi vào bóng rợp của dãy rào, nơi những bụi ngưu bàng
mọc rậm rạp, và cứ ngồi yên như thế: không có đứa nào mang theo quà bánh. Tất cả
chúng nó đều là con cái những gia đình thợ thuyền ở trong khu này, và rất nhiều
đứa có bố ra mặt trận. Một thằng bé chống tay xuống đất nhìn đám mây lơ lửng
trên phố Prexnuya trông như một đám khói. Katya ngồi xuống cạnh nó, hỏi nghiêm
trang:
- Tên cháu là Mitya Pêtrôv phải không?
- Vâng.
- Bố cháu làm việc ở đâu?
- Bố cháu đi bộ đội lâu rồi.
- Mẹ cháu thế nào?
- Mẹ cháu ở nhà, mẹ cháu ốm.
- Bố cháu ở mặt trận có gửi thư về không?
- Không ạ.
- Sao thế?
- Có gì mà viết đâu ạ... Chẳng có chuyện gì
vui... Bố cháu đi, bảo mẹ cháu: tôi sẽ giết mười thằng tướng để trả thù cho cái
bệnh lao lực của mình... Bố cháu gan lắm...
- Lớn lên, cháu thích làm gì?
- Cháu không biết... Mẹ cháu nói là hai mẹ
con không sống qua mùa đông này đâu.
* * *
Những đạo bạch quân đang tiến về phía
Moxkva. Nhưng mùa thu còn đến nhanh hơn. Mấy ngày hồi hạ cuối cùng với ánh nắng
vàng óng đã trôi qua, và gió bắc không ngớt tràn về, lùa hàng đàn mây đen dày đặc.
Ở trường học không còn chút than củi gì để
đốt cái lò sưởi gang. Katya lên dân ủy gặp người cán bộ có bộ mặt bủng beo để
than phiền. Ông ta chỉ gật đầu, đôi mắt sáng long lanh trong cơn sốt không rời
gương mặt dịu hiền của Katya: “Êkatêrina Đmitrievna ạ, tôi rất thông cảm với nỗi
lo lắng của chị và đánh giá rất cao sự nhiệt thành của chị, nhưng mùa đông năm
nay tình hình chất đốt rất khủng khiếp: người ta đã hứa cấp củi cho dân ủy giáo
dục, nhưng chỗ củi ấy ở mãi tỉnh Vologôđxkaia, phải có xe mới chở về đây được...
Tuy vậy chị cứ thử đi khắp các cơ quan có thể đi được, cố nài van xem...”.
Lũ trẻ đến trường, mặt xanh tím, người ướt
sũng, khoác những chiếc áo bành tô và những chiếc áo vét cũ của mẹ, đều đã rách
nát đến nỗi may ra chỉ có thể đem treo ra vườn rau làm bù nhìn. Cuối cùng Katya
phải quyết định giở thủ đoạn kẻ cướp công khai, quy định một buổi lao động tập
thể đi rút hàng rào, và một đêm tối mịt gió thổi ào ào, ông khán trường - một
ông lão điếc đi chân gỗ - Katya và lũ trẻ - chúng đến gần đủ mặt - ra phá dãy
rào khiêng vào phòng mắc áo của nhà trường. Ông khán trường đem cưa ra làm củi,
và sáng hôm sau trong phòng học ấm hẳn đi, bốn bức tường ẩm uớt hơi bốc nghi
ngút, lũ trẻ vui hẳn lên, và Katya ngồi trên bục giảng cho chúng nó nghe về
năng lượng mặt trời (hôm qua bản thân nàng vừa đọc cuốn sách nhỏ rất bổ ích
nhan đề “Những lực lượng của thiên nhiên”)
- Các em ạ, tất cả những vật em trông thấy
đây: cái bục này, mấy cái bàn kia, cũng như ngọn lửa trong lò sưởi, cũng như bản
thân các em, đều là năng lượng mặt trời cả... Nhiệm vụ của loài người là phải
chinh phục năng lượng đó... Chính vì thế mà phải học, học mãi, đấu tranh, đấu
tranh mãi... Bây giờ ta chuyển sang bài học tiếng Nga... Tiếng Nga cũng là năng
lượng mặt trời, cho nên ta phải nắm vững nó...
Giờ ra chơi, lũ trẻ kể cho Katya nghe đủ
các thứ tin tức. Chúng nó biết tất cả những gì xảy ra ở phố Prexnya, ở Moxkva
và cả ngoài nước nữa - ở xứ sở của những ông Lord. Katya đã biết được rất nhiều qua những câu chuyện ấy, Chẳng hạn,
trước cả các báo, nàng được biết bạch quân chọc thủng chiến tuyến ở Orel: các
thương binh ở trận này đã được chở về đây. Hai đứa con gái đã cố ý chạy đến nhà
vợ chồng chú Mikulin để nghe chú kể chuyện. Chú Mikulin, một người thợ điện vừa
được đưa từ mặt trận về, xanh xao, bị trúng đạn nhiều chỗ, nhổm người trên giường,
tuy các bác sĩ đã dặn phải nằm yên, và thều thào nói với mẹ và vợ:
- Ở mặt trận chúng ta có kẻ làm phản! Đưa
giấy bút đây, để tôi viết thư cho Vlađimir Ilyits! Những người vô sản ưu tú
đang tắm trong máu, đang bị vùi sâu xuống đất ẩm, nhưng nhất định không để cho
Moxkva lọt vào tay tên tướng bạch vệ... Mất Orel không phải tại chúng tôi: ở
đây có kẻ làm phản!...
Mitya Pêtrôv nghe hai đứa con gái kể chuyện
này, mặt bỗng trắng bợt ra như vữa tường, hai mắt nó cứ mở rộng dần ra, và
trong đôi mắt ấy chứa chất một nỗi đau khổ lớn lao đến nỗi Katya xúc động ngồi
xuống bên bàn, ôm đầu nó vào lòng, nhưng nó lặng lẽ né ra: lúc này nó còn thiết
gì vỗ về an ủi.
Mưa tầm tã suốt mấy ngày liền, và phố
Prexnya ngập ngụa dưới một lớp bùn nhão màu thiếc sâu lút đầu gối. Lũ trẻ đến
trường mà lòng hoang mang đến cực độ vì những tin đồn đang truyền đi trong
thành phố như một bệnh dịch. Khó lòng có thể làm cho lũ trẻ tập trung nghe giảng
bài được. Một con bé tóc đỏ tên là Klavđya, ở nhà chưa làm bài tập đếm và tập cộng,
đang giữa giờ học toán bỗng khóc òa lên. Katya gõ bút chì lên mặt bàn:
- Klavđya, cố nín ngay đi.
- Cháu không n-nín được, cô Ka-a-aty-a ạ...
- Có chuyện gì thế?
Con bé đáp, giọng khàn khàn:
- Mẹ cháu bảo: thôi đừng học toán nữa, đằng
nào chả thế...
- Chỉ vớ vẩn, mẹ cháu không đời nào lại nói
như thế.
- Thật ạ! Mẹ cháu nói: đằng nào cũng thế
thôi, con ở bùn đất mà ra, con sẽ trở về với bùn đất... Bọn sĩ quan sẽ cho ngựa
giẫm chết hết chúng mình.
Đến chập tối Katya đi dạy lớp thanh toán mù
chữ. Nàng men sát các bờ rào cho đỡ ướt chân, đến mỗi ngã tư lại dừng lại phân
vân, không biết làm thế nào vượt qua đường được. Ở nhà anh thợ Tsexnôkôv (cách
đây không lâu đã được đưa ra mặt trận làm chính ủy) trong số mười người đàn bà
vẫn đến học với nàng, hôm nay không thấy một người nào đến. Chị Tsexnôkôv lấy
chồng được nửa năm nay, đang có mang, gầy rạc ra, mặt đầy những vệt vàng vàng.
Chị nói với Katya:
- Chị đừng đến dạy chúng tôi nữa chị ạ, đợi
một thời gian nữa đã. Bây giờ chúng tôi chẳng còn bụng dạ đâu mà học... Vả lại
chị cũng đỡ khổ...
Chị cho Katya xem một mảnh giấy nhỏ của chồng
chị gửi từ mặt trận về:
“Lyuba ạ, nếu chúng nó chiếm được Tula, thì
phải chuẩn bị đi. Chúng ta nhất định không để mất Moxkva. Chúng chỉ có thể vào
Moxkva sau khi bước qua xác chết cuối cùng... Nhân có người về, anh viết vội mấy
chữ... Có thể sắp tới sẽ có một đồng chí bộ đội tên là Rôstsin ghé về, em hãy
tin đồng chí ấy. Đồng chí ấy sẽ kể rõ. Nếu anh em công nhân ở chỗ ta cũng được
nghe đồng chí ấy kể thì hay quá. Nếu đồng chí ấy có cần gì, phải bảo anh em họ
giúp đỡ đồng chí ấy. Anh vẫn khỏe, bây giờ đã biết cưỡi ngựa rồi: ngày trước có
bao giờ tưởng tượng đến chuyện ấy...”.
- Chúng tôi cứ mong đồng chí Rôstsin ấy về
mà mãi chẳng thấy, - chị Tsexnôkôva nói, mắt buồn rười rượi nhìn ra khung cửa sổ
ướt đẫm nước mưa. - Khi nào đồng chí ấy về chị đến mà nghe, tôi sẽ cho con bé đến
gọi chị... Rôstsin nào thế nhỉ, hay là chồng chị?
- Không phải đâu. - Katya đáp - chồng tôi
chết từ lâu rồi.
Về đến nhà, nàng đốt cái lò sưởi sắt có cái
ống khói luồn ra ngoài cửa sổ - kiểu lò “con ong”, được mệnh danh như vậy là vì
nó kêu vo vo khi củi đã đốt lên. Cái lò này là do công nhân ở phố Prexnya làm
ra và tự tay đến lắp ở phòng Katya, nghĩ rằng cô giáo của họ sẽ đủ sức làm việc
hơn nếu được ngủ ấm một chút. Katya cởi đôi giày ướt sũng, đôi tất và chiếc váy
lấm bùn, rửa đôi chân trong chậu nước lạnh buốt, bao nhiêu áo quần khô lấy ra mặc
hết, rót nước vào ấm đặt lên lò, rút trong túi áo khoác ra một mẩu bánh mì xám
xịt và cứng đét, cắt ra từng miếng một, đặt lên chiếc khăn mặt sạch bên cạnh
cái chén và cái thìa con bằng bạc. Tất cả những việc ấy nàng đều làm một cách
lơ đãng. Khi cánh cửa nhà bếp mở đánh cách một tiếng và trong hành lang có tiếng
chân của Maxlôv bước một cách chậm chạp không tài nào chịu nổi, nàng tới phòng
Maxlôv gõ cửa.
- A! Kính chào cô Êkatêrina Đmitrievna! Mời
cô ngồi, Thời tiết khốn nạn quá!... Còn cô thì tôi thấy cứ càng ngày càng xinh
ra, xinh ra mãi. Đúng thế...
Không hiểu tại sao tối hôm ấy Maxlôv cáu kỉnh
khác thường. Khi Katya hỏi: chuyện gì đang xảy ra thế này, tại sao đâu đâu cũng
lo sợ nhớn nhác? - thì hắn không quay mặt đi như thường lệ, và nhếch đôi môi mỏng
mỉm một nụ cười hết sức cay độc.
- Cô muốn biết những tin tức trong đảng hay
còn muốn biết việc gì nữa? Tin mặt trận phải không? Quân ta đang thua. Tôi còn
có thể nói gì với cô nữa nhỉ? Đang thua, thế thôi! Còn ở Moxkva thì vẫn như xưa
nay: tinh thần vẫn lạc quan, phấn khởi!... Đang tổng động viên những người cộng
sản đứng lên đánh bại Đênikin... Ở Pêtrôgrađ đang soát nhà hàng loạt trong các
khu phố tư sản... Vừa có quyết định đóng cửa tất cả các nhà máy và công xưởng
vì thiếu chất đốt... Và đây là tin cuối cùng, tin này mới thật đáng phấn khởi:
vừa có chỉ thị đăng ký lại các thẻ đảng viên, nghĩa là dọn sạch các chuồng ngựa
Augiax, một công việc tày trời... Ấy, chỉ cần làm như thế là ta sẽ đánh bại được
cả Đênikin lẫn Yuđênits và Koltsak...
Hắn lê chân xền xệt bước qua bước lại trong
gian phòng đầy những mẩu thuốc lá hút dở: phía dưới đôi ống quần ướt sũng và lấm
be bét của hắn lòng thòng mấy sợi dây buộc ống quần lót... Vừa đi đi lại lại, hắn
vừa búng ngón tay, nhưng vì tay nhão quá, chẳng kêu được bao lăm.
- Cứ thế là sẽ thắng, cứ thế là sẽ thắng, -
hắn nhắc đi nhắc lại, giọng phỉ báng. - Dĩ nhiên là cô chẳng hiểu những chuyện
đó được đâu... Mà cô không hiểu thì cũng chẳng có gì là lạ... Có điều còn lạ
hơn nhiều là như tôi đây chẳng hạn, tôi cũng không hiểu nốt... Tôi không hiểu
chút gì nữa - Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở văn hóa vật chất... Chủ
nghĩa xã hội là hình thái cao nhất của lao động sản xuất. Đúng! Vậy thì nhất
thiết phải có một nền công nghiệp phát triển đến cao độ chứ? Đúng thế. Nhất thiết
phải có một giai cấp công nhân đông đảo có trình độ phát triển cao? Chứ còn gì
nữa! Chúng tôi đã đọc Karl Marx, đọc rất kỹ. Thôi được, ta sẽ làm công tác
thanh trừ vậy... Trong khi chúng tôi hãy còn đạn...
Rốt cục Katya chẳng được hắn cho biết gì rõ
ràng cả. Hôm sau nàng đến Dân ủy giáo dục xin chỉ thị. Trong dãy hành lang
chính, xưa nay chưa bao giờ thấy có gió lùa, thế mà hôm nay không biết vì nơi
nào cửa sổ bị vỡ, hay người ta cố ý mở ra, gió lạnh cứ lùa hun hút, buốt đến tận
xương, mặc dầu đâu đâu cũng có những nhóm cán bộ đang tụm năm tụm ba lại bàn
tán thì thầm: Katya đi hết phòng này đến phòng khác nhưng chẳng được việc gì hết.
Chỉ có một chị cán bộ, cổ áo khoác lông đã sờn rách xốc lên kín cả mũi, nói cho
nàng biết:
- Ô, chị này mê ngủ hay sao mà không biết
là chúng ta sắp tản cư đi Volôgđa rồi?
Rồi bỗng nhiên, cũng một cách đột ngột như
thế, tình hình lại thay đổi hẳn. Sáng sớm hôm sau, trời mới mờ mờ sáng Katya đã
chạy ra trường. Đến phố Xađôvaia nàng phải dừng lại đợi. Trên lớp bùn đã đóng cứng
như đá, dưới rặng bồ đề cổ thụ trụi lá đã bắt đầu rít theo cung bậc mùa đông,
những đội công nhân vũ trang đang kéo qua, gót giày nện vỡ vụn những vũng nước
bị đóng băng... Đi sau là một đoàn xe giàn. Rồi kế đến lại là những đoàn người
kề sát vai nhau từng hàng bước chậm rãi, đều đều như cùng chịu một phép thần
thông. Khi đây, khi đó, những giọng thô lỗ, không quen hát, hòa vào nhau trong
điệu “Quốc tế ca”. Trên những tấm vải đỏ thẫm họ giương cao trên đầu, có đề những
dòng chữ viết vội, không thẳng hàng: “Tất cả cho cuộc đấu tranh chống giặc
Đênikin!”, “Cách mạng vô sản trên toàn thế giới muôn năm!”, “Tiêu diệt giai cấp
tư sản thế giới!”. Từ trong đám sương mù ảm đạm của buổi sáng sớm âm u, những
đoàn người vũ trang cứ lần lượt hiện ra và diễu qua trùng trùng điệp điệp.
Katya nhìn những gương mặt râu ria lởm chởm, gầy gò, hốc hác, đen đủi, và thấy
rõ ràng trong khóe mắt, trong những đôi môi mím chặt ấy cùng có một thần sắc y
hệt như nhau: ý chí khắc phục mọi nỗi niềm đau khổ riêng tây và một quyết tâm
không gì lay chuyển nổi...
Ở trường, lũ trẻ lập tức kể cho Katya nghe
một tin mới: hôm qua trên phố Prexnya, ở nhà máy cơ khí, Lênin đã đến nói chuyện,
và Tuần của Đảng đã bắt đầu.
* * *
Cách Vôrônej không xa, lữ đoàn kỵ binh
Kuban của Skurô đã hợp nhất với Mamontôv. Bây giờ Mamontôv đã có sáu sư đoàn kỵ
binh để chọi lại hai sư đoàn của Buđionny. Y dừng lại và bắt đầu đợi Buđionny đến.
Y tách ra một phần lực lượng để tăng cường phòng thủ Vôrônej; y cải tổ hai lữ
đoàn lại thành ba đạo quân và chọn một chiến trường thuận lợi, nơi đạo kỵ binh
đỏ sẽ bị bao vây và tiêu diệt: đó là một cánh đồng rất rộng dựa vào một con đường
sắt, trên đó có một đoàn tàu bọc thép rất mạnh - một con rùa thép vũ trang bằng
một loạt đại bác trăm hai mươi ly - đi tuần thường xuyên.
Buđionny rất táo bạo, nhưng lại rất biết
suy tính. Ông luôn luôn nhận được những tin tức chi tiết về tất cả những cuộc
chuẩn bị và những mưu mô của tướng Mamontôv... Một đứa con gái nào đó giấu mẩu
giấy viết nguệch ngoạc trong chiếc khăn vuông hay trong bím tóc, hoặc giả một
bà già tiều tụy thiểu não xách cái bị đựng những mẩu bánh thừa, đi qua các trạm
gác của bạch quân - khó lòng có ai mê được một đứa con gái bẩn thỉu như thế,
còn bà già kia thì gã cô-dắc nào cũng phải nhổ nước bọt mà tránh cho xa. - rồi
đi tìm các chiến sĩ trinh sát của Buđionny và chuyển tài liệu cho họ.
Buđionny dừng lại giữa một cánh rừng và một
bãi lầy, không đi đến cánh đồng rộng đã được dành sẵn làm tử địa cho ông. Ông
ra lệnh cho ngựa ăn no và xem lại móng ngựa thật kỹ (ngựa trong lữ đoàn đều chỉ
đóng móng vào chân trước) Ông lại ra lệnh bổ sung đạn dược, và thay cho món kê
mà các chiến sĩ ăn mãi đã ngấy đến tận cổ, ông cho phát thịt lợn muối và đậu
cô-ve chiến lợi phẩm, sữa hộp, bánh bích quy xốp, cả thuốc lá thơm để cho họ
vui chơi chuyện trò bên bếp lửa trại... Tất cả những món đó đều lấy trong “kho
lưu động”, tức trong các đoàn xe tải của bạch quân vốn có một nội dung rất
phong phú. Bấy giờ những đoàn xe như thế đêm ngày tuôn nườm nượp từ Vôrônej đến
nơi đóng quân của Mamontôv, Buđionny đặc biệt căn dặn phải lấy cho thật nhiều
súng các-bin mới của Nhật để thay thế cho những khẩu súng cũ đã nứt nẻ qua các
trận đánh, đồng thời lấy cả những đồ dùng văn phòng nữa.
Được khu rừng và bãi lầy án ngữ hai bên, có
thể ngủ cho đẫy giấc trước cuộc hành quân quan trọng sắp tới. Nhưng các chiến
sĩ thấy cuộc hành quân này quan trọng đến nỗi ít ai có thể điềm tĩnh được: quần
nhau với sáu sư đoàn kỵ binh sông Đôn không phải là chuyện đùa. Họ tắm rửa chải
cọ cho ngưa không phải một cách qua loa, mà kỹ lưỡng đến mức có thể lấy khăn
tay trắng lau thử cũng không thấy khăn giây một chút bẩn nào. Suốt ngày họ lúi
húi sửa yên, mài kiếm. Trong các đơn vị không hề nghe thấy tiếng hát hay tiếng
phong cầm: ai nấy chỉ lo bàn đến những vấn đề quan trọng đang đặt ra trước mắt.
Trông thấy một chính trị viên đi qua, họ vẫy lại hỏi chuyện: này anh đảng viên
cộng sản, lại đây hỏi tí nào... “Anh bạn đồng chí thân mến ơi, anh hãy nói cho
chúng tôi nghe, trị xong thằng Mamontôv, có lẽ ta cũng nên đánh chiếm Vôrônej
thôi chứ; ở đấy chúng nó chất bao nhiêu là của!...”. Anh chính trị viên trả lời
rằng về chuyện Vôrônej thì hiện nay Xêmiôn Mikhailôvits chưa có chỉ thị gì. Bây
giờ họ chuyển sang tranh luận: một đạo kỵ binh có thể đánh chiếm được một khu vực
phòng thủ kiên cố không? Người thì nói là có thể được nếu tinh thần được cổ vũ
đến cao độ, người thì khẳng định rằng đó là việc trái quy luật.
Đại đội của Têlêghin được giao nhiệm vụ cảnh
giới, đóng ở sát bãi lầy. Ở phía nam trải ra một cánh đồng bằng, trên đó thỉnh
thoảng lại thấy ẩn hiện những đội trinh sát của bạch quân. Ở phía này tập trung
một trong ba đạo quân của Mamontôv. Đêm đêm có thể trông thấy ánh phản chiếu mờ
mờ của những đống lửa trại hắt lên mây.
Trong đại đội kỵ binh, các chiến sĩ cũng
bàn tán nhiều xung quanh trận đánh sắp tới, trong đó những khối kỵ binh đông
đúc và hùng mạnh chưa từng thấy sẽ gặp nhau. Một kỵ binh kỳ cựu tên là Gorbusin
kể chuyện rằng năm mười bốn trung đoàn Áo đánh rất dữ dội vào một sư đoàn khinh
kỵ của ta, nhưng sau trận này quân Áo phải đưa hết cả đạo kỵ binh về hậu
phương... Kỵ binh Áo công kích quân ta từ một ngọn đồi: họ tính chuyện dồn kỵ
binh ta vào một thung lũng hẹp. Nhưng kỵ binh ta đã từ cái thung lũng ấy lao
lên đồi, hai bên sườn có bốn đại đội Cô-dắc cầm dáo, ở giữa là các đơn vị U-lan, cũng vũ trang bằng dáo, và những
đơn vị phiêu kỵ Akhtyr, mũ và áo quân
phục kết những dải vàng, toàn những tay gan góc cả. Quân ta biết là quân Áo lao
trên đồi xuống như vậy, đà rất mạnh, không thể nào quay trở lại được. Khi đã đến
gần, chúng không ngờ quân ta xông lên hung hãn như vậy, muốn ghìm ngựa lại,
nhưng đã muộn mất rồi! Quân ta cứ thọc dáo từ dưới lên, rất tiện; đâm xong thì
bỏ luôn dáo, phóng qua hàng ngũ địch, quay lại chém bằng gươm, nhưng không chém
vào vai, vì phía dưới lon vai chúng có đệm những miếng thép, mà chém ngang người...
Thế là cả bốn trung đoàn cận vệ đều nằm lại trên đồi, kẻ thì bị chém đứt đôi, kẻ
thì bị dáo cắm chặt xuống đất, thật là một cảnh tượng hãi hùng!
Latughin, vốn không thích có ai kể chuyện một
cách hấp dẫn trước mặt mình, ngắt lời người kỵ binh già:
- Phải, quả có thế, cũng là chuyện thường
thôi, đôi khi ngẫu nhiên nó sinh ra thế... Bây giờ anh thử kể cái chuyện ba chiến
sĩ hồng quân của ta bắt sống một tiểu đoàn Đức đi... Anh không biết à? Ố-ồ!
Đáng lẽ phải biết chứ...
- Nào kể đi, Latughin, - nhiều người giục.
Latughin đang ngồi trước đống lửa, sát mớ
than hồng đang hắt một ánh sáng đo đỏ lên khuôn mặt hốc hác, sau gần ba tuần
rong ruổi trên lưng ngựa nay chỉ còn lại rặt những gân là gân. Latughin,
Gaghin, và Zađuyviter đã được Têlêghin đưa vào tiểu đoàn cảnh vệ của đại đoàn bộ
ngay từ đầu, suốt hai tháng trời ăn không, hai má béo phị ra, và hiện nay họ được
sung vào đội kỵ binh của chàng.
- Ở Quân đoàn Mười chúng tớ có một cậu tên
là Lenka Stsur, một tay bạt mạng như cậu ta thì dù có tìm khắp bốn phương cũng
khó lòng thấy được. - Latughin bắt đầu kể, hai tay chống lên đốc thanh kiếm mũi
cắm xuống đất. - Mùa thu năm ngoái, hồi còn ở trong một đại đoàn Ukrain, hắn ta
đi trinh sát với hai cậu nữa. Họ đang cưỡi ngựa đi ung dung như thế thì bỗng chạm
trán phải quân Đức: gần một tiểu đoàn. Chúng đang đóng ở một địa điểm hẻo lánh,
nấu xúp ăn...
- Chỉ nói láo, - một thính giả nói, - thằng
Đức mà lại đi nấu xúp trong khi đang đóng ở một nơi hẻo lánh!
Latughin ném một cái nhìn nặng nề lên người
vừa nói:
- Phải giải thích cho cậu hiểu tại sao
chúng nó lại nấu xúp phỏng?... Được... Quân Đức lúc bấy giờ đang rút về nước: ở
bên ấy cũng đã có cách mạng... Ở Ukrain xung quanh đấy tất cả các làng mạc đều
đã nổi dậy, đặt súng máy quanh làng, không thể chui vào lối nào được: quân Đức
đói meo đi... Bây giờ thì cậu hiểu rồi chứ? Quân Đức chưa kịp định thần thì
Lenka đã lấy mảnh vải sạch buộc vào đầu kiếm và mạnh dạn cưỡi ngựa đến gặp
chúng, nói: “Các anh hàng đi, các anh đã lọt vào vòng vây của một đạo kỵ binh hết
sức hùng hậu. Chúng tôi sẽ không thèm dùng gươm làm gì, chỉ cần phi ngựa qua
các anh cũng bị giẫm nát hết...”. May sao lúc bấy giờ lại có một tên phiên dịch
ở đấy, hắn địch cho tên chỉ huy nghe. Tên chỉ huy tiểu đoàn là một hạ sĩ quan
béo tốt, hắn trả lời Lenka: “Tôi không tin là anh nói thật...”. Lenka mới nói với
hắn: “Anh không tin là đúng. Anh cứ lên ngựa đi với chúng tôi về đại đoàn bộ, ở
đấy người ta sẽ đề ra cho các anh những điều kiện đầu hàng phải chăng...”. Quân
Đức bàn bạc với nhau rất kỹ, tên chỉ huy nói: “Gút Morgen, đồng ý, chúng tôi sẽ
cho người đi với các anh, số lượng gấp ba, hễ các anh làm điều gì khả nghi,
chúng tôi sẽ bắn chết ngay dọc đường...”. Lenka nói: “Xin cứ việc, về phần
chúng tôi thì không thể có gì gian trá được; chúng tôi là chiến sĩ cách mạng...”.
Thế là họ cùng đi về đại đoàn bộ. Hai bên bắt đầu thương lượng. Quân Đức yêu cầu
phải để cho chúng đi ra đến đường xe lửa và cấp cho chúng hai mươi lăm pút kê.
Quân ta đòi quân Đức phải nộp vũ khí, trong đó có hai khẩu đại bác... Quân Đức
giữ vững lập trường, quân ta cũng giữ vững lập trường. Trong khi đó Lenka cứ
lăng xăng một bên, nói: “Đồng chí đại đoàn trưởng ạ, chúng nó đói cho nên mới
khó tính thế, để tôi làm địch vận cho, đồng chí cứ ra lệnh xuất ít thịt mỡ thật
ngon và bánh mì trắng ra đây”. Về cái khoản rượu thì cái thằng quỷ sứ ấy không
nêu lên một cách chính thức, nhưng tay trưởng ban quản trị lại là cánh hẩu của
hắn, thế là có ngay ba lít. Hắn ngồi với mấy thằng Đức trong một nhà dân, thái
thịt mỡ, bánh mì, rót rượu ra ca và cứ thế nói hết chuyện này đến chuyện nọ;
nào là ở Ukrain chúng tôi ăn uống ngon lành như thế nào, nào là dân nói chung rất
dễ có cảm tình như thế nào. Hắn khen ngợi người Đức là đã đánh đổ được cái ông
vua Vilhelm của họ. Và tuy lần này không có phiên dịch, quân Đức vẫn hiểu hết:
Lenka xoa quả đấm lên lưng bọn chúng một cách thân mật như chỗ bạn bè, nắm lấy
hai tai chúng nó mà hôn vào mặt, chẳng bao lâu bên bàn tiệc chỉ có hai người
còn ngồi được: hắn ta và tên hạ sĩ quan chỉ huy quân Đức. Lenka nói thao thao bất
tuyệt, còn thằng Đức thì chỉ cười, ngón tay lắc lắc... Tham mưu trưởng đại đoàn
cho người đến hỏi dò xem công việc đã đi đến đâu rồi. Lenka đáp: “Chưa được,
tên chỉ huy chưa cắn câu, phải thêm ba lít nữa mới xong...”. Ấy, đến khi cạn nốt
ba lít ấy thì bên bàn tiệc chỉ còn lại một mình Lenka. Mấy thằng Đức phải ngủ lại.
Sáng sớm hôm sau tên hạ sĩ quan để các bạn hắn lại làm con tin - dù sao thì chúng
cũng say khướt, không sao lên ngựa được - và ra đi với Lenka. Đến tối hắn dẫn cả
tiểu đoàn đến - khoảng bốn trăm tên cầm cả cờ đỏ... Số là buổi địch vận của
Lenka đã làm cho hắn hài lòng quá...
Khi Latughin kể xong câu chuyện - đặc sắc
hơn câu chuyện về trận Brôđy của Gorbusin nhiều -, và các chiến sĩ đã cười hả
hê: người thì nhe răng hí lên như ngựa, người thì quệt nước mắt, người thì
khoát tay kêu “ồ!” lên vì cười đau cả bụng. - bỗng thấy Rôstsin bước gần đống lửa
ghé tai Latughin nói:
- Anh đi tìm ngay Gaghin và Đaduyviter, rồi
cả ba người đến lều gặp tôi.
* * *
Trong làn sương mù ban mai trắng như sữa
giăng khắp cánh đồng, năm người cưỡi ngựa phóng đi: Rôstsin trên con ngựa hồng,
bờm húi ngắn, và trước chàng một nửa mình ngựa là Ôlêkô Đunđits, một người
Xerbi nhỏ nhắn, chỉ huy một đại đội kỵ binh của Buđionny; trên con đường đấu
tranh không khoan nhượng của anh, Đunđits đã tìm thấy một tổ quốc thứ hai, và với
tất cả chất lửa của một con người chất phác, yêu đời và dũng cảm đến mức liều
lĩnh, anh đã đem lòng yêu quý nước Nga rộng mênh mông và cuộc cách mạng rộng
mênh mông của nó; Đunđits và Rôstsin đều mặc áo ca-pốt sĩ quan màu xám, vai đeo
lon vàng; ở phía sau, Latughin, Gaghin và Zađuyviter gò người trên ba con ngựa
đang phi nhanh, đầu đội mũ lưỡi trai đính quân hiệu bóp nhàu đi một cách ngang
tàng, mình mặc áo khoác ngắn, vai đính lon thượng sĩ cô-dắc.
Họ có nhiệm vụ lọt vào Vôrônej, quan sát
cách bố trí pháo, vị trí của các lực lượng kỵ binh và bộ binh, và cuối cùng là
trao cho viên tư lệnh quân phòng thủ - tướng Skurô - một bức thư niêm phong của
Buđionny.
Đunđits vốn yêu đời và thích bày những trò
chơi nguy hiểm để đùa bỡn với cuộc đời. Vào những ngày tháng mười quang đãng
này, khi những bắp thịt cứ cuộn lên dưới lần áo sơ mi quân phục mỗi khi người ta
hít thở làn không khí mờ hơi sương sớm chứa đầy những mùi hương ngào ngạt, anh
càng thấy ngứa ngáy chân tay không sao chịu nổi. Đunđits đã tự nguyện đến xin đảm
đương việc trao bức thư cho Skurô. Anh đi tìm Rostsin và nói với chàng:
- Vađim Pêtrôvits ạ, có một cuộc phiêu lưu
nho nhỏ này, anh đi thì hợp quá! Anh biết rõ tất cả các tập quán và tác phong
kiểu cách của sĩ quan. Anh nhận lời đi Vôrônej với tôi một chuyến nhé. Chỉ mất
có một ngày, sẽ được một chuyến phi ngựa thú vị. Buđionny đã hứa cho chúng ta
mượn hai con ngựa riêng: con Petusôk và con Aurora...
Như thế này mà còn đắn đo cân nhắc xem có
nên nhận lời hay không thì thật buồn cười. Chỉ có điều là Vađim Pêtrôvits hơi
thấy khó chịu khi nghe nhắc đến những tác phong kiểu cách của sĩ quan. Nhưng rồi
quả nhiên chàng đã phải bỏ ra một buổi tối để dạy cho các bạn biết rõ các cấp
dưới phải đứng nghiêm, chào và trả lời câu hỏi của cấp trên như thế nào, dáng dấp
bề ngoài của các sĩ quan tình nguyện phải ra sao: sĩ quan của quân Đrozđôv thì
vẻ mặt bao giờ cũng đầy ý mỉa mai, thích đeo kính cặp mũi để tưởng nhớ ông quan
thầy quá cố; sĩ quan Kornilôv thì có đôi mắt lờ đờ theo truyền thống cũ và
gương mặt phản ánh một nỗi thất vọng khinh khỉnh, sĩ quan Markôv thì hay diện
áo ca-pốt bẩn và cố phô trương những câu chửi tục tằn.
Họ đã ước định với nhau là hễ bị chặn lại hỏi
thì trả lời: “Chúng tôi đưa đến Vôrônej một phong thư mật của quan chỉ huy
trung đoàn tình nguyện dự bị mới ở miền nam đến đóng ở khu vực Katornaia”. Câu
trả lời này vừa mập mờ vừa có sức thuyết phục.
Sau khoảng ba tiếng đồng hồ phi ngựa, trong
làn ánh sáng trắng bệch lọt qua những đám mây màu chì từng lúc rồi lại tắt đi
ngay, trước mắt năm người đã thấy thành phố Vôrônej hiện ra ở xa xa: những mái
vòm nhà thờ, những tháp canh, những mái nhà đo đỏ. Suốt dọc đường đi họ không bị
một đội trinh sát nào chận lại hỏi: chúng chỉ bắc ống nhòm nhìn năm người cưỡi
ngựa đang phi về phía thành phố, rồi lại cho ngựa đi bước một như cũ. Đến một
cái cầu gỗ bắc vội, họ bị chặn lại lần đầu tiên. Trên cầu có mấy người dáng dấp
khá chững chạc đang đi đi lại lại, đầu đội mũ bình thiên không có lưỡi trai,
mình mặc áo da cừu trắng giống như kiểu áo của đàn bà Ukrain, và không hiểu tại
sao người nào cũng để râu xổm. Bên kia cầu, một tốp junker đang hút thuốc bên mấy cái công sự đầu cầu.
Đunđits dừng ngựa lại, nhảy xuống đất và bắt
đầu thắt lại đai ngựa.
- Xuất trình mấy tờ chứng minh thư giả ra
thì không nên, - anh nói khe khẽ - Nước sông lên to, tìm chỗ nào lội qua thì chỉ
tổ ướt đến tận cổ, lại càng không nên. Chỉ có cách đi qua cầu.
- Được, ta sẽ chửi chúng nó một trận rồi
qua cầu, - Latughin nói, vẻ mặt lầm lì.
Zađuyviter bỗng cười ngặt nghẽo:
- Ô! Các đồng chí ơi, cứ chọc mắt tôi đi, mấy
người ở trên cầu là mấy ông pốp đấy,
đội quân nhà Chúa đấy...
- Đi bước một, vui vẻ lên, tiến!... - Đunđits
vừa nói vừa nhảy lên yên nhanh nhẹn như con mèo. Mấy người râu xồm ở trên cầu
thi nhau quát: “Đứng lại! Đứng lại!”. Đunđits cho ngựa đi thẳng vào bọn họ, tay
kéo căng dây cương, cựa giày chích nhè nhẹ vào sườn con Pêtusôk. Nhưng bọn kia
huơ súng quát tháo ầm ĩ lên đến nỗi con ngựa gò mông lại, quất đuôi túi bụi.
Đành phải đứng lại. Mấy cánh tay chìa ra định nắm lấy dây cương:
- Chúng mày điên rồi hẳn: dám giật cương của
quan lớn à! Chúng mày là ai? Giấy tờ đâu?
- Im ngay! Lùi ngựa lại! - Đunđits điềm
tĩnh nói qua vai với Latughin, rồi mỉm cười để lộ hàng răng trắng muốt dưới bộ
ria ngạnh trê, anh cúi xuống nói với mấy gã râu xồm:
- Các anh hỏi giấy phép qua cầu phải không?
Tôi không có giấy... Tôi là thượng tá Đunđits, còn đây là đội vệ binh của tôi..
Các anh thỏa mãn rồi chứ? Cám ơn...
Rồi Đunđits cười lớn, thúc ngựa mạnh đến nỗi
nó thở hộc lên một tiếng, cất hai vó trước lên, phô cả cái bụng màu xám tim
tím, rồi nhảy qua tốp người râu xồm lúc bấy giờ chỉ kịp nhảy sang một bên. Nhưng
sau đó Đunđits lại ghìm ngựa ngay, cho đi bước một. Ở bờ bên kia đã bắt đầu báo
động. Tốp junker bỏ thuốc lá đi, rồi
vướng víu trong những tà áo ca-pốt dài chấm đất, chúng chạy về mấy dãy chiến
hào đắp đất sét. Từ trong chiến hào, hai khẩu đại liên chĩa nòng vào tốp người
cưỡi ngựa. Người chỉ huy công sự đầu cầu, một sĩ quan cao lớn có bộ mặt uể oải
để ria mép, quát lớn:
- Ê, mấy người ở trên cầu kia, xuống ngựa,
chuẩn bị giấy tờ... Đếm đến hai là chúng tôi nổ súng...
Cái giọng đai ra một cách lười biếng và xấc
xược ấy, Rôstsin nghe quen thuộc đến nỗi chàng nghiến răng lại vì ghê tởm.
Đunđits ngoảnh miệng về phía chàng nói:
- Không còn cách nào khác. Phải đánh úp
thôi.
Tay Đunđits thò xuống đốc kiếm. Rôstsin
nhanh tay gạt đi.
- Têplôv! - chàng quát gọi viên sĩ quan cao
lớn. - Tôi đây mà, Vađim Rôstsin đây!
Đoạn chàng thong thả xuống ngựa và cầm
cương dắt nó qua cầu một mình. Viên sĩ quan ấy chính là Vaxka Têplôv, trước kia
là bạn cùng đơn vị của chàng - một tay bợm rượu, ngu ngốc và hay khoe khoang,
mà có lần Rôstsin đã cảnh cáo nghiêm khắc là sẽ đánh vỡ mặt vì thói ngồi lê đôi
mách và tính ti tiện. Têplôv nghi hoặc nhìn Rôstsin đang dắt ngựa đến, tay từ từ
đút khẩu súng lục vào bao.
- Không nhận ra à? Chắc lại bí tỉ rồi chứ
gì? Chào ông mãnh... - Rôstsin cứ để nguyên cả găng bắt tay hắn. - Cậu làm gì ở
đây? Lại tập hợp được một đội râu xồm thế kia nữa, thật ngớ ngẩn! Lẽ ra bây giờ
cậu phải chỉ huy một trung đoàn kia chứ... lại bị giáng phỏng? Vì say rượu chứ
gì?
- Chà cậu thật! Ma mãnh ở đâu ấy! - Têplôv
nói, giọng đơn đớt vì dưới bộ ria, thay cho hàng răng cửa là một lỗ trống hoác.
- Vađim Rôstsin! - Hai miếng da thâm tím lùng nhùng dưới mắt hắn rung lên. - Thật
như ở trên trời rơi xuống... Thế mà chúng tớ vẫn tưởng là cậu đào ngũ rồi...
- Cảm ơn!... - Rôstsin quắc mắt nhìn trừng
trừng vào mắt hắn, Têplôv thấy khó chịu trước cái nhìn ấy và thấy rõ mình đừng
nói tiếp câu chuyện đào ngũ nữa thì hơn. - Các cậu nghĩ về tôi tốt quá nhỉ...
Suốt thời gian ấy tôi ở Ôdexxa, trong đơn vị của Gusin-Almazôv... Bây giờ tôi
làm trưởng ban tham mưu trung đoàn dự bị Năm mươi mốt. Có lẽ cứ đưa giấy tờ cho
cậu xem nhé?... - chàng hỏi, giọng thách thức, rồi quay lại vẫy tay: - Đunđits
lại đây, không cần xuống ngựa...
Têplôv chỉ tức giận thở phì phò. Xưa nay hắn
vẫn sợ Rôstsin:
- Thôi đừng vớ vẩn nữa... Cậu ăn nói với tớ
cái kiểu gì thế? Các cậu đi đâu đấy?
- Đến gặp tướng Skurô. Chúng tôi đưa một
trung đoàn đến tiếp viện cho các cậu. Nghe nói ở đây các cậu sợ Buđionny lắm
thì phải...
- Phải, ở đây cứ như cái nhà thổ, hỗn loạn
cả lên... Họ động viên hết cả thường dân, toàn những tướng tá về hưu với lại một
mớ công chức khốn nạn... Họ lại còn khoác quân phục cho một lũ pốp gửi ra đây nữa...
Rôstsin rút hộp thuốc lá ra, trong đựng
toàn thuốc ngoại, mới lấy hôm qua trong đoàn xe tải của lữ đoàn bộ. Têplôv châm
lửa hút, phun khói thơm vào bộ ria.
- Chà! - hắn ngạc nhiên kêu lên: - Ma mãnh ở
đâu ấy, thuốc lá ngoại chính hiệu! Cậu lấy đâu ra thế? Ở đây phát toàn thuốc lá
mộc đắng nghét, nóng cháy cả họng. Cậu cho tớ lấy vài điếu để dành...
- Nói chung bây giờ cậu thế nào hả Vaxka?
- Chả ra cái gì: không có tiền... chán lắm
rồi... - Hắn gườm gườm nhìn Đunđits vừa xuống ngựa và ba người kỵ binh lầm lì đứng
ở phía sau. - Nếu các ngài hy vọng vui chơi ở Vôrônej chuyến này thì chẳng xơ
múi gì đâu... Bọn đỏ chết tiệt vét sạch hết rồi, không còn lấy một tiệm rượu, một
nhà chứa nào, chẳng có chỗ nào mà nghỉ ngơi hết...
- Làm quen đi, - Rôstsin nói, - thượng tá
Đunđits.
- Thượng úy Têplôv.
Hai người giơ tay lên vành mũ chào nhau.
Đunđits nói, khuôn mặt rám nắng có đôi mắt tinh nhanh cười nhăn nhở:
- Tiếc thật, tiếc thật, thế mà chúng tôi cứ
mơ ước phen này được vui chơi thỏa thích... Chúng tôi có mang theo một ít tiền
đây...
- Dĩ nhiên ở các nhà tư cũng có thể kiếm được
con gái, rượu vôđka thời Nikôlai cũng kiếm được, còn sâm-banh thì bọn đầu cơ
còn cất nhiều đấy... Năm trăm rúp một chai! Thế là làm sao nhỉ? - đôi mắt hum
húp luôn luôn chảy nước mắt sống của Têplôv tỏ vẻ căm phẫn. - Bộ chỉ huy thành
coi bọn đầu cơ này như những ông Thánh... Những vị cứu tinh của tổ quốc! Cậu ạ,
dạo ở Tambôv chúng tớ đánh chén một bữa ra trò... Tính ra mới biết là đã hết một
món tiền kếch xù, chúng tớ làm gì có tiền mà trả? Thế là tớ quai luôn, cho nên
mới bị cách chức... Vađim ạ, ở các đơn vị tinh thần rất bạc nhược. Rốt cuộc thì
chúng mình hy sinh cả cuộc sống... Tuổi trẻ cứ trôi đi... Nhưng tiền đồ có những
gì? Một thành Moxkva hoang tàn? Cảnh túng quẩn... Cậu thì sướng rồi, cậu đã tốt
nghiệp đại học, hết chiến tranh cậu chỉ có việc vứt phăng cái áo lính đầy rận
đi và lên bục giảng... Còn tớ thì cứ thế mà kéo lê cái kiếp lính tráng... Vả lại
chúng nó có cho ta tổ chức một quân đội cho ra hồn đâu...
- Ông thượng úy ạ, ông cần phải giải trí
cho nó khuây khỏa đi, - Đunđits nói, - Ta vào thành phố đi. Chúng tôi chỉ có việc
chuyển phong thư cho quan tư lệnh là xong: tha hồ chơi cả đêm... Tôi sẽ xin chịu
trách nhiệm về cái khoản sâm-banh.
- Quái quỷ thật! - Têplôv vừa nói vừa gãi
tai - Tự dưng bỏ vị trí thì không tiện...
- Cậu cứ giao lại cho cậu nào cấp cao nhất
trong trung đội, - Rôstsin nói, - còn đối với tư lệnh thành thì cậu cứ nói là
phải theo sát chúng tớ vì cậu hơi nghi chúng tớ là trinh sát hồng quân cải
trang... Quá lắm họ cũng chỉ đến nhiếc cậu ngu ngốc là cùng...
Têplôv há cái miệng sún hết răng ra cười hềnh
hệch rồi giụi mắt nói:
- Ý hay đấy! Tớ sẽ bảo là tớ định bắt các cậu
nữa...
- Đúng...
- Thượng sĩ Gvôzđiev! - Têplôv quát, giọng
đã tươi tỉnh và vang lên sang sảng, người quay về phía chiến hào, nơi mấy gã junker lại đứng buồn thiu bên hai khẩu
súng máy. Và khi viên thượng sĩ, một thằng oắt con mười tám tuổi có đôi mắt
xanh trâng tráo bước lại gần và giơ tay lên lưỡi trai chào rất chững chạc, cánh
tay đưa thẳng lên vai, Têplôv trao quyền chỉ huy lại cho hắn và sai dắt ngựa
ra.
Trên đường vào thành phố, người cứ ngọ ngoạy
trên yên vì sốt ruột, Têplôv kể hết cho các bạn nghe những điều cần biết: ở
Vôrônej có những đơn vị nào, bao nhiêu cỗ pháo, đặt ở đâu...
- Một tình trạng hoảng loạn chó má, chẳng
có gì hơn... Các ngài thử nghĩ mà xem: Ở Orel, Kupêtôv thua một trận liểng xiểng,
quân lính ỉa ra cả quần... Trước kia có bao giờ đến nỗi thế... Vađim, cậu có nhớ
hồi chiến dịch băng giá không? Bấy giờ chúng tớ có một thành ngữ nói: “đánh mất
tim”. Đúng, đúng, có một cái gì đã mất hẳn: cái chất lửa trước kia... Mà dân Mu-gích
ở đây cũng khốn nạn lắm: chúng nó nhìn mình gườm gườm như bầy sói... Đúng, tướng
quân Kutêpôv nói rất đúng khi ngài cãi lại quan tổng tư lệnh: “Moxkva có thể
chiếm được với điều kiện là đem lại cho dân cư một cuộc cải cách điền địa và một
cái giá treo cổ...”. Sao cho không có cột dây thép nào bỏ không... Treo cổ như
thời Pugatsôv ấy: từng làng liền... Nhưng thôi, nói mãi những chuyện ấy chán lắm
- Anh em có cho tôi một địa chỉ: hai chị em, hai cô gái rất niềm nở, biết đánh
ghi-ta, biết hát tình ca, đẹp mê hồn! Này, bây giờ thế này nhé: ta đi thẳng
ngay đến nhà hai con bé ấy đi...
Có thể thấy rõ là quân lính ở đây đều biết
Têplôv, mấy đội tuần tiễu gặp giữa đường chào hắn rồi đi thẳng, thậm chí cũng
không thèm nhìn Đunđits và Rôstsin nữa. Đến phố chính, họ dừng lại trước cái cổng
gang của một tòa khách sạn. Têplôv xuống ngựa, đứng chạng hai chân ra nói, vẻ
sượng sùng:
- Tôi không lên đâu, chỉ thêm phiền. Tôi đứng
ở đây cũng được... Bộ tổng tham mưu ở tầng hai... Nhưng các ngài nhanh lên nhé.
- Đoạn quay sang nói với tên lính cô-dắc Kuban mặt rỗ để bộ ria Mông Cổ đứng ở
cổng: - Để cho các vị này vào, thằng bị thịt kia...
Đunđits và Rôstsin leo lên cái cầu thang bằng
gang chạm trổ. Trên phong thư của Buđionny có đề: “Gửi thiếu tướng Skurô. Thư
riêng. Mật”. Họ quyết định chuyển thư qua viên sĩ quan phụ tá. Bộ phận văn thư
đặt ở gian phòng ăn của khách sạn, bao nhiêu cửa sổ đều đã mất cánh. Đunđits và
Rôstsin bước vào, và ngay lúc ấy có hai người khác từ một cửa đối diện cũng bước
vào phòng: một người cao lớn vạm vỡ có bộ râu má rậm viền hai bên khuôn mặt hẹp
một cách thô bạo, chống cái nạng làm cho chiếc áo khoác quân phục cấp tướng màu
xám nhạt hếch lên một bên nách. Rôstsin nhận ra Mamontôv. Người kia mặc chiếc
áo Tserkex màu nâu, mặt đỏ bừng, gò má cao, sống mũi hếch lên để lộ hai lỗ mũi
rộng - một bộ mặt côn đồ. Đó là tướng Skurô. Hai người dừng lại bên cạnh một
cái bàn, nơi một viên sĩ quan tham mưu mặc cái quần ống rộng như hai cánh dơi
đang đọc một công văn gì đây cho một cô thư ký tóc vàng xinh xẻo ghi lại trên
máy chữ Underwood, hai tay nhấc lên rõ cao.
Rôstsin chỉ Skurô cho Đunđits hỏi: “Bây giờ
phải làm gì đây?”. Vừa lúc ấy Mamontôv ngoảnh lại. Trông thấy viên sĩ quan lạ mặt,
y cất cái giọng trầm trầm ra lệnh:
- Các ngài lại đây...
Rôstsin đứng nghiêm bên cửa ra vào. Đunđits
đến cạnh Skurô:
- Tôi xin trao quan lớn phong thư này.
Lúc bấy giờ Skurô đứng gần như quay lưng về
phía Đunđits. Y không quay lại, chỉ ngoảnh cái cổ lực lưỡng, nước da đỏ au, bị
cái cổ áo đeo lon thít chặt vào, nhấc cái môi trên giống mõm sói lên hỏi:
- Thư của ai?
- Của quan trung đoàn trưởng trung đoàn dự
bị Năm mươi mốt, vừa đến hữu ngạn sông Đôn để tự đặt dưới quyền chỉ huy của
ngài...
- Lại cái trung đoàn Năm mươi mốt nào đây nữa?
- Bây giờ Skurô đã quay hẳn lại, nhưng vẫn nói một giọng khó chịu. Y cầm lấy
phong thư, trở di lật lại trong mấy ngón tay. - Ai là chỉ huy?
Vađim Pêtrôvits đứng ở cửa, có một cảm giác
lành lạnh khó chịu sau sống lưng. Chàng từ từ thọc tay vào túi áo khoác cầm lấy
báng súng lục. Kết quả đâm ra ngớ ngẩn, vụng về và vô bổ... Đunđits lại sắp
tuôn ra một cái tên quái gở nào đây... Tiếc thật! Lẽ ra có thể đem về cho
Buđionny những tài liệu quý giá...
- Người chỉ huy trung đoàn chúng tôi là bá
tước Sambesten, - Đunđits trả lời không chút do dự, đôi mắt tươi vui bắt gặp
cái nhìn chênh chếch ném ra từ đôi mắt thiếu ngủ, vàng khè khè của Skurô. -
Quan lớn cho phép?
- Khoan đã, thượng tá, khoan đã, - Mamontôv
vụng về xoay người trên chiếc nạng gỗ. - Cái tên nghe quen quen nhỉ, xin phép
ông một chút. - Khuôn mặt phốp pháp, tuấn tú của y nhăn nhúm lại vì đau: vì một
động tác vụng về, y đã làm cho cái chân bó bột đau nhói lên (cái chân này đã bị
một viên đạn bắn gãy tuần trước, khi y ngồi xe tam mã chạy trốn trước mặt
Buđionny). - Ồ, quỷ thật!... Thôi ông thượng tá đi đi...
Đunđits cộp gót ủng chào, quay phắt trở lại
rồi đi ra cửa. Rôstsin trông thấy Skurô vừa nói gì với Mamontôv lúc bấy giờ vẫn
còn nhăn nhó vì đau, vừa từ từ xé phong bì ra. Phong bì đựng một bức thư ký tên
Xêmiôn Buđionny. Nội dung bức thư thì Đunđits và Rôstsin đã biết rõ:
“Ngày 24 tháng mười, đúng sáu giờ sáng, ta sẽ
vào Vôrônej. Ta ra lệnh cho tướng Skurô phải cho tất cả các lực lượng phản cách
mạng đứng thành đội ngũ chỉnh tề trên quảng trường thành phố, cạnh các vòng cột,
nơi ngươi đã treo cổ thợ thuyền. Ta ra lệnh cho ngươi thân hành chỉ huy cuộc
duyệt binh...”
Đunđits và Rôstsin xuống cầu thang. Một đội
junker cầm súng nối đuôi nhau đi ngược
lên phía họ. Rôstsin có cảm giác là anh chàng Đunđits nhỏ nhắn đang vênh váo đi
trước mặt mình, cựa giày kêu lẻng xẻng từng tiếng một, bước chậm quá... Một lối
huênh hoang dại dột và vô ích!
Từ trên tầng hai dội xuống một tiếng hét
khàn khàn, nghe rất gắt... Đunđits và Rôstsin đi ra cổng. Từ ngoài vỉa hè
Têplôv đâm bổ về phía họ. Cái mặt rỗ hoa với bộ ria quặp của hắn đang khao khát
rượu sâm-banh, tình ca và gái đẹp...
- Ờ, hai vị đây rồi, may quá... Ta đi đi...
Một chân xỏ vào bàn đạp, hắn nhảy lò cò
trên chân kia quanh con ngựa đang quay trở lung tung. Rôstsin đã lên yên.
Đunđits rút hộp thuốc lá ra châm một điếu. Mấy ngón tay rám nắng, khô đét của
anh hơi run. Xong xuôi đâu đấy anh ta mới ném que diêm đang cháy dở đi, cầm lấy
cương ngựa trong tay Latughin và hô to, giọng rất đanh.
- Ngõ thứ nhất, rẽ trái, nước kiệu, tiến!
Chỉ qua mươi nhà là đến cái ngõ ấy: Latughin,
Gaghin và Zađuyviter, vó ngựa gõ lóc cóc trên mặt đường lát đá, rẽ vào trước,
Têplôv ghìm ngựa, quay lại gào tướng lên:
- Các ngài ơi, ngõ sau kia chứ, rẽ sang phải...
Nhưng con ngựa cứ đưa hắn theo cả bọn rẽ
sang trái. Đến góc phố, Rôstsin ngoảnh lại và thấy từ trong cổng khách sạn có một
tốp junker chạy ra, nhớn nhác nhìn
quanh, tay lên quy-lát lách cách.
- Rôstsin, quỷ quái ở đâu thế này! - Têplôv
gần phát khóc lên, quát theo. Lúc bấy giờ ngựa của hắn đã chuyển sang nước đại
cùng với cả tốp, Đunđits cho ngựa ép sát vào ngựa Têplôv, nghiêng người sang nắm
chặt lấy cổ tay hắn, giật rơi dây đeo súng của hắn và rút khẩu súng ra khỏi
bao. - Thôi, sâm banh để lần sau nhé! - Đunđits nhe răng ra nói với hắn.
Bây giờ Đunđits, Rôstsin và ba chiến sĩ
đang phi hết tốc lực trên dãy phố cong qua những ngôi nhà nhỏ, những dãy rào,
những cây bồ đề già mà những cành trụi lá chốc chốc lại vướng vào mũ họ. Phía
sau có những tiếng súng nổ rời rạc. Không giảm tốc độ, họ phi qua cánh đồng, rồi
khi đến gần cái cầu ban nãy họ lại chuyển sang nước kiệu, rồi cuối cùng cho ngựa
đi bước một về phía công sự đầu cầu. Đunđits vỗ vỗ lên cổ con ngựa đang bốc
hơi, gọi to:
- Thượng sĩ Gvôzđiev! - và khi hắn ta đến gần,
điếu thuốc lá giấu trong ống tay áo: - Thượng úy Têplôv nhờ tôi nói lại với anh
là nửa tiếng nữa ngài sẽ trở về. Sáng ngày hai mươi bốn chúng tôi lại đến đấy,
vậy nhớ đừng đưa súng máy ra mà dọa chúng tôi...
- Thưa thượng tá, xin tuân lệnh...
Khi cái cầu đã tụt xa về phía sau, trời đã
sâm sẩm tối, họ cho mấy con ngựa đang bốc hơi nghi ngút đã bắt đầu vấp chân dừng
lại nghỉ. Đunđits nói với Rôstsin:
- Tôi rất ân hận trước mặt anh và trước mặt
các đồng chí... Đã bao nhiêu lần tôi tự nhiếc móc vì cái tội huênh hoang... Sự
nguy hiểm làm cho tôi say sưa, trí óc sắc bén hẳn lên. Tôi đâm ra say mê bản
thân mình mà quên mất mục đích và trách nhiệm... Rồi về sau bao giờ cũng hối hận...
Ví thử bây giờ các đồng chí xuống ngựa, cầm chân tôi lôi xuống đâm chết tại chỗ,
thì tôi cũng không giận, còn cảm thấy nhẹ lòng nữa là khác...
Rôstsin ngửa đầu ra cười ha hả: chàng cũng
cần tự giải thoát ra khỏi cái tình trạng căng thẳng kéo dài đang đè nặng lên thần
kinh.
- Đúng đấy, Đunđits ạ, lẽ ra cũng nên vụt
cho anh một trận nên thân, nhất là về cái điếu thuốc lá trước cổng khách sạn ấy...
* * *
Mưu của Buđionny đã có tác dụng. Mamontôv
và Skurô sau khi đọc bức thư trao tận tay cho họ một cách táo gan và xấc xược
chưa từng thấy ấy, đã lên một cơn thịnh nộ không sao tả xiết. Muốn viết một bức
thư như vậy, lại còn định trước cả ngày giờ chiếm Vôrônej, cần phải tin chắc ở
sức mình. Như vậy nghĩa là Buđionny rất tự tin. Hai viên tướng mất hết cả điềm
đạm.
Kế hoạch của Buđionny nhằm đánh bại kỵ binh
của bạch quân là như sau: tập trung hết lực lượng phản công lần lượt đánh tan từng
đạo một trong số ba đạo kỵ binh, gồm các sư đoàn sông Đôn và sông Kuban đang
tìm cách bao vây ông. Từ trước tới nay chúng còn chần chừ chưa tấn công, chỉ
cho trinh sát hoạt động. Nhưng bây giờ thì ông tin chắc rằng chúng sẽ nhắm mắt
lao thẳng vào ông.
Đêm rạng ngày mười chín tháng mười trinh
sát của Buđionny cho biết rằng quân địch đã bắt đầu xuất quân. Giờ huyết chiến
đã điểm. Xêmiôn Mikhailôvits đang ngồi với hai sư đoàn trưởng của ông bên tấm bản
đồ, dưới ánh nến, nói: “Chúc các bạn xuất quân may mắn” và sai truyền lệnh của
sư đoàn, trung đoàn, đại đội: “Lên yên”!
Trong một căn nhà gỗ súc tối om, hay giữa đồng,
trong một chiến hào nhỏ lợp cành cây hay cỏ khô, hoặc bên cạnh một đun rạ, những
chiếc máy điện thoại dã chiến réo lên. Trong đôi ống nghe chụp lên tai, các chiến
sĩ điện thoại viên đã được nghe cái mệnh lệnh mà họ chờ đợi từng giờ. Những anh
liên lạc nhảy phóc lên yên, vừa phi vừa xỏ chân vào bàn đạp, lao đi trong đêm tối.
Các chiến sĩ, cứ để nguyên áo quần mà ngủ trong cái đêm lặng gió tối mịt như mồ
quân thù này, bừng tỉnh khi nghe tiếng hô kéo dài: “Lên yên!”. Họ nhảy bật dậy,
xua tan cơn buồn ngủ, chạy ra chỗ buộc ngựa và hối hả thắng yên cương, rút đai
yên mạnh đến nỗi ngựa phải lảo đảo.
Các đại đội kỵ binh ra tập hợp trên cánh đồng,
nghe theo những tiếng hô đang vang dội trước hàng quân mà tìm chỗ đứng của
mình. Họ đã xếp thành đội ngũ và đứng đợi hồi lâu, mắt hướng về phía chân trời
nơi ánh rạng đông sắp hửng sáng. Chốc chốc mấy con ngựa lại thở dài một tiếng nặng
nề như chúng vẫn thở trong giấc ngủ đêm. Hơi sương lạnh và ẩm luồn vào trong những
tà áo va-rơi, áo khoác ngắn và áo ca-pốt lính mỏng manh. Mọi người đều im lặng,
không ai hút thuốc.
Thế rồi xa xa vang lên tiếng súng đầu tiên.
Các chính ủy lên tiếng:
“Các đồng chí, Xêmiôn Mikhailôvits đã ra lệnh
cho chúng ta đánh tan quân địch... Những tên lính đánh thuê của giai cấp tư sản
đang cố tràn về Moxkva... hãy tiêu diệt chúng nó! Hãy lập chiến công oanh liệt,
giành lấy vinh quang cho quân đội cách mạng!”
Sương mù phủ kín cánh đồng, che hẳn ánh
bình minh. Tám trung đoàn của Buđionny khai triển trên một tuyến dài gần mấy dặm,
chuyển mình phi lên thành một khối dày đặc, tiếng vó ngựa nặng nề vang rền trên
thảo nguyên. Trong làn sương mù đặc quánh như sữa, mỗi chiến sĩ chỉ trông thấy
hai người bạn đồng ngũ phi hai bên, bàn đạp gần chạm vào bàn đạp của mình, và
những cái mông ngựa nhấp nhô ở trước mắt. Quân địch mỗi lúc một gần. Đã nghe rõ
những tiếng súng lộn xộn của chúng. Các chiến sĩ đang giục ngựa phi nhanh thêm
mãi đã bắt đầu vuơn cổ ra phía trước, cố nhìn cho ra quân địch... Thế rồi trong
cả đoàn quân một tiếng reo truyền đi, mỗi lúc một to hơn, giận dữ hơn, hung hãn
hơn. Những hàng trước đã trông thấy địch...
Từ trong sương mù bắt đầu hiện ra, mỗi lúc
một to dần lên, những bóng người ngựa đang quay cuồng. Gan đởm của những gã
cô-dắc sông Đôn đã không chịu đựng nổi. Họ cũng đang phi tới thành một khối dày
đặc như vậy... Phải, chắc hẳn chính quỷ Xa-tăng đã đưa họ đi xa làng mạc quê
hương đến chốn này để đọ gươm với lũ quỷ đỏ kia. Họ đã nghe rõ cả cánh đồng
vang dội và rung chuyển dưới vó ngựa, họ đã hiểu một sức mạnh ghê gớm đến nhường
nào sắp lật nhào cả người lẫn ngựa, xáo trộn tất cả lại thành một cơn lốc quay
cuồng, chồng chất lên từng đống xác máu me... Và như thế để làm gì? Bọn cô-dắc
chỉ còn hy vọng vào những con ngựa sông Đôn phi nhanh như gió: họ bắt đầu ghìm
ngưa quay ngược trở lại... Họa chăng chỉ có những tên liều lĩnh nhất đang say
máu mới phi thẳng vào giữa hàng ngũ quân Buđionny, vung gươm chém ngang chém dọc...
Những con ngựa sông Đôn đã không cứu nổi họ.
Những người đã quay trở lại xô phải những người đang lao tới... Quân của họ xô
ngã lẫn nhau... Các chiến sĩ của Buđionny tha hồ chém giết, xéo nát dưới chân
ngựa, rượt theo những kẻ đang chạy thoát thân... Những tiếng gào thét man rợ
vang lên... Trong sương mù, đâu đâu cũng thấy những cặp kỵ binh đuổi riết theo
nhau: kẻ phía trước cúi rạp xuống bờm ngựa, người rượt theo sau vượt lên
nghiêng hẳn người trên yên vung gươm chém sả xuống... Những con ngựa phát điên
cắn xé, hí lên những tiếng man dại.
Bây giờ tất cả các trung đoàn cô-dắc đều đã
quay lưng chạy. Nhưng rất sâu về phía sau, từ bên sườn đã có những chiếc xe tatsanka chở súng máy chặn đường họ, hỏa
lực dữ dội bắn giạt họ sang một bên. Đến đây lại có những đội kỵ binh Buđionny
mới xuất hiện đâm thẳng vào những đám người ngựa hỗn loạn đang giẫm lên nhau mà
chạy.
Cuộc truy kích hai sư đoàn của Mamantôv tiếp
tục cho đến khi trời sáng hẳn. Mấy nghìn cái xác mặc quân phục cô-dắc - áo besmet màu xanh và quần rộng ống có nẹp
đỏ - nằm ngổn ngang trên chiến trường. Mấy con ngựa mất chủ sợ hãi chạy lung
tung giữa những xác người.
Đến bữa ăn, quân Buđionny tập hợp thành một
cái trại lộ thiên khổng lồ trên cánh đồng, quây quần xung quanh những cái bếp
dã chiến bằng đồng sáng loáng cướp được của địch. Trên bếp, nồi cháo kê kales cổ truyền đang bốc hơi nghi ngút,
ngoài thịt mỡ ra, lần này trong cháo lại có thêm cả mì ống, gạo, đậu cô-ve, thịt
nạc ướp muối và đủ các thứ gia vị. Ăn uống đã no nê, các chiến sĩ châm thuốc
hút và đem chiến lợi phẩm ra khoe với nhau: người thì khoe vũ khí vừa cướp được
- một thanh gươm kỵ binh vỏ bạc hay một khẩu các-bin Nhật - người thì khoe con
ngưa sông Đôn chuyên nước đại: lông đỏ, có cái vệt trắng chạy dọc trán, chân có
“bít tất” trắng.
Tâm trạng phấn khích của chiến trận không hề
lắng xuống: trái lại. Đâu đâu cũng rộn rã tiếng phong cầm và tiếng đồng ca có
bè đệm: “Những đám mây vẫn lờ lững trên không, và sương mù bao phủ cánh đồng”.
Đây đó, trong tiếng đàn balaika thánh
thót, các chiến sĩ giẫm gót giày nhảy múa, và trong tiếng huýt sáo nhộn nhịp, họ
vung đôi tay lên như con thiên nga vung cánh, ngồi thụp xuống sát đất mà nhảy
lia lịa.
Nhưng tiếng kèn trận lại rúc một hồi dài. Lại
ra trận, lại bắt tay vào công việc khó khăn. Xa xa, Buđionny cưỡi ngựa thong thả
đi qua, mặc áo burka và đội mũ lông
óng ánh bạc. Các trung đoàn lại tập hợp đội ngũ chỉnh tề, tám lá quân kỳ đỏ rực
bay phất phới ở giữa.
Cuộc bại trận khủng khiếp của đạo quân thứ
nhất buộc quán Mamontôv phải đình chỉ việc vây hãm Buđionny. Kế hoạch ban đầu bị
hủy bỏ. Buđionny lập tức lợi dụng tình trạng lúng túng của đối thủ. Ngay tảng
sáng hôm sau quân Buđionny tập kích vào đạo quân thứ hai của Mamontôv. Đạo quân
này cũng không chống chọi nổi, phải lùi về phía đường sắt để dựa vào sự yểm hộ
của một đoàn tàu bọc thép. Đoàn tàu từ Vôrônej kéo đi, lăn bánh ầm ầm qua các cầu
sắt. Trong những ổ súng bằng thép, các sĩ quan pháo binh đứng bên những khẩu đại
bác trăm hai mươi ly và những khẩu đại liên nhìn chăm chăm vào lớp sương mù
đang loãng dần. Thỉnh thoảng trên đoạn đường sắt phía trước lại hiện lên bóng
dáng một tín hiệu viên đang phất cờ.
Đoàn tàu bọc thép dừng lại một phút, lấy
tin tức tình báo. Nhờ đó, những người ở trên tàu được biết tình hình nguy ngập
của đạo quân thứ hai đang bị quân Buđionny dồn vào đường xe hỏa.
Đoàn tàu tăng tốc độ. Còi tàu cất cái tiếng
khàn khàn lên rúc liên hồi không ngớt, báo hiệu cho kỵ binh trắng biết rằng lực
lượng cứu viện đã đến gần.
Các pháo thủ đang nhìn qua châu mai của ổ
súng bỗng trông thấy một cái bóng mờ mờ trong sương mù, đang theo đường sắt đi
ngược về phía tàu bọc thép. Đoàn tàu hãm máy và bắt đầu chạy lùi trở lại. Họ bắn
đại bác vào cái bóng đang to dần lên rất nhanh. Nhưng muộn mất rồi. Một cái đầu
máy cỡ lớn không có người lái phóng hết tốc lực lao vào cái toa thép ở đầu đoàn
tàu. Phía trước và hai bên cái đầu máy đều chất đầy bộc phá. Một tiếng nổ long
trời. Đạn đại bác trong toa thép bắt đầu nổ theo. Trong một cơn lốc đất, cát,
đá, lửa, hơi, khói, toa bọc thép dựng đứng lên rồi đổ ập xuống, đè bẹp và lôi
xuống bờ đường cả con rùa thép khổng lồ.
Đạo quân thứ hai của Mamontôv chạy về
Vôrônej. Đạo quân thứ ba, chưa lâm trận, cũng bắt đầu rút về đấy. Nhưng
Buđionny buộc nó phải ứng chiến vào ngày thứ tư của cuộc tàn sát khủng khiếp
chưa từng có này, và đã đánh cho nó một trận tơi bời. Trên một diện tích rộng mấy
dặm, những xác lính cô-dắc nằm ngổn ngang khắp đồng nội và đồi núi.
Bị đánh tan tác, với những trung đoàn đã mất
hết một nửa quân số, tất cả các sư đoàn cô-dắc sông Đôn và sông Kuban rút sang
bên kia sông. Sáng sớm ngày hai mươi bốn tháng tư quân chủ lực của Buđionny
cũng tiến về phía ấy. Cái cầu gỗ do tốp linh mục và đội junker của Têplôv canh giữ đã bị bỏ lại, không kịp nổ mìn. Từ phía
thành phố có mấy trận địa pháo bắn ra, tung lên những cột bùn và nước... Buđionny
cưỡi ngựa đến gần cầu thì thấy rõ ràng cái cầu bắc vội này không thể chịu nổi sức
nặng của kỵ binh và đại bác. Ông gọi đội nhạc công cầm kèn bạc đến, ra lệnh cho
họ sang bên kia cầu chơi những điệu nhạc thật vui tươi và hùng dũng: những bài
hành khúc và những điệu polka. Các
sinh viên nhạc viện, vẫn ăn mặc như khi họ bị bắt - áo khoác ngắn cũn cỡn, vai
đính lon đỏ viền vàng - chạy qua cầu, vừa sang bên kia thì một quả trái phá bắn
trúng giữa cầu. Cầu sập. Trong tiếng đạn đại bác nổ ầm ầm ở xung quanh, đội nhạc
công, sợ gần chết, bắt đầu lấy hết sức bình sinh thổi kèn thật to...
Mỗi chiến sĩ kỵ binh được giao một quả đạn
đại bác. “Tiến lên! Tiến lên!” - các chính ủy và các cấp chỉ huy hô lớn. Những
hàng đầu của đội kỵ binh lao xuống dòng nước giá lạnh đang sôi sục và bắn lên
tung tóe vì những quả đạn đại bác đang rót xuống tới tấp. Đến chỗ sâu, các chiến
sĩ xuống ngựa và bơi sang, một tay nắm bờm ngựa, tay kia ôm đạn đại bác. Những
cỗ xe kéo pháo cũng lao xuống dòng sông đang réo lên dữ dội, kéo đại bác lăn
trên dòng sông. Người và ngựa ướt sũng, những đơn vị đã qua sông hung hãn lao
thẳng vào Vôrônej. Nhưng ở đây các sư đoàn của Mamantôv và Skurô cũng không ứng
chiến, chúng hối hả rút qua sông Đôn, về phía Kaxtornaia.
Trận tiêu diệt những đơn vị kỵ binh ưu tú
nhất của bạch quân và chiếm lĩnh Vôrônej là một trong những khâu mở đầu của cái
kế hoạch quân sự đồ sộ do bộ tư lệnh mới của Mặt trận miền Nam vạch ra.
Những bản sao kế hoạch này, in trên giấy
màu xanh nhạt, phía dưới có ký tên Xtalin, được gửi đến cho các tư lệnh quân đoàn,
lữ đoàn, các sư đoàn trưởng và trung đoàn trưởng. Trong bản kế hoạch có dự kiến
một cách cặn kẽ nhiệm vụ tác chiến của tất cả các đơn vị thuộc Mặt trận miền
Nam. Những nhiệm vụ này đều hoàn toàn có thể thực hiện được, và bất cứ chiến sĩ
hồng quân nào cũng có thể hiểu rõ. Phần đầu của những cuộc hành quân được dự kiến
trong kế hoạch bao gồm khu vực Orel-Krômy (quân cận vệ của Đênikin dưới sự chỉ
huy của tướng Kutêpôv, kẻ đã thề sẽ tiến vào Moxkva trước tiên, đang rút lui ra
khỏi khu vực này sau khi bị đạo quân biệt động của Xergô Orjônikiđzê đánh tan
tác) và khu vực Vôrônej-Kaxtornaia (ở đây lữ đoàn Buđionny có nhiệm vụ cắt đứt
chiến tuyến của bạch quân ở chỗ giao điểm của Quân đoàn sông Đôn và Quân đoàn
tình nguyện). Những cuộc hành quân này sẽ kết thúc bằng việc đánh chiếm
Roxtôv-na-Đônu: hồng quân sẽ tiến vào đây qua cái đột phá khẩu vừa hình thành
trong khu mỏ Đônbaxx vô sản.
Một biến cố bất ngờ đã xảy ra. Nó bất ngờ đối
với những kẻ đã bắt đầu xếp sẵn va-ly trong các khách sạn tồi tàn, tin chắc rằng
đến Tết quân Pháp sẽ vào Moxkva, đem theo rượu sâm-banh, sò huyết và cả hoa lan
tím nữa; nó bất ngờ đối với những kẻ trước kia vẫn nhẫn nhục ngồi đợi hàng giờ
trong phòng khách của vị chúa tể của châu Âu, nhưng bây giờ đã hầu như coi mình
là đại diện của nước Nga lập hiến, ngẩng cao mái đầu bước thẳng vào phòng làm
việc của Clêmănngxô, nơi củi đang nổ tí tách trong lò sưởi và kẻ độc tài thấp
bé, có cái lưng gù và đôi mày bạc trắng, đang ngồi xem lại bản dự án thiết lập
một nền an ninh tuyệt đối trên quy mô toàn thế giới, đứng dậy chìa bàn tay
xương xẩu ra cho người Nga kia hân hoan nắm lấy; và cuối cùng, nó cũng bất ngờ
không kém đối với bản thân Antôn Ivanôvits Đênikin, đã từ lâu bỏ cái tập quán
đánh bài vint vào những tối thứ sáu,
và tuy cũng là một con người phàm trần mệnh yểu như bất kỳ ai, đã bắt đầu tin rằng
mình là người được Thượng đế lựa chọn cho một sứ mạng thiêng liêng.
Những người bolsevik, mà ai nấy đều tưởng
là đang thở hắt ra những hơi cuối cùng, đã làm một việc phi thường, khó lòng hiểu
nổi: trong khi dịch sốt phát ban đang hoành hành dữ dội, nạn đói bành trướng đến
mức khốc liệt nhất và nền kinh tế suy sụp hoàn toàn, họ đã tổ chức được một cuộc
phản công hết sức mãnh liệt, và đã làm sụp đổ tan tành cái chính sách quốc tế
đang nhằm bóp nghẹt và chia cắt nước Nga đỏ - cái nước Nga rộng mênh mông mà thật
ra những trí tuệ Tây Âu chưa bao giờ hiểu nổi.
Họ cũng không hiểu nổi những động lực nào
đã cổ vũ nhân dân Nga. Những tư tưởng về hạnh phúc cộng đồng và về một chế độ
xã hội công bằng - tưởng đâu đã bị chôn vùi vĩnh viễn dưới những tử thi của cuộc
đại chiến - đã lại nảy mầm như những hạt giống của Cây Thiên đường trên mảnh đất
Nga nghèo nàn kiệt quệ, nơi những người mu-gích không biết chữ vẫn kể cho nhau
nghe chuyện chàng ngốc Ivan, chuyện Baba-Yaga, chuyện tấm thảm biết bay, và những
ông bà lão mù vẫn hát những bài vè sử thi lê thê về những chiến trận, những cuộc
yến tiệc và những cuộc hôn nhân của các tráng sĩ thời xưa.
Ở các dân tộc Nga, những tư tưởng này đã có
được tính bền dẻo và sức mạnh của chất thép. Những người mu-gích dốt nát và những
người thợ ở các nhà máy đổ nát đã từ lâu không nhả khói nữa, đã khắc phục nạn
đói, bệnh dịch và tình trạng kinh tế suy sụp hoàn toàn, đánh đuổi đạo quân tinh
nhuệ của Đênikin, chặn đứng đạo quân xung kích của Yuđênits ngay trước cổng
thành Pêtrôgrađ và đuổi nó chạy dài về Extôni, đánh tan đạo quân đông đảo của
Koltsak trên những cánh đồng Xibiri phủ tuyết, bắt được cả nhà nhiếp chính tối
cao ấy đem ra bắn, đánh bại và đẩy lùi quân Nhật ở Viễn Đông, và, được những tư
tưởng của Lênin cổ vũ, chỉ những tư tưởng thôi, vì họ chẳng có gì mà ăn, cũng
chẳng có gì mà mặc - họ tin rằng họ mạnh nhất thế giới và trên những di tích
hoang tàn của cái quốc gia nghèo nàn của họ, họ sẽ nhanh chóng xây dựng lên một
xã hội cộng sản công bằng.
20
Katya có cảm giác là dạ dày nàng bây giờ chẳng
lớn hơn cái ví đựng tiền lẻ. nó vừa đủ để chứa nửa lạng bánh mì, một miếng cá
luộc và mấy thìa xúp. Khổ nhất là váy: cái nào cũng rộng quá, có muốn khâu lại
cũng chẳng biết lấy gì và chẳng có lúc nào mà khâu. Ngược lại, mắt Katya bây giờ
to gấp đôi mùa thu năm ngoái, khi Matriôna có dụng ý cho nàng ăn bánh xèo rán
bơ béo ngậy.
Mấy con bé học trò nàng, đôi môi đói khát
chúm lại, nói với nàng:
“Cô Katya ơi, cô xinh quá...”.
Nghe chúng khen như vậy, Katya thấy vui
thích, bởi vì cả cuộc đời đều ở trong tương lai. Cái kỷ niệm duy nhất của dĩ
vãng - chiếc nhẫn mặt ngọc bích mà Vađim tặng nàng - đã mất đi từ hồi ở làng
Vlađimirxkoiê. Những hình bóng thân yêu vẫn lẩn quất trong ngôi nhà cũ kỹ ở ngõ
Xtarôkônyusenny bây giờ không còn hiện lên trong ký ức nàng nữa. Và cái tương
lai mà tất cả những hy vọng, hoài bão của những con người đang đau khổ vì đói
rét, vì cảnh nhà cửa tan hoang, vì chiến tranh, đang khát khao hướng tới, - được
Katya hình dung như một con đường rộng thênh thang ánh lên như tấm gương dưới nắng,
giữa những bãi cỏ xanh rờn và những mặt hồ phủ sương với những rặng cây sum suê
mọc quanh bờ. Con đường ấy dẫn đến một thành phố lộng lẫy, kiến trúc phức tạp,
mà những đường viền màu thiên thanh tuyệt đẹp hiện rõ trên chân trời: trong
thành phố này, mọi người đều sẽ tìm thấy hạnh phúc.
Một hôm, Katya đem hình ảnh ấy ra kể cho
các em nhỏ nghe trong giờ học. Lũ trẻ nín thở lắng nghe. Những em gái đa cảm
thích nhất là con đường dẫn về tương lai uốn khúc giữa những bãi cỏ xanh, nơi
có thể chạy đi bắt bướm và hái những bông hoa nhỏ li ti hình ngôi sao. Bọn con
trai thì không thỏa mãn: chẳng thấy Katya nói gì đến những đoàn tàu chạy ngang
dọc trên các bãi cỏ này, qua các cột tín hiệu, qua những nhịp cầu sắt và những
đường hầm, cũng chẳng thấy nhắc đến những ống khói nhà máy khổng lồ sẽ vui vẻ
phun khói lên trời. Cả lớp đều nhất trí là thành phố tương lai tất nhiên phải
màu thiên thanh, nhà cao đến tận mây, tàu điện chạy nhanh khủng khiếp, đại lộ
nào cũng có chỗ đánh đu và những cái cột phân phát bánh mì và xúc xích. Katya hỏi:
“Thế còn kem?” Nhưng hóa ra trong ngần ấy trẻ em chưa có đứa nào được ăn kem cả.
Cũng có thể là hồi còn bé tí chúng đã được ăn, nhưng quên mất rồi.
Katya phải giữ sức rất nhiều. Mấy hôm trước
nàng xách xô nước lên định ra sân thì cảm thấy mình không đủ sức giữ quai xô nữa.
Nàng phải đặt nó xuống sàn nhà, dựa vào tường đợi cho đỡ hoa mắt. May thay, rốt
cục nàng không phải đi nói chuyện về nghệ thuật nữa: Moxkva bây giờ đã vắng
tanh, có thể đi suốt từ quảng trường Arbat đến quảng trường Xtraxtnaia mà không
gặp lấy một bóng người nào, nhưng ngược lại, bây giờ ngày nào trên báo Izvextya
cũng đăng những tin thắng trận. Các quân đoàn đỏ đã chọc thủng chiến tuyến địch
ở Kaxtornaia và tràn vào vùng Đônbaxx. Ở hậu phương bạch quân những cuộc khởi
nghĩa của nông dân nổ ra khắp nơi. Bây giờ thì đã thấy được triển vọng kết thúc
chiến tranh, kết thúc mọi tai họa.
Một buổi tối nọ, Katya ở nhà. Lúc bấy giờ
đã vào khoảng tám giờ tối, nhưng Katya vẫn không thắp đèn lên. Ánh lửa hắt qua
cánh cửa con con của cái lò sưởi cũng đủ sáng rồi. Ngồi trên chiếc ghế thấp,
Katya thận trọng xếp mấy thanh củi vào lò. Nó bén lửa và vui vẻ tí tách, vì nó
cũng làm bằng cái năng lượng mặt trời mà Katya đã từng nói chuyện cho học trò
nghe.
Katya đang đọc cuốn “Tội ác và hình phạt”
Trời ơi, cuộc sống đã qua ấy vô hy vọng biết chừng nào! Đặt tay lên cuốn sách,
Katya nhìn ngọn lửa hồng. Khủng khiếp biết bao nhiêu cái đêm mà Xviđrigailôv đã
qua trong cái quán trọ bằng gỗ ở đại lộ Bolsôi. Đó chính là cái hiệu ăn mà
Katya đã từng đến một mình với Bexxônôv, chỉ một lần duy nhất trong đời thôi,
và có lẽ cũng chính trong căn buồng mà Xviđrigailôv đã khắc khoải từng giờ, biết
rằng mình không sao còn có thể trấn áp được nỗi khiếp sợ và ghê tởm đối với cuộc
sống.
Lời nguyền rủa xưa kia vẫn đè nặng lên những
kiếp người ấy nay đã bị đập tan, đốt sạch, phá tung ra. Bây giờ đã có thể ngồi
yên như thế này mà đọc chuyện quá khứ một cách thanh thản, đun củi vào lò và
tin tưởng vào tương lai.
Trong hành lang có nhiều tiếng chân bước
không đều. Chắc ở nhà Maxlôv lại có người đến họp: gần đây cứ sâm sẩm tối lại
có những người nào không rõ đến nhà Maxlôv, và những tiếng nói giận dữ của họ vẳng
đến buồng Katya. Mỗi khi họp xong, Maxlov lại tiễn khách ra đến nhà bếp rồi khe
khẽ gõ cửa buồng Katya: “Đi ngủ rồi hay sao? Sớm quá, sớm quá, thật xấu hổ...
Phụ nữ hiện đại mà thế ư? Ái chà chà...”.
Hắn cứ vặn mãi quả nắm cửa, làm cho Katya
giận run cả người lên: Maxlôv là người lì lợm và tự tin đến mức quái gở, hắn có
thể đứng ngoài cửa cho đến sáng.
“Êkatêrina Đmitrievna ạ, chẳng qua tôi chỉ
muốn ngồi bên cái lò con ong của cô một tí... Thần kinh căng thẳng quá... Chỗ bạn
bè cô cứ để tôi vào...”.
Cứ im mãi cũng bất tiện. Rốt cục Katya mở cửa
ra. Hắn ngồi trước lò sưởi, cứ bỏ thêm củi mãi, mà mỗi thanh củi ấy thì quý hơn
vàng. Hắn mỉm một nụ cười bí hiểm, hai bàn tay ẻo lả hơ lên lớp sắt nóng, rồi
quay ra thuyết lý về sức hấp dẫn của dục tình, mãnh liệt như vũ trụ... Cái đẹp
là ở chỗ tuân theo sức hấp dẫn đó! Còn ngoài ra chỉ là một chủ nghĩa khổ hạnh
ti tiện. Hơn nữa Katya lại đẹp, sống cô đơn và “không bị gia đình ràng buộc”
như hắn vẫn nói. Hắn tin chắc mười phần rằng không chóng thì chầy, thế nào
Katya cũng sẽ cho hắn chung chăn chung gối với nàng...
Hôm nay, lòng còn bồi hồi vì những trang tiểu
thuyết của Đôxtôievxki, Katya buồn bã lắng nghe những tiếng nói từ phòng Maxlôv
vẳng sang. Bên ấy vang lên những tiếng gắt giận dữ, và chốc chốc lại có vật gì
rơi thình thịch, như thể có ai vứt sách xuống sàn nhà. Hôm nay thì thế nào
Maxlôv cũng sang ngồi để tìm sự thanh thản...
Có tiếng cào cào lên cánh cửa, rồi một giọng
thanh thanh thì thào qua lỗ khóa: “Cô Katya ơi, cô có nhà không cô?” Đó là
Klavđya chân đi một đôi ủng dạ to tướng buộc bằng dây gai.
- Bác Tsexnôkôva bảo cháu đến gọi cô, có
chú Rôstsin ở mặt trận mới về đấy.
- Ở ngoài đường có lạnh không cháu?
- Lạnh khiếp đi ấy, cô ạ, gió ghê lắm, châm
rát cả mắt, mà thà có tuyết cho cam, đằng này mãi chẳng có tí tuyết nào... Mùa
đông gì mà lạ... Nhà cô ấm quá, cô Katya ạ...
Trời lạnh thế này, mà phải ra đường và lê đến
tận nhà chị Tsexnôkôva ở phố Prexnya thì Katya chẳng muốn chút nào, nhưng buổi
dạ đàm sắp tới của Maxlôv nàng thấy còn cực nhọc hơn nữa. Nàng mặc áo khoác và
trùm khăn san ấm lên đầu. Bước rón rén để cho Maxlôv khỏi nghe thấy, nàng và
Klavđya ra phố. Gió từ trong ngõ tối lùa ra rất mạnh. Katya lấy hai đầu khăn
san quàng vào người Klavđya. Bụi hắt vào mặt rát buốt, những tấm mái tôn gầm
lên như sấm. Gió gào rít như thể cả trái đất này đã chết hết, chỉ còn lại Katya
và Klavđya là những sinh vật cuối cùng, và mặt trời sẽ không bao giờ còn mọc
lên nữa...
Đến trước khung cửa sổ sáng mờ mờ của một
ngôi nhà gỗ nhỏ, Katya quay lưng về phía gió để thở một phút. Qua cái khe hở giữa
hai tấm màn khép không kín, nàng trông thấy một gian phòng chật chội, có cái ống
khói đen gập khuỷu ăn thông vào lò sưởi, ở giữa phòng là một cái lò con ong
đang cháy bập bùng, và mấy người đang chống cằm ngồi nghe một thanh niên đứng
trước mặt họ đọc cái gì trong cuốn vở, mũi hếch lên một cách kiêu hãnh. Anh ta
mặc một cái áo bành-tô cũ kỹ, phía trước phanh ra để hở cái ngực trần, và đi một
đôi ủng dạ buộc dây gai giống như của Klavđya. Cứ nhìn những động tác của cánh
tay anh và cái dáng dấp hùng dũng của anh mỗi khi anh hất mái tóc rối bù lên.
Katya hiểu rằng người thanh niên đang đọc thơ. Nàng mỉm cười thấy lòng ấm hẳn lại,
rồi quay trở về phía gió, nàng chạy về phía quảng trường Arbat, hai đầu khăn vẫn
quấn vào người Klavđya.
Ở nhà chị Tsexnôkôva người đến nghe nói
chuyện rất đông, tất cả những người vợ công nhân có chồng ra mặt trận, và mấy cụ
già, được đặc cách ngồi ở cạnh bàn, nơi người khách ở mặt trận về đang kể chuyện
chiến sự. Lúc bấy giờ họ đang tranh nhau hỏi người ấy xem tình hình bột mì đã sắp
khá lên chưa, liệu đến tiết Nô-en đã có chuyến xe chở chất đốt về Moxkva chưa, ở
các đơn vị quân đội người ta có phát áo bông và ủng dạ không. Họ nói rõ tên những
người chồng, những người anh em của họ đang ở bộ đội ra, hỏi xem những người ấy
có còn sống không, có khỏe không? - làm như thể anh bộ đội kia có thể thuộc tên
cả mấy nghìn công nhân đang chiến đấu trên khắp các mặt trận.
Katya không chen được vào phòng, đành đứng
ngoài cửa. Kiễng chân lên, nàng trông thấy người khách đang ghi mấy chữ trên tờ
giấy, mái đầu quấn băng cúi xuống.
- Các bạn có hỏi gì nữa không? - người ấy hỏi,
và Katya bỗng run bắn cả người lên, dường như thể giọng nói trầm trầm, nghiêm
nghị ấy thấm sâu vào người nàng, xé nát tim nàng. Nàng lập tức quay lại, toan bỏ
đi. Té ra nàng chưa quên được chút gì hết... Chỉ một giọng nói hao hao giống giọng
nói thân thuộc đã vĩnh viễn câm lặng kia, mà đã khuấy động trong lòng nàng tất
cả nỗi nhớ nhung thuở trước, nỗi đau buồn tưởng đã lắng dịu từ lâu, một nỗi đau
buồn vô ích, tuyệt vọng... Cũng giống như một con người cô độc sống lại giấc
chiêm bao một kỷ niệm đã phai nhạt từ lâu: người ấy trông thấy một ngôi nhà nhỏ
giữa rừng, tắm trong một ánh sáng màu tro, một ngôi nhà mà trước đây người ấy
chưa hề trông thấy, và cạnh đấy là mẹ mình, người mẹ đã khuất từ lâu, đang ngồi
mỉm cười với mình như trong thời thơ ấu xa xưa: người ấy muốn vươn tới gần mẹ,
gọi mẹ từ trong giấc mơ trở về với cuộc sống, nhưng không sao với tới được. Người
mẹ vẫn im lặng mỉm cười, và người ấy hiểu rằng đây chỉ là một giấc mộng, và những
tiếng nấc sâu thẳm dấy lên trong lồng ngực phập phồng thổn thức của người đang
ngủ mê.
Chắc gương mặt Katya lúc bấy giờ thiểu não
lắm, đến nỗi một trong những người đàn bà đứng ở cửa phải nói:
- Kìa các chị, cho cô giáo vào với nào, các
chị lấn hết chỗ của cô giáo rồi đây này...
Họ nhường lối cho Katya vào trong phòng.
Người ngồi ở bàn ngẩng mái đầu quấn băng lên, và nàng trông thấy gương mặt khắc
khổ của chàng. Trước khi một niềm vui
dào dạt soi sáng và mở rộng đôi mắt tối sẩm của nàng, Katya lảo đảo, đầu nàng
choáng váng, mọi vật đều quay cuồng, tiếng xôn xao vừa nổi lên trong phòng lùi
ra xa tắp, ánh sáng tối sầm lại như hôm nào suýt đánh rơi cái xô nước... Katya
yếu ớt mỉm cười ngượng nghịu, thở gấp, tái mặt đi rồi quỵ xuống...
- Katya! - người ấy kêu lên, xô tới - Katya!
Mấy cánh tay đỡ lấy nàng, không để cho nàng
ngã xuống. Vađim Pêtrôvits đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt yêu dấu, kiều diễm
vô ngần đang gục xuống với đôi môi hé mở đã lạnh ngắt đi, với đôi mắt đã đảo
tròng dưới lớp mi.
- Đây là vợ tôi, các đồng chí ạ, vợ tôi đây
mà, - chàng nhắc đi nhắc lại, môi run lẩy bẩy.
* * *
Họ bước đi, gió lùa vào lưng họ. Vađim
Pêtrôvits ép chặt đôi vai mảnh khảnh của Katya vào lòng. Suốt dọc đường, nàng cứ
khóc, chốc chốc dừng lại hôn Vađim. Chàng bắt đầu kể lại cho nàng rõ tại sao mọi
người tưởng chàng đã chết trong khi chàng đi tìm Katya khắp nước Nga suốt một
năm trời. Nhưng chàng thấy những lời lẽ của mình rối rắm, dài dòng và hoàn toàn
không cần thiết lúc này. Thỉnh thoảng Katya lại nói: “Khoan đã anh, chúng mình
đi lạc mất rồi...”. Họ lại quay trở lại và đi thơ thẩn trên những ngõ phố tối
tăm và vắng vẻ, lắng nghe những mũi tên chỉ hướng gió đã han gỉ quay cót két
trên các ống khói lò sưởi, những tấm tôn lợp nhà đã bong ra một nửa sột soạt cọ
vào nhau hay tiếng gió bấc rú nức nở trên những cành bồ đề đen sẫm đang đung
đưa sau dãy rào xiêu vẹo, chắc vì gió nhớ lại rằng ở đây, có lẽ cũng trong một
đêm tối mịt như thế này, Nikôlai Ivanôvits Gôgôl đã từng chạy qua, tà áo khoác
bay phần phật, trống ngực đánh thình thình vì sợ ma.
Đến phố Xtarôkônyusaia, Katya nói:
- Nhà chúng mình đây rồi, anh nhớ không? Chỉ
có điều là ngày xưa anh thường đi vào cửa trước. Em vẫn ở căn buồng ấy đấy
Vađim ạ.
Họ chạy qua cái sân nhỏ. Cửa vào nhà bếp đã
khóa chặt.
- Ôi, phiền quá... Bây giờ lại phải gõ cửa...
Anh gõ thật to vào đi anh...
Katya cười lên khanh khách, rồi khóc chút
ít, hôn Vađim, rồi lại cười. Vađim Pêtrôvits nện cả hai quả đấm lên cửa.
- Ai đấy? Ai đấy? - sau cánh cửa có tiếng hỏi
lo lắng của Maxlôv.
- Ông mở hộ, tôi đây. Katya đây mà.
Maxlôv mở cửa. Trong tay hắn run rẩy một
cây đèn sắt tây có chụp thủy tinh. Trông thấy một quân nhân đứng sau lưng
Katya, hắn giật mình lùi lại, má hắn co rúm thành những nếp nhăn thẳng đứng,
đôi mắt hằn học nheo lại...
- Cảm ơn, - Katya nói, đoạn chạy về phòng,
tay vẫn không buông tay Vađim. Họ bước vào căn buồng hãy còn ấm. Katya hỏi thì
thầm:
- Anh có diêm đấy không?
Vađim xúc động đến nỗi cũng trả lời thì thầm:
- Có...
Nàng thắp đèn lên: chỉ là một đốm lửa nhỏ
trong cái hộp sắt tây nhưng cũng hoàn toàn đủ để họ nhìn nhau suốt đêm. Trong
khi tháo chiếc khăn san, nàng vẫn không rời mắt nhìn Vađim: tóc chàng đã ngả hẳn
sang màu hoa râm, ngay đôi mày cũng có những sợi bạc, gương mặt chàng đã rắn rỏi
hẳn lên, có thêm một vẻ khắc khổ và điềm đạm mà trước đây nàng chưa hề biết. Điều
đó làm cho nàng say sưa thích thú: bây giờ chàng trẻ hơn, cứng rắn hơn và đẹp
hơn hồi ở Roxlôv. Nàng sực nhớ đến tấm băng quấn trên đầu chàng, hé miệng ra thở
dài:
- Anh bị thương à?
- Sây sát tí chút thôi... nhưng nhờ đó mà
anh được nghỉ phép hai tuần ở Moxkva... Anh biết là em ở đây, nhưng nếu không gặp
đêm nay, anh làm thế nào tìm ra em được? (Nàng mỉm cười vui vẻ và ranh mãnh,
hai bên mép nhếch lên). Em biết không, chỉ nhanh chút nữa thì anh đã gặp ở em
cái làng ấy rồi... Anh đang đuổi theo Kraxilnikôv (Cằm Katya run lên, nàng giận
dữ lắc mạnh cái đầu) Katya ạ, lúc nãy anh đã bắt đầu kể cho em rõ tại sao em được
tin anh chết... Nói cho đúng ra, cái chết của anh là... (Katya lo lắng nhìn
chàng, và đôi mắt mở rộng của nàng lại rưng rưng). Có một đêm anh ngồi trên toa
xe lửa - lúc bấy giờ anh không biết sống bằng cái gì nữa, anh đã lầm ở điểm
chính, anh thấy rõ rằng mình phải bị tiêu diệt hay phải tự tiêu diệt... Katya ạ,
anh xin lỗi em, anh biết nhắc lại những điều đó em rất khổ tâm, nhưng anh vẫn
muốn kể... Chỉ vì nghĩ đến em, không phải tình yêu đâu - lúc bấy giờ lòng anh
không còn chút sức nào để mà yêu nữa, - nhưng vì cứ nghĩ đến em một cách khổ sở,
da diết, như nghĩ đến một cái gì mà mình không thể nào dứt bỏ, quên lãng đi,
không thể nào phản bội được, chỉ có ý nghĩ ấy giữ anh lại. Cái đêm nằm trên toa
xe lửa ấy là một sự sụp đổ của tất cả bản thân anh... Bây giờ mỗi khi ở đầu
súng anh nhận ra những khuôn mặt quen thuộc, anh hiểu rõ mình đang bắn vào một
tâm hồn đen tối, hoang tàn như thế nào...
Katya đặt hai tay lên vai chàng và áp má
vào tim chàng đang đập dồn dập. Họ vẫn đứng ở giữa căn buồng, chàng vẫn mặc chiếc
áo ca-pốt phanh ngực, nàng vẫn giữ nguyên chiếc áo khoác lông. Nàng hiểu rằng
chàng đang nói về điều chủ yếu nhất... Ôi, con người tuyệt vời mà nàng yêu dấu!...
Chàng muốn tự thanh minh ngay để cho nàng được yêu cái chất mới mẻ, chính trực,
nghiêm khắc, nhiệt thành ở trong chàng... Hồi ở Roxtôv, khi chàng mất trí và ruồng
bỏ nàng, nàng biết rằng chàng sẽ đau khổ vô cùng và sẽ hiểu hết... Nép sát vào
người chàng, nàng lắng nghe chàng nói những lời lẽ mơ hồ và thiếu mạch lạc, như
thể đang phác nhanh những ký hiệu tượng trưng cho những thể nghiệm lớn lao mà
chàng đã kinh qua. Nhưng dù chàng không nói, Katya cũng vẫn hiểu hết...
- Katya ạ, nhiệm vụ đặt ra lớn lao vô
cùng... Trước kia chúng mình không bao giờ tưởng tượng được là mình sẽ bắt tay
vào thực hiện những nhiệm vụ như thế... Em còn nhớ đấy: chúng ta đã nói nhiều về
những sự chuyển biến của lịch sử mà ta thấy là vô nghĩa và nhọc nhằn, về sự hủy
diệt của những nền văn minh lớn, về những tư tưởng cao cả bị biến thành một trò
hề thảm hại... Dưới tấm áo lễ phục vẫn chỉ là bộ ngực lông lá của con nhân hầu...
Chỉ là dối trá! Cái màng ngụy lý che trên mặt đã rơi xuống. Tất cả quãng đời dĩ
vãng của ta chỉ là một chuỗi tội lỗi và man trá! Nước Nga đã đẻ ra con người...
Con người đã đòi cho loài người cái quyền được làm người. Đó không phải là một
ước mơ, đó là một lý tưởng mà chúng ta mang ở đầu mũi lê, một lý tưởng có thể
thành sự thật... Một ánh sáng rực rỡ đã rọi lên những lâu đài đổ nát của tất cả
các thiên niên kỷ đã qua... Tất cả đều hài hòa, tất cả đều có quy luật... Ta đã
tìm thấy mục đích... Mỗi chiến sĩ hồng quân đều biết rõ mục đích ấy... Katya,
bây giờ em hiểu anh được ít nhiều rồi chứ? Giá có thể, anh muốn truyền tất cả
anh cho em... Niềm vui của anh, trái tim của anh, người yêu dấu của anh, ngôi
sao của anh...
Chàng bỗng ghì chặt lấy nàng trong đôi tay,
mạnh đến nỗi người Katya kêu răng rắc, và nàng chỉ nép sát thêm vào lòng chàng.
Có tiếng gõ cửa, rồi tiếng Maxlôv nói:
- Êkatêrina Đmitrievna ạ, xin phép cô một
phút nhé... - Rồi không thấy ai trả lời, hắn quay ra vặn quả nắm cửa như mọi
khi. - Số là... cô cũng biết đấy, trong thành phố đang thiết quân luật. Quá mười
giờ rồi, mà cô còn tiếp khách đàn ông trong nhà... Vì tôi phải chịu trách nhiệm...
- Em đợi một tí nhé, để anh nói chuyện với
hắn, - Rôstsin vừa nói vừa gỡ đôi tay của Katya đặt trên vai ra.
- Vađim, anh điên rồi à, để em nói... Em
van anh... Nàng lập tức ra hành lang, đóng cửa lại. Maxlôv đứng cười tủm tỉm,
tay vẫn cầm cây đèn như ban nãy.
- Không vào phòng tôi được đâu, đồng chí
Maxlôv ạ, - nàng nói, giọng rắn rỏi hơn hẳn mọi khi.
Hắn vừa bước lùi vừa vẫy ngón tay ra hiệu
cho Katya lại gần, mắt nhìn Katya trừng trừng. Nàng bước theo hắn, hỏi:
- Sao? Ông cần gì? Tôi không hiểu...
- Tôi muốn báo cho cô biết, Êkatêrina
Đmitrievna ạ, để cô đừng quá quan trọng hóa cái tai biến của tôi... Không có
tai biến gì đâu... Chắc người ta đã cho cô biết rồi... Khắp khu phố này chúng
nó mừng rỡ, đắc chí lắm... Mừng rỡ, đắc chí như vậy khí vội đấy...
- Tôi chẳng hiểu gì cả, - Katya tức giận
đáp. - Nói tóm lại, tôi yêu cầu ông đừng gõ cửa phòng tôi...
- Cô đừng nói dối! Cô hiểu hết... Chà, qua
chuyện này, tôi đã biết rõ cô quá rồi! Thế thì thứ nhất là cô hãy cứ ăn nói với
tôi như thể tôi chưa bị thu hồi thẻ đảng... như thế khôn ngoan hơn... (Trong họng
Maxlôv có cái gì òng ọc, tuy hắn nói khẽ, giọng còn uể oải nữa là khác) Chưa có
gì thay đổi đâu Êkatêrina Đmitrievna ạ!... Thứ hai là ông khách đêm của cô sẽ
đi ngay bây giờ... Cô muốn hỏi tại sao tôi lại đòi hỏi như vậy? Đây là câu trả
lời của tôi... (Hắn thọc tay vào túi chiếc áo vét tông cáu bẩn đã đứt hết khuy,
rút ra một khẩu parabellum dẹt, để nó
trên lòng bàn tay chìa ra cho Katya xem). Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục quan hệ với
nhau như cũ...
Katya kinh ngạc đến nỗi chỉ chớp mắt chầm
chậm. Rôstsin đẩy cửa bước ra.
- Ông cần hỏi gì vợ tôi?
Mặt Maxlôv nhăn đến tận mang tai. Hắn ngồi
thụp xuống để đặt cây đèn xuống nền nhà. Khẩu súng lục quay quay trong tay hắn.
- Chà, thôi đi, - Rôstsin nói đoạn đến cạnh
giật khẩu súng trong tay hắn bỏ vào túi áo ca-pốt - Mai tôi sẽ đem súng ra nộp
cho công an khu phố, ông cứ ra đấy mà nhận về. Nếu ông còn xớ xẩn đến cửa buồng
chúng tôi lần nữa, tôi sẽ đánh gãy xương sống ông ra...
Họ trở về buồng, Katya lặng thinh, bẻ mấy
ngón tay kêu răng rắc. Rôstsin cởi áo khoác cho nàng.
- Katya, mọi sự đều đã rõ ràng, hắn không
mò đến đây nữa đâu. Hình như ở mặt trận anh đã có lần nghe nói tới thằng cha
Maxlôv này. Đó là một trong những kẻ đã ngấm ngầm phá rối quân đội...
Chàng cởi áo ca-pốt và buông mình xuống cạnh
Katya đang ngồi thẫn thờ trên ghế bành, rồi tựa đầu lên đùi nàng. Hai bàn tay
nàng từ từ vuốt lên tóc, lên má, lên cổ chàng. Cả hai đều đã quên khuấy câu
chuyện ngu xuẩn vừa qua với Maxlôv. Họ im lặng. Một nỗi xúc động mới, mãnh liệt,
bao giờ cũng như mới đến lần đầu, dâng lên trong lòng họ với một sức mạnh thanh
tân - trong Vađim đó là nỗi vui mừng được thèm muốn Katya, và trong Katya đó là
nỗi vui mừng được cảm thấy niềm vui của chàng...
- Mãnh liệt hơn gấp triệu lần, Katya ạ,
chàng nói.
- Em cũng thế... Vả lại em bao giờ cũng vẫn
thế, bao giờ cũng vẫn thế thôi, Vađim ạ.
- Em thấy lạnh à?
- Không, không... Chỉ vì em yêu anh quá...
Chàng ngồi lên chiếc ghế bành rộng, sát bên
nàng, và hôn lên đôi mắt, lên miệng, lên hai bên khóe môi nàng. Chàng hôn lên
ngực nàng, và Katya nhớ rằng ở vú bên trái nàng có một cái bớt nhỏ mà không hiểu
tại sao chàng cho là đẹp vô cùng. Nàng cởi khuy áo lên để chàng hôn lên cái bớt
ấy.
Cái lò con ong đã tắt ngấm, và trong phòng
lạnh hẳn đi. Vađim nãy giờ vẫn nhìn Katya mỉm cười để lộ hai hàng răng đều đặn,
ngồi xổm xuống cạnh lò, thổi mấy hòn than lên và cho vài thanh củi vào - đó là
những cái chân ghế bằng gỗ hồng tâm chẻ vụn ra. Trong phòng lại ấm lên. Trong
khi cởi quần áo, Katya đỏ mặt. Vađim cười, đưa hai bàn tay lên ôm lấy mặt nàng
mà hôn.
Suốt đêm gió gào trên các ống khói và luồn
vào các mái tôn kêu ầm ầm như tiếng sấm. Katya dậy mấy lần như nàng Pxisê, khơi
bấc đèn và mải mê ngắm gương mặt của Vađim đang ngủ. Lòng nàng tràn đầy hạnh
phúc, và nàng biết rằng chàng cũng tràn đầy hạnh phúc, cho nên mặt chàng mới điềm
đạm và trang nghiêm như vậy.
* * *
- Katya, Katya! - Đasa chạy vào nhà bếp gọi
to. - Katya, chị Katya ơi! - nàng vừa gọi vừa nện gót ủng dạ đóng băng cứng đét
chạy dọc hành lang. Nàng đầm sầm vào Katya đang chạy ra, ôm chầm lấy chị mà hôn
lấy hôn để, rồi ẩy ra nhìn chằm chặp một lát, rồi lại ghì vào lòng mà vuốt ve.
Người Đasa sực mùi tuyết, mùi lông cừu, mùi bánh mì đen. Nàng mặc một chiếc áo
khoác lông cừu ngắn, trùm khăn kiểu nông thôn, sau lưng lủng lẳng một gói quần
áo.
- Katya, chị, con bồ câu nhỏ của em, chị
thân yêu của em... Ôi, chị thử tưởng tượng mà xem: chúng em từ ngoài ga
Yaroxlavl đi bộ về đây, Moxkva như nông thôn ấy: tĩnh mịch, có cả quạ, tuyết trắng
xóa, trên các phố có những lối mòn trên tuyết... Xa thật, hai chân cứ mỏi đừ
ra... Kuzma Kuzmits lại vác hai yến bột mì nữa... chúng em lê đến phố
Xtarokonyusennaia... Em không tìm ra nhà có chết không chứ! Đi suốt dọc phố đến
ba lần... Kuzma Kuzmits nói là em nhầm phố rồi.. Còn em thì điên tiết lên...
quên mất nhà rồi còn gì... Rồi bỗng nhiên... Ờ, chị thử tưởng tượng: ở một góc
phố đi ra, một anh bộ đội... Em đến gần nói: “Đồng chí ơi...”. Còn anh ta thì cứ
nhìn em trừng trừng... Em há hốc mồm ra, ngồi bệt xuống tuyết... Vađim! Em tưởng
mình phát điên mất rồi: những người đã chết dạo này lại bắt đầu dạo chơi trên
các phố Moxkva sao?... Anh ấy cười ngất, rồi hôn em. Còn em thì không sao đứng
dậy được... Katya xinh đẹp của em, Katya thông minh của em. Chúng mình sẽ phải
kể cho nhau nghe suốt mười đêm liền mới hết chuyện, chị nhỉ... Lạy Chúa, em nhận
ra căn buồng này rồi. Cả cái giường, cả Xirin và Alkonoxt nữa... Vađim đã kể
cho em nghe về Ivan. Mấy hôm nữa có một chuyến xe lửa cứu thương đến đơn vị họ.
Em đã quyết định là sẽ đi chuyến ấy, làm cứu thương, cả Anixya và Kuzma Kuzmits
cũng cùng đi một thể... Chúng em không để cho ông ấy ở đây một mình đâu, đâm ra
hư hỏng ra mất... Chị Katya ạ, trước hết chúng em đói lắm... Chị đặt ấm trà
đi... Thứ đến là phải tắm... Chúng em đi xe lửa từ Yaroxlavl đến đây, ngồi toa
chở hàng suốt một tuần lễ... Phải cởi hết quần áo ra xem cẩn thận. Bây giờ
chúng em chưa vào buồng chị được đâu, hẵng ở ngoài nhà bếp đã... Chị ra đây em
giới thiệu chị với các bạn của em... Họ tốt lắm cơ chị ạ! Em nhờ họ mà thoát chết,
em chịu ơn họ đủ thứ... Chúng em sẽ tự nhóm bếp đun nước lấy, ở nhà bếp chất đủ
thứ bàn ghế... Katya, chị không có tóc bạc à? Trời ơi, chị trẻ hơn em đến mười
tuổi ấy... Em tin là chẳng bao lâu nữa sẽ đến ngày chúng mình đoàn tụ đông đủ
bên nhau...
* * *
Ở Moxkva, bột kiều mạch được phân phối theo
phiếu. Chưa bao giờ thủ đô phải trải qua một thời kỳ gian khổ như mùa đông năm
hai mươi. Cuộc tấn công của các đạo hồng quân đã thu hút hết mọi sinh lực của đất
nước. Những kho lúa mì và than chiếm được của địch tiêu tan đi rất chóng. Những
tỉnh trù phú mà quân cô-dắc và quân tình nguyện đã kéo qua đều bị tàn phá kiệt
quệ. Những đội trưng lương của công nhân cử đến đây hầu như chẳng thu được gì.
* * *
Vào ngày kỷ niệm chiến dịch băng giá lần thứ
hai, Quân đoàn tình nguyện chạy về Nôvorôxxik, bỏ lại ngổn ngang trên những
cánh đồng lầy lội của vùng Kuban những đoàn xe thồ, những cỗ xe chở của cải, những
khẩu đại bác bị sa lầy và những xác ngựa. Thế là hết, Antôn Ivanôvits Đênikin,
tóc bạc hẳn đi, lưng còng hẳn xuống, lên một chiếc khu trục hạm Pháp ra nước
ngoài, rút ngắn quãng đời lưu vong bằng cách viết hồi ký.
Những đám tàn quân thảm hại của quân tình
nguyện lên tàu về Krym. Dân cô-dắc sông Đôn và sông Kuban đến bây giờ mới hiểu
rằng mình đã bị lừa một cách đau đớn, và đã trả giá cái tính gan lì cố chấp của
mình bằng những nấm mồ vô danh rải rác khắp nơi từ Vôrônej đến Nôvôrôxxixk.
* * *
Moxkva vẫn chìm trong lớp tuyết mùa đông do
những cơn bão tháng ba mang lại. Bao nhiêu hàng rào và bàn ghế thừa thãi đều đã
đem đốt sạch trong mấy cái lò con ong. Các nhà máy và các công xưởng vẫn không
hoạt động. Ở các cơ quan, cán bộ nhân viên mặc cả áo khoác ngồi làm việc, luôn
luôn phải hà hơi vào mấy ngón tay sưng phù, may ra mới có thể cầm được cây bút
chì; mực đông cứng trong bình, đợi những ngày ấm áp. Những người qua đường bước
chậm chạp, không rời các túi khoác sau vai, và ít ai có thể đi từ nhà đến nơi
làm việc mà không dừng lại mấy lần để ngồi xuống một đống tuyết hay tựa vào một
cái cổng khuất gió để nghỉ cho đỡ mệt. Nạn đói lúc này thật khủng khiếp. Người
ta nằm mơ thấy lợn sữa luộc bày trên đĩa, một nhánh rau thơm cắn giữa hai hàm
răng đang nhe ra cười; trong giấc ngủ, người ta nhai không khí nhóp nhép, tưởng
mình đang ăn miếng xúc xích béo ngậy hay quả trứng luộc. Nhưng tinh thần thì ai
nấy đều phấn chấn; sự kháng cự dai dẳng đẫm máu, hằn học của phản cách mạng đã
bị bẻ gãy, cuộc sống đang đi lên, chỉ còn mấy tháng thiếu thốn và đau khổ nữa,
rồi sẽ có bột mì mới, và những đội hồng quân giải ngũ sẽ về bắt tay vào lao động
hòa bình khôi phục lại tất cả những gì đã phá hủy, và xây dựng lên một cuộc sống
mới, trong đó tất cả những nỗi thống khổ, tất cả những mối oán cừu cay đắng chất
chứa từ bao nhiêu thế kỷ đều sẽ bị quên lãng đi.
Nguyện vọng của Katya đã thành sự thật: họ
đã lại đoàn tụ đông đủ bên nhau. Ivan Ilyits và Rôstsin được nghỉ phép ngắn hạn,
họ lên chuyến tàu cứu thương của Đasa đi về Moxkva vào một buổi sáng tháng ba ảm
đạm, khi những đám mây sũng nước ùn lại trên thành phố Moxkva, tuyết đọng trên
các mái nhà dày quá sụt xuống từng mảng, những giọt băng to tướng rơi lanh canh
xuống mặt đường, còn không khí thì nặng nề, đầy những mùi hương pha tạp và chứa
chất lo âu.
Katya ra ga đón họ. Vađim Pêtrôvits đứng ở
đầu toa trông thấy nàng trước tiên và nhảy xuống sân ga trong khi tàu đang chạy.
Katya, gương mặt rạng rỡ lên vì vui sướng, đôi mắt và nụ cười như tỏa hào
quang, chạy qua làn hơi nước ở đầu máy phun ra giữa mấy hàng cột sắt lao về
phía chàng. Vađim thấy nàng còn đáng yêu hơn cả dạo tháng chạp khi hai người gặp
nhau lại lần đầu. Cả cuộc sống yêu đương của họ gói gọn vào những cuộc gặp gỡ
ngắn ngủi như vậy. Họ lập tức tránh riêng ra một bên, đến đứng dưới cái đồng hồ
nhà ga. Nhưng nàng Đasa hay ghen tị đã lôi chàng Têlêghin của mình đến với họ.
Đasa nhất thiết muốn chị mình phải lớn tiếng khen ngợi Ivan Ilyits cho kỳ được
mới nghe.
- Katya, chị thử nhìn anh ấy mà xem. Chị có
thấy anh ấy thay đổi nhiều không! Hồi ở Pêterburg mặt anh ấy có một cái gì chưa
hoàn chỉnh ấy. Mắt anh ấy cũng khác. Ivan, anh bỏ qua cho em nhé, nhưng cái dạo
chúng mình đi tàu thủy về Xamara anh có đôi mắt xanh rất nhạt, trông còn ngốc
nghếch nữa là khác, thậm chí em còn thấy bỡ ngỡ thế nào ấy... Bây giờ thì mắt
anh như có nước thép.
Ivan Ilyits đứng trước mặt Katya, khe khẽ
thở dài vì lòng tràn đầy những cảm xúc trọn vẹn. Katya cũng thấy chàng rất đáng
mến: thân thuộc, điềm đạm, vững vàng...
- Còn đây là một thứ chân dung tuyệt diệu của
anh ấy, chị Katya ạ... Suốt thời gian đi chiến dịch - ấy, chị cứ thử mà xem! -
ngay cả khi anh ấy cưỡi ngựa truy kích Mamontôv, anh ấy cũng vẫn mang theo
trong cái túi sau yên ngựa - chị thử đoán xem cái gì nào? - mang theo con chó
và con mèo bằng sứ này: đó là quà của anh ấy tặng em ngày chúng em cưới nhau lần
thứ hai... Bởi vì em thích chúng nó lắm, chị ạ...
Kuzma Kuzmits tranh thủ một lúc rỗi tay nhảy
xuống sân ga chạy đến gặp Katya. Ông giơ ra cả hai tay ra bắt tay nàng, lắc
mãi. Cái mặt đỏ cạo nhẵn thín của ông ta ra rạng rỡ lên vì niềm vui thích và
lòng tận tụy. Mặc chiếc áo bơ-lu trắng, trông ông ta béo tốt khỏe mạnh đến nỗi
những người khách gầy gò đi qua sân ga phải nhìn ông từ đầu đến chân với đôi mắt
đầy ác cảm...
- Êkatêrina Đmitrievna ạ. Qua mấy ngày ngắn
ngủi ở nhà cô dạo ấy, tôi đã đem lòng quý mến cô không kém gì Đarya
Đmitrievna... Xưa nay tôi vẫn nói là trên thế gian không đâu có những người phụ
nữ tuyệt vời như phụ nữ Nga. Tình cảm trung thực, lại biết hy sinh tận tụy, biết
quý tình yêu, lại rất dũng cảm khi cần thiết... Tôi bao giờ cũng sẵn lòng phụng
sự cô, Êkatêrina Đmitrievna ạ... Hễ xong việc một cái là tôi chạy lại nhà ngay,
vào bữa ăn chiều, tôi sẽ mang đến mấy thứ quà Roxtôv... Ở đấy bây giờ đã sang
xuân rồi... Thế nhưng ở miền Bắc vẫn thấy dịu dàng hơn... Thôi, xin lỗi nhé,
tôi phải lên tàu ngay...
Anixya chạy lại, mình cũng mặc bơ-lu trắng.
Gương mặt có đôi mắt mênh mông của chị lộ vẻ thất vọng: chị muốn chuyến này ở lại
Moxkva, nhưng ông bác sĩ trưởng, với một tác phong chẳng xô-viết chút nào, thậm
chí cũng chẳng thèm nghe chị nói nữa: “Lại trường kịch trường cọt gì thế nữa! Sắp
tới lại có những trận lớn, thương binh sẽ ùn về... Tôi không cho đi đâu!”.
- Thôi đợi đến mùa thu vậy, - chị nói với
Đasa, rồi cầm múi khăn lên lau mũi, - Thời gian cứ trôi đi, tôi để mất năm này
qua năm khác, thế mới khổ... Latughin cũng đang ở đây. Anh ấy có ra đón tôi - đến
là vớ vẩn. Anh ấy lên Moxkva dự đại hội. Dạo này trông anh ấy nghiêm trang mà tự
hào lắm... Tôi chạy ra ga suốt ba ngày nay - anh ấy bảo thế - để đón chuyến xe
cứu thương của các cô! Bây giờ anh ấy đi gặp bác sĩ trưởng rồi: để xin phép cho
tôi nghỉ hai mươi bốn tiếng... Đarya Đmitrievna ạ, anh ấy có kể chuyện là
Agrippina hiện ở Xaratôv, chị ấy đẻ rồi, con trai hay là con gái thì anh ấy
không biết. Chị ấy ốm rất lâu... Bây giờ bế con về trung đoàn rồi... Tội nghiệp
quá, tính khí chị ấy khổ lắm cơ, chị ấy thuộc loại người trong đời chỉ yêu một
lần mà thôi.
Từ nhà ga, họ đi bộ qua suốt Moxkva đến phố
Xtarôkônyusennaia. Ở đấy đã dọn sẵn căn phòng cũ của Maxlôv cho Đasa và
Têlêghin. Đã hai tháng nay Maxlôv không còn ở đấy nữa. Thoạt tiên hắn chở hết
sách đi, rồi bản thân hắn cũng mất tăm...
Họ đi rất chậm vì phải đợi Katya. Giá có thể
được, Vađim Pêtrôvits chỉ muốn bế nàng lên mà đi, dưới những đám mây mùa xuân
xù xì đang ùn ùn kéo đi trên bầu trời Moxkva. Têlêghin và Đasa tụ lại phía sau
để cho họ được tự nhiên.
- Em lo cho Katya quá. Moxkva và cái trường
học ấy đã làm cho chị em kiệt sức rồi. Chị ấy chẳng ăn gì cả... Qua ba tháng,
chị ấy cứ trong suốt ra.. Chị ấy phải đưa lên tàu cứu thương mới được: em sẽ bồi
dưỡng cho chị ấy... Nếu không thì chị ấy chỉ sống bằng mỗi tinh thần, chẳng còn
ra làm sao nữa...
Têlêghin nói khẽ giọng ngụ nhiều ý nghĩa:
- Mà Vađim thiếu chị ấy cũng sút đi trông
thấy, thế đấy em ạ...
Một lát sau, Latughin và Anixya đuổi kịp họ.
Bây giờ Anixya không khoác bơ-lu trắng nữa. Má chị ửng hồng lên. Latughin, vẻ mặt
nghiêm trang, đôi mày nhíu lại, chào hỏi mọi người một cách dè dặt và rút trong
ve tay áo ca-pốt ra bốn cái giấy vào cửa Nhà hát Lớn dành cho khách, tầng trên
cùng.
- Thật ở mặt trận còn dễ hơn ở Moxkva của
các anh các chị. - anh vừa nói vừa phân phát mấy vé, - chỉ có thế này mà cũng
phải mở một trận ác chiến mới có được... May sao anh phụ trách bảo vệ lại là một
anh bạn thủy thủ cũ của bọn tôi trên tuần dương hạm “Rạng đông”... Thế các anh
các chị đừng đi muộn đấy nhé, buổi họp hôm nay rất quan trọng. Thôi, Anixya, ta
đi đi!...
* * *
Trong gian phòng lớn của nhà hát Bolsôi, có
cả thảy năm tầng bao lơn mờ mịt hơi người, mấy trăm ngọn đèn điện cháy tù mù,
điện chỉ đủ làm cho dây tóc ửng đỏ lên một chút. Trong phòng rét căm căm như ở
dưới hầm rượu. Trên cái sân khấu rộng thênh thang, hai bên riềm có kết những
vòm cuốn bằng vải, chủ tịch đoàn ngồi sau một cái bàn đặt chếch về một bên, cạnh
dãy đèn rầm sáng mờ mờ. Tất cả những người ngồi ở bàn đều quay đầu lại nhìn vào
cuối sân khấu, nơi có một tấm bản đồ nước Nga phần châu Âu treo vào những sợi
dây mắc lên các thanh xà ở phía trên sân khấu. Trên tấm bản đồ vẽ chi chít những
vòng tròn nhỏ và những đường vòng nhiều màu, choán gần hết cả diện tích. Đứng
trước bản đồ là một người nhỏ bé mặc áo khoác lông, không đội mũ: mái tóc từ vầng
trán rộng vuốt ngược ra phía sau in bóng lên tấm bản đồ. Người ấy cầm một cái gậy
dài, chốc chốc lại nhích nhích đôi mày rậm, đầu gậy chỉ vào vòng tròn này hay
vòng tròn khác chỉ đến chỗ nào thì chỗ ấy lập tức bật đèn sáng rực, đến nỗi những
vành bao lơn thiếp vàng trong phòng lại ánh lên, và có thể thấy rõ những khuôn
mặt gầy gò, căng thẳng và những đôi mắt mở rộng ra vì chăm chú.
Người ấy cất tiếng nói, cái giọng cao vang
lên lanh lảnh trong gian phòng im phăng phắc:
- Chỉ riêng ở phần châu Âu của nước Nga,
chúng ta đã có mấy chục tỷ pút than bùn khô rồi. Lượng than bùn dự trữ đủ cho
ta dùng trong mấy thế kỷ. Than bùn là chất đốt dùng cho địa phương. Một mẫu dồng
lầy có than bùn cung cấp cho ta một năng lượng lớn gấp hai mươi lăm lần so với
một mẫu rừng. Than bùn trước tiên, rồi kế đến là than trắng và than đen, sẽ cho
phép ta giải quyết vấn đề xây dựng cách mạng đang đặt ra trước mắt ta. Bởi vì một
cuộc cách mạng mà chỉ giành được phần thắng trên chiến trường thôi và không
chuyển sang việc thực hiện những lý tưởng của mình trên thực tế, thì sẽ chỉ
trôi qua rồi lặng đi như một trận bão. Vlađimir Ilyits Lênin, người đã gợi ý
cho bản báo cáo của tôi, và hôm nay đang ngồi ở đây, giữa đám chúng ta, có vạch
rõ đường lối chung của một cuộc cách mạng có tính sáng tạo: chủ nghĩa cộng sản
là chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa...
- Lênin đâu? - Từ trên tầng thứ năm Katya
nhìn xuống hỏi thì thầm.
Rôstsin, nãy giờ vẫn nắm chặt bàn tay gầy mảnh
của nàng, cũng thì thầm trả lời:
- Người mặc áo khoác đen ấy, em nhìn thấy
không: đang viết rất nhanh đấy, à, bây giờ đã ngẩng đầu lên, ném mảnh giấy qua
bàn... Chính Lênin đấy...
Báo cáo viên nói:
- Ở những nơi nào có hàng tỉ pút than bùn
đang im lặng náu mình hàng bao thế kỷ nay trong lòng nước Nga, ở những nơi nào
có thác nước hay có một dòng sông chảy mạnh, ta sẽ xây dựng những nhà máy điện:
những ngọn hải đăng của lao động xã hội. Nước Nga đã vĩnh viễn thoát khỏi ách
bóc lột. Nhiệm vụ của chúng ta là chiếu rọi lên đất nước cái ánh sáng không
chút nào lu mờ của kỹ thuật điện khí. Từ chỗ là một khổ dịch, lao động phải trở
thành một hạnh phúc.
Đưa cây gậy lên, ông ta chỉ những trung tâm
năng lượng tương lai và vạch lên bản đồ những đường vòng bao quanh các khu vực
văn minh sau này. Và những vòng tròn nhỏ, như những vì sao, lóe lên sáng rực
trên cái sân khấu tối mờ mờ. Muốn có đủ điện cho tấm bản đồ này sáng lên từng
khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy, đã phải tập trung hết năng lượng của nhà máy điện
Moxkva: ngay trong thành Kremlin, trong phòng làm việc của các ủy viên nhân
dân, cũng phải tháo hết các bóng đèn ra, chỉ để lại mỗi phòng một bóng sáu mươi
oát.
Những người ngồi trong phòng khán giả,
trong túi áo ca-pốt lính hay áo bêkes
thủng lỗ chỗ những vết đạn đều có mỗi người một nắm kiều mạch mới phát hôm nay
thay cho bánh mì. Họ nín thở lắng nghe những triển vọng huyền hoặc nhưng thực sự
có thể thực hiện được của một cuộc cách mạng đang bước lên con đường sáng tạo...
Têlêghin nói khẽ với Đasa:
- Bài báo cáo quan trọng đấy. Anh có biết
rõ kỹ sư Krijijanôvxki này. Hết chiến tranh, anh sẽ trở về nhà máy, anh cũng có
một số ý định... Muốn làm việc quá, Đasenka ạ... Nếu có được một cơ sở điện lực
như vậy thì có thể làm không biết bao nhiêu việc lớn... Nước mình tài nguyên vô
tận. Nếu huy động hết được thì nước Mỹ thấm gì! Ta giàu hơn chứ... Chúng mình sẽ
đi Ural...
Đasa nói với chàng:
- Chúng mình sẽ ở một ngôi nhà ghép bằng gỗ
súc, thật sạch, sạch bóng lên ấy, có những giọt nhựa ứa trên mấy súc gỗ, có những
khung cửa sổ lớn... Vào những buổi sáng mùa đông sẽ đốt lò sưởi lên...
Rôstsin ghé tai Katya nói thì thầm:
- Em có hiểu tất cả những cố gắng của chúng
ta, những dòng máu đã đổ xuống, những nỗi thống khổ thầm lặng, không tên, đang
bắt đầu có được một ý nghĩa lớn lao như thế nào không?... Ta sẽ xây dựng lại thế
giới vì hạnh phúc của con người... Tất cả những người ngồi trong phòng này đều
sẵn sàng hiến dâng đời mình cho sự nghiệp đó... Không phải anh tưởng tượng ra
đâu: họ đều có thể cho em xem những vết đạn chằng chịt trên người họ. - Và đó
chính là Tổ quốc của anh, đó chính là nước Nga...
- Chí ta đã quyết! - người đứng bên bản đồ
nói, tay tì lên chiếc gậy như tì lên một ngọn dáo. - Ta sẽ đứng vào chiến lũy đấu
tranh để giành cho ta và cho loài người cái quyền vĩnh viễn chấm dứt tình trạng
người bóc lột người...
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét