Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2019

Con Đường Đau Khổ - Tập III (tiếp theo & hết)

Con Đường Đau Khổ - Tập III

Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976

Tập III - Buổi Sáng Ảm Đạm

Sống chiến thắng hay chết vinh quang...
(Xvyatoxlav)     

17

Katya đang ngồi chữa bài chính tả trong mấy cuốn vở học trò đóng bằng đủ các thứ giấy dán tường, chỉ viết được một mặt. Những cuốn vở này là một thành tựu lớn trong cuộc đời khốn khổ của nàng. Để có được giấy đóng vở, nàng đã đi Kiev một mình. Tìm gặp ông ủy viên nhân dân bộ giáo dục cũng dễ. Khi đã biết nàng là ai và đến có việc gì, ông ta cầm lấy cánh tay dìu nàng ngồi xuống chiếc ghế bành, rót trong cái ấm ám khói đen sì để trên cái bàn sang trọng ra một chén trà cà-rốt rồi đưa cho nàng, kèm theo một nửa miếng đường phèn. Vai khoác cái áo choàng lông, ông ta đi đi lại lại trong phòng, đôi ủng dạ thong thả giẫm trên tấm thảm, và trình bày cho nàng nghe một chương trình giáo dục nghe mà chóng cả mặt.
- Mươi mười lăm năm nữa ta sẽ thành một nước có văn hóa cao. Ta sẽ làm cho kho tàng văn hóa nhân loại trở thành tài sản của nhân dân. - ông ta vừa nói vừa vân vê bộ râu, trên môi nở một nụ cười cuồng tín. - Trước mắt ta là một công tác khổng lồ nhằm thanh toán nạn mù chữ. Nỗi ô nhục này phải được rửa sạch: đó là một vấn đề danh dự của mỗi một người trí thức... Toàn thể thế hệ trẻ phải được hưởng nền giáo dục, kể từ các nhà giữ trẻ, các vườn trẻ cho đến các trường đại học. Sẽ không có ai và không có gì cản nổi chúng tôi, những người bolsêvik, thực hiện bằng hành động những điều mà trước kia những người trí thức ưu tú nhất của chúng ta chỉ có thể mơ ước mà thôi.
Ông ủy viên nhân dân hứa cấp cho Katya một vạn cuốn vở, sách giáo khoa và các loại sách khác, bút chì, bảng đá. Ra khỏi phòng ông ta, nàng bắt đầu gặp đủ các chuyện khó khăn, rắc rối: càng xuống đến những cơ quan có quan hệ trực tiếp với việc cung cấp sách vở hơn, những thứ sách vở ấy lại càng lùi xa hơn vào cõi hư ảo, và thái độ của những người tiếp nàng lại càng lập lờ hơn, giễu cợt hơn hay lầm lì hơn. Trong căn phòng không đốt lò sưởi của tòa khách sạn nàng trọ, đệm trên giường cũng chẳng có, điện thì chỉ đủ làm cho sợi tóc trong bóng đèn đỏ lên một cách yếu ớt mong manh như hơi thở của người hấp hối, Katya khoác áo lông ngồi trên chiếc đi văng ọp ẹp, đắm mình trong tâm trạng tuyệt vọng.
Một hôm, có một người cao lớn đội mũ lông xù xì, áo va-rơi thắt nịt ngang lưng, bước vào phòng trọ của nàng, chẳng buồn gõ cửa, rồi cất giọng ồ ồ nói thẳng ngay vào việc:
- Cô còn ở đây à? Tôi có biết việc của cô. Cô đưa các thứ giấy tờ của cô đây tôi xem thử...
Đứng trước ngọn đèn đỏ cành cạch, ông ta xem xét các giấy giới thiệu của Katya. Nàng tin tưởng nhìn gương mặt ngạo nghễ, cương nghị, tuấn tú của người khách.
- Quân đốn mạt - ông ta nói. - toàn một lũ ăn hại, một lũ phá hoại... Mai cô đến thành ủy gặp tôi thật sớm, ta sẽ liệu cách... Thôi, chúc cô khỏe.
Qua người ấy, Katya được cấp một số giấy dán tường và bút chì lấy ở các kho ra, và cả một tủ sách trưng dụng của một ông chủ nhà máy đường yêu chuộng văn chương, một nửa là sách tiếng Pháp. Mệt nhọc hơn cả có lẽ là chuyến đi trở về với những của quý này trên toa hàng hóa: cứ mỗi khi tàu hỏa đứng lại, lại có những gã mu-gích râu ria, mắt long lên dữ tợn, vai mang những cái bị lớn, và những mụ đàn bà hăng máu, người phình to bằng con bò vì giấu đủ các thực phẩm trong áo và dưới váy.
Đến nay, Katya cũng đã có được ít nhiều sức mạnh. Nàng cũng chẳng đến nỗi là con mèo con yếu ớt tội nghiệp có cái lưng mềm và đôi mắt xinh xinh, kêu rù rù trên giường của kẻ khác.
Nàng bắt đầu nhận thấy mình có được chút sức mạnh ấy từ cái tối mà Alekxêy tuyên bố một cách sỗ sàng nàng là vợ chưa cưới của hắn. Hôm ấy Katya đã nhìn vào cái cảnh sống yên ấm của một bà chủ hiệu nông thôn mà người ta đã sắp sửa đưa nàng vào, và đã lùi lại, rùng mình ghê sợ như một người trông thấy một cái huyệt đào sẵn chờ mình trên đường đi. Đôi mắt háo hức, khao khát, long lanh rượu vôđka của Alekxêy, - ông chủ, ông chồng - nàng cũng thấy nó giống một cái huyệt. Cả con người nàng đã phẫn uất lên, đã nổi loạn, và điều đó đối với bản thân nàng cũng bất ngờ và đáng hoan hỉ như cảm giác của người bình phục sau một trận ốm kéo dài. Cũng một cách bất ngờ như thế, nàng đã quyết định hễ trời ấm lên một chút là sẽ trốn về Moxkva. Nàng cũng đã có được đủ trí khôn để giấu những ý định ấy đi, Alekxêy và Matriôna chỉ thấy nàng vui lên, vừa làm việc vừa hát khe khẽ.
Bây giờ trong bữa ăn trưa hay ăn tối (vào lúc khác hắn đi đâu vắng suốt ngày) Alekxêy luôn luôn nháy mắt vui vẻ nói: “Thế này mới ra dáng cô dâu chứ...”. Độ rày Alekxêy cũng vui hẳn lên: hắn đã được hội đồng dân làng cho phép dỡ tòa nhà dọc của lão bá tước và chở gạch, gỗ về sân nhà mình.
Đầu tháng giêng, khi Hồng quân đã chiếm Kiev, có một đơn vị bộ đội đi qua làng Vlađimirxkôiê, và trong một buổi mít-tinh Alekxêy đã là người kêu gào ủng hộ chính quyền Xô-viết trước tiên. Nhưng chẳng bao lâu sự tình đã chuyển hướng khác hẳn.
Một đồng chí Yakôv nào đấy được phái đến làng này. Ông ta tịch thu ngôi nhà rất tốt của ông linh mục, bắt hai vợ chồng ông ra ở nhà tắm. Rồi ông ta ra triệu tập một cuộc mít-tinh, đặt vấn đề như sau: “Tôn giáo là thuốc phiện đầu độc nhân dân. Ai phản đối việc đóng cửa nhà thờ là kẻ ấy chống chính quyền Xô-viết...”, rồi không cho ai phát biểu hết, ông ta cho biểu quyết và niêm phong nhà thờ lại. Sau đó ông ta tách những người cố nông và bần nông không có ngựa, cả thảy chừng bốn mươi người, ra khỏi tất cả những người nông dân khác trong làng. Với bốn mươi người ấy, ông ta tổ chức một ủy ban dân nghèo. Tập hợp họ lại trong nhà ông linh mục, ông ta nói một cách hằn học cường điệu:
- Người mu-gích Nga là một con vật ngu dốt. Họ đã sống hàng nghìn năm trong đống phân. Ngoài nỗi oán giận ngu xuẩn và lòng tham không đáy, trong tâm hồn họ không có gì và không thể có gì hết. Chúng ta không tin bọn mu-gích và sẽ không bao giờ tin họ. Ta nương nhẹ họ trong khi họ còn là bạn đồng hành của ta, nhưng chỉ ít nữa ta sẽ không nương nhẹ như thế nữa. Các người là giai cấp vô sản ở nông thôn, các người phải nắm vững lấy chính quyền, phải giúp chúng tôi bẻ gãy cánh của bọn mu-gích.
Yakôv làm cho cả làng phát hoảng lên, ngay những người trong ủy ban cũng thế. Ở nông thôn, một lời nói ra cả làng đều biết. Các nhà thì thầm rỉ tai nhau:
“Sao ông ta lại nói thế? Chúng ta đây là loài thú vật gì vậy? Hình như chúng ta cũng là người Nga, chúng ta sống ở quê hương chúng ta, thế mà bỗng dưng lại không thể tin được!... Mà làm sao lại đòi bẻ cánh của mọi người đi một cách xô bồ như vậy? Có bẻ cánh thì bẻ của thằng Alekxêy Kraxilnikôv ấy: hắn là đồ kẻ cướp... Hay của Konđratenkôv, Nitsiporôv: chúng là những kẻ uống máu dân, ai ai cũng biết. Bẻ gãy cánh chúng đi là đúng... Nhưng như tôi đây, sao lại phải bẻ cánh? Vì áo tôi thấm mồ hôi muối chăng? Ờ không được, ở đây có cái gì không ổn rồi, sai mất rồi...”. Có người lại nói: “Lạy Chúa, ra chính quyền Xô-viết là như thế đấy!...”.
Những khi Yakôv ra khỏi nhà đi làm những việc đáng sợ của ông ta, mặt không rửa, râu đã từ lâu không cạo, mình mặc cái áo khoác lính rách rưới, đầu đội cái mũ đã đứt mất lưỡi trai (nhưng ủng lại rất tốt, và nghe đâu ở bên trong áo khoác lại ăn mặc rất sang), từ tất cả các khung cửa sổ dân làng đều nhìn theo, bà con nông dân lắc đầu hoang mang lo lắng: rồi sẽ xẩy ra những gì nữa đây?
Vào tháng ba, khi dân làng mới bắt đầu chở phân ra đồng, Yakôv triệu tập một cuộc họp toàn thể, và lại dọa buộc tội phản cách mạng, đòi phải kê khai tất cả số ngựa của từng nhà, trưng dụng số ngựa dôi quá tiêu chuẩn và lập tức thành lập một nông trang công xã trong trang viên của lão công tước... Thế là công việc chở phân ra đồng và cày ải mùa xuân đi đứt vì cái thằng quỷ không tắm rửa ấy!
Chỉ ít hôm sau có một đội trưng lương vào làng. Lập tức cả làng đều biết rằng Yakôv đã đưa cho họ những bản danh sách lúa mì thừa dư với những con số kỳ lạ đến nỗi đội phải trợn mắt tròn xoe ra, họ nói thế. Yakôv thân hành đi với đội đến từng nhà, lấy phấn ghi lên cổng số thóc phải nộp...
“Nhưng từ khi cha sinh mẹ đẻ tôi đã bao giờ nhìn thấy một số thóc như vậy đâu?” - người mu-gích vừa nói vừa lấy ống tay áo cố chùi con số viết bằng phấn đi. Yakôv nói với đội trưng lương: “Đào dưới sàn nhà nó ấy!...”. Người mu-gích không dám làm dấu chữ thập trước mặt Yakôv, vừa khóc vừa xé áo ra nói: “Xin thề là dưới sàn chẳng có hột nào!”. Yakôv ra lệnh: “Đập vỡ cái lò sưởi nhà nó ra, thóc chôn dưới lò sưởi ấy...”
Nhờ những cố gắng của Yakôv, thóc trong làng bị vét sạch, ngay cả thóc giống cũng bị chở đi. Alekxêy Kraxilnikôv thì ông ta gọi đến gặp riêng ở ủy ban, đóng chặt cánh cửa có treo ảnh chủ tịch Hồi đồng quân sự tối cao của nước cộng hòa, đặt một khẩu súng lục lên bàn giấy và ngạo nghễ nhìn gương mặt lầm lầm của Alekxêy.
- Nào, bây giờ ta sẽ nói chuyện theo kiểu gì đây? Có lúa mì không?
- Tôi lấy đâu ra lúa mì? Mùa thu qua có cày gieo gì đâu?
- Ngựa đem đi đâu hết?
- Cho người quen ở các ấp mượn hết rồi.
- Tiền giấu ở đâu?
- Tiền nào?
- Tiền ăn cướp được ấy.
Alekxêy cúi đầu ngồi yên, chỉ có năm ngón tay phải duỗi ra bóp vào, khi buông khi nắm.
- Rốt cục chẳng hay ho gì, - hắn nói - nếu cần nộp thuế thì được, tôi xin nộp... Nhưng đàng này lại thộp lấy cả người ta lột cả áo trong áo ngoài là làm sao?
- Phải đưa anh ra Tseka mới xong...
- Nhưng, tôi có từ chối đâu, đã thế thì tôi sẽ mang tiền đến.
Alekxêy về nhà, xuống hầm ngay, lôi lên những đẫy, bị, gói, bao và những súc vải. Có một cái túi đựng toàn tiền Nikôlai và tiền sông Đôn. Hắn lấy tiền ra nhét vào túi áo túi quần và vào bụng. Một cái túi khác đựng tiền giấy Kerenxki, một mớ giấy lộn chẳng có giá trị gì, thì hắn đưa cho Matriôna:
- Đưa ra ủy ban nói là nhà chỉ có thế. Họ sẽ không tin đâu, họ sẽ đến đây giở sàn ra xem, cô cứ để cho họ làm. Bao nhiêu đồng hồ và dây chuyền cô ném xuống giếng hết đi. Vải vóc thì chất lên xe tatsanka, lấy rạ che thật kín, đến đêm sang nhà lão Afanaxi lấy con ngựa, đánh xe đến trại Đêmentyev. Tôi sẽ đợi ở đấy.
- Alekxêy, anh định đi đâu thế?
- Chưa biết. Đi chuyến này sẽ còn lâu mới về. Đến khi ấy sẽ được nghe tin lạ về tôi.
Matriôna kéo tấm khăn trùm xuống tận lông mày, hai múi khăn phủ lên cái đẫy đựng tiền giấy, rồi ra ủy ban. Alekxêy cài cửa lại rồi quay về phía Katya đang đứng bên lò sưởi. Mắt hắn ánh lên một niềm vui độc ác, hai cánh mũi hắn căng phồng lên.
- Cô mặc cho ấm vào, Êkatêrina Đmitrievna ạ... lấy cái áo choàng lông ấy, đi đôi tất len vào. Đồ lót cũng mặc cho thật ấm... Nhưng phải nhanh lên, ta còn ít thì giờ lắm...
Hắn nhìn Katya, mắt mở rộng, quanh đôi đồng tử như ánh lên những tia lửa nhỏ, hàng ria mép màu hung rung rung trên đôi môi hé mở. Katya đáp:
- Tôi không đi theo anh đâu...
- Cô trả lời thế đấy à? Không thể khác được sao?
- Tôi không đi đâu hết.
Alekxêy xấn tới, đôi cánh mũi trắng nhợt ra.
- Tao không để mày ở lại một mình đâu, đừng hòng... Tao nuôi nấng nuông chiều mày không phải để cho thằng khác nó phủ mày đâu, con chó cái kia. Con đàn bà quý phái dịu ngọt như đường kia!... Tao chưa động đến da thịt mày, nhưng để tao vặn gãy chân tay mày xem mày kêu rên như thế nào...
Hắn đưa hai cánh tay cứng như sắt ra ôm lấy Katya, thở khò khè vì khuỷu tay Katya chặn lên cuống họng hắn, và chỉ hai bước hắn đã đặt nàng lên giường. Katya gò cả người lại, vùng ra với một sức mạnh mà không ai có thể ngờ là nàng có được. “Không đời nào, không đời nào, đồ thú vật!...”. Nàng vùng ra, nhưng Alekxêy lại quật nàng xuống giường. Hắn thấy vướng vít và nóng điên lên vì cái áo khoác nhét đầy tiền đang mặc trên người. Hắn quay ra đánh Katya. Nàng giơ tay lên che mặt, căm giận nhắc đi nhắc lại qua hai hàng răng nghiến chặt: “Mày giết tao đi, mày giết tao đi, đồ thú vật...”.
Cái then cửa nhảy lên tanh tách. Matriôna từ ngoài phòng lót quát vào: “Alekxêy, mở ra!...”. Hắn rời cái giường, lùi lại, giơ hai tay lên bưng mặt. Matriôna đạp cửa mạnh hơn. Hắn mở ra. Matriôna bước vào nói:
- Đồ ngu, trốn nhanh lên. Họ sắp đến ngay bây giờ!
Alekxêy nhìn Matriôna một phút, rồi chợt hiểu ra, gương mặt bớt đờ đẫn đi. Hắn vơ những gói vải và những túi đồ rồi ra ngoài, cưỡi lên con ngựa duy nhất còn để lại ở nhà, rồi đi ra cửa sau, băng qua mấy dãy rào, cho ngựa chạy nước kiệu xuống bờ sông. Sang bên kia sông rồi, hắn cho ngựa phi nước đại và khuất bóng sau khóm rừng.
Một lát sau Matriôna lấy trong hòm ra một chiếc áo ngắn và một chiếc váy, ném lên cái giường Katya đang nằm sóng sượt, quần áo rách bươm.
- Mặc vào, đi vào trong kia, nhìn cô mà xấu hổ...
Yakôv đưa người đến soát nhà Alekxêy từ dưới hầm lên đến gác xép, nhưng không tìm thấy những thứ giấu trên xe tatsanka. Đến đêm, Matriôna đi lấy ngựa về và đánh xe ra khu trại. Suốt đêm hôm ấy Katya không cởi áo choàng lông, ngồi trong căn nhà tối tăm và lạnh lẽo, đợi trời sáng. Cần phải suy tính mọi việc một cách thật bình tĩnh. Hễ trời sáng là đi. Nhưng đi đâu? Chống hai khuỷu tay lên bàn, nàng ôm chặt lấy đầu và khóc thút thít. Rồi nàng ra cửa, nơi có đặt xô nước, lấy cái hũ con múc nước uống. Dĩ nhiên là đi Moxkva. Nhưng người quen cũ ở đấy nay liệu còn những ai? Tất cả, tất cả đều đã mất... Nàng gục xuống bàn ngủ thiếp đi, và khi giật mình tĩnh dậy thì trời đã sáng hẳn. Matriôna vẫn chưa về. Katya sửa lại cái khăn trùm, nhìn vào tấm gương treo trên tường: đến sợ! Rồi nàng ra ủy ban.
Nàng đứng rất lâu trên thềm sau, đợi cho những người ở trong nhà ông linh mục thức dậy. Cuối cùng Yakôv bước ra, tay cầm cái xô nước bẩn, hắt lên đống tuyết lẫn bùn và nói với Katya:
- Thế mà tôi định cho người đến gọi cô đấy... Ta vào đi...
Ông ta đưa Katya vào nhà, mời nàng ngồi và lục lọi trong ngăn kéo một lát.
- Chồng cô, hay là người thế nào đối với cô đấy, chúng tôi sẽ đem hắn ra xử bắn.
- Người ấy không phải là chồng tôi, cũng chẳng phải là gì hết, - Katya đáp nhanh. - Tôi chỉ xin một điều: ông cho tôi đi khỏi nơi này. Tôi muốn về Moxkva...
- “Muốn về Moxkva!”! - Yakôv ngạo nghễ nhại lại. - Còn tôi, tôi đang muốn cứu cô khỏi bị xử bắn đây.
Katya ngồi ở nhà Yakôv cho đến tối. Nàng kể hết chuyện mình, nói rõ những mối quan hệ giữa nàng với Alekxêy. Thỉnh thoảng Yakôv lại bỏ đi đâu rất lâu, khi trở về, ông ta gieo mình xuống ghế, châm thuốc lá hút.
- Theo chỉ thị của Ủy ban Giáo dục, - ông ta nói, - trong làng phải thành lập một trường học. Cô không phải là người thích hợp lắm, nhưng bần cùng chúng tôi sẽ thử xem... Nhiệm vụ thứ hai của cô là báo cho tôi biết tất cả những việc xảy ra trong làng. Về những chi tiết của công việc này ta sẽ tính sau. Tôi nói trước cho cô biết: nếu cô bép xép về chuyện này, cô sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Còn chuyện về Moxkva thì tạm thời cô hãy quên đi.
Thế là Katya bỗng dưng đã trở thành cô giáo. Họ cắt cho nàng một ngôi nhà nhỏ bỏ không ở cạnh trường học. Ông giáo già trước kia ở đây đã chết hồi tháng một vì bệnh sưng phổi; quân lính Petlyura có một thời gian đóng trong trường này đã xé hết sách vở ra quấn thuốc lá, ngay cả bản đồ địa lý cũng không chừa lại. Katya cũng chẳng biết nên bắt đầu từ việc gì, bèn đến hỏi ý kiến Yakôv. Nhưng ông ta không còn ở trong làng nữa. Cũng đột ngột như khi xuất hiện, ông ta đã đi sau khi nhận được một bức điện bảo đảm, chỉ có đủ thì giờ nói với ông lão Afanaxi bây giờ luôn luôn quanh quẩn bên ủy ban dân nghèo vì sợ mất ảnh hưởng:
- Hãy nói lại với các đồng chí là chớ có nhân nhượng gì bọn mu-gích, tuyệt đối chớ có nhân nhượng gì đấy. Khi nào trở về, tôi sẽ kiểm tra lại...
Từ khi Yakôv đi khỏi, trong làng yên tĩnh hẳn đi. Bà con mu-gích mỗi khi ra ngồi chơi ở thềm nhà ông linh mục, thường nói với mấy người trong ủy ban:
- Các anh làm nhiều điều quá quắt như thế, sau này sẽ ăn nói ra sao? Gay đấy...
Những người trong ủy ban cũng hiểu là tình cảnh rất gay, và trong làng có yên cũng là yên bề ngoài thôi. Yakôv chẳng thấy trở về. Có tin đồn là Alekxêy Kraxilnikôx đã chiêu tập được một toán cướp ở trong huyện và đã nhập bọn với thủ lĩnh Grigoriev. Rồi chẳng bao lâu cả làng đã bắt đầu kháo nhau rằng cái ông thủ lĩnh Grigoriev ấy đã ra một bản tuyên cáo và đã xuất quân đánh phá các thành phố Xô-viết. Dân làng lại bắt đầu chờ đợi những sự thay đổi.
Ở Xô-viết thôn người ta hứa sẽ giúp Katya một số việc: chữa các lò sưởi, lắp các cửa kính. Katya tự tay lau rửa sàn nhà và cửa sổ trong trường học, xếp các bàn học trò bị gãy ra một nơi. Vốn là người có công tâm, cứ tối tối ngồi một mình trong căn nhà nhỏ nàng lại khóc, vì nàng thấy xấu hổ khi phải lừa dối lũ trẻ con. Nàng còn có thể dạy gì cho chúng học, nếu không có sách, không có vở. Nàng còn có thể dạy cho chúng những phép tắc gì, trong khi nàng tự cho mình là người chẳng biết sống theo một quy củ nào?...
Thế rồi một buổi sáng sớm quanh trường đã rộn rã những tiếng cười nói vui tươi của một đàn em nhỏ, con trai có, con gái có. Nàng phải lấy hết sức mới tự chủ nổi. Nàng chải tóc thật sát và búi chặt lại ở sau gáy, hai tay nàng rửa thật sạch. Nàng mở cửa trường ra, mỉm cười nói với lũ con trai và con gái bé tí đang nghếch mũi lên nhìn nàng:
- Chào các em...
- Chào cô Ekaterina Đmitrievna ạ... - lũ trẻ reo to lên giọng trong trẻo, vang dội, tươi vui đến nỗi cả một luồng không khí trẻ trung tràn vào lòng nàng. Nàng phân phối chỗ ngồi cho lũ trẻ, bước lên bục, giơ ngón tay trỏ lên nói:
- Các em, hiện nay ta chưa có sách vở và bút viết. Cô sẽ kể cho các em nghe, có chỗ nào không hiểu, các em sẽ hỏi lại nhé... Hôm nay ta bắt đầu học sử... cô sẽ kể cho các em nghe chuyện Rurik, Xinêux và Truvor...
Nhà cửa Katya rất nghèo. Nàng không muốn lấy chút gì ở nhà Alekxêy đi, và lại gặp Matriôna nàng cũng phiền lòng lắm: chị ta bây giờ gầy rộc đi, lúc nào cũng lầm lì. Trong nhà Katya có một cái chổi đặt ở ngưỡng cửa, trên giá để hai cái hủ đất, trong phòng lót để một cái chậu nước bằng gỗ. Cảnh nhà cũng vui lên một chút nhờ mảnh vườn nhỏ có rào bọc xung quanh, trong vườn có hai cây anh đào, một cây táo và một cây phúc bồn tử. Bên kia bờ rào là cánh đồng.
Khi mấy cây anh đào nở hoa, Katya cảm thấy như mình mới mười bảy tuổi.
Nàng thường ngồi trong vườn soạn bài, đọc những cuốn tiểu thuyết Pháp trong tủ sách của ông chủ nhà máy đường, và hay nhớ đến Pari trong màn sương xanh xanh của những năm dĩ vãng. Hồi ấy - năm một ngàn chín trăm mười bốn - nàng ở ngoại ô Pari, trong một căn phòng nhỏ sát mái nhà, có bao lơn trông ra một dãy phố hẹp yên tĩnh, nhìn xuống mái một ngôi nhà nhỏ mà xưa kia Balzăc đã từng ở. Các cửa sổ ở phòng làm việc của ông không trông ra phố, mà lại mở ra một khoảng vườn dốc dần xuống bờ sông Xen. Bấy giờ khu vườn ấy thuộc quyền sở hữu một người đàn bà Mỹ giàu có nào đấy, và cứ tối tối, mỗi khi Katya ra bao lơn, mấy con công lại cất tiếng kêu the thé đón mùa xuân, và Katya, lúc bấy giờ đã đoạn tuyệt với chồng bỏ nhà sang đây sống trong cảnh cô đơn, trong tâm trạng nhớ nhung, buồn chán, có cảm giác là đời mình đã hết.
Lũ trẻ đã đem lòng yêu mến Katya. Trong các buổi học chúng nghe rất chăm chú những câu chuyện nàng kể về lịch sử Nga, giống như những chuyện thần tiên. Dĩ nhiên những bài toán số học, bảng cửu chương và những bài chính tả là những vấn đề khó giải quyết hơn nhiều đối với lũ trẻ cũng như đối với bản thân Katya, nhưng nhờ những cố gắng chung, thầy trò đã thu được những kết quả khả quan. Dân làng bây giờ đối với nàng tốt hơn trước nhiều. Ai nấy đều biết rằng Alekxêy đã suýt giết nàng. Phụ nữ trong làng đến cho Katya người thì sữa, người thì trứng, người thì bánh mì. Họ cho gì nàng ăn nấy.
Ngồi dưới cây táo già thân phủ rêu xanh, Katya sửa bài vở của học trò. Sau dãy rào mắt cáo thấp lè tè, cũng già nua như cây táo, nãy giờ có một thằng bé đứng khóc thút thít đã khá lâu.
- Cô Katya ạ, cháu chừa rồi.
- Không được, Ivan Gavrikôv ạ, cô giận cháu lắm, cô sẽ không nói chuyện gì với cháu suốt hai ngày.
Ivan Gavrikôv, thằng bé có đôi mắt xanh ngây thơ vô tội, là một đứa trẻ tinh nghịch đến mức khó lòng có thể tưởng tượng nổi. Trong các buổi học nó thường kéo bím tóc bọn con gái, hễ quở mắng nó vì tội ấy, nó giả vờ ngủ gật và ngã chúi xuống dưới bàn. Thôi thì đủ, không sao tả hết được những trò tinh nghịch của nó.
- Không, không được đâu Gavrikôv ạ, cô thấy rất rõ là cháu không hối lỗi, mà đến đây chỉ vì không biết làm gì cả...
- Thật đấy cô ạ, cháu xin thề là cháu chừa rồi, chừa thật mà...
Từ ngoài đường có ai bước vào nhà, và có tiếng Matriôna gọi Katya. Chị ta có việc gì? Katya vội vàng tha tội cho Gavrikôv và đi vào nhà. Matriôna đón nàng với đôi mắt trừng trừng chẳng biểu lộ một chút thiện cảm nào...
- Cô chưa biết à? Alekxêy sắp về đến nơi rồi... Katêrina ạ, tôi không muốn chuyện cũ lại diễn lại lần nữa, cô không ở với chúng tôi được đâu... Dù sao Alekxêy cũng sẽ giết cô mất... Hắn đã thành con thú dữ rồi, chỉ thích đổ máu! Tại cô hết... Vừa rồi có người về nói là Alekxêy đang đi xe tatsanka về đây... Katya ạ, cô đi đi. Tôi sẽ cho cô chiếc xe ngựa và một ít tiền...
* * *
Nằm trong bệnh viện Kharkôv, Vađim Pêtrôvits có đủ thì giờ để suy nghĩ. Thế là bây giờ chàng đã ở bên này hỏa tuyến. Cái thế giới mới này bề ngoài thật chẳng có chút gì hấp dẫn: gian phòng bệnh không có lò sưởi, ngoài cửa sổ tuyết ẩm rơi đều đều, thức ăn thì quá tồi tệ - một ít xúp cá màu xám ngoét - và những câu chuyện nhạt nhẽo của các bệnh nhân về thức ăn, về thuốc lá, về nhiệt độ, về ông bác sĩ viện trưởng. Không một lời nào nói về cái tương lại chưa biết ra sao mà nước Nga đang lao tới, về những biến cố đang làm rung chuyển đất nước này, về cuộc chiến tranh đẫm máu mà những người đã từng tham gia - giờ đây là những người ốm hay bị thương, đầu cạo nhẵn, mặc áo bệnh nhân bằng vải bông đã nhàu nát - khi thì ngủ suốt ngày, khi thì ngồi trên giường đánh cờ đam, quân tự làm lấy, khi thì khe khẽ hát một bài buồn da diết.
Họ không lảng tránh Vađim Pêtrôvits, nhưng cũng không coi chàng như một người của mình. Như thế cũng tiện cho chàng, vì chàng đang cần đối thoại với bản thân: bấy lâu đã tích lũy lại bao nhiêu vấn đề chưa được suy nghĩ kỹ, chưa giải quyết xong xuôi, và đã có bao nhiêu kỷ niệm bị cắt đứt giữa dòng, khác nào một cuốn truyện bị xé mất một trang ở chỗ hồi hộp nhất. Vađim Pêtrôvits đã chấp nhận cái thế giới mới ấy, không chút phân vân, bởi vì cái đó đã xảy ra với chính tổ quốc chàng. Bây giờ cần phải hiểu cho ra tất cả, lý giải ý nghĩa của tất cả mọi sự cố.
Một hôm bác sĩ chủ nhiệm đem đến cho chàng mấy tờ báo Moxkva. Vađim Pêtrôvits đọc báo với một nhãn quan khác hẳn: không phải như trước kia cầm tờ báo lên là trong lòng đã sẵn những ý nhạo báng cay độc... Cuộc cách mạng Nga đã lan sang Hung, sang Đức, sang Ý. Các dòng chữ trên báo đều tràn đầy quả cảm, tin tưởng lạc quan. Nước Nga, bị chiến tranh tàn phá, bị cuộc tương tàn xâu xé, bị các đại cường quốc cắt phần chia nhau sẵn, đang nắm lấy quyền chỉ đạo chính trị thế giới, đang trở thành một lực lượng đáng sợ.
Chàng bắt đầu hiểu cái điềm tĩnh tưởng như tầm thường của các bạn cùng phòng mặc áo bệnh nhân màu xám: họ biết rõ họ đã làm được những gì... Cái điềm tĩnh của họ - vĩnh cửu, thô lỗ, nặng nề, chứa chất suy nghĩ - đã trải qua năm thế kỷ - mà trời ơi, năm thế kỷ ấy đã chứng kiến biết bao nhiêu biến cố phi thường... Lịch sử của nhân dân Nga, của quốc gia Nga thật là kỳ lạ và độc đáo. Những tư tưởng vĩ đại và thô lỗ, chưa thành hình, sống phôi thai trong dân tộc Nga từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, luôn hướng về sự vĩ đại của thế giới và về cuộc sống công bằng, chính trực. Ngày nay những tư tưởng khởi thủy táo bạo, chưa từng có, đang trở thành sự thật, khiến cho thế giới Âu châu hoang mang, và châu Âu sợ hãi và căm tức nhìn sang cái xứ sở phương đông kỳ quái này, vừa yếu ớt lại vừa hùng mạnh, vừa bần cùng lại vừa giàu có khôn lường, đang đẻ ra từ những chiều sâu tối tăm của nó những ánh rạng đông của những tư tưởng và ý đồ có thể soi sáng toàn nhân loại...
Và cuối cùng nước Nga, chính nước Nga chứ không phải một cái gì khác, đã chọn một con đường mới mà chưa có ai đi thử bao giờ, và ngay từ đầu những bước chân của nó trên con đường này đã vang dội khắp thế giới...
Đương nhiên là với những ý nghĩ như vậy Vađim Pêtrôvits còn hơi đâu mà để ý đến những dòng nước bẩn lềnh bềnh những mảng tuyết tháng ba đang trôi qua ngoài cửa sổ, hay người viên chức Xô-viết lầm lì và bất mãn, với cái túi đựng thực phẩm và cái ống sắt tây đựng dầu hỏa lủng lẳng sau lưng, chân đi đôi giày vải, đang lê bước đến dự một trong những buổi họp nhiều vô số của một cơ quan nào đấy; chàng còn hơi đâu mà để ý nhìn món xúp chàng nuốt hàng ngày xem thử những con mắt cá nổi lều bều ở bên trên là mắt cá gì? Chàng chỉ thấy nóng lòng muốn tự mình góp phần vào sự nghiệp này.
Quân Petlyura đang bị quét sạch ra khỏi Ukrain. Gần đây Hồng quân đã chiếm Êkatêrinôxlav. Petlyura hãy còn bám lấy Txerkôv, nhưng rút cục cũng bị đánh bật ra, và hắn cùng đám tàn quân rút qua biên giới, trốn sang Galitxi. Phía trước các đơn vị Hồng quân đang tiến công nổi lên cả một làn sóng lớn những cuộc khởi nghĩa du kích. Quy mô của những cuộc khởi nghĩa đó khó lòng có thể ước lượng và chỉ đạo được. Nó cứ bùng lên như những đám cháy khắp các làng, các tổng đang bị cuộc đấu tranh ác liệt giữa nông dân ít đất và bọn kulak giàu xâu xé. Cả hai bên đều thành lập những đội kỵ binh và bộ binh, lao vào nhau một cách hung hãn phi thường trong những trận giao tranh đẫm máu. Đâu đâu cũng có những tên mật vụ ngụy trang của Petlyura, của Đênikin, của Ba-lan và của những tổ chức còn bí mật và hắc ám hơn nữa len lỏi khắp nơi, khiêu khích bạo động. Chính quyền Xô-viết có hiệu lực trong các thành phố và các đường xe lửa lớn, còn ở xung quanh, ngoài tầm pháo của các đoàn xe lửa bọc sắt, chiến tranh vẫn hoành hành.
Cuối cùng Vađim Pêtrôvits nhận được sự bổ nhiệm mong mỏi từ lâu: chàng được đưa vào bộ tham mưu của một đại đoàn học sinh võ bị trong đó Tsugai làm chính ủy. Vào giữa tháng ba chàng nhận giấy ra viện - chàng đi hãy còn khập khiễng phải chống gậy - và lên đường đi Kiev, về đơn vị mình.
Toán cướp của Zêliôny, sau khi đã ly khai với thủ lĩnh Grigoriev, chuyên đi càn quét các Xô-viết thôn xã và săn đuổi những người cộng sản. Phóng đi rất nhanh trên hàng trăm xe tatsanka, chúng cướp phá đến tận sát thành phố Kiev. Dọc những con đường Zêliôny đã đi qua, người ta tìm thấy những xác người bị lột hết da, hay bị xóc vào những thân cây đẽo nhọn. Những người có chân trong các ủy ban dân nghèo thì bị hắn thiêu sống trong các nhà kho, người Do-thái thì hắn đóng đinh vào cổng, hoặc mổ bụng ra, cho một con mèo vào rồi khâu lại. Kế hoạch tiễu trừ bọn cướp này được nghiên cứu ở bộ tham mưu của dân ủy Quân sự xứ Ukrain, có sự tham gia của Rôstsin. Lực lượng đi tiễu trừ chẳng có được bao nhiêu. Ủy viên quân sự rời Kiev lên tàu thủy đến tận nơi chỉ đạo các cuộc hành quân.
Vào tiết này sông Đniepr hãy còn rộng lắm. Chuyến tàu thủy vỗ guồng bánh lép bép trên dòng nước trong chỉ có những luồng xoáy lười biếng cuộn lên nhè nhẹ. Tiếng guồng bánh vỗ nước cũng như tiếng cười nói của đoàn học sinh quân đều không át được tiếng hót của họa mi vang vọng từ hai bờ phủ lá xanh mọng, nơi thì đeo những chùm quả lủng lẳng như hoa tai, nơi thì điểm những chùm hoa vàng mịn như lông gà con. Boong tầu nóng ran lên vì ánh nắng đang lên cao dần trên làn nước lũ. Vađim Pêtrôvits đứng bên mạn tàu nhìn xuống dòng nước lấp lánh.
Chàng đã sống qua nhiều mùa xuân, nhưng chưa có bao giờ chất rượu nồng của sự sống lại lên men mãnh liệt như vậy trong các huyết mạch của chàng... Mà lại đúng vào một thời điểm ít thích hợp nhất, bất ngờ nhất... Trí óc chàng chìm trong làn sương mù của những linh cảm mơ hồ. Thôi thà đừng lục túi áo tìm thuốc lá, đừng cau mày nữa thì hơn, con người nghiêm trang, con người của hành động ạ; cũng chẳng làm sao cưỡng nổi những cảm giác mầu nhiệm đang tràn vào lòng anh đâu!... Ngoài kia, làn sương mùa xuân đang dâng lên trên mặt sông, trên các hòn cù lao nhỏ, trên những nếp nhà ngập nước lưng chừng, thấm đượm ánh nắng từ trên cao rọi xuống. Ánh nắng ấy dịu dàng trải trên mặt nước, trên những khóm cây được phản chiếu dưới dòng sông thành những hình bóng mờ nhạt lung linh, trên lưng mấy con bò nước ngập ngang đầu gối, trên ngọn cỏ mọc xanh rờn, nơi có con bò mộng đang trèo lên ngắm cái quang cảnh huyền diệu chưa từng thấy, chưa từng thể nghiệm của mùa xuân.
Có một điều rất lạ là suốt thời gian qua, kể từ những ngày ở Êkatêrinôxlav, Rôstsin rất ít khi nhớ đến Katya. Cứ như thể nàng đã mất hút đi cùng với dĩ vãng của chàng: kỷ niệm của nàng gắn bó quá mật thiết với quãng đời mà bản thân chàng đã quyết liệt lên án. Mỗi khi trở về với kỷ niệm của Katya, chàng lại trở về với chính cái gã Rôstsin mà chàng đã trông thấy hồi nào trong tấm gương của hiệu cắt tóc: lúc bấy giờ chàng chưa đủ ghê tởm để bắn một phát đạn hay ít nhất cũng nhổ một bãi nước bọt vào hình ảnh phản chiếu của mình. Giá như bây giờ, chàng sẽ làm như vậy.
Hai mùa xuân trước, tình cảm của chàng đối với Katya như tràn đầy vũ trụ, tất cả cái vũ trụ ở phía sau vầng trán của chàng, cau lại vì hoang mang đến tột độ và vì tủi nhục tưởng chết đi được. Hồi ấy chàng rất cần tình yêu của Katya, nhất là trong những giờ phút cô đơn ở khách sạn Êkatêrinôxlav, khi chàng nhìn quả nắm cửa, nơi có thể buộc đầu dây thòng lọng... Thế bây giờ, chàng không cần nữa hay sao? Có đúng thế không? Ở Roxtôv, chàng đã phản bội Katya lần đầu. Phải chăng ở Êkatêrinôxlav chàng đã phản bội nàng lần thứ hai?
Chàng nhìn lên đôi bờ đang trôi dần về phía sau, hít thở làn không khí ngọt ngào cho căng hết lòng ngực, và không hề cảm thấy hối hận, không hề thấy mình bị cắn rứt. Không, ở Êkatêrinôxlav chàng không hề phản bội nàng... Ở đấy, chàng đã hoàn thành việc thanh toán với dĩ vãng. Và ở đấy chàng đã gặp Maruxya... Người con gái ấy đã hát trọn bài ca ngắn ngủi, ngây thơ và say đắm của mình về cuộc đời mới, về làn nước lũ mùa xuân này, về một hạnh phúc không bờ bến.
Con bò mộng đứng trên gò rống lên một tiếng và ở phía sau tàu các học sinh quân cười phá lên, một người trong bọn cũng rống một tiếng để nhại con bò. Rôstsin khoái chá nhắm mắt lại. Có thật chết là tuyệt vọng không? Cái chết của Maruxya tươi sáng vô ngần. Cái chết của nàng như một lời dặn dò của người ra đi với những người ở lại: hãy yêu cuộc sống, hãy đón nhận nó với tất cả niềm say mê, hãy biến nó thành hạnh phúc!
Chàng không hoãn việc đi tìm Katya. Theo yêu cầu của chàng. Dân ủy quân sự đã chỉ thị cho ủy ban hành chính các huyện thuộc vùng Êkatêrinôxlav và vùng Kharkôv điều tra về hành tung của Alekxêy Kraxilnikôv, nhưng cho đến nay vẫn chưa nhận được tin tức gì về địa điểm hoạt động của hắn. Hiện nay Vađim Pêtrôvits chưa thể làm gì hơn được: mấy tiếng đồng hồ đứng trên boong tàu này là thời gian rỗi rãi duy nhất của chàng sau một tháng rưỡi làm việc mỗi ngày mười tám tiếng.
Tsugai và ông ủy viên quân sự đến cạnh chàng. Ông này là một người gầy gò, mặc áo vải thô kiểu Tolxtôi, mặt đỏ ửng lên vì nắng, đôi mắt ươn ướt và trông như mắt người say, tuy ông không bao giờ uống rượu và ghét những người say rượu đến nỗi đã có lần suýt bắn chết một viên đại đoàn trưởng, một người rất tốt, chỉ vì bắt gặp anh ta ngồi uống rượu trong lều... Chỉ lên dải bờ cao có cái tháp chuông trăng trắng, ông ủy viên quân sự nói:
- Làng tôi đấy... Ngày trước bà tôi hễ nghe thấy tiếng còi tàu thủy là lập tức ấn cho chúng tôi một thúng đầy mận, lê, hạt dẻ, bắt ra bến bán: thật là một bà già tham việc tiếc công... Nhưng rốt cục cũng chẳng làm cho tôi thành lái buôn được.
- Còn bà tôi thì lại hì-iền hiền hiền, - Tsugai nói, - cứ đi hết những nơi có thánh tích linh thiêng suốt mười năm, đi đâu cũng dắt tôi theo; hai bà cháu đi ăn xin mà...
Ông ủy viên quân sự không để ý nghe, nói tiếp:
- Sau đó nhà cho tôi đến lò rèn học việc. Cái lò rèn ấy chắc bây giờ cũng vẫn còn, kia kìa, ở phía dưới cái tháp chuông ấy. Cho đến nay tôi vẫn thích cái mùi than củi. Đến khi họ bớp tôi dữ quá, tôi mới lên Kiev làm trong xưởng sửa chữa đầu máy... Sau đó tôi đi Kharkôv làm ở nhà máy cơ khí...
Tsugai cũng chẳng để ý nghe ông ta nói gì:
- Hồi ấy tôi là bậc thầy về cái môn lê la trước thềm nhà thờ. Cào sứt một chỗ nào trên người, bôi máu lên mặt, mắt trợn ngược lên, thế là bắt đầu ê a một bài kinh “Lazariux”... Sau đó nhiều khi còn cãi cọ đánh nhau với bà tôi chỉ vì một đồng cô-pếch.
Rồi Tsugai lơ đễnh nhắc lại:
- Thế là hai bà cháu đánh nhau.
Anh nhìn lên chỗ bờ sông nhô ra thành mũi đất. Ở chỗ này sông Đniepr chạy ngoặt vào một cánh đồng cỏ ngập nước. Đôi mắt lồi của Tsugai đang nhìn trừng trừng phía trước mặt. Anh vỗ mạnh chiếc mũ lính thủy cho nó dính xuống tóc rồi bước nhanh về phía cầu chỉ huy của thuyền trưởng.
- Này, bố ơi, - anh quát gọi ông thuyền trưởng, một ông già khô đét có bộ ria buông thõng xuống hai bên, - cho tàu đi xa bờ ra, đi về phía bãi cỏ kia!
- Không được, các đồng chí ạ, phải đi đúng luồng, bên kia có cồn cát ngầm...
- Cứ đi, chẳng luồng lạch gì sất! - Tsugai vỗ bao súng - Ngoặt hẳn sang!...
Con tàu đi vòng theo mũi đất, và trên dải bờ thoai thoải dần dần hiện ra một làng lớn có cái tháp chuông cao ngất, mấy cái chòi xay gió, những nếp nhà trắng và những khu vườn thấp, cành lá sum suê một màu xanh mơn mởn.
- Anh có trông thấy không, kia có cái nhà nho nhỏ đứng riêng ra một bên đấy. Tôi đã ra đời trong nếp nhà ấy, - ông ủy viên quân sự nói với Rôstsin.
Tsugai nghiêm sắc mặt quát:
- Nào, cho tàu ngoặt sang trái đi, lái mạnh vào!
Trên bờ có nhiều xe giàn đỗ, sát bờ có nhiều thuyền đậu. Một đám người đang chen chúc nhau nhảy xuống thuyền và trên một chiếc đã rời bờ, người ta đang ra sức chèo hối hả. Tsugai chạy xuống boong, chiếc áo lính thủy bay phần phật. Ngay lúc ấy từ trên bờ và từ mấy chiếc thuyền có tiếng súng nổ: họ đang bắn vào tàu thủy. Rồi trên tàu thủy những khẩu súng máy bắt đầu nhả đạn. Đám đông trên bờ nhốn nháo chạy lên các xe giàn phóng nhanh lên con đường dốc rộng, bụi tung lên mù mịt. Từ trên tháp chuông bắt đầu gióng giả một hồi chuông báo động. Chỉ mấy phút sau, bờ sông đã vắng ngắt. Đôi mắt lồi ánh lên vui vẻ, Tsugai lại bước lên cầu chỉ huy.
- Zêliôny đấy! Thằng chó đẻ ấy lại thoát rồi! Thôi, phải đổ bộ lên thôi, đồng chí ủy viên quân sự ạ.
* * *
Toán cướp của Zêliôny lồng lộn trong vòng vây như một đàn sói. Cuối cùng nó bị dồn vào đường sắt, vào vùng hỏa lực của một đoàn tàu bọc thép, rồi bị tiêu diệt sạch trong một khóm rừng hồ đào rậm rạp, nơi những chiếc xe tatsanka của chúng lao vào để chọc thủng vòng vây. Cánh đồng mọc đầy những bụi bờ đã được đào tung lên từ trước. Những con ngựa thắng vào xe từng cỗ bốn con, bị trúng đạn súng máy và mảnh lựu đạn, lồng lên chạy ra khỏi khóm rừng, vấp phải hố rãnh phải dừng phắt lại, những cỗ xe sau đâm sầm vào những cỗ xe trước vỡ tung ra hoặc đổ nhào xuống. Bọn kẻ cướp vội lao vào các bụi rậm, nơi cái chết đang chờ chúng. Không có một đứa nào dám kêu xin tha chết. Thủ lĩnh Zêliôny bị bắt dưới một đống củi cành chặt từ năm ngoái: các học sinh quân nắm lấy hai chân hắn lôi từ trong đống củi ra. Họ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy hắn: cứ tưởng là một ông hộ pháp dữ tợn lắm, hóa ra chỉ là một anh chàng gầy guộc quắt queo, không đủ chỗ để nhổ một bãi nước bọt. Chỉ có đôi mắt nhớn nhác, bạc phếch, hằn học, bộc lộ cái máu sói lang của hắn! Họ trói chặt chân tay hắn lại để giải về Kiev.
Tuy vậy một chi đội trong toán cướp vẫn chọc thủng được vòng vây ở bên sườn và chạy thẳng về phía đông. Ông ủy viên quân sự liền phái một trung đoàn kỵ binh gồm ba trăm lưỡi kiếm cùng với Tsugai và Rôstsin đuổi theo chúng. Một cuộc săn đuổi kiên trì và thận trọng bắt đầu. Đi qua các làng trại, bọn cướp đều thay ngựa, còn hồng quân thì cứ đuổi riết theo, không thay ngựa giữa đường. Họ được dân cư trong một làng nằm trên đường đi cho biết rằng quân cướp đang chạy về phía làng Vlađimirxkoiê. Hôm trước quân cướp vừa ghé vào làng này tịch thu ngựa và cướp tất cả những thứ gì có thể vơ vội được.
- Các đồng chí cố sao diệt sạch chúng nó đi thật nhanh, chứ không thì thú thật là chúng tôi chán những cuộc đánh phá lắm rồi, - nông dân nói với Tsugai và Rôstsin khi đoàn người ngựa dừng lại bên một cái giếng để cho ngựa uống nước. - Thủ lĩnh của bọn này chúng tôi biết rõ lắm: quê hắn ở làng Vlađimirxkôiê, hắn tên là Alekxêy Kraxilnikôv. Trước kia hắn là một anh mu-gích làm ăn chí thú, ai mà chả biết, nhưng về sau đổ đốn ra, hóa điên hóa dại mất rồi, thành một con quỷ dữ...
Thế là Vađim Pêtrôvits đột nhiên đã rơi đúng vào dấu vết Alekxêy mà chàng đã tìm kiếm từ hai tuần nay, và do đó cũng đã lần ra cả dấu vết của Katya nữa. Chàng bồi hồi xúc động là phải: Katya chỉ cách chàng có một ngày đường nữa mà thôi. Khi tìm được nàng rồi, chàng sẽ thấy nàng ra sao? Bị đày đọa khổ sở đến nỗi không nhận ra được nữa chăng? Nếu thế chàng chỉ còn biết áp sát mái đầu điểm bạc của nàng vào ngực nữa mà thôi... ôi, mái tóc bạc của nàng!... “Thôi thế là bây giờ em sẽ được nghỉ ngơi, Katya ạ, chúng mình sẽ sống, chúng mình cần phải sống...”. Không, không, điều đó không thể nào quan niệm nổi, nàng không thể cam tâm làm vợ Alekxêy được! Nhưng có lẽ đúng hơn cả là cuối ngày hành quân, ngựa chàng sẽ dừng chân bên mộ Katya... Và đối với nàng có lẽ như thế mà hơn. Hình ảnh nàng sẽ mãi mãi nguyên vẹn, trong trắng, không gợn một vết nhơ...
Trung đoàn tiến rất nhanh trên con đường trường bụi bặm. Người Rôstsin dập dình trên yên. Hình ảnh Katya nhòa đi và mờ dần trong cái ký ức khắc khổ của chàng. Nàng ra sao, thì chàng sẽ cứ thế mà đón nhận lấy nàng vào cuộc sống của mình.
Trong làng Vlađimirxkôiê những nếp nhà bị đốt hãy còn bốc khói, lũ trẻ còn sợ sệt đứng nhìn những vũng máu vừa phủ tro lên, những người đàn bà run rẩy, giàn giụa nước mắt vẫn còn lẩn trốn trong các nhà hàng xóm, khi Tsugai và Rôstsin từ hai đầu làng kéo quân ập vào. Nhưng Alekxêy Kraxilnikôv không còn ở đây nữa. Có người đã báo cho hắn biết trước: sau khi chém chết mười bảy người có chân trong ủy ban dân nghèo và chém luôn cả ông lão Afanaxi một thể cho vui, hắn đã dẫn toán cướp đi chừng nửa giờ đồng hồ trước khi hồng quân đến.
Dân căm thù hắn đến nỗi hầu như cả làng đều kéo đến vây quanh đội kỵ binh cưỡi trên những con ngựa chỉ chực quỵ chân xuống vì mệt mỏi.
- Đuổi cho kịp đi, - họ hò hét - các ông giết chết thằng Alekxêy đi cho chúng tôi. Quân hắn ít lắm, đạn thì hết nhẵn rồi. Hắn chưa đi đâu xa, chúng tôi biết thừa cái lũ khốn kiếp ấy đi đâu rồi... Tay không các ông cũng bắt được chúng nó.
- Nhưng thế nào đây, đồng bào có cấp ngựa mới cho chúng tôi không nào? - Tsugai hỏi.
- Cấp chứ... Phen này thì phải cấp chứ.
- Bao nhiêu con?
- Gì chứ dăm chục thì có ngay... Ngựa của các ông cứ để lại đây, xong đâu đấy ta sẽ đổi lại... Quả tình hắn không để cho chúng tôi sống nữa đâu.
Trong khi họ chạy đi bắt ngựa và chuyển yên cương, Rôstsin rụt rè bước lại gần mấy người đàn bà. Thấy người kia như muốn hỏi điều gì, họ nhích gần lại.
- Tôi có biết Kraxilnikôv hồi chiến tranh với Đức, - chàng nói. - Em trai hắn có vợ rồi, nhưng hắn thì hình như chưa có... Thế bây giờ thì thế nào, hắn đã có gia đình chưa?
Mấy người đàn bà, chưa hiểu chàng muốn đi đến đâu, sốt sắng trả lời nhao nhao:
- Có rồi, có rồi...
- Có đâu mà có! Có phải vợ hắn đâu mà...
- Ờ thì hắn cứ ở với người ta như thế cũng chẳng khác gì vợ chồng...
- Cũng chẳng phải thế đâu. Đồng chí bộ đội ạ, để tôi kể cho mà nghe... Hắn đánh bạc với Makhnô mới vớ được cô ta, hắn mới đem về đây, định cưới làm vợ... Dĩ nhiên cô ta mới bảo hắn là có muốn lấy ai thì cứ lấy, chứ cô ta thì không quen sống như con nhà mu-gích... Cô ta là người quý phái, trẻ mà đẹp lắm... Nhà Alekxêy thì mùa xuân năm ngoái quân Đức đốt sạch... Vừa rồi hắn mới bắt đầu xây lại... Thế rồi xảy ra cái vụ ông Yakôv...
Người đàn bà thứ ba, còn thông thạo hơn nữa, chen đến gần Rôstsin:
- Đồng chí chỉ huy ạ, hắn đánh cô ấy dữ lắm, nhưng rồi cũng không đánh chết được cô ta, cái thằng quỷ dữ ấy... Kể từ tháng ba cô ấy làm cô giáo làng chúng tôi...
- Ra thế, ra thế, - Vađim Pêtrôvits vừa lẩm bẩm vừa ho húng hắng. - thế bây giờ cô ta có còn ở đây không?
Mấy người đàn bà đưa mắt nhìn nhau. Lúc bấy giờ một người thứ tư nữa mới vừa đến, nói:
- Hắn bỏ cô ta lên xe giàn, lấp rạ lên, chở đi rồi, sống chết chẳng biết ra sao...
Một thằng bé con đang giương đôi mắt si mê nhìn Rôstsin, nhìn thanh gươm đốc đồng, đôi ủng phủ bụi đường có đính cựa, cái đồng hồ to đeo ở cổ tay, khẩu súng lục có buộc sợi dây tết, mặt ngửa hẳn lên để nhìn mặt chàng, cất giọng ồm ồm nói:
- Chú ơi, các cô ấy nói bậy đấy. Các cô ấy chả biết gì về cô Katya đâu. Cháu mới biết cơ, cháu biết hết.
Một đứa con gái đứng sau lưng thằng bé, gầy gò, xấu xí, môi sưng vều lên, nói:
- Chú ơi, chứ cứ tin thằng này, nó biết hết đấy.
- Nào, thế cháu biết những gì nào?
- Cô Matriôna cô ấy đưa cô Katya ra ga rồi. Cô Katya không muốn đi, cô ấy khóc dữ lắm, nhưng cô Matriôna cũng khóc dữ lắm... Rồi cô Katya bảo cháu: “Cô sẽ về, cháu nói với các bạn như thế nhé...”. Alekxêy đi nhiều xe tatsanka vào làng, nhưng cô Matriôna mấy cô Katya đã đi xa ra đến đằng kia rồi! lên đến ngọn dốc, hai cô ấy bỏ cháu xuống đất rồi đánh xe đi thẳng...
- Lên yên!... - Tsugai quát.
Vađim Pêtrôvits không kịp nghe cho hết. Đội kỵ binh đi ngựa mới, kéo theo nhiều xe tatsanka chở đại liên, phóng ra khỏi làng. Phi bên cạnh Tsugai và Rôstsin, hai khuỷu tay khuỳnh ra, là một người mu-gích thấp bé, tóc râu đen nhánh, suốt ngày vừa qua đã phải nấp dưới giếng, nước và bùn lên đến rốn. Mình mặc chiếc áo rách bươm, chân không giầy dép, râu ria bờm xờm, anh cứ thế nhảy lên con ngựa chưa đóng yên đi theo đội tiễu phỉ. Anh đưa họ đi đường vòng đến một khu rừng sồi, nơi duy nhất ở địa phương này mà toán cướp có thể đến được.
Phi đến nơi thì trời hãy còn sáng. Họ lập tức vây kín lấy khu rừng, chỉ để cho quân cướp một lối bỏ ngỏ dẫn thẳng đến ổ phục kích. Ánh tà dương chiếu xiên hông qua những thân sồi xù xì, dưới khóm lá lấp loáng. Con ngựa Rôstsin cưỡi như có cái gì bứt rứt không yên, luôn luôn lắc lắc cái đầu, dừng lại cắn cắn đầu gối chân trước, đá chân sau lên bụng. Cuối cùng chàng buông cương cầm lăm lăm khẩu các-bin trong tay. Ánh nắng chiều rọi qua những đàn muỗi thiếp vàng, nhuộm lên khu rừng từng mảng màu loang lổ: khó lòng có thể nhìn rõ một vật gì ở phía trước hay ở hai bên, nơi các học sinh quân đã xuống ngựa đi rải rác thành hai hàng dài, thận trọng lần bước trên lớp lá rụng, băng qua những bụi rậm và những khóm phượng vĩ cao.
Như người hướng đạo đã báo trước, gần đâu đây có một cái chòi canh của người gác rừng và một con đường độc đạo mà quân cướp nhất định phải đi theo để vào sâu trong rừng rậm. Một mái nhà phủ rêu, nóc oằn xuống như cái yên ngựa, bỗng hiện ra trước mặt cách có mấy bước. Vađim Pêtrôvits dừng ngựa lại, cố nhìn qua các bụi rậm. Chàng huýt sáo một tiếng khe khẽ. Những cành khô kêu răng rắc dưới chân các học sinh quân, mạnh hơn và gần hơn. Chàng lại thúc ngựa đi qua các bụi rậm và trông thấy cái chòi canh bỏ hoang. Trên một khoảng rừng thưa hẹp, cạnh chòi có mấy chiếc xe tatsanka đã tháo ngựa, giữa đất ngổn ngang mấy mảnh giẻ rách và mấy thứ áo quần cũ. Quân cướp đã đi nơi khác.
Khẩu các-bin lăm lăm trong tay, Vađim Pêtrôvits thận trọng cho ngựa đi quanh cái chòi. Ở phía trước mặt chàng, cũng thận trọng không kém, Alekxêy Kraxilnikôv lùi dần từ góc chòi này sang góc chòi khác, định bụng sẽ cướp lấy con ngựa của người kỵ binh kia, Rôstsin, mắt nhìn quanh, dừng lại cạnh bức vách bên sườn nhà. Alekxêy đứng ở bức vách phía trước có cái cửa sổ đã vỡ và cái cửa lớn đã tháo cánh. Để hành sự thật im lặng, tay hắn chỉ cầm sẵn một con dao găm.
Khi ngựa của Rôstsin đã nhô ra quá góc nhà, Alekxêy lao vào đâm chàng, nhưng Rôstsin đã kịp giơ súng lên đỡ, Alekxêy nhảy lùi lại, lưng va vào vách nhà. Hắn buông con dao găm, nhìn trừng trừng vào Vađim Pêtrôvits, người đã chết từ lâu mà nay bỗng hiện về. Lòng tràn ngập một nỗi kinh hoàng mê tín, hắn thét một tiếng rợn người rồi cắm cổ chạy, hai tay vung vẩy loạn xạ.
- Alekxêy! - Rôstsin quát lớn, giật cương ngựa phi theo.
Chạy đến một cây sồi, Alekxêy bỗng ôm chầm lấy thân cây, úp mặt vào lớp vỏ sần sùi. Rôstsin nhảy xuống đất trong khi ngựa đang phi nhanh và ghé họng súng gần sát nổ mấy phát liền vào tấm lưng rộng của Alekxêy đang run bắn lên.
* * *
- Cô ấy trước vẫn ở đây à?
- Vâng.
Rôstsin cúi xuống, bước qua ngưỡng cửa và đi vào ngôi nhà gỗ xiêu vẹo chỉ có một cửa sổ, thấp đến nỗi những cành ngưu bàng mọc ở bên ngoài che kín hẳn đi. Trong làn ánh sáng xanh xanh từ cửa sổ hắt vào, trên một cái bàn cũng thấp bé như thế, có một chồng vở đóng bằng giấy dán tường, và mấy cuốn sách. Một trong những cuốn vở ấy đang để mở, bên cạnh là một lọ mực và một cây bút. Như thế tức là Katya chỉ có đủ thì giờ trốn đi. Chàng ngồi xồm xuống trước cái bàn. Thằng bé con kín đáo giơ tay lên bưng miệng nhịn cười, đưa mắt chỉ cái lò sưởi cho Rôstsin.
Trong miệng lò, có một con quạ con đậu trên cái thanh sắt bắc ngang, đôi mắt tròn xoe nhìn ngơ ngác. Chắc nó vừa từ cái tổ xây trên ống lò sưởi rơi xuống. Thấy có người chú ý đến mình, nó xốc lại đôi cánh nhảy vụt vào trong lò sưởi.
- Ở trên ấy có cả thảy bốn con, - thằng bé nói, - cháu sẽ bắt hết...
Xếp lại mấy thứ để trên bàn, Vađim Pêtrôvits tìm thấy một cuốn nhật ký của lớp học, trong đó Katya ghi lại các đầu bài và những sự việc bất thường xảy ra trong lớp. Hầu như cuối ngày nào cũng có ghi: “Ivan Gavrikôv lại nghịch...” hay là: “Ivan Gavrikôv lại leo ra tận ngoài rìa mái trường để dọa bọn con gái. Thật đến khổ với nó...”
- Cái anh chàng Ivan Gavrikôv này là ai thế? - Rôstsin hỏi.
- Cháu đấy.
- Sao cháu lại nghịch ngợm, làm phiền lòng Êkaterina Đmitrievna thế?
Ivan Gavrikôv buông một tiếng thở dài nặng trĩu, đôi mắt xanh trở nên hoàn toàn ngây thơ vô tội:
- Cũng có khi tự nhiên cháu đâm ra thế... Còn học thì cháu học giỏi lắm. Chú cứ xem bài viết tập của bọn con gái mà xem chúng nó kẻ gậy như thế nào. Còn vở của cháu đây. Ấy đấy. Chú sẽ ngạc nhiên cho mà xem. Cháu thuộc hết bảng cửu chương. Chú cứ thử hỏi cháu xem? - Nó lấy hết sức bình sinh nhắm mắt lại rõ chặt.
- Chú tin rồi, chú tin rồi.
Vađim Pêtrôvits ngồi xếp chân xuống giữa sàn giở tiếp các trang nhật ký. Trong nhật ký không có lấy một lời nào nói đến bản thân. Nhưng mỗi trang giấy dường như tỏa lên người chàng cả cái trẻ trung vĩnh cửu của Katya, lòng trìu mến trong sáng và cả tin của nàng. Và chàng thấy hiện lên bàn tay thanh tú nổi những đường gân xanh, đôi mắt trong trẻo và ấm áp của nàng...
- Chín chín tám mốt, có đúng không chú? - Ivan Gavrikôv nói.
- Giỏi lắm, giỏi lắm... Cháu ạ, cô ấy không nói với cháu là cô ấy đi đâu à?
- Đi Kiev.
- Cháu không nói dối đấy chứ?
- Cháu nói dối làm gì?
- Có lẽ cháu biết, cô còn cất thư từ, giấy má ở chỗ nào nữa không?
- Ở đây cả... Mấy cuốn này chốc nữa cháu sẽ đem về nhà, cô ấy dặn thế, phải cất cho kỹ đi không các bác mu-gích lại đem ra quấn thuốc lá hết.
Ở trang cuối cuốn nhật ký có viết:
“... Không hiểu tại sao chị vẫn tin là em còn sống và sẽ có ngày chị em mình lại gặp nhau... Em thử tưởng tượng mà xem: chị vừa ra khỏi một đêm dài dằng dặc... Chị muốn kể cho em nghe về cái thế giới nho nhỏ chị đang sống hiện nay. Sáng sáng, tiếng chim hót ngoài cửa sổ đánh thức chị dậy. Chị ra sông tắm. Rồi dọc đường về, chị ghé nhà bác Agafya uống sữa: chị đã nợ bác một rúp sáu mươi cô-pếch, nhưng bác ấy sẽ cho chị khất. Rồi lũ trẻ kéo đến, thế là mấy thầy trò ngồi vào học. Không có gì quấy rầy mấy thầy trò, cũng chẳng có một mối ưu phiền nào làm mấy thầy trò bận tâm. Té ra con người hoàn toàn không cần đến những cái mà trước đây chúng mình cứ tưởng là cần, nếu thiếu đi thì chúng mình không thể nào sống nổi... Nói ra cũng xấu hổ em ạ: chị có cảm giác như mình trở lại tuổi mười bảy. Chị biết là em sẽ hiểu chị muốn nói gì, Đasenka ạ... Chỉ có một điều đôi khi làm cho chị buồn, là thằng bé mà chị yêu nhất, thằng Ivan Gavrikôv, lại là một đứa trẻ hết sức...”
Đến đây bức thư bị bỏ lửng, vì cuốn vở đã hết giấy. Vađim Pêtrôvits kéo thằng bé Ivan Gavrikôv vào lòng.
- Nào, cho cháu cái gì bây giờ nhỉ?
- Cái vỏ đạn.
- Chú có cái vỏ không nào đâu?
- Thì chú bắn đi một viên, ta ra sân đi.
Vađim Pêtrôvits rời bàn đứng dậy, gấp cuốn vở lại và luồn vào vạt áo.
- Chú lấy cuốn vở này, Ivan ạ.
- Không được, cô ấy mắng cháu chết.
- Chú sắp gặp cô Katya rồi. Chú sẽ nói cho cô ấy biết. Nào ta ra sân bắn...

18

Không một hơi gió thoảng qua. Nắng thiêu đốt những đường phố vắng vẻ của thành Txaritxyn. Bên cạnh các cổng sân mở toang, rác tấp lại từng đống. Dân phố không ló mặt ra đường. Chỉ trên những con đường dẫn xuống các bến sông Volga mới thấy những chiếc xe giàn chở tài sản nhà nước và công văn lưu trữ phóng ầm ầm xuống bến. Thành phố đang sống nốt những giờ cuối cùng. Ở vùng phụ cận Txaritxyn, Quân đoàn thứ Mười, hàng ngũ đã thưa thớt hẳn đi sau trận Manyts, chật vật cưỡng lại sức ép của Quân đoàn Bắc Kavkaz mới xuất trận dưới quyền chỉ huy của tướng Vranghel.
Trạm điện thoại hãy còn làm việc, nhưng trong thành phố không có nước, cũng không có điện. Các nhà máy đã ngừng hoạt động. Tất cả những gì có thể chở đi khỏi các xưởng đều đã được tháo rời chở ra bến. Trong các xóm thợ thuyền chỉ còn lại trẻ em và người già... Giai cấp vô sản Txaritxyn, trong mười tháng qua đã chịu những hy sinh lớn lao để phòng thủ thành phố, không mong gì được bọn bạch vệ dung tha: những ai còn chiến đấu được thì đã đi theo quân đội, còn những người khác thì rời thành phố trên các mái toa, trên các boong tàu và dưới các hầm tàu... Họ đi về phương bắc, không hề biết trước mình sẽ đi đến đâu. Những kho gỗ cháy ngùn ngụt trên bờ sông Volga. Tiếng đại bác nổ rền, mỗi lúc một rõ hơn và gần hơn.
Tất cả sự sống của thành phố đều quy tụ vào các nhà ga và các bến tàu. Bờ sông Volga ngổn ngang những thùng gỗ, những bao tải, những bộ phận máy móc. Hàng trăm người mồ hôi nhễ nhại, vừa quát tháo chửi rủa vừa vần các thứ đó tới cầu tàu. Hàng nghìn người đứng xếp hàng chật ních chờ đến lượt xuống tàu, hoặc nằm dài ra trên bờ, lặng lẽ, đói khát, nhìn xuống dòng nước quánh như dầu đang lấp lánh dưới nắng, qua lớp bụi im lìm lơ lửng trên không. Sông Volga rộng là thế mà đến cuối tháng sáu nước cạn đi đến nỗi dải cát ở bên kia sông nhích gần hẳn lại, có thể trông thấy rõ những người trần truồng đang đi lại tắm rửa ở ven sông. Bờ sông hiện nay cũng có những người đang tắm giữa các bến tàu, trong dòng nước bốc hơi lềnh bềnh rác rưởi. Nhưng ngay cả nước sông cũng không tỏa ra một chút hơi mát nào.
Những chiếc tàu thủy sứt vẹo và bẩn thỉu lần lượt ghé vào các bến, từ trên boong vang lên những tiếng quát tháo điên cuồng. Các boong tàu đều đông nghịt những người dân đi lánh nạn và những chiến sĩ hồng quân, người sống chen chúc giữa những xác chết và những người mắc bệnh sốt phát ban đang rên rỉ, nói lảm nhảm và vật vã trong cơn mê sảng. Hàng chục tàu hơi và tàu kéo đỗ san sát, chốc lại cất tiếng còi khản đặc. Tất cả những chiếc tàu ấy đều ở mạn dưới lên, xuất phát từ Axtrakhan và Tsorny Yar.
Những người cứu thương, mình rắc vôi trắng xóa, chạy lên các boong tàu, bước qua những người bệnh đang nằm ngổn ngang trên boong, nhặt những xác chết khiêng lên bờ để lấy chỗ cho người sống. Họ rắc vôi và phun nước tẩy trùng lên boong. Có lệnh xếp các xác chết vào những ngôi nhà bát giác bán nước chanh và nước kvax. Vì không khí oi nồng, cái xác chết bắt đầu trương lên làm cho mấy ngôi nhà bát giác đóng bằng ván mỏng nứt ra. Mùi nồng nặc lại càng giục giã người ta rời cho nhanh bờ sông Txaritxyn. Trên trời, mấy chiếc máy bay của Vranghel bay qua, hiện lên mờ mờ sau lớp bụi nhuộm nắng. Chúng ném bom xuống sông.
Người ta ùa qua những sào chắn trên các bến, túi và tay nải vướng vào lưỡi lê của các binh sĩ, xô nhau leo lên tàu. Thùng gỗ, bao tải ném lên boong rầm rầm. Tàu phải chở nặng đến nỗi nước lút gần hết cả mạn tàu.
Giữa đám người hỗn độn này, chiếc xe giàn chở Anixya và Đasa đổ ngay sát bến. Kuzma Kuzmits đã đánh xe đưa họ từ mặt trận về đây theo nghiêm lệnh của trung đoàn trưởng: có chết cũng phải đưa hai người phụ nữ đi tản cư không phải bằng tàu hỏa, mà nhất nhất phải đi tàu thủy. Têlêghin có dặn Kuzma Kuzmits:
- Đồng chí Nêlêđôv, đồng chí chưa bao giờ được giao một nhiệm vụ nào đòi hỏi nhiều tinh thần trách nhiệm như lần này. Đồng chí phải đưa hai người đến nơi an toàn và chỗ nào có thể thì thu xếp nơi ăn chốn ở cho họ. Dù có phải cướp của giết người đồng chí cũng phải cho họ ăn uống tử tế... Đồng chí phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính mạng của hai người...
Trên lớp cỏ khô rải lên chiếc xe giàn chăng qua loa mấy mảnh giẻ rách để che nắng, Anixya và Đasa nằm yên: họ chỉ còn là hai bộ xương bọc da. Anixya đã tỉnh, nhưng còn yếu đến nỗi không thể mở miệng ra được. Kuzma Kuzmits phải lấy ngón tay cạy răng chị ra để cho chị tu ít nước nóng đựng trong cái chai. Đasa, mắc bệnh sốt phát ban sau Anixya, bấy giờ đang mê sảng, mồm không ngớt lẩm bẩm, giọng yếu ớt và bực bội.
Kuzma Kuzmits đã để nhỡ mất nhiều chuyến tàu. Ông ta khóc lóc van lạy hết người này đến người kia, dùng đủ các thứ mưu mẹo để họ giúp ông ta đưa hai người đàn bà lên boong tàu. Nhưng trong một hoàn cảnh khắc nghiệt như thế này chẳng ai buồn nghe ông ta. Dựa vào xe, ông giương đôi mắt sưng húp nhìn cái cảnh chẳng biết là hư hay là thực này: những ánh phản chiếu đo đỏ của mặt trời xuyên qua màu bụi chập chờn trên dòng nước ấm bốc hơi, những con tàu thủy chất đầy xác chết đang rống lên tu tu vì sốt ruột. Lại có tiếng động cơ máy bay gầm gừ: lần này bom làm tung đất lên cách đấy không xa, bụi bay mù mịt khắp bờ sông. Nhiều người nhảy xuống sông Volga bơi về phía chiếc tàu thủy đang tiến lại, gọi to: “Ném đầu dây xuống...”. Nhưng chẳng ai ném dây cho họ, và một hồi lâu những cái đầu người còn bồng bềnh quanh mạn tàu như những quả dưa hấu đen.
Bây giờ hầu như chỉ còn một chuyến tàu cuối cùng nữa: một chiếc tàu kéo thấp màu vàng, có đôi guồng bánh to tướng, lá chắn đã móp nhiều chỗ, nó không ghé vào bến mà lại đi sang bên cạnh ghé thẳng vào cái cầu ván vắng người. Kuzma Kuzmits quay xe lại trên lớp cát dày và thúc ngựa chạy nước kiệu lên cầu ván, rồi xuống xe, vừa chạy trên cầu vừa vung vẩy hai tay một cách tuyệt vọng.
- Này, ông thuyền trưởng ơi, đồng chí ơi, - ông ta quát gọi ông già lù đù, kiểu người của chế độ cũ, đang đứng trên cầu chỉ huy, - tôi đang đưa vợ và em gái đồng chí tư lệnh mặt trận đi tản cư. Ông mà làm khó dễ thì coi chừng có thể ra tòa án binh đấy. Ông cho tôi hai thủy thủ để khiêng hai người đàn bà này lên tàu...
Vẻ mặt khích động và lời lẽ quyết liệt của Kuzma Kuzmits đã có tác dụng. Một người thợ đốt lò cởi trần, bẩn thỉu, lầm lì, quần rách bươm, leo từ trên mạn tàu xuống cầu ván.
- Đâu?
- Đồng chí ạ, một mình đồng chí không xuể được đâu.
- Cứ mặc tôi... Người thợ đốt lò đến cạnh chiếc xe giàn nhìn hai người đàn bà rồi chỉ vào Anixya: - Cô này là vợ ông tư lệnh mặt trận đây à?
- Chính thị... Nếu cô này mà có làm sao thì các anh sẽ bị xử bắn tuốt...
- Ông lòe tôi làm gì. Anixya, cô đầu bếp của chúng tôi đấy mà, - người thợ đốt lò nói, mặt cứ điềm nhiên như không.
- Đồng chí điên rồi à, đầu bếp nào?
- Này ông gàn vừa chứ, đừng có quát tôi. - Anh ta đỡ Anixya lên một cách dễ dàng, vác lên vai, xốc lại cho thoải mái. - Đỡ tôi một tay: cả cô này nữa chứ nhỉ?...
Anh ta bế xốc hai người hai bên vai rồi đi lên tàu - mấy tấm ván oằn xuống đến sát mặt nước. Kuzma Kuzmits hớn hở bước theo, một tay kéo lê cái bị đựng bánh mì và thịt mỡ, tay kia xách cái túi đựng thuốc...
* * *
Sáng ngày mồng ba tháng bảy, Xtêpan Alekxêyêvits, ông giáo dạy trường trung cao, lôi từ gian hầm dùng làm bếp ra sân nào đệm, nào gối, nào ghế bành bọc nhung kẻ màu lục, những chồng sách và bản thảo. Ông ta lảo đảo bưng ra một ôm lớn những quần áo, váy, khăn bám đầy bụi, vứt cả xuống đất rồi há mồm ra thở, lấy ống tay áo quệt những dòng mồ hôi đang tuôn ra như suối. Trên người ông cái gì cũng ướt nhòe nhoẹt: mái tóc và bộ râu vàng khè, cái quần vải thô và cái áo sơ-mi đã lâu không giặt dính bết vào hai cái xương bả vai gù gù.
Mẹ ông ta, một bà già yếu ớt mặc đồ đen, ngồi ngay cạnh đấy trên một chiếc ghế tựa, khẽ gõ gõ đầu gậy lên một tấm thảm. Người em gái của ông ta, bị bệnh bại liệt, có cái trán dồ và cái mặt choắt, khoan khoái nằm dài trên cái ghế bành có bánh xe, dưới bóng cây xiêm gai. Đến lũ chim sẻ cũng phải há mỏ ra vì nóng.
- Hình như hết rồi đấy mẹ ạ, - Xtêpan Alekxêyêvits nói. - con kiệt sức rồi! Lạy Chúa, giá có cốc bia lạnh thì muốn gì con cũng cứ đổi!
- Xtêbuska ạ, nhà chẳng còn giọt nước nào, con phải cầm cái xô đi múc một ít.
- Thế hả mẹ! Thôi có được không? Ồ! Thật đến khổ!
Xtêpan Alekxêyêvits vò đầu bứt tai: đi lấy nước nghĩa là phải ra bờ sông Volga hãy còn đầy những đống tro và những xác chết cháy thui trong mấy ngôi nhà bát giác bán nước chanh và nước kvax, lội xuống sông đến tận chỗ nước sâu ngang ngực, vì ở đấy nước mới sạch hơn trong bờ một chút, múc đầy một xô nặng rồi ì ạch xách xô leo lên dốc, cát ngập đến mắt cá, dưới ánh nắng như thiêu...
- Không thuê ai được hay sao, con sẵn sàng thuê mười rúp một xô. Con thiết tưởng sức khỏe của một người yếu tim như con đắt hơn thế chứ...
- Tùy con đấy...
- Vâng, nhưng mẹ cứ thích cho con phải è cổ ra mà xách nước cơ!
Bà mẹ không đáp, vẫn tiếp tục gõ gõ đầu gậy lên tấm thảm. Xtêpan Alekxêyêvits thở nặng nhọc, nhìn cái mặt béo phị, mồ hôi nhễ nhại của bà già.
- Xô đâu? - ông ta hỏi khẽ. - Xô của các người đâu? - ông ta ré lên, giọng khó chịu đến nỗi cô em bại liệt nằm dưới bóng xiêm gai phải van lơn:
- Không nên thế, anh Xtêpan... ạ.
- Ồ, nên chứ, nên chứ! Tôi sẽ xách nước cho các người, tôi sẽ đổ bô cho các người! Tôi sẽ làm lụng cho đến hết đời như một con ngựa kéo xe! Cho đi tong hết: tương lai, sự nghiệp, luận văn! Thế là hết, thế là tan tành!... một bãi sa mạc đầy dòi bọ, một đống rác cháy đen thui, một bãi tha ma!... Không có một thằng Đênikin nào khôi phục được cái gì hết!...
Ông ta bắt đầu bẻ mấy ngón tay ướt đẫm mồ hôi như dạo trước, khi đứng trước mặt Đasa. Bằng cách này hay cách khác, ông cố lờ cái xô nước đi. Bỗng từ tháp chuông nhà thờ vẳng lại một tiếng đồng vang dội phát ra từ cái chuông lớn đã im hơi lặng tiếng hơn một năm nay. Tiếng ngân nga trang trọng lan đi trong thành phố vắng tanh, xoa dịu mọi nỗi xúc động. Xtêpan Alekxêyêvits ngừng bặt, khuôn mặt gầy gò, có những thớ thịt co quắp của ông bỗng điềm tĩnh lại và thậm chí còn nở một nụ cười khờ khạo.
- Xtêpuska ạ, - bà mẹ nói, - dù sao con cũng nên mặc áo đi xem lễ một tí.
- Anh ấy là một người vô thần mẹ ạ, - cô em nằm dưới bóng xiêm gai nói, giọng chứa chất một nỗi tức giận ngấm ngầm.
- Thì đã sao? Ít nhất cũng để cho thiên hạ khỏi tưởng mình là cộng sản...
- Sao mẹ lại nói thế? - Xtêpan Alekxêyêvits kêu lên, giọng đau đớn. - Ta vừa mới thoát khỏi cái chế độ tươi đẹp của bọn bolsêvik thì mẹ đã vội kéo con xuống vũng lầy của bọn trưởng giả... Đúng thế, đúng thế đấy! - Ông ta nhe răng nói chõ về phía cây xiêm gai; cô em gái đành nhắm mắt lại để đừng nghe nữa. - Ai cho tôi là cộng sản nào? Lại những thằng Saverđôv, những thằng Prêix của các người chứ gì?... Toàn một lũ trưởng giả tầm thường, vô nghĩa lý. Hạ mình xuống ngang chúng nó ư? Lạy Chúa! Thế thì hủy bỏ cả bản thân đi! Thế thì học hành, suy nghĩ, ước mơ mà làm gì? Tôi căm thù bọn bolsêvik không phải vì chúng lùa tôi vào nhà hầm. Cũng không phải vì chúng chở hết than của trạm máy nước đi... Không, tôi căm thù chúng chính vì chúng chà đạp lên quyền tự do nội tâm của tôi. Tôi muốn suy nghĩ đúng như lương tâm và thiên tài của tôi đòi hỏi. Tôi muốn đọc những cuốn sách có sức cổ vũ tôi... Nhưng tôi không muốn đọc Karl Marx, các người nghe ra chưa, tôi không muốn dù ông ta có đúng một nghìn lần chăng nữa... Tôi là tôi!... Và mặt khác cũng hoàn toàn đúng như thế, mẹ ạ, em ạ: tôi sẽ không đời nào đi hôn tay cái lão Đênikin của các người đâu... Cũng chính vì những lý do tôi đã nói rõ...
Sau khi đã tuôn hết những nỗi niềm ấy ra, vừa nói vừa hoa chân múa tay hết sức hùng dũng dưới ánh nắng bốn mươi độ, Xtêpan Alekxêyêvits lại quay ra lục trong đống áo quần một cái áo đuôi tôm đen, một cái quần và đi xuống gian hầm, cũng một cách thiếu nhất quán không kém. Nửa giờ sau ông ta bước ra, y phục chỉnh tề, cổ áo sơ mi hồ cứng, tay cầm cái mũ phẩm phục và chiếc can. Trong sân không ai nói thêm một tiếng nào nữa. Xtêpan Alekxêyêvits đi ra phố, men theo vỉa hè có bóng rợp đến nhà thờ lớn.
Những cây xiêm gai thấp trồng quanh nhà thờ xám xịt những bụi. Dưới gốc cây có mấy gã ăn mặc rách rưới đang ngồi lê la. Một gã trong bọn cứ nhìn thẳng lên mắt Xtêpan Alekxêyêvits nói giọng trầm, khẽ thôi, nhưng đủ nghe rõ:
- Bộ mặt kỳ diệu đã trải qua nhiều biến đổi thần kỳ.
Sau dãy rào có một đại đội cô-dắc đi bộ mặc áo sơ mi màu ngụy trang đứng xếp hàng và một trung đội junker mặc đại quân phục lễ trưng, áo khoác cuộn tròn lại đeo khoác qua vai, nịt đeo cà-mèn và xẻng, nằm la liệt trên lớp cỏ cháy xém...
Bên thềm nhà thờ tụ tập một tốp dân phố. Xtêpan Alekxêyêvits nhận ra Saverđôv, ông chủ hiệu bán đồ da dùng cho phụ nữ, con người ngọt ngào thớ lợ, mặc áo sơ mi thêu, cùng đứng với bà vợ và hai đứa con, và ông chủ nhà in Prêix, một người Do thái theo đạo, dáng người nhỏ bé, ăn mặc xốc xếch, lúc nào cũng nhặng xị lên, cùng đứng với bà vợ sáu đứa con. Xtêpan Alekxêyêvits lơ đãng gật đầu chào họ và đi vào trong nhà thờ mát rượi. Nhờ cái áo đuôi tôm phẩm phục, người ta để cho ông vào tự nhiên, có người lại còn tránh ra nhường lối nữa.
Tuy tòa nhà thờ vẫn còn giữ những dấu vết của tình trạng bỏ bê (dưới chính quyền bolsêvik nó được dùng làm kho lương thực) kính trên các cửa sổ cao ngất đều bị vỡ và trên những bức tường tróc lở còn ghi lại những dòng chữ đề: “Khoai tây 94 bao... Đã nhận (chữ ký không rõ)”, nhưng cái bàn thờ thiếp vàng lấp lánh dưới ánh nến, mùi hương trầm bốc khói nghi ngút lên tận mái vòm, những tiếng đáp của ông thày giúp lễ vang lên như tiếng thú gầm, cũng như tiếng hát hồn nhiên của lũ trẻ con trong dàn đồng ca tất cả những thứ đó gây nên trong lòng Xtêpan Alekxêyêvits một ấn tượng pha tạp: ông ta thấy lòng mình tràn ngập cái cảm giác trang trọng quen thuộc và đồng thời là một cảm giác tủi nhục cũng quen thuộc không kém: cái đuôi trí thức của ông trước đây vẫn phe phẩy một cách tự do nay bỗng tự nó cụp xuống dưới đít.
Đứng phía trước, quay mặt vào bàn thờ, là các quan to, các chức sắc cao cấp nắm quyền độc tài: mười viên tướng, thấp có, cao có, béo có, gầy có, áo quân phục trắng lốp, trên vai đeo những đôi lon rộng và mềm, đôi thì bằng kim tuyến, đôi thì bằng ngân tuyến. Mỗi người đều cầm mũ lưỡi trai trên cánh tay trái gập lên ngang thắt lưng, còn tay phải thì mỗi khi nghe ông thầy giúp lễ xướng: “ta hãy cầu nguyện Chúa...” lại làm dấu chữ thập lia lịa trước ngực. Đứng tách hẳn ra phía trước trên tấm thảm nhỏ là một viên tướng vóc người tầm thước, mặc chiếc áo quân phục rộng màu ngụy trang, quần dài có nẹp đỏ, mái tóc hoa râm chải ngược ra phía sau trông như bị mòn đi một vạt ở sau gáy. Viên tướng ấy ít làm dấu chữ thập hơn các viên tướng đứng sau. Ông ta làm dấu rất chậm, bàn tay nhỏ, béo và trắng muốt vẽ thành những đường cong rất rộng, mấy ngón tay áp chặt vào những nếp nhăn của cái trán hơi xuôi.
Xtêpan Alekxêyêvits hiểu rằng đó là Đênikin. Trong khi háo hức nhìn nhân vật lịch sử này, ông ta vẫn không ngừng nhếch đôi môi mỏng mỉm một nụ cười hoài nghi chua chát, nhưng hoàn toàn bất tự giác. Một viên sĩ quan nãy giờ vẫn chăm chú quan sát ông ta, kín đáo đến đứng sát một bên. Xtêpan Alekxêyêvits bị thu hút hẳn vào những cảm xúc trái ngược. Đặc biệt có sức hấp dẫn đối với ông ta là cái bàn tay trắng trẻo của tướng Đênikin. Ai mà không biết rõ những đôi bàn tay của các vị tướng, với những cử động uể oải, chậm chạp đặc biệt của nó? Dù người ta cố gắng bao nhiêu thì cũng không thể làm cho người khác coi trọng nó được, và vì những cố gắng vô hiệu đó, một bàn tay của hàng tướng tá bao giờ cũng lố bịch, nhất là khi ông tướng hạ cố buông thõng nó trước mặt ta để cho ta bắt, hay là khi ông ta cố làm cho nó có vẻ bao hàm nhiều ý nghĩa quan trọng trong khi đưa cho ai một tập bản đồ hay nhét một cái khăn ăn vào cổ áo. Những điều đó quả đều đúng cả. Nhưng bàn tay trắng của Đênikin đã từng tóm lấy cổ lịch sử, những cử động của bàn tay ấy đã ném các quân đoàn vào trận huyết chiến...
Những ý nghĩ ấy làm cho Xtêpan Alekxêyêvits xúc động đến nỗi ông ta không nhận thấy buổi lễ đã kết thúc, và ông linh mục, một ông già thấp lùn đeo mục kỉnh, bước ra trước bàn thờ, nhìn tướng Đênikin mở đầu bài thuyết giáo:
- Bản mệnh lệnh lịch sử của vị thống soái kính yêu của chúng ta là quan tổng tư lệnh các lực lượng bạch quân miền Nam nước Nga, trung tướng Antôn Ivanôvits Đênikin, đã được ghi tạc thành những dòng chữ lửa trong con tim của mỗi người Nga chính giáo. Quan tổng tư lệnh đã mở đầu bản mệnh lệnh bằng mấy lời sau đây: “Với mục đích cuối cùng là chiếm lĩnh Moxkva, trái tim của nước Nga, ngày mồng ba tháng bảy hôm nay tôi ra lệnh mở cuộc tổng tấn công...”. Thưa các vị, phải chăng bầu trời đã mở rộng trên đầu chúng ta, và tiếng nói của tổng lãnh thiên thần Mikhail đang kêu gọi đạo quân trắng, đạo quân của chính nghĩa...
Xtêpan Alekxêyêvits thấy cay cay ở mũi, dưới cái ức áo sơ-mi hồ cứng đã ướt đẫm mồ hôi, ngực ông ta phập phồng rất mau, niềm hân hoan tràn ngập lòng ông ta. Ông ta trông thấy Đênikin chậm rãi đưa bàn tay lên trán. Xtêpan Alekxêyêvits chợt hiểu ra rằng mình phải hôn bàn tay ấy, nhất thiết phải như vậy... Và mấy phút sau, khi Đênikin đã đến hôn cây thánh giá trước mọi người và bước trên tấm thảm dẫn ra cửa, dáng dấp hiền lành giản dị, với chòm râu bạc xén ngắn, trông giống như một ông bác hồn hậu trong nhà, Xtêpan Alekxêyêvits hân hoan đến cực độ, bước nhanh về phía ông ta. Đênikin giật mình lùi lại một bước, giơ tay lên đỡ, mặt biến sắc đi một cách khổ sở, thảm hại. Mấy viên tướng khác lập tức lấy thân che cho tổng tư lệnh. Có ai đứng sau lưng nắm chặt lấy hai khuỷu tay Xtêpan Alekxêyêvits kéo giật xuống, mạnh đến nỗi đầu gối ông ta gập lại.
- Tôi... Tôi muốn...
Viên sĩ quan vừa nắm lấy Xtêpan Alekxêyêvits nhìn trừng trừng khắp khuôn mặt ông ta.
- Anh làm thế nào lọt được vào đây?
- Tôi chỉ muốn...
- Giấy thông hành đâu?
Viên sĩ quan vẫn tiếp tục lôi ông ta vào trong đám đông, không buông ra. Đến một cửa ngang hắn hất hàm gọi hai người junker trẻ măng cầm súng đến:
- Bắt tên này, giải đến đồn của tư lệnh thành...
* * *
“Ivan Ilyits rất mực kính mến, như sau đây quý đồng chí sẽ có lòng nhã giám, chúng tôi đã kỳ khu rong ruỗi đến tận Koxtrôma. Dọc đường tôi không dám xuống xe một chỗ nào, ngay thành Nijni Nôvgôrôđ tôi cũng không dám coi là một nơi an toàn nếu xét những biến cố quân sự có cơ xẩy ra. Xuống xe ở Koxtrôma, ở khu ngoại vi, bên sông Volga, trong một ngôi nhà nhỏ có một cây hoa kalina và một cây thùy liễu. Thị trấn này rất rộng thoáng, xây trên đồi như thành La-mã xưa kia, mà lại tĩnh mịch, hẻo lánh xiết bao!... - nhưng chính đó là điều chúng tôi đang cần.
Đarya Đmitrievna đang bình phục dần, tuy có chậm chạp. Cô ấy hãy còn yếu lắm, tôi cứ phải bế cô ấy từ trong giường ra sân như bế trẻ. Theo tất cả những dấu hiệu có thể quan sát được, cô ấy rất thèm ăn, tuy không nói ra được, nhưng mắt thì cứ ra hiệu: có gì ăn không nhỉ!... Ngoài đôi mắt ra có lẽ cô ấy chẳng còn chút gì nữa: mặt thì bằng cái nắm tay, lại hay khóc. Khóc là vì yếu quá, nước mắt cứ thế chảy ròng ròng trên má, Đarya Đmitrievna mê sảng gần ba tuần, trong khi tàu ngược dòng sông Volga. Cơn mê sảng của cô ấy, bất an và đau đớn, tâm hồn luôn luôn vật vã trong những hồi ảnh gì đấy của quá khứ. Có điều đáng lấy làm lạ: đóng một vai trò khá quan trọng trong những cơn mê sảng này là một cái kho tàng nào đấy, những viên kim cương nào đấy. Trong khi mê sảng, Đarya Đmitrievna nói hai giọng khác nhau: một giọng thì lên án, giọng kia thì thanh minh - nói cứ lí nhí, thổn thức khe khẽ. Lẽ ra tôi không kể việc này ra làm gì, nếu không tình cờ phát hiện ra một điều phi thường.
Vốn đã ghi lòng tạc dạ lời dặn của quý đồng chí là phải cho hai bệnh nhân thân yêu của chúng ta ăn uống tử tế, và tự đặt ra cho mình cái bổn phận chủ yếu là phải thực hiện cho kỳ được lời dặn ấy, tôi đã nhiều lần lâm vào tâm trạng ưu phiền và thậm chí hoảng sợ nữa. Thời buổi rất khó khăn. Người ta bây giờ có hai hạng: người thì tư duy bằng những phạm trù lớn lao, cảm xúc với quy mô toàn nhân loại chứ không chịu kém, kẻ thì chỉ lo cứu lấy cái mạng mình một cách vô liêm sĩ đến cùng cực. Cả hai hạng người đều thiếu lòng trắc ẩn bình thường: hạng người thứ nhất thì ta có thể làm cho say mê được, hạng thứ hai thì ta có thể dọa nạt được, nhưng muốn làm cho họ động lòng trắc ẩn trước những giọt lệ đói khát của ta mà cho ta mươi lạng bánh mì thì thường phải thất vọng.
Những thứ vật dụng thừa, tất cả những gì mà chúng tôi đã vớ theo, tôi đều đem đổi lấy bánh mì, trứng, cá hết. Đã mấy lần tôi cứ muốn đem bán cái áo bành tô bằng dạ của Đarya Đmitrievna, cái áo cô ấy mặc từ dạo mùa thu năm ngoái khi rời Xamara. Nhưng tôi đã cưỡng lại sự cám dỗ đó, chủ yếu không phải vì lo xa là mùa thu đã chớm, mà là vì chiếc áo bành-tô này luôn luôn có mặt trong cơn mê sảng của Đarya Đmitrievna như một kẻ buộc tội bí hiểm mà tôi không thể nào hiểu được. Thế là tôi đành phải dùng đến mưu mẹo, tôi quay ra lừa bịp những tâm hồn cả tin, và trộm cắp thực sự. Đến đây cái khoa xem tướng tay đã lại cứu tôi. Hễ gặp trên bến tàu một chị nhà quê nào xách cái bị là tôi bám riết lấy tán chuyện, vừa tán vừa tìm những chỗ yếu của chị ta. Và bao giờ cũng tìm được: kinh nghiệm sống là một nhân tố tối quan trọng. Tôi chuyển câu chuyện sang Ma vương phản Cơ đốc - hiện nay ở dọc sông Volga người ta nói về cái anh Ma vương này rất nhiều, nhất là ở mạn trên Kazan. Muốn làm cho một chị nhà quê khờ khạo phát sợ lên, có cần gì nhiều đâu? Chỉ cần chị ta tin, thế là một nửa nội dung của cái bị kia đã là của tôi rồi...
Mới hôm qua, ngày chủ nhật, sáng sớm tôi xếp dọn quần áo cho Đarya Đmitrievna. Ở Koxtrôma có lẽ tôi là người duy nhất có được một cuộn chỉ lớn - một sự kiện khá quan trọng; thậm chí người ta còn kéo đến chúng tôi như đi hành hương để xin sợi chỉ đính cái khuy hay vá cái áo... Không chút ngượng ngùng, tôi bắt họ đem các thức ăn đến rồi tôi mới đổi cho. Tôi ngồi trên thềm chăng cái áo bành-tô của Đarya Đmitrievna ra: chắc đồng chí còn nhớ, bên trong áo lót bằng nỉ Tô-cách-lan kẻ ca-rô. Tôi nghĩ bụng, nếu tháo lần nỉ lót này ra có thể may được một cái váy đẹp tuyệt trần đấy! Cái váy cũ của Đarya Đmitrievna thì đã thủng lỗ chỗ như cái sàng rồi... Sẽ lót lại cáo áo bằng một thứ vải xấu hơn. Ý nghĩ ấy cứ ám ảnh tôi, hỏi Anixya Kônxtantinôvna thì cô ấy cũng khen phải. Tôi bèn bắt tay vào tháo lần nỉ lót; thế là rơi ra một mớ kim cương loại quý, ba mươi bốn viên cả thảy... Thật là một giấc chiêm bao giữa ban ngày! Ngay hôm ấy tôi đưa mấy viên kim cương cho Đarya Đmitrievna xem. Thế là cô ấy chợt nhớ ra! Trong mắt cô ấy lộ vẻ hoảng sợ và van lơn, môi lắp bắp muốn nói điều gì... Nhưng từ khi lâm bệnh cô ấy cấm khẩu... Tôi ghé sát tai vào đôi môi nhợt nhạt của cô ấy, thế là cô ấy lắp bắp nói ra được hai tiếng - những tiếng nói đầu tiên kể từ khi lâm bệnh: “Vứt đi! Vứt đi!...”. Ivan Ilyits ạ, không có ý kiến của đồng chí, tôi không dám làm gì hết. Tôi không biết vì đâu Đarya Đmitrievna có được chỗ kim cương ấy và tại sao cô ấy lại ghê tởm nó đến như vậy. Tôi không biết nên xử trí ra sao: giữ ở nhà thì sợ lắm, mà vứt đi thì tôi cho là không hợp lý. Tôi mới nói dối với Đarya Đmitrievna là tôi mượn thuyền chèo ra giữa sông Volga và vứt kim cương xuống đấy. Cô ấy lập tức yên tâm, mắt sáng lên, như thể mãi đến giờ cô ấy mới trút bỏ được một cái gì nhầy nhụa cứ dính vào thân thể mình...
Ivan Ilyits ạ, tôi xin đồng chí thứ lỗi cho tôi đã viết quá dài, nhưng tôi vốn là người ba hoa lắm lời. Đồng chí vui lòng cho chúng tôi được biết tin về sức khỏe của đồng chí, và xin đồng chí cho biết là chúng tôi nên ở đây qua mùa đông hay là về Moxkva?... Tôi vẫn là người hết lòng tận tụy với đồng chí và Đarya Đmitrievna cho đến khi xuống mộ - Kuzma Nêfêđôv...”
* * *
- Tôi lấy cả thư từ về đây này, - Xapôjkôv vừa bước lên chiếc xe tarantax đan bằng mây vừa nói, đoạn ngồi xuống lớp rạ bên cạnh Têlêghin, - Tôi xin có lời mừng cậu, Ivan ạ.
- Buồn lắm, Xerghêy Xerghêyêvits ạ. Giá có thể làm theo ý mình, tôi sẽ ở lại chỉ huy anh em ở trung đoàn ta. Phải tiếp xúc với những người mới, những nỗi lo âu mới - việc đó không hợp với tôi chút nào.
- Sao cậu lại làm ra dáng ông cụ thế?
- Rồi cũng qua thôi, tôi hơi mệt...
Mấy con ngựa chạy nước kiệu dọc con đường làng, chiếc xe lắc lư trên những ổ gà. Bên trái chạy dài một khu rừng sồi tối tăm; bên phải, trên cánh đồng mới gặt, hiện lên mờ mờ trong bóng hoàng hôn những bó rạ xếp thành hình chữ thập. Không khí phảng phất mùi rơm lúa mì. Những ngôi sao tháng tám bắt đầu mọc rải rác trên nền trời.
- Ai sẽ là tham mưu trưởng ở đại đoàn cậu?
- Họ sẽ chỉ định một người nào đấy.
Con đường rẽ vào sát ven rừng. Từ đấy thoang thoảng đưa ra một làn hơi ẩm ướt. Mấy con ngựa bắt đầu khịt mũi phì phò.
- Tôi không có thư từ gì sao? - Têlêghin hỏi.
- Ôi, xin lỗi, cậu có thư đây này.
Ivan Ilyits nãy giờ ngồi ủ rũ, mệt mỏi ngủ gà ngủ gật, bỗng ngẩng phắt lên.
- Chà! Thế mà cậu lại quên! Thư đâu?
Xapôjkôv lục lọi hồi lâu trong túi dết. Họ cho ngựa dừng lại, quẹt diêm. Mấy que diêm kêu xì xì rồi rụng đầu ngay. Têlêghin cầm lấy bức thư - đó là thư của Kuzma Kuzmits - trăn đi trở lại trên mấy ngón tay.
- Dày ghê, viết gì mà lắm thế không biết, - Xapôjkôv nói thì thầm.
- Thế thì sao? - Têlêghin cũng thì thầm hỏi lại. Điềm xấu à?
Chàng nhảy xuống xe và đi ra ven rừng vội vã bẻ mấy cành khô, quẹt diêm nhóm lửa, thổi phù phù vào dúm củi.
- Lấy một bó rạ mà đốt thì bén ngay thôi. Xapôjkôv ôm một bó rạ lúa mì chạy lại rồi bỏ đi. Rạ cháy bùng lên ngay. Têlêghin ngồi xổm xuống đọc thư. Xapôjkôv thấy chàng đọc hết bức thư, giụi mắt rồi đọc lại từ đầu. Như thế nghĩa là cơ sự đã rõ ràng. Xerghêy Xerghêyêvits khịt mũi, leo lên xe và châm thuốc hút. Ông lão đánh xe, đang nóng lòng muốn về nhà, nói:
- Không khéo nhỡ tàu mất, từ đây trở đi đường toàn cát, lại còn phải dò chỗ lội qua sông nữa... Sẽ mất khối thì giờ.
Xapôjkôv tránh nhìn Têlêghin khi chàng trở về xe, leo lên làm cho xe nghiêng hẳn về một bên và buông mình xuống lớp rạ. Mấy con ngựa chạy nước kiệu. Trên đầu Xapôjkôv, cách ba triệu năm ánh sáng, dải Ngân hà chạy dài thành một đường mờ mờ có những chỗ chẻ đôi ra. Cái bánh sau không thẳng trục cứ đảo ngoằn ngoèo, kêu cót két. Nhưng ông lão đánh xe không để ý đến: có gãy thì gãy bố mày đi, chẳng còn biết làm thế nào được...
Têlêghin nói, giọng như nghẹn ngào:
- Cô ấy có một sức mạnh tinh thần kỳ lạ. Không một lúc nào không đấu tranh để tự đổi mới, làm cho mình trong sạch hơn, hoàn thiện hơn... Tôi thật khâm phục...
- Nhưng vẫn còn sống đấy chứ?
- Thế cậu tưởng sao? Đang dưỡng bệnh ở Koxtrôma...
Xerghêy Xerghêyêvits quay phắt lại, và cả hai cùng cười phá lên. Xapôjkôv huých quả đấm vào sườn Têlêghin, Têlêghin cũng huých quả đấm vào sườn Xapôjkôv. Rồi chàng kể tỉ mỉ cho bạn nghe nội dung bức thư, chỉ bỏ qua câu chuyện mấy viên kim cương. Đó chính là những viên kim cương mà mùa hè năm ngoái nàng đã từng nói trong bức thư viết cho cha nàng, trong khi đang vật lộn giành lấy quyền sống và đồng thời lại tự hủy diệt bản thân. Có lẽ chính trong thời gian đó, vào những ngày hoang mang bối rối, nàng đã khâu mấy viên kim cương vào gấu áo bành tô. Và nàng chưa lần nào nhắc đến những viên kim cương ấy với Ivan Ilyits. Chắc là nàng đã quên khuấy đi: tính nàng xưa nay vẫn thế. Nàng đã quên đi, và chỉ trong cơn mê sảng nàng mới nhớ lại. Thế là nằng nặc đòi “vứt đi, vứt đi” - cổ Ivan Ilyits nghẹn ngào vì một nỗi xúc động hân hoan... Dĩ nhiên trong câu chuyện này còn có nhiều chỗ mờ ám, nhưng chàng không bao giờ cố hiểu Đasa đến cùng.
- Tôi chỉ thấy có một điều rõ nhất, Xerghêy Xerghêyêvits ạ, là được một người phụ nữ yêu, một người phụ nữ như Đasa chẳng hạn, đó là một thành đạt lớn trong đời.
- Đúng, số cậu may thật đấy, xưa nay tôi vẫn nói thế.
- Ôi, nhưng cứ phải luôn luôn cố vươn lên cho ngang tầm, Xerghêy Xerghêyêvits ạ! Mà cũng có đôi khi người ta vấp ngã... Chắc cậu cũng thế, cũng có khi vấp ngã chứ?
- Tôi thì lại khác hẳn...
- Chả nhẽ cậu lại không có hoài bão tìm được một người phụ nữ như Đasa của tôi?
- Không hiểu sao phụ nữ chẳng có vai trò gì trong đời tôi cả... Tôi xử lý những chuyện như thế một cách giản dị hơn nhiều... Không lo sầu phiền phức...
- Lại thế nữa! Tôi biết cậu rồi... Xerghêy Xerghêyêvits ạ, đời chúng mình đặt trên một bình diện rất cao: chiến thắng hay là chết - tất cả chung quy là thế! Và chúng mình đang sống! Mà lại sống thực sự! Trong quan hệ với phụ nữ, mọi chuyện vặt vãnh đều phải gạt ra... Tình yêu phải được giữ gìn nâng niu. Lúc nào cũng phải thận trọng! Cậu đã có bao giờ thử nhìn sâu vào đáy mắt người yêu chưa? Đó là phép mầu của cuộc sống...
Xerghêy Xerghêyêvits không đáp. Dần dần mũ lưỡi trai của anh tụt hẳn ra sau gáy. Anh lại nhìn lên dải Ngân hà.
- Ở một nơi nào đó phía bên kia có một lỗ hổng vũ trụ - anh nói - một khoảng đen ngòm, không có lấy một vì sao, đường viền mang máng giống cái đầu ngựa... Nhìn vào ảnh chụp chỗ ấy rất khủng khiếp. Rồi có lúc ta sẽ hiểu, một cách hoàn toàn đơn giản và hiển nhiên, rằng không gian vô cùng vô tận không có gì đáng sợ. Mỗi nguyên tử trong thân thể của ta cũng đều là một hệ tinh cầu vô cùng vô tận. Phía này hay phía kia đều là cõi vô cùng vô tận cả. Và bản thân ta cũng vô cùng vô tận, và trong ta cái gì cũng vô cùng vô tận hết. Cậu với tôi, chúng mình đang chiến đấu cho cái vô cùng chống lại cái hữu tận...
Phía trước hiện ra những bóng cây đồ sộ, nhưng đến gần mới biết đó chỉ là những bụi cây thấp lè tè mọc ở ven sông. Mùi nước sông bốc lên, ẩm ướt. Chiếc xe tarantax tụt xuống dốc. Mấy con ngựa chột dạ thở phì phò, giẫm lép bép trong dòng nước cạn.
- Chỉ sợ sỉa xuống hố, - ông lão nói.
Nhưng xe đã qua sông an toàn. Sang đến bờ bên kia, ông lão nhảy xuống đất, nhanh nhẹn như thanh niên, chạy một bên xe, vừa giật cương vừa quát ngựa. Cỗ ngựa kéo xe lên hết dốc rồi dừng lại thở hổn hển. Ông lão lại lên xe. Từ đây đến ga chẳng còn bao xa nữa. Ông lão quay người lại nói:
 - Những việc hắn ta làm rồi chẳng ăn thua gì đâu, chỉ tổ làm khổ dân vô ích. Ở làng tôi họ nói thế này: dù sao chúng ta cũng không trả đất lại, không dùng sức mạnh mà ức hiếp chúng ta được đâu, bây giờ không phải như năm mười sáu, dân mu-gích vững vàng lắm rồi, chẳng sợ gì nữa. Ở Kolokôltxevka, - ông lão lấy roi ngựa chỉ vào đêm tối. - có máy bay đến thả truyền đơn, đọc thì thấy là hắn ta đề nghị chuộc lại ruộng đất. Đấy, bây giờ hắn đã đi đến nước ấy cơ đấy: hắn không còn mong gì chúng tôi trả không ruộng đất cho bọn hắn nữa... Không sao chúng tôi sẽ đợi: hắn đến như thế nào thì cũng sẽ đi như thế... Chao ôi, Đênikin, Đênikin!
* * *
Sáng hôm sau Têlêghin và Xapôjkôv đến bộ tham mưu Mặt trận miền Nam ở Kozlôv, vương quốc của táo. Một thị trấn Nga điển hình! Những ngôi nhà nho nhỏ mái đã phai bạc, mấy chậu hoa hải đường đặt trên những khung cửa sổ hẹp, đám bụi cuốn theo chiếc xe ngựa thuê ọp ẹp chạy trên con đường phố khum khum lát đá cuội giữa hai dãy cột dây thép vương mấy mảnh diều, ngôi hàng bằng gạch có treo biển trước cái cửa đã bịt hẳn bằng hai tấm ván đóng chéo chữ thập, đứa con gái đi chân đất sợ sệt chạy qua đường, lôi theo thằng em chạy lặc lè trên đôi chân vòng kiềng, những mảnh tường vỡ của một ngôi nhà nguyện đổ nát bên cạnh bể nước công cộng trên một quãng trường bẩn thỉu trước kia là bãi chợ nhưng bây giờ bỏ trống không. Sau những dãy rào mục nát đã tháo mất một nửa, những cành táo trĩu những quả đã chín đỏ hoặc còn giữ màu vàng phơn phớt xanh như màu sáp ong. Trên các mái nhà và trên các mảnh vườn, một đàn sáo vui vẻ bay vút lên cùng nhô mặt dưới của đôi cánh ra một lúc.
Ở đây người ta có cảm giác như cư dân sẽ cứ sống mãi như thế này hàng nghìn năm nữa, ngoài lề thời gian, nếu không xẩy ra cái biến cố phi thường kia: cách mạng. Vả chăng ở đây có mất mát gì cũng chẳng ai tiếc: cuộc sống quá ư hèn mọn. Chỉ được cái ngủ nhiều.
- Cậu thử nghĩ mà xem, - Xapôjkôv nói, người lắc lư bên cạnh Têlêghin trên chiếc xe thuê. -  bên kia đại dương mỗi giây đều được tính thành tiền, con người bị gò vào một cái máy ép quái gở để cho thích hợp với sản xuất. Như trong cơn mê, từ các nhà máy của họ hàng hóa cứ tuôn ra như nước. Họ đã phải giết mười triệu người để cho số hàng hóa ấy tiêu đi thật nhanh. Văn minh! Còn ở đây thì mấy con diều giấy lủng lẳng trên dây thép... Kìa cậu xem, bên cửa sổ có một ông ngái ngủ đang gãi cái trốc bờm xờm. Và chính xuất phát từ đây ta lao vào cõi xa lạ - xây dựng ước mơ của loài người... Nước Nga-mẹ-hiền là thế đấy! Sống vui lắm, Vanka ạ... Mùi táo thơm, gần như da thịt một cô con gái... Nếu được sống đến lúc bấy giờ nhỉ! Có lẽ tôi sẽ viết một cuốn sách...
Chiếc xe thuê đưa họ đến bộ tham mưu của Mặt trận. Từ tất cả các khung cửa sổ mở rộng đưa ra tiếng máy chữ rào rào.
Trong khi chờ được tiếp, Têlêghin và Xapôjkôv tranh thủ tìm hiểu các tin tức chiến sự mới nhất. Tình hình đại thể như sau: các lực lượng vũ trang của tổng tư lệnh Đênikin, sau một thời gian ngắn bị chặn lại, tiếp tục tấn công về phía Moxkva thành ba đạo. Quân đoàn Bắc Kavkaz của tướng Vranghel tiến dọc sông Volga, cắt trung bộ nước Nga ra khỏi những vùng lúa mì (vào tháng bảy, Quân đoàn thứ Mười đã bứt được ra khỏi đạo quân này, sau khi hy sinh Kamysin); thủ lĩnh Xiđorin với quân đoàn sông Đôn, đã được thủ lĩnh mới của vùng này là Bôgaievxki - một tay sai của Đênikin - phục hồi lại, gây sức ép về phía Vôrônej, đi đầu là hai lữ đoàn kỵ binh xung kích của Mamontôv và Skurô; một viên tướng có tài nhưng lúc nào cũng say rượu, tiến công thành một chiến tuyến rộng, đồng thời quét sạch các đơn vị hồng quân và các đội du kích ra khỏi Ukrain, đồng thời hướng quả đấm sắt của nó - lữ đoàn cận vệ của tướng Kutêpôv - vào Orel, Tula, Moxkva.
Những thắng lợi quân sự của Đênikin đã hiển nhiên. Quân đội của y được vũ trang và tiếp tế rất đầy đủ; các trung đoàn tình nguyện, tuy đã pha loãng rất nhiều vì bổ sung thêm những phần tử nông dân, vẫn chiến đấu một cách tự tin và thành thạo. Nhưng ở hậu phương của y tình hình nhân tâm mỗi ngày một thêm nguy hiểm (điều này Đênikin đánh giá thấp đến mức tai hại): xứ Kuban muốn ly khai thành một vùng hoàn toàn độc lập, và để thiết lập ở đây nền trật tự Đại Nga, Đênikin phải treo cổ hai ủy viên tai mắt nhất của hội đồng Rađa xứ Kuban; ở vùng Têrek nổ ra những vụ xích mích đẫm máu; dân cô-dắc sông Đôn, khi nghe tuyên bố mở cuộc tấn công lên Moxkva, đã nói: “Vùng sông Đôn êm đềm xưa nay là của chúng ta và mãi mãi vẫn là của chúng ta, còn Moxkva thì Đênikin cứ việc tự mình chiếm lấy”; vấn đề nông dân trong những khu vực bị quân tình nguyện chiếm đóng được giải quyết một cách đơn giản theo lối nhà binh: bằng que thông nòng, Đênikin lập lên những tỉnh trưởng, huyện trưởng và cảnh sát trưởng: thế là nông dân lại cưa cụt nòng súng như năm ngoái hồi quân Đức chiếm đóng, và chờ đợi hồng quân; Makhno, sau khi dùng mưu tự tay bắn chết kẻ kình địch chủ yếu của hắn là thủ lĩnh Grigoriev, đã công khai tuyên bố thiết lập chế độ vô chính phủ tự do trong khắp tỉnh Êkatêrinôxlav, chiêu tập khoảng năm vạn thổ phỉ và đe dọa đánh chiếm Roxtôv, Taganrog, Êkatêrinôxlav, Ôđexxa trong tay Đênikin... Lại thấy xuất hiện một loại phỉ đặc biệt gọi là quân Xanh, gồm những tên đào ngũ hung hãn, và ở nơi nào có rừng núi là bọn chúng sẵn sàng thọc vào sườn Đênikin.
Hồng quân, sau những trận thất bại nặng nề của hai quân đoàn thứ Mười và thứ Mười ba, và sau cuộc rút lui anh dũng của Quân đoàn thứ Mười hai qua sông Đniextr và sông Bug, đã ổn định lại chiến tuyến. Tinh thần quân đội được chấn chỉnh và khả năng chiến đấu được nâng cao, chủ yếu là nhờ có hàng loạt chiến sĩ cộng sản từ Pêtrôgrad, Moxkva, Ivanôv và các thành phố khác ở miền Bắc đến bổ sung. Các đơn vị đang chờ đợi từng ngày một lệnh phản công của tổng tư lệnh.
Làm xong thủ tục nhận nhiệm vụ mới - Têlêghin lên chỉ huy một đại đoàn độc lập, Xapôjkôv lên làm trung đoàn trưởng trung đoàn Katsalinski - ngay hôm ấy hai người lên đường trở về. Suốt dọc đường họ bàn luận về những tin tức mới nhận được; cả hai đều nhất trí nhận định rằng cái kế hoạch đồ sộ của Đênikin treo lơ lửng giữa khoảng trống, và những việc mà năm ngoái y đã làm được ở Kuban không thể lặp lại lần thứ hai ở Đại Nga được: ở Kuban y đã đánh bại được Xôrôkin, còn ở đây sẽ phải đương đầu với chính Lênin, với giai cấp vô sản cha truyền con nối, mà dân mu-gích ở đây cũng sừng sỏ hơn: họ đã từng xóc Napôlêông trên nạng chĩa.
* * *
- Quân kỳ lên phía trước, tháo vỏ ra!
Người chiến sĩ cầm cờ, có Latughin và Gaghin đứng kèm hai bên, bước lên một bước. Hôm nay Têlêghin giao lại trung đoàn cho người chỉ huy mới, Xerghêy Xerghêyêvitsy Xapôjkôv. Gương mặt chàng nghiêm trang, đăm chiêu tư lự, và nước da rám nắng của chàng cũng không đỏ ửng lên như ngày thường. Tay chàng cầm một tờ giấy nhỏ, trên đó chàng đã phác qua những lời sẽ nói trước hàng quân.
- Các chiến sĩ Katsalinski! - chàng nói, mắt nhìn vào các chiến sĩ đang cầm súng đứng nghiêm trước mặt: chàng biết rõ từng người một, ai bị thương ở đâu, ai có những mối ưu phiền gì, chàng đều biết hết, đó là những người thân thuộc, những anh em ruột thịt của chàng. - Các đồng chí với tôi, chúng ta đã cùng hành quân qua mấy nghìn dặm, giữa băng giá mùa đông và dưới ánh nắng mùa hạ... Ở Txaritxyn các đồng chí đã hai lần chiến thắng vẻ vang... Những khi phải rút lui - cũng chẳng phải tại lỗi của mình - các đồng chí đều bắt quân thù trả giá rất đắt những thắng lợi bấp bênh và nhất thời của chúng. Các đồng chí đã lập nhiều chiến công oanh liệt, tuy chưa ai viết những lời tường thuật khoa trương về những chiến công ấy, và những bản báo cáo của chúng ta đều lút ngập đi trong những bản thông cáo chiến sự chung... Nhưng như thế cũng chẳng sao... (Têlêghin liếc xuống tờ giấy nhỏ cầm trong lòng bàn tay khum khum). Tôi xin nói trước để các đồng chí biết: trước mắt còn nhiều gian lao, quân thù chưa bị đánh ngã, mà có đánh ngã rồi cũng chưa đủ, cần phải tiêu diệt hẳn chúng đi... Trong cuộc chiến tranh này, ta phải chiến thắng, ta không thể không chiến thắng được. Ở đây con người đang đấu với con thú: kẻ chiến thắng phải là con người... Hay cũng có thể nói ví dụ như thế này: một hạt lúa nảy mầm, mầm tuy non yếu, nhưng vẫn đâm qua đất đen, qua đá mà mọc lên. Trong cái mầm đang nhú lên đó có tất cả sức mạnh của cuộc sống mới: nó sẽ lớn lên và không có gì ngăn chặn được nó... Trong một buổi sáng sớm u ám tối tăm, chúng ta lên đường chiến đấu để giành lấy ánh ban ngày xán lạn, còn kẻ thù của ta lại muốn trở về với đêm tối của phường trộm cướp. Nhưng ngày nhất định sẽ tới, bất chấp tiếng nghiến răng hằn học của chúng. (Chàng lại lo lắng nhìn xuống tờ giấy, rồi vò nát nó đi). Các đồng chí ạ, tôi xin thú thật là tôi chẳng thấy vui chút nào, xa các đồng chí, tôi rất khổ tâm... Suốt một năm trời cùng ngồi với nhau bên những đống lửa trại hành quân tuyệt nhiên chẳng phải là vô nghĩa. Tôi xin từ biệt các đồng chí, từ biệt lá quân kỳ của các đồng chí. Tôi mong muốn và đòi hỏi rằng lá cờ này sẽ không ngừng dẫn dắt trung đoàn Katsalinski vinh quang đến thắng lợi.
Ivan Ilyits bỏ mũ, đến trước lá cờ, cầm một góc tấm vải đã bạc màu, thủng lỗ chỗ lên môi hôn. Đoạn chàng đội mũ lên, giơ tay chào, nhắm mắt lại, chặt đến nỗi nhăn cả mặt.
Sau bữa tiệc tiễn đưa do Xapôjkôv và các đồng chí chỉ huy trong trung đoàn tổ chức thết chàng. Ivan Ilyits hơi choáng váng. Ngồi trên chiếc xe đan mây, cái túi đựng đồ dùng ôm bên nách (trong đó có cả con mèo và con chó bằng sứ của Đasa) chàng ngạc nhiên hồi tưởng lại những lời lẽ nhiệt thành đã nói xung quanh bàn tiệc. Tưởng không thể nào yêu quý nhau một cách tha thiết hơn thế nữa. Họ ôm lấy nhau, hôn nhau, bắt tay nhau rõ chặt. Ôi, thật là những con người tốt lành, trung thực, tận tụy! Mấy anh chỉ huy trẻ tuổi đã đứng bật dậy hát một bài ca ngợi cách mạng toàn thế giới - lời ca rất giản dị, thậm chí hơi sáo nữa, nhưng họ hát rất quả quyết, chân thành. Một anh tiểu đoàn trưởng hiền lành ít nói bỗng dưng muốn leo lên bàn, và cuối cùng anh ta leo lên thật, nhảy một điệu trêpak điên cuồng giữa những đống xương ngỗng đã gặm cụt và những miếng vỏ dưa hấu. Nhớ đến cảnh ấy, Ivan Ilyits cười ha hả.
Chiếc xe nhỏ dừng lại ở cuối làng. Ba người đi tới: Latughin, Gaghin và Zađuyviter. Chào nhau xong, Latughin nói:
- Ivan Ilyits ạ, chúng tôi cứ tưởng anh sẽ không quên chúng tôi, nhưng rốt cục anh vẫn quên như thường.
- Phải, chúng tôi đã mong anh - Gaghin xác nhận.
- Khoan đã, khoan đã các cậu ạ, các cậu muốn nói đến việc gì?
- Chúng tôi đợi anh đấy. - Latughin ghếch chân lên bánh xe nói. - Dù sao cũng đã sống với nhau một năm trời, vui buồn đều chia sẻ với nhau... nhưng thôi, nếu cái đó đối với anh cũng chẳng có nghĩa lý gì thì thôi, từ biệt vậy - giọng anh ta run run vì căm giận.
- Khoan đã, khoan đã - Têlêghin xuống xe. Zađuyviter nói:
- Chúng tôi là cái thá gì ở đây, trong bộ binh? - chỉ là những người lạ! Chẳng lẽ chúng tôi cứ phải lê chân trên bụi đường thế này mãi sao?
- Chúng tôi là pháo binh hải quân, anh cứ thử tìm đâu ra được những người như thế xem! - Gaghin nói, mắt sáng quắc lên.
- Khi đổ bộ lên Nijni, chúng tôi có mười hai anh em cả thảy. - Latughin nói - Nay chỉ còn có ba, anh nữa là bốn... Anh ngồi lên xe ngựa, thế là thôi, xin chào... Còn chúng tôi có phải là người đâu, chúng tôi chỉ là những thằng Ivan, những cái áo ca-pốt xám xịt... Chúng tôi đến cũng như không, chúng tôi đi cũng như không. Nhưng thôi, anh say thế kia thì còn nói chuyện làm gì!
Zađuyviter nói:
- Ivan Ilyits ạ, bây giờ anh chỉ huy đại đoàn rồi, có cả trọng pháo trong tay...
- Thôi cậu dẹp mấy khẩu pháo chết tiệt của cậu đi. - Latughin quát - Tôi sẽ đi quét chuồng xí cũng được, nếu cần! Tôi chỉ buồn vì mất một người bạn. Tôi đã tin anh, Ivan Ilyits, tôi đã đem lòng quý mến anh. Anh có biết đem lòng quý mến một con người là thế nào không? Nhưng té ra đối với anh tôi chỉ là thằng thứ năm đứng bên sườn phải. Thôi, nói thế là đủ... Dọc đường anh sẽ hiểu nốt phần còn lại...
- Các cậu ơi! - Mấy câu nói vừa qua đã làm cho Ivan Ilyits tỉnh hẳn rượu. - Các cậu buộc tội cho tôi sớm quá. Chính tôi đã trù tính là hễ lên đến đại đoàn bộ, tôi sẽ ra lệnh chuyển cả ba cậu về đơn vị pháo binh.
- Thế thì còn gì bằng! - Zađuyviter nói, mặt rạng rỡ hẳn lên. Nhưng Latughin giận dữ giẫm gót ủng rách xuống đất nói:
- Nói dối! Vừa mới nghĩ ra đấy mà. - Đoạn anh nói thêm, giọng đã dịu hơn, tuy vừa nói vừa giơ ngón tay bẻ gập lên dọa Têlêghin: - Biết hối hận chưa đủ đâu, đồng chí ạ, chỉ thế thôi thì chẳng tiến xa được đâu. Tuy nhiên, dù chỉ thế thôi cũng xin cảm ơn đồng chí.
Têlêghin vỗ lưng Latughin cười lớn:
- Chà cái cậu này nóng gớm! Cậu lại bất công nữa...
- Nói chuyện công bằng với tôi làm gì. Tôi chẳng có ý muốn lừa ai cả. Sở dĩ có thể tha thứ cho anh cũng chỉ vì anh chất phác thật thà. Các cô yêu anh cũng vì thế đấy. Thôi được rồi, đừng giận nhé, lên xe đi. - Rồi bỗng nắm chặt lấy khuỷu tay Têlêghin, anh nói tiếp: - Anh có biết người ta đón lấy mũi dao chết thay cho bạn như thế nào không? Chưa lần nào phải thế à? - Đôi mắt sáng, cách xa nhau của Latughin ánh lên lạnh lùng đưa qua đưa lại nhìn vào mặt, vào hai mắt Têlêghin. - Vừa rồi anh nói dối phải không? Đúng không nào?
Ivan Ilyits cau mày gật đầu:
- Ừ, vừa rồi tôi nói dối. Còn các cậu nhắc nhở tôi như thế là rất đúng, rất tốt. Các cậu đã dạy cho tôi biết cách ăn ở hơn...
- Bây giờ anh nói nghe được rồi đấy...
- Thôi buông anh ấy ra, sao cậu cứ bám riết lấy thế... Lại dở cái giọng “chúa tể thiên nhiên” ra đấy chắc, - Gaghin nói ồm ồm.
Không nói gì thêm, Têlêghin bắt tay từ biệt họ, ngồi lên xe, và dọc đường vẫn còn lắc đầu cười khe khẽ một mình mãi.
Từ đây lên bộ tham mưu đại đoàn độc lập, nếu đi máy bay thì mất một tiếng đồng hồ, đi ngựa thì phải hơn hai mươi bốn tiếng. Ivan Ilyits ngồi xe lửa mất bốn ngày bốn đêm, luôn luôn phải chuyển tàu và ngồi đợi đến mụ cả người ở những nhà ga bẩn thỉu, xơ xác. Cái toa tiếp khách đặc biệt mà người ta đã hứa chắc là sẽ dành riêng cho chàng dĩ nhiên là không làm gì có, cho nên đoạn đường cuối cùng chàng phải leo lên một toa hàng chở vôi hết một nửa: chẳng biết chở cho ai và để làm gì trong một thời buổi như thế này. Ngoài ra trên toa còn có một hành khách trải chiếu ngồi, mặt béo phị trông như cái hũ, đeo kính cặp mũi. Hắn ta cứ luôn mồm hát ư ử một đoạn ca kịch của Offenbăc: “Giăm-bông Tuluz, ôi món giăm-bông... Không có rượu vang, món giăm-bông này có ra gì...”. Rồi đến khi trời sẩm tối, hắn ta bắt đầu loay hoay với mấy cái túi vải, sắp sắp xếp xếp những gì ở bên trong, lấy mấy thứ ra ngửi ngửi rồi lại đút vào.
Ivan Ilyits, lúc bấy giờ đã mệt lử, lại đói nữa, bắt đầu phân biệt được rất rõ mấy mùi thức ăn khác nhau. Rồi đến khi cái thằng cha khốn kiếp ấy quay ra đập canh cách một quả trứng luộc, bóc vỏ rồi vừa ăn vừa thở phì phò, Ivan Ilyits không chịu được nữa:
- Này, anh kia, sắp đến ga rồi đấy, hễ tàu đỗ là anh phải mang mấy cái bị của anh xéo ngay khỏi chỗ này.
Trong bóng tối, người kia thôi nhai ngay và ngồi im không nhúc nhích. Một phút sau Ivan Ilyits chợt ngửi thấy mùi xúc xích rất nồng ở ngay sát mũi mình, bèn giận dữ ẩy bàn tay vô hình đang chìa xúc xích ra.
- Đồng chí hiểu lầm tôi rồi, đồng chí bộ đội ạ, - người kia cất giọng tenor nói dịu dàng, chẳng qua tôi muốn mời đồng chí cạn chén và nhắm đôi chút với tôi. Hà! - hắn thở dài một tiếng, và khứu giác của Têlêghin lại cảm thấy miếng xúc xích nhích gần tới. - Ở ta bây giờ chỉ toàn những nguyên tắc với nguyên lý! Phỏng trong một miếng xúc xích Tiểu Nga có một nguyên lý gì đặc biệt không? - chỉ có tỏi và mỡ mà thôi. Có rượu mạnh đây, cũng đủ mỗi người một hớp.
Hắn im lặng chờ đợi, Têlêghin cũng im lặng.
- Chắc đồng chí tưởng tôi là một thằng đầu cơ hay buôn lậu gì đấy chứ gì?... Xin lỗi, tôi là một nghệ sĩ. Có lẽ tôi chưa phải là Katsalôv, là Yurev, là Mamônt-Đalxki - lạy Chúa cho cái linh hồn đen tối của hắn ta được bằng an. Đây mới thật là một nhà bi kịch vĩ đại! Cái thằng súc sinh ấy nó tưởng tượng mình là lãnh tụ của phái vô chính phủ trên toàn thế giới, hắn lại đâm ham cái món cướp phá các biệt thự Moxkva; còn đánh bài với hắn thì chỉ có chết... Tôi đây, tiện danh là Baskin-Đadorxki, một cái tên không đến nỗi không được ai biết đến ở các tỉnh, thường có mặt trên các áp-phích... - Chắc hắn ta yên trí là Têlêghin sẽ thốt lên: “À! Ra ông là Baskin-Đadorxki đấy à, tôi còn lạ gì, rất hân hạnh...”. Nhưng Têlêghin vẫn lặng thinh. - Tôi đã biểu diễn hai mùa ở Moxkva: ở rạp Ermitaj và rạp Kors... Vlađimir Ivanôvit Nêmêrôvits-Đantsenkô đã bắt đầu lượn vòng quanh tôi. Tôi trả lời: “Ồ, không đâu, Valđimir Ivanôvits ạ, ông để cho tôi biểu diễn thỏa thích đã, rồi hẵng lấy tôi về”. Năm một nghìn chín trăm mười tám chúng tôi dựng “Cái chết của Đăngtông” ở nhà hát Kors, tôi đóng Đăngtông... Một con sư tử đang gầm, một nhà hùng biện của thứ dân, một đôi môi dẩu ra, một con bò tót, một con thú, một thiên tài, một tay ăn khỏe như sói, một con người hiếu sắc... Tuyệt! Thành công thật là rực rỡ! Trong khi đó củi không có, Moxkva tối om, chẳng thu được đồng nào, đoàn kịch mỗi người chạy một ngả. Chúng tôi còn lại năm người, cứ thế kéo nhau đi diễn ở các tỉnh, quấy quá thế nào cho xong thì thôi, cũng vẫn cái vở “Cái chết của Đăngtông” ấy. Ở Moxkva, ông ủy viên giáo dục Lunatsarxki còn cấm, chứ ở các tỉnh thì tha hồ: ở màn cuối chúng tôi đưa lên sân khấu một cái máy chém, tôi chui đầu vào, thế là ph-phập!... Chao ôi, tiền thu hàng đống: Đồng chí không tin chứ công chúng họ cứ reo: “Làm lại đi! Chém lại lần nữa!...”. Chúng tôi đi diễn ở Kharkôv, Kiev - ấy là hồi còn hồng quân ở đấy, - sau đó là Uman, diễn trong một trại cứu hỏa, rồi Nikolaiev, Kherxôn, Êkatêrinoxlav. Quỷ đưa đường chúng tôi đến Roxtôv-na-Đônu. Chúng tôi diễn xong, khán giả hoan hô như sấm. Thậm chí một sĩ quan ngồi trong lô còn bắn vào Rôbexpier nữa. Ngày hôm sau ông thị trưởng gọi tôi tới và tống một quả đấm vào mặt tôi theo kiểu chế độ cũ: “Các anh hãy cầu nguyện cho quan tổng tư lệnh Đênikin: không có ngài thì tôi đã treo cổ các anh lên rồi... Cút ngay ra khỏi Roxtôv...”. Phải, bây giờ làm nghệ thuật gay lắm. Chúng tôi cứ đi khắp các hang cùng ngõ hẽm như phường Tzigan. Phông màn rách hỏng hết, dựng lên mà xấu hổ... Ở Kozlôv người ta không cho chúng tôi bốc cái máy chém lên toa xe lửa, vì lý do đó là một vật không rõ công dụng... Thôi vậy! Sẽ chém đầu tôi bằng rìu cũng xong! Đồng chí có diêm không? Tiếc nhỉ: giá có diêm tôi sẽ cho đồng chí xem cái đầu của tôi ở trong cái bị này. Do người làm diễn cụ của Nhà hát Maly ở Moxkva chế tạo - một thiên tài... Rồi cái chế độ kiểm duyệt kia nữa! Anh đem vở đến, đồng chí kiểm duyệt đọc qua đọc lại một hồi... Anh phân trần: đây là một sự kiện lịch sử... Đồng chí lại liếm ngón tay dở từng trang... “Ở đây có thấy chứng nhận rằng đó là sự kiện lịch sử đâu nào?”. Anh đưa ra bài phê bình nồng nhiệt của Lunalsarxki... Đồng chí ta cũng đọc... “Thế các anh không thể phản ánh cái gì vui hơn một chút à?”. Đồng chí ấy, cứ thế mà cào móng tay lên dây thần kinh của tôi... Không biết bây giờ rồi chúng tôi sẽ ra sao đây... Chúng tôi đi Enxk diễn đây, đến bộ tham mưu đại đoàn độc lập.
Têlêghin trả lời - một điều rất đột ngột đối với anh chàng nghệ sĩ:
- Thế đoàn kịch các anh đâu?
- Ngồi bên kia, bên toa chở phông màn ấy. Rôbexpier thì ngồi trên đầu máy. Đó là nghệ sĩ Tinxki, chắc đồng chí có nghe nói, đó là vai Rôbexpier ưu tú nhất trong nước cộng hòa... Đồng chí có thể yên tâm: đi đâu hắn ta cũng tìm ra rượu, dù ở sâu dưới đất hắn cũng chui xuống lôi lên - một thiên tài! Hắn ngồi ngay lên đầu máy, thế là chúng tôi đi yên ổn. Thế nào, đồng chí bộ đội, ta nhắm tí chứ? xin đồng chí đừng từ chối.
- Vâng, cũng được.
- Thế thì còn gì bằng. - Baskin-Đadorxki lục lọi lấy trong cái túi, thở hì hục và nói lẩm bẩm: “Đâu rồi nhỉ, mình nhét ở đâu thế không biết?”. Hắn ta giúi vào tay Têlêghin một quả trứng, một mẩu xúc xích, một cái bánh khô. - Diễn ở Enxk xong là chúng tôi đi Moxkva... Xin đủ, đi lang thang mãi rồi! Ở phố Nêghinny nhà số năm trong sân sau có một lão người Armêni mở một hiệu điểm tâm - thiên tài! Xúc xích, pa-tê-sô, muốn gì cũng có. Công an ngày nào cũng soát nhà. Tại sao? - số là người nào ở đấy ra cũng sực mùi rượu. Soát mãi mà chẳng thấy rượu đâu, và sẽ không bao giờ thấy... Lão ta có một thùng rượu ở gác xép tầng bốn thông với một ống nước bỏ không. Ở nhà dưới, trong tiệm điểm tâm có một cái lavabô và một cái vòi nước thông thường. Mở vòi ra, rót đầy cốc, thế là cứ như ở nhà.
Nhai ngon lành miếng xúc xích và thấy lòng dịu hẳn đi sau hớp rượu mạnh, Têlêghin nói:
- Tôi sẽ cố gắng tạo cho các anh mọi điều kiện thuận tiện, các anh cứ nghỉ ngơi, tập tành cẩn thận, chẳng đi đâu mà vội, - và hãy cho chúng tôi xem một buổi biểu diễn thật hay. Ở Enxk, các anh sẽ là khách của tôi, tôi là đại đoàn trưởng...
- Ú-ù-ù, - Baskin-Đadorxki kêu lên một tiếng kéo dài - thế mà tôi không biết... Suốt nãy giờ tôi cứ nhìn đồng chí, tự nhủ: ôi chao, cái chết của mình đây rồi! Đồng chí làm tôi sợ hết hồn! Tôi cứ nói huyên thiên, vừa nói vừa lấy làm lạ, không hiểu tại sao mình vẫn chưa bị ném xuống đường tàu... Ông bạn quý mến ạ, chúng tôi sẽ diễn cho các bạn xem, sẽ đem hết lòng hết dạ ra mà diễn, diễn cho mình, theo lối con nhà diễn viên.
Têlêghin xách túi đồ đạc bước xuống sân ga. Ngọn đèn dầu hỏa đã vỡ kính hắt ánh sáng mờ mờ xuống mấy người mặc quân phục đang đứng trước ga.
- Chào các đồng chí, - Ivan Ilyits đi về phía họ, nói. - Các đồng chí ra đón đại đoàn trưởng phải không? Thế thì tôi đây, Têlêghin đây. Xin lỗi nhé, tôi ăn mặc thế này, các đồng chí bỏ qua cho...
Trong khi bắt tay họ, chàng ngạc nhiên đưa mắt nhìn một người trong bọn, tóc hoa râm, vóc người tầm thước, mảnh dẻ khô khan, nghiêm nghị, phong thái rất chững chạc... Khi họ đi qua nhà ga ra cái quảng trường tối om, chàng ngoái cổ lại nhìn người ấy một lần nữa, nhưng vẫn không trông rõ mặt. Họ đưa Têlêghin lên một chiếc xe ngựa, và chiếc xe đưa chàng đi qua một cánh đồng rất rộng tối mịt mùng, phảng phất mùi rạ ải. Đến một ngôi nhà dài, trông giống như một cái kho có mái cao, xe dừng lại. Ở đây, đã dọn sẵn cho Ivan Ilyits một căn phòng mới quét vôi, chưa bày biện gì cả. Trên bậu cửa sổ đặt một ngọn đèn nến, bên cạnh là hai cái đĩa úp lên nhau, đựng thức ăn dành cho chàng. Chàng ném cái túi xuống nền nhà, cởi áo ngoài ra, vươn vai, rồi ngồi lên chiếc giường con trải khăn sạch sẽ, bắt đầu rút đôi ủng dính đầy vôi bột.
Có ai gõ cửa khe khẽ. “Ban nãy thổi quách nến đi có hơn không. Bây giờ lại phải nói chuyện, khỉ thật, quá bốn giờ sáng rồi còn gì...” - chàng bực mình nghĩ bụng, rồi trả lời:
- Vâng, mời vào.
Chính người quân nhân ban nãy nhanh nhẹn bước vào, vóc người tầm thước, mái tóc hoa râm. Người ấy đóng cửa lại, và bằng một động tác ngắn gọn, đưa bàn tay rất thẳng lên thái dương chào Têlêghin. Têlêghin giẫm gót chân lên chiếc ủng đã rút được nửa, ngừng tay lại, sửng sốt nhìn đăm đăm vào con người thứ hai ấy...
- Xin lỗi đồng chí, - chàng nói - ban nãy ngoài sân ga tôi vụng về quá, nhưng vì tôi đã quyết định hoãn việc giới thiệu nhau và công việc nói chung đến sáng mai... Nếu tôi không lầm thì đồng chí là tham mưu trưởng của tôi?
Người kia vẫn đứng ở cửa trả lời gọn:
- Đúng...
- Xin lỗi, tên họ đồng chí là gì?
- Rôstsin, Vađim Pêtrôvits.
Têlêghin bắt đầu thảng thốt nhìn quanh. Chàng mở miệng hớp hớp, mấy lần nuốt không khí.
- À... Ra thế... - Mặt chàng run run, chàng nói tiếp, lần nầy thì thầm rất khẽ - Vađim đấy à?
- Vâng.
- Tôi hiểu, tôi hiểu... Rất kỳ lạ. Anh lại ở đây, là tham mưu trưởng của tôi... Lạy Chúa!
Rôstsin nói, giọng vẫn rắn rỏi, khô khan như cũ:
- Ivan ạ, tôi đã quyết định nói chuyện với cậu ngay bây giờ, để đến mai cậu khỏi lâm vào một tình thế khó xử.
- À vâng... Nói chuyện...
Ivan Ilyits hối hả kéo ống chiếc ủng đang cởi dở lên, đứng dậy lấy áo ngoài mặc vào. Vađim Pêtrôvits, đầu hơi cúi xuống, theo dõi từng cử động của chàng như đang quan sát một cách khách quan, không sốt ruột, không xúc động.
- Vađim ạ, tôi sợ chúng mình sẽ có chỗ không hiểu nhau.
- Hiểu chứ...
- Anh là một người thông minh, đúng, đúng... Tôi chân thành quý mến anh, Vađim ạ... Tôi vẫn nhớ cuộc gặp gỡ ở nhà ga Rôxtôv hồi năm ngoái... Anh đã tỏ ra rất đại lượng... Tâm hồn anh bao giờ cũng hăng say, nồng nhiệt... Ôi, trời ơi, trời ơi...
Chàng thít chặt thắt lưng lại, vân vê mấy cái khuy, lục lọi trong túi áo túi quần, không biết vì đang bối rối đến cùng cực, hay vì muốn tìm cách trì hoãn cuộc nói chuyện khổ tâm lại...
- Chắc anh trông đợi là bây giờ hoàn cảnh đã đảo ngược vị trí của chúng ta lại, thì đến lượt tôi, tôi cũng phải tỏ rõ một tình cảm lớn lao... Có, đối với anh, trong lòng tôi vẫn nuôi một tình cảm rất lớn lao... Chúng ta gắn bó với nhau mật thiết hơn bất cứ đôi bạn nào trên đời này... Thế đấy... Vađim, anh làm gì ở đây? Tại sao anh lại ở đây, với mục đích gì? Anh nói đi...
- Tôi đến đây chính là để nói cho cậu rõ đấy, Ivan ạ...
- Tốt lắm... Nếu anh trông mong rằng tôi có thể che giấu một điều gì... Anh là người thông minh, vậy ta cứ nói thẳng với nhau ngay từ đầu: tôi không thể làm gì cho anh được hết... Ở đây chúng ta sẽ bất đồng với nhau từ căn bản... - Têlêghin cau mày, tránh nhìn Rôstsin. Rôstsin lắng nghe chàng nói và mỉm cười. - Cái tin đồn anh chết nữa chắc cũng nằm trong mưu đồ ấy... Anh kể đi, nhưng tôi xin nói trước là tôi sẽ bắt anh... Trời ơi, làm sao lại thế này...
Têlêghin tuyệt vọng khoát tay: chàng đành cho đi tong hết, cả Rôstsin, cả bản thân chàng, cả cuộc đời chàng từ nay tan vỡ. Vađim Pêtrôvits bước nhanh lại, ôm lấy chàng và hôn thật mạnh lên môi chàng.
- Ivan, cậu tốt vô cùng... Tâm hồn cậu chất phác thật thà quá... Tôi rất mừng được thấy cậu vẫn thế... Tôi yêu cậu quá. Ta ngồi xuống đi. - Và chàng kéo Têlêghin lại giường. Têlêghin cưỡng lại. - Kìa cậu đừng thế nữa. tôi không phải là gián điệp đâu, không phải là mật vụ đâu... Cậu yên tâm: từ tháng chạp tôi đã gia nhập Hồng quân.
Ivan Ilyits, vẫn chưa hoàn hồn hẳn sau cái quyết định của mình, một quyết định đã làm cho chàng rung chuyển đến tận tâm can, vẫn còn ngờ vực nhưng đồng thời cũng đã bắt đầu tin, nhìn chăm chăm vào gương mặt đen xạm, rắn rỏi mà hiền dịu của Vađim Pêtrôvits, vào đôi mắt đen thông minh, cương nghị của chàng. Hai người ngồi xuống giường, không buông tay nhau ra. Vađim Pêtrôvits bắt đầu kể lại tất cả những gì đã đưa chàng về phía bên này chiến tuyến, về nhà, về với tổ quốc.
Ngay từ đầu câu chuyện, Têlêghin đã ngắt lời chàng:
- Thế còn Katya ở đâu? Có còn sống không, có khỏe không, hiện nay ở đâu?
- Tôi hy vọng rằng Katya bây giờ ở Moxkva... Tôi lại vừa để lỡ mất: tôi đến Kiev quá muộn, ngay trước khi thành phố tản cư đi hết... Nhưng tôi đã tìm được dấu vết của Katya...
- Nhưng chị ấy có biết là anh còn sống và ở trong quân đội của ta không?
- Không... Tôi đến phát điên lên vì điều này.

19

Hai tháng trôi qua.
Hồng quân không chặn đứng được cuộc tấn công của các quân đoàn dưới quyền tướng Đênikin. Kolsak, nhà cầm quyền tối cao của nước Nga, đánh vào vùng Ural trong một cố gắng tuyệt vọng cuối cùng. Ở vùng duyên hải Baltic những tai ương thảm họa cứ chồng chất lên đầu Quân đoàn thứ Bảy của hồng quân, đang rút lui trong bùn lầy trước các lực lượng của tướng Yuđênits, để mất Pxkôv, Luga, Gatsina. Yuđênits đã ra lệnh cho quân đội: “Thọc thẳng vào Pêtrôgrađ”.
Nước cộng hòa Xô-viết đã bị cắt hẳn ra khỏi nguồn lúa mì và nhiên liệu. Những phương tiện giao thông chỉ tạm đủ cho việc chuyên chở quân đội và đạn dược. Bầu trời tháng mười khóc sướt mướt trên đất Nga, trên những thành phố đói khát và ủ dột, trong đó cuộc sống cứ thoi thóp trong khi chờ đợi một mùa đông vô hy vọng hơn nữa, trên những ống khói nhà máy không bốc khói và những công xưởng vắng tanh vì công nhân đã ra các mặt trận hết, trên những bãi nghĩa địa đầu máy và toa hỏng, trên cảnh tĩnh mịch cổ kính của những làng mạc lợp rạ chẳng còn được mấy người đàn ông; ở đấy, giống như thời các tổ phụ, cây đóm nhựa lại được thắp lên và những khung cửi tự làm lấy đã bắt đầu cất tiếng kẽo kẹt hòa với tiếng thoi đưa lách cách.
Trong cái tiết mưa gió sụt sùi này tướng Mamôntôv lại chọc thủng mặt trận của Hồng quân một lần thứ hai, phá phách hậu phương và cắt đứt tất cả các đường giao thông, rồi đưa một lữ đoàn cô-dắc thọc sâu vào nội địa.
Têlêghin, Rôstsin và chính ủy Tsexnôkôv đang ngồi quanh một tấm bản đồ sờn rách, có nhiều chỗ dán lại bằng nước miếng. Chính ủy Tsexnôkôv là người mới được cử về đây thay cho viên chính ủy cũ của đại đoàn đang mắc bệnh sốt phát ban. Đó là một công nhân Moxkva, sức khỏe đã bị những năm khổ sai dưới thời Sa hoàng làm suy sụp, gầy rạc đi vì thiếu thốn, trông già hơn tuổi nhiều. Tay xoa xoa vầng trán hói như thể đang đau nhức ở phía trên lông mày, ông đọc lại lần thứ mười bản mệnh lệnh tác chiến mới nhất của tổng tư lệnh.
Têlêghin ngồi rít tẩu thuốc. Trong thời gian gần đây chàng đã bỏ lối vấn thuốc sâu kèn, chuyển sang hút ống tẩu. Cái tẩu này là do Latughin lấy được của một sĩ quan bạch vệ trong một chuyến đi trinh sát đem về cho chàng. Nó là một niềm an ủi và một phương thuốc an thần trong những phút gay go: những phút như thế gần đây chẳng thiếu gì. Nếu lâu ngày không lau chùi phía trong, nó phát ra một tiếng rít ấm cúng, tương tự như tiếng xamôvar trong một buổi tối mưa gió sụt sùi.
Vađim Pêtrôvits mới đọc qua lần đầu đã nhìn thấy rõ hết cái tính chất điên loạn và vô hy vọng của bản mệnh lệnh. Đợi cho chính ủy suy nghĩ hết lẽ về cái tác phẩm buồng giấy kia, chàng lim dim đôi mắt dựa lưng vào bức tường ghép bằng thân cây. Dưới đôi mi hé mở, mắt chàng long lanh một ánh sáng hằn học.
Họ đang ngồi ở một khu trại, nơi đặt đại bản doanh dã chiến của đại đoàn, cách mặt trận khoảng mười dặm. Trong hai trung đoàn mà Têlêghin tiếp quản hồi tháng tám, bây giờ không còn lấy được ba trăm chiến sĩ: những số quân bổ sung được gửi đến sau này khó lòng có thể gọi được là chiến sĩ. Bộ tổng tư lệnh thành lập các đơn vị bổ sung này một cách hối hả, chủ yếu lấy những người đào ngũ, đi bắt những phần tử “quân xanh” ở các thành phố và các làng mạc: bây giờ những phần tử ấy bắt đầu mò về đây, vì không chịu nổi những trận mưa thu. Chẳng kịp huấn luyện, chuẩn bị gì, người ta cứ thế ghép bừa họ vào các đại đội dã chiến và chở ra mặt trận, nơi họ phải thi hành những mệnh lệnh chiến đấu mà người ta chỉ có thể thực hiện một cách minh xác bằng động tác của cây bút chì đỏ trên tấm bản đồ 1/25.000, trong cõi tĩnh mịch trang trọng của phòng giấy tổng tư lệnh.
- Tôi không hiểu, - chính ủy Tsexnôkôv nói đoạn lật sấp tờ giấy lại xem, tuy ở phía sau chẳng có chữ nào. - Tôi không hiểu được ý nghĩa khái quát của bản mệnh lệnh này...
Rôstsin đáp:
- Vả lại chẳng có gì mà hiểu hết: đây là một mệnh lệnh có tính chất hàn lâm viện thuần túy. Ông tổng tư lệnh ngồi lót dạ hai quả trứng, một chén ca-cao, châm một điếu thuốc lá thơm rồi đến gần bản đồ. Ông tham mưu trưởng, bấy lâu chỉ mong sao một buổi sáng đẹp trời nào đấy ngủ dậy đã thấy cơn ác mộng qua rồi, dùng hai ngón tay rút ra một lá cờ tí hon cắm trên địa đồ, tượng trưng cho trung đoàn 123 của đại đoàn ta. - Theo tài liệu của ban nhân sự thì nó có hai ngàn bảy trăm quân - và cắm nó vào một điểm khác cách một trăm dặm về phía nam. “Như vậy, sau khi chiếm làng Đermôvka, chúng ta tạo nên một thế uy hiếp sườn trái của địch...”. Ông ta lấy một lá cờ tí hon khác tượng trưng cho trung đoàn 39 của đại đoàn ta - gồm hai nghìn một trăm quân theo tài liệu của ban nhân sự, cắm nó xuống cách chín mươi lăm dặm về phía đông nam “Như vậy, trung đoàn 39 sẽ tiến đánh vỗ mặt địch quân, vân vân...”. Ông tổng tư lệnh nheo nheo đôi mắt nhìn bản đồ qua khói thuốc lá thơm và gật đầu đồng ý, vì dù sao đêm qua ông tham mưu trưởng cũng đã suy tính kỹ lưỡng rồi, các đường ngang dọc và các mũi tên đều được kẻ cẩn thận bằng mực đỏ và mực xanh, cho nên dù có cắm cờ thế này hay thế khác thì kết quả cũng vẫn là một: sẽ có một sự di chuyển náo nhiệt trên chiến tuyến, và người ta cũng chỉ đòi hỏi có thế thôi...
- Này, anh bạn ạ, - Tsexnôkôv lắc cái đầu to và hói ngắt lời. - Như thế không còn là phê bình nữa, như thế là đả kích hằn học.
- Ừ thì hằn học... Tại sao tôi lại phải làm thinh trong khi tôi nghĩ đúng như thế... Cả Têlêghin cũng nghĩ như thế, và các chiến sĩ của ta cũng đều nghĩ như thế và nói như thế.
Têlêghin, mồm vẫn ngậm tẩu thuốc, buông một tiếng thở dài nặng trĩu. Trong lòng chính ủy dấy lên một nỗi buồn cay đắng, một mối ngờ vực khiến ông hoang mang bối rối - tất cả những cảm xúc mà ông vẫn cố trấn áp trong lòng mình. Sau mười năm khổ sai, không phải ông đã lạc hậu với cuộc sống, nhưng trong cuộc sống ấy đã xuất hiện quá nhiều điều phức tạp: những luồng nước đục như vậy chỉ mong sao đừng ai dây phải làm gì... Tấm lòng đã trong sáng hẳn lên sau bấy nhiêu năm tù đày khổ cực khó lòng có thể chấp nhận được thái độ nghi kỵ đối với những người đang đấu tranh trong hàng ngũ cách mạng. Gặp một người như thế, ông đem lòng quý mến ngay, nhưng nhiều khi về sau lại thấy đó là một con người thâm hiểm, ngụy trang. Sở dĩ ông có cảm tình với Rôstsin chính là vì chàng hung hăng, bộc trực và không hề mảy may sợ hãi điều gì, dù có chĩa một khẩu đại bác vào chính giữa mặt chàng cũng vậy.
- Thì các chiến sĩ nói gì nào, có gì đặc biệt đâu? - chính ủy hỏi. - Chỉ ít nữa ta sẽ phát áo bông và ủng dạ mới: họ sẽ nói giọng khác ngay. Ai nói? Mấy gã đào ngũ nói à? Mưa ướt thấm xương, bụng rỗng tuếch thì họ phải nói thôi.
- Bao giờ sẽ phát ủng dạ và áo bông? - Rôstsin hỏi.
- Ở Cục hậu cần họ đã hứa chắc với tôi như thế... Tôi đã trông thấy cả phiếu xuất kho... Họ hứa gửi một nghìn rưỡi ngỗng, nửa toa mỡ ướp...
- Thế họ không hứa gửi chả phượng à?
Chính ủy chỉ khẽ đằng hắng, không đáp. Quả nhiên ngoài những lời hứa và những giấy tờ này nọ, ông chưa đem về cho đại đoàn được chút gì. Ông đã đi Xerpukhôv, quát tháo qua điện thoại, đêm đêm chẳng ngủ ngáy gì nữa, cứ đi đi lại lại trong nhà theo cái thói quen từ dạo ở tù... Đã xảy ra một việc gì không thể nào hiểu được, ở bất cứ nơi nào mà lương tri của người cách mạng giục ông đến, ông đều vấp phải một chướng ngại khó hiểu, làm cho mọi việc rối tung lên và đình trệ lại.
- Thế nhưng anh em họ nói cụ thể những gì nào? - chính ủy hỏi. Rôstsin giận dữ gõ ngón tay lên bản mệnh lệnh.
- Trong này có nói là cho hai đại đội đánh chiếm làng Mitrôfanôvka và ấp Đalni, rồi cố thủ ở đấy. Làng Mitrôfanôvka và ấp Đalni ta đã đánh chiếm một lần rồi, theo lệnh của bộ tổng và ngay sau đó đã phải chạy vụt ra như tên bắn. Đến ngày kia sự việc sẽ lặp lại đúng hệt như vậy sau khi ta thi hành những điều viết trong tờ giấy này.
- Sao thế?
- Vì cái vị trí này không thể nào giữ được và lẽ ra không nên đến đấy chút nào.
- Đúng, - Têlêghin gật đầu nói, cả cái tẩu thuốc cũng gật theo.
- Chúng ta sẽ đến đấy, sẽ ném một trăm chiến sĩ vào cuộc hành quân này, sẽ thọc một mũi vào trận tuyến địch, mà không có cách gì liên lạc với đại quân, và đến khi bị ép từ hai bên sườn, ta sẽ lập tức phải nhảy ra khỏi cái bẫy chuột ấy, mà lại phải vượt sông ba lần, mỗi lần như thế tha hồ ăn đạn, sau đó là cánh đồng bằng phẳng trơ trụi: lại tha hồ cho kỵ binh địch chém giết, rồi đến bãi lầy, ở đấy ta sẽ phải bỏ lại một nửa số xe.
- Xin lỗi, chắc hẳn trên bình diện chiến lược chúng ta cần chiếm cái làng và cái ấp ấy vì một mục đích mà chỉ có bộ tổng biết rõ...
- Không có mục đích gì hết... Anh cứ nhìn lên bản đồ thì biết... Chính các chiến sĩ họ nói đúng cái chuyện ấy đấy: những cuộc hành quân của ta trong hai tháng gần đây không hề có chút ý nghĩa gì, cũng không hề có mục đích, không hề có kế hoạch. Chúng ta cứ giẫm chân tại chỗ một cách vô vọng, chúng ta cứ thọc những mũi tấn công vô nghĩa lý, chúng ta mất người, mất lòng tin vào thắng lợi... Rồi anh sẽ thấy: đêm nay sẽ có mấy chục chiến sĩ tự ý bỏ mặt trận cho mà xem... Rồi một tháng sau người ta lại chở họ về để bổ sung cho chúng ta... Cái gì đã xảy ra thế, thử hỏi, việc gì đang diễn ra thế này? Một tình trạng tê liệt.
Cái tẩu của Têlêghin khịt khịt. Chàng nói:
- Hôm nay trong đại đội kỵ binh của đại đoàn bộ có người cho tôi biết một tin là Mamôntôv đâu như đã lại vượt qua sông Đôn và đang hành quân ở hậu phương chúng ta. Có một điều quái lạ là không biết họ lấy tin này ở đâu ra?
Rôstsin cầm bản quân lệnh lên, đôi đồng tử chạy lia lịa trên tờ giấy một lát, rồi ném xuống mặt bàn và lại ngả lưng ra sau tường.
- Rất có thể như thế... Tuy trong này chẳng hề đả động gì đến...
Người liên lạc của đại đoàn bộ, một ông già râu ria, người thấp bé, bước vào phòng, vai đeo một cái túi dết vải bạt bẩn:
- Đồng chí đại đoàn trưởng, có điện thoại gọi riêng đồng chí.
Têlêghin ngạc nhiên nhìn chính ủy, khoác vội cái áo ca-pốt rồi đi ra. Chính ủy nói, tay lại xoa xoa lên trán:
- Rôstsin ạ, nếu cứ nghe anh thì mất hết cả tin tưởng. Vậy thì tình hình ra sao? Trong hàng ngũ ta có sự phản bội chăng?
- Tôi chẳng giả định gì hết, tôi chả khẳng định gì hết. Nhưng tôi biết chắc là cứ tiếp tục đánh nhau với địch theo cái kiểu này thì không thể được.
- Nhưng mệnh lệnh tác chiến vẫn phải được thi hành chứ?
- Đúng, phải thi hành. Ngày mai chính tôi sẽ thi hành...
Chính ủy suy nghĩ một lát rồi cười nhạt:
- Anh muốn đi tìm cái chết chứ gì?
- Điều đó hoàn toàn không liên quan gì đến công việc, mà lại càng không liên quan gì đến anh... Vả lại tôi không có ý muốn đi tìm cái chết... Giá anh về sớm hơn, anh sẽ biết rằng trung đoàn sẽ không chịu thi hành mệnh lệnh ấy. Thế nhưng lại phải làm sao cho họ thi hành... Sự sống còn của một quân đội là ở chỗ thi hành mệnh lệnh tác chiến. Nếu không, mọi sự sẽ sụp đổ hết, sẽ là tình trạng vô chính phủ, là cái chết... chính tôi sẽ đọc mệnh lệnh và sẽ đưa họ đi tấn công... Anh hãy coi cuộc hành quân này là một dịp kiểm tra lại tinh thần kỷ luật... Và đến đây, ta nên chấm dứt cuộc thảo luận...
Têlêghin trở về. Không rút hai tay ra khỏi túi áp ca-pốt, chàng ngồi xuống. Hai mắt chàng tròn xoe.
- Các đồng chí ạ, chủ tịch Hội đồng quân sự tối cao đang đi kiểm tra mặt trận. Một giờ nữa sẽ có mặt ở đơn vị ta...
Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Trời mưa lâm thâm. Toàn thể đại đội kỵ binh và đội cảnh vệ của đại đoàn bộ, hàng ngũ chỉnh tề, đứng đợi trên một bãi cỏ chăn gia súc ở phía sau ấp. Những giọt nước mưa long lanh trên các bờm ngựa chải chuốt cẩn thận và những chiếc áo ca-pốt bạc màu của các kỵ binh. Ngựa cứ giẫm giẫm bộ vó xuống lớp bùn nhão. Càng về sau, mấy con ngựa trông càng giống những cái xác chết trôi mới lôi từ dưới nước lên, xương sườn hằn rõ, xương hông nhô ra, môi chảy xệ xuống... Đại đội trưởng kỵ binh Immerman, cựu trung úy của trung đoàn phiêu kỵ Grôđny, mặt tròn vành vạnh, mũi hếch lên như trẻ con, tuyệt vọng đưa mắt nhìn sang Têlêghin. Thật là nhục nhã! Nhưng thế vẫn chưa đủ, không biết từ đâu chạy ra một con chó con chân to, nhìn hàng quân một cách tò mò đầy thiện ý, và ngồi xuống ngay trước mặt đại đội kỵ binh.
Immerman hết xuỵt lại xua tay, nhưng con chó con chỉ vểnh tai nghe ngóng, đầu nghiêng sang một bên. Vừa lúc ấy người cảnh giới cưỡi ngựa đứng trên ngọn gò cách đấy không xa vội vàng thúc gót ủng vào sườn ngựa, cho ngựa quay lại và phi nước đại nặng nề về phía Têlêghin, bùn bắn tung tóe.
Một cái mũi xe hơi to tướng, bóng loáng, hai ngọn đèn pha cách xa nhau, vụt nhô lên thẳng đứng trên ngọn gò, và một chiếc xe hơi dài, mui trần, màu xám nhạt hiện ra.
Tiếng máy rú inh tai làm cho mấy con ngựa trong đại đội kỵ binh giẫm chân lia lịa và lắc đầu nhớn nhác. Immerman hô: “Nghiêm!” Chiếc xe hơi dừng lại, suýt đè phải con chó con: nó vụt nhảy bật sang một bên như một dúm bông, rồi lại ngồi xuống. Têlêghin cưỡi ngựa đến bên xe, giơ gươm lên chào hú họa một trong ba người mặc quân phục ngồi trên xe, đều mặc áo mưa màu lông bò trùm ra ngoài áo ca-pôt. Người ngồi cạnh lái xe đứng dậy, đặt tay lên trên tấm kính chắn gió và tiếp nhận báo cáo, mắt không nhìn vào Têlêghin.
Rồi ông ta quay ngoắt về phía hàng quân. Hai người ngồi ở ghế sau - người thứ nhất mặt trắng nhợt như tờ giấy, râu ướt sũng, người kia béo phị, hai má phúng phính, vẻ mặt hung dữ, - cùng đứng dậy đưa tay lên vành mũ. Người đứng ở ghế trước cất tiếng nói, giọng như sủa, mặt cứ giây giây lại hất ngửa ra, phô bày hai cái lỗ mũi đen ngòm và làm cho cái kính cặp mũi toát mồ hôi nhảy lên bần bật:
- Hỡi các chiến sĩ, nhân danh chính quyền công nông tôi ra lệnh cho các chiến sĩ mài gươm cho thật sắc và cắm lưỡi lê vào đầu súng cho thật chặt. Trong các chiến sĩ, ai là người không muốn cho ngựa mình uống nước trên dòng sông Đôn êm đềm? Chỉ có kẻ hèn nhát mới không muốn như vậy... Tại sao các đồng chí vẫn còn đứng đây, mà chưa chịu đến nơi ấy? Nước cộng hòa đang chờ đợi những chiến công thần kỳ của các đồng chí. Hãy tiến lên! Hãy đánh ngã quân thù và rắc tro tàn của chúng lên cánh thảo nguyên thân yêu của chúng ta...
Ông ta nói mỗi lúc một hùng hồn hơn, nội dung vẫn đại loại như thế. Nói xong ông đưa mắt nhìn qua hàng quân một lượt, rồi giơ cao quả đấm lên hô: “Ura!”. Các chiến sĩ hô theo, mỗi người một phách. Bài diễn văn ấy làm cho họ hoang mang. Cứ như thể một người trên mặt trăng rơi xuống nói với họ. Lại còn gọi họ là hèn nhát nữa. Gì thì gì, chứ một lời lăng nhục như vậy thì họ không hề ngờ tới.
Ông ta gật đầu ra hiệu gọi Têlêghin đến:
- Tôi không hài lòng về tình trạng của các chiến sĩ trong đơn vị đồng chí: đó là một lũ ăn mày ngồi trên lưng ngựa! Tôi không hài lòng với tình trạng ngựa cưỡi của các đồng chí, đó là một lũ xác ngựa chết trôi! Theo tôi!...
Ông ta rơi phịch xuống ghế bên cạnh người lái xe. Chiếc xe hơi khổng lồ lập tức phóng về phía ấp.
Têlêghin phi ngựa theo, trong bụng bỗng nảy ra một nỗi lo lắng mơ hồ: liệu phen này có thoát được cái án xử bắn không đây?
Chiếc xe hơi dừng lại cạnh nhà của bộ tham mưu dã chiến. Têlêghin, theo sau là Tsexnôkôv, người rập rình một cách vụng về trên yên ngựa, vội vàng phi tới. Trên thềm, người điện thoại viên trực nhật, mặt mày hốt hoảng, đang đứng nghiêm, bàn tay đặt ngang vành mũ run cầm cập. Anh ta đưa mắt van lơn Têlêghin cho phép anh ta nói. Vì cố dùng lối diễn đạt đúng quy chế nhà binh, anh ta ấp a ấp úng mãi mới nói được rằng trước đây một phút bộ tham mưu đại đoàn có gọi điện thoại đến đây (tất cả các văn phòng, tài sản, ngân quỹ và tài liệu lưu trữ của đại đoàn đều đặt ở làng Gaivorôny, cách đây khoảng bốn mươi dặm về phía Bắc). Họ chỉ kịp báo cho anh ta biết rằng có mấy đội tuần tiễu của địch tràn vào làng Gaivorôny, chắc chắn là quân của Mamôntôv. Chỉ nói được đến đấy thì im bặt, đường dây điện thoại đã bị cắt.
Người có đôi má phính - tham mưu trưởng của tổng tư lệnh - nặng nề bò lổm ngổm lên ghế trước, ghé tai chủ tịch hội đồng quân sự nói thì thầm mấy tiếng. Ông chủ tịch gật đầu và ngoái cổ lại nói với Têlêghin qua vai:
- Đồng chí sẽ nhận được chỉ thị của tôi qua bưu vụ dã chiến.
Têlêghin và Tsexnôkôv mãi hồi lâu còn đứng sững ra, im lặng nhìn lên con đường đen xỉn nơi chiếc xe hơi trông như con thú dữ phóng vút đi và tan dần như một bóng ma trong làn mưa mờ mịt.
* * *
Đasa làm việc ở ủy ban hành chính, trong ban cải tạo chất đất, với tư cách trợ lý thứ hai của trưởng phòng đồ án. Khi thì nàng dùng thuốc nước bôi lên bản đồ tỉnh Koxtrôma những vết màu chỉ những nơi dự định sẽ rút khô các bãi lầy, khai thác than bùn và quặng với một số lượng khổng lồ. Khi thì nàng sao lại những bức thư của kỹ sư Gribôxôlôv viết cốt để ủy ban hành chính không lúc nào ngừng phấn khích trước quy mô hùng vĩ của những ý đồ của ông, tuy những ý đồ này hoàn toàn viễn vông, vì ngoài hộp thuốc vẽ, mấy cái bút lông và một ít giấy vẽ ra, ban cải tạo chất đất không còn gì nữa hết: xẻng cũng không, xe cũng không, ngựa cũng không, bơm cũng không, tiền cũng không, nhân lực cũng không.
Đasa hưởng một khẩu phần gồm một lạng bánh mì lẫn cả rơm vụn, đôi khi thêm một ít lá nguyệt quế hay hạt tiêu.
Anixya làm liên lạc trong ủy ban, vì có thành tích chiến đấu cho nên được hưởng một khẩu phần nhỉnh hơn: ngoài nửa lạng bánh mì và một ít hạt tiêu ra còn có một ít cá nữa.
Đồng thời Anixya còn làm việc trong một nhóm kịch và đi nghe những bài giảng phổ cập ở khoa văn sử lúc bấy giờ sơ tán về Kazan. Đối với công vụ chính của mình - ngồi đợi trên chiếc ghế bành kiểu Volter rách bươm đặt trong hành lang bên cạnh cửa phòng ông phó chủ tịch ủy ban - Anixya có một thái độ hết sức trịch thượng: hoặc giả chị cặm cụi ngồi đọc bi kịch Sêkxpir, hai tay ôm đầu để che tai lại, và khi có ai gọi, chị trả lời lơ đãng: “Tí nữa! Tí nữa...”, thậm chí còn gắt khi người ta giục đến lần thứ hai, bảo chị đi đưa một gói thư vào một trong những gian phòng nhiều vô số của ủy ban, bày đầy những bàn và ngồi đầy những người đang tự bày ra việc mà làm; hoặc giả chị đi đâu mất, bỏ chiếc ghế bành đứng trơ ra đấy. Có lần một bà cán bộ có cái mặt bợt như củ khoai tây phê bình chị về điểm đó. Anixya hầm hầm nhìn bà ta nói: “Đồng chí đừng có to tiếng với tôi, lưỡi gươm của bọn cô-dắc tôi còn không sợ nữa là...”. - mắt chị dữ tợn đến nỗi bà kia, một cán bộ trí thức trước đây đã từng hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng phụ nữ, phải thấy là đừng dây vào cái phần tử công nông xấc xược này thì hơn...
Đasa về nhà lúc năm giờ chiều. Anixya thì đôi khi mãi đến khuya mới về. Họ ở trong một ngôi nhà nhỏ trên bờ sông Volga. Kuzma Kuzmits, vẫn nhớ như in lời dặn của Ivan Ilyits là phài cho Đasa và Anixya ăn uống tử tế, lại tiếp tục làm những việc mờ ám để kiếm thức ăn và củi đốt, trái với lương tâm của ông ta, và mặc dầu đôi khi ông cũng thấy vất vả quá: tuổi tác đã vậy, thời tiết mùa thu rét mướt lại khiến cho người ta cứ muốn xa lánh những mối lo toan phù phiếm ở đời để lui về bên lò sưởi ấm áp ngồi trầm tư mặc tưởng về những vấn đề triết học, giữa tiếng mưa rơi dìu dịu trên mái nhà.
Thường thường, khi ánh bình minh in một màu xanh dịu lên khung cửa sổ, Đasa và Anixya uống chén nước chè cà-rốt, ăn dăm ba miếng rồi đi làm. Kuzma Kuzmits rửa chén dĩa rồi vừa đi đổ nước bẩn và quét sàn trong hai căn buồng nhỏ vừa thong thả bắt tay vào bày mưu tính kế, nhiều khi vừa nghĩ vừa thở dài: liệu hôm nay có thể moi được của ai vài quả trứng, một miếng mỡ ướp, một chai sữa, nửa mũ khoai tây... Kuzma Kuzmits không xin xỏ ai - lạy Chúa che chở khỏi nông nỗi ấy! Ông ta chỉ tiến hành một cuộc đổi chác sòng phẳng, đem những tư tưởng triết học và luận lý đổi lấy những chất dinh dưỡng mà thôi. Qua hai tháng ở đây, hầu như khắp thị xã Koxtrôma đều đã biết ông ta, và ông ta cũng đã nhiều lần du lịch vào tận các làng ngoại thành.
Trong khi suy nghĩ, ông ta thường ngồi khâu vá bên khung cửa sổ đang sáng dần. Cuộc sống là một sức mạnh lớn lao. Ngay trong khi đang diễn ra những chuyển biến lịch sử kinh thiên động địa nhất và những trận thử thách gay go 652 nhất con người ta vẫn chui ra khỏi bụng mẹ, đầu đi trước, và gào toáng lên đòi một chỗ đứng trong thế gian này, dù bố mẹ có hài lòng hay không cũng mặc; người ta vẫn phải lòng nhau, mặc dầu những phương tiện bên ngoài của loài người để làm việc này kém xa con gà gô chẳng hạn, khi nó xòe cái đuôi lộng lẫy ra nhảy nhót trên khoảng đất mùa xuân đã tan hết tuyết. Con người ta cần được an ủi, sẵn sàng cắt một nửa ổ bánh mì cho người nào đem lại sự yên tĩnh cho tâm hồn mình đang bị mối ngờ vực giày vò: “Rốt cục ta sẽ đi đến đâu; ăn thì ăn cỏ, chỗ kín thì lấy lá bắp cải mà che sao?” Cũng có người lại rất biết ơn kẻ nào biết nghe họ, hiểu được họ: trước kẻ đó, họ có thể phô bày hết cả cái bầu tâm sự đang sôi sục lên vì căm giận ra, chẳng sợ gì sở an ninh hết.
Kuzma Kuzmits lần lượt đến từng nhà. Ông ta chùi đôi chân lấm bùn trong căn phòng lót tối om và bước vào gian bếp. Cũng có bà chủ nhà giận dữ quát:
- Lại mò đến đấy à, đồ ăn hại! Hôm nay chẳng có gì hết, chẳng có gì đâu...
Lúc bấy giờ Kuzma Kuzmits niềm nở lắc lắc cái mặt đỏ gay và chúm chím đôi môi, đáp:
- Tôi đến hỏi thăm sức khỏe bà Marya Xavvisna đây. Bà ấy mệt lắm à?
- Mệt lắm.
- Bà Anna Ivanôvna ạ, nghĩ đến cái chết chẳng có gì đáng sợ, nghĩ rằng đời mình qua đi một cách phí hoài mới làm cho ta khổ tâm. Ấy, ở đây con người ta mới cần được an ủi. Phải có ai đặt bàn tay lên trán người ta mà nói: đời bà nghèo khổ quá, bà Marya Xavvisna ạ, chẳng nên luyến tiếc làm gì, nhưng bà đã làm lụng vất vả như con kiến hèn mọn nhất suốt đời lúi húi tha cái cọng rơm, chẳng hề được hưởng lấy phút vui nào. Nhưng công sức của con người ta không bao giờ mất đi một cách phí hoài, tất cả đều tích lũy lại: ngôi nhà của loài người mỗi ngày một thêm cao ráo, rộng rãi, và ở một góc nhà nào đấy cái cọng rơm của bà cũng đã góp phần vào đấy. Bà đã nuôi dạy con cháu nên người, nay đời bà đã đến lúc xế chiều: hãy nhắm mắt mà yên giấc ngàn thu. Bà đừng hối tiếc gì hết: bà nghèo khổ chẳng phải tại bà...
Kuzma Kuzmits ngồi trên chiếc ghế đẩu đặt ở cửa ra vào, lời tuôn ra thao thao như suối. Bà chủ nhà đang chẻ củi bỗng buông dao ra, thở dài thườn thượt mấy tiếng liền, hai dòng nước mắt lã chã trên má...
- Mình cứ sống mòn mỏi suốt đời, đến khi chết cũng chẳng ai thèm nói một lời cám ơn...
- Là vì cuộc sống của ta còn bất công... Lẽ ra phải dựng cho mỗi người một pho tượng để nhớ những công lao của người ta... Sau này rồi sẽ như thế đấy bà Anna Ivanôvna ạ, sau này cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn...
- Ở thế giới bên kia chứ gì?
- Không, ở thế gian này chứ...
- Chỉ có một mình ông tốt bụng thôi, ông rồ ạ...
- Đó là nghề nghiệp của tôi, bà Anna Ivanôvna ạ, vả lại tôi chẳng tốt bụng đâu... Tôi chỉ là người tò mò. Con người không cần người ta thương đâu. Con người vốn thích được người khác tò mò muốn biết về mình. Sao, tôi sang nhà bà Marya Xavvisna một chút có được không ạ.
- Ông cứ sang đi...
Vào một nhà như vậy, Kuzma Kuzmits chẳng mấy khi ra đi tay không. Đến tối, khi đã cưa và chẻ một tấm ván lấy được ở nhà ai về, nhóm lò sưởi bên gian của hai cô, thổi cho sạch tro trên cái ấm xamôvar đang reo và đặt nó lên bàn, Kuzma Kuzmits kể lại cho Đasa và Anixya nghe những cuộc bôn ba của mình trong ngày vừa qua.
- Tôi mới có một kẻ kình địch, - ông ta vừa nói vừa thổi lên cái đĩa tách đựng nước chè, - ở đây vừa xuất hiện một lão già, đi lò dò từ nhà này sang nhà khác, mình chỉ mặc chiếc áo bao tải, đi chân đất, râu cố ý để bờm xờm, có một cái mũi có sức gây ấn tượng phi thường, choán hết cả mặt. Tục gọi là ông già Anghel. Cái lão bợm ấy nghĩ ra một câu chuyện hết sức đơn giản, lão xông vào nhà, ngồi bệt ra giữa sàn, bắt đầu lắc lư bên này bên nọ, vừa lắc lư vừa vỗ tay đen đét: “Đấy nhé, thật đáng đời cho mày, Anghel ạ, ai bảo mày không tin, xì, xì... Trông tận mắt, sờ tận tay mà vẫn không tin, xì xì...”. Những người ngồi quanh cứ há hốc mồm ra. Lão ta làm bộ làm tịch một lúc nữa rồi kể: hôm trước vào đêm thứ năm có một người đàn bà chồng đi bộ đội Hồng quân vừa đẻ ra một thằng con trai bu bẫm có đủ cả hàm răng. Người ta tắm rửa cho nó, quấn tã lót rồi trao cho mẹ nó. Mẹ nó cho nó bú nhưng nó không bú, chỉ nhìn mẹ chằm chặp rồi nói: “Mẹ ơi, mẹ ơi, con đã về đây!...”.
Kuzma Kuzmits nhấp tí nước chè trên dĩa tách rồi cười ha hả.
- Cái lão Anghel ấy rồi sẽ tranh mất khách của tôi thôi. Lão hay ghen tị lắm! Hôm nay gặp nhau trong cùng một nhà, lão ấy bắt ngón tay cái lên mũi chế nhạo tôi, nói: sao, Kuzma, chú mày lại đến vét đĩa cho tao đấy à? Hễ còn lẽo đẽo theo tao, sẽ có ngày ăn đòn đấy...
- Ông bỏ hết những trò vớ vẩn ấy đi. Kuzma Kuzmits ạ, - Đasa nghiêm mặt nói - Đi mà làm việc cho chính quyền Xô-viết. Không sao đâu, cứ ăn khẩu phần cũng đủ... chứ không thì người ta đã bắt đầu dị nghị về chúng ta rồi đấy, tôi không chịu được đâu.
Anixya, vừa tỉnh giấc mơ thường lệ, nói:
- Hôm nay tôi vừa gặp một thằng cha đến là khỉ. - Chị quay ra đóng hai vai, mỗi vai một giọng khác: - Tôi đang ngồi, dĩ nhiên là mải đọc sách. Một tay cán bộ ở ban tiếp tế dân sự, người rữa ra, mặt rỗ hoa, mồm méo xệch, đến nói:
“Tôi rất muốn làm quen với ông bác nhà cô”.
“Ông bác nào?”
“Cái ông ở với cô ấy mà, tôi cần đến gặp ông ta để ông ta khuyên nhủ...”
“Ông ấy có khuyên bảo gì ai đâu!”
“Tôi lại nghe nói ngược lại, đó là nhiều người đến gặp ông ta và đã được yên lòng”.
“Đồng chí ạ, tôi không có thì giờ nghe những chuyện vớ vẩn ấy đâu; đồng chí không thấy tôi đang bận đây à?”.
Thế là hắn ghé sát tai tôi nói, bắn cả nước bọt vào mặt tôi:
“Thế cô chưa nghe nói chuyện thằng bé mới đẻ đã biết nói à?”...
“Thôi ông cút về nhà ma đi cho rảnh...”.
“Muốn về nhà ma thì chẳng phải đi xa đâu: đã từ lâu ta ở với ma rồi. - Nhưng thằng bé ấy có phải là Ma-vương phản cơ đốc không nhỉ?”
Hắn nói thế đấy.
- Thật rất khó chịu, rất khó chịu, - Đasa nói.
- Phải, đây là một nơi khỉ ho cò gáy... - Kuzma Kuzmits rót thêm cho mình một cốc nước sôi nữa. - Hoang vắng đến nỗi tai cứ ong ong lên. Nhưng dù sao con người Nga cũng rất ham hiểu biết, mà lại nhạy cảm nữa. Họ có một cái đầu rất quý. Giá họ có được trí thức và có được một con đường đúng đắn để ra khỏi cái mê hồn trận này! Đã lâu tôi cứ muốn bàn với hai cô một điều, nhưng mãi không dám nói, hai cô bạn thân mến, hai cô bạn vô giá của tôi ạ: tôi muốn bàn với hai cô là ta về quách Moxkva.
- Về Moxkva? - Anixya hỏi lại, đôi mắt xanh mở to.
- Về với ánh sáng, với các tư tưởng cao cả, về sống cho gần những sự nghiệp lớn. Tôi xin lấy danh dự mà hứa rằng tôi sẽ bỏ những thói hư tật xấu... Bản thân tôi cũng đã thấy buồn nôn lắm rồi, từ lâu rồi... Đến khi tôi nhìn thấy bức chân dung của mình - ông già Anghel - tôi không thể nào chịu được nữa...
- Về Moxkva, về Moxkva! - Đasa nói. - Ở đấy ta lại còn có cả chỗ chui ra chui vào nữa là khác: chị Katya còn một căn nhà ở chung với một bà già - Marya Kônđratyevna... Có lẽ bây giờ chẳng còn gì nữa cũng nên... Ôi, Kuzma Kuzmits thân mến, ta đi đi, đừng trì hoãn nữa. Ở đây chỉ vì những thứ bánh mì nướng của ông mà chúng ta đang để mất tất cả những gì quý giá nhất. Cả ông nữa cũng khác đi, tệ đi... Ông ạ, đến Moxkva ta sẽ xin ngay cho Anixya vào trường kịch...
Nghe nói thế, Anixya lặng thinh, chỉ đỏ mặt và cụp đôi mi xuống.
- Kuzma Kuzmits ạ, mai ông đi hỏi ngay nhé, xem có chuyến tàu thủy nào đi Yarôxlavl không...
Đasa xúc động quá không nói được nữa, chỉ thở dài, Kuzma Kuzmits ngồi co ro, hai bàn tay đặt trước bụng, ngẫm nghĩ. Ông ta suy tính là ở Moxkva có lẽ về phương diện cấp dưỡng cho hai người đàn bà cũng không đến nỗi gay go lắm; cùng lắm cũng còn có thể dùng đến mấy viên kim cương của Đasa mà ông đã bí mật cất đi... Vả lại khi rời Koxtrôma cũng có thể mang theo vài yến bột mì tiểu mạch... Mà sao hôm nay ông ta lại buột miệng nói ra cái chuyện đi Moxkva thế không biết! Ừ thôi đã nói ra thì còn biết làm thế nào. Vả chăng cũng càng tốt chứ sao?... Và trong óc ông ta đã nhẩm viết một bức thư phân trần với Ivan Ilyits (Gần đây chàng có gửi một tờ bưu thiếp ngắn cho biết chàng vẫn sống, vẫn khỏe, rất yêu Đasa và hôn nàng).
Anixya, khuỷu tay chống lên bàn, ngồi nhìn ngọn đèn leo lét, và mường tượng thấy cái cầu thang trong lâu đài Macbeth (giống như cái cầu thang ở trụ sở ủy ban) mà nàng đang bước xuống, hai vai để trần, tà áo lụa kéo lê sau chân, và lau mãi hai bàn tay vấy máu; hoặc giả lại thấy hiện lên cỗ quan tài gỗ thông (giống cái thùng dài), trong đó nàng tỉnh dậy và trông thấy xác Rômêô và lọ thuốc độc bên cạnh chàng...
Ba người cứ thế ngồi bên nhau quanh cái ấm xamôvar đang khe khẽ hát. Mưa đêm hắt rào rào từng đợt lên mấy tấm kính cửa sổ. Nhưng họ còn thiết gì nghĩ đến mưa gió, đến căn nhà tồi tàn, đến cảnh túng thiếu nhất thời này? Lòng họ đang nhiệt thành và quả quyết gõ cửa cuộc đời, như thể họ thấy mình trẻ mãi không già...
* * *
Têlêghin vẫn tự cho mình là người điềm đạm: gì thì gì chứ rối trí đến mất hết tự chủ thì không bao giờ. Thế nhưng lần này không biết cơ sự ra sao mà không hề suy nghĩ gì hết, như thể bỗng dưng mê muội hẳn đi, chàng đưa mấy ngón tay lóng ngóng mở nắp bao da, rút khẩu súng lục ra áp đầu nòng vào đầu và bóp cò. Súng không nổ, vì đã có ai lấy hết đạn ra rồi, chẳng biết để làm gì.
Rôstsin và chính ủy Tsexnôkôv quay phắt lại và tuôn ra một tràng những lời mắng nhiếc cay độc nhất, gọi chàng là đồ nhãi con, đồ trí thức, đồ giẻ rách, thậm chí lau đít cho ngựa già cũng chẳng sạch.
Việc này xảy ra trên một cánh đồng nơi họ vừa xuống ngựa bên cạnh một đụn rạ đã đen xỉn lại vì dầm mưa. Đại đội kỵ binh và đội cảnh vệ của đại đoàn bộ, bấy giờ cũng cưỡi ngựa, đang dừng lại cách đấy không xa. Cả đại đoàn của Têlêghin nay chỉ còn có thế.
Lữ đoàn của Mamantôv tiến công thành một chiến tuyến rất rộng đánh vào sau lưng đại đoàn, cắt hết mọi đường liên lạc, phá hết các đường giao thông, xông vào làng Gaivorôny hủy diệt các kho lương thực và đạn dược; chỉ trong mấy ngày hậu phương của đại đoàn đã biến thành một cõi hỗn mang, trong đó các đơn vị tản mác và từng chiến sĩ đơn độc, không hề có chút liên lạc gì với chỉ huy sở, đều hối hả rút lui, lẩn trốn, đi lang thang vô định.
Hai trung đoàn bộ binh chưa kịp định thần lại đã bị kẹp chặt giữa hai gọng kìm: phía sau thì quân Mamantôv thốc vào lưng, phía trước thì bộ binh cô-dắc sông Đôn đánh vỗ mặt. Họ bỏ mặt trận chạy tán loạn.
Quy mô của thảm họa này lộ rõ dần dần, từng ít một. Têlêghin cùng với đại đội kỵ binh và đội cảnh vệ đại đoàn bộ cưỡi ngựa đi tìm đại đoàn của mình. Chàng vẫn còn nuôi hy vọng thu nhặt lại được ít nhiều tàn quân, tình trạng hốt hoảng đã qua, Mamantôv đã đi xa. Nhưng chẳng bao lâu chàng thấy rõ rằng dưới bầu trời màu chì, trên những cánh đồng rạ ướt sũng và những khoảng đất cày lầy lội, trong những lũng đất và những khóm rừng phủ kín sương mù, đều không thể tìm thấy một ai được... Người thì đã đi tìm một đơn vị ứng chiến nào đấy để gia nhập, người thì tản vào các ấp trại đứng dưới cửa sổ xin phép vào sưởi, lại cũng có người chỉ chờ có cơ hội này để chuồn đi thật xa, đi thẳng về nhà, về với vợ con, bò lên lò sưởi mà nằm cho ấm.
Hai chiến sĩ của trung đoàn 39 đã kiệt sức phải ngồi lại dưới một đụn rạ, đã kể cho Têlêghin, Rôstsin và Tsexnôkôv, lúc bấy giờ vừa cưỡi ngựa đến, một câu chuyện thật đáng buồn...
- Thôi, cưỡi ngựa đi khắp đồng như thế chỉ uổng công, chẳng tìm được ai đâu. - một người nói. - làm gì còn trung đoàn nữa mà tìm!
Người kia, vẫn ngồi quay lưng vào đụn rạ, nhe răng ra:
- Chúng nó bán đứt chúng ta rồi, trước sau chỉ có thế... Sao? Dễ chúng tôi không hiểu các mệnh lệnh tác chiến đấy! Chúng tôi hiểu hết: chúng nó bán đứt rồi. Bộ tư lệnh! Đ.. mẹ chúng nó! Chúng nó lót đế ủng bằng bìa! - Anh ta ngo ngoe mấy ngón chân thò ra ngoài mũi ủng. - Thế là hết đi đánh nhau... Hết thật rồi... Amen!
Chính trên đụn rạ này Têlêghin đã ngã lòng. Trong ký ức chàng hiện lên cái mũi xe to tướng với hai ngọn đèn pha xoạc rộng ra hai bên. Thôi còn thanh minh làm gì nữa. Với cái tính thật thà lười biếng của chàng, chàng đã làm hỏng hết, đã đánh vỡ hết, mất hết...
- Các anh khoan hẵng quát mắng tôi, - chàng nói với Rôstsin và Tsexnôkôv. - Vâng, quả tôi đã yếu đuối, đã hèn nhát, vâng, tôi có lỗi... - Chàng nhăn mặt ghê tởm, bỏ khẩu súng vào bao. - Suốt đời tôi đã gặp may, biết thế nào cũng có lúc phải bù lại... Thôi được, cứ để cho tòa án cách mạng họ xét xử.
- Ồ, cậu là cái quái gì, vấn đề bây giờ đâu có phải là cậu? - Rôstsin quát vào mặt chàng, mấy thớ thịt trên má rung rung. - Bây giờ cậu đưa đội kỵ binh đi đâu? Về phía đông hay về phía tây? Cậu dự tính thế nào đây? Nhiệm vụ trước mắt là gì? Nghĩ đi!
- Đưa bản đồ đây...
Têlêghin giận dữ cầm lấy tấm bản đồ trong tay Rôstsin, rồi vừa xem vừa lẩm bẩm chửi những câu rất tục nhắm vào bản thân chàng. Những tên thành phố, tên sông, tên làng cứ nhảy múa trước mắt chàng. Cuối cùng chàng cũng trấn tĩnh được. Sau khi bàn bạc, ba người quyết định đi về phía đông tìm gặp các đơn vị của Quân đoàn thứ Tám.
Từ đấy cho đến tối họ cho ngựa chạy nước kiệu, trừ những nơi không thể đi nhanh được, Đến khi trời đã tối mịt không còn trông thấy tai ngựa trước mặt nữa, họ phái một đội trinh sát đi tìm thôn Rôjđextvenxkôiê, chắc hẳn chỉ quanh quẩn đâu đây thôi, nhưng tối quá không trông thấy gì. Họ dừng lại, và vẫn ngồi trên lưng ngựa, họ chờ đợi hồi lâu. Vađim Pêtrôvits cho ngựa nhích lại gần ngựa Têlêghin, chạm đầu gối vào đầu gối chàng.
- Sao? - Rôstsin hỏi, - có lẽ dù sao cậu cũng nên nói rõ đi chứ?... Nói chuyện với cậu một chút có được không?
- Được.
- Vừa rồi cậu bày ra cái màn kịch ấy để làm gì?
- Kịch nào thế Vađim?
- Với khẩu súng không có đạn ấy mà...
- Anh điên rồi à!... - Ivan Ilyits chồm hẳn người về phía Rôstsin, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài một mảng mờ mờ với hai cái hốc mắt đen ngòm. - Vađim, thế ra không phải anh lấy đạn ra à?
- Không phải tôi lấy đạn ở súng của cậu ra... Tôi bắt đầu nghĩ là cậu khôn hơn người ta vẫn tưởng...
- Tôi không hiểu anh muốn gì... Tôi đã có phút hèn nhát... Ở đây có gì liên quan đến chuyện khôn ngoan?... Lẽ ra anh đừng nhắc đến việc ấy mới phải...
- Cậu đừng quanh co, đừng quanh co...
Hai người đều nói rất khẽ. Toàn thân Rôstsin run bắn lên như con chó săn bị giữ chặt lại ở đầu dây tròng.
- Cả đại đội kỵ binh đã trông thấy rất rõ cái cảnh bỉ ổi bên đụn rạ... Cậu có biết họ nói gì không? Họ bảo cậu đóng kịch đấy... Để chuộc lấy cái mạng trước tòa án binh mà...
- Anh nói gì lạ thế?
- Không, cậu phải nghe đây! - Con ngựa của Rôstsin bắt đầu nổi nóng. - Cậu phải trả lời tôi hết sức thật tâm... Những ngày như thế này chính là lúc con người được thử thách... Vừa qua cậu có chịu đựng được cuộc thử thách ấy không? Cậu có hiểu rằng cậu đang mang một vết nhơ không? Cậu không có quyền mang một vết nhơ...
Con ngựa của Rôstsin, trong khi cựa quậy, quật đuôi lên trúng vào mặt Têlêghin một phát rất đau, Têlêghin liền quát lên, giọng khản đặc, cổ như nghẹn hẳn lại:
- Lùi ngay ra!... Tôi chém chết bây giờ...
Lập tức có tiếng chính ủy Tsexnôkôv nói trong bóng tối:
- Thôi các cậu đừng cắn nhau nữa, chính tôi lấy đạn ra đấy.
Rôstsin và Têlêghin không ai nói gì nữa. Không nhìn thấy nhau, họ vẫn thở hổn hển, một người vì nỗi bị lăng nhục tàn nhẫn, người kia thì hãy còn run lên vì căm giận.
Trong bóng tối bỗng vang lên những tiếng quát ngắn gọn như những phát súng.
“Đứng lại! Đứng lại!”
“Ai?”
“Buông ngay!”.
“Quân nào?”
“Chúng tôi là quân ta, còn các anh là quân nào thế hả?”
Đó là một cuộc chạm trán bất ngờ giữa hai đội trinh sát. Mấy kỵ binh cứ quay vòng quanh nhau, không dám tuốt gươm trong bóng tối quá dày đặc, mà cũng không chịu rời nhau ra vì đã bắt đầu cay cú, họ quát tháo chửi rủa, tuy chỉ nghe những câu chửi họ cũng đã bắt đầu cảm thấy rằng cả hai bên đều là quân ta, đều là hồng quân cả.
“Sao lại nắm lấy cương của người ta!...”
“Đơn vị nào?...”
“Hỏi cái mả mẹ mày ấy! Chúng tao là một đơn vị kỵ binh lớn”.
“Đơn vị các anh đâu?”
“Đi theo chúng tao!”
Mãi một lúc sau hai đội trinh sát mới nguôi hẳn và điềm tĩnh cưỡi ngựa đi về phía đại đội kỵ binh. Té ra thôn Rôjđextvenxkôiê rất gần đây, chỉ cách một khóm rừng và một con ngòi. Khi nghe hỏi đơn vị nào đang đóng trong thôn, một người trinh sát ở đội bên kia trả lời không lấy gì làm lễ độ cho lắm:
- Đến nơi rồi sẽ biết.
* * *
Trong ngôi nhà bằng gỗ súc, Xêmiôn Mikhailôvits Buđionny và hai sư đoàn trưởng của ông đang ngồi uống trà quanh cái bàn có đặt một cái ấm samovar lớn. Trông thấy Têlêghin, Rôstsin và Tsexnôkôv vào, ông vui vẻ nói:
- À, quân tiếp viện đây rồi. Chào các anh. Ngồi xuống đây uống trà với chúng tôi...
Họ đến cạnh bàn bắt tay Buđionny đang ranh mãnh nhìn anh đại đoàn trưởng lang thang và bộ tham mưu của anh ta (ông đã biết rõ mọi việc), bắt tay sư đoàn trưởng sư đoàn Bốn, người thấp bé nhưng có bộ ria khủng khiếp có thể vắt ra sau tai được, bắt tay sư đoàn trưởng sư đoàn Sáu có bàn tay hộ pháp: trong khi bắt tay từng người, ông bóp mạnh đến nỗi dù tay họ có là cái móng ngựa cũng phải oằn lại. Gương mặt trẻ trung và hồng hào của ông thể hiện một tính điềm đạm không gì lay chuyển nổi.
Xêmiôn Mikhailôvits hỏi thăm xem họ đã bố trí chu đáo chỗ nghỉ đêm cho đơn vị họ chưa, có khiếu nại hay yêu cầu gì nữa không. Rôstsin đáp rằng họ đã phân phối chỗ nghỉ trong chừng mực có thể, và không có điều gì khiếu nại cả.
- Không à? Thế thì càng tốt, - Buđionny đáp: ông biết rất rõ rằng trong làng này, nơi lữ đoàn kỵ binh của ông dừng chân đêm nay, dù chỉ một con ruồi cũng không kiếm đâu ra một chỗ mà ngủ cho tử tế. - Kìa sao các đồng chí cứ đứng thế, lấy cái ghế dài lại đây mà ngồi. Tôi vẫn nhớ đồng chí lắm đấy Têlêghin ạ, từ cái hồi đồng chí đánh cho bọn cô-dắc sông Đôn một trận tơi bời... Ê hề!... - Và rất hài lòng, Buđionny nheo nheo đôi mắt nhìn mấy người ngồi quanh bàn. Sư doàn trưởng sư đoàn Sáu điềm tĩnh gật đầu, xác nhận rằng quả nhiên dạo ấy bọn cô-dắc sông Đôn đã bị đánh một trận tơi bời; sư đoàn trưởng sư đoàn Bốn cũng gật đầu, gương mặt giống người Kalmưk vẫn giữ nguyên vẻ kiêu hãnh, lạnh lùng. - Thế là lần này Mamantôv lại đánh các anh một trận hơi đau đấy. Thế cùng đi với các anh là một đội cảnh vệ đại đoàn bộ hay là một đơn vị chiến đấu?
- Một đơn vị chiến đấu, một đại đội kỵ binh có tăng cường, - Têlêghin nói.
- Ngựa ra sao?
- Ngựa rất tốt, - Rôstsin đáp nhanh, - chân trước đều đóng móng cả.
- A! Lại đóng móng chân trước nữa cơ đấy! - Buđionny ngạc nhiên. - Theo tôi, các đồng chí đi tìm Quân đoàn Tám làm gì xa thế, có lẽ nó không còn ở chỗ cũ nữa đâu...
- Tôi phải trình báo cáo lên tư lệnh quân đoàn, - Têlêghin nói.
- Cứ trình báo cáo cho tôi... Thế nào, các đồng chí sư đoàn trưởng, ta thu nạp đồng chí đại đoàn trưởng này với cả cái đại đội tăng cường của đồng chí ấy chứ?
Cả hai ông sư đoàn trưởng đều gật đầu tán thành. Buđionny lấy trong cái hộp sắt tây con con ra một dúm thuốc lá và bắt đầu cuốn hút.
- Các anh chẳng phải đi đâu xa, - ông nhắc lại - Cứ sát nhập vào lữ đoàn chúng tôi. Vừa qua tôi với hai đồng chí sư đoàn trưởng đây cứ ngồi nghĩ mãi, nghĩ xong thì quyết định: ngựa của chúng tôi phát phì ra, chiến sĩ của chúng tôi ngồi không mãi đã phát chán. Vậy chúng tôi sẽ đi lên phía Bắc tìm tướng Mamontôv. Thế là cả hai bên đều cắm cổ chạy: Mamontôv thì chạy cho thoát chúng tôi, còn chúng tôi thì chạy theo hắn.
Buđionny nói đùa như thế chứ thật ra tình hình rất nghiêm trọng. Được tin lữ đoàn Mamontôv đánh thọc qua chiến tuyến đỏ, ông đã liều mạng không chịu tuân theo mệnh lệnh của Chủ tịch Hội đồng quân sự tối cao buộc ông phải tiếp tục thi hành đúng cái kế hoạch tác chiến mà đến nay ai cũng thấy rõ là ngu xuẩn và đã mất tín nhiệm từ lâu, nếu không nói là một kế hoạch phản bội; và đã tự ý xuất quân đuổi theo Mamontôv. Buđionny và các sư đoàn trưởng của ông đều hình dung rất rõ ở văn phòng tổng tư lệnh những cây bút sắt đang két lên một cách giận dữ như thế nào, và những lời hăm dọa sặc mùi tử khí như thế nào đang chờ họ ở đầu dây bên kia của tuyến điện báo trực tiếp. Nhưng họ quý trọng việc cứu thoát Moxkva hơn cả cái đầu của họ. Mà muốn cứu Moxkva thì họ chỉ thấy có một cách duy nhất là đuổi theo Mamontôv và đánh tan đoàn kỵ binh ưu tú nhất của bạch quân ấy đi. Họ không chút nào hồ nghi rằng đoàn kỵ binh ấy sẽ không sao chống nổi cuộc công phá của bảy nghìn tay kiếm trong lữ đoàn Buđionny và sẽ nằm phơi xác ở một nơi nào đấy trên những cánh đồng chạy dài từ sông Txna đến sông Đôn. Cái khó nhất là làm sao đuổi cho kịp Mamontôv, lúc bấy giờ đã tiếp thụ cái phong tục của thổ phỉ là đến làng nào, trại nào cũng đổi những con ngựa kiệt sức lấy ngựa mới.
Trong các trung đoàn dũng cảm nhưng phóng đãng của Mamontôv số quân lớn hơn số quân của Buđionny khá nhiều. Nhưng Mamontôv không muốn đọ sức với Buđionny. Y rất gờm kẻ đối thủ đang đuổi theo sau lưng y: đây không còn là một đội quân du kích cưỡi ngựa nữa, mà là một cái gì hết sức đáng sợ - lạy Chúa đừng để ai vấp phải một đạo quân như thế giữa đồng không: đó là một đạo kỵ binh Nga chính quy. Buđionny di chuyển chậm hơn, nhưng khôn ngoan hơn: khi thì ông chọn một con đường ngắn hơn hay thuận tiện hơn, khi thì ông ép Mamontôv vào những nơi khó kiếm lương thảo và ngựa mới.
Cuộc săn đuổi này tiếp diễn hết ngày này qua ngày khác - một trò chơi chết người giữa hai đạo kỵ binh hùng mạnh. Đường đi của Mamontôv được đánh dấu bằng những cái ráng đỏ của những đám lửa cháy nhà hắt lên đám sương mù mùa thu. Y lần lượt lao vào các đơn vị hậu tuyến của hồng quân rồi lập tức nhảy sang một bên. Nhưng rồi cuối cùng Buđionny cũng đã lừa được y và đuổi kịp y. Một buổi sáng sớm, khi những đường viền kẻ bằng bút chì than của những cây dương liễu già mới chỉ hiện lên mờ mờ trong các vườn rau, Xêmiôn Mikhailôvits dẫn một đại đội kỵ binh xông vào cái xóm nghèo nơi Mamontôv nghỉ lại đêm qua.
Nhưng ngay lúc ấy ở cuối làng mé bên kia, một cỗ xe thắng ba con ngựa hồng lao ra khỏi cổng và chạy biến đi. Ngồi quay người lại trên cỗ xe không mui, Mamantôv, đầu để trần, áo ca-pốt chưa kịp cài khuy, bắn mấy phát vào người kỵ binh để ria mép mặc áo burka đen đang dẫn đầu tốp người ngựa rượt theo xe: y đã nhận ra Buđionny, nhưng khẩu các-bin cứ nhảy bần bật trên tay y. Quân đỏ đuổi riết, nhưng ba con ngựa hồng sông Đôn phi như gió kéo cỗ xe đi xa dần.
Trong xóm hãy còn vang lên những tiếng quát tháo man dại, những tiếng vũ khí va vào nhau chan chát: đó là những tên cô-dắc trong đội vệ binh của tướng Mamontôv đang chống cự đến cùng. Trong khi lục soát trong xóm, quân Buđionny bắt đầu lùa từ khắp các xó xỉnh ra đường làng một tốp người hồn xiêu phách lạc đi đâu hết, người thì chỉ mặc quần lót, người thì chỉ mang một chiếc ủng. Sau mới biết đó là mấy anh nhạc công. Các chiến sĩ quây quanh họ cười cợt. Xêmiôn Mikhailôvits phi ngựa về, nghe nói thế, liền bảo họ đưa nhạc cụ ra.
Thấy quân bolsêvík không chém giết họ mà chỉ cười ha hả, các nhạc công hấp tấp chạy về nhà mặc áo quần tử tế rồi mang nhạc cụ ra: nào những chiếc hêlicôn khổng lồ, nào co, nào cornê, nào trompét: kèn của họ toàn bằng bạc sáng loáng. Quân sĩ Buđionny cứ tặc lưỡi mãi, trố mắt ra nhìn. Thật là một chiến lợi phẩm tuyệt vời!
- Thôi cũng được. - Xêmiôn Mikhailôvits nói, - chó ghẻ cũng còn lấy được chùm lông lành... Này thế các anh có biết thổi bài “Quốc tế ca” không?
Các nhạc công ấy thì muốn thổi gì cũng thổi được tất: trong bọn họ có những người đã học qua Nhạc viện Moxkva. Đã một năm rưỡi nay họ chạy hết thành phố này sang thành phố khác đi tìm miếng ăn, luôn luôn phải trốn tránh những cuộc vây ráp, những cuộc hỏi cung và và những trận bắn nhau trên đường phố. Rốt cục ở Roxtôv họ bị trưng tập vào quân đội. Ông nhạc trưởng có cái mũi xốp xồm xộp thậm chí còn tuyên bố rằng ông ta là một nhà cách mạng già kiên định. Nhìn cái mũi màu xám tim tím của ông ta, họ tin rằng con người này sẽ không làm điều gì tai hại.
Một lần nữa Mamantôv đã lại tránh cuộc giao chiến. Bằng một cuộc chuyển quân nhanh chóng, lữ đoàn của y bứt ra khỏi quân Buđionny. Cuộc săn đuổi lại tiếp tục. Nhưng bây giờ ý đồ của Mamantôv đã rõ: vượt qua chiến tuyến đỏ về phía quân mình. Đó là điều mà Buđionny sợ hơn cả: nếu y làm được như vậy, cả cái chiến dịch này chỉ công cốc, và lúc bấy giờ không còn biết ăn nói ra sao trước tổng tư lệnh và càng không có cách gì tự bào chữa trước Hội đồng quân sự tối cao nữa.
Có một cái tệ nữa là không sao bắt được liên lạc với bất cứ nơi nào, để biết rõ những gì đang xảy ra xung quanh... Cuối cùng họ đến một con đường sắt. Buđionny cùng với tham mưu trưởng và chính ủy của ông phi lên trước, đi vào nhà ga và ngồi vào máy. Qua những đường dây điện thoại Buđionny nhận được những tin tức bất ngờ đến nỗi ông lập tức cho gọi các sư đoàn trưởng và các cấp chỉ huy đơn vị từ đại đội trở lên đến nhà ga.
Họ tụ tập trong phòng giải khát. Qua những khung cửa sổ lớn đã mất kính có thể thấy rõ các đại đội kỵ binh xếp thành đội ngũ hành quân đang tiến lại gần và vượt qua đường sắt. Sau lưng họ vầng tà dương hắt ra một dải ánh sáng ảm đạm mấp mé chân trời, bị một lớp mây đen dày đè lên nặng trĩu. Từng hàng kỵ binh, những lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phơ trên ngọn dáo, đang đi lên dốc đường tàu. Bóng họ như những pho tượng đồng đen, dũng mãnh lạ thường trên lưng những con ngựa dũng mãnh. Têlêghin phải kinh ngạc khi trông thấy gương mặt Vađim Pêtrovits lúc bấy giờ đang nhìn ra cửa sổ. Trong ánh chiều tà, gương mặt ấy ngưng đọng lại trong một niềm kiêu hãnh say sưa.
- Lẽ ra từ đầu ta phải biết tổ quốc là như thế nào... - chàng nói rất khẽ, giọng trầm trầm. Ivan Ilyits nhích lại gần để nghe cho rõ: - chúng ta quên mất điều đó. Không có một tử hình nào đủ để trừng phạt một sự phản bội như thế... Hãy hôn lên mảnh đất để tạ ơn tổ quốc đã tha thứ cho mình...
Sau cuộc xung đột bên đụn rạ, đây là lần đầu tiên Vađim Pêtrôvits nói như vậy. Têlêghin hiểu rằng chàng đang rất khổ tâm, và sở dĩ chàng không nói gì, không phải vì kiêu hãnh, mà vì tuyệt vọng khi thấy rõ mình không còn cách gì để xin lỗi Têlêghin - chẳng lẽ chỉ nói: “Ivan, mình xin lỗi cậu”? Giờ đây, trong trạng thái mệt mỏi và căng thẳng kéo dài, Rôstsin đã đi đến cái giây phút mà lòng chàng tràn đầy nỗi xúc động của một người đã có lại được tổ quốc, cái tổ quốc mà mình đã để mất, đã quên lãng đi. Và đó cũng là lời cầu xin tha thứ của chàng...
Ivan Ilyits ho húng hắng. Chàng cũng muốn nói một lời thân ái với Rôstsin, để xóa hẳn câu chuyện xích mích rồ dại ấy đi, coi như không hề xảy ra bao giờ... Vừa lúc ấy Buđionny từ phòng điện báo bước ra. Các cấp chỉ huy vội quây quần xung quanh ông. Buđionny nói:
- Có nhiều tin tức quan trọng các đồng chí ạ... Ta hãy nói tin dữ trước, Orel đã bị Kutepôv chiếm. Trinh sát của hắn đã mon men đến Tula. Với đợt tấn công này, hắn đã chọc sâu một mũi vào trận tuyến của ta. Quân đoàn Tám và quân đoàn Chín đã bị đánh bật về phía đông. Quân đoàn Mười và quân đoàn Mười ba đã bị đánh bật về phía tây... Đấy là vào tuần trước. -Buđionny im lặng một lát, đôi mắt vui vẻ long lanh. - Từ bấy đến nay tình hình đã có nhiều thay đổi, các đồng chí ạ... Trước hết, xin báo để các đồng chí mừng: toàn thể bộ Tổng tư lệnh đã được thay thế. Và ông chủ tịch Hội đồng quân sự tối cao không còn làm vương làm tướng ở Mặt trận miền Nam nữa... Quân ta đã chiếm lại Orel... Các trung đoàn lừng danh của Kornilôv, Markôv và Đrozđôv đã bị đánh tan giữa Orel và Kronny... Những điều mà ta vẫn mong đợi từ lâu nay đã bắt đầu... Hiện nay chưa rõ những chi tiết, nhưng có một tập đoàn ứng chiến đặc biệt đang hoạt động có hiệu quả chống lại quân của Kutepôv...
Xêmiôn Mikhailôvits lại im lặng, tay vân vê băng điện báo, bộ ria nhích nhích, đôi mắt diều hâu nhìn qua những người chỉ huy đang đứng xung quanh.
- Những cuộc hành quân của lữ đoàn ta đã được tiến hành không phải theo mệnh lệnh của bộ tổng tư lệnh, mà ngược lại với mệnh lệnh đó... Chúng ta được lệnh tiến về phía Nam, vào cánh thảo nguyên vùng Xalxki, tới sông Mannyts, nơi quân đoàn Mười suýt bỏ xác, nhưng chúng ta đã tiến lên phía Bắc. Đáng lẽ phải ở tả ngạn sông Đôn thì ta lại ở hữu ngạn sông Đôn. Đáng lẽ phải tránh cho xa đạo kỵ binh sông Đôn, thì ta lai bám riết lấy đuôi nó: như thế là không tốt, không được!... Còn như cái ý kiến thô lậu của chúng ta, thì những cái dầu mu-gích, những cái đầu cô-dắc của chúng ta không được có ý kiến riêng gì hết, ở bộ tham mưu tổng tư lệnh đã có những đầu óc sáng suốt nghĩ thay cho chúng ta... Thế là chúng ta cứ đi, và những bản mệnh lệnh của tổng tư lệnh cứ lẽo đẽo đi theo chúng ta. Tôi không cầm những bản mệnh lệnh đó, tôi không đọc: nếu đọc thì e đến rụng rời chân tay, gươm buông đằng gươm, súng buông đằng súng. Tuy vậy, dù muốn dù không, mệnh lệnh vẫn đã đuổi kịp tôi... Một mệnh lệnh không nhiều lời... - Ông chăng dải băng điện báo ra cho nó khỏi xoắn lại, rồi đọc: - “Gửi lữ đoàn trưởng Lữ đoàn kỵ binh Buđionny. Những tài liệu trinh sát mới nhất cho thấy đạo kỵ binh địch đang di chuyển từ khu Voronej lên phía Bắc. Tôi ra lệnh cho lữ đoàn trưởng kỵ binh Buđionny đánh tan đạo quân kỵ binh này của địch...”. Chỉ có thế. Thật là ngắn gọn và đơn giản. Như thế tức là đầu óc chúng ta đã nghĩ đúng - Mệnh lệnh này ký tên Xtalin, chủ tịch hội đồng quân sự cách mạng Mặt trận miền Nam, ban hành tại bản doanh bộ tổng tư lệnh ở Xerpukhôv.
* * *
Katya đã trở về Moxkva, trở về với chính cái ngõ Xtarokônyusenny trên phố Arbat, trong ngôi biệt thự nhỏ có cái nhà chòi ở phía trên (hồi đầu chiến tranh Nikôlai Ivanôvits Xmokôvnikôv đã cùng Katya từ Pêterburg đến đây, và hồi ở Pari về Katya cũng ở đây), cũng trong gian phòng mà hôm an táng Nikôlai Ivanôvits nỗi chán chường vô hy vọng đã từng kết tụ lại dày đặc trên cuộc đời nàng. Hôm ấy, đắp tấm áo lông nằm trên giường, nàng đã không muốn sống nữa... Sau mấy tiếng thở dài, nàng đã đứng dậy, đi sang phòng ăn lấy ít nước để uống morphin, và trong bóng hoàng hôn nàng đã chợt nhìn thấy cuộc đời thứ hai của nàng: Vađim Pêtrôvits đang ngồi ở phòng ăn đợi nàng...
Thế rồi cái chu kỳ thứ hai của đời nàng - một quãng đời căng thẳng, chan chứa tình yêu, đầy những nỗi khổ, - đã lại khép kín. Phía sau lưng nàng để lại một chặng đường dài dằng dặc đầy những tổn thất không thể nào hàn gắn lại được. Katya đã cảm thấy như thế một cách xót xa nhất là khi nàng xách cái gói nhỏ đựng quần áo bước ra khỏi nhà ga Kiev ở Moxkva, hồi giữa tháng bảy... Trên sông Moxkva, mấy đứa trẻ đang lội bì bõm trong dòng nước đã rút cạn, và tiếng cười nói của chúng vang lên lanh lảnh giữa cõi im lặng; trên bờ, một ông già cầm cần câu ngồi yên trên lớp cỏ tàn úa; bước ra đại lộ Xadôvaia mà bao nhiêu dãy song sắt rào quanh các sân nhà đều đã biến đi đâu hết, Katya phải kinh ngạc trước sự im lặng khác thường bao trùm lên khắp đại lộ: chỉ có tiếng lá rì rào của rặng cây bồ đề cổ thụ đang trang trọng phủ bóng rợp xanh um lên những ngôi biệt thự vắng vẻ; phố Arbat xưa kia đông đúc nhộn nhịp là thế, mà nay không có một bóng tàu điện hay xe ngựa thuê, chỉ lác đác vài người qua đường cúi đầu đi giữa mấy đường tàu ray han rỉ. Katya đến ngõ Xtarokônyusenny, rẽ vào và cuối cùng đã trông thấy ngôi nhà của mình. Chân tay khuỵu xuống. Nàng đứng hồi lâu trên vỉa hè đối diện. Trong kỷ niệm nàng vẫn hình dung ngôi biệt thự nhỏ này rất đẹp, màu hoàng kim lấp lánh, với dãy cột trắng bóng, với những khung cửa sổ sạch sẽ buông rèm. Hình bóng của Katya, của Vađim Pêtrôvits, của Đasa đã từng sống ở đây... Chẳng lẽ tất cả những cái gì đã từng có nay đều mất đi không còn để lại một dấu vết nào? Chẳng lẽ cuộc sống lại trôi qua như một giấc mộng trong cái đầu đặt trên gối, và sau khi đã phỉnh phờ người ta một cách hão huyền, lại tan biến đi trong tiếng thở dài tỉnh giấc? Không, không, trong những ngày qua, nhất định hình bóng của họ phải đọng lại ở một nơi nào đấy trong một niềm vui bất ngờ: hình bóng Katya vừa đánh rơi lọ morphin xuống đất và rũ rượi ngả vào đôi tay cứng rắn của Vađim Pêtrôvits đang bồi hồi xúc động thì thầm với nàng những lời yêu thương. Đó không phải là một giấc chiêm bao, những hình ảnh ấy chưa hề mất đi, ngay bây giờ nó cũng đang ở đấy, sau những cánh cửa sổ đóng kín kia. Và cũng ở đấy trôi qua đêm đầu tiên của họ, một đêm không ngủ, trôi qua trong những cái hôn lặng lẽ và sâu xa như một niềm đau khổ, và trong những lời thì thầm kinh ngạc được nhắc đi nhắc lại mãi mà bao giờ cũng mới mẻ, kinh ngạc vì đây là phép nhiệm màu duy nhất trên thế gian đã gắn bó khắng khít cái gì mềm dịu nhất với cái gì cường tráng nhất qua đôi cánh tay nõn nà mảnh dẻ của nàng và đôi cánh tay rám nắng lực lưỡng của chàng quyện chặt lấy nhau...
Ngôi biệt thự vẫn đứng đấy, tiều tụy, tồi tàn, tróc lở, và không hề có dãy cột trắng. Dãy cột ấy chỉ có trong trí tưởng tượng của Katya mà thôi. Hai cửa sổ ngoài cùng ở tầng thứ nhất được bịt lại ở phía trong bằng những tờ báo, còn những cửa sổ khác đầy những vết bùn đã khô: có thể thấy rõ là nhà chẳng có ai ở cả. Trong căn nhà chòi, nơi đặt buồng ngủ của Katya, bao nhiêu kính đều đã vỡ hết.
Katya đi qua lòng đường và gõ lên cánh cửa trước, trên đó lớp sơn màu nâu đã tróc ra từng mảng dài. Katya gõ cửa một hồi lâu mới nhận thấy rằng thay cho quả nắm nay chỉ có một cái lỗ đầy bụi. Bây giờ nàng sực nhớ ra rằng từ ngõ hẻm có thể đi vào cổng sau. Cổng mở toang, nhưng trên khoảng sân cỏ mọc xanh rì có một con đường mòn mờ mờ dần từ cổng vào. Như thế nghĩa là ở đây vẫn có người ở.
Katya gõ cửa nhà bếp. Một lát sau có người ra mở cửa. Đó là một người đàn ông thấp bé, nước da nhợt nhạt như tờ giấy, tóc vàng, đeo kính trắng, đầu to, tóc rối bù:
- Tôi đã quát ra là cửa không đóng kia mà. Cô cần hỏi gì?
- Xin lỗi ông, tôi muốn hỏi bà Marya Kônđratyevna có còn ở đây không?
- Đúng, ở đây, - người kia trả lời bằng cái giọng người ta vẫn dùng để bình luận những công thức toán học. - Nhưng bà ấy chết rồi...
- Chết rồi ư? Từ bao giờ?
- Cũng chưa lâu lắm, tôi không nhớ rõ...
- Bây giờ tôi biết làm thế nào đây? - Katya bối rối thốt lên - căn nhà của tôi hiện có ai ở không?
- Tôi không biết căn nhà ấy có phải của cô không, nhưng nó đã có người ở...
Người kia đã toan đóng cửa lại, nhưng thấy người đàn bà xinh đẹp kia rưng rưng nước mắt, hắn ngần ngừ.
- Thật rầy rà quá... - Katya nói. - Tôi từ nhà ga về thẳng đây, nhưng bây giờ biết đi đâu? Đã hai năm nay tôi không về Moxkva, bây giờ về nhà thì lại...
- Cô về nhà à? - người kia kinh ngạc hỏi lại - về Moxkva à?...
- Vâng. Suốt thời gian qua tôi ở miền Nam, rồi ở Ukrain...
- Cô làm sao thế nhỉ? Người không được bình thường phải không?
- Có gì đâu... Sao ông lại hỏi thế? Chả nhẽ về nhà lại là một chuyện lạ đến thế hay sao?
Trên gương mặt gầy gò nhợt nhạt của người kia, đôi môi mỏng nhếch chéo sang một bên, làm cho cái má hóp nhăn lại:
- Thế cô không biết là ở Moxkva người ta đang chết đói à?
- Tôi có nghe nói là tình hình thức ăn rất gay go. Nhưng tôi cần ít lắm... Với lại tình hình đó cũng nhất thời thôi... Khi nào khó khăn, ở nhà mình vẫn hơn.
- Thật ra cô là ai?
- Tôi là Rôstsina Êkatêrina, tôi làm giáo viên... Giấy tờ đây. - Katya dùng răng tháo cái nút thắt ở túi vải. Nàng lấy tờ giấy chứng nhận của dân ủy giáo dục ra. - Tôi làm việc ở Kiev mãi cho đến khi có lệnh tản cư. Tôi dạy ở một trường vỡ lòng... Ông ủy viên nhân dân yêu cầu nhất thiết tôi đừng ở lại với bạch vệ... Vả lại bản thân tôi cũng không muốn ở lại chút nào... Ông ấy lại có đưa cho tôi bức thư này, gửi ông dân ủy Lunatsarxki... Nhưng thư có niêm phong...
Người kia đọc giấy chứng nhận, đọc địa chỉ đề ngoài phong bì. Tất cả những cử chỉ của hắn đều chậm rãi.
- Thật ra, phòng của bà cụ không có ai ở cả. Nếu cô nhất định muốn ở đây, cô cứ vào... Tuy ở đây mục nát mốc meo cả rồi... Ở Moxkva có thể chiếm bất kỳ biệt thự nào chưa có người ở...
Hắn tránh ra để cho Katya bước vào một gian nhà bếp tranh tối tranh sáng ngổn ngang những bàn ghế gãy, Hắn chỉ cho nàng cái chìa khóa phòng bà già treo trên một cái đinh đóng trên tường một dãy hành lang ám khói, rồi chậm rãi trở về phòng mình (phòng làm việc trước kia của Nikôlai Ivanôvits). Katya chật vật mãi mới mở được cửa căn buồng ngột ngạt có hai cửa sổ, bên ngoài bê bết những bùn khô. Trước kia đó là buồng ngủ của nàng. Giường của nàng vẫn ở chỗ cũ, và trên tường vẫn treo cái tủ thuốc con con chạm trổ có hình Alkonost và Xirin trên cánh cửa: dạo ấy nàng đã lấy lọ morphin trong tủ này ra. Bà Marya Kônđratyevna quá cố đã lôi về đây những đồ đạc tốt nhất trong cả căn nhà - đi-văng, ghế bành, giá để đồ cứ chồng chất lên nhau, nhiều cái đã gãy, phủ đầy bụi và mạng nhện.
Katya thấy nản quá: trong cái thành phố Moxkva rộng mênh mông, vắng vẻ và đói khát, bị nắng tháng bảy thiêu đốt, trong căn phòng ngột ngạt chất đầy những đồ đạc không cần thiết này nàng phải bắt đầu sống, bắt đầu bước vào vòng thứ ba của đời mình. Nàng ngồi lên tấm đệm để trần và lặng lẽ khóc. Nàng rất mệt và đói. Nàng thấy cái sức lực nhỏ bé của mình không sao khắc phục được những khó khăn phức tạp trước mắt. Nàng nhớ lại ngôi nhà nhỏ xiêu vẹo đáng yêu, thân thiết bên cạnh trường học, mảnh vườn nhỏ, cánh đồng mấp mô ở bên kia hàng rào... Cái chổi bên ngưỡng cửa, chậu nước trong phòng lót, cái ánh sáng xanh xanh lọt qua khóm lá chiếu vào cửa sổ, soi lên những cuốn vở học trò... Những đứa trẻ vui tươi, vô tư lự, thằng bé Ivan Gavrikôv mà nàng yêu quý...
Tại sao lại không thể ở lại đấy mãi mãi?
Katya xuống giường để đi lấy ít nước nhúng cái bánh mì đem từ Kiev về cho mềm bớt mà ăn. Ngay đến một cái cốc cũng không có để mà bắt đầu sống! Katya tức tối gạt nước mắt đi sang phòng người có cái mặt nhợt nhạt.
Nàng gõ cửa khe khẽ rồi nói, giọng nhỏ nhẻ:
- Xin lỗi ông, tôi cứ quấy rầy ông mãi...
Hắn chậm rãi ra mở cửa, rồi như thể băn khoăn điều gì, hắn nhìn Katya đăm đăm.
- Xin lỗi ông, ông có cái cốc nào không, tôi muốn uống tí nước.
- Tôi tên là Maxlôv, đồng chí Maxlôv, - hắn nói - Cô cần cái cốc như thế nào?
- Cốc nào thừa ông cứ cho tôi mượn...
- Được.
Hắn đi về phía cuối phòng, cửa vẫn để mở. Katya trông thấy trên mấy cái giá bằng ván có để nhiều sách, trên cái bàn viết có một cuốn sách mở và những bản thảo viết tay. Trong phòng còn có một cái giường sắt tồi tàn, cũng ngổn ngang những sách. Sàn nhà đầy những rác rưởi, giấy dán trên mấy khung cửa sổ đã ngả sang màu vàng. Maxlôv trở ra, vẫn chậm chạp như thế, và đưa cho Katya một cái cốc bẩn:
- Cô có thể lấy hẳn về mà dùng...
Trong gian bếp, Katya chật vật len đến cái chậu rửa tay ngập ngụa dưới đống giấy lộn. Nhưng vòi vẫn có nước. Rửa sạch cái cốc, Katya vặn nước uống ngon lành, rồi trở về phòng mình. Trước khi ăn, nàng muốn mở các cửa sổ ra và rửa ráy một chút. Nhưng tháo mấy cái khung kính đã trát kín chẳng phải là dễ. Katya hì hục hồi lâu, cào sồn sột, lấy cái chân ghế gãy gõ thình thình vào mấy cái then dọc, chốc chốc lại thở dài một tiếng rõ to. Nghe tiếng ồn, Maxlôv sang xem. Hắn im lặng nhìn Katya một lát, vẻ ngạc nhiên.
- Tại sao cô lại phải mở cửa sổ?
- Ở đây e chết ngạt mất.
- Cô tưởng không khí ở ngoài đường sạch hơn sao? Bụi bặm và hôi hám lắm... theo tôi thì không nên. - Katya đứng trên bậu cửa sổ nghe hắn nói, rồi lại cầm cái chân ghế gõ tiếp. - Cứ cho là cô sẽ mở được đi, nhưng đến đêm lại phải đóng lại... Mở làm gì cho mất công...
Cuối cùng cái then dọc bật ra, và Katya nhảy trên bậu cửa sổ xuống, khao khát hít thở không khí ngoài đường.
- Phải, phải, - Maxlôv nói, vẻ trầm ngâm, - vấn đề thành phố ta chưa giải quyết được.
Bỗng hai đầu gối hắn run run như chỉ chực khuỵu xuống, hắn nhìn quanh xem có chỗ nào ngồi được không, rồi tựa vào khung cửa, hai ngón tay cái thọc vào dải thắt lưng lỏng lẻo nịt quanh cái áo sơ-mi vải phin đã lâu không giặt.
- Tuyết đã tan hết từ lâu, thế mà bùn, rác, xác chó, xác mèo và cả xác ngựa nữa vẫn còn ngổn ngang trên các đường phố và trong các sân nhà... Mưa cũng có làm trôi đi một ít, nhưng đó không phải là một cách giải quyết vấn đề...
Katya ngắt lời hắn:
- Ông ạ, buồng tắm của ông có còn tắm được không?
- Tôi cũng không biết nữa... Hồi trước có một anh thợ lắp ống dẫn nước ở đây... Cứ đến chủ nhật anh ta lại loay hoay sửa chữa gì ở trong nhà bếp và trong buồng tắm, nhưng anh ta đi ra mặt trận mất rồi...
- Ông ạ, bây giờ ông đi ra chỗ khác nhé, - Katya nói, giọng cương quyết, - cho tôi dọn dẹp, tắm rửa một tí, rồi tôi sẽ sang ông... Trước hết tôi cần biết một số địa chỉ... Ở Moxkva tôi chưa biết đâu vào với đâu cả... Ông sẽ giúp tôi một chút, có được không?
- Được, được, hôm nay là chủ nhật, tôi sẽ ở nhà cả ngày...
Hắn chậm chạp tách người ra khỏi cái khung cửa và bỏ đi. Katya khóa trái cửa lại. Điều thiết yếu là phải can đảm lên, rồi mọi việc sẽ trôi chảy. Nàng cởi áo và cởi váy cho khỏi dây bẩn, rồi bắt tay vào giao chiến với bụi bặm. Trong mấy cái thùng tha hồ lấy giẻ rách. Trong khi lục lọi, Katya tìm thấy mấy tấm khăn trải giường còn nguyên cả dấu của nàng đánh ở nóc, rồi lại tìm thấy mấy thứ áo quần của nàng và vài đôi tất mạng. Marya Kônđratyevna thật là con người vàng ngọc: bà ta đã giữ lại cho nàng những vật vô giá!... Còn nói chung thì sinh thời bà ta vốn tham lam và hay táy máy... Thôi cũng cầu cho bà ta yên giấc dưới mồ...
Ngay tối hôm ấy Maxlôv cho Katya xem những bản thảo của hắn, lại còn đọc mấy đoạn lên cho nàng nghe nữa. Đó là một công trình nghiên cứu về các tác gia kinh điển của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Ngồi trên cái gường sắt bừa bộn hắn nói với Katya:
- Chắc cô lấy làm lạ rằng thời buổi này mà lại đi nghiên cứu về những con người không tưởng phải không? Chủ nghĩa không tưởng ở thời đại chuyên chính vô sản! Cái lô-gích nội tại ở chỗ nào? Cô thú nhận đi: cô lấy làm lạ lắm phải không?
Katya, mắt đã ríu lại, gật đầu xác nhận rằng nàng có lấy làm lạ.
- Ấy thế mà vẫn có lô-gích đấy... Tôi chú ý nghiên cứu cặn kẽ những cố gắng của một số người và một số nhóm nhỏ ở giữa thế kỷ thứ mười chín nhằm thực hiện những tư tưởng không tưởng. Đó là một trong những trang kỳ thú nhất của lịch sử chuyển biến xã hội.
Hắn quay mặt đi để giấu một nụ cười để lộ hai hàng răng hạt đỗ.
- Nhưng tôi chỉ viết được vào những ngày chủ nhật. Tôi bận túi bụi ở ủy ban khu; ở ủy ban bây giờ thiếu người lắm. Ở Moxkva hầu như không còn đảng viên... Sở dĩ tôi được miễn ra mặt trận chỉ vì tình trạng sức khỏe quá kém... Tôi đã kiệt quệ về thể xác và tinh thần...
Tuy ốm đau và người hầu như chẳng còn chút gì là vật chất nữa. Maxlôv vẫn tỏ ra khá tháo vát. Ngay hôm sau hắn đi với Katya ra Dân ủy giáo dục, giới thiệu nàng với những cán bộ cần gặp, giúp nàng đăng ký hộ khẩu và lĩnh phiếu thực phẩm.
Không có hắn thì Katya sẽ hoàn toàn rối trí trong cái trụ sở rộng mênh mông của dân ủy, với vô số những vụ, những phòng và những ông thủ trưởng; hơn nữa cái tâm lý hiếu động và sợ trì trệ cứ thúc đẩy các cán bộ chuyển hết chỗ này sang chỗ khác, hết tầng trên đến tầng dưới ít nhất là mỗi tuần một lần, mang theo cả bàn, tủ và hồ sơ, đồng thời cũng thay đổi cả cơ cấu tổ chức bên trong, quan hệ và trách nhiệm của từng cán bộ nữa.
Katya lập tức được bổ nhiệm làm giáo viên ở một trường vỡ lòng trên phố Prexnya. Ở một phòng khác nàng được huy động vào một công tác xã hội là dạy lớp thanh toán nạn mù chữ vào buổi tối. Ở một phòng thứ ba nàng gặp một người gầy đến mức không thể tưởng tượng được, da mặt bủng beo, đôi mắt to tướng sáng long lanh như lên cơn sốt. Ông ta đưa Katya qua mấy dãy hành lang và mấy cái cầu thang, đến ban tuyên truyền nghệ thuật. Ở đấy người ta giao cho nàng đi nói chuyện ở các nhà máy.
- Nội dung của những buổi nói chuyện ta sẽ định sau. - Người có nước da bủng beo nói. - cô sẽ được cung cấp tài liệu, sách vở và sẽ được phổ biến kế hoạch. Đừng lo, cô là người có văn hóa, thế là đủ rồi. Tấn bi kịch của chúng ta là ở chỗ ta ít người có văn hóa quá: hơn một nửa số trí thức đang bất hợp tác với ta. Họ sẽ tiếc cay tiếc đắng vì đã làm như vậy. Phần còn lại thì mặt trận đã nuốt hết. Cô đến đây đã đem lại cho mọi người một ấn tượng tốt đẹp...
Và cuối cùng, trong hành lang Katya vấp phải một người to béo, vẻ hết sức bận rộn, môi dày, mình mặc chiếc áo vải thô kiểu Tolxtôi, hai nách mốc xanh ra.
- Cô là diễn viên phải không? Người ta vừa giới thiệu cô cho tôi, - hắn nói vội vã, và không để ý đến câu trả lời của Katya nói rõ mình là giáo viên, cứ nắm lấy hai vai Katya lôi nàng đi dọc hành lang. - Tôi sẽ ghép cô vào một đoàn biểu diễn lưu động, cô sẽ đi toa riêng ra mặt trận. Khi ở Moxkva ra đi, bánh mì, đường và bơ loại một tha hồ lĩnh, không hạn chế... Còn tiết mục thì không lo! Với dung nhan, dáng dấp của cô, cô tha hồ muốn hát thì hát, muốn múa thì múa, các chiến sĩ hồng quân sẽ vỗ tay như sấm... Tôi đã từng gửi ra mặt trận một ông giáo sư Tsêbectykin, năm nay sáu mươi tuổi, chuyên về hóa học hay là thiên văn gì đấy tôi cũng chẳng biết nữa. Thế thì bây giờ ông ta được mệnh danh là “ông vua biểu diễn lưu động”: ông ta chuyên hát những ca khúc của Bêrăngjê... Cô không cần cám ơn tôi làm gì, tôi là một người sống thuần túy bằng nhiệt tình...
- Này ông! - Katya vừa kêu lên vừa vùng ra khỏi tay ông ta. - Tôi có trường học của tôi, có những bài nói chuyện ở các công xưởng, có công tác thanh toán mù chữ... Tôi không thể xẻ thân ra làm đôi làm ba được...
- Xẻ thân là thế nào? Thế dễ tôi có thể xẻ thân ra chắc? Salyapin cũng không xẻ thân ra được, thế nhưng tôi xoay được một chai cô-nhắc cho ông ta, thế là bây giờ chính ông xin ra mặt trận... Thôi được, cô cứ nghĩ kỹ đi... Tôi sẽ tìm ra cô...
Katya về nhà, lòng nặng trĩu dưới những trách nhiệm quá lớn lao mà nàng đã phải nhận. Gió nóng hầm hập lùa qua các ngõ hẻm vắng tanh, cuốn lên những cột bụi và giấy vụn xoáy tít trên mặt đường lát đá. Katya rẽ ra đại lộ Tverxkôi. Nàng trù tính xem mình có đủ thì giờ làm việc không, nếu mỗi ngày ngủ sáu tiếng. Sẽ còn lại vị chi mười tám tiếng... Ít quá! Đi dạy ở trường, chấm bài, sửa bài ngày mai... Dạy lớp thanh toán nạn mù chữ cũng mất hai tiếng là ít... Trời ơi, lại còn phải tính thì giờ đi về nữa chứ! Rồi lại nói chuyện nữa, kể cả đi về Vả lại nói chuyện cũng phải chuẩn bị chứ... Mười tám tiếng e không đủ mất!
Katya ngồi xuống một chiếc ghế dài bên vệ đường, hình như chính cái ghế mà nàng và Đasa đã ngồi dạo trước, vào năm chín trăm mười sáu, khi họ gặp Bexxônôv đi thất thểu trên đường, quần áo bám đầy bụi bặm... Thật là kỳ quặc! Hai người đàn bà hoàn toàn vô ích, quá nhiều thì giờ không biết làm gì cho qua ngày, mà cũng thấy mình đang sống qua một tấn bi kịch chẳng biết là vì cái nỗi gì, khi Bexxônôv, đúng như trong thơ của Alkxanđr Blôk: “Nhọc nhằn thay một người đã chết phải giả vờ sống, giả vờ say mê giữa đám người đang sống” - đến cúi chào họ và chậm rãi đi qua, còn họ thì nhìn theo và thấy thương hại hắn, đặc biệt là khi trông thấy cái quần bán quân phục của hắn có vẻ như chỉ chực tụt xuống giữa đường...
Phải ngủ bốn tiếng một ngày, và ngủ bù vào những ngày chủ nhật thôi. Lại còn phải xếp hàng mua thức ăn nữa! Katya nhắm mắt lại và rên lên một tiếng... Gió thổi mấy món tóc quăn bay lất phất trên cái cổ mảnh dẻ của nàng, lùa vào cây bồ đề già trên đầu Katya, làm cho khóm lá xào xạc lên một cách tàn nhẫn... Và trong tiếng lá xào xạc ấy Katya dần dần bớt khổ tâm với bài tính đố ác nghiệt: làm thế nào mỗi ngày phải có được hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Không sao, rồi sẽ có cách!... Rồi ý nghĩ của nàng lại tha thẩn xung quanh sự thay đổi trong bản thân nàng, sự thay đổi kỳ lạ vẫn không ngừng làm cho nàng ngạc nhiên và mừng rỡ. Cái giây phút mà nàng tựa gáy vào lò sưởi nhìn thẳng vào gương mặt giận dữ điên cuồng của Alekxêy và nói thẳng vào mặt hắn: “Không!” - trong người nàng đã bắt đầu nảy nở một nỗi chờ mong điềm tĩnh và vững chắc, hướng về một hạnh phúc mới mẻ. Mùa xuân qua nàng đã được thể nghiệm ít nhiều cái hạnh phúc ấy. Mỗi tối trước khi đi ngủ nàng ôn lại ngày vừa qua: trong đó không có một chút gì u tối, không có một chút gì ngột ngạt. Katya thấy thích mình. Thế mà bây giờ nàng lại chơi cái trò phóng đại nỗi sợ hãi và tuyệt vọng của mình lên, tưởng đâu mình không thể nào đảm đương nổi những công tác xã hội sắp phải gánh vác... Vấn đề tuyệt nhiên không phải ở đấy: mới gần đây thôi, con mèo con tội nghiệp được người ta nhặt giữa đường bỗng đâu đã thành một sinh vật có ý nghĩa: kể ra người ta cũng cần đến Katya, rất cần nữa là khác, cái đồng chí phụ trách có bộ mặt bủng beo và đôi mắt rất đẹp đã nói chuyện với nàng một cách kính cẩn... Phải xứng đáng với những điều đó. Nếu sau này ở Dân ủy Giáo dục người ta phải nói: “Thế mà chúng mình cứ trông mong vào cô ta...” thì như thế mới thật khủng khiếp. Ở đây, ở thành phố Moxkva này, hoàn toàn không phải như khi ngồi lắc lư trên chiếc xe giàn đi theo Alekxêy trên thảo nguyên, mồm gặm cái cọng rơm, và nghĩ bụng: “Ôi, nữ tù nhân, mày đẹp mà làm gì?”.
Maxlôv bắt Katya phải báo cáo lại thật cặn kẽ. Khi nàng thuật lại cuộc trao đổi với người cán bộ có bộ mặt bủng beo, cả cái má bên phải của Maxlôv hằn lên những đường nhăn đồng tâm bao quanh cái mép nhếch cao lên vì một nụ cười nửa miệng:
- Phải, phải, - hắn quay mặt đi, - tấn bi kịch của giới trí thức mới chỉ là một phần nửa tai họa... có một cái còn bi đát hơn nhiều.
Ngày mồng một tháng tám Katya mở cửa trường. Những đứa con gái nhỏ, bím tóc buộc chỉ hay thắt bằng những mảnh vải nhỏ, những đứa con trai mặc áo sơ-mi rách lặng lẽ đến trường và lặng lẽ ngồi vào bàn học. Nhiều đứa mặt cứ trong suốt đi và choắt lại như mặt ông già.
Katya dành ngày đầu để làm quen với lũ trẻ. Nàng ngồi ghé vào bàn học của chúng, hỏi thăm và gợi cho chúng nói chuyện. Nàng đã có được chút ít kinh nghiệm, biết cách làm cho trẻ quan tâm ngay từ đầu. Nàng cầm một cuốn sách nhỏ lên, giơ ra: “Các em xem cuốn sách này: ở trong sách có giấy trắng, in chữ đen, từng dòng xam xám. Các em cứ nhìn mãi từ sáng đến tối cũng chẳng trông thấy gì hơn. Nhưng nếu các em học đến khi biết đọc, biết viết, biết sử ký, địa dư, biết làm toán và biết nhiều thứ khác nữa, cuốn sách này bỗng chốc sẽ sống dậy...”.
Nàng nhớ lại những đôi mắt trẻ thơ ánh lên vì tò mò háo hức hồi nàng dạy ở trường làng Vlađimirxkôiê. Dạo ấy lũ trẻ say mê nhất là khi nghe nàng kể chuyện cổ tích Vua Xaltan.
“Em bắt đầu học a, b, c, rồi tập viết chữ trên bảng đá, rồi tập đọc, nhất thiết phải đọc to lên, từng câu, từ chấm này đến chấm nọ... Thế rồi bỗng một ngày kia, những hàng chữ bắt đầu biến đi đâu mất hết, và trên trang sách em sẽ thấy một mặt biển xanh biếc với những làn sóng chạy vào bờ, lại còn nghe cả tiếng sóng vỗ lên bờ nữa, và từ dưới biển sẽ bước lên bốn mươi trang dũng sĩ mặc áo giáp và đội mũ sắt, mặt tươi cười, áo quần ướt sũng, và cùng đi với họ là ông Tsernômor râu dài...”.
Kể lại những chuyện như thế ở đây, trên phố Prexnuya này, nàng có cảm giác là lời lẽ của nàng không lọt vào tai lũ trẻ, nó cứ phai nhạt dần đi trong cái lớp học tồi tàn, hết một nửa khung kính cửa sổ bịt bằng gỗ dán, vữa trên tường thì tróc nham nhở để lộ cả gạch ra. Mấy đứa con gái tay gầy như tay mèo con, và mấy đứa con trai mặt nhăn nheo và đầy những vết xước, im lặng ngồi nghe, và trong khóe mắt chúng nàng chỉ thấy có sự hạ cố... Cả lũ trẻ đều đang nghĩ đến một cái gì khác.
Đến giờ ra chơi, lũ trẻ đi ra sân, nhưng chỉ có dăm đứa con gái chơi lò cò, tung sỏi, với lại hai đứa con trai sinh sự cãi nhau. Còn phần đông đều ngồi vào bóng rợp của dãy rào, nơi những bụi ngưu bàng mọc rậm rạp, và cứ ngồi yên như thế: không có đứa nào mang theo quà bánh. Tất cả chúng nó đều là con cái những gia đình thợ thuyền ở trong khu này, và rất nhiều đứa có bố ra mặt trận. Một thằng bé chống tay xuống đất nhìn đám mây lơ lửng trên phố Prexnuya trông như một đám khói. Katya ngồi xuống cạnh nó, hỏi nghiêm trang:
- Tên cháu là Mitya Pêtrôv phải không?
- Vâng.
- Bố cháu làm việc ở đâu?
- Bố cháu đi bộ đội lâu rồi.
- Mẹ cháu thế nào?
- Mẹ cháu ở nhà, mẹ cháu ốm.
- Bố cháu ở mặt trận có gửi thư về không?
- Không ạ.
- Sao thế?
- Có gì mà viết đâu ạ... Chẳng có chuyện gì vui... Bố cháu đi, bảo mẹ cháu: tôi sẽ giết mười thằng tướng để trả thù cho cái bệnh lao lực của mình... Bố cháu gan lắm...
- Lớn lên, cháu thích làm gì?
- Cháu không biết... Mẹ cháu nói là hai mẹ con không sống qua mùa đông này đâu.
* * *
Những đạo bạch quân đang tiến về phía Moxkva. Nhưng mùa thu còn đến nhanh hơn. Mấy ngày hồi hạ cuối cùng với ánh nắng vàng óng đã trôi qua, và gió bắc không ngớt tràn về, lùa hàng đàn mây đen dày đặc.
Ở trường học không còn chút than củi gì để đốt cái lò sưởi gang. Katya lên dân ủy gặp người cán bộ có bộ mặt bủng beo để than phiền. Ông ta chỉ gật đầu, đôi mắt sáng long lanh trong cơn sốt không rời gương mặt dịu hiền của Katya: “Êkatêrina Đmitrievna ạ, tôi rất thông cảm với nỗi lo lắng của chị và đánh giá rất cao sự nhiệt thành của chị, nhưng mùa đông năm nay tình hình chất đốt rất khủng khiếp: người ta đã hứa cấp củi cho dân ủy giáo dục, nhưng chỗ củi ấy ở mãi tỉnh Vologôđxkaia, phải có xe mới chở về đây được... Tuy vậy chị cứ thử đi khắp các cơ quan có thể đi được, cố nài van xem...”.
Lũ trẻ đến trường, mặt xanh tím, người ướt sũng, khoác những chiếc áo bành tô và những chiếc áo vét cũ của mẹ, đều đã rách nát đến nỗi may ra chỉ có thể đem treo ra vườn rau làm bù nhìn. Cuối cùng Katya phải quyết định giở thủ đoạn kẻ cướp công khai, quy định một buổi lao động tập thể đi rút hàng rào, và một đêm tối mịt gió thổi ào ào, ông khán trường - một ông lão điếc đi chân gỗ - Katya và lũ trẻ - chúng đến gần đủ mặt - ra phá dãy rào khiêng vào phòng mắc áo của nhà trường. Ông khán trường đem cưa ra làm củi, và sáng hôm sau trong phòng học ấm hẳn đi, bốn bức tường ẩm uớt hơi bốc nghi ngút, lũ trẻ vui hẳn lên, và Katya ngồi trên bục giảng cho chúng nó nghe về năng lượng mặt trời (hôm qua bản thân nàng vừa đọc cuốn sách nhỏ rất bổ ích nhan đề “Những lực lượng của thiên nhiên”)
- Các em ạ, tất cả những vật em trông thấy đây: cái bục này, mấy cái bàn kia, cũng như ngọn lửa trong lò sưởi, cũng như bản thân các em, đều là năng lượng mặt trời cả... Nhiệm vụ của loài người là phải chinh phục năng lượng đó... Chính vì thế mà phải học, học mãi, đấu tranh, đấu tranh mãi... Bây giờ ta chuyển sang bài học tiếng Nga... Tiếng Nga cũng là năng lượng mặt trời, cho nên ta phải nắm vững nó...
Giờ ra chơi, lũ trẻ kể cho Katya nghe đủ các thứ tin tức. Chúng nó biết tất cả những gì xảy ra ở phố Prexnya, ở Moxkva và cả ngoài nước nữa - ở xứ sở của những ông Lord. Katya đã biết được rất nhiều qua những câu chuyện ấy, Chẳng hạn, trước cả các báo, nàng được biết bạch quân chọc thủng chiến tuyến ở Orel: các thương binh ở trận này đã được chở về đây. Hai đứa con gái đã cố ý chạy đến nhà vợ chồng chú Mikulin để nghe chú kể chuyện. Chú Mikulin, một người thợ điện vừa được đưa từ mặt trận về, xanh xao, bị trúng đạn nhiều chỗ, nhổm người trên giường, tuy các bác sĩ đã dặn phải nằm yên, và thều thào nói với mẹ và vợ:
- Ở mặt trận chúng ta có kẻ làm phản! Đưa giấy bút đây, để tôi viết thư cho Vlađimir Ilyits! Những người vô sản ưu tú đang tắm trong máu, đang bị vùi sâu xuống đất ẩm, nhưng nhất định không để cho Moxkva lọt vào tay tên tướng bạch vệ... Mất Orel không phải tại chúng tôi: ở đây có kẻ làm phản!...
Mitya Pêtrôv nghe hai đứa con gái kể chuyện này, mặt bỗng trắng bợt ra như vữa tường, hai mắt nó cứ mở rộng dần ra, và trong đôi mắt ấy chứa chất một nỗi đau khổ lớn lao đến nỗi Katya xúc động ngồi xuống bên bàn, ôm đầu nó vào lòng, nhưng nó lặng lẽ né ra: lúc này nó còn thiết gì vỗ về an ủi.
Mưa tầm tã suốt mấy ngày liền, và phố Prexnya ngập ngụa dưới một lớp bùn nhão màu thiếc sâu lút đầu gối. Lũ trẻ đến trường mà lòng hoang mang đến cực độ vì những tin đồn đang truyền đi trong thành phố như một bệnh dịch. Khó lòng có thể làm cho lũ trẻ tập trung nghe giảng bài được. Một con bé tóc đỏ tên là Klavđya, ở nhà chưa làm bài tập đếm và tập cộng, đang giữa giờ học toán bỗng khóc òa lên. Katya gõ bút chì lên mặt bàn:
- Klavđya, cố nín ngay đi.
- Cháu không n-nín được, cô Ka-a-aty-a ạ...
- Có chuyện gì thế?
Con bé đáp, giọng khàn khàn:
- Mẹ cháu bảo: thôi đừng học toán nữa, đằng nào chả thế...
- Chỉ vớ vẩn, mẹ cháu không đời nào lại nói như thế.
- Thật ạ! Mẹ cháu nói: đằng nào cũng thế thôi, con ở bùn đất mà ra, con sẽ trở về với bùn đất... Bọn sĩ quan sẽ cho ngựa giẫm chết hết chúng mình.
Đến chập tối Katya đi dạy lớp thanh toán mù chữ. Nàng men sát các bờ rào cho đỡ ướt chân, đến mỗi ngã tư lại dừng lại phân vân, không biết làm thế nào vượt qua đường được. Ở nhà anh thợ Tsexnôkôv (cách đây không lâu đã được đưa ra mặt trận làm chính ủy) trong số mười người đàn bà vẫn đến học với nàng, hôm nay không thấy một người nào đến. Chị Tsexnôkôv lấy chồng được nửa năm nay, đang có mang, gầy rạc ra, mặt đầy những vệt vàng vàng. Chị nói với Katya:
- Chị đừng đến dạy chúng tôi nữa chị ạ, đợi một thời gian nữa đã. Bây giờ chúng tôi chẳng còn bụng dạ đâu mà học... Vả lại chị cũng đỡ khổ...
Chị cho Katya xem một mảnh giấy nhỏ của chồng chị gửi từ mặt trận về:
“Lyuba ạ, nếu chúng nó chiếm được Tula, thì phải chuẩn bị đi. Chúng ta nhất định không để mất Moxkva. Chúng chỉ có thể vào Moxkva sau khi bước qua xác chết cuối cùng... Nhân có người về, anh viết vội mấy chữ... Có thể sắp tới sẽ có một đồng chí bộ đội tên là Rôstsin ghé về, em hãy tin đồng chí ấy. Đồng chí ấy sẽ kể rõ. Nếu anh em công nhân ở chỗ ta cũng được nghe đồng chí ấy kể thì hay quá. Nếu đồng chí ấy có cần gì, phải bảo anh em họ giúp đỡ đồng chí ấy. Anh vẫn khỏe, bây giờ đã biết cưỡi ngựa rồi: ngày trước có bao giờ tưởng tượng đến chuyện ấy...”.
- Chúng tôi cứ mong đồng chí Rôstsin ấy về mà mãi chẳng thấy, - chị Tsexnôkôva nói, mắt buồn rười rượi nhìn ra khung cửa sổ ướt đẫm nước mưa. - Khi nào đồng chí ấy về chị đến mà nghe, tôi sẽ cho con bé đến gọi chị... Rôstsin nào thế nhỉ, hay là chồng chị?
- Không phải đâu. - Katya đáp - chồng tôi chết từ lâu rồi.
Về đến nhà, nàng đốt cái lò sưởi sắt có cái ống khói luồn ra ngoài cửa sổ - kiểu lò “con ong”, được mệnh danh như vậy là vì nó kêu vo vo khi củi đã đốt lên. Cái lò này là do công nhân ở phố Prexnya làm ra và tự tay đến lắp ở phòng Katya, nghĩ rằng cô giáo của họ sẽ đủ sức làm việc hơn nếu được ngủ ấm một chút. Katya cởi đôi giày ướt sũng, đôi tất và chiếc váy lấm bùn, rửa đôi chân trong chậu nước lạnh buốt, bao nhiêu áo quần khô lấy ra mặc hết, rót nước vào ấm đặt lên lò, rút trong túi áo khoác ra một mẩu bánh mì xám xịt và cứng đét, cắt ra từng miếng một, đặt lên chiếc khăn mặt sạch bên cạnh cái chén và cái thìa con bằng bạc. Tất cả những việc ấy nàng đều làm một cách lơ đãng. Khi cánh cửa nhà bếp mở đánh cách một tiếng và trong hành lang có tiếng chân của Maxlôv bước một cách chậm chạp không tài nào chịu nổi, nàng tới phòng Maxlôv gõ cửa.
- A! Kính chào cô Êkatêrina Đmitrievna! Mời cô ngồi, Thời tiết khốn nạn quá!... Còn cô thì tôi thấy cứ càng ngày càng xinh ra, xinh ra mãi. Đúng thế...
Không hiểu tại sao tối hôm ấy Maxlôv cáu kỉnh khác thường. Khi Katya hỏi: chuyện gì đang xảy ra thế này, tại sao đâu đâu cũng lo sợ nhớn nhác? - thì hắn không quay mặt đi như thường lệ, và nhếch đôi môi mỏng mỉm một nụ cười hết sức cay độc.
- Cô muốn biết những tin tức trong đảng hay còn muốn biết việc gì nữa? Tin mặt trận phải không? Quân ta đang thua. Tôi còn có thể nói gì với cô nữa nhỉ? Đang thua, thế thôi! Còn ở Moxkva thì vẫn như xưa nay: tinh thần vẫn lạc quan, phấn khởi!... Đang tổng động viên những người cộng sản đứng lên đánh bại Đênikin... Ở Pêtrôgrađ đang soát nhà hàng loạt trong các khu phố tư sản... Vừa có quyết định đóng cửa tất cả các nhà máy và công xưởng vì thiếu chất đốt... Và đây là tin cuối cùng, tin này mới thật đáng phấn khởi: vừa có chỉ thị đăng ký lại các thẻ đảng viên, nghĩa là dọn sạch các chuồng ngựa Augiax, một công việc tày trời... Ấy, chỉ cần làm như thế là ta sẽ đánh bại được cả Đênikin lẫn Yuđênits và Koltsak...
Hắn lê chân xền xệt bước qua bước lại trong gian phòng đầy những mẩu thuốc lá hút dở: phía dưới đôi ống quần ướt sũng và lấm be bét của hắn lòng thòng mấy sợi dây buộc ống quần lót... Vừa đi đi lại lại, hắn vừa búng ngón tay, nhưng vì tay nhão quá, chẳng kêu được bao lăm.
- Cứ thế là sẽ thắng, cứ thế là sẽ thắng, - hắn nhắc đi nhắc lại, giọng phỉ báng. - Dĩ nhiên là cô chẳng hiểu những chuyện đó được đâu... Mà cô không hiểu thì cũng chẳng có gì là lạ... Có điều còn lạ hơn nhiều là như tôi đây chẳng hạn, tôi cũng không hiểu nốt... Tôi không hiểu chút gì nữa - Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở văn hóa vật chất... Chủ nghĩa xã hội là hình thái cao nhất của lao động sản xuất. Đúng! Vậy thì nhất thiết phải có một nền công nghiệp phát triển đến cao độ chứ? Đúng thế. Nhất thiết phải có một giai cấp công nhân đông đảo có trình độ phát triển cao? Chứ còn gì nữa! Chúng tôi đã đọc Karl Marx, đọc rất kỹ. Thôi được, ta sẽ làm công tác thanh trừ vậy... Trong khi chúng tôi hãy còn đạn...
Rốt cục Katya chẳng được hắn cho biết gì rõ ràng cả. Hôm sau nàng đến Dân ủy giáo dục xin chỉ thị. Trong dãy hành lang chính, xưa nay chưa bao giờ thấy có gió lùa, thế mà hôm nay không biết vì nơi nào cửa sổ bị vỡ, hay người ta cố ý mở ra, gió lạnh cứ lùa hun hút, buốt đến tận xương, mặc dầu đâu đâu cũng có những nhóm cán bộ đang tụm năm tụm ba lại bàn tán thì thầm: Katya đi hết phòng này đến phòng khác nhưng chẳng được việc gì hết. Chỉ có một chị cán bộ, cổ áo khoác lông đã sờn rách xốc lên kín cả mũi, nói cho nàng biết:
- Ô, chị này mê ngủ hay sao mà không biết là chúng ta sắp tản cư đi Volôgđa rồi?
Rồi bỗng nhiên, cũng một cách đột ngột như thế, tình hình lại thay đổi hẳn. Sáng sớm hôm sau, trời mới mờ mờ sáng Katya đã chạy ra trường. Đến phố Xađôvaia nàng phải dừng lại đợi. Trên lớp bùn đã đóng cứng như đá, dưới rặng bồ đề cổ thụ trụi lá đã bắt đầu rít theo cung bậc mùa đông, những đội công nhân vũ trang đang kéo qua, gót giày nện vỡ vụn những vũng nước bị đóng băng... Đi sau là một đoàn xe giàn. Rồi kế đến lại là những đoàn người kề sát vai nhau từng hàng bước chậm rãi, đều đều như cùng chịu một phép thần thông. Khi đây, khi đó, những giọng thô lỗ, không quen hát, hòa vào nhau trong điệu “Quốc tế ca”. Trên những tấm vải đỏ thẫm họ giương cao trên đầu, có đề những dòng chữ viết vội, không thẳng hàng: “Tất cả cho cuộc đấu tranh chống giặc Đênikin!”, “Cách mạng vô sản trên toàn thế giới muôn năm!”, “Tiêu diệt giai cấp tư sản thế giới!”. Từ trong đám sương mù ảm đạm của buổi sáng sớm âm u, những đoàn người vũ trang cứ lần lượt hiện ra và diễu qua trùng trùng điệp điệp. Katya nhìn những gương mặt râu ria lởm chởm, gầy gò, hốc hác, đen đủi, và thấy rõ ràng trong khóe mắt, trong những đôi môi mím chặt ấy cùng có một thần sắc y hệt như nhau: ý chí khắc phục mọi nỗi niềm đau khổ riêng tây và một quyết tâm không gì lay chuyển nổi...
Ở trường, lũ trẻ lập tức kể cho Katya nghe một tin mới: hôm qua trên phố Prexnya, ở nhà máy cơ khí, Lênin đã đến nói chuyện, và Tuần của Đảng đã bắt đầu.
* * *
Cách Vôrônej không xa, lữ đoàn kỵ binh Kuban của Skurô đã hợp nhất với Mamontôv. Bây giờ Mamontôv đã có sáu sư đoàn kỵ binh để chọi lại hai sư đoàn của Buđionny. Y dừng lại và bắt đầu đợi Buđionny đến. Y tách ra một phần lực lượng để tăng cường phòng thủ Vôrônej; y cải tổ hai lữ đoàn lại thành ba đạo quân và chọn một chiến trường thuận lợi, nơi đạo kỵ binh đỏ sẽ bị bao vây và tiêu diệt: đó là một cánh đồng rất rộng dựa vào một con đường sắt, trên đó có một đoàn tàu bọc thép rất mạnh - một con rùa thép vũ trang bằng một loạt đại bác trăm hai mươi ly - đi tuần thường xuyên.
Buđionny rất táo bạo, nhưng lại rất biết suy tính. Ông luôn luôn nhận được những tin tức chi tiết về tất cả những cuộc chuẩn bị và những mưu mô của tướng Mamontôv... Một đứa con gái nào đó giấu mẩu giấy viết nguệch ngoạc trong chiếc khăn vuông hay trong bím tóc, hoặc giả một bà già tiều tụy thiểu não xách cái bị đựng những mẩu bánh thừa, đi qua các trạm gác của bạch quân - khó lòng có ai mê được một đứa con gái bẩn thỉu như thế, còn bà già kia thì gã cô-dắc nào cũng phải nhổ nước bọt mà tránh cho xa. - rồi đi tìm các chiến sĩ trinh sát của Buđionny và chuyển tài liệu cho họ.
Buđionny dừng lại giữa một cánh rừng và một bãi lầy, không đi đến cánh đồng rộng đã được dành sẵn làm tử địa cho ông. Ông ra lệnh cho ngựa ăn no và xem lại móng ngựa thật kỹ (ngựa trong lữ đoàn đều chỉ đóng móng vào chân trước) Ông lại ra lệnh bổ sung đạn dược, và thay cho món kê mà các chiến sĩ ăn mãi đã ngấy đến tận cổ, ông cho phát thịt lợn muối và đậu cô-ve chiến lợi phẩm, sữa hộp, bánh bích quy xốp, cả thuốc lá thơm để cho họ vui chơi chuyện trò bên bếp lửa trại... Tất cả những món đó đều lấy trong “kho lưu động”, tức trong các đoàn xe tải của bạch quân vốn có một nội dung rất phong phú. Bấy giờ những đoàn xe như thế đêm ngày tuôn nườm nượp từ Vôrônej đến nơi đóng quân của Mamontôv, Buđionny đặc biệt căn dặn phải lấy cho thật nhiều súng các-bin mới của Nhật để thay thế cho những khẩu súng cũ đã nứt nẻ qua các trận đánh, đồng thời lấy cả những đồ dùng văn phòng nữa.
Được khu rừng và bãi lầy án ngữ hai bên, có thể ngủ cho đẫy giấc trước cuộc hành quân quan trọng sắp tới. Nhưng các chiến sĩ thấy cuộc hành quân này quan trọng đến nỗi ít ai có thể điềm tĩnh được: quần nhau với sáu sư đoàn kỵ binh sông Đôn không phải là chuyện đùa. Họ tắm rửa chải cọ cho ngưa không phải một cách qua loa, mà kỹ lưỡng đến mức có thể lấy khăn tay trắng lau thử cũng không thấy khăn giây một chút bẩn nào. Suốt ngày họ lúi húi sửa yên, mài kiếm. Trong các đơn vị không hề nghe thấy tiếng hát hay tiếng phong cầm: ai nấy chỉ lo bàn đến những vấn đề quan trọng đang đặt ra trước mắt. Trông thấy một chính trị viên đi qua, họ vẫy lại hỏi chuyện: này anh đảng viên cộng sản, lại đây hỏi tí nào... “Anh bạn đồng chí thân mến ơi, anh hãy nói cho chúng tôi nghe, trị xong thằng Mamontôv, có lẽ ta cũng nên đánh chiếm Vôrônej thôi chứ; ở đấy chúng nó chất bao nhiêu là của!...”. Anh chính trị viên trả lời rằng về chuyện Vôrônej thì hiện nay Xêmiôn Mikhailôvits chưa có chỉ thị gì. Bây giờ họ chuyển sang tranh luận: một đạo kỵ binh có thể đánh chiếm được một khu vực phòng thủ kiên cố không? Người thì nói là có thể được nếu tinh thần được cổ vũ đến cao độ, người thì khẳng định rằng đó là việc trái quy luật.
Đại đội của Têlêghin được giao nhiệm vụ cảnh giới, đóng ở sát bãi lầy. Ở phía nam trải ra một cánh đồng bằng, trên đó thỉnh thoảng lại thấy ẩn hiện những đội trinh sát của bạch quân. Ở phía này tập trung một trong ba đạo quân của Mamontôv. Đêm đêm có thể trông thấy ánh phản chiếu mờ mờ của những đống lửa trại hắt lên mây.
Trong đại đội kỵ binh, các chiến sĩ cũng bàn tán nhiều xung quanh trận đánh sắp tới, trong đó những khối kỵ binh đông đúc và hùng mạnh chưa từng thấy sẽ gặp nhau. Một kỵ binh kỳ cựu tên là Gorbusin kể chuyện rằng năm mười bốn trung đoàn Áo đánh rất dữ dội vào một sư đoàn khinh kỵ của ta, nhưng sau trận này quân Áo phải đưa hết cả đạo kỵ binh về hậu phương... Kỵ binh Áo công kích quân ta từ một ngọn đồi: họ tính chuyện dồn kỵ binh ta vào một thung lũng hẹp. Nhưng kỵ binh ta đã từ cái thung lũng ấy lao lên đồi, hai bên sườn có bốn đại đội Cô-dắc cầm dáo, ở giữa là các đơn vị U-lan, cũng vũ trang bằng dáo, và những đơn vị phiêu kỵ Akhtyr, mũ và áo quân phục kết những dải vàng, toàn những tay gan góc cả. Quân ta biết là quân Áo lao trên đồi xuống như vậy, đà rất mạnh, không thể nào quay trở lại được. Khi đã đến gần, chúng không ngờ quân ta xông lên hung hãn như vậy, muốn ghìm ngựa lại, nhưng đã muộn mất rồi! Quân ta cứ thọc dáo từ dưới lên, rất tiện; đâm xong thì bỏ luôn dáo, phóng qua hàng ngũ địch, quay lại chém bằng gươm, nhưng không chém vào vai, vì phía dưới lon vai chúng có đệm những miếng thép, mà chém ngang người... Thế là cả bốn trung đoàn cận vệ đều nằm lại trên đồi, kẻ thì bị chém đứt đôi, kẻ thì bị dáo cắm chặt xuống đất, thật là một cảnh tượng hãi hùng!
Latughin, vốn không thích có ai kể chuyện một cách hấp dẫn trước mặt mình, ngắt lời người kỵ binh già:
- Phải, quả có thế, cũng là chuyện thường thôi, đôi khi ngẫu nhiên nó sinh ra thế... Bây giờ anh thử kể cái chuyện ba chiến sĩ hồng quân của ta bắt sống một tiểu đoàn Đức đi... Anh không biết à? Ố-ồ! Đáng lẽ phải biết chứ...
- Nào kể đi, Latughin, - nhiều người giục.
Latughin đang ngồi trước đống lửa, sát mớ than hồng đang hắt một ánh sáng đo đỏ lên khuôn mặt hốc hác, sau gần ba tuần rong ruổi trên lưng ngựa nay chỉ còn lại rặt những gân là gân. Latughin, Gaghin, và Zađuyviter đã được Têlêghin đưa vào tiểu đoàn cảnh vệ của đại đoàn bộ ngay từ đầu, suốt hai tháng trời ăn không, hai má béo phị ra, và hiện nay họ được sung vào đội kỵ binh của chàng.
- Ở Quân đoàn Mười chúng tớ có một cậu tên là Lenka Stsur, một tay bạt mạng như cậu ta thì dù có tìm khắp bốn phương cũng khó lòng thấy được. - Latughin bắt đầu kể, hai tay chống lên đốc thanh kiếm mũi cắm xuống đất. - Mùa thu năm ngoái, hồi còn ở trong một đại đoàn Ukrain, hắn ta đi trinh sát với hai cậu nữa. Họ đang cưỡi ngựa đi ung dung như thế thì bỗng chạm trán phải quân Đức: gần một tiểu đoàn. Chúng đang đóng ở một địa điểm hẻo lánh, nấu xúp ăn...
- Chỉ nói láo, - một thính giả nói, - thằng Đức mà lại đi nấu xúp trong khi đang đóng ở một nơi hẻo lánh!
Latughin ném một cái nhìn nặng nề lên người vừa nói:
- Phải giải thích cho cậu hiểu tại sao chúng nó lại nấu xúp phỏng?... Được... Quân Đức lúc bấy giờ đang rút về nước: ở bên ấy cũng đã có cách mạng... Ở Ukrain xung quanh đấy tất cả các làng mạc đều đã nổi dậy, đặt súng máy quanh làng, không thể chui vào lối nào được: quân Đức đói meo đi... Bây giờ thì cậu hiểu rồi chứ? Quân Đức chưa kịp định thần thì Lenka đã lấy mảnh vải sạch buộc vào đầu kiếm và mạnh dạn cưỡi ngựa đến gặp chúng, nói: “Các anh hàng đi, các anh đã lọt vào vòng vây của một đạo kỵ binh hết sức hùng hậu. Chúng tôi sẽ không thèm dùng gươm làm gì, chỉ cần phi ngựa qua các anh cũng bị giẫm nát hết...”. May sao lúc bấy giờ lại có một tên phiên dịch ở đấy, hắn địch cho tên chỉ huy nghe. Tên chỉ huy tiểu đoàn là một hạ sĩ quan béo tốt, hắn trả lời Lenka: “Tôi không tin là anh nói thật...”. Lenka mới nói với hắn: “Anh không tin là đúng. Anh cứ lên ngựa đi với chúng tôi về đại đoàn bộ, ở đấy người ta sẽ đề ra cho các anh những điều kiện đầu hàng phải chăng...”. Quân Đức bàn bạc với nhau rất kỹ, tên chỉ huy nói: “Gút Morgen, đồng ý, chúng tôi sẽ cho người đi với các anh, số lượng gấp ba, hễ các anh làm điều gì khả nghi, chúng tôi sẽ bắn chết ngay dọc đường...”. Lenka nói: “Xin cứ việc, về phần chúng tôi thì không thể có gì gian trá được; chúng tôi là chiến sĩ cách mạng...”. Thế là họ cùng đi về đại đoàn bộ. Hai bên bắt đầu thương lượng. Quân Đức yêu cầu phải để cho chúng đi ra đến đường xe lửa và cấp cho chúng hai mươi lăm pút kê. Quân ta đòi quân Đức phải nộp vũ khí, trong đó có hai khẩu đại bác... Quân Đức giữ vững lập trường, quân ta cũng giữ vững lập trường. Trong khi đó Lenka cứ lăng xăng một bên, nói: “Đồng chí đại đoàn trưởng ạ, chúng nó đói cho nên mới khó tính thế, để tôi làm địch vận cho, đồng chí cứ ra lệnh xuất ít thịt mỡ thật ngon và bánh mì trắng ra đây”. Về cái khoản rượu thì cái thằng quỷ sứ ấy không nêu lên một cách chính thức, nhưng tay trưởng ban quản trị lại là cánh hẩu của hắn, thế là có ngay ba lít. Hắn ngồi với mấy thằng Đức trong một nhà dân, thái thịt mỡ, bánh mì, rót rượu ra ca và cứ thế nói hết chuyện này đến chuyện nọ; nào là ở Ukrain chúng tôi ăn uống ngon lành như thế nào, nào là dân nói chung rất dễ có cảm tình như thế nào. Hắn khen ngợi người Đức là đã đánh đổ được cái ông vua Vilhelm của họ. Và tuy lần này không có phiên dịch, quân Đức vẫn hiểu hết: Lenka xoa quả đấm lên lưng bọn chúng một cách thân mật như chỗ bạn bè, nắm lấy hai tai chúng nó mà hôn vào mặt, chẳng bao lâu bên bàn tiệc chỉ có hai người còn ngồi được: hắn ta và tên hạ sĩ quan chỉ huy quân Đức. Lenka nói thao thao bất tuyệt, còn thằng Đức thì chỉ cười, ngón tay lắc lắc... Tham mưu trưởng đại đoàn cho người đến hỏi dò xem công việc đã đi đến đâu rồi. Lenka đáp: “Chưa được, tên chỉ huy chưa cắn câu, phải thêm ba lít nữa mới xong...”. Ấy, đến khi cạn nốt ba lít ấy thì bên bàn tiệc chỉ còn lại một mình Lenka. Mấy thằng Đức phải ngủ lại. Sáng sớm hôm sau tên hạ sĩ quan để các bạn hắn lại làm con tin - dù sao thì chúng cũng say khướt, không sao lên ngựa được - và ra đi với Lenka. Đến tối hắn dẫn cả tiểu đoàn đến - khoảng bốn trăm tên cầm cả cờ đỏ... Số là buổi địch vận của Lenka đã làm cho hắn hài lòng quá...
Khi Latughin kể xong câu chuyện - đặc sắc hơn câu chuyện về trận Brôđy của Gorbusin nhiều -, và các chiến sĩ đã cười hả hê: người thì nhe răng hí lên như ngựa, người thì quệt nước mắt, người thì khoát tay kêu “ồ!” lên vì cười đau cả bụng. - bỗng thấy Rôstsin bước gần đống lửa ghé tai Latughin nói:
- Anh đi tìm ngay Gaghin và Đaduyviter, rồi cả ba người đến lều gặp tôi.
* * *
Trong làn sương mù ban mai trắng như sữa giăng khắp cánh đồng, năm người cưỡi ngựa phóng đi: Rôstsin trên con ngựa hồng, bờm húi ngắn, và trước chàng một nửa mình ngựa là Ôlêkô Đunđits, một người Xerbi nhỏ nhắn, chỉ huy một đại đội kỵ binh của Buđionny; trên con đường đấu tranh không khoan nhượng của anh, Đunđits đã tìm thấy một tổ quốc thứ hai, và với tất cả chất lửa của một con người chất phác, yêu đời và dũng cảm đến mức liều lĩnh, anh đã đem lòng yêu quý nước Nga rộng mênh mông và cuộc cách mạng rộng mênh mông của nó; Đunđits và Rôstsin đều mặc áo ca-pốt sĩ quan màu xám, vai đeo lon vàng; ở phía sau, Latughin, Gaghin và Zađuyviter gò người trên ba con ngựa đang phi nhanh, đầu đội mũ lưỡi trai đính quân hiệu bóp nhàu đi một cách ngang tàng, mình mặc áo khoác ngắn, vai đính lon thượng sĩ cô-dắc.
Họ có nhiệm vụ lọt vào Vôrônej, quan sát cách bố trí pháo, vị trí của các lực lượng kỵ binh và bộ binh, và cuối cùng là trao cho viên tư lệnh quân phòng thủ - tướng Skurô - một bức thư niêm phong của Buđionny.
Đunđits vốn yêu đời và thích bày những trò chơi nguy hiểm để đùa bỡn với cuộc đời. Vào những ngày tháng mười quang đãng này, khi những bắp thịt cứ cuộn lên dưới lần áo sơ mi quân phục mỗi khi người ta hít thở làn không khí mờ hơi sương sớm chứa đầy những mùi hương ngào ngạt, anh càng thấy ngứa ngáy chân tay không sao chịu nổi. Đunđits đã tự nguyện đến xin đảm đương việc trao bức thư cho Skurô. Anh đi tìm Rostsin và nói với chàng:
- Vađim Pêtrôvits ạ, có một cuộc phiêu lưu nho nhỏ này, anh đi thì hợp quá! Anh biết rõ tất cả các tập quán và tác phong kiểu cách của sĩ quan. Anh nhận lời đi Vôrônej với tôi một chuyến nhé. Chỉ mất có một ngày, sẽ được một chuyến phi ngựa thú vị. Buđionny đã hứa cho chúng ta mượn hai con ngựa riêng: con Petusôk và con Aurora...
Như thế này mà còn đắn đo cân nhắc xem có nên nhận lời hay không thì thật buồn cười. Chỉ có điều là Vađim Pêtrôvits hơi thấy khó chịu khi nghe nhắc đến những tác phong kiểu cách của sĩ quan. Nhưng rồi quả nhiên chàng đã phải bỏ ra một buổi tối để dạy cho các bạn biết rõ các cấp dưới phải đứng nghiêm, chào và trả lời câu hỏi của cấp trên như thế nào, dáng dấp bề ngoài của các sĩ quan tình nguyện phải ra sao: sĩ quan của quân Đrozđôv thì vẻ mặt bao giờ cũng đầy ý mỉa mai, thích đeo kính cặp mũi để tưởng nhớ ông quan thầy quá cố; sĩ quan Kornilôv thì có đôi mắt lờ đờ theo truyền thống cũ và gương mặt phản ánh một nỗi thất vọng khinh khỉnh, sĩ quan Markôv thì hay diện áo ca-pốt bẩn và cố phô trương những câu chửi tục tằn.
Họ đã ước định với nhau là hễ bị chặn lại hỏi thì trả lời: “Chúng tôi đưa đến Vôrônej một phong thư mật của quan chỉ huy trung đoàn tình nguyện dự bị mới ở miền nam đến đóng ở khu vực Katornaia”. Câu trả lời này vừa mập mờ vừa có sức thuyết phục.
Sau khoảng ba tiếng đồng hồ phi ngựa, trong làn ánh sáng trắng bệch lọt qua những đám mây màu chì từng lúc rồi lại tắt đi ngay, trước mắt năm người đã thấy thành phố Vôrônej hiện ra ở xa xa: những mái vòm nhà thờ, những tháp canh, những mái nhà đo đỏ. Suốt dọc đường đi họ không bị một đội trinh sát nào chận lại hỏi: chúng chỉ bắc ống nhòm nhìn năm người cưỡi ngựa đang phi về phía thành phố, rồi lại cho ngựa đi bước một như cũ. Đến một cái cầu gỗ bắc vội, họ bị chặn lại lần đầu tiên. Trên cầu có mấy người dáng dấp khá chững chạc đang đi đi lại lại, đầu đội mũ bình thiên không có lưỡi trai, mình mặc áo da cừu trắng giống như kiểu áo của đàn bà Ukrain, và không hiểu tại sao người nào cũng để râu xổm. Bên kia cầu, một tốp junker đang hút thuốc bên mấy cái công sự đầu cầu.
Đunđits dừng ngựa lại, nhảy xuống đất và bắt đầu thắt lại đai ngựa.
- Xuất trình mấy tờ chứng minh thư giả ra thì không nên, - anh nói khe khẽ - Nước sông lên to, tìm chỗ nào lội qua thì chỉ tổ ướt đến tận cổ, lại càng không nên. Chỉ có cách đi qua cầu.
- Được, ta sẽ chửi chúng nó một trận rồi qua cầu, - Latughin nói, vẻ mặt lầm lì.
Zađuyviter bỗng cười ngặt nghẽo:
- Ô! Các đồng chí ơi, cứ chọc mắt tôi đi, mấy người ở trên cầu là mấy ông pốp đấy, đội quân nhà Chúa đấy...
- Đi bước một, vui vẻ lên, tiến!... - Đunđits vừa nói vừa nhảy lên yên nhanh nhẹn như con mèo. Mấy người râu xồm ở trên cầu thi nhau quát: “Đứng lại! Đứng lại!”. Đunđits cho ngựa đi thẳng vào bọn họ, tay kéo căng dây cương, cựa giày chích nhè nhẹ vào sườn con Pêtusôk. Nhưng bọn kia huơ súng quát tháo ầm ĩ lên đến nỗi con ngựa gò mông lại, quất đuôi túi bụi. Đành phải đứng lại. Mấy cánh tay chìa ra định nắm lấy dây cương:
- Chúng mày điên rồi hẳn: dám giật cương của quan lớn à! Chúng mày là ai? Giấy tờ đâu?
- Im ngay! Lùi ngựa lại! - Đunđits điềm tĩnh nói qua vai với Latughin, rồi mỉm cười để lộ hàng răng trắng muốt dưới bộ ria ngạnh trê, anh cúi xuống nói với mấy gã râu xồm:
- Các anh hỏi giấy phép qua cầu phải không? Tôi không có giấy... Tôi là thượng tá Đunđits, còn đây là đội vệ binh của tôi.. Các anh thỏa mãn rồi chứ? Cám ơn...
Rồi Đunđits cười lớn, thúc ngựa mạnh đến nỗi nó thở hộc lên một tiếng, cất hai vó trước lên, phô cả cái bụng màu xám tim tím, rồi nhảy qua tốp người râu xồm lúc bấy giờ chỉ kịp nhảy sang một bên. Nhưng sau đó Đunđits lại ghìm ngựa ngay, cho đi bước một. Ở bờ bên kia đã bắt đầu báo động. Tốp junker bỏ thuốc lá đi, rồi vướng víu trong những tà áo ca-pốt dài chấm đất, chúng chạy về mấy dãy chiến hào đắp đất sét. Từ trong chiến hào, hai khẩu đại liên chĩa nòng vào tốp người cưỡi ngựa. Người chỉ huy công sự đầu cầu, một sĩ quan cao lớn có bộ mặt uể oải để ria mép, quát lớn:
- Ê, mấy người ở trên cầu kia, xuống ngựa, chuẩn bị giấy tờ... Đếm đến hai là chúng tôi nổ súng...
Cái giọng đai ra một cách lười biếng và xấc xược ấy, Rôstsin nghe quen thuộc đến nỗi chàng nghiến răng lại vì ghê tởm. Đunđits ngoảnh miệng về phía chàng nói:
- Không còn cách nào khác. Phải đánh úp thôi.
Tay Đunđits thò xuống đốc kiếm. Rôstsin nhanh tay gạt đi.
- Têplôv! - chàng quát gọi viên sĩ quan cao lớn. - Tôi đây mà, Vađim Rôstsin đây!
Đoạn chàng thong thả xuống ngựa và cầm cương dắt nó qua cầu một mình. Viên sĩ quan ấy chính là Vaxka Têplôv, trước kia là bạn cùng đơn vị của chàng - một tay bợm rượu, ngu ngốc và hay khoe khoang, mà có lần Rôstsin đã cảnh cáo nghiêm khắc là sẽ đánh vỡ mặt vì thói ngồi lê đôi mách và tính ti tiện. Têplôv nghi hoặc nhìn Rôstsin đang dắt ngựa đến, tay từ từ đút khẩu súng lục vào bao.
- Không nhận ra à? Chắc lại bí tỉ rồi chứ gì? Chào ông mãnh... - Rôstsin cứ để nguyên cả găng bắt tay hắn. - Cậu làm gì ở đây? Lại tập hợp được một đội râu xồm thế kia nữa, thật ngớ ngẩn! Lẽ ra bây giờ cậu phải chỉ huy một trung đoàn kia chứ... lại bị giáng phỏng? Vì say rượu chứ gì?
- Chà cậu thật! Ma mãnh ở đâu ấy! - Têplôv nói, giọng đơn đớt vì dưới bộ ria, thay cho hàng răng cửa là một lỗ trống hoác. - Vađim Rôstsin! - Hai miếng da thâm tím lùng nhùng dưới mắt hắn rung lên. - Thật như ở trên trời rơi xuống... Thế mà chúng tớ vẫn tưởng là cậu đào ngũ rồi...
- Cảm ơn!... - Rôstsin quắc mắt nhìn trừng trừng vào mắt hắn, Têplôv thấy khó chịu trước cái nhìn ấy và thấy rõ mình đừng nói tiếp câu chuyện đào ngũ nữa thì hơn. - Các cậu nghĩ về tôi tốt quá nhỉ... Suốt thời gian ấy tôi ở Ôdexxa, trong đơn vị của Gusin-Almazôv... Bây giờ tôi làm trưởng ban tham mưu trung đoàn dự bị Năm mươi mốt. Có lẽ cứ đưa giấy tờ cho cậu xem nhé?... - chàng hỏi, giọng thách thức, rồi quay lại vẫy tay: - Đunđits lại đây, không cần xuống ngựa...
Têplôv chỉ tức giận thở phì phò. Xưa nay hắn vẫn sợ Rôstsin:
- Thôi đừng vớ vẩn nữa... Cậu ăn nói với tớ cái kiểu gì thế? Các cậu đi đâu đấy?
- Đến gặp tướng Skurô. Chúng tôi đưa một trung đoàn đến tiếp viện cho các cậu. Nghe nói ở đây các cậu sợ Buđionny lắm thì phải...
- Phải, ở đây cứ như cái nhà thổ, hỗn loạn cả lên... Họ động viên hết cả thường dân, toàn những tướng tá về hưu với lại một mớ công chức khốn nạn... Họ lại còn khoác quân phục cho một lũ pốp gửi ra đây nữa...
Rôstsin rút hộp thuốc lá ra, trong đựng toàn thuốc ngoại, mới lấy hôm qua trong đoàn xe tải của lữ đoàn bộ. Têplôv châm lửa hút, phun khói thơm vào bộ ria.
- Chà! - hắn ngạc nhiên kêu lên: - Ma mãnh ở đâu ấy, thuốc lá ngoại chính hiệu! Cậu lấy đâu ra thế? Ở đây phát toàn thuốc lá mộc đắng nghét, nóng cháy cả họng. Cậu cho tớ lấy vài điếu để dành...
- Nói chung bây giờ cậu thế nào hả Vaxka?
- Chả ra cái gì: không có tiền... chán lắm rồi... - Hắn gườm gườm nhìn Đunđits vừa xuống ngựa và ba người kỵ binh lầm lì đứng ở phía sau. - Nếu các ngài hy vọng vui chơi ở Vôrônej chuyến này thì chẳng xơ múi gì đâu... Bọn đỏ chết tiệt vét sạch hết rồi, không còn lấy một tiệm rượu, một nhà chứa nào, chẳng có chỗ nào mà nghỉ ngơi hết...
- Làm quen đi, - Rôstsin nói, - thượng tá Đunđits.
- Thượng úy Têplôv.
Hai người giơ tay lên vành mũ chào nhau. Đunđits nói, khuôn mặt rám nắng có đôi mắt tinh nhanh cười nhăn nhở:
- Tiếc thật, tiếc thật, thế mà chúng tôi cứ mơ ước phen này được vui chơi thỏa thích... Chúng tôi có mang theo một ít tiền đây...
- Dĩ nhiên ở các nhà tư cũng có thể kiếm được con gái, rượu vôđka thời Nikôlai cũng kiếm được, còn sâm-banh thì bọn đầu cơ còn cất nhiều đấy... Năm trăm rúp một chai! Thế là làm sao nhỉ? - đôi mắt hum húp luôn luôn chảy nước mắt sống của Têplôv tỏ vẻ căm phẫn. - Bộ chỉ huy thành coi bọn đầu cơ này như những ông Thánh... Những vị cứu tinh của tổ quốc! Cậu ạ, dạo ở Tambôv chúng tớ đánh chén một bữa ra trò... Tính ra mới biết là đã hết một món tiền kếch xù, chúng tớ làm gì có tiền mà trả? Thế là tớ quai luôn, cho nên mới bị cách chức... Vađim ạ, ở các đơn vị tinh thần rất bạc nhược. Rốt cuộc thì chúng mình hy sinh cả cuộc sống... Tuổi trẻ cứ trôi đi... Nhưng tiền đồ có những gì? Một thành Moxkva hoang tàn? Cảnh túng quẩn... Cậu thì sướng rồi, cậu đã tốt nghiệp đại học, hết chiến tranh cậu chỉ có việc vứt phăng cái áo lính đầy rận đi và lên bục giảng... Còn tớ thì cứ thế mà kéo lê cái kiếp lính tráng... Vả lại chúng nó có cho ta tổ chức một quân đội cho ra hồn đâu...
- Ông thượng úy ạ, ông cần phải giải trí cho nó khuây khỏa đi, - Đunđits nói, - Ta vào thành phố đi. Chúng tôi chỉ có việc chuyển phong thư cho quan tư lệnh là xong: tha hồ chơi cả đêm... Tôi sẽ xin chịu trách nhiệm về cái khoản sâm-banh.
- Quái quỷ thật! - Têplôv vừa nói vừa gãi tai - Tự dưng bỏ vị trí thì không tiện...
- Cậu cứ giao lại cho cậu nào cấp cao nhất trong trung đội, - Rôstsin nói, - còn đối với tư lệnh thành thì cậu cứ nói là phải theo sát chúng tớ vì cậu hơi nghi chúng tớ là trinh sát hồng quân cải trang... Quá lắm họ cũng chỉ đến nhiếc cậu ngu ngốc là cùng...
Têplôv há cái miệng sún hết răng ra cười hềnh hệch rồi giụi mắt nói:
- Ý hay đấy! Tớ sẽ bảo là tớ định bắt các cậu nữa...
- Đúng...
- Thượng sĩ Gvôzđiev! - Têplôv quát, giọng đã tươi tỉnh và vang lên sang sảng, người quay về phía chiến hào, nơi mấy gã junker lại đứng buồn thiu bên hai khẩu súng máy. Và khi viên thượng sĩ, một thằng oắt con mười tám tuổi có đôi mắt xanh trâng tráo bước lại gần và giơ tay lên lưỡi trai chào rất chững chạc, cánh tay đưa thẳng lên vai, Têplôv trao quyền chỉ huy lại cho hắn và sai dắt ngựa ra.
Trên đường vào thành phố, người cứ ngọ ngoạy trên yên vì sốt ruột, Têplôv kể hết cho các bạn nghe những điều cần biết: ở Vôrônej có những đơn vị nào, bao nhiêu cỗ pháo, đặt ở đâu...
- Một tình trạng hoảng loạn chó má, chẳng có gì hơn... Các ngài thử nghĩ mà xem: Ở Orel, Kupêtôv thua một trận liểng xiểng, quân lính ỉa ra cả quần... Trước kia có bao giờ đến nỗi thế... Vađim, cậu có nhớ hồi chiến dịch băng giá không? Bấy giờ chúng tớ có một thành ngữ nói: “đánh mất tim”. Đúng, đúng, có một cái gì đã mất hẳn: cái chất lửa trước kia... Mà dân Mu-gích ở đây cũng khốn nạn lắm: chúng nó nhìn mình gườm gườm như bầy sói... Đúng, tướng quân Kutêpôv nói rất đúng khi ngài cãi lại quan tổng tư lệnh: “Moxkva có thể chiếm được với điều kiện là đem lại cho dân cư một cuộc cải cách điền địa và một cái giá treo cổ...”. Sao cho không có cột dây thép nào bỏ không... Treo cổ như thời Pugatsôv ấy: từng làng liền... Nhưng thôi, nói mãi những chuyện ấy chán lắm - Anh em có cho tôi một địa chỉ: hai chị em, hai cô gái rất niềm nở, biết đánh ghi-ta, biết hát tình ca, đẹp mê hồn! Này, bây giờ thế này nhé: ta đi thẳng ngay đến nhà hai con bé ấy đi...
Có thể thấy rõ là quân lính ở đây đều biết Têplôv, mấy đội tuần tiễu gặp giữa đường chào hắn rồi đi thẳng, thậm chí cũng không thèm nhìn Đunđits và Rôstsin nữa. Đến phố chính, họ dừng lại trước cái cổng gang của một tòa khách sạn. Têplôv xuống ngựa, đứng chạng hai chân ra nói, vẻ sượng sùng:
- Tôi không lên đâu, chỉ thêm phiền. Tôi đứng ở đây cũng được... Bộ tổng tham mưu ở tầng hai... Nhưng các ngài nhanh lên nhé. - Đoạn quay sang nói với tên lính cô-dắc Kuban mặt rỗ để bộ ria Mông Cổ đứng ở cổng: - Để cho các vị này vào, thằng bị thịt kia...
Đunđits và Rôstsin leo lên cái cầu thang bằng gang chạm trổ. Trên phong thư của Buđionny có đề: “Gửi thiếu tướng Skurô. Thư riêng. Mật”. Họ quyết định chuyển thư qua viên sĩ quan phụ tá. Bộ phận văn thư đặt ở gian phòng ăn của khách sạn, bao nhiêu cửa sổ đều đã mất cánh. Đunđits và Rôstsin bước vào, và ngay lúc ấy có hai người khác từ một cửa đối diện cũng bước vào phòng: một người cao lớn vạm vỡ có bộ râu má rậm viền hai bên khuôn mặt hẹp một cách thô bạo, chống cái nạng làm cho chiếc áo khoác quân phục cấp tướng màu xám nhạt hếch lên một bên nách. Rôstsin nhận ra Mamontôv. Người kia mặc chiếc áo Tserkex màu nâu, mặt đỏ bừng, gò má cao, sống mũi hếch lên để lộ hai lỗ mũi rộng - một bộ mặt côn đồ. Đó là tướng Skurô. Hai người dừng lại bên cạnh một cái bàn, nơi một viên sĩ quan tham mưu mặc cái quần ống rộng như hai cánh dơi đang đọc một công văn gì đây cho một cô thư ký tóc vàng xinh xẻo ghi lại trên máy chữ Underwood, hai tay nhấc lên rõ cao.
Rôstsin chỉ Skurô cho Đunđits hỏi: “Bây giờ phải làm gì đây?”. Vừa lúc ấy Mamontôv ngoảnh lại. Trông thấy viên sĩ quan lạ mặt, y cất cái giọng trầm trầm ra lệnh:
- Các ngài lại đây...
Rôstsin đứng nghiêm bên cửa ra vào. Đunđits đến cạnh Skurô:
- Tôi xin trao quan lớn phong thư này.
Lúc bấy giờ Skurô đứng gần như quay lưng về phía Đunđits. Y không quay lại, chỉ ngoảnh cái cổ lực lưỡng, nước da đỏ au, bị cái cổ áo đeo lon thít chặt vào, nhấc cái môi trên giống mõm sói lên hỏi:
- Thư của ai?
- Của quan trung đoàn trưởng trung đoàn dự bị Năm mươi mốt, vừa đến hữu ngạn sông Đôn để tự đặt dưới quyền chỉ huy của ngài...
- Lại cái trung đoàn Năm mươi mốt nào đây nữa? - Bây giờ Skurô đã quay hẳn lại, nhưng vẫn nói một giọng khó chịu. Y cầm lấy phong thư, trở di lật lại trong mấy ngón tay. - Ai là chỉ huy?
Vađim Pêtrôvits đứng ở cửa, có một cảm giác lành lạnh khó chịu sau sống lưng. Chàng từ từ thọc tay vào túi áo khoác cầm lấy báng súng lục. Kết quả đâm ra ngớ ngẩn, vụng về và vô bổ... Đunđits lại sắp tuôn ra một cái tên quái gở nào đây... Tiếc thật! Lẽ ra có thể đem về cho Buđionny những tài liệu quý giá...
- Người chỉ huy trung đoàn chúng tôi là bá tước Sambesten, - Đunđits trả lời không chút do dự, đôi mắt tươi vui bắt gặp cái nhìn chênh chếch ném ra từ đôi mắt thiếu ngủ, vàng khè khè của Skurô. - Quan lớn cho phép?
- Khoan đã, thượng tá, khoan đã, - Mamontôv vụng về xoay người trên chiếc nạng gỗ. - Cái tên nghe quen quen nhỉ, xin phép ông một chút. - Khuôn mặt phốp pháp, tuấn tú của y nhăn nhúm lại vì đau: vì một động tác vụng về, y đã làm cho cái chân bó bột đau nhói lên (cái chân này đã bị một viên đạn bắn gãy tuần trước, khi y ngồi xe tam mã chạy trốn trước mặt Buđionny). - Ồ, quỷ thật!... Thôi ông thượng tá đi đi...
Đunđits cộp gót ủng chào, quay phắt trở lại rồi đi ra cửa. Rôstsin trông thấy Skurô vừa nói gì với Mamontôv lúc bấy giờ vẫn còn nhăn nhó vì đau, vừa từ từ xé phong bì ra. Phong bì đựng một bức thư ký tên Xêmiôn Buđionny. Nội dung bức thư thì Đunđits và Rôstsin đã biết rõ:
“Ngày 24 tháng mười, đúng sáu giờ sáng, ta sẽ vào Vôrônej. Ta ra lệnh cho tướng Skurô phải cho tất cả các lực lượng phản cách mạng đứng thành đội ngũ chỉnh tề trên quảng trường thành phố, cạnh các vòng cột, nơi ngươi đã treo cổ thợ thuyền. Ta ra lệnh cho ngươi thân hành chỉ huy cuộc duyệt binh...”
Đunđits và Rôstsin xuống cầu thang. Một đội junker cầm súng nối đuôi nhau đi ngược lên phía họ. Rôstsin có cảm giác là anh chàng Đunđits nhỏ nhắn đang vênh váo đi trước mặt mình, cựa giày kêu lẻng xẻng từng tiếng một, bước chậm quá... Một lối huênh hoang dại dột và vô ích!
Từ trên tầng hai dội xuống một tiếng hét khàn khàn, nghe rất gắt... Đunđits và Rôstsin đi ra cổng. Từ ngoài vỉa hè Têplôv đâm bổ về phía họ. Cái mặt rỗ hoa với bộ ria quặp của hắn đang khao khát rượu sâm-banh, tình ca và gái đẹp...
- Ờ, hai vị đây rồi, may quá... Ta đi đi...
Một chân xỏ vào bàn đạp, hắn nhảy lò cò trên chân kia quanh con ngựa đang quay trở lung tung. Rôstsin đã lên yên. Đunđits rút hộp thuốc lá ra châm một điếu. Mấy ngón tay rám nắng, khô đét của anh hơi run. Xong xuôi đâu đấy anh ta mới ném que diêm đang cháy dở đi, cầm lấy cương ngựa trong tay Latughin và hô to, giọng rất đanh.
- Ngõ thứ nhất, rẽ trái, nước kiệu, tiến!
Chỉ qua mươi nhà là đến cái ngõ ấy: Latughin, Gaghin và Zađuyviter, vó ngựa gõ lóc cóc trên mặt đường lát đá, rẽ vào trước, Têplôv ghìm ngựa, quay lại gào tướng lên:
- Các ngài ơi, ngõ sau kia chứ, rẽ sang phải...
Nhưng con ngựa cứ đưa hắn theo cả bọn rẽ sang trái. Đến góc phố, Rôstsin ngoảnh lại và thấy từ trong cổng khách sạn có một tốp junker chạy ra, nhớn nhác nhìn quanh, tay lên quy-lát lách cách.
- Rôstsin, quỷ quái ở đâu thế này! - Têplôv gần phát khóc lên, quát theo. Lúc bấy giờ ngựa của hắn đã chuyển sang nước đại cùng với cả tốp, Đunđits cho ngựa ép sát vào ngựa Têplôv, nghiêng người sang nắm chặt lấy cổ tay hắn, giật rơi dây đeo súng của hắn và rút khẩu súng ra khỏi bao. - Thôi, sâm banh để lần sau nhé! - Đunđits nhe răng ra nói với hắn.
Bây giờ Đunđits, Rôstsin và ba chiến sĩ đang phi hết tốc lực trên dãy phố cong qua những ngôi nhà nhỏ, những dãy rào, những cây bồ đề già mà những cành trụi lá chốc chốc lại vướng vào mũ họ. Phía sau có những tiếng súng nổ rời rạc. Không giảm tốc độ, họ phi qua cánh đồng, rồi khi đến gần cái cầu ban nãy họ lại chuyển sang nước kiệu, rồi cuối cùng cho ngựa đi bước một về phía công sự đầu cầu. Đunđits vỗ vỗ lên cổ con ngựa đang bốc hơi, gọi to:
- Thượng sĩ Gvôzđiev! - và khi hắn ta đến gần, điếu thuốc lá giấu trong ống tay áo: - Thượng úy Têplôv nhờ tôi nói lại với anh là nửa tiếng nữa ngài sẽ trở về. Sáng ngày hai mươi bốn chúng tôi lại đến đấy, vậy nhớ đừng đưa súng máy ra mà dọa chúng tôi...
- Thưa thượng tá, xin tuân lệnh...
Khi cái cầu đã tụt xa về phía sau, trời đã sâm sẩm tối, họ cho mấy con ngựa đang bốc hơi nghi ngút đã bắt đầu vấp chân dừng lại nghỉ. Đunđits nói với Rôstsin:
- Tôi rất ân hận trước mặt anh và trước mặt các đồng chí... Đã bao nhiêu lần tôi tự nhiếc móc vì cái tội huênh hoang... Sự nguy hiểm làm cho tôi say sưa, trí óc sắc bén hẳn lên. Tôi đâm ra say mê bản thân mình mà quên mất mục đích và trách nhiệm... Rồi về sau bao giờ cũng hối hận... Ví thử bây giờ các đồng chí xuống ngựa, cầm chân tôi lôi xuống đâm chết tại chỗ, thì tôi cũng không giận, còn cảm thấy nhẹ lòng nữa là khác...
Rôstsin ngửa đầu ra cười ha hả: chàng cũng cần tự giải thoát ra khỏi cái tình trạng căng thẳng kéo dài đang đè nặng lên thần kinh.
- Đúng đấy, Đunđits ạ, lẽ ra cũng nên vụt cho anh một trận nên thân, nhất là về cái điếu thuốc lá trước cổng khách sạn ấy...
* * *
Mưu của Buđionny đã có tác dụng. Mamontôv và Skurô sau khi đọc bức thư trao tận tay cho họ một cách táo gan và xấc xược chưa từng thấy ấy, đã lên một cơn thịnh nộ không sao tả xiết. Muốn viết một bức thư như vậy, lại còn định trước cả ngày giờ chiếm Vôrônej, cần phải tin chắc ở sức mình. Như vậy nghĩa là Buđionny rất tự tin. Hai viên tướng mất hết cả điềm đạm.
Kế hoạch của Buđionny nhằm đánh bại kỵ binh của bạch quân là như sau: tập trung hết lực lượng phản công lần lượt đánh tan từng đạo một trong số ba đạo kỵ binh, gồm các sư đoàn sông Đôn và sông Kuban đang tìm cách bao vây ông. Từ trước tới nay chúng còn chần chừ chưa tấn công, chỉ cho trinh sát hoạt động. Nhưng bây giờ thì ông tin chắc rằng chúng sẽ nhắm mắt lao thẳng vào ông.
Đêm rạng ngày mười chín tháng mười trinh sát của Buđionny cho biết rằng quân địch đã bắt đầu xuất quân. Giờ huyết chiến đã điểm. Xêmiôn Mikhailôvits đang ngồi với hai sư đoàn trưởng của ông bên tấm bản đồ, dưới ánh nến, nói: “Chúc các bạn xuất quân may mắn” và sai truyền lệnh của sư đoàn, trung đoàn, đại đội: “Lên yên”!
Trong một căn nhà gỗ súc tối om, hay giữa đồng, trong một chiến hào nhỏ lợp cành cây hay cỏ khô, hoặc bên cạnh một đun rạ, những chiếc máy điện thoại dã chiến réo lên. Trong đôi ống nghe chụp lên tai, các chiến sĩ điện thoại viên đã được nghe cái mệnh lệnh mà họ chờ đợi từng giờ. Những anh liên lạc nhảy phóc lên yên, vừa phi vừa xỏ chân vào bàn đạp, lao đi trong đêm tối. Các chiến sĩ, cứ để nguyên áo quần mà ngủ trong cái đêm lặng gió tối mịt như mồ quân thù này, bừng tỉnh khi nghe tiếng hô kéo dài: “Lên yên!”. Họ nhảy bật dậy, xua tan cơn buồn ngủ, chạy ra chỗ buộc ngựa và hối hả thắng yên cương, rút đai yên mạnh đến nỗi ngựa phải lảo đảo.
Các đại đội kỵ binh ra tập hợp trên cánh đồng, nghe theo những tiếng hô đang vang dội trước hàng quân mà tìm chỗ đứng của mình. Họ đã xếp thành đội ngũ và đứng đợi hồi lâu, mắt hướng về phía chân trời nơi ánh rạng đông sắp hửng sáng. Chốc chốc mấy con ngựa lại thở dài một tiếng nặng nề như chúng vẫn thở trong giấc ngủ đêm. Hơi sương lạnh và ẩm luồn vào trong những tà áo va-rơi, áo khoác ngắn và áo ca-pốt lính mỏng manh. Mọi người đều im lặng, không ai hút thuốc.
Thế rồi xa xa vang lên tiếng súng đầu tiên. Các chính ủy lên tiếng:
“Các đồng chí, Xêmiôn Mikhailôvits đã ra lệnh cho chúng ta đánh tan quân địch... Những tên lính đánh thuê của giai cấp tư sản đang cố tràn về Moxkva... hãy tiêu diệt chúng nó! Hãy lập chiến công oanh liệt, giành lấy vinh quang cho quân đội cách mạng!”
Sương mù phủ kín cánh đồng, che hẳn ánh bình minh. Tám trung đoàn của Buđionny khai triển trên một tuyến dài gần mấy dặm, chuyển mình phi lên thành một khối dày đặc, tiếng vó ngựa nặng nề vang rền trên thảo nguyên. Trong làn sương mù đặc quánh như sữa, mỗi chiến sĩ chỉ trông thấy hai người bạn đồng ngũ phi hai bên, bàn đạp gần chạm vào bàn đạp của mình, và những cái mông ngựa nhấp nhô ở trước mắt. Quân địch mỗi lúc một gần. Đã nghe rõ những tiếng súng lộn xộn của chúng. Các chiến sĩ đang giục ngựa phi nhanh thêm mãi đã bắt đầu vuơn cổ ra phía trước, cố nhìn cho ra quân địch... Thế rồi trong cả đoàn quân một tiếng reo truyền đi, mỗi lúc một to hơn, giận dữ hơn, hung hãn hơn. Những hàng trước đã trông thấy địch...
Từ trong sương mù bắt đầu hiện ra, mỗi lúc một to dần lên, những bóng người ngựa đang quay cuồng. Gan đởm của những gã cô-dắc sông Đôn đã không chịu đựng nổi. Họ cũng đang phi tới thành một khối dày đặc như vậy... Phải, chắc hẳn chính quỷ Xa-tăng đã đưa họ đi xa làng mạc quê hương đến chốn này để đọ gươm với lũ quỷ đỏ kia. Họ đã nghe rõ cả cánh đồng vang dội và rung chuyển dưới vó ngựa, họ đã hiểu một sức mạnh ghê gớm đến nhường nào sắp lật nhào cả người lẫn ngựa, xáo trộn tất cả lại thành một cơn lốc quay cuồng, chồng chất lên từng đống xác máu me... Và như thế để làm gì? Bọn cô-dắc chỉ còn hy vọng vào những con ngựa sông Đôn phi nhanh như gió: họ bắt đầu ghìm ngưa quay ngược trở lại... Họa chăng chỉ có những tên liều lĩnh nhất đang say máu mới phi thẳng vào giữa hàng ngũ quân Buđionny, vung gươm chém ngang chém dọc...
Những con ngựa sông Đôn đã không cứu nổi họ. Những người đã quay trở lại xô phải những người đang lao tới... Quân của họ xô ngã lẫn nhau... Các chiến sĩ của Buđionny tha hồ chém giết, xéo nát dưới chân ngựa, rượt theo những kẻ đang chạy thoát thân... Những tiếng gào thét man rợ vang lên... Trong sương mù, đâu đâu cũng thấy những cặp kỵ binh đuổi riết theo nhau: kẻ phía trước cúi rạp xuống bờm ngựa, người rượt theo sau vượt lên nghiêng hẳn người trên yên vung gươm chém sả xuống... Những con ngựa phát điên cắn xé, hí lên những tiếng man dại.
Bây giờ tất cả các trung đoàn cô-dắc đều đã quay lưng chạy. Nhưng rất sâu về phía sau, từ bên sườn đã có những chiếc xe tatsanka chở súng máy chặn đường họ, hỏa lực dữ dội bắn giạt họ sang một bên. Đến đây lại có những đội kỵ binh Buđionny mới xuất hiện đâm thẳng vào những đám người ngựa hỗn loạn đang giẫm lên nhau mà chạy.
Cuộc truy kích hai sư đoàn của Mamantôv tiếp tục cho đến khi trời sáng hẳn. Mấy nghìn cái xác mặc quân phục cô-dắc - áo besmet màu xanh và quần rộng ống có nẹp đỏ - nằm ngổn ngang trên chiến trường. Mấy con ngựa mất chủ sợ hãi chạy lung tung giữa những xác người.
Đến bữa ăn, quân Buđionny tập hợp thành một cái trại lộ thiên khổng lồ trên cánh đồng, quây quần xung quanh những cái bếp dã chiến bằng đồng sáng loáng cướp được của địch. Trên bếp, nồi cháo kê kales cổ truyền đang bốc hơi nghi ngút, ngoài thịt mỡ ra, lần này trong cháo lại có thêm cả mì ống, gạo, đậu cô-ve, thịt nạc ướp muối và đủ các thứ gia vị. Ăn uống đã no nê, các chiến sĩ châm thuốc hút và đem chiến lợi phẩm ra khoe với nhau: người thì khoe vũ khí vừa cướp được - một thanh gươm kỵ binh vỏ bạc hay một khẩu các-bin Nhật - người thì khoe con ngưa sông Đôn chuyên nước đại: lông đỏ, có cái vệt trắng chạy dọc trán, chân có “bít tất” trắng.
Tâm trạng phấn khích của chiến trận không hề lắng xuống: trái lại. Đâu đâu cũng rộn rã tiếng phong cầm và tiếng đồng ca có bè đệm: “Những đám mây vẫn lờ lững trên không, và sương mù bao phủ cánh đồng”. Đây đó, trong tiếng đàn balaika thánh thót, các chiến sĩ giẫm gót giày nhảy múa, và trong tiếng huýt sáo nhộn nhịp, họ vung đôi tay lên như con thiên nga vung cánh, ngồi thụp xuống sát đất mà nhảy lia lịa.
Nhưng tiếng kèn trận lại rúc một hồi dài. Lại ra trận, lại bắt tay vào công việc khó khăn. Xa xa, Buđionny cưỡi ngựa thong thả đi qua, mặc áo burka và đội mũ lông óng ánh bạc. Các trung đoàn lại tập hợp đội ngũ chỉnh tề, tám lá quân kỳ đỏ rực bay phất phới ở giữa.
Cuộc bại trận khủng khiếp của đạo quân thứ nhất buộc quán Mamontôv phải đình chỉ việc vây hãm Buđionny. Kế hoạch ban đầu bị hủy bỏ. Buđionny lập tức lợi dụng tình trạng lúng túng của đối thủ. Ngay tảng sáng hôm sau quân Buđionny tập kích vào đạo quân thứ hai của Mamontôv. Đạo quân này cũng không chống chọi nổi, phải lùi về phía đường sắt để dựa vào sự yểm hộ của một đoàn tàu bọc thép. Đoàn tàu từ Vôrônej kéo đi, lăn bánh ầm ầm qua các cầu sắt. Trong những ổ súng bằng thép, các sĩ quan pháo binh đứng bên những khẩu đại bác trăm hai mươi ly và những khẩu đại liên nhìn chăm chăm vào lớp sương mù đang loãng dần. Thỉnh thoảng trên đoạn đường sắt phía trước lại hiện lên bóng dáng một tín hiệu viên đang phất cờ.
Đoàn tàu bọc thép dừng lại một phút, lấy tin tức tình báo. Nhờ đó, những người ở trên tàu được biết tình hình nguy ngập của đạo quân thứ hai đang bị quân Buđionny dồn vào đường xe hỏa.
Đoàn tàu tăng tốc độ. Còi tàu cất cái tiếng khàn khàn lên rúc liên hồi không ngớt, báo hiệu cho kỵ binh trắng biết rằng lực lượng cứu viện đã đến gần.
Các pháo thủ đang nhìn qua châu mai của ổ súng bỗng trông thấy một cái bóng mờ mờ trong sương mù, đang theo đường sắt đi ngược về phía tàu bọc thép. Đoàn tàu hãm máy và bắt đầu chạy lùi trở lại. Họ bắn đại bác vào cái bóng đang to dần lên rất nhanh. Nhưng muộn mất rồi. Một cái đầu máy cỡ lớn không có người lái phóng hết tốc lực lao vào cái toa thép ở đầu đoàn tàu. Phía trước và hai bên cái đầu máy đều chất đầy bộc phá. Một tiếng nổ long trời. Đạn đại bác trong toa thép bắt đầu nổ theo. Trong một cơn lốc đất, cát, đá, lửa, hơi, khói, toa bọc thép dựng đứng lên rồi đổ ập xuống, đè bẹp và lôi xuống bờ đường cả con rùa thép khổng lồ.
Đạo quân thứ hai của Mamontôv chạy về Vôrônej. Đạo quân thứ ba, chưa lâm trận, cũng bắt đầu rút về đấy. Nhưng Buđionny buộc nó phải ứng chiến vào ngày thứ tư của cuộc tàn sát khủng khiếp chưa từng có này, và đã đánh cho nó một trận tơi bời. Trên một diện tích rộng mấy dặm, những xác lính cô-dắc nằm ngổn ngang khắp đồng nội và đồi núi.
Bị đánh tan tác, với những trung đoàn đã mất hết một nửa quân số, tất cả các sư đoàn cô-dắc sông Đôn và sông Kuban rút sang bên kia sông. Sáng sớm ngày hai mươi bốn tháng tư quân chủ lực của Buđionny cũng tiến về phía ấy. Cái cầu gỗ do tốp linh mục và đội junker của Têplôv canh giữ đã bị bỏ lại, không kịp nổ mìn. Từ phía thành phố có mấy trận địa pháo bắn ra, tung lên những cột bùn và nước... Buđionny cưỡi ngựa đến gần cầu thì thấy rõ ràng cái cầu bắc vội này không thể chịu nổi sức nặng của kỵ binh và đại bác. Ông gọi đội nhạc công cầm kèn bạc đến, ra lệnh cho họ sang bên kia cầu chơi những điệu nhạc thật vui tươi và hùng dũng: những bài hành khúc và những điệu polka. Các sinh viên nhạc viện, vẫn ăn mặc như khi họ bị bắt - áo khoác ngắn cũn cỡn, vai đính lon đỏ viền vàng - chạy qua cầu, vừa sang bên kia thì một quả trái phá bắn trúng giữa cầu. Cầu sập. Trong tiếng đạn đại bác nổ ầm ầm ở xung quanh, đội nhạc công, sợ gần chết, bắt đầu lấy hết sức bình sinh thổi kèn thật to...
Mỗi chiến sĩ kỵ binh được giao một quả đạn đại bác. “Tiến lên! Tiến lên!” - các chính ủy và các cấp chỉ huy hô lớn. Những hàng đầu của đội kỵ binh lao xuống dòng nước giá lạnh đang sôi sục và bắn lên tung tóe vì những quả đạn đại bác đang rót xuống tới tấp. Đến chỗ sâu, các chiến sĩ xuống ngựa và bơi sang, một tay nắm bờm ngựa, tay kia ôm đạn đại bác. Những cỗ xe kéo pháo cũng lao xuống dòng sông đang réo lên dữ dội, kéo đại bác lăn trên dòng sông. Người và ngựa ướt sũng, những đơn vị đã qua sông hung hãn lao thẳng vào Vôrônej. Nhưng ở đây các sư đoàn của Mamantôv và Skurô cũng không ứng chiến, chúng hối hả rút qua sông Đôn, về phía Kaxtornaia.
Trận tiêu diệt những đơn vị kỵ binh ưu tú nhất của bạch quân và chiếm lĩnh Vôrônej là một trong những khâu mở đầu của cái kế hoạch quân sự đồ sộ do bộ tư lệnh mới của Mặt trận miền Nam vạch ra.
Những bản sao kế hoạch này, in trên giấy màu xanh nhạt, phía dưới có ký tên Xtalin, được gửi đến cho các tư lệnh quân đoàn, lữ đoàn, các sư đoàn trưởng và trung đoàn trưởng. Trong bản kế hoạch có dự kiến một cách cặn kẽ nhiệm vụ tác chiến của tất cả các đơn vị thuộc Mặt trận miền Nam. Những nhiệm vụ này đều hoàn toàn có thể thực hiện được, và bất cứ chiến sĩ hồng quân nào cũng có thể hiểu rõ. Phần đầu của những cuộc hành quân được dự kiến trong kế hoạch bao gồm khu vực Orel-Krômy (quân cận vệ của Đênikin dưới sự chỉ huy của tướng Kutêpôv, kẻ đã thề sẽ tiến vào Moxkva trước tiên, đang rút lui ra khỏi khu vực này sau khi bị đạo quân biệt động của Xergô Orjônikiđzê đánh tan tác) và khu vực Vôrônej-Kaxtornaia (ở đây lữ đoàn Buđionny có nhiệm vụ cắt đứt chiến tuyến của bạch quân ở chỗ giao điểm của Quân đoàn sông Đôn và Quân đoàn tình nguyện). Những cuộc hành quân này sẽ kết thúc bằng việc đánh chiếm Roxtôv-na-Đônu: hồng quân sẽ tiến vào đây qua cái đột phá khẩu vừa hình thành trong khu mỏ Đônbaxx vô sản.
Một biến cố bất ngờ đã xảy ra. Nó bất ngờ đối với những kẻ đã bắt đầu xếp sẵn va-ly trong các khách sạn tồi tàn, tin chắc rằng đến Tết quân Pháp sẽ vào Moxkva, đem theo rượu sâm-banh, sò huyết và cả hoa lan tím nữa; nó bất ngờ đối với những kẻ trước kia vẫn nhẫn nhục ngồi đợi hàng giờ trong phòng khách của vị chúa tể của châu Âu, nhưng bây giờ đã hầu như coi mình là đại diện của nước Nga lập hiến, ngẩng cao mái đầu bước thẳng vào phòng làm việc của Clêmănngxô, nơi củi đang nổ tí tách trong lò sưởi và kẻ độc tài thấp bé, có cái lưng gù và đôi mày bạc trắng, đang ngồi xem lại bản dự án thiết lập một nền an ninh tuyệt đối trên quy mô toàn thế giới, đứng dậy chìa bàn tay xương xẩu ra cho người Nga kia hân hoan nắm lấy; và cuối cùng, nó cũng bất ngờ không kém đối với bản thân Antôn Ivanôvits Đênikin, đã từ lâu bỏ cái tập quán đánh bài vint vào những tối thứ sáu, và tuy cũng là một con người phàm trần mệnh yểu như bất kỳ ai, đã bắt đầu tin rằng mình là người được Thượng đế lựa chọn cho một sứ mạng thiêng liêng.
Những người bolsevik, mà ai nấy đều tưởng là đang thở hắt ra những hơi cuối cùng, đã làm một việc phi thường, khó lòng hiểu nổi: trong khi dịch sốt phát ban đang hoành hành dữ dội, nạn đói bành trướng đến mức khốc liệt nhất và nền kinh tế suy sụp hoàn toàn, họ đã tổ chức được một cuộc phản công hết sức mãnh liệt, và đã làm sụp đổ tan tành cái chính sách quốc tế đang nhằm bóp nghẹt và chia cắt nước Nga đỏ - cái nước Nga rộng mênh mông mà thật ra những trí tuệ Tây Âu chưa bao giờ hiểu nổi.
Họ cũng không hiểu nổi những động lực nào đã cổ vũ nhân dân Nga. Những tư tưởng về hạnh phúc cộng đồng và về một chế độ xã hội công bằng - tưởng đâu đã bị chôn vùi vĩnh viễn dưới những tử thi của cuộc đại chiến - đã lại nảy mầm như những hạt giống của Cây Thiên đường trên mảnh đất Nga nghèo nàn kiệt quệ, nơi những người mu-gích không biết chữ vẫn kể cho nhau nghe chuyện chàng ngốc Ivan, chuyện Baba-Yaga, chuyện tấm thảm biết bay, và những ông bà lão mù vẫn hát những bài vè sử thi lê thê về những chiến trận, những cuộc yến tiệc và những cuộc hôn nhân của các tráng sĩ thời xưa.
Ở các dân tộc Nga, những tư tưởng này đã có được tính bền dẻo và sức mạnh của chất thép. Những người mu-gích dốt nát và những người thợ ở các nhà máy đổ nát đã từ lâu không nhả khói nữa, đã khắc phục nạn đói, bệnh dịch và tình trạng kinh tế suy sụp hoàn toàn, đánh đuổi đạo quân tinh nhuệ của Đênikin, chặn đứng đạo quân xung kích của Yuđênits ngay trước cổng thành Pêtrôgrađ và đuổi nó chạy dài về Extôni, đánh tan đạo quân đông đảo của Koltsak trên những cánh đồng Xibiri phủ tuyết, bắt được cả nhà nhiếp chính tối cao ấy đem ra bắn, đánh bại và đẩy lùi quân Nhật ở Viễn Đông, và, được những tư tưởng của Lênin cổ vũ, chỉ những tư tưởng thôi, vì họ chẳng có gì mà ăn, cũng chẳng có gì mà mặc - họ tin rằng họ mạnh nhất thế giới và trên những di tích hoang tàn của cái quốc gia nghèo nàn của họ, họ sẽ nhanh chóng xây dựng lên một xã hội cộng sản công bằng.

20

Katya có cảm giác là dạ dày nàng bây giờ chẳng lớn hơn cái ví đựng tiền lẻ. nó vừa đủ để chứa nửa lạng bánh mì, một miếng cá luộc và mấy thìa xúp. Khổ nhất là váy: cái nào cũng rộng quá, có muốn khâu lại cũng chẳng biết lấy gì và chẳng có lúc nào mà khâu. Ngược lại, mắt Katya bây giờ to gấp đôi mùa thu năm ngoái, khi Matriôna có dụng ý cho nàng ăn bánh xèo rán bơ béo ngậy.
Mấy con bé học trò nàng, đôi môi đói khát chúm lại, nói với nàng:
“Cô Katya ơi, cô xinh quá...”.
Nghe chúng khen như vậy, Katya thấy vui thích, bởi vì cả cuộc đời đều ở trong tương lai. Cái kỷ niệm duy nhất của dĩ vãng - chiếc nhẫn mặt ngọc bích mà Vađim tặng nàng - đã mất đi từ hồi ở làng Vlađimirxkoiê. Những hình bóng thân yêu vẫn lẩn quất trong ngôi nhà cũ kỹ ở ngõ Xtarôkônyusenny bây giờ không còn hiện lên trong ký ức nàng nữa. Và cái tương lai mà tất cả những hy vọng, hoài bão của những con người đang đau khổ vì đói rét, vì cảnh nhà cửa tan hoang, vì chiến tranh, đang khát khao hướng tới, - được Katya hình dung như một con đường rộng thênh thang ánh lên như tấm gương dưới nắng, giữa những bãi cỏ xanh rờn và những mặt hồ phủ sương với những rặng cây sum suê mọc quanh bờ. Con đường ấy dẫn đến một thành phố lộng lẫy, kiến trúc phức tạp, mà những đường viền màu thiên thanh tuyệt đẹp hiện rõ trên chân trời: trong thành phố này, mọi người đều sẽ tìm thấy hạnh phúc.
Một hôm, Katya đem hình ảnh ấy ra kể cho các em nhỏ nghe trong giờ học. Lũ trẻ nín thở lắng nghe. Những em gái đa cảm thích nhất là con đường dẫn về tương lai uốn khúc giữa những bãi cỏ xanh, nơi có thể chạy đi bắt bướm và hái những bông hoa nhỏ li ti hình ngôi sao. Bọn con trai thì không thỏa mãn: chẳng thấy Katya nói gì đến những đoàn tàu chạy ngang dọc trên các bãi cỏ này, qua các cột tín hiệu, qua những nhịp cầu sắt và những đường hầm, cũng chẳng thấy nhắc đến những ống khói nhà máy khổng lồ sẽ vui vẻ phun khói lên trời. Cả lớp đều nhất trí là thành phố tương lai tất nhiên phải màu thiên thanh, nhà cao đến tận mây, tàu điện chạy nhanh khủng khiếp, đại lộ nào cũng có chỗ đánh đu và những cái cột phân phát bánh mì và xúc xích. Katya hỏi: “Thế còn kem?” Nhưng hóa ra trong ngần ấy trẻ em chưa có đứa nào được ăn kem cả. Cũng có thể là hồi còn bé tí chúng đã được ăn, nhưng quên mất rồi.
Katya phải giữ sức rất nhiều. Mấy hôm trước nàng xách xô nước lên định ra sân thì cảm thấy mình không đủ sức giữ quai xô nữa. Nàng phải đặt nó xuống sàn nhà, dựa vào tường đợi cho đỡ hoa mắt. May thay, rốt cục nàng không phải đi nói chuyện về nghệ thuật nữa: Moxkva bây giờ đã vắng tanh, có thể đi suốt từ quảng trường Arbat đến quảng trường Xtraxtnaia mà không gặp lấy một bóng người nào, nhưng ngược lại, bây giờ ngày nào trên báo Izvextya cũng đăng những tin thắng trận. Các quân đoàn đỏ đã chọc thủng chiến tuyến địch ở Kaxtornaia và tràn vào vùng Đônbaxx. Ở hậu phương bạch quân những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra khắp nơi. Bây giờ thì đã thấy được triển vọng kết thúc chiến tranh, kết thúc mọi tai họa.
Một buổi tối nọ, Katya ở nhà. Lúc bấy giờ đã vào khoảng tám giờ tối, nhưng Katya vẫn không thắp đèn lên. Ánh lửa hắt qua cánh cửa con con của cái lò sưởi cũng đủ sáng rồi. Ngồi trên chiếc ghế thấp, Katya thận trọng xếp mấy thanh củi vào lò. Nó bén lửa và vui vẻ tí tách, vì nó cũng làm bằng cái năng lượng mặt trời mà Katya đã từng nói chuyện cho học trò nghe.
Katya đang đọc cuốn “Tội ác và hình phạt” Trời ơi, cuộc sống đã qua ấy vô hy vọng biết chừng nào! Đặt tay lên cuốn sách, Katya nhìn ngọn lửa hồng. Khủng khiếp biết bao nhiêu cái đêm mà Xviđrigailôv đã qua trong cái quán trọ bằng gỗ ở đại lộ Bolsôi. Đó chính là cái hiệu ăn mà Katya đã từng đến một mình với Bexxônôv, chỉ một lần duy nhất trong đời thôi, và có lẽ cũng chính trong căn buồng mà Xviđrigailôv đã khắc khoải từng giờ, biết rằng mình không sao còn có thể trấn áp được nỗi khiếp sợ và ghê tởm đối với cuộc sống.
Lời nguyền rủa xưa kia vẫn đè nặng lên những kiếp người ấy nay đã bị đập tan, đốt sạch, phá tung ra. Bây giờ đã có thể ngồi yên như thế này mà đọc chuyện quá khứ một cách thanh thản, đun củi vào lò và tin tưởng vào tương lai.
Trong hành lang có nhiều tiếng chân bước không đều. Chắc ở nhà Maxlôv lại có người đến họp: gần đây cứ sâm sẩm tối lại có những người nào không rõ đến nhà Maxlôv, và những tiếng nói giận dữ của họ vẳng đến buồng Katya. Mỗi khi họp xong, Maxlov lại tiễn khách ra đến nhà bếp rồi khe khẽ gõ cửa buồng Katya: “Đi ngủ rồi hay sao? Sớm quá, sớm quá, thật xấu hổ... Phụ nữ hiện đại mà thế ư? Ái chà chà...”.
Hắn cứ vặn mãi quả nắm cửa, làm cho Katya giận run cả người lên: Maxlôv là người lì lợm và tự tin đến mức quái gở, hắn có thể đứng ngoài cửa cho đến sáng.
“Êkatêrina Đmitrievna ạ, chẳng qua tôi chỉ muốn ngồi bên cái lò con ong của cô một tí... Thần kinh căng thẳng quá... Chỗ bạn bè cô cứ để tôi vào...”.
Cứ im mãi cũng bất tiện. Rốt cục Katya mở cửa ra. Hắn ngồi trước lò sưởi, cứ bỏ thêm củi mãi, mà mỗi thanh củi ấy thì quý hơn vàng. Hắn mỉm một nụ cười bí hiểm, hai bàn tay ẻo lả hơ lên lớp sắt nóng, rồi quay ra thuyết lý về sức hấp dẫn của dục tình, mãnh liệt như vũ trụ... Cái đẹp là ở chỗ tuân theo sức hấp dẫn đó! Còn ngoài ra chỉ là một chủ nghĩa khổ hạnh ti tiện. Hơn nữa Katya lại đẹp, sống cô đơn và “không bị gia đình ràng buộc” như hắn vẫn nói. Hắn tin chắc mười phần rằng không chóng thì chầy, thế nào Katya cũng sẽ cho hắn chung chăn chung gối với nàng...
Hôm nay, lòng còn bồi hồi vì những trang tiểu thuyết của Đôxtôievxki, Katya buồn bã lắng nghe những tiếng nói từ phòng Maxlôv vẳng sang. Bên ấy vang lên những tiếng gắt giận dữ, và chốc chốc lại có vật gì rơi thình thịch, như thể có ai vứt sách xuống sàn nhà. Hôm nay thì thế nào Maxlôv cũng sang ngồi để tìm sự thanh thản...
Có tiếng cào cào lên cánh cửa, rồi một giọng thanh thanh thì thào qua lỗ khóa: “Cô Katya ơi, cô có nhà không cô?” Đó là Klavđya chân đi một đôi ủng dạ to tướng buộc bằng dây gai.
- Bác Tsexnôkôva bảo cháu đến gọi cô, có chú Rôstsin ở mặt trận mới về đấy.
- Ở ngoài đường có lạnh không cháu?
- Lạnh khiếp đi ấy, cô ạ, gió ghê lắm, châm rát cả mắt, mà thà có tuyết cho cam, đằng này mãi chẳng có tí tuyết nào... Mùa đông gì mà lạ... Nhà cô ấm quá, cô Katya ạ...
Trời lạnh thế này, mà phải ra đường và lê đến tận nhà chị Tsexnôkôva ở phố Prexnya thì Katya chẳng muốn chút nào, nhưng buổi dạ đàm sắp tới của Maxlôv nàng thấy còn cực nhọc hơn nữa. Nàng mặc áo khoác và trùm khăn san ấm lên đầu. Bước rón rén để cho Maxlôv khỏi nghe thấy, nàng và Klavđya ra phố. Gió từ trong ngõ tối lùa ra rất mạnh. Katya lấy hai đầu khăn san quàng vào người Klavđya. Bụi hắt vào mặt rát buốt, những tấm mái tôn gầm lên như sấm. Gió gào rít như thể cả trái đất này đã chết hết, chỉ còn lại Katya và Klavđya là những sinh vật cuối cùng, và mặt trời sẽ không bao giờ còn mọc lên nữa...
Đến trước khung cửa sổ sáng mờ mờ của một ngôi nhà gỗ nhỏ, Katya quay lưng về phía gió để thở một phút. Qua cái khe hở giữa hai tấm màn khép không kín, nàng trông thấy một gian phòng chật chội, có cái ống khói đen gập khuỷu ăn thông vào lò sưởi, ở giữa phòng là một cái lò con ong đang cháy bập bùng, và mấy người đang chống cằm ngồi nghe một thanh niên đứng trước mặt họ đọc cái gì trong cuốn vở, mũi hếch lên một cách kiêu hãnh. Anh ta mặc một cái áo bành-tô cũ kỹ, phía trước phanh ra để hở cái ngực trần, và đi một đôi ủng dạ buộc dây gai giống như của Klavđya. Cứ nhìn những động tác của cánh tay anh và cái dáng dấp hùng dũng của anh mỗi khi anh hất mái tóc rối bù lên. Katya hiểu rằng người thanh niên đang đọc thơ. Nàng mỉm cười thấy lòng ấm hẳn lại, rồi quay trở về phía gió, nàng chạy về phía quảng trường Arbat, hai đầu khăn vẫn quấn vào người Klavđya.
Ở nhà chị Tsexnôkôva người đến nghe nói chuyện rất đông, tất cả những người vợ công nhân có chồng ra mặt trận, và mấy cụ già, được đặc cách ngồi ở cạnh bàn, nơi người khách ở mặt trận về đang kể chuyện chiến sự. Lúc bấy giờ họ đang tranh nhau hỏi người ấy xem tình hình bột mì đã sắp khá lên chưa, liệu đến tiết Nô-en đã có chuyến xe chở chất đốt về Moxkva chưa, ở các đơn vị quân đội người ta có phát áo bông và ủng dạ không. Họ nói rõ tên những người chồng, những người anh em của họ đang ở bộ đội ra, hỏi xem những người ấy có còn sống không, có khỏe không? - làm như thể anh bộ đội kia có thể thuộc tên cả mấy nghìn công nhân đang chiến đấu trên khắp các mặt trận.
Katya không chen được vào phòng, đành đứng ngoài cửa. Kiễng chân lên, nàng trông thấy người khách đang ghi mấy chữ trên tờ giấy, mái đầu quấn băng cúi xuống.
- Các bạn có hỏi gì nữa không? - người ấy hỏi, và Katya bỗng run bắn cả người lên, dường như thể giọng nói trầm trầm, nghiêm nghị ấy thấm sâu vào người nàng, xé nát tim nàng. Nàng lập tức quay lại, toan bỏ đi. Té ra nàng chưa quên được chút gì hết... Chỉ một giọng nói hao hao giống giọng nói thân thuộc đã vĩnh viễn câm lặng kia, mà đã khuấy động trong lòng nàng tất cả nỗi nhớ nhung thuở trước, nỗi đau buồn tưởng đã lắng dịu từ lâu, một nỗi đau buồn vô ích, tuyệt vọng... Cũng giống như một con người cô độc sống lại giấc chiêm bao một kỷ niệm đã phai nhạt từ lâu: người ấy trông thấy một ngôi nhà nhỏ giữa rừng, tắm trong một ánh sáng màu tro, một ngôi nhà mà trước đây người ấy chưa hề trông thấy, và cạnh đấy là mẹ mình, người mẹ đã khuất từ lâu, đang ngồi mỉm cười với mình như trong thời thơ ấu xa xưa: người ấy muốn vươn tới gần mẹ, gọi mẹ từ trong giấc mơ trở về với cuộc sống, nhưng không sao với tới được. Người mẹ vẫn im lặng mỉm cười, và người ấy hiểu rằng đây chỉ là một giấc mộng, và những tiếng nấc sâu thẳm dấy lên trong lồng ngực phập phồng thổn thức của người đang ngủ mê.
Chắc gương mặt Katya lúc bấy giờ thiểu não lắm, đến nỗi một trong những người đàn bà đứng ở cửa phải nói:
- Kìa các chị, cho cô giáo vào với nào, các chị lấn hết chỗ của cô giáo rồi đây này...
Họ nhường lối cho Katya vào trong phòng. Người ngồi ở bàn ngẩng mái đầu quấn băng lên, và nàng trông thấy gương mặt khắc khổ của chàng. Trước khi một niềm vui dào dạt soi sáng và mở rộng đôi mắt tối sẩm của nàng, Katya lảo đảo, đầu nàng choáng váng, mọi vật đều quay cuồng, tiếng xôn xao vừa nổi lên trong phòng lùi ra xa tắp, ánh sáng tối sầm lại như hôm nào suýt đánh rơi cái xô nước... Katya yếu ớt mỉm cười ngượng nghịu, thở gấp, tái mặt đi rồi quỵ xuống...
- Katya! - người ấy kêu lên, xô tới - Katya!
Mấy cánh tay đỡ lấy nàng, không để cho nàng ngã xuống. Vađim Pêtrôvits đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt yêu dấu, kiều diễm vô ngần đang gục xuống với đôi môi hé mở đã lạnh ngắt đi, với đôi mắt đã đảo tròng dưới lớp mi.
- Đây là vợ tôi, các đồng chí ạ, vợ tôi đây mà, - chàng nhắc đi nhắc lại, môi run lẩy bẩy.
* * *
Họ bước đi, gió lùa vào lưng họ. Vađim Pêtrôvits ép chặt đôi vai mảnh khảnh của Katya vào lòng. Suốt dọc đường, nàng cứ khóc, chốc chốc dừng lại hôn Vađim. Chàng bắt đầu kể lại cho nàng rõ tại sao mọi người tưởng chàng đã chết trong khi chàng đi tìm Katya khắp nước Nga suốt một năm trời. Nhưng chàng thấy những lời lẽ của mình rối rắm, dài dòng và hoàn toàn không cần thiết lúc này. Thỉnh thoảng Katya lại nói: “Khoan đã anh, chúng mình đi lạc mất rồi...”. Họ lại quay trở lại và đi thơ thẩn trên những ngõ phố tối tăm và vắng vẻ, lắng nghe những mũi tên chỉ hướng gió đã han gỉ quay cót két trên các ống khói lò sưởi, những tấm tôn lợp nhà đã bong ra một nửa sột soạt cọ vào nhau hay tiếng gió bấc rú nức nở trên những cành bồ đề đen sẫm đang đung đưa sau dãy rào xiêu vẹo, chắc vì gió nhớ lại rằng ở đây, có lẽ cũng trong một đêm tối mịt như thế này, Nikôlai Ivanôvits Gôgôl đã từng chạy qua, tà áo khoác bay phần phật, trống ngực đánh thình thình vì sợ ma.
Đến phố Xtarôkônyusaia, Katya nói:
- Nhà chúng mình đây rồi, anh nhớ không? Chỉ có điều là ngày xưa anh thường đi vào cửa trước. Em vẫn ở căn buồng ấy đấy Vađim ạ.
Họ chạy qua cái sân nhỏ. Cửa vào nhà bếp đã khóa chặt.
- Ôi, phiền quá... Bây giờ lại phải gõ cửa... Anh gõ thật to vào đi anh...
Katya cười lên khanh khách, rồi khóc chút ít, hôn Vađim, rồi lại cười. Vađim Pêtrôvits nện cả hai quả đấm lên cửa.
- Ai đấy? Ai đấy? - sau cánh cửa có tiếng hỏi lo lắng của Maxlôv.
- Ông mở hộ, tôi đây. Katya đây mà.
Maxlôv mở cửa. Trong tay hắn run rẩy một cây đèn sắt tây có chụp thủy tinh. Trông thấy một quân nhân đứng sau lưng Katya, hắn giật mình lùi lại, má hắn co rúm thành những nếp nhăn thẳng đứng, đôi mắt hằn học nheo lại...
- Cảm ơn, - Katya nói, đoạn chạy về phòng, tay vẫn không buông tay Vađim. Họ bước vào căn buồng hãy còn ấm. Katya hỏi thì thầm:
- Anh có diêm đấy không?
Vađim xúc động đến nỗi cũng trả lời thì thầm:
- Có...
Nàng thắp đèn lên: chỉ là một đốm lửa nhỏ trong cái hộp sắt tây nhưng cũng hoàn toàn đủ để họ nhìn nhau suốt đêm. Trong khi tháo chiếc khăn san, nàng vẫn không rời mắt nhìn Vađim: tóc chàng đã ngả hẳn sang màu hoa râm, ngay đôi mày cũng có những sợi bạc, gương mặt chàng đã rắn rỏi hẳn lên, có thêm một vẻ khắc khổ và điềm đạm mà trước đây nàng chưa hề biết. Điều đó làm cho nàng say sưa thích thú: bây giờ chàng trẻ hơn, cứng rắn hơn và đẹp hơn hồi ở Roxlôv. Nàng sực nhớ đến tấm băng quấn trên đầu chàng, hé miệng ra thở dài:
- Anh bị thương à?
- Sây sát tí chút thôi... nhưng nhờ đó mà anh được nghỉ phép hai tuần ở Moxkva... Anh biết là em ở đây, nhưng nếu không gặp đêm nay, anh làm thế nào tìm ra em được? (Nàng mỉm cười vui vẻ và ranh mãnh, hai bên mép nhếch lên). Em biết không, chỉ nhanh chút nữa thì anh đã gặp ở em cái làng ấy rồi... Anh đang đuổi theo Kraxilnikôv (Cằm Katya run lên, nàng giận dữ lắc mạnh cái đầu) Katya ạ, lúc nãy anh đã bắt đầu kể cho em rõ tại sao em được tin anh chết... Nói cho đúng ra, cái chết của anh là... (Katya lo lắng nhìn chàng, và đôi mắt mở rộng của nàng lại rưng rưng). Có một đêm anh ngồi trên toa xe lửa - lúc bấy giờ anh không biết sống bằng cái gì nữa, anh đã lầm ở điểm chính, anh thấy rõ rằng mình phải bị tiêu diệt hay phải tự tiêu diệt... Katya ạ, anh xin lỗi em, anh biết nhắc lại những điều đó em rất khổ tâm, nhưng anh vẫn muốn kể... Chỉ vì nghĩ đến em, không phải tình yêu đâu - lúc bấy giờ lòng anh không còn chút sức nào để mà yêu nữa, - nhưng vì cứ nghĩ đến em một cách khổ sở, da diết, như nghĩ đến một cái gì mà mình không thể nào dứt bỏ, quên lãng đi, không thể nào phản bội được, chỉ có ý nghĩ ấy giữ anh lại. Cái đêm nằm trên toa xe lửa ấy là một sự sụp đổ của tất cả bản thân anh... Bây giờ mỗi khi ở đầu súng anh nhận ra những khuôn mặt quen thuộc, anh hiểu rõ mình đang bắn vào một tâm hồn đen tối, hoang tàn như thế nào...
Katya đặt hai tay lên vai chàng và áp má vào tim chàng đang đập dồn dập. Họ vẫn đứng ở giữa căn buồng, chàng vẫn mặc chiếc áo ca-pốt phanh ngực, nàng vẫn giữ nguyên chiếc áo khoác lông. Nàng hiểu rằng chàng đang nói về điều chủ yếu nhất... Ôi, con người tuyệt vời mà nàng yêu dấu!... Chàng muốn tự thanh minh ngay để cho nàng được yêu cái chất mới mẻ, chính trực, nghiêm khắc, nhiệt thành ở trong chàng... Hồi ở Roxtôv, khi chàng mất trí và ruồng bỏ nàng, nàng biết rằng chàng sẽ đau khổ vô cùng và sẽ hiểu hết... Nép sát vào người chàng, nàng lắng nghe chàng nói những lời lẽ mơ hồ và thiếu mạch lạc, như thể đang phác nhanh những ký hiệu tượng trưng cho những thể nghiệm lớn lao mà chàng đã kinh qua. Nhưng dù chàng không nói, Katya cũng vẫn hiểu hết...
- Katya ạ, nhiệm vụ đặt ra lớn lao vô cùng... Trước kia chúng mình không bao giờ tưởng tượng được là mình sẽ bắt tay vào thực hiện những nhiệm vụ như thế... Em còn nhớ đấy: chúng ta đã nói nhiều về những sự chuyển biến của lịch sử mà ta thấy là vô nghĩa và nhọc nhằn, về sự hủy diệt của những nền văn minh lớn, về những tư tưởng cao cả bị biến thành một trò hề thảm hại... Dưới tấm áo lễ phục vẫn chỉ là bộ ngực lông lá của con nhân hầu... Chỉ là dối trá! Cái màng ngụy lý che trên mặt đã rơi xuống. Tất cả quãng đời dĩ vãng của ta chỉ là một chuỗi tội lỗi và man trá! Nước Nga đã đẻ ra con người... Con người đã đòi cho loài người cái quyền được làm người. Đó không phải là một ước mơ, đó là một lý tưởng mà chúng ta mang ở đầu mũi lê, một lý tưởng có thể thành sự thật... Một ánh sáng rực rỡ đã rọi lên những lâu đài đổ nát của tất cả các thiên niên kỷ đã qua... Tất cả đều hài hòa, tất cả đều có quy luật... Ta đã tìm thấy mục đích... Mỗi chiến sĩ hồng quân đều biết rõ mục đích ấy... Katya, bây giờ em hiểu anh được ít nhiều rồi chứ? Giá có thể, anh muốn truyền tất cả anh cho em... Niềm vui của anh, trái tim của anh, người yêu dấu của anh, ngôi sao của anh...
Chàng bỗng ghì chặt lấy nàng trong đôi tay, mạnh đến nỗi người Katya kêu răng rắc, và nàng chỉ nép sát thêm vào lòng chàng. Có tiếng gõ cửa, rồi tiếng Maxlôv nói:
- Êkatêrina Đmitrievna ạ, xin phép cô một phút nhé... - Rồi không thấy ai trả lời, hắn quay ra vặn quả nắm cửa như mọi khi. - Số là... cô cũng biết đấy, trong thành phố đang thiết quân luật. Quá mười giờ rồi, mà cô còn tiếp khách đàn ông trong nhà... Vì tôi phải chịu trách nhiệm...
- Em đợi một tí nhé, để anh nói chuyện với hắn, - Rôstsin vừa nói vừa gỡ đôi tay của Katya đặt trên vai ra.
- Vađim, anh điên rồi à, để em nói... Em van anh... Nàng lập tức ra hành lang, đóng cửa lại. Maxlôv đứng cười tủm tỉm, tay vẫn cầm cây đèn như ban nãy.
- Không vào phòng tôi được đâu, đồng chí Maxlôv ạ, - nàng nói, giọng rắn rỏi hơn hẳn mọi khi.
Hắn vừa bước lùi vừa vẫy ngón tay ra hiệu cho Katya lại gần, mắt nhìn Katya trừng trừng. Nàng bước theo hắn, hỏi:
- Sao? Ông cần gì? Tôi không hiểu...
- Tôi muốn báo cho cô biết, Êkatêrina Đmitrievna ạ, để cô đừng quá quan trọng hóa cái tai biến của tôi... Không có tai biến gì đâu... Chắc người ta đã cho cô biết rồi... Khắp khu phố này chúng nó mừng rỡ, đắc chí lắm... Mừng rỡ, đắc chí như vậy khí vội đấy...
- Tôi chẳng hiểu gì cả, - Katya tức giận đáp. - Nói tóm lại, tôi yêu cầu ông đừng gõ cửa phòng tôi...
- Cô đừng nói dối! Cô hiểu hết... Chà, qua chuyện này, tôi đã biết rõ cô quá rồi! Thế thì thứ nhất là cô hãy cứ ăn nói với tôi như thể tôi chưa bị thu hồi thẻ đảng... như thế khôn ngoan hơn... (Trong họng Maxlôv có cái gì òng ọc, tuy hắn nói khẽ, giọng còn uể oải nữa là khác) Chưa có gì thay đổi đâu Êkatêrina Đmitrievna ạ!... Thứ hai là ông khách đêm của cô sẽ đi ngay bây giờ... Cô muốn hỏi tại sao tôi lại đòi hỏi như vậy? Đây là câu trả lời của tôi... (Hắn thọc tay vào túi chiếc áo vét tông cáu bẩn đã đứt hết khuy, rút ra một khẩu parabellum dẹt, để nó trên lòng bàn tay chìa ra cho Katya xem). Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục quan hệ với nhau như cũ...
Katya kinh ngạc đến nỗi chỉ chớp mắt chầm chậm. Rôstsin đẩy cửa bước ra.
- Ông cần hỏi gì vợ tôi?
Mặt Maxlôv nhăn đến tận mang tai. Hắn ngồi thụp xuống để đặt cây đèn xuống nền nhà. Khẩu súng lục quay quay trong tay hắn.
- Chà, thôi đi, - Rôstsin nói đoạn đến cạnh giật khẩu súng trong tay hắn bỏ vào túi áo ca-pốt - Mai tôi sẽ đem súng ra nộp cho công an khu phố, ông cứ ra đấy mà nhận về. Nếu ông còn xớ xẩn đến cửa buồng chúng tôi lần nữa, tôi sẽ đánh gãy xương sống ông ra...
Họ trở về buồng, Katya lặng thinh, bẻ mấy ngón tay kêu răng rắc. Rôstsin cởi áo khoác cho nàng.
- Katya, mọi sự đều đã rõ ràng, hắn không mò đến đây nữa đâu. Hình như ở mặt trận anh đã có lần nghe nói tới thằng cha Maxlôv này. Đó là một trong những kẻ đã ngấm ngầm phá rối quân đội...
Chàng cởi áo ca-pốt và buông mình xuống cạnh Katya đang ngồi thẫn thờ trên ghế bành, rồi tựa đầu lên đùi nàng. Hai bàn tay nàng từ từ vuốt lên tóc, lên má, lên cổ chàng. Cả hai đều đã quên khuấy câu chuyện ngu xuẩn vừa qua với Maxlôv. Họ im lặng. Một nỗi xúc động mới, mãnh liệt, bao giờ cũng như mới đến lần đầu, dâng lên trong lòng họ với một sức mạnh thanh tân - trong Vađim đó là nỗi vui mừng được thèm muốn Katya, và trong Katya đó là nỗi vui mừng được cảm thấy niềm vui của chàng...
- Mãnh liệt hơn gấp triệu lần, Katya ạ, chàng nói.
- Em cũng thế... Vả lại em bao giờ cũng vẫn thế, bao giờ cũng vẫn thế thôi, Vađim ạ.
- Em thấy lạnh à?
- Không, không... Chỉ vì em yêu anh quá...
Chàng ngồi lên chiếc ghế bành rộng, sát bên nàng, và hôn lên đôi mắt, lên miệng, lên hai bên khóe môi nàng. Chàng hôn lên ngực nàng, và Katya nhớ rằng ở vú bên trái nàng có một cái bớt nhỏ mà không hiểu tại sao chàng cho là đẹp vô cùng. Nàng cởi khuy áo lên để chàng hôn lên cái bớt ấy.
Cái lò con ong đã tắt ngấm, và trong phòng lạnh hẳn đi. Vađim nãy giờ vẫn nhìn Katya mỉm cười để lộ hai hàng răng đều đặn, ngồi xổm xuống cạnh lò, thổi mấy hòn than lên và cho vài thanh củi vào - đó là những cái chân ghế bằng gỗ hồng tâm chẻ vụn ra. Trong phòng lại ấm lên. Trong khi cởi quần áo, Katya đỏ mặt. Vađim cười, đưa hai bàn tay lên ôm lấy mặt nàng mà hôn.
Suốt đêm gió gào trên các ống khói và luồn vào các mái tôn kêu ầm ầm như tiếng sấm. Katya dậy mấy lần như nàng Pxisê, khơi bấc đèn và mải mê ngắm gương mặt của Vađim đang ngủ. Lòng nàng tràn đầy hạnh phúc, và nàng biết rằng chàng cũng tràn đầy hạnh phúc, cho nên mặt chàng mới điềm đạm và trang nghiêm như vậy.
* * *
- Katya, Katya! - Đasa chạy vào nhà bếp gọi to. - Katya, chị Katya ơi! - nàng vừa gọi vừa nện gót ủng dạ đóng băng cứng đét chạy dọc hành lang. Nàng đầm sầm vào Katya đang chạy ra, ôm chầm lấy chị mà hôn lấy hôn để, rồi ẩy ra nhìn chằm chặp một lát, rồi lại ghì vào lòng mà vuốt ve. Người Đasa sực mùi tuyết, mùi lông cừu, mùi bánh mì đen. Nàng mặc một chiếc áo khoác lông cừu ngắn, trùm khăn kiểu nông thôn, sau lưng lủng lẳng một gói quần áo.
- Katya, chị, con bồ câu nhỏ của em, chị thân yêu của em... Ôi, chị thử tưởng tượng mà xem: chúng em từ ngoài ga Yaroxlavl đi bộ về đây, Moxkva như nông thôn ấy: tĩnh mịch, có cả quạ, tuyết trắng xóa, trên các phố có những lối mòn trên tuyết... Xa thật, hai chân cứ mỏi đừ ra... Kuzma Kuzmits lại vác hai yến bột mì nữa... chúng em lê đến phố Xtarokonyusennaia... Em không tìm ra nhà có chết không chứ! Đi suốt dọc phố đến ba lần... Kuzma Kuzmits nói là em nhầm phố rồi.. Còn em thì điên tiết lên... quên mất nhà rồi còn gì... Rồi bỗng nhiên... Ờ, chị thử tưởng tượng: ở một góc phố đi ra, một anh bộ đội... Em đến gần nói: “Đồng chí ơi...”. Còn anh ta thì cứ nhìn em trừng trừng... Em há hốc mồm ra, ngồi bệt xuống tuyết... Vađim! Em tưởng mình phát điên mất rồi: những người đã chết dạo này lại bắt đầu dạo chơi trên các phố Moxkva sao?... Anh ấy cười ngất, rồi hôn em. Còn em thì không sao đứng dậy được... Katya xinh đẹp của em, Katya thông minh của em. Chúng mình sẽ phải kể cho nhau nghe suốt mười đêm liền mới hết chuyện, chị nhỉ... Lạy Chúa, em nhận ra căn buồng này rồi. Cả cái giường, cả Xirin và Alkonoxt nữa... Vađim đã kể cho em nghe về Ivan. Mấy hôm nữa có một chuyến xe lửa cứu thương đến đơn vị họ. Em đã quyết định là sẽ đi chuyến ấy, làm cứu thương, cả Anixya và Kuzma Kuzmits cũng cùng đi một thể... Chúng em không để cho ông ấy ở đây một mình đâu, đâm ra hư hỏng ra mất... Chị Katya ạ, trước hết chúng em đói lắm... Chị đặt ấm trà đi... Thứ đến là phải tắm... Chúng em đi xe lửa từ Yaroxlavl đến đây, ngồi toa chở hàng suốt một tuần lễ... Phải cởi hết quần áo ra xem cẩn thận. Bây giờ chúng em chưa vào buồng chị được đâu, hẵng ở ngoài nhà bếp đã... Chị ra đây em giới thiệu chị với các bạn của em... Họ tốt lắm cơ chị ạ! Em nhờ họ mà thoát chết, em chịu ơn họ đủ thứ... Chúng em sẽ tự nhóm bếp đun nước lấy, ở nhà bếp chất đủ thứ bàn ghế... Katya, chị không có tóc bạc à? Trời ơi, chị trẻ hơn em đến mười tuổi ấy... Em tin là chẳng bao lâu nữa sẽ đến ngày chúng mình đoàn tụ đông đủ bên nhau...
* * *
Ở Moxkva, bột kiều mạch được phân phối theo phiếu. Chưa bao giờ thủ đô phải trải qua một thời kỳ gian khổ như mùa đông năm hai mươi. Cuộc tấn công của các đạo hồng quân đã thu hút hết mọi sinh lực của đất nước. Những kho lúa mì và than chiếm được của địch tiêu tan đi rất chóng. Những tỉnh trù phú mà quân cô-dắc và quân tình nguyện đã kéo qua đều bị tàn phá kiệt quệ. Những đội trưng lương của công nhân cử đến đây hầu như chẳng thu được gì.
* * *
Vào ngày kỷ niệm chiến dịch băng giá lần thứ hai, Quân đoàn tình nguyện chạy về Nôvorôxxik, bỏ lại ngổn ngang trên những cánh đồng lầy lội của vùng Kuban những đoàn xe thồ, những cỗ xe chở của cải, những khẩu đại bác bị sa lầy và những xác ngựa. Thế là hết, Antôn Ivanôvits Đênikin, tóc bạc hẳn đi, lưng còng hẳn xuống, lên một chiếc khu trục hạm Pháp ra nước ngoài, rút ngắn quãng đời lưu vong bằng cách viết hồi ký.
Những đám tàn quân thảm hại của quân tình nguyện lên tàu về Krym. Dân cô-dắc sông Đôn và sông Kuban đến bây giờ mới hiểu rằng mình đã bị lừa một cách đau đớn, và đã trả giá cái tính gan lì cố chấp của mình bằng những nấm mồ vô danh rải rác khắp nơi từ Vôrônej đến Nôvôrôxxixk.
* * *
Moxkva vẫn chìm trong lớp tuyết mùa đông do những cơn bão tháng ba mang lại. Bao nhiêu hàng rào và bàn ghế thừa thãi đều đã đem đốt sạch trong mấy cái lò con ong. Các nhà máy và các công xưởng vẫn không hoạt động. Ở các cơ quan, cán bộ nhân viên mặc cả áo khoác ngồi làm việc, luôn luôn phải hà hơi vào mấy ngón tay sưng phù, may ra mới có thể cầm được cây bút chì; mực đông cứng trong bình, đợi những ngày ấm áp. Những người qua đường bước chậm chạp, không rời các túi khoác sau vai, và ít ai có thể đi từ nhà đến nơi làm việc mà không dừng lại mấy lần để ngồi xuống một đống tuyết hay tựa vào một cái cổng khuất gió để nghỉ cho đỡ mệt. Nạn đói lúc này thật khủng khiếp. Người ta nằm mơ thấy lợn sữa luộc bày trên đĩa, một nhánh rau thơm cắn giữa hai hàm răng đang nhe ra cười; trong giấc ngủ, người ta nhai không khí nhóp nhép, tưởng mình đang ăn miếng xúc xích béo ngậy hay quả trứng luộc. Nhưng tinh thần thì ai nấy đều phấn chấn; sự kháng cự dai dẳng đẫm máu, hằn học của phản cách mạng đã bị bẻ gãy, cuộc sống đang đi lên, chỉ còn mấy tháng thiếu thốn và đau khổ nữa, rồi sẽ có bột mì mới, và những đội hồng quân giải ngũ sẽ về bắt tay vào lao động hòa bình khôi phục lại tất cả những gì đã phá hủy, và xây dựng lên một cuộc sống mới, trong đó tất cả những nỗi thống khổ, tất cả những mối oán cừu cay đắng chất chứa từ bao nhiêu thế kỷ đều sẽ bị quên lãng đi.
Nguyện vọng của Katya đã thành sự thật: họ đã lại đoàn tụ đông đủ bên nhau. Ivan Ilyits và Rôstsin được nghỉ phép ngắn hạn, họ lên chuyến tàu cứu thương của Đasa đi về Moxkva vào một buổi sáng tháng ba ảm đạm, khi những đám mây sũng nước ùn lại trên thành phố Moxkva, tuyết đọng trên các mái nhà dày quá sụt xuống từng mảng, những giọt băng to tướng rơi lanh canh xuống mặt đường, còn không khí thì nặng nề, đầy những mùi hương pha tạp và chứa chất lo âu.
Katya ra ga đón họ. Vađim Pêtrôvits đứng ở đầu toa trông thấy nàng trước tiên và nhảy xuống sân ga trong khi tàu đang chạy. Katya, gương mặt rạng rỡ lên vì vui sướng, đôi mắt và nụ cười như tỏa hào quang, chạy qua làn hơi nước ở đầu máy phun ra giữa mấy hàng cột sắt lao về phía chàng. Vađim thấy nàng còn đáng yêu hơn cả dạo tháng chạp khi hai người gặp nhau lại lần đầu. Cả cuộc sống yêu đương của họ gói gọn vào những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi như vậy. Họ lập tức tránh riêng ra một bên, đến đứng dưới cái đồng hồ nhà ga. Nhưng nàng Đasa hay ghen tị đã lôi chàng Têlêghin của mình đến với họ. Đasa nhất thiết muốn chị mình phải lớn tiếng khen ngợi Ivan Ilyits cho kỳ được mới nghe.
- Katya, chị thử nhìn anh ấy mà xem. Chị có thấy anh ấy thay đổi nhiều không! Hồi ở Pêterburg mặt anh ấy có một cái gì chưa hoàn chỉnh ấy. Mắt anh ấy cũng khác. Ivan, anh bỏ qua cho em nhé, nhưng cái dạo chúng mình đi tàu thủy về Xamara anh có đôi mắt xanh rất nhạt, trông còn ngốc nghếch nữa là khác, thậm chí em còn thấy bỡ ngỡ thế nào ấy... Bây giờ thì mắt anh như có nước thép.
Ivan Ilyits đứng trước mặt Katya, khe khẽ thở dài vì lòng tràn đầy những cảm xúc trọn vẹn. Katya cũng thấy chàng rất đáng mến: thân thuộc, điềm đạm, vững vàng...
- Còn đây là một thứ chân dung tuyệt diệu của anh ấy, chị Katya ạ... Suốt thời gian đi chiến dịch - ấy, chị cứ thử mà xem! - ngay cả khi anh ấy cưỡi ngựa truy kích Mamontôv, anh ấy cũng vẫn mang theo trong cái túi sau yên ngựa - chị thử đoán xem cái gì nào? - mang theo con chó và con mèo bằng sứ này: đó là quà của anh ấy tặng em ngày chúng em cưới nhau lần thứ hai... Bởi vì em thích chúng nó lắm, chị ạ...
Kuzma Kuzmits tranh thủ một lúc rỗi tay nhảy xuống sân ga chạy đến gặp Katya. Ông giơ ra cả hai tay ra bắt tay nàng, lắc mãi. Cái mặt đỏ cạo nhẵn thín của ông ta ra rạng rỡ lên vì niềm vui thích và lòng tận tụy. Mặc chiếc áo bơ-lu trắng, trông ông ta béo tốt khỏe mạnh đến nỗi những người khách gầy gò đi qua sân ga phải nhìn ông từ đầu đến chân với đôi mắt đầy ác cảm...
- Êkatêrina Đmitrievna ạ. Qua mấy ngày ngắn ngủi ở nhà cô dạo ấy, tôi đã đem lòng quý mến cô không kém gì Đarya Đmitrievna... Xưa nay tôi vẫn nói là trên thế gian không đâu có những người phụ nữ tuyệt vời như phụ nữ Nga. Tình cảm trung thực, lại biết hy sinh tận tụy, biết quý tình yêu, lại rất dũng cảm khi cần thiết... Tôi bao giờ cũng sẵn lòng phụng sự cô, Êkatêrina Đmitrievna ạ... Hễ xong việc một cái là tôi chạy lại nhà ngay, vào bữa ăn chiều, tôi sẽ mang đến mấy thứ quà Roxtôv... Ở đấy bây giờ đã sang xuân rồi... Thế nhưng ở miền Bắc vẫn thấy dịu dàng hơn... Thôi, xin lỗi nhé, tôi phải lên tàu ngay...
Anixya chạy lại, mình cũng mặc bơ-lu trắng. Gương mặt có đôi mắt mênh mông của chị lộ vẻ thất vọng: chị muốn chuyến này ở lại Moxkva, nhưng ông bác sĩ trưởng, với một tác phong chẳng xô-viết chút nào, thậm chí cũng chẳng thèm nghe chị nói nữa: “Lại trường kịch trường cọt gì thế nữa! Sắp tới lại có những trận lớn, thương binh sẽ ùn về... Tôi không cho đi đâu!”.
- Thôi đợi đến mùa thu vậy, - chị nói với Đasa, rồi cầm múi khăn lên lau mũi, - Thời gian cứ trôi đi, tôi để mất năm này qua năm khác, thế mới khổ... Latughin cũng đang ở đây. Anh ấy có ra đón tôi - đến là vớ vẩn. Anh ấy lên Moxkva dự đại hội. Dạo này trông anh ấy nghiêm trang mà tự hào lắm... Tôi chạy ra ga suốt ba ngày nay - anh ấy bảo thế - để đón chuyến xe cứu thương của các cô! Bây giờ anh ấy đi gặp bác sĩ trưởng rồi: để xin phép cho tôi nghỉ hai mươi bốn tiếng... Đarya Đmitrievna ạ, anh ấy có kể chuyện là Agrippina hiện ở Xaratôv, chị ấy đẻ rồi, con trai hay là con gái thì anh ấy không biết. Chị ấy ốm rất lâu... Bây giờ bế con về trung đoàn rồi... Tội nghiệp quá, tính khí chị ấy khổ lắm cơ, chị ấy thuộc loại người trong đời chỉ yêu một lần mà thôi.
Từ nhà ga, họ đi bộ qua suốt Moxkva đến phố Xtarôkônyusennaia. Ở đấy đã dọn sẵn căn phòng cũ của Maxlôv cho Đasa và Têlêghin. Đã hai tháng nay Maxlôv không còn ở đấy nữa. Thoạt tiên hắn chở hết sách đi, rồi bản thân hắn cũng mất tăm...
Họ đi rất chậm vì phải đợi Katya. Giá có thể được, Vađim Pêtrôvits chỉ muốn bế nàng lên mà đi, dưới những đám mây mùa xuân xù xì đang ùn ùn kéo đi trên bầu trời Moxkva. Têlêghin và Đasa tụ lại phía sau để cho họ được tự nhiên.
- Em lo cho Katya quá. Moxkva và cái trường học ấy đã làm cho chị em kiệt sức rồi. Chị ấy chẳng ăn gì cả... Qua ba tháng, chị ấy cứ trong suốt ra.. Chị ấy phải đưa lên tàu cứu thương mới được: em sẽ bồi dưỡng cho chị ấy... Nếu không thì chị ấy chỉ sống bằng mỗi tinh thần, chẳng còn ra làm sao nữa...
Têlêghin nói khẽ giọng ngụ nhiều ý nghĩa:
- Mà Vađim thiếu chị ấy cũng sút đi trông thấy, thế đấy em ạ...
Một lát sau, Latughin và Anixya đuổi kịp họ. Bây giờ Anixya không khoác bơ-lu trắng nữa. Má chị ửng hồng lên. Latughin, vẻ mặt nghiêm trang, đôi mày nhíu lại, chào hỏi mọi người một cách dè dặt và rút trong ve tay áo ca-pốt ra bốn cái giấy vào cửa Nhà hát Lớn dành cho khách, tầng trên cùng.
- Thật ở mặt trận còn dễ hơn ở Moxkva của các anh các chị. - anh vừa nói vừa phân phát mấy vé, - chỉ có thế này mà cũng phải mở một trận ác chiến mới có được... May sao anh phụ trách bảo vệ lại là một anh bạn thủy thủ cũ của bọn tôi trên tuần dương hạm “Rạng đông”... Thế các anh các chị đừng đi muộn đấy nhé, buổi họp hôm nay rất quan trọng. Thôi, Anixya, ta đi đi!...
* * *
Trong gian phòng lớn của nhà hát Bolsôi, có cả thảy năm tầng bao lơn mờ mịt hơi người, mấy trăm ngọn đèn điện cháy tù mù, điện chỉ đủ làm cho dây tóc ửng đỏ lên một chút. Trong phòng rét căm căm như ở dưới hầm rượu. Trên cái sân khấu rộng thênh thang, hai bên riềm có kết những vòm cuốn bằng vải, chủ tịch đoàn ngồi sau một cái bàn đặt chếch về một bên, cạnh dãy đèn rầm sáng mờ mờ. Tất cả những người ngồi ở bàn đều quay đầu lại nhìn vào cuối sân khấu, nơi có một tấm bản đồ nước Nga phần châu Âu treo vào những sợi dây mắc lên các thanh xà ở phía trên sân khấu. Trên tấm bản đồ vẽ chi chít những vòng tròn nhỏ và những đường vòng nhiều màu, choán gần hết cả diện tích. Đứng trước bản đồ là một người nhỏ bé mặc áo khoác lông, không đội mũ: mái tóc từ vầng trán rộng vuốt ngược ra phía sau in bóng lên tấm bản đồ. Người ấy cầm một cái gậy dài, chốc chốc lại nhích nhích đôi mày rậm, đầu gậy chỉ vào vòng tròn này hay vòng tròn khác chỉ đến chỗ nào thì chỗ ấy lập tức bật đèn sáng rực, đến nỗi những vành bao lơn thiếp vàng trong phòng lại ánh lên, và có thể thấy rõ những khuôn mặt gầy gò, căng thẳng và những đôi mắt mở rộng ra vì chăm chú.
Người ấy cất tiếng nói, cái giọng cao vang lên lanh lảnh trong gian phòng im phăng phắc:
- Chỉ riêng ở phần châu Âu của nước Nga, chúng ta đã có mấy chục tỷ pút than bùn khô rồi. Lượng than bùn dự trữ đủ cho ta dùng trong mấy thế kỷ. Than bùn là chất đốt dùng cho địa phương. Một mẫu dồng lầy có than bùn cung cấp cho ta một năng lượng lớn gấp hai mươi lăm lần so với một mẫu rừng. Than bùn trước tiên, rồi kế đến là than trắng và than đen, sẽ cho phép ta giải quyết vấn đề xây dựng cách mạng đang đặt ra trước mắt ta. Bởi vì một cuộc cách mạng mà chỉ giành được phần thắng trên chiến trường thôi và không chuyển sang việc thực hiện những lý tưởng của mình trên thực tế, thì sẽ chỉ trôi qua rồi lặng đi như một trận bão. Vlađimir Ilyits Lênin, người đã gợi ý cho bản báo cáo của tôi, và hôm nay đang ngồi ở đây, giữa đám chúng ta, có vạch rõ đường lối chung của một cuộc cách mạng có tính sáng tạo: chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa...
- Lênin đâu? - Từ trên tầng thứ năm Katya nhìn xuống hỏi thì thầm.
Rôstsin, nãy giờ vẫn nắm chặt bàn tay gầy mảnh của nàng, cũng thì thầm trả lời:
- Người mặc áo khoác đen ấy, em nhìn thấy không: đang viết rất nhanh đấy, à, bây giờ đã ngẩng đầu lên, ném mảnh giấy qua bàn... Chính Lênin đấy...
Báo cáo viên nói:
- Ở những nơi nào có hàng tỉ pút than bùn đang im lặng náu mình hàng bao thế kỷ nay trong lòng nước Nga, ở những nơi nào có thác nước hay có một dòng sông chảy mạnh, ta sẽ xây dựng những nhà máy điện: những ngọn hải đăng của lao động xã hội. Nước Nga đã vĩnh viễn thoát khỏi ách bóc lột. Nhiệm vụ của chúng ta là chiếu rọi lên đất nước cái ánh sáng không chút nào lu mờ của kỹ thuật điện khí. Từ chỗ là một khổ dịch, lao động phải trở thành một hạnh phúc.
Đưa cây gậy lên, ông ta chỉ những trung tâm năng lượng tương lai và vạch lên bản đồ những đường vòng bao quanh các khu vực văn minh sau này. Và những vòng tròn nhỏ, như những vì sao, lóe lên sáng rực trên cái sân khấu tối mờ mờ. Muốn có đủ điện cho tấm bản đồ này sáng lên từng khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy, đã phải tập trung hết năng lượng của nhà máy điện Moxkva: ngay trong thành Kremlin, trong phòng làm việc của các ủy viên nhân dân, cũng phải tháo hết các bóng đèn ra, chỉ để lại mỗi phòng một bóng sáu mươi oát.
Những người ngồi trong phòng khán giả, trong túi áo ca-pốt lính hay áo bêkes thủng lỗ chỗ những vết đạn đều có mỗi người một nắm kiều mạch mới phát hôm nay thay cho bánh mì. Họ nín thở lắng nghe những triển vọng huyền hoặc nhưng thực sự có thể thực hiện được của một cuộc cách mạng đang bước lên con đường sáng tạo...
Têlêghin nói khẽ với Đasa:
- Bài báo cáo quan trọng đấy. Anh có biết rõ kỹ sư Krijijanôvxki này. Hết chiến tranh, anh sẽ trở về nhà máy, anh cũng có một số ý định... Muốn làm việc quá, Đasenka ạ... Nếu có được một cơ sở điện lực như vậy thì có thể làm không biết bao nhiêu việc lớn... Nước mình tài nguyên vô tận. Nếu huy động hết được thì nước Mỹ thấm gì! Ta giàu hơn chứ... Chúng mình sẽ đi Ural...
Đasa nói với chàng:
- Chúng mình sẽ ở một ngôi nhà ghép bằng gỗ súc, thật sạch, sạch bóng lên ấy, có những giọt nhựa ứa trên mấy súc gỗ, có những khung cửa sổ lớn... Vào những buổi sáng mùa đông sẽ đốt lò sưởi lên...
Rôstsin ghé tai Katya nói thì thầm:
- Em có hiểu tất cả những cố gắng của chúng ta, những dòng máu đã đổ xuống, những nỗi thống khổ thầm lặng, không tên, đang bắt đầu có được một ý nghĩa lớn lao như thế nào không?... Ta sẽ xây dựng lại thế giới vì hạnh phúc của con người... Tất cả những người ngồi trong phòng này đều sẵn sàng hiến dâng đời mình cho sự nghiệp đó... Không phải anh tưởng tượng ra đâu: họ đều có thể cho em xem những vết đạn chằng chịt trên người họ. - Và đó chính là Tổ quốc của anh, đó chính là nước Nga...
- Chí ta đã quyết! - người đứng bên bản đồ nói, tay tì lên chiếc gậy như tì lên một ngọn dáo. - Ta sẽ đứng vào chiến lũy đấu tranh để giành cho ta và cho loài người cái quyền vĩnh viễn chấm dứt tình trạng người bóc lột người...

Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét