Con Đường Đau Khổ - Tập I
Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976
Tập I - Hai Chị Em
Ôi, ĐẤT NGA!
(Bài
ca về binh đoàn Igor)
1
Người khách lạ từ một ngõ vắng rợp bóng bồ
đề của một tỉnh hẻo lánh nào đấy, khi lọt vào giữa thành phố Pêterburg, trong
những phút tĩnh tâm chắc phải thể nghiệm những cảm giác phức tạp, trí óc thì phấn
khích, mà tâm hồn thì nặng trĩu.
Đi lang thang trên những con đường thẳng tắp
mờ hơi sương, qua những dãy nhà ảm đạm với những khung cửa tối om, với những
bác gác cổng đang ngồi ngủ gật dưới vòm cửa; dừng mắt hồi lâu trên dòng sông
Nêva ắp nước đang trải rộng trước mặt, mênh mông, ảm đạm, trên những đường viền
lờ mờ xanh của những chiếc cẩu, với những cột đèn hơi đã được thắp lên từ khi
trời chưa tối hẳn, với những dãy cột dài của những tòa lâu đài lạnh lẽo và buồn
tẻ, với cái dáng cao vút của tòa nhà thờ Pêtrôvaplôv trông chẳng Nga chút nào,
với những con thuyền nghèo ọp ẹp ngụp giữa dải nước đen sẫm, với vô số những
chiếc xà lan chở củi ướt đậu dọc dải bờ xây đá hoa cương; liếc nhìn vào những
khuôn mặt ưu tư và nhợt nhạt của người qua đường, với những đôi mắt đục ngầu
như lớp bùn đọng giữa lòng phố, - trong khi nhìn và cảm thụ tất cả những cảnh
đó, người khách lạ, nếu là người theo tư tưởng chính thống thì sẽ rụt đầu sâu
hơn nữa vào cổ áo, còn nếu không sẽ nảy ra cái ý muốn lấy hết sức bình sinh đập
vỡ tan tành cái cảnh diễm huyễn ngưng trệ này đi.
Ngay từ thời Piôtr đệ nhất, ông bõ của nhà
thờ Ba ngôi, tòa nhà thờ hiện nay vẫn còn sừng sững cạnh cầu Troitxa, một hôm
đang trèo từ trên gác chuông xuống, đã trông thấy trong bóng tối mờ mờ một con
ma - một mụ đàn bà gầy gò, tóc xõa rũ rượi. Ông ta được một mẻ sợ hết hồn và
sau đó đã gào tướng lên trong khi đang ngồi trong quán rượu: “Pêterburg sắp đến
ngày tận số rồi”. Vì tội này, ông ta đã bị tống giam, bị đưa ra phủ đề hình tra
tấn, rồi bị đánh roi da hết sức tàn nhẫn.
Chắc hẳn chính từ đấy người ta bắt đầu quen
nghĩ rằng Pêterburg có lắm ma quỷ, khi thì có người được tận mắt chứng kiến quỷ
Xatăng đi xe ngựa trên một dãy phố ở đảo Vaxilievxki. Khi thì vào nửa đêm,
trong lúc bão to lũ lớn, pho tượng kị mã bằng đồng của Hoàng đế rời khỏi bệ đá
hoa cương và phi nước đại trên đường lát đá. Khi thì vong hồn của một viên công
chức đã chết từ lâu, đến dí mũi vào cửa kính của chiếc xe song mã của một vị tư
vấn cơ mật, mãi không chịu rời ra. Có rất nhiều những câu chuyện đồn đại như vậy
được truyền đi trong thành phố.
Và mới gần đây thôi nhà thơ Alekxey
Aletxêyevits Bexxônôv, một đêm đang ngồi trên cỗ xe kiệu đi qua chiếc cầu uốn
lưng rùa dẫn vào khu đảo, nhìn bầu trời thăm thẳm qua những đám mây rách tả
tơi, đã trông thấy một vì sao, và ngắm vì sao kia qua làn nước mắt, nhà thơ đã
nghĩ rằng con ngựa, dãy đèn đường và cả thành Pêterburg đang yên giấc sau lưng
đều chỉ là một giấc chiêm bao, một cơn mê sảng mở ra trong óc mình đã u mê vì
rượu, vì tình, và vì buồn chán.
Hai thế kỷ đã trôi qua như một giấc mộng:
Là những đô thành được dựng lên ở nơi tận cùng thế giới, trên những đầm lầy và
những bãi hoang, Pêterburg đã bao nhiêu năm ấp ủ giấc mộng vinh quang và uy quyền
vô hạn; tựa hồ những hình ảnh quái đản hiện lên trong cơm mê sảng, ở đây đã lần
lượt diễn ra những cơn chính biến ở cung đình, những vụ giết vua, những ngày hội
khải hoàn và những cuộc hành hình đẫm máu; những người đàn bà yếu đuối đâm ra
có quyền thế như những bậc á thần; vận mệnh của các dân tộc được quyết định
trên những chăn nệm đã xô lệch và nóng hổi hơi người, có những gã trai khỏe khoắn,
thân hình vạm vỡ, hai tay lấm bùn đen, đã đến đây và ngang nhiên bước lên ngai
vàng để chia phần quyền bính, cùng hưởng long sàng và cảnh sinh hoạt xa hoa lộng
lẫy chẳng kém gì các bậc đế vương thành Byzanti.
Các lân bang kinh hoảng ngoái nhìn những
cơn bộc phát điên rồ này của sự phóng đãng. Dân Nga ngán ngẩm và sợ hãi lắng
nghe những tiếng ú ớ của kinh thành đang mê sảng. Đất nước ứa hết máu ra nuôi
dưỡng những bóng ma của kinh thành Pêterburg không bao giờ biết thỏa mãn.
Thành Pêterburg kéo lê một cuộc sống nhộn
nhịp mà lạnh lùng, cuộc sống của kẻ đi ăn đêm đã chán chường quá thể. Những đêm
hè chấp chới ánh lân tinh, những đêm đông thao thức, điên cuồng và dâm đãng, những
sòng bạc rộn rã tiếng kim tiền gieo trên mặt bàn phủ nỉ xanh, những tiếng nhạc,
những đôi trai gái quay cuồng trong các khung cửa sổ, những chiếc xe tam mã
phóng như điên, những phường hát Tzigan, những cuộc đấu súng trong ánh bình
minh, những cuộc duyệt binh trong tiếng rít dài của gió bấc giá buốt và tiếng
sáo lanh lảnh trước đôi mắt lạnh lùng của Sa hoàng với cái nhìn khiến người ta
phải ghê sợ. Cuộc sống của đô thành trôi qua như vậy đấy.
Trong khoảng mười năm gần đây, những xí
nghiệp đồ sộ đã được dựng lên một cách nhanh chóng lạ lùng. Những cơ nghiệp triệu
phú đã nảy sinh từ hư không. Pha lê và xi măng được dùng để xây lên những nhà
ngân hàng, những tiệm nhảy, những sân trượt băng, những tửu điếm lộng lẫy,
trong đó con người bị choáng váng đi vì tiếng nhạc, vì ánh phản chiếu của những
tấm gương, vì những thân hình phụ nữ hở hang, vì ánh đèn, vì sâm banh. Những
sòng bạc, những nhà săm, những hý viện, những rạp chiếu bóng, những vườn dạ lạc
thi nhau hối hả mọc lên. Các kỹ sư và các nhà tư bản lo vạch đồ án xây dựng một
kinh thành hoa lệ chưa từng thấy trên một hòn đảo chưa có người ở, cách
Pêterburg không xa.
Trong thành phố đang có dịch tự sát, các
phòng xử án đông nghịt những đám đàn bà loạn óc đang háo hức theo dõi những vụ
kiện ly kỳ và đẫm máu. Muốn gì cũng có - cảnh sống xa hoa hay những cuộc ái ân
đều có thể xoay được. Sự trác táng ngấm vào khắp nơi, lan đến hoàng cung như một
bệnh truyền nhiễm.
Một gã mu-gích vô học, có đôi mắt điên rồ
và một dương lực cường tráng phi thường đã len vào tận hoàng cung, đến tận ngai
vàng và bắt đầu ngạo nghễ lên tiếng phỉ báng lăng mạ nước Nga.
Pêterburg cũng như mọi thành phố lớn, đang
sống trong cuộc sống nhất thể, khẩn trương và bận rộn. Có một sức mạnh trung
tâm điều khiển hoạt động này, nhưng nó không hòa hợp được với cái mà ta có thể
gọi là tinh thần của thành phố; sức mạnh ấy cố xác lập một tình hình ổn định,
yên tĩnh và hợp lý, còn tinh thần của thành phố thì lại muốn phá hoại cái sức mạnh
ấy. Tinh thần phá hoại lan tràn khắp nơi, chất độc giết người của nó ngấm vào
mưu đồ chứng khoán đại quy mô của gã Xaskô Xakelman trứ danh, cũng như nỗi căm
hờn u uất của người thợ nhà máy đúc thép, vào những ước mơ kỳ quặc của nhà nữ
thi sĩ thời thượng đang ngồi trong căn hầm của tửu điếm nghệ sĩ “Lục lạc đỏ”,
và ngay những kẻ cần đấu tranh với sức phá hoại này cũng vô tình làm đủ mọi
cách để tăng cường và mài sắc nó lên.
Đó là cái thời mà tình yêu cùng với những
tình cảm tốt lành bị coi là tầm thường và hủ lậu. Không ai biết yêu thương,
nhưng mọi người đều khao khát những cái gì cay nóng có thể cào gan xé ruột, và
hễ gặp được là vồ lấy ngay như những kẻ ngộ độc.
Các cô thiếu nữ không dám thú nhận là mình
còn trinh, những đôi vợ chồng rất sợ người ta biết là họ chưa có ngoại tình, sự
phá phách được coi là hành động trang nhã, tình trạng suy nhược thần kinh được
coi là dấu hiệu của sự tinh tế. Các nhà văn thời thượng xuất hiện từng mùa từ
cõi hư không đều dạy người ta như vậy. Người ta tự bịa đặt ra cho mình những
chuyện xấu xa và những chuyện dâm ô bệnh tật, cốt sao đừng mang tiếng là nhạt
nhẽo vô vị.
Thành Pêterburg năm 1914 là như vậy, phờ phạc
vì những đêm không ngủ, cố trấn áp nỗi chán chường bằng men rượu, bằng kim tiền,
bằng những cuộc ái ân không chút tình cảm, bằng những âm thanh day dứt chứa chất
một dục vọng bất lực của điệu tango - một thứ câu ca của giờ hấp hối - đô thành
sống như thể để đợi chờ một ngày oan nghiệt và tàn khốc. Và quả cũng có những
tiên triệu báo trước cái ngày ấy - một cái gì mới lạ, không sao hiểu nỗi, đang
từ từ toát ra khắp các kẻ hở.
2
-... Chúng tôi không muốn nhớ gì hết. Chúng
tôi nói: thôi đủ rồi, hãy quay lưng lại với dĩ vãng! Sau lưng tôi phỏng có gì?
Có tượng Vệ-nữ Milô ư? Thế liệu có ăn được nó không? Hay có thể dùng làm thuốc
mọc tóc? Tôi thật không hiểu tôi cần gì cái cục đá ấy! Nhưng nghệ thuật, nghệ
thuật, ái chà! Các ngài vẫn còn thích lấy cái khái niệm ấy cù nách mình lắm à?
Các ngài hãy nhìn sang hai bên, nhìn phía trước, nhìn xuống chân mà xem. Chân
các ngài đi giày Mỹ! Giày Mỹ muôn năm! Nghệ thuật phỏng? Một chiếc xe hơi đỏ
chót, bộ lốp cao su, hai chục lít xăng và trăm cây số một giờ: thế mới là nghệ
thuật chứ! Nó thôi thúc tôi phóng lên ngốn ngấu không gian. Nghệ thuật phỏng? Một
tờ áp-phích cao mười sáu ác-sin, và trên áp-phích là một chàng công tử bảnh bao
đội một chiếc mũ ống cao bóng lộn lên. Đó là một anh thợ may, một nghệ sĩ, một
thiên tài của thời nay! Tôi muốn ngốn ngấu cuộc sống, thế mà các ngài lại cho
tôi uống chút nước đường pha loãng dành cho bọn liệt dương...
Cuối gian phòng hẹp, sau dãy ghế tựa, nơi
đám sinh viên cao đẳng đứng chen chúc, có tiếng cười và tiếng vỗ tay đôm đốp.
Người vừa diễn thuyết là Xerghêy Xerghêyêvits Xapôjkôv, nhoẻn cái miệng ươn ướt
ra cười, sửa lại cho vững cặp kính không gọng đang nhảy nhót trên cái mũi phình
to và nhanh nhẹn bước xuống các bậc cấp rời khỏi cái bục lớn bằng gỗ sồi.
Bên cạnh, các hội viên hội “Dạ đàm triết học”
ngồi sau một chiếc bàn dài đặt hai cái chân nến năm ngọn. Ở đây có cả ông chủ tịch
hội là giáo sư thần học Antônôvxki, có cả người đọc báo cáo trong buổi này là
nhà sử học Vêlyaminôv, có cả nhà triết học Borxki, lại có cả nhà văn Xakanin -
một cây bút hóm hỉnh.
Hội “Dạ đàm triết học” mùa đông năm nay phải
chống chọi với một cuộc tấn công dữ dội của nhóm thanh niên chẳng có tiếng tăm
gì mấy nhưng lại rất to mồm. Họ lao vào công kích các nhà văn có tên tuổi và
các triết gia có uy tín một cách hung hăng và nói những điều táo tợn và có sức
cám dỗ đến nỗi ngôi biệt thự cũ kỹ ở phố Fôntanka vốn là trụ sở của hội, cứ đến
thứ bảy, ngày mở các phiên họp công khai, là chật ních những người.
Hôm nay cũng vậy. Khi Xapôjkôv đã mất hút
trong đám đông giữa những tiếng vỗ tay đang đổ hồi, một người khác liền bước
lên bục diễn giả. Đó là một người thấp bé, cái đầu cạo trọc gồ lên thành từng
cái u, khuôn mặt trẻ măng, có đôi lưỡng quyền cao, nước da vàng võ, tên là
Akunđin. Anh này mới xuất hiện ở đây được ít lâu, nhưng đã nhiều lần được các
thính giả, nhất là ở các hàng sau, hoan nghênh nhiệt liệt. Hễ có người hỏi anh
là ai, và ở đâu đến, - thì những người am hiểu đáp lại bằng một nụ cười bí hiểm.
Dù sao thì tên anh ta cũng chẳng phải là Akunđin; anh ta ở nước ngoài về, và
khi lên diễn thuyết như thế này anh ta rất có ý thức về việc mình đang làm.
Tay mân mê bộ râu cằm thưa thớt, Akunđin
đưa mắt nhìn quanh gian phòng đã im ắng trở lại, rồi với một nụ cười giễu cợt
trên đôi môi mỏng dính, anh ta bắt đầu lên tiếng.
Ở hàng ghế thứ ba, cạnh lối đi giữa phòng,
lúc bấy giờ có một thiếu nữ mặc chiếc áo dạ đen cài kín cổ đang ngồi tựa cằm
lên nắm tay. Mái tóc mịn màu gio phơn phớt vàng của nàng chải vén cao lên để hở
hai tai, quấn lại sau gáy thành một búi to có cài lược. Nàng ngồi không nhúc
nhích, vẻ mặt nghiêm trang, mắt nhìn mấy người ngồi sau chiếc bàn xanh, thỉnh
thoảng dừng lại một lát trên những đốm lửa đang cháy ở đầu mấy ngọn nến.
Khi Akunđin đưa nắm tay gõ lên mặt bàn bằng
gỗ sồi và nói dõng dạc: “Quả đấm sắt của nền kinh tế thế giới đang giáng một
đòn đầu tiên lên mái vòm của thánh đường”, người thiếu nữ khẽ thở dài, nhấc cái
cằm đỏ ửng ở phía dưới lên để dùng tay lấy kẹo caramel bỏ vào mồm.
Akunđin nói tiếp:
-... Thế mà các ngài vẫn cứ triền miên
trong những giấc mơ huyền ảo về triều đại của Đức chúa Trời trên trái đất. Còn
họ thì vẫn ngủ say, bất chấp những nỗ lực của ngài. Hay các ngài hy vọng rằng
tuy thế họ cũng sẽ có lúc tỉnh dậy và lên tiếng nói như con lừa của Balaam? [Điển
tích kinh thánh. Balaam là một pháp sư có con lừa cái một hôm bỗng dưng cất tiếng
nói như người, để phản kháng roi vọt. “Con lừa Balaam” là một thành ngữ thường
dùng để chỉ những người vốn nhẫn nhục, ít nói nhưng đến một lúc nào đấy lại đột
nhiên lên tiếng phản kháng quyết liệt]... Đúng, họ sẽ tỉnh dậy, nhưng
không phải những giọng nói ngọt ngào của các nhà thơ của các ngài sẽ đánh thức
họ, cũng không phải là khói hương trầm; chỉ có tiếng còi nhà máy mới có thể làm
cho họ thức tỉnh mà thôi. Họ sẽ tỉnh dậy và sẽ lên tiếng, và giọng nói của họ
nghe chẳng êm tai chút nào đâu. Hay các ngài hy vọng vào những khu rừng hoang
và những đầm lầy của các ngài? Ở đấy còn có thể ngủ thêm nửa thế kỷ nữa, tôi
cũng tin như vậy. Nhưng xin đừng gọi đó là sự nghiệp cứu thế. Đó không phải là
cái sắp đến, mà chính là cái sắp mất đi. Ở đây, Pêterburg, trong gian phòng lộng
lẫy này, người ta đã bịa ra con người mu-gích Nga. Người ta đã viết về hắn hàng
trăm pho sách, lại cả mấy vở ca kịch nữa. Tôi e rằng trò chơi này sẽ kết thúc bằng
một biển máu...
Nhưng đến đây chủ tọa cắt lời diễn giả.
Akunđin mỉm một nụ cười nhợt nhạt, rút từ túi áo vét tông ra một chiếc khăn tay
lớn và với một cử chỉ quen thuộc đưa khăn lên lau cái mặt lẫn cái đầu trọc lốc.
Ở cuối phòng có những tiếng la ó:
- Cứ để ông ấy nói.
- Có cái lối đâu bịt mồm người ta lại như
thế!
- Thật là láo xược!
- Ở đằng sau kia, im đi!
- Ông im đi thì có!
Akunđin nói tiếp:
- Người mu-gích Nga được đem ra làm một thí
điểm ứng dụng các tư tưởng. Thôi cũng được. Nhưng nếu những tư tưởng này không
có liên hệ hữu cơ với những khát vọng lâu đời của họ, với cái quan niệm nguyên
thủy của họ về công bằng, một quan niệm chung cho toàn nhân loại, thì đem tư tưởng
đến cho họ cũng chẳng khác nào gieo mầm xuống một tảng đá. Và chừng nào người
ta chưa chịu thấy rằng người mu-gích chỉ là một con người bụng đói meo và lưng
sây sát vì khổ dịch, chừng nào người ta vẫn khăng khăng gán cho họ những đức
tính cứu thế mà trước đây một gã địa chủ nào đó đã bịa đặt ra cho họ, thì vẫn cứ
còn hai thái cực tồn tại một cách bi đát: một đằng là những tư tưởng tuyệt vời
mà các ngài đã nặn ra trong bóng tối của văn phòng, một đằng là đám dân mà các
ngài không thèm tìm hiểu một chút nào... Thật ra ở đây chúng tôi cũng không cố
ý phê phán các ngài. Chẳng hơi đâu đi làm cái việc kỳ cục là khảo sát trí tưởng
tượng viễn vông của con người: đó là một mớ hổ lốn hết sức quái đản. Không.
Chúng tôi chỉ muốn nói: các ngài hãy cứu lấy thân, trong khi hãy còn chưa muộn.
Bởi vì những tư tưởng và những kho tàng của các ngài sẽ bị vứt không chút tiếc
thương vào thùng rác của lịch sử.
Người thiếu nữ mặc áo dạ đen không có chiều
muốn nghĩ sâu vào những điều đang được nói ra trên cái bục gỗ sồi. Nàng cũng thấy
những lời bàn luận ấy dĩ nhiên đều rất quan trọng và có nghĩa lý cả, nhưng cái
quan trọng nhất là một cái gì khác, mà những con người kia không hề nói đến...
Lúc bấy giờ có một người mới đến xuất hiện
sau cái bàn phủ nỉ xanh. Người ấy thong thả ngồi xuống cạnh chủ tọa, gật đầu
chào bên này bên nọ, đưa bàn tay ửng đỏ lên vuốt lại mái tóc hung ướt sũng vì
ngấm tuyết, rồi giấu hai tay xuống dưới bàn, ngồi thẳng người lại trong tấm áo
đuôi én màu đen may rất chật: khuôn mặt xương với nước da đục, đôi mày vòng
cung, và duới bóng rợp của đôi mày ấy là hai con mắt xám mênh mông. Mái tóc người
ấy xỏa xuống quanh đầu như một chiếc mũ chụp. Trên số ra gần đây nhất của một tờ
tuần báo có in bức chân dung đúng hệt như vậy của Alêkxêy Alekxêyevits
Bexxônôv.
Người thiếu nữ bây giờ không còn trông thấy
gì nữa ngoài khuôn mặt có một vẻ đẹp hầu như ghê tởm ấy. Nàng tựa hồ như kinh
hãi dán mắt vào những nét mặt kỳ dị mà nàng vẫn thường mơ thấy trong những đêm
Pêterburg lộng gió.
Đây, Bexxônôv đang nghiêng đầu về phía người
ngồi bên cạnh, mỉm cười, và nụ cười của chàng trông như thật thà chất phác,
nhưng trong những nét cắt rất sắc của đôi cánh mũi thanh tú, trong đôi mày quá
đàn bà, trong cái sức mạnh mềm dịu lạ lùng toát ra từ gương mặt ấy có một cái
gì phản trắc, trịch thượng và còn một cái gì nữa mà nàng không hiểu được, nhưng
vẫn khiến nàng xúc động hơn cả.
Lúc bấy giờ báo cáo viên Vêlyaminôv, mặt đỏ
gay, râu ria xồm xoàm, mắt đeo kính gọng vàng, có những chòm tóc bạc óng vàng mọc
quanh cái đầu to tướng, đang đáp lời Akunđin:
- Ông có lý, cũng như mảng tuyết khổng lồ
có lý khi nó đổ ập từ trên núi xuống thung lũng. Đã từ lâu chúng tôi chờ đợi
ngày khởi đầu của cái thời đại khủng khiếp, chúng tôi tiên đoán ngày toàn thắng
của cái chân lý mà các ông đề xướng. Các ông khống chế được những sức mạnh tự
phát, chứ không phải chúng tôi. Nhưng chúng tôi biết rằng cái công lý tối cao
mà các ông kêu gọi người ta giành lấy bằng cách kéo còi nhà máy lên, rồi đây ta
sẽ thấy nó chỉ là một đống gạch vỡ sắt vụng, một cõi hỗn mang trong đó vật vờ một
con người đã bị choáng váng ngẩn ngơ. Con người đó sẽ nói: “Tôi khát” vì trong
bản thân hắn không còn lấy một giọt nào của chất nước cam lồ thần thánh. Các
ông hãy coi chừng, - Vêlyaminôv giơ cao ngón tay trỏ dài như cây bút chì và
nghiêm nghị nhìn mấy hàng thính giả qua cặp kính - trên các cõi thiên đường mà
các ông mơ tưởng và đang muốn lấy danh nghĩa của nó mà biến con người thành một
cái máy sống, thành một con số nào đấy - một con người đeo số - trên cái thiên
đường khủng khiếp ấy rồi sẽ nổ ra một cuộc cách mạng mới, khủng khiếp hơn hết,
đó là cuộc cách mạng của tinh thần.
Akunđin ngồi tại chỗ lạnh lùng ném ra:
- Con người đeo số thì cũng là một sản phẩm
của chủ nghĩa duy tâm.
Vêlyaminôv giang rộng hai cánh tay ở bên
trên mặt bàn. Chùm nến chiếu những đốm sáng lấp loáng trên cái đầu hói của ông.
Ông bắt đầu nói về vực thẳm tội lỗi mà thế giới đang lao xuống, về ngày đền tội
khủng khiếp sau này. Trong phòng có nhiều tiếng ho húng hắng.
Đến giờ giải lao, người thiếu nữ đi ra
phòng giải khát, đến đứng cạnh cửa ra vào, gương mặt hơi cau có, phong thái độc
lập. Mấy ông trợ lý hội thẩm ra ngồi uống trà với vợ, nói chuyện to hơn hết thảy
mọi người. Bên lò sưởi gang, nhà văn Tsernôbylin nổi tiếng đang ăn món cá trộn
việt quất, phút phút lại đưa đôi mắt đỏ ké vì hơi men lên gườm gườm nhìn những
người qua lại. Hai nữ văn sĩ luống tuổi, cổ cáu ghét, tóc thắt nơ to ngồn ngộn
đang đứng nhai bánh mì bơ trước quầy giải khát. Hai ông linh mục đứng riêng ra
một góc, vẻ đĩnh đạc, không trà trộn với người thế tục. Dưới chùm chân nến pha
lê, hai tay chắp sau lưng dưới vạt áo đuôi tôm, một người có bộ tóc hoa râm cố
ý để bù xù, đang đung đưa trên gót giày - đó là nhà phê bình Tsirva đang đứng đợi
xem có ai đến hỏi chuyện chăng. Vêlyaminôv xuất hiện; một trong hai bà nữ sĩ chạy
lại níu lấy ống tay áo ông ta. Bà kia lập tức ngừng nhai, rũ vạt áo dài lấm tấm
những mẩu vụn bánh mì, nghiêng đầu, giương to đôi mắt. Bexxônôv vừa tiến đến cạnh
bà ta vừa khiêm nhường gật đầu chào hai bên.
Người thiếu nữ mặc áo đen có một cảm giác rất
rõ chạy khắp làn da, cho nàng biết rằng bà nữ sĩ đang rúm người lại dưới lần
coóc-xê. Bexxônôv nói một câu gì đấy với bà ta, miệng mỉm cười uể oải. Bà ta vỗ
hai bàn tay múp míp vào nhau và cười phá lên, mắt trợn ngược trông chỉ còn lòng
trắng.
Người thiếu nữ so đôi vai mảnh khảnh rồi ra
khỏi phòng giải khát. Có ai lớn tiếng gọi nàng. Một thanh niên gầy gò, tóc đen,
mặc áo vét nhung, chen qua đám đông đi về phía nàng. Anh ta hớn hở gật gật cái
đầu, mũi nhăn nhúm lại vì mừng rỡ, rồi nắm lấy tay nàng. Lòng bàn tay anh ta
xâm xấp mồ hôi, món tóc xỏa trên trán cũng như vừa nhấp nước và đôi mắt đen dài
ươn ướt của anh ta nhìn nàng với một vẻ trìu mến ướt át ủy mị. Đó là anh
Alekxanđr Ivanovits Jirôv. Anh ta nói:
- Cô đấy à, Đarya Đmitrievna? Cô làm gì ở
đây?
- Cũng như anh thôi, - nàng vừa đáp vừa rút
tay ra luồn vào bao tay rồi lau vào chiếc mùi soa giấu trong đó. Jirôv cười khì
khì, mắt nhìn nàng âu yếm hơn nữa:
- Chả nhẽ lần này cô vẫn không thấy thích
Xapôjkôv? Hôm nay anh ta nói như một nhà tiên tri. Cô khó chịu vì cái giọng gay
gắt và cách diễn đạt độc đáo của anh ta chứ gì? Nhưng thực chất tư tưởng anh ta
chẳng phải chính là điều mà tất cả chúng ta vẫn thầm mong muốn, nhưng không dám
nói ra đó sao? Còn anh ta thì lại dám nói thẳng ra. Đây này:
Mỗi
chúng ta đều trẻ, trẻ măng,
Dạ
dày thì cồn cào vì đói
Ta chỉ
ngốn toàn không khí mà thôi.
Thật là độc đáo, mới mẻ, táo bạo, Đarya
Đmitrievna ạ, chả nhẽ chính cô không cảm thấy hay sao? Cái mới đang âm ỉ mọc
lên! Một cái gì của chúng ta, mới mẻ, háo hức, táo bạo. Akunđin cũng thế đấy!
Anh ta quá lô-gích, nhưng anh ta đóng đinh khỏe lắm! Chỉ vài ba mùa đông như thế
này nữa là tất cả sẽ nứt rạn, sẽ vỡ toang ra, - thích quá!
Anh ta nói khe khẽ, giọng ngọt ngào, rồi mỉm
cười âu yếm. Đasa cảm thấy toàn thân anh ta run lên từng đợt nhỏ lăn tăn như thể
đang bị khích động dữ dội. Nàng chưa nghe hết câu đã gật đầu chào và len qua
đám đông ra phòng mắc áo.
Người gác phòng mắc áo, một ông già lầm lì
đeo đầy huy chương, đang mải xếp lại những đống lớn áo choàng lông và dày bọc ngoài,
không để ý đến cái thẻ số mà Đasa chìa ra. Nàng phải đợi khá lâu. Gian phòng mắc
áo trống trải mở thông thống, cánh cửa cứ đập ra đập vào không ngớt, gió lùa
hun hút vào chân nàng. Bên cửa ra vào có mấy gã xà ích cao lớn mặc áo kaftan
xanh ướt sũng đứng mời những người khách đang đi ra, giọng vui tươi và trơ
tráo:
- Mời ông lớn lên xe tôi, ngựa tốt lắm!
- Ngài về Pexki phải không ạ, xin mời!
Chợt sau lưng Đasa có tiếng Bexxônôv nói
tách rõ từng tiếng, giọng lạnh lùng:
- Lão kia, áo choàng, mũ và can của ta đâu?
Đasa cảm thấy như có một chiếc bàn xăm
chích nhè nhẹ suốt lưng nàng. Nàng quay phắt đầu lại và nhìn thẳng vào mắt
Bexxônôv. Bexxônôv đón tia mắt của nàng một cách điềm tĩnh, như đón một cống phẩm
tất nhiên, nhưng rồi mi mắt chàng khẽ chớp chớp, đôi mắt xám được tráng một lớp
thủy linh hoạt, trông như thể khiêm nhường hẳn lại, và Đasa chợt cảm thấy tim
mình đập dồn dập.
- Nếu tôi không nhầm, - Bexxônôv nghiêng
mình về phía nàng, nói - hình như chúng ta đã mấy lần gặp nhau ở nhà chị cô thì
phải?
Đasa trả lời ngay, giọng ương ngạnh:
- Phải, có gặp.
Nàng giật cái áo khoác trong tay người gác
phòng mắc áo và chạy ra cổng. Ngoài phố, gió lạnh và ẩm thổi tung áo nàng và phả
vào người nàng những giọt nước han rỉ. Đasa xốc cái cổ lông đến tận mắt. Một
người qua đường đi vượt lên trước. Khi đi ngang tầm Đasa, hắn thì thầm bên tai
nàng:
- Chao, đôi mắt!
Đasa bước trên mặt đường ướt át, qua những
dải ánh điện rung rinh. Từ khung cửa một hiệu ăn vừa vụt mở trào ra những tiếng
gào nức nở của mấy chiếc vĩ cầm đang chơi một điệu valse. Không ngoái lại, Đasa
khẽ hát vào lớp lông xù xì của chiếc bao tay:
- Ôi! Chẳng dễ gì đâu, chẳng dễ gì, chẳng dễ
gì!
3
Trong căn phòng mắc áo, Đasa vừa cởi khuy
chiếc áo khoác ướt sũng vừa hỏi chị hầu phòng:
- Chắc hẳn ở nhà chẳng có ai nhỉ?
Đại hãn [Nguyên văn là
Veliki Mogol (Mông Cổ đại vương), tước hiệu của nhà vua do triêì đình Mông Cổ đặt
ra để cai trị Ấn Độ trong thời kỳ thuộc Mông 1526 - 1858] - đó là
cái biệt hiệu mà người ta đã tặng cho chị hầu phòng Lusa vì cái mặt bự phấn có
đôi lưỡng quyền bạnh rộng ra như mặt một pho tượng thần Mông cổ - Đại hãn vừa
soi gương vừa cất cái giọng the thé đáp rằng quả phu nhân đi vắng, nhưng ông chủ
thì có nhà, đang ngồi trong phòng làm việc; nửa giờ nữa thì sẽ ăn bữa tối.
Đasa đi sang phòng khách, ngồi xuống cạnh
chiếc dương cầm, bắt tréo chân lên, hai tay bó gối.
Anh rể nàng, Nikôlai Ivanôvits, hiện có
nhà: như thế nghĩa là ông ta vừa cãi nhau với vợ, đang bực mình và sẽ than phiền.
Bây giờ là mười một giờ, từ giờ đến ba giờ sáng nếu chưa ngủ được thì chẳng biết
làm gì. Cũng có thể đọc sách, nhưng đọc gì? Vả lại cũng chẳng thấy muốn đọc. Cứ
ngồi mà nghĩ ngợi liên miên thì lại càng vô vị hơn. Quả đôi khi cuộc sống cũng
bất tiện quá chừng.
Đasa thở dài, mở nắp dương cầm, đoạn người
vẫn quay nghiêng sang một bên, nàng bắt đầu dùng một tay lần chơi một đoạn nhạc
của Xkryabin. Vào một lứa tuổi bất an như tuổi mười chín này, lắm lúc cũng gay
go thật, huống hồ người ta là một thiếu nữ, mà lại là một thiếu nữ thông minh,
hơn nữa lại có một tính thanh khiết phi lý nào đấy khiến cho người ta quá
nghiêm khắc đối với những kẻ nào tỏ ý muốn giúp người ta khuây khỏa nỗi buồn
trinh nữ (những kẻ như thế cũng chẳng phải hiếm).
Năm ngoái Đasa rời Xamara về Pêterburg để
theo học trường luật. Nàng đến ở với chị nàng là Êkatêrina Đmitrievna
Xmôkôvnikôva, vợ một ông trạng sư khá có tên tuổi. Gia đình này sinh hoạt rất
nhộn nhịp và phóng túng.
Đasa thua chị chừng năm tuổi. Khi Êkatêrina
Đmitrievna đi lấy chồng, Đasa hãy còn là một con bé con. Mấy năm gần đây hai chị
em ít gặp nhau, và bây giờ giữa hai người bắt đầu có những mối quan hệ tình cảm
mới: ở Đasa có cả một tình yêu nồng nàn đối với chị, còn ở Êkatêrina Đmitrievna
thì đó là một tình thương đằm thắm đối với em.
Thời gian đầu cái gì Đasa cũng bắt chước chị,
nàng hân hoan vì sắc đẹp, vì óc thẩm mỹ của chị, vì cách xử sự rất tinh tế của
chị đối với mọi người. Trước mặt những người quen của Êkatêrina Đmitrievna nàng
rất e thẹn, đôi khi cũng chỉ vì bẽn lẽn mà nàng nói với họ những câu rất ngang
ngạnh. Êkatêrina Đmitrievna vẫn cố sao cho nhà mình bao giờ cũng là mẫu mực của
sự phong nhã tế nhị và của sự tân tiến chưa kịp trở thành một sở hữu chung của
phố phường; nàng không bỏ qua một cuộc triển lãm nào, và hay mua những bức
tranh có khuynh hướng vị lai. Năm vừa qua cũng vì thế mà đã diễn ra những buổi
nói chuyện khá gay gắt giữa hai vợ chồng nàng, vì Nikôlai Ivanôvits vốn ưa chuộng
hội họa có nội dung tư tưởng, còn Êkatêrina Đmitrievna thì với cái tính bồng bột
rất phụ nữ của nàng, lại quyết một mực thà chịu khổ sở vì nền nghệ thuật mới
còn hơn là mang tiếng lạc hậu.
Đasa cũng rất mê những bức tranh kỳ dị của
chị mua về treo ở phòng khách, tuy cũng có khi nàng xót xa nghĩ rằng những hình
người vuông vức với những đường nét kỷ hà học trên mắt, với những cánh tay và cẳng
chân ngổn ngang khắp nơi, với những màu sắc âm u nặng nề như một cơn nhức đầu -
tất cả cái thi vị gang sắt, trâng tráo ấy quá cao siêu đối với trí tưởng tượng
u mê của nàng.
Cứ mỗi tuần vào ngày thứ ba, trong gian
phòng ăn bằng gỗ mắt chim của vợ chồng Xmôkôvnikôv lại tụ tập một đám tân khách
ồn ào và vui vẻ đến ăn bữa tối. Ở đây có những ông trạng sư ba hoa, ham chuộng
phụ nữ và chăm chú theo dõi các trào lưu văn học, lại có hai ba nhà báo am hiểu
tường tận cách tiến hành chính sách nội trị và ngoại giao, lại có cả nhà phê
bình Tsirva mắc chứng suy nhược thần kinh, đang chuẩn bị một trong những đòn
trí mạng mà thỉnh thoảng ông vẫn giáng vào làng văn. Thỉnh thoảng lại có những
nhà thơ trẻ tuổi đến trước giờ, vở chép thơ để lại ở phòng ngoài, trong túi áo
khoác. Đầu bữa ăn ở phòng khách thường xuất hiện một nhân vật nổi tiếng nào đấy,
thong thả vào hôn tay nữ chủ nhân và đường bệ ngồi xuống một chiếc ghế bành.
Vào giữa bữa ăn nhiều khi lại nghe tiếng ai tháo đế bọc giày lịch kịch ở phòng
mắc áo, rồi một giọng trầm trầm êm như nhung nói:
“Xin chào Đại hãn!” - rồi sau đó khuôn mặt
cạo nhẵn má phệ của gã tình-nhân-hay-lý-sự cúi xuống ghế nữ chủ nhân:
- Katyusa, mượn bàn tay cô tí nào!
Đối với Đasa, nhân vật chính trong những bữa
ăn này là chị nàng. Đasa rất giận những kẻ nào không ân cần vồn vã với chị
Êkatêrina Đmitrievna đáng yêu, tốt bụng mà thật thà của nàng, còn kẻ nào ân cần
vồn vã quá mức thì nàng lại đâm ghen với họ: kẻ phạm tội bị nàng nhìn bằng đôi
mắt hằn học.
Dần dần nàng bắt đầu định thần được trong
cái đám người nhộn nhịp ồn ào đã làm cho nàng chóng mặt lúc ban đầu. Những ông
trợ lý trạng sư thì bây giờ nàng coi khinh: ngoài những chiếc áo đuôi tôm xù
xì, những chiếc cà-vạt màu hoa cà và những đường ngôi chạy suốt từ trán đến
gáy, họ chẳng còn có gì đáng kể nữa. Anh chàng tình-nhân-hay-lý-sự thì nàng
ghét cay ghét đắng: hắn có quyền gì mà gọi chị nàng là Katya, gọi Đại hãn là Đại
hãn? Hắn lấy danh nghĩa gì mà khi nốc cạn chén rượu vôtka lại dám nheo nheo đôi mắt húp nhìn Đasa nói: “Xin cạn chén mừng
cây hạnh đào nở hoa”?
Cứ mỗi lần như thế Đasa tức đến nghẹt thở.
Quả hai má nàng đỏ thắm như hoa hạnh đào,
và cái màu chết tiệt ấy không thể có cách gì làm cho mất đi được, thành thử ngồi
bên bàn ăn Đasa cứ cảm thấy mình giống như một con búp bê matriôska bằng gỗ sơn bóng lộn.
Mùa hè năm ấy Đasa không về với bố ở cái xứ
Xamara oi bức và bụi bặm, nàng đã vui sướng nhận lời ở lại bờ bể Sestroretsk với
chị. Người quen cũng vẫn như dạo mùa đông, chỉ có điều là mọi người hay gặp
nhau hơn, bơi thuyền, đi tắm biển, ăn kem trong rừng thông, tối tối lại nghe nhạc
và ăn uống ồn ào trên thềm tửu điếm, dưới ánh sao.
Êkatêrina Đmitrievna đã đặt may cho Đasa một
chiếc áo dài trắng thêu nổi, chiếc mũ rộng vành bằng tuyn trắng kết ruy băng
đen và một dải thắt lưng bằng lụa rộng khổ để thắt thành cái nơ lớn ở sau lưng,
thế rồi đột nhiên, như thể vừa được người ta mở mắt cho, người trợ lý của anh rể
Đasa là Nikanor Yurêvits bỗng quay ra yêu nàng.
Nhưng anh này lại thuộc nhóm người mà Đasa “coi
khinh”. Nàng giận lắm, gọi anh ta vào rừng, và không để cho anh ta thanh minh lấy
một lời (anh ta chỉ biết cầm chiếc mùi soa vo tròn trong nắm tay lên chấm chấm
trên mặt), nàng nói luôn một thôi một hồi rằng nàng không cho phép ai được nhìn
nàng như nhìn một “con cái” vớ vẩn nào, rằng nàng rất phẫn uất, nàng cho anh ta
là một kẻ có trí tưởng tượng hư hỏng, đồi trụy, và ngay hôm nay sẽ đem việc này
mách với anh rể.
Và tối hôm ấy Đasa đã đem việc này mách với
anh rể thật. Nikôlai Ivanôvits lắng nghe nàng nói đến cùng, tay vuốt bộ râu cằm
tỉa tót cẩn thận, mắt ngạc nhiên nhìn đôi má hạnh đào của Đasa đỏ bừng lên vì
căm giận, nhìn cái vành mũ rộng giận dữ rung bắn lên, nhìn cả cái dáng dấp
thanh tú, nõn nà của Đasa, rồi ngồi bệt xuống bờ cát mấp mé bên dòng nước và cười
phá lên, đoạn rút khăn mùi soa vừa chấm lên mắt vừa nói:
- Thôi đi đi, Đarya, đi đi, đến chết với cô
mất!
Đasa bỏ đi, chẳng hiểu ra làm sao nữa, lòng
bàng hoàng và bối rối. Kulitsek bây giờ ngay đến nhìn nàng cũng không dám nhìn
nữa. Anh ta gầy rộc đi và xa lánh mọi người. Danh dự của Đasa thế là vẫn toàn vẹn.
Nhưng câu chuyện này đã đột ngột khuấy động trong lòng nàng những tình cảm bấy
lâu vẫn thiêm thiếp trong giấc ngủ trinh bạch. Trạng thái cân bằng mong manh đã
bị phá vỡ, dường như trong khắp thân thể của Đasa, từ mái tóc cho đến gót chân,
vừa có một con người thứ hai nào nẩy sinh, một con người mơ mộng, vô hình thù,
làm cho nàng thấy ngột ngạt và ghê tởm. Đasa cảm biết sự có mặt của con người
đó trong từng đường gân thớ thịt của nàng và thấy khổ sở như phải mang một vết nhơ;
nàng cứ muốn gột rửa cho sạch tấm mạng nhện vô hình ấy để trở lại tươi mát, nhẹ
nhàng.
Bây giờ Đasa đánh quần vợt suốt mấy giờ liền,
mỗi ngày tắm hai lần, dậy lúc sớm tinh mơ, khi những giọt sương mai to tướng
hãy còn long lanh trên các ngọn lá, hơi nước còn bốc lên nghi ngút từ mặt biển
tím ngắt phẳng như gương, và trên thềm vắng, những người hầu bàn đang xếp lại
những bộ bàn ghế ướt đẫm, quét lại những lối đi rải cát thấm sương mai.
Nhưng khi đã được sưởi nắng ấm, hay đến
đêm, trong chăn đệm êm ái, con người thứ hai kia lại sống dậy rón rén len lỏi
lên đến tận tim nàng và giơ bàn tay mềm nhũn bóp chặt nó lại.
Không sao gạt bỏ hay gột rửa nó đi được, nó
chẳng khác nào vết máu trên chiếc chìa khóa bị yểm chài của lão Râu Xanh.
Tất cả những người quen, và trước tiên là
chị nàng, đều nhận thấy Đasa mùa hè năm ấy xinh ra rất nhiều, và dường như cứ mỗi
ngày một xinh thêm mãi. Một buổi sáng nọ Êkatêrina Đmitrievna ghé vào buồng em
nói:
- Bây giờ rồi cô mình sẽ thế nào đây nhỉ?
- Gì hở chị Katya?
Đasa mặc áo lót ngồi trên giường, đang quấn
tóc lại thành một búi lớn.
- Cô mình bây giờ xinh ra nhiều quá. Thế rồi
cô mình sẽ làm gì nữa đây?
Đasa đưa đôi mắt nghiêm trang nhìn chị qua
hàng mi dài, rồi quay mặt đi. Má và tai nàng đỏ ửng.
- Katya, em không thích chị nói thế đâu,
nói thế phiền lắm, chị có hiểu không?
Êkatêrina Đmitrievna ngồi xuống giường, áp
má vào tấm lưng trần của Đasa, hôn vào giữa hai bả vai em và cười khanh khách.
- Bây giờ cô mình sinh ra dở hơi thế nào ấy;
chẳng ra cá ngạnh, chẳng ra nhím, mà cũng chẳng ra mèo rừng.
Một hôm trên sân quần vợt xuất hiện một người
Anh - gầy gò, râu cạo nhẵn, có cái cằm dô ra và đôi mắt như trẻ con. Cách ăn mặc
của hắn chững chạc và hoàn mỹ đến nỗi mấy chàng thanh niên trong đám tùy tùng của
Êkatêrina Đmitrievna mất hẳn tinh thần đi. Hắn ta mời Đasa chơi một ván, và
đánh bóng như cái máy. Đasa có cảm giác là suốt buổi hắn không nhìn nàng lấy một
lần nào - hắn cứ nhìn lệch sang bên cạnh. Nàng thua ván đầu, bèn mời hắn đánh
thêm ván nữa. Muốn cho động tác được thoải mái hơn, nàng xắn tay áo sơ-mi trắng
lên. Một món tóc của nàng buột ra khỏi cái mũ vải trần, nhưng nàng chẳng buồn
vén lên. Trong khi vụt mạnh một quả là là sát lưới, Đasa nghĩ thầm:
“Đây là một thiếu nữ Nga nhanh nhẹn, mỗi động
tác đều có một vẻ duyên dáng khó tả, và đôi má hồng rất hợp với cô ta”.
Ván sau anh chàng người Anh vẫn thắng. Hắn
cúi đầu cám ơn Đasa - mặt hắn ráo hoảnh - châm một điếu thuốc lá thơm, gọi một
chai nước chanh rồi ngồi xuống gần đấy.
Trong khi chơi một ván thứ ba với một anh học
sinh nổi tiếng chơi giỏi, Đasa mấy lần liếc về phía anh chàng người Anh, - hắn
ngồi bên chiếc bàn con, tay đặt lên mắt cá bàn chân đi bít tất lụa vắt chéo
trên chân kia, chiếc mũ cói hất ngược ra sau gáy, mặt nhìn ra bể, không hề ngoảnh
lại.
Đêm hôm ấy, nằm trên giường ngủ, Đasa nhớ lại
tất cả những cảnh đó. Nàng thấy lại rõ mồn một mình đang nhảy nhót trên sân quần,
mặt đỏ ửng, với món tóc buột ra ngoài mũ, và cất tiếng khóc nức nở vì lòng tự
ái bị tổn thương và vì một cái gì nữa còn mạnh hơn bản thân nàng.
Kể từ hôm ấy nàng không đến sân quần vợt nữa.
Có lần Êkatêrina Đmitrievna nói với nàng:
- Đasa ạ, mister Bayles hôm nào cũng hỏi thăm em, không hiểu sao em không đến
đánh bóng nữa đấy.
Đasa kinh hoảng há hốc mồm ra. Đoạn nàng tức
giận nói rằng mình không thèm nghe những “chuyện nhảm” ấy, rằng mình không hề
biết và không thèm biết đến một mister Bayles nào hết, và nói chung ông ta thật
hợm hĩnh một cách trơ trẽn nếu ông ta nghĩ rằng chỉ vì ông ta mà nàng không đến
chơi “cái trò quần vợt ngu xuẩn” ấy nữa. Trưa hôm ấy Đasa không ăn với gia đình
chị; nàng bỏ túi một mẩu bánh mì, một ít dâu tây và đi vào rừng. Dưới rặng
thông thơm phức mùi nhựa nóng, đi lang thang giữa những cây thông đỏ cao vút,
gió thổi vi vu trên ngọn, nàng đã thấy rõ ràng không còn có thể nào che giấu
cái sự thật thảm hại này nữa: nàng mê gã người Anh và đang khổ sở vô cùng.
Con người thứ hai kia đã lớn lên trong Đasa
như vậy đấy, mỗi ngày một ngẩng đầu lên cao hơn. Ban đầu sự có mặt của hắn làm
cho nàng ghê tởm như một vết nhơ, đau đớn như một sự đổ vỡ. Rồi về sau Đasa đã
quen dần với cái trạng thái phức tạp này, cũng như sau mỗi mùa hè hóng gió mát
và tắm nước lạnh, đến mùa đông người ta lại quen nịt coóc-xê và mặc áo dạ.
Mối tình đầy tự ái của nàng đối với gã người
Anh kéo dài được hai tuần. Đasa căm ghét mình và oán giận con người ấy. Có lần
đứng đằng xa nàng nhìn thấy hắn đánh quần vợt một cách uể oải và thành thạo, hoặc
ngồi ăn bữa tối với mấy nguời thủy thủ Nga, và tuyệt vọng tự nhủ rằng hắn quả
là người có sức quyến rũ nhất thế gian.
Thế rồi bên cạnh hắn xuất hiện một cô gái
cao và gầy, mặc nỉ trắng - đó là một người Anh, vị hôn thê của hắn - và hai người
cùng ra đi. Suốt đêm hôm ấy Đasa không ngủ, nàng căm ghét và ghê tởm bản thân đến
cùng cực, và đến gần sáng, nàng đinh ninh tự nhủ rằng đây sẽ là sai lầm cuối
cùng của đời nàng.
Thế là nàng bình tâm lại, thậm chí về sau
nàng còn lấy làm lạ, không hiểu sao tất cả câu chuyện này có thể qua đi một
cách nhanh chóng và dễ dàng như vậy. Nhưng không phải mọi sự đều đã qua. Bây giờ
Đasa cảm thấy con người thứ hai ở bên trong nàng đã hòa làm một với nàng, tan
biến vào nàng, và bây giờ nàng là một người khác hẳn: vẫn nhẹ nhàng và tươi mát
như xưa, nhưng lại dường như mềm yếu hơn, dịu dàng hơn, khó hiểu hơn, và cứ như
thể da nàng bây giờ cũng mỏng mịn hơn trước. Soi gương, nàng không còn nhận ra
mình được nữa, đặc biệt là đôi mắt sao khác trước quá thể, một đôi mắt lạ lùng,
nhìn vào mà chóng cả mặt.
Khoảng giữa tháng tám hai vợ chồng
Xmôkôvnikôv cùng với Đasa lên đường trở về Pêterburg, trong tòa nhà lớn của họ ở
phố Pantêlêymôn. Lại những bữa ăn tối vào ngày thứ ba hàng tuần, những phòng
triển lãm tranh, những buổi đầu sôi nổi ở các kịch viện và những vụ kiện xôn
xao dư luận, lại đi mua tranh, lại chơi đồ cổ, lại phóng xe đến xóm “Xamarkanđ”
của người Tzigan chơi suốt đêm. Lại thấy xuất hiện gã tình-nhân-hay-lý-sự, đã
trút bỏ được hai mươi ba bảng thịt và mỡ ở suối nước khoáng, và thêm vào tất cả
những cái thú vui nhộn nhịp ấy lại có những tin mơ hồ, gieo lo lắng và vui mừng
vào lòng mọi người, đồn rằng một cuộc chuyển biến nào đó đang được chuẩn bị.
Bây giờ Đasa không còn thì giờ đâu mà nghĩ
ngợi hay cảm xúc gì nhiều: buổi sáng nàng phải đi nghe giảng, đến bốn giờ chiều
nàng đi dạo với chị, rồi đến tối thì nào đi xem kịch, nào nghe hòa nhạc, nào tiệc
tùng, khách khứa - không có lấy một phút nào yên tĩnh.
Vào một tối thứ ba, sau bữa ăn, khi các tân
khách đang uống rượu mùi, Alekxêy Alekxêyevits Bexxônôv bước vào phòng khách.
Trông thấy chàng hiện ra ở ngưỡng cửa, Êkatêrina Đmitrievna đỏ bừng mặt lên.
Câu chuyện chung bị cắt ngang. Bexxônôv ngồi xuống đi-văng và cầm lấy chén
cà-phê của Êkatêrina Đmitrievna trao cho.
Hai ông trợ lý trạng sư vốn là người am hiểu
văn học, đến ngồi cạnh chàng. Nhưng Bexxônôv, mắt đưa về phía nữ chủ nhân một
cái nhìn kéo dài và kỳ dị, đột ngột nói rằng tuyệt nhiên không làm gì có nghệ
thuật, mà chỉ có một lối bịp đời, một trò quỷ thuật của thầy phù thủy cho khỉ
leo dây lên trời.
“Không làm gì có thơ ca. Mọi thứ đã chết từ
lâu - con người cũng như nghệ thuật. Nước Nga thì chỉ là một cái thây đang làm
mồi cho đàn quạ bâu vào khoét rỉa. Còn những kẻ nào làm thơ thì đều sẽ xuống địa
ngục hết”.
Chàng nói khẽ, giọng trầm trầm. Trên gương
mặt xanh xao, hung ác của chàng nổi lên hai vệt hồng hồng. Cái cổ áo mềm của
chàng nhàu nát, tấm áo khoác của chàng bám đầy tàn thuốc. Chén cà phê chàng
đang cầm nghiêng nghiêng về một bên, chao cả ra thảm.
Hai nhà am hiểu văn học toan lên tiếng
tranh luận, nhưng Bexxônôv không nghe họ nói, đôi mắt tối sẫm của chàng đăm đăm
theo dõi Êkatêrina Đmitrievna. Một lát sau chàng đứng dậy, đến cạnh nàng, và
Đasa nghe rõ tiếng chàng nói:
- Tôi không chịu nổi những chỗ đông người.
Xin phép bà cho tôi được cáo lui.
Êkatêrina Đmitrievna rụt rè yêu cầu chàng đọc
thơ. Chàng lắc đầu, và khi cáo biệt, chàng hôn tay Êkatêrina Đmitrievna lâu đến
nỗi lưng người thiếu phụ ửng hồng.
Bexxônôv ra rồi, phòng khách nhốn nháo lên.
Giới đàn ông nhất trí nói: “Dù sao cũng phải có giới hạn. Sao hắn lại dám khinh
miệt chúng ta như vậy!”. Nhà phê bình Tsiva lần lượt đến gặp từng người nhắc đi
nhắc lại: “Thưa các vị, hắn đang say bí tỉ”. Nhưng các cô các bà thì lại kết luận:
“Dù Bexxônôv say hay chỉ là đang ở trong một trạng thái đặc biệt nào đấy, thì
ông ta vẫn là một nhân cách có sức làm xao xuyến lòng người, xin mọi người biết
cho như vậy”.
Hôm sau, vào bữa trưa, Đasa nói rằng nàng
cho Bexxônôv là một trong những con người “chân chính” mà những cảm xúc, những
tội lỗi, những sở thích làm thành một thứ ánh sáng được phản chiếu lại trong những
lớp người như nhóm bạn bè của Êkatêrina Đmitrievna chẳng hạn, và nuôi sống những
lớp người đó. “Đấy, chị Katya ạ, em hiểu lắm: nếu vì một người như thế mà mất hết
lý trí thì cũng hiểu được thôi”.
Nikôlai Ivanôvits phẫn nộ: “Đasa ạ, sỡ dĩ
cô bị quáng mắt chẳng qua vì hắn là một nhân vật nổi tiếng”. Êkatêrina
Đmitrievna lặng thinh. Từ đấy không thấy Bexxônôv đến nhà Xmôkôvnikôv nữa. Có
tin đồn là chàng ta mất hút trong hậu trường của nữ diễn viên Tsarôđôyeva.
Kulitsek cùng bạn bè kéo nhau đi xem cái cô Tsarôđôyeva ấy, nhưng đã vỡ mộng:
cô ta gầy như bộ xương, chỉ thấy toàn những váy đăng-ten, bên trong lép kẹp.
Một hôm Đasa gặp Bexxônôv trong một cuộc
triển lãm. Chàng đứng cạnh một cửa sổ, lơ đãng giở xem tập danh sách trưng phẩm.
Trước mắt chàng là hai nữ sinh viên vóc người vậm vạp đang đứng nhìn chàng chằm
chặp như thể đứng xem một hình nhân trong phòng trưng bày người sáp, trên môi đọng
lại một nụ cười ngớ ngẩn. Đasa chậm rãi đi qua, và sang đến phòng bên nàng ngồi
xuống một chiếc ghế: chân nàng bỗng dưng mỏi rã rời, và lòng nàng nặng trĩu.
Thế rồi Đasa mua một tấm bưu ảnh in chân
dung Bexxônôv về đặt trên bàn. Những bài thơ của Bexxônôv - ba tập mỏng bìa trắng
- lúc đầu đã khiến nàng có cảm giác như bị ngộ độc: suốt mấy ngày nàng cứ đi vật
vờ như người mất hồn, nàng cứ ngờ ngợ như mình đã liên lụy vào một việc gì ám
muội. Nhưng đọc đi đọc lại mãi, nàng dần dần thấy thích thú với chính cái cảm
giác bệnh tật này; cứ như thể có ai rỉ tai xui nàng hãy tự buông xuôi, hãy để mặc
cho mình rũ rượi ra, hãy phung phí một cái gì quý giá, hãy khắc khoải nhớ
nhung, khao khát một cái gì không hề tồn tại.
Cũng vì Bexxônôv mà nàng bắt đầu đi dự những
buổi “Dạ đàm triết học”. Bexxônôv thường đến muộn, và ít khi lên tiếng. Nhưng cứ
mỗi lần như thế Đasa đều ra về với một tâm trạng xao xuyến, và rất mừng khi thấy
ở nhà có khách. Lòng tự ái của nàng một mực lặng thinh.
Hôm nay, trong cảnh cô đơn, nàng ngồi lần
trên phím đàn từng phách nhạc của Xkryabin. Tiếng đàn, như những viên băng
tròn, thánh thót rơi vào lòng nàng, chìm sâu xuống một cái hồ tối tăm không
đáy. Rơi xuống hồ, những viên băng ấy làm xao động mặt nước, rồi chìm nghỉm,
trong khi nước hồ phập phồng dào dạt, và đâu đây, trong bóng tối nóng rực, tim
nàng đập rộn rã, hồi hộp tưởng chừng như chẳng mấy chốc nữa, rất chóng thôi,
ngay bây giờ, ngay giây lát này, sẽ xảy ra một điều gì không thể có được.
Đasa buông hai tay xuống đùi và ngẩng đầu
lên. Trong vầng ánh sáng dìu dịu của chiếc chao đèn màu da cam, trên tường có
những khuôn mặt tím bầm, sưng húp, nhăn nhở, mắt lồi ra, đang nhìn xuống, tựa hồ
những bóng ma của cõi hỗn mang tối sơ đang khao khát dòm dõi khu vườn Êđen vào
ngày đầu sáng thế.
- Phải rồi, thưa tiểu thư, tình thế gay go
lắm. - Đasa nói. Nàng đưa nhanh tay trên phím đàn từ trái sang phải, đánh dồn dập
từng chuỗi âm giai rồi nhẹ nhàng đậy nắp dương cầm lại. Nàng lấy trong chiếc hộp
Nhật Bản ra một điếu thuốc lá, châm lửa hút, ho sù sụ, rồi dụi điếu thuốc vào
cái gạt tàn.
- Anh Nikôlai Ivanôvits à, mấy giờ rồi anh?
- Đasa nói rõ to, cách bốn phòng cũng còn nghe ra được.
Trong thư phòng có tiếng vật gì rơi xuống,
nhưng không thấy trả lời. Đại hãn bước vào phòng rồi vừa soi gương vừa nói rằng
bữa ăn khuya đã dọn xong.
Sang đến phòng ăn, Đasa ngồi xuống trước mặt
chiếc bình cắm mấy bông hoa đã héo, và bắt đầu bứt từng cánh hoa buông xuống mặt
bàn trải khăn. Đại hãn dọn trà, thịt nguội và trứng tráng ra. Mãi đến giờ mới
thấy Nikôlai Ivanôvits vào, mình mặc bộ com-lê xanh mới tinh, nhưng sơ mi không
đính cổ cồn. Tóc ông ta rối bù. Trên bộ râu cằm lệch hẳn sang bên trái dính lủng
lẳng một sợi lông tơ trong gối đi-văng sổ ra.
Nikôlai Ivanôvits lầm lầm gật đầu chào
Đasa, ngồi vào phía cuối bàn, kéo chiếc lập là tráng trứng lại và bắt đầu ăn ngốn
ngấu.
Ăn xong ông chống khuỷu tay lên mép bàn, tựa
má lên nắm tay phốp pháp và lông lá, rồi mắt trân trân nhìn vào đống cánh hoa
héo trên khăn trải bàn, giọng trầm trầm, gần như phi tự nhiên, ông buông ra mấy
tiếng:
- Đêm qua chị cô đã phản bội tôi.
4
Katya, chị ruột nàng, đã làm một điều gì khủng
khiếp, không thể hiểu được, một điều gì hắc ám. Đêm hôm qua đầu chị nàng đã đặt
lên một chiếc gối, nó đã ngoảnh đi trước tất cả những gì chân thực, thân thuộc,
ấm áp, và thân thể chị nàng đã bị chà nát, phơi trần ra. Đasa rùng mình khi
hình dung như vậy cái mà Nikôlai Ivanôvits gọi là phản bội. Tệ hơn nữa là lúc
này Katya lại không có nhà, như thể không còn tồn tại trên cõi đời này nữa.
Giây phút đầu Đasa
lặng người đi, mắt tối sầm lại. Nàng nín thở chờ nghe Nicôlai Ivanôvits khóc nức
nở hay hét lên một tiếng ghê sợ. Nhưng ông ta không nói thêm lấy một lời, chỉ
quay quay chiếc giá nĩa trong mấy ngón tay. Đasa không dám nhìn thẳng vào mặt
anh rể.
Rồi sau một lát im lặng kéo dài rất lâu,
ông xô chiếc ghế đánh roạt một tiếng và lui về thư phòng. “Chắc sẽ bắn vào đầu
tự tử” - Đasa nghĩ thầm. Nhưng rồi việc ấy cũng không xảy ra nốt. Với một tình
xót thương da diết và đột ngột, nàng nhớ lại bàn tay to, lông lá của Nikôlai
Ivanôvits đặt trên bàn. Rồi hình ảnh ông mờ dần đi, và Đasa chỉ còn biết nhắc
đi nhắc lại: “Biết làm thế nào bây giờ? Biết làm thế nào?”. Đầu nàng cứ ong ong
lên: thế là hết, thế là xong, tất cả đều đã hỏng nát, tất cả đều đã đổ vỡ tan
tành.
Từ sau tấm màn nỉ,
Đại hãn bưng cái khay bước ra, và nhìn vào chị ta. Đasa chợt hiểu ra rằng từ
nay không còn Đại hãn đại hiếc gì nữa. Mắt rưng rưng, nàng nghiến chặt răng lại
và bỏ chạy sang phòng khách.
Ở đây mọi vật đều được đôi bàn tay của
Katya âu yếm xếp đặt treo bày cẩn thận từng li từng tí. Nhưng linh hồn Katya đã
đi khỏi phòng này, cho nên mọi vật trong phòng đều trở nên hoang vu và ghẻ lạnh.
Đasa ngồi xuống đi-văng. Dần dần mắt nàng dừng lại trên một bức tranh mới mua gần
đây. Và lần đầu tiên nàng đã nhìn thấy và hiểu ra được bức tranh vẽ cái gì.
Đó là hình một người đàn bà trần truồng màu
đỏ loét như thể bị lột da. Cái miệng vẽ lệch sang một bên, mũi thì không hề có
- thay vào đó là một cái lỗ hình tam giác, đầu thì vuông chành chạnh, có đính một
miếng dẻ - một mảnh vải thật dán lên mặt tranh. Chân thì như hai súc củi, có
đóng bản lề. Bàn tay cầm một bông hoa. Những chi tiết còn lại rất khủng khiếp.
Mà khủng khiếp nhất là cái góc trong đó người đàn bà ngồi chạng chân ra - một
cái góc tối tăm, màu nâu sẫm. Bức tranh nhan đề là “tình yêu”. Katya gọi nó là
Vệ nữ hiện đại.
“Ra Katya say sưa với mụ đàn bà chết tiệt
này là vì thế! Chính chị ấy bây giờ cũng thế: cầm cái hoa ngồi trong xó”. Đasa
nằm úp mặt vào gối. Răng cắn chặt lấy rìa gối để đừng rống to lên, nàng khóc nức
nở. Một lát sau Nikôlai Ivanôvits bước vào phòng khách. Ông đứng dạng chân, giận
dữ bật mãi chiếc bật lửa, đến ngồi trước dương cầm và bắt đầu nhấn ngón tay xuống
phím đàn. Ông bất giác đánh mấy nốt trong điệu “Chim hoàng tước”. Đasa lạnh
toát người đi. Nikôlai Ivanôvits đóng sập nắp đàn xuống rồi nói:
- Chuyện này lẽ ra phải thấy từ trước.
Đasa mấy lần nhẩm lại câu này, cố hiểu cho
ra nó ngụ ý gì. Chợt ngoài phòng mắc áo có tiếng chuông bấm gắt. Nikôlai
Ivanôvits đưa bàn tay lên nắm bộ râu cằm, nhưng rồi sau một tiếng “ô-ô-ô!” nén
giọng, chẳng thấy ông làm gì nữa. Ông bước nhanh về phòng làm việc. Đại hãn đi
qua hành lang, gót nện cồm cộp như vó ngựa. Đasa vụt rời đi-văng chồm dậy - mắt
nàng hoa lên, vì tim đập dữ quá - rồi chạy ra phòng mắc áo.
Trong phòng mắc áo, Êkatêrina Đmitrievna
đang tháo gỡ những sợi ruy-băng màu hoa cà trên chiếc mũ chụp lông với mấy ngón
tay vụng về vì lạnh cóng, cái mũi thanh thanh nhíu lại. Nàng chìa cái má ửng hồng
và lạnh ngắt cho em hôn, nhưng rồi chẳng thấy ai hôn mình cả, nàng hất đầu cho
chiếc mũ rơi ra và đưa đôi mắt xám nhìn chăm chắm vào mặt em.
- Ở nhà có chuyện gì xảy ra à? Hai anh em vừa
cãi nhau hay sao? - Nàng hỏi với cái giọng ngực trầm trầm xưa nay vẫn đáng yêu
và có sức quyến rũ lạ lùng. Đasa đưa mắt nhìn xuống đôi giày bọc ngoài bằng da
của Nikôlai Ivanôvits. Trong nhà thường gọi nó là đôi “tự hành xa”. Bây giờ nó
nằm thui thủi trong xó, vẻ côi cút tội nghiệp. Cằm nàng run run.
- Không, có gì đâu. Chẳng qua là em... thế
thôi.
Êkatêrina Đmitrievna thong thả cởi những
chiếc khuy lớn trên cái áo khoác lông chồn sóc, hất áo xuống bằng một động tác
mềm mại của đôi vai trần, và giờ đây, từ cả con người nàng tỏa ra một cái gì ấm
áp, mềm dịu và mệt mỏi. Trong khi cúi thấp xuống để cởi đôi giầy cao ống, nàng
nói:
- Đasa ạ, tìm xe mãi, đến khi tìm được thì
nước thấm cả vào giầy rồi.
Vẫn tiếp tục nhìn đôi giầy bọc của Nikôlai
Ivanôvits, Đasa nghiêm nghị hỏi:
- Katya, chị đi đâu về?
- Đi dự bữa tiệc văn học em ạ. Họ mở tiệc
thết nhà văn nào chị cũng chẳng biết nữa, thật đấy. Vẫn cứ thế mãi thôi. Mệt chết
người đi được, chỉ muốn ngủ.
Nói đoạn nàng đi vào phòng ăn, quẳng chiếc
ví xách bằng da lên bàn, rồi vừa đưa mùi soa lên lau mũi vừa hỏi:
- Ai bứt hết cánh hoa thế này? Nikôlai
Ivanôvits đâu? Ngủ rồi à?
Đasa ngẩn người ra: chị nàng không có chút
gì giống mụ đàn bà chết tiệt trong tranh và không những không hề xa lạ, mà hôm
nay còn có một cái gì đặc biệt gần gũi thân thuộc, khiến Đasa cứ muốn ôm choàng
lấy chị mà vỗ về mơn trớn.
Nhưng vẫn cố hết sức tỉnh táo, Đasa vừa nói
vừa lấy móng tay vạch vạch từng đường ngăn ngắn lên khăn trải bàn, đúng vào chỗ
mà cách đây nửa giờ Nikôlai Ivanôvits ngồi ăn trứng tráng:
- Katya!
- Gì hở em?
- Em biết hết rồi.
- Em biết gì? Có chuyện gì thế hả trời? Kìa
em nói ngay đi!
Êkatêrina Đmitrievna ngồi xuống cạnh bàn, đầu
gối chạm vào chân Đasa, và tò mò ngước mắt lên nhìn em.
Đasa nói:
- Nikôlai Ivanôvits nói cho em biết hết rồi.
Nàng không trông rõ mặt Katya, không hiểu
có những gì đang diễn ra trong lòng chị. Sau một lát im lặng kéo dài đến nỗi tưởng
chết đi được, Êkatêrina Đmitrievna nói, giọng hằn học:
- Nikôlai Ivanôvits cho cô biết chuyện gì về
tôi mà ghê thế?
- Katya ạ, chị cũng biết đấy.
- Không, không biết.
Nàng nói hai chữ “không biết” với một giọng
sắc gọn đến nỗi nghe như vừa có một viên băng gieo vào lòng Đasa.
Đasa sụp xuống chân chị.
- Thế thì chắc không đúng, phải không chị?
Katya, chị yêu quí, chị rất dễ thương của em, chị rất xinh đẹp của em, chị nói
đi - không phải thế phải không chị? - Và Đasa khe khẽ đưa môi rất nhanh hôn tới
tấp lên bàn tay thơm phức mùi nước hoa, có những đường gân xanh xanh chạy dài
như những dòng suối nhỏ.
- Ơ kìa, dĩ nhiên là không đúng - Êkatêrina
Đmitrievna mệt mỏi nhắm mắt lại - chưa chi đã chực khóc ngay. Rồi đến mai mắt
nó đỏ ké ra, mũi nó phồng tướng lên. - Nàng đỡ Đasa dậy và áp chặt môi vào tóc
em hồi lâu.
- Chị ạ, em ngốc quá! - Đasa nép ngực chị
thì thầm. Vừa lúc ấy cái giọng sang sảng và tách bạch của Nikôlai Ivanôvits cất
lên sau cánh cửa phòng làm việc:
- Bà ấy nói dối!
Hai chị em quay phắt lại, nhưng cánh cửa vẫn
đóng, Êkatêrina Đmitrievna nói:
- Thôi đi ngủ đi, chú bé. Để chị vào nói
chuyện cho ra nhẽ. Thú vị thật đấy: chị đứng cũng không vững nữa đây này.
Nàng đưa Đasa đến tận buồng, lơ đãng hôn
em, rồi quay về phòng ăn, với lấy cái ví xách, sửa lại chiếc lược cài và dùng
ngón tay gõ nhẹ lên cửa buồng làm việc.
- Nikôlai, anh làm ơn mở cửa tí.
Không có tiếng trả lời. Một phút im lặng nặng
nề trôi qua. Rồi có tiếng khịt mũi, tiếng chìa khóa mở lách cách, và khi bước
vào phòng giấy Êkatêrina Đmitrievna trông thấy tấm lưng rộng của chồng đang đi
về phía bàn, không hề ngoảnh lại. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế dạ, cầm lấy con
dao ngà và luồn vào lề sách rọc thật mạnh (đó là cuốn tiểu thuyết “Người đàn
ông tứ tuần” của Vaxxerman).
Tất cả những việc đó diễn ra như thể không
hề có Êkatêrina Đmitrievna trong phòng.
Nàng ngồi xuống đi-văng, sửa lại chiếc váy
trên đôi chân rồi sau khi bỏ mùi soa vào ví xách, nàng bóp ví lại nghe đánh
tách một tiếng. Như giật mình vì tiếng động đó, một chùm tóc trên đỉnh đầu
Nikôlai Ivanôvits khẽ rung lên. Nàng nói:
- Chỉ có một điều tôi không hiểu nổi: ông
muốn nghĩ gì thì cứ nghĩ, nhưng tôi xin ông đừng đem bầu tâm sự ra thổ lộ với
Đasa làm gì.
Nghe thấy thế, ông ta quay phắt người lại
trên ghế bành, vươn dài cổ ra, râu cằm chĩa về phía trước, rồi nói, hai hàm
răng vẫn nghiến chặt:
- Cô còn đủ trơ tráo để gọi điều đó là “bầu tâm sự” của tôi ư?
- Tôi chẳng hiểu gì.
- Được lắm! Cô không hiểu phỏng? Thế còn
hành động như một con đĩ thì hình như cô hiểu rõ lắm?
Êkatêrina Đmitrievna chỉ hơi hé miệng ra
khi nghe câu này. Nhìn vào gương mặt của chồng đã biến dạng hẳn đi, đỏ tía lên
đến nỗi toát cả mồ hôi ra, nàng nói khẽ:
- Này ông, ông bắt đầu có cái lối ăn nói vô
lễ ấy với tôi từ bao giờ thế?
- Ấy chết, xin cô rộng lòng xá tội cho!
Nhưng tôi không biết dùng giọng lưỡi nào khác. Tóm lại, tôi muốn biết rõ chi tiết
việc này.
- Chi tiết gì?
- Thôi cô đừng vờ nữa.
- À ra ông muốn nói đến chuyện ấy! - Đôi mắt
to của Êkatêrina Đmitrievna từ từ đảo tròng lên phía mi trên như thể nàng đã mệt
quá đỗi
- Hồi sáng quả tôi có nói với ông một cái
gì như vậy thật... Thế mà quên bẵng đi mất.
- Tôi muốn biết việc đó xảy ra với ai?
- Thì nào tôi có biết.
- Một lần nữa, xin cô đừng nói dối.
- Nhưng tôi có nói dối đâu. Nói dối ông làm
gì. Ừ, thì tôi có nói thế thật. Điên lên, tôi còn nói đủ thứ ấy chứ. Nói gì tôi
cũng quên mất rồi.
Trong khi nghe mấy câu này gương mặt
Nikôlai Ivanôvits như đã hóa đá, nhưng tim ông ta cứ rơn rớn lên vì mừng rỡ: “Đội
ơn Chúa, thế là cô ấy chỉ nói liều thế thôi!”. Thế thì bây giờ có thể tha hồ
làm toáng lên, tuyên bố mình không chịu tin gì hết, cho bõ tức.
Ông rời ghế bành đứng dậy, đi đi lại lại
trên thảm trải sàn, thỉnh thoảng lại dừng lại giơ con dao rọc giấy lên cắt cắt
không khí. Ông nói về tình trạng suy vi của thiết chế gia đình, sự suy đồi của
phong hóa, về những bổn phận thiêng liêng của người đàn bà - người vợ, người mẹ
hiền của con cái, người bạn đường của chồng - mà ngày nay người ta đã quên
lãng. Ông trách móc Êkatêrina Đmitrievna là có một tâm hồn rỗng tuếch, là đã
phung phí một cách vô tội vạ những món tiền mà ông tốn bao nhiêu mồ hôi nước mắt
mới kiếm được (Êkatêrina Đmitrievna chữa lại: “Không phải mồ hôi nước mắt, mà
là ba tấc lưỡi”) Không, còn hơn cả mồ hôi nước mắt: ông đã hao tổn bao nhiêu
tinh lực thần kinh! Ông trách vợ giao du bừa bãi, để nhà cửa bề bộn, quá nuông
chiều “con mẹ đần độn ấy” - ý muốn nói đến Đại hãn - than phiền cả về “những tấm
tranh ghê tởm làm cho tôi phải buồn nôn lên mỗi khi bước chân vào gian phòng
khách trưởng giả rẻ tiền của cô”.
Nói tóm lại, Nikôlai Ivanôvits đã nói cho đến
kỳ bõ tức thì thôi.
Lúc ấy đã hơn ba giờ sáng. Khi thấy chồng
đã khản cổ và im bặt, Êkatêrina Đmitrievna nói:
- Không có gì tởm hơn một nguời đàn ông béo
và loạn óc, - đoạn đứng dậy bỏ về phòng ngủ.
Nhưng bây giờ Nikôlai Ivanôvits cũng chẳng
buồn chấp nhặt câu nói của vợ nữa. Ông thong thả cởi áo treo lên lưng ghế tựa,
lên dây đồng hồ, thở dài một tiếng khe khẽ, rồi chui vào tấm chăn mới giặt trải
trên chiếc đi-văng bọc da.
“Phải, nhà ta sinh hoạt chẳng ra gì. Phải cải
tổ lại cả cuộc sống. Cứ thế này thì không tốt, không tốt một chút nào” - ông tự
nhủ, đoạn giở một cuốn sách ra đọc để trấn tĩnh tâm hồn trước khi ngủ. Nhưng mới
cầm sách lên ông đã lại bỏ nó xuống, lắng tai nghe ngóng. Trong nhà rất yên
tĩnh. Có tiếng ai xì mũi, và khi nghe thấy tiếng động này, tim ông bắt đầu đập
mạnh. “Cô ấy khóc - ông nghĩ thầm, rồi chép miệng - hình như mình nói cũng hơi
quá!”.
Và khi ông bắt đầu nhớ lại cả buổi nói chuyện,
nhớ lại cung cách của Katya khi ngồi yên nghe ông mói, Nikôlai Ivanôvits thấy
thương hại nàng. Ông chống khủy tay nhổm dậy, toan trườn ra khỏi chăn, nhưng khắp
thân thể ông cứ mỏi nhừ ra như thể đã làm việc mệt nhọc suốt mấy ngày liền. Ông
buông mình rơi phịch xuống đi văng và ngủ thiếp đi.
Đasa, sau khi cởi áo trong căn buồng dọn dẹp
sạch sẽ của nàng, rút chiếc lược cài tóc, lắc mạnh cái đầu làm cho bao nhiêu
chiếc cặp tóc đều rơi tung ra một lượt, rồi chui vào lớp chăn đệm trắng tinh,
kéo chăn lên đắp đến tận cằm và lim dim đôi mắt. “Lạy Chúa, mọi sự đều yên lành
cả! Bây giờ thì không nghĩ gì nữa hết, ngủ thôi”. Từ trong khóe mắt nàng từ từ
hiện ra một cái mặt người nho nhỏ trông rất ngộ nghĩnh. Đasa mỉm cười, co hai
chân lại và ôm choàng lấy chiếc gối. Giấc ngủ tối sẫm và ngọt ngào bao phủ lấy
nàng, nhưng bỗng trong ký ức nàng vang lên rõ mồn một tiếng nói của Katya: “Ơ
kìa, dĩ nhiên là không đúng”. Đasa mở mắt ra. “Mình không nói lấy một câu nào,
một tiếng nào với Katya. Mình chỉ hỏi - đúng hay là không đúng. Thế mà chị ấy
trả lời như thể đã hiểu rất rõ mình muốn nói đến chuyện gì”. Một ý nghĩ sắc nhọn
như mũi kim xuyên suốt thân thể nàng: “Katya đã lừa dối mình!”. Rồi nhớ lại tỉ
mỉ buổi nói chuyện, những lời lẽ và những cử chỉ của Katya, Đasa chợt thấy rõ rằng
quả nhiên chị nàng đã lừa dối nàng.
Nàng choáng người đi. Katya đã ngoại tình,
nhưng sau khi đã ngoại tình, đã phạm tội, đã lừa dối, nàng dường như càng đáng
yêu hơn trước. Chỉ có kẻ nào mù lòa mới không nhận thấy ở nàng một cái gì mới mẻ,
một sự dịu dàng mệt mỏi khác thường. “Nói dối mà như chị ấy nói dối thì người
ta có thể phát cuồng lên vì yêu đương. Nhưng chị ấy là một con người tội lỗi
kia mà. Không thể hiểu được, thật không còn hiểu ra sao nữa”.
Đasa xúc động và hoang mang quá chừng. Nàng
dậy uống nước, thắp cây đèn con lên rồi lại tắt đi, và mãi đến sáng cứ trăn trở
trên giường, cảm thấy mình không thể lên án Katya mà cũng không sao hiểu được
cái việc chị đã làm.
Êkatêrina Đmitrievna đêm ấy cũng không sao
ngủ được. Nàng nằm sóng sượt trên giường, khắp người bải hoải, hai tay duỗi dài
trên tấm chăn lụa và không buồn lau những giọt nước mắt đang trào ra, nàng
khóc. Nàng khóc vì cảm thấy hoang mang, khổ sở và dơ dáy, thấy mình không còn
cách gì để đừng như thế nữa, và thấy mình không bao giờ có thể được như Đasa, nồng
nàn và nghiêm khắc. Nàng khóc cũng vì nỗi Nikôlai Ivanôvits gọi nàng là con đĩ,
và nói rằng phòng khách của nàng là một phòng khách trưởng giả rẻ tiền. Nàng
càng khóc cay đắng hơn nữa vì nỗi hôm qua, vào lúc nửa đêm, Alekxêy
Alekxêyêvits Bexxônôv chở nàng phóng vun vút tới một khách sạn ở ngoại thành,
và ở đấy, không hề hiểu nàng, không hề yêu nàng, không hề cảm xúc chút nào trước
những cái gì gần gũi và thân thiết nhất đối với nàng, đã từ từ, không vội vã,
chiếm đoạt thân thể nàng một cách khả ố, như thể nàng là một con búp bê, như thể
nàng là cái hình nhân mầu hồng ở phố Morxkaia trong tủ kính thời trang Pari ở cửa
hàng may mặc của bà Đuyclê.
5
Ở tầng gác năm của một tòa nhà mới xây trên
đại lộ thứ 19 thuộc đảo Vaxilievxki, có một thứ tổ chức gọi là “Trạm trung tâm
đấu tranh với cuộc sống hàng ngày” đặt trụ sở tại nhà kỹ sư Ivan Ilyits
Têlêghin. Têlêghin thuê căn nhà này với kỳ hạn một năm, và với tư cách là “người
phải cọ vữa”, chàng được hưởng một giá rất rẻ. Chàng chỉ dành lại cho mình một
buồng, còn các buồng khác có đặt giường sắt, bàn và ghế đẩu bằng gỗ thông, thì
chàng cho thuê lại với niềm hy vọng là người thuê “cũng độc thân và nhất định
là vui tính”.
Bạn học cũ của chàng là Xerghêy
Xerghêyêvits Xapôjkôv lập tức tìm được cho chàng những người như thế. Số người
này gồm có anh sinh viên luật khoa Alekxanđr Ivanôvits, họa sĩ Valet và một cô
thiếu nữ tên là Êlizaveta Kievna Raxtorguieva, chưa tìm được công việc gì hợp sở
thích. Khách thuê nhà dậy muộn, vào lúc Têlêghin ở xưởng máy về nhà ăn sáng, và
mỗi người thong thả bắt tay vào công việc của mình. Antôska Arnolđôv lên xe điện
đến đại lộ Nevxki, ghé vào quán cà phê để thu lượm tin tức, rồi đến tòa soạn.
Valet thường ngồi vào vẽ chân dung tự họa. Xapôjkôv khóa trái cửa buồng lại làm
việc: anh ta soạn những bài diễn thuyết và bài báo về nghệ thuật mới. Jirôv lẻn
sang buồng Êlizaveta Kievna, và với một giọng nói dịu dàng, ỏn ẻn, anh ta bàn
luận với cô những vấn đề về cuộc sống. Jirôv có làm thơ, nhưng vì tự ái nên
không đưa cho ai xem hết. Êlizaveta Kievna cho anh ta là một thiên tài.
Êlizaveta Kievna, ngoài việc chuyện trò với
Jirôv và các vị khách thuê buồng khác, còn đan những dải băng dài bằng len ngũ
sắc, không rõ dùng vào việc gì, vừa đan vừa hát những bài dân ca Ukrain bằng một
giọng ngực rất khỏe và rất sai, hoặc ngồi bày ra cho mình những kiểu chải tóc kỳ
dị, hoặc lại ngừng bặt tiếng hát và xõa tung mái tóc ra, lên giường giở sách đọc
mê mải đến kỳ buốt óc mới thôi. Êlozaveta Kievna là một thiếu nữ xinh đẹp, cao
lớn và hồng hào, có đôi mắt cận thị trông như vẽ. Cô ăn mặc nhố nhăng đến nỗi
ngay những khách thuê phòng của Têlêghin cũng phải kêu.
Mỗi khi có người mới đến xuất hiện trong
tòa nhà, cô ta lại mời về phòng mình, thế là giữa hai bên bắt đầu một cuộc chuyện
trò nghe đến phát hoảng lên, luôn luôn lên đèo xuống vực, trong đó cô ta tra hỏi
người tiếp chuyện xem họ có khát khao phạm tội không? chẳng hạn, họ có đủ sức
giết người không? Họ có cảm thấy mình có trạng thái “tự khiêu khích” không? -
trạng thái này được cô ta coi là dấu hiệu của một người lỗi lạc.
Thậm chí những người khách trọ của Têlêghin
còn đóng lên cửa buồng cô ta một bảng ghi các câu hỏi đó. Nói chung cô ta là một
người bất mãn với hiện tại: cô ta cứ chờ đợi những cuộc “đảo lộn”, những “biến
cố quái đản” nào đấy sẽ làm cho cuộc sống thú vị hơn, cho phép người ta có thể
sống trọn vẹn đến tối đa, chứ không phải kéo lê cái kiếp héo mòn bên cái khung
cửa sổ đen xỉn lại vì mưa gió.
Bản thân Têlêghin cũng rất lấy làm thú vị với
mấy người thuê buồng, vì họ đã đem lại cho chàng không ít những phút tiêu sầu
ngộ nghĩnh. Chàng cho họ là những con người rất tốt tuy có gàn dở, nhưng vì quá
ít thì giờ cho nên chàng không mấy khi tham gia những trò giải trí của họ.
Một hôm nhân lễ Giáng sinh, Xêrghêy
Xerghêyêvits Xapôjkôv tập hợp những người thuê phòng lại và nói với họ như sau:
- Thưa các bạn, giờ hành động đã đến. Chúng
ta đông, nhưng chúng ta rời rạc. Từ trước tới nay chúng ta hoạt động riêng lẻ
và rụt rè quá. Bây giờ chúng ta phải hợp lại thành một đạo quân và tấn công vào
xã hội tư sản. Muốn thế, trước tiên chúng ta sẽ chính thức thành lập nhóm tiên
phong gồm các bạn ở đây, kế đến ta sẽ ra tuyên bố như sau. “Chúng tôi là những
Côlumbô đời nay! Chúng tôi là những nhà cổ động thiên tài! Chúng tôi là hạt giống
của nhân loại mới! Chúng tôi đòi xã hội tư sản nung núc những mỡ phải bãi bỏ hết
mọi định kiến. Từ nay không có đạo đức gì nữa! Gia đình, nghi thức xã hội, hôn
nhân - đều bị bãi bỏ. Chúng tôi nhất định đòi như vậy. Con người - nam và nữ -
phải được trần truồng và tự do. Quan hệ sinh dục là một phúc lợi xã hội. Hỡi
các nam nữ thanh niên, hỡi các bạn nam giới và nữ giới, hãy ra khỏi những hang
lỗ mốc meo, hãy đi lên, trần truồng và sung sướng, hãy quây tròn nhảy múa dưới
ánh mặt trời của loài dã thú!...”
Kế theo, Xapôjkôv nói là thế nào cũng phải
cho ra một tờ báo vị lai lấy tên là “Món ăn của chư thần”. Số tiền cần thiết sẽ
do Têlêghin cung cấp một phần, phần còn lại thì phải moi từ trong mõm giai cấp
tư sản. Cả thảy chỉ ba nghìn rúp là đủ.
Quá trình thành lập “Trạm trung tâm đấu
tranh với cuộc sống hàng ngày” là như vậy. Tên gọi này là do Têlêghin nghĩ ra
hôm chàng được một trận cười vỡ bụng khi ở nhà máy về và được biết dự án của
Xapôjkôv. Họ lập tức bắt tay vào xuất bản số đầu của tờ “Món ăn chư thần”. Có mấy
vị mạnh thường quân giàu có, có mấy ông trạng sư và ngay bản thân Xaska
Xakelman nữa đã chung nhau góp đủ số tiền ba nghìn rúp cần thiết. Người ta cho
in lên giấy gói hàng cái địa chỉ bí hiểm: “Centrofuga”, bắt đầu mời các cộng
tác viên gần gũi nhất và thu thập bài vở. Họa sĩ Valet đề nghị là căn buồng của
Xapôjkôv, nơi đặt tòa soạn, sẽ được trang hoàng thế nào cho thật kỳ quặc, bằng
những hình vẽ vô liêm sỉ. Anh ta vẽ lên tường mới hai bức chân dung tự họa. Họ
nghĩ ngợi rất lâu về cách bày biện trong phòng. Cuối cùng họ dẹp tất, chỉ để lại
cái bàn lớn dán giấy trang kim.
Khi số báo đầu đã ra đời, trong thành phố bắt
đầu bàn tán về tờ “Món ăn chư thần”. Người thì phẫn nộ, người thì khẳng định rằng
cơ sự không phải đã giản đơn như người ta tưởng, và trong một tương lai gần đây
chưa thể nói chuyện cất Puskin vào kho lưu trữ cổ bản được. Nhà phê bình văn học
Tsirva đâm hoang mang: trên tờ “Món ăn chư thần” người ta đã gọi ông là đồ vô lại.
Êkatêrina Đmitrievna Xmôkôvnikôva lập tức đặt mua một năm báo và quyết định tổ
chức một tối chiêu đãi các nghệ sĩ phái vị lai vào ngày thứ ba - ngày tiếp tân
thường lệ.
Xerghêy Xerghêyêvits Xapôjkôv được “Trạm
trung tâm” phái đến dự bữa chiêu đãi ở nhà Xmôkôvnikôv. Anh ta xuất hiện trong
một chiếc áo đuôi tôm bẩn bằng vải bông màu xanh lá cây thuê của một phòng hóa
trang nhà hát: nó vốn là một bộ phận trong các trang phục dành cho vở ca kịch “Manông
Lexcô”. Trong bữa tiệc anh ta cố ý ăn thật nhiều, và mỗi khi nhìn nhà phê bình
Tsirva lại cười the thé lên, đến nỗi bản thân anh ta cũng thấy tởm, gọi các nhà
phê bình văn học là “loài chồn lang sống bằng thịt xác chết”. Sau bữa ăn anh ta
nằm ườn ra trên ghế bành và vừa hút thuốc vừa sửa sửa cặp kính không gọng trên
sống mũi ướt đẫm. Nói chung, trước kia mọi người vẫn chờ đợi một cái gì hơn thế.
Sau khi ra số thứ hai, họ quyết định tổ chức
những tối sinh hoạt lấy tên là những cuộc “Báng bổ huy hoàng”. Đasa đã đến dự một
cuộc báng bổ như thế. Jirôv ra mở cửa cho nàng và cuống quít xắng xở tháo giày
bọc, cởi áo khoác cho nàng, thậm chí còn gỡ hộ một sợi chỉ gì bám vào chiếc áo
dạ của nàng. Đasa lấy làm lạ không hiểu sao trong phòng mắc áo lại có mùi dưa bắp
cải. Trong khi nghiêng người lách qua hành lang theo gót nàng vào phòng báng bổ,
Jirôv hỏi:
- Thưa cô, cô dùng thứ nước hoa gì thế ạ?
Mùi thơm dễ chịu quá!
Đasa rất ngạc nhiên về tính chất “cây nhà
lá vườn” của cái công cuộc táo bạo đã làm xôn xao dư luận này. Quả tình trên bốn
bức tường cũng thấy la liệt những mắt, những mũi, những tay, những chân, những
hình người lõa lồ, những tòa nhà chọc trời đang đổ xuống, nói tóm lại là đủ các
bộ phận làm thành bức chân dung tự họa của họa sĩ Vaxili Vêlyaminôvits Valet
đang lặng thinh đứng trong phòng, hai má vẽ đầy những nét ngoằn ngoèo. Quả
tình, chủ và khách - trong đó có hầu hết các nhà thơ trẻ vẫn đến chơi nhà
Xmôkôvnikôv vào các tối thứ ba, - đều ngồi trên những tấm ván không bào kê trên
những súc gỗ cưa cụt (tặng phẩm của Têlêghin). Quả tình người ta có dùng một giọng
thật trâng tráo để đọc những bài thơ trong đó có những chiếc xe hơi bò trên vòm
trời, những “bãi nước bọt nhổ vào lão trời già mắc bệnh giang mai”, những hàm
răng trẻ trung mà tác giả dùng để cắn các mái vòm nhà thờ vỡ đôm đốp như cắn hạt
dẻ, một con châu chấu khó hiểu đến nhức óc lên, mặc ga-bác-đin, đeo xà cột và ống
nhòm, từ cửa sổ nhảy xuống đường. Thế nhưng không hiểu sao Đasa vẫn thấy những
trò kinh khủng này nó có vẻ nghèo nàn quá. Chỉ có Têlêghin là nàng thấy thích
thật sự. Trong khi mọi người đang chuyện trò chàng lại gần Đasa, mỉm cười bẽn lẽn
hỏi xem nàng có muốn uống tí trà và ăn miếng bánh mì bơ không.
- Trà và xúc xích ở đây là loại bình thường,
xin cô yên tâm.
Têlêghin có khuôn mặt rám nắng, cạo nhẵn,
nom hơi thật thà, và đôi mắt xanh hiền hậu, chắc phải thông minh và rắn rỏi khi
nào cần thiết.
Đasa nghĩ bụng mình mà nhận lời chắc
Têlêghin sẽ vui lòng lắm, bèn đứng dậy đi ra phòng ăn. Trên bàn ăn có một đĩa
bánh mì bơ và một chiếc xamovar móp mép. Têlêghin lập tức thu dọn những đĩa bẩn,
đem để luôn xuống sàn nhà, trong xó, nhìn quanh tìm miếng giẻ nhưng chẳng thấy
đâu bén rút khăn mùi soa ra lau bàn, rồi rót trà cho Đasa và chọn một lát bánh
mì nào “lịch sự” một chút. Tất cả những việc đó Têlêghin đều làm thong thả, với
hai bàn tay to và khỏe, vừa làm vừa nói ôn tồn, như thể cố làm sao cho Đasa cảm
thấy đỡ lạc lõng giữa cảnh rác rưởi này.
- Nhà của chúng tôi bừa bãi thật đấy, nhưng
trà và xúc xích thì lại là thứ thượng hảo hạng, mua ở hiệu Êlixêyev cả. Ban nãy
còn có cả kẹo nữa, nhưng bây giờ hết mất rồi, tuy cũng... -Têlêghin mím môi, liếc
nhìn Đasa: trong đôi mắt xanh của chàng hiện lên một nỗi lo sợ trong chốc lát
đã nhường chỗ cho một vẻ quyết tâm - nếu cô cho phép...? - Và chàng rút từ túi
áo gi-lê ra hai chiếc kẹo caramel bọc giấy bóng.
“Với một người như thế này thì có thể vững
tâm được”, - Đasa tự nhủ - đoạn cũng nói cho Têlêghin vui lòng:
- Ồ, vừa đúng thứ kẹo tôi thích nhất.
Têlêghin ngồi xuống trước mặt Đasa, người
quay nghiêng sang một bên, và chăm chú nhìn vào lọ mù-tạt. Tình trạng căng thẳng
làm nổi lên một đường gân trên vầng trán rộng và cao. Chàng thận trọng rút mùi
soa ra lau trán.
Đasa bất giác tủm tỉm cười: người đàn ông
to lớn và đẹp trai này thiếu tự tin đến nỗi có vẻ như chỉ chực chạy ra nấp sau
lọ mù-tạt. Chắc hẳn đâu ở Arzamax - nàng có cảm giác như vậy - anh chàng có một
bà mẹ già rất kỹ tính vẫn thường viết những bức thư nghiêm khắc quở trách anh
ta về “cái thói bạ thằng ngốc nào cũng cứ đem tiền cho nó vay hoài”, và răn dạy
anh ta rằng chỉ có “tính khiêm nhường và chăm chỉ mới đem lại được cho con sự
kính nể của người đời thôi con ạ”. Và chắc chắn mỗi khi đọc những bức thư này
anh chàng vẫn thở dài tự nhủ rằng mình còn xa mới đạt được đến chỗ hoàn thiện.
Đasa thấy mến anh chàng quá.
- Anh làm việc ở đâu? - nàng hỏi.
Têlêghin lập tức ngước mắt lên, trông thấy
nàng đang mỉm cười, chàng cũng nhoẻn rộng miệng ra cười hớn hở.
- Tôi làm ở nhà máy Baltic.
- Công việc ở đấy có thú không anh?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Theo tôi thì
công việc nào cũng thú cả.
- Chắc công nhân họ phải mến anh lắm nhỉ.
- À, chuyện này tôi chưa bao giờ nghĩ đến đấy.
Nhưng theo tôi, chắc họ chẳng mến gì đâu. Họ mến tôi vì cái gì kia chứ? Tôi rất
nghiêm khắc đối với họ. Tuy quan hệ giữa tôi với họ dĩ nhiên vẫn rất tốt. Đây
là quan hệ giữa những người cùng làm việc với nhau.
- Anh ạ, có thật là anh thích thú với những
trò vừa diễn hôm nay ở phòng bên kia không?
Mấy nếp nhăn trên trán Têlêghin vụt biến
đi, chàng cười lớn.
- Họ như trẻ con ấy mà! Nghịch kinh khủng.
Nhưng cũng rất ngộ nghĩnh. Tôi rất hài lòng với các khách trọ của tôi, Đarya
Đmitrievna ạ. Đôi khi trong công việc ở nhà máy chúng tôi gặp phải những chuyện
lôi thôi khó chịu, về nhà hãy còn bực mình thì đã thấy họ bày ra một trò gì hết
sức quỷ quái, đến hôm sau nhớ lại vẫn chết cười.
- Còn tôi thì lại rất ghét những trò “báng
bổ” ấy - Đasa nói, giọng nghiêm nghị. - thật chẳng lành mạnh chút nào.
Têlêghin ngạc nhiên nhìn vào mắt nàng. Nàng
nhắc lại: “tôi rất ghét”.
- Dĩ nhiên, người có lỗi trước hết chính là
tôi, - Têlêghin nói, vẻ trầm ngâm, - tôi đã khuyến khích họ. Quả cũng bậy thật
- mời một lô khách đến, rồi suốt buổi tối nói toàn những chuyện nhảm nhí bậy bạ...
Thật tôi rất phiền lòng khi thấy những trò ấy làm cho cô khó chịu đến như vậy.
Đasa mỉm cười nhìn thẳng vào mặt Têlêghin.
Nàng thấy mình sẵn sàng thổ lộ bất cứ chuyện gì với con người gần như chưa quen
biết này.
- Anh Ivan Ilyits ạ, tôi cứ hình dung là
anh phải thích một cái gì khác hẳn thế. Tôi có cảm tưởng anh là người rất tốt,
tốt hơn là anh tự nghĩ rất nhiều. Thật đấy, đúng thế đấy.
Khuỷu tay chống lên bàn, Đasa tựa cằm vào
lòng bàn tay và lấy ngón tay út sờ sờ lên môi. Đôi mắt nàng tươi cười, nhưng
Têlêghin lại thấy sợ, vì nó đẹp đến choáng người đi được: một đôi mắt xám mênh
mông, hơi lạnh lùng. Têlêghin bối rối quá chừng, tay cứ tần mần hết bẻ cong chiếc
thìa cà phê lại nắn thẳng nó lại. May thay cho chàng, vừa lúc ấy Êlizaveta
Kievna bước vào phòng ăn. Cô ta khoác một tấm khăn san Thổ-nhĩ-kỳ, hai bím tóc
quấn tròn lại thành sừng cừu hai bên tai. Cô ta đưa bàn tay dài và mềm cho Đasa
bắt, tự giới thiệu: “Raxtorguieva”, đoạn ngồi xuống và nói:
- Jirôv có nói về chị rất nhiều, rất nhiều.
Hôm nay tôi đã quan sát gương mặt của chị. Tôi biết vừa rồi chị rất khó chịu.
Như thế là tốt.
- Liza, cô uống tí trà nguội nhé? -
Têlêghin vội vã lên tiếng.
- Tôi chả uống đâu anh Têlêghin ạ, anh cũng
biết thừa tôi có bao giờ uống nước trà đâu... Ấy, chắc chị đang băn khoăn tự hỏi
tôi là cái thứ người gì mà lại ăn nói với chị lạ lùng như thế. Tôi chẳng phải
là ai hết. Một con số không. Bất tài và hư hỏng.
Đứng cạnh bàn, Têlêghin ngán ngẩm quay mặt
đi. Đasa cụp mi mắt nhìn xuống đất. Êlizaveta Kieyna mỉm cười ngắm nghía nàng.
- Chị thanh nhã, cân đối, và rất xinh đẹp.
Chị đừng cãi, chính chị cũng thừa biết như thế. Chắc chắn là có hàng chục người
đàn ông mê chị. Thật đáng buồn khi nghĩ rằng tất cả những cái mỹ miều ấy sẽ kết
thúc rất giản đơn: một gã đàn ông sẽ đến, chị sẽ đẻ con cho hắn, rồi sẽ chết.
Chán thật!
Môi Đasa run lên vì tức giận.
- Tôi không hề có ý định làm người phi thường
- nàng đáp - và tôi thật không hiểu tại sao chị lại quá quan tâm đến cuộc sống
tương lai của tôi như vậy.
Êlizaveta Kievna càng mỉm cười vui vẻ hơn nữa,
nhưng mắt cô ta vẫn buồn bã và dịu hiền.
- Thì tôi đã nói trước với chị rằng tôi là
một con người vô nghĩa lý và một mụ đàn bà khả ố kia mà. Rất ít người chịu đựng
nổi tôi, mà có cố chịu đựng chăng nữa cũng chỉ vì thương hại, như anh Têlêghin
chẳng hạn.
- Cô nói gì mà lạ thế, Liza, - Têlêghin lúng
búng, đầu cúi gầm.
- Tôi không yêu cầu gì anh hết, anh
Têlêghin, anh cứ yên tâm. - Rồi cô ta lại quay sang Đasa nói: - Chị đã có bao
giờ trải qua một trận bão chưa? Tôi thì đã có một lần như vậy. Hồi ấy tôi yêu một
người; dĩ nhiên người ấy rất ghét tôi. Dạo ấy tôi ỏ Hắc hải. Một hôm có bão.
Tôi nói với người ấy: “Ta đi chơi thuyền đi...”. Người ấy đã đi theo cho bõ tức.
Thuyền chúng tôi bị gió đưa ra ngoài khơi... Thế mới vui chứ! Vui quá đi mất!
Tôi cởi hết ra và nói với người ấy...
- Này, cô Liza ạ, - Têlêghin nói, môi và
mũi nhăn nhúm lại - cô chỉ nói dối. Không hề có một chuyện gì như thế, tôi biết.
Êlizaveta Kievna nhìn chàng với một nụ cười
khó hiểu, rồi bỗng cười phá lên. Cô ta chống khuỷu tay lên bàn, mặt vùi vào hai
tay và cười rung cả đôi vai mũm mĩm.
Đasa đứng dậy, nói với Têlêghin rằng mình
muốn về nhà, và nếu có thể xin miễn chào khách khứa. Têlêghin khoác chiếc áo
choàng lông lên vai Đasa một cách thận trọng như thể nó cũng là một phần của
người nàng, đưa nàng xuống dãy cầu thang tối om, luôn tay đánh diêm và cứ phàn
nàn mãi là trời tối, gió lạnh, mà cầu thang lại phủ băng trơn quá... - Chàng tiễn
Đasa ra đến góc phố và đỡ nàng ngồi lên một cỗ xe trượt tuyết chở thuê, - người
đánh xe là một cụ già thấp bé, con ngựa mình phủ đầy tuyết. Xe đi rồi, chàng
còn đứng hồi lâu, đầu không có mũ, mình không khoác áo ngoài, nhìn theo cỗ xe
trượt tuyết thấp lè tè với bóng người thiếu nữ ngồi trên đang tan dần và hòa lẫn
vào đám sương mù vàng vọt. Rồi chàng thong thả đi về nhà, đi vào phòng ăn. Ở đấy
Êlizaveta vẫn ngồi nguyên ở bàn - mặt úp vào hai tay. Têlêghin gãi cằm mấy cái
rồi nhăn mặt nói:
- Cô Liza!
Cô ta ngẩng đầu lên rất nhanh, quá nhanh.
- Xin lỗi cô, tại sao lúc nào cô cũng nói
những câu chuyện nó làm cho mọi người ngượng ngùng xấu hổ như vậy?
Êlizaveta Kievna vẫn nhìn chàng với đôi mắt
cận thị buồn rầu, trông như mắt vẽ.
- Yêu rồi còn gì. - Cô ta nói khẽ - Thấy
ngay mà. Chán thật.
- Hoàn toàn không phải như thế. - Têlêghin
đỏ mặt nói - không đúng đâu.
- Thì thôi vậy, xin lỗi. - Cô ta uể oải đứng
dậy bỏ đi, bàn tay buông thõng cầm chiếc khăn san bụi bậm kéo lê trên sàn nhà.
Têlêghin trầm ngâm đi đi lại lại trong
phòng một lát, uống chén trà nguội rồi xách chiếc ghế Đarya Đmitrievna ngồi ban
nãy đưa về phòng mình. Chàng ngắm ngắm đo đo một lúc rồi đặt chiếc ghế vào góc
phòng. Chàng đưa cả bàn tay úp chụp lên mũi rồi thốt lên như thể ngỡ ngàng hết
sức:
- Nhảm quá. Ngu xuẩn quá chừng!
Đối với Đasa, cuộc gặp gỡ này là một trong
trăm nghìn cuộc gặp gỡ khác: nàng vừa gặp một người tốt, và chỉ có thế thôi.
Đasa đang ở vào cái lứa tuổi mà người ta thấy và nghe chưa được tinh tường cho
lắm: tai đang ù lên vì tiếng máu chảy rân rân trong huyết mạch, còn mắt thì có
nhìn vào đâu, dù đó là mặt một người khác đi chăng nữa, cũng chỉ thấy hình ảnh
của chính mình được phản chiếu lại như trong một tấm gương. Vào một lứa tuổi
như vậy chỉ có cái gì thật xấu xí mới đủ sức đập mạnh vào trí tưởng tượng, chứ
những con người tuấn tú, cũng như những phong cảnh diễm lệ hay vẻ đẹp khiêm nhường
của nghệ thuật thì chỉ được coi như những vật phụ tùng thường ngày của một bà
hoàng mười chín tuổi.
Đối với Têlêghin thì lại không phải như thế.
Bây giờ, khi hơn một tuần lễ đã trôi qua sau hôm Đasa đến chơi, chàng tự dưng lấy
làm lạ không hiểu sao trong căn nhà trơ trụi của họ người con gái ấy lại có thể
xuất hiện một cách âm thầm kín đáo (thậm chí chàng cũng chẳng biết nàng đến tự
lúc nào, nên không hề chào nàng), và giản dị như vậy (nàng đã bước vào, ngồi xuống
và để chiếc bao tay lên đùi) với làn da mịn màng phơn phớt một màu hồng êm dịu,
với chiếc áo dạ đen, với mái tóc màu tro chải vén lên và cái miệng trẻ thơ mà
kiêu hãnh. Không thể hiểu nổi làm sao chàng lại có đủ bình tĩnh để nói với nàng
những câu vô nghĩa về món xúc xích mua của nhà Êlixêyev.
Lại còn rút mấy cái kẹo còn ấm hơi người
trong túi ra mời người ta ăn nữa! Thật là khốn nạn!
Trong đời chàng, (chàng vừa được hai mươi
chín tuổi cách đây không lâu) Ivan Ilyits Têlêghin đã yêu khoảng sáu lần. Hồi
còn đi học trường trung học ở Kazan, chàng yêu một cô gái đã lớn tuổi tên là
Maruxya Khvôyeva, con một bác sĩ thú y, lúc nào cũng mặc chiếc choàng nhung đi
dạo trên phố chính vào lúc bốn giờ chiều: đã từ lâu cô ta vẫn đi dạo như vậy mà
chẳng ăn thua gì. Nhưng Maruxya Khvôyeva bấy giờ chẳng muốn đùa tí nào: Ivan
Ilyits bị cự tuyệt, và không qua một thời kỳ quá độ nào, chàng quay sang mê
luôn cô đào hát Ađa Tillê bấy giờ đang đi biểu diễn lưu động qua các thành phố.
Điều làm cho dân Kazan trầm trồ nhất ở cô đào này là trong các vở ca kịch, dù
thuộc thời đại nào cũng vậy, cô đều tìm cách mặc áo tắm biển lên sân khấu. Và
ban giám đốc nhà hát cũng nêu rõ trên các tờ quảng cáo: “Nữ tài tử Ađa Tillê trứ
danh, đã được huy chương vàng về cặp giò tuyệt mỹ”.
Ivan Ilyits thậm chí đã đi đến cái nước len
lỏi vào tận nhà cô ta với một bó hoa hái trộm ở công viên thành phố. Nhưng Ađa
Tillê, sau khi dúi bó hoa vào mũi con chó xù cho nó ngửi, chỉ nói với Ivan
Ilyits rằng vì ăn phải thức ăn địa phương nên cô ta đã hỏng hết cả bụng dạ rồi,
và yêu cầu chàng chạy ra hiệu thuốc. Câu chuyện đến đấy là kết thúc.
Rồi khi đã là một sinh viên ở Pêterburg,
chàng phải lòng một cô sinh viên trường thuốc tên là Vilbusêvits và thậm chí
còn hẹn hò với cô ta trong đại giảng đường giải phẫu, nhưng không biết tại sao
cơ sự chẳng đi đến kết quả nào. Cô Vilbusevits về làm việc ở một ban quản trị
nông phố.
Có một dạo Ivan Ilyits được một cô bán thời
trang ở một cửa hàng lớn tên là Zinôtska yêu tha thiết đến phát khóc, phát liều
ra. Tâm hồn vốn hiền hậu, lại quá bối rối trước mối tình của Zinôtska, chàng đã
chiều theo cô ta, cô ta muốn gì chàng đều làm tất. Nhưng rốt cục chàng đã thở
dài nhẹ nhõm khi cô ta theo một chi điếm của cửa hàng dời đi Moxkva: thế là từ
nay đã trút bỏ được cái cảm giác thường xuyên là mình chưa làm hết bổn phận,
tuy chẳng biết đó là những bổn phận gì.
Mối tình đằm thắm gần đây nhất của chàng là
vào năm kia. Dạo ấy là mùa hè, tháng sáu. Trước mặt phòng chàng, bên kia sân,
là cửa sổ nhà một người con gái mảnh khảnh, xanh xao. Cứ chiều chiều vào lúc mặt
trời sắp lặn, lại thấy người con gái ấy mở cửa sổ ra, rũ rũ và dùng bàn chải chải
rất kỹ một chiếc áo dài màu đỏ hung hung, lúc nào cũng chỉ một chiếc áo ấy.
Xong đâu đấy, cô gái mặc chiếc áo và ra ngồi ở công viên.
Trong công viên, vào một buổi hoàng hôn êm ả,
Ivan Ilyits đã bắt chuyện với người con gái ấy, và từ đấy trở đi, cứ chiều chiều
họ lại đi chơi với nhau, ca ngợi những buổi chiều tà ở Pêterburg và chuyện trò
thủ thỉ.
Người con gái ấy tên là Ôlya Kômarôva. Nàng
sống một mình, đi làm ở phòng giấy một ông chưởng bạ và luôn luôn ốm yếu - nàng
ho thường xuyên. Họ nói chuyện với nhau về chứng ho này, về bệnh tật, về nỗi buồn
của một người cô đơn những lúc xế chiều. Nàng kể cho Ivan Ilyits nghe chuyện một
cô bạn của nàng là Kira, đã yêu một người rất tốt và đã theo người ấy về Krưm.
Những cuộc nói chuyện giữa hai người rất buồn tẻ. Ôlya Kômarôva không dám tin rằng
mình có thể có hạnh phúc, đến nỗi nàng đã không ngại ngùng đem nói với Ivan
Ilyits nghe những ý nghĩ thầm kín nhất của mình, thậm chí còn thú thật rằng đôi
khi nàng hy vọng Ivan bỗng dưng yêu nàng, cưới nàng và đưa nàng đi Krưm.
Ivan Ilyits rất thương và kính trọng Ôlya,
nhưng không thể buộc lòng mình yêu nàng được, mặc dầu có những khi vừa gặp nàng
nói chuyện xong, nằm trên đi văng khi bóng hoàng hôn buông dần xuống, chàng tự
cho mình là người ích kỷ, vô tình và xấu xa.
Đến mùa thu, Ôlya Kômarôva bị cảm lạnh phải
nằm liệt giường. Ivan Ilyits đưa nàng vào bệnh viện, và từ đấy lại đưa nàng ra
nghĩa trang. Trước khi chết nàng có hỏi: “Nếu em bình phục, anh có lấy em
không?” - “Tôi lấy danh dự hứa với cô rằng tôi sẽ xin cưới cô”, - Ivan Ilyits
đáp.
Tình cảm của chàng đối với Đasa không giống
như những lần ấy. Êlizaveta Kivena nói: “Yêu rồi còn gì”. Nhưng người ta chỉ có
thể yêu một cái gì mà người ta cho là có thể với tới được, chứ không thể yêu,
nói ví dụ thế, một pho tượng hay một đám mây.
Đối với Đasa, chàng có một tình cảm gì khác
thường mà chàng chưa từng biết, vì đó cũng là một tình cảm khó hiểu, cũng chẳng
có nguyên nhân gì rõ ràng cho lắm - chung quy chỉ có mấy phút nói chuyện với lại
một chiếc ghế đặt ở góc phòng.
Thậm chí cái tình cảm ấy cũng không có gì
thật sắc cạnh cho lắm nữa, nhưng bây giờ Ivan Ilyits cứ thấy muốn mình cũng trở
thành đặc biệt, bắt đầu tự theo dõi rất kỹ. Chàng hay tự nhủ:
“Mình sắp tròn ba mươi tuổi rồi, ấy thế mà
trước nay mình sống như thảo mộc. Một lối sống buông xuôi và trống trải ghê gớm.
Ích kỷ và dửng dưng đối với người khác. Phải rắn chắc, lại nắm vững lấy bản
thân trong khi hãy còn chưa muộn”.
Cuối tháng ba, vào một trong những ngày đầu
xuân đột nhiên tràn vào đô thành phủ tuyết trắng và đắp kín chăn nệm, những
ngày mà từ sáng sớm băng tan từ các mái nhà và các gờ tường đã thánh thót nhỏ
giọt và long lanh trong ánh ban mai, nước đã róc rách trong các ống máng chảy
xuống đầy tràn những cái thùng sơn xanh đặt ở phía trước, và tuyết phủ trên đường
phố tan dần để lộ mặt đường rải nhựa bắt đầu bốc hơi và khô đi từng mảng một,
những ngày mà ta cảm thấy chiếc áo khoác trĩu nặng trên vai, và có khi ta thấy
một người đàn ông nào đấy có chòm râu nhọn đi ra đường mà chỉ mặc áo vét-tông,
và mọi người đều ngoảnh lại nhìn ông ta mà cười nụ, những ngày mà ngẩng đầu lên
ta thấy một bầu trời sâu thăm thẳm và xanh ngắt như thể đã được những dòng nước
xuân rửa sạch, - vào một trong những ngày như thế, khoảng ba giờ rưỡi chiều,
Ivan Ilyits ra khỏi phòng kỹ thuật trên đại lộ Nevxki, cởi khuy chiếc áo khoác
lót lông chồn và nheo mắt lại vì chói nắng.
“Nói chứ sống trên đời cũng thích thật”.
Và ngay phút ấy chàng trông thấy Đasa. Mình
khoác chiếc áo xanh mặc mùa xuân, nàng đang thong thả bước lên mép vỉa hè, đung
đưa cánh tay trái đang cầm một gói nhỏ; trên chiếc mũ xinh xinh màu xanh lơ của
nàng run rẩy mấy bông hoa mẫu cúc trắng; gương mặt nàng tư lự và đượm buồn. Sau
lưng nàng, trên nền trời xanh thăm thẳm, là một vầng dương to tướng, xù xì, hừng
hực khí xuân, đang chiếu một ánh sáng rực rõ xuống những vũng nước, những đường
ray tàu điện, những tấm kính, xuống lưng những người qua đường, xuống chân họ,
loang loáng trên những chiếc nan hoa và những bộ phận bịt đồng của các cỗ xe ngựa.
Đasa như thể từ màu xanh và vùng ánh sáng ấy
bước ra. Nàng đi qua trước mặt rồi mất hút trong đám đông. Ivan Ilyits đứng
nhìn hồi lâu về phía ấy. Tim chàng đập chậm rãi trong lòng ngực. Không khí như
cô đặc lại, nồng say, ngây ngất.
Ivan Ilyits thong thả đi đến góc phố, và
hai tay chắp sau lưng, chàng đứng hồi lâu trước cái cột trụ tròn dán quảng cáo.
“Những chuyện ly kỳ và mới lạ của Jack Mổ bụng”.-
chàng nhẩm đọc mà thấy mình chẳng hiểu chút gì, và trong đời, chàng chưa bao giờ
thấy vui sướng đến thế.
Rời cột trụ toan đi tiếp, chàng lại trông
thấy Đasa lần thứ hai. Nàng đi ngược trở lại hướng ban nãy, vẫn y nguyên như thế
- với những bông hoa cúc trắng và cái gói nhỏ, nàng đi bên mép vỉa hè. Chàng lại
gần, cất mũ...
- Đarya Đmitrievna, hôm nay đẹp trời quá nhỉ...
Nàng hơi giật mình. Rồi nàng ngước đôi mắt
hơi lạnh lùng lên nhìn chàng. Ánh nắng chiếu vào mắt nàng thành những chấm xanh
biếc. Nàng mỉm cười niềm nở rồi đưa bàn tay đeo găng da cáo trắng ra bắt tay
chàng rất chặt, rất thân ái.
- Gặp anh, tôi rất mừng. Hôm nay tôi lại vừa
nghĩ đến anh... Thật đấy, có nghĩ thật mà. - Đasa gật đầu, và mấy bông hoa mẫu
cúc trắng trên mũ cũng gật gật theo.
- Đarya Đmitrievna ạ, tôi vừa có việc phải
đến Nevxki, nhưng bây giờ thì được rỗi cả ngày. Mà ngày hôm nay lại đẹp quá thế
này... - Ivan Ilyits mím môi, cố lấy hết sức tự chủ để nó khỏi nhoẻn rộng ra
thành nụ cười. Đasa hỏi:
- Ivan Ilyits ạ, anh có thể đưa tôi về đến
nhà một chút không?
Họ rẽ sang một phố ngang, và bây giờ thì họ
đi trong bóng rợp.
- Ivan Ilyits ạ, tôi muốn hỏi anh một điều
này, không biết anh có cho là kỳ cục không? Chắc là không, anh nhỉ, vì thế tôi
mới muốn hỏi anh. Chỉ có điều là anh phải trả lời ngay kia. Anh đừng suy nghĩ,
cứ trả lời luôn nhé; tôi hỏi xong một cái là anh phải nói ngay đấy.
Gương mặt nàng lộ vẻ ưu tư, đôi mày nhíu lại.
- Trước đây tôi nghĩ thế này - nàng vung mạnh
bàn tay - có những tên trộm cướp, những kẻ lừa gạt, những tên giết người... Họ
sống đâu ở một nơi cách biệt với ta, cũng như loài rắn, loài nhện, loài chuột.
Còn những người khác, tất cả mọi người - tuy có thể có những cái yếu đuối, những
cái gàn dở, nhưng đều tốt, đều minh bạch cả. Kia kìa, anh thấy không, có một cô
đang đi lại - ấy thế, cô ấy như thế nào thì ta cũng thấy cô ấy như thế. Tôi thấy
cả cuộc sống như vẽ bằng những màu sắc diệu kỳ - Anh có hiểu tôi không?
- Nhưng thế thì tốt quá còn gì. Đarya
Đmitrievna?
- Khoan đã. Thế nhưng bây giờ tôi như thể
ngã chúi vào bức tranh ấy, đâm đầu vào bóng tối, vào một khoảng không ngột ngạt...
Tôi thấy, một con người có thể đáng yêu, hơn nữa còn có một cái gì khiến ta phải
cảm động, rất cảm động, một cái gì tốt đẹp rõ ràng như có thể sờ thấy được, mà
đồng thời lại có thể phạm tội, phạm một tội lỗi khủng khiếp. Anh đừng nghĩ sai
nhé - đây không phải là tội lấy bánh ngọt trong tủ buýp-phê ra ăn vụng, mà là một
tội lỗi thật sự: một sự dối trá, - Đasa quay mặt đi, cằm nàng run run, - người ấy
đi ngoại tình. Đó là một người đàn bà có chống. Làm như thế có được không? Tôi
hỏi anh đấy, Ivan Ilyits ạ.
- Không, không được!
- Tại sao không được?
- Cái đó thì tôi không thể nói ngay bây giờ
được, nhưng tôi cảm thấy là không được.
- Thế anh tưởng bản thân tôi không cảm thấy
như vậy hay sao? Đã hai tiếng đồng hồ tôi đi lang thang giữa phố, lòng buồn rười
rượi. Trời hôm nay quang đãng, mát mẻ thế này, nhưng tôi cứ hình dung là trong
những ngôi nhà kia, sau bức rèm, có những kẻ gian phi đang ẩn nấp. Ấy thế mà
tôi lại phải ở với họ, anh có hiểu không?
- Không, tôi không hiểu, - chàng đáp nhanh.
- Không, tôi phải ở như thế. Ôi, tôi buồn
quá. Như thế tức là tôi chỉ là một con bé con. Nhưng thành phố này dựng lên
không phải cho trẻ con, mà cho người lớn.
Đasa dừng lại trước thềm và lấy mũi giày
cao ống hất qua hất lại một chiếc hộp thuốc lá vứt lăn lóc trên đường nhựa,
trên hộp có vẽ một người đàn bà màu xanh lá cây, đang nhả khói thuốc lá ra đằng
miệng. Ivan Ilyits, nhìn vào mũi giày đánh bóng của Đasa, tự dưng có cảm giác
như Đasa đang tan dần ra và từ từ biến đi như một làn sương. Chàng cũng muốn giữ
nàng lại, nhưng bằng sức mạnh nào? Quả có một sức mạnh như thế, và Ivan Ilyits
cảm thấy nó đang bóp tim mình lại, đang dâng lên nghẹn ngào trong cổ. Nhưng đối
với Đasa, tình cảm của chàng cũng chỉ như cái bóng rợp hắt trên tường, vì bản
thân chàng chẳng qua cũng chỉ là “anh Ivan Ilyits tốt bụng, tử tế” mà thôi.
- Thôi tôi về nhé, cảm ơn anh. Anh rất tử tế
và tốt bụng, anh Ivan Ilyits ạ. Tôi chưa thấy đỡ khổ, nhưng tôi vẫn xin cảm ơn
anh rất nhiều, rất nhiều. Anh đã hiểu tôi, phải không? Đấy cuộc đời nó thế. Phải
là người lớn mới được, chẳng còn biết làm thế nào nữa. Khi nào rỗi rãi anh ghé
nhà chơi nhé? - Nàng mỉm cười, bắt tay chàng và đi vào cửa lớn, khuất dần trong
bóng tối của gian phòng ngoài.
6
Đasa mở cửa phòng riêng và ngỡ ngàng dừng lại:
trong phòng phảng phất mùi hoa ẩm, và ngay sau đó nàng trông thấy trên bàn
trang điểm một cái lẵng hoa có quai uốn rất cao và buộc dải lụa xanh. Nàng chạy
lại dúi mặt vào lẵng hoa. Đó là những đóa hoa lan tím, hơi dập cánh, hãy còn ướt
đẫm.
Đasa bồi hồi xức động. Từ sáng nàng cứ thấy
ước muốn một cái gì mơ hồ và đến bây giờ nàng mới hiểu rằng mình ao ước mấy đóa
hoa lan tím. Nhưng ai gửi nó đến đây? Ai mà hôm nay lại nghĩ đến nàng một cách
ân cần đến nỗi đoán được cả một nguyện vọng mà chính bản thân nàng cũng không
hiểu rõ? Chỉ có cái dải thắt nơ này không đúng chỗ chút nào. Trong khi tháo nó
ra, Đasa thầm nghĩ về mình: “Tuy có tính hiếu động thật, nhưng chẳng phải là đứa
con gái hư. Dù những hạng người kia có lo phạm tội gì chăng nữa, thì nó vẫn cứ
đi theo con đường của nó. Có lẽ các ông các bà nghĩ rằng nó quá vênh váo chăng?
Sẽ có những người hiểu được cái vẻ vênh váo ấy, mà lại còn quý nó nữa là khác”.
Trong cái nơ Đasa chợt tìm thấy một tấm thiếp
bằng bìa đề hai chữ lớn: “Hãy yêu lấy tình yêu” viết bằng một nét chữ không
quen thuộc. Bên mặt trái tấm thiếp có in dòng chữ “Cửa hàng hoa Nice”. Như thế
tức là ở cửa hàng hoa, cái người nào đấy đã viết: “Hãy yêu lấy tình yêu”. Đasa
xách lẵng hoa đi ra hành lang gọi lớn:
- Đại hãn ơi, ai đem lẵng hoa này đến cho
tôi thế?
Đại hãn đưa mắt nhìn lẵng hoa và thở dài, vẻ
vô can:
- Có một thằng bé ở cửa hàng đưa lại cho
Êkatêrina Đmitrievna. Phu nhân đã sai để vào buồng cô đấy.
- Nó có bảo là ai sai đưa đến không?
- Nó chẳng nói gì, chỉ bảo đưa vào cho phu
nhân.
Đasa trở vào buồng và ra đứng ở cửa sổ. Qua
tấm kính có thể trông rõ cảnh mặt trời lặn: ở bên trái, từ phía sau bức tường gạch
của nhà bên, ánh tà dương tỏa rộng bên trời, ngả sang màu ngọc thạch rồi phai
nhạt dần. Một vì sao hiện lên trên khoảng không màu ngọc thạch ấy, liên tiếp đổi
màu, lấp lánh như vừa được cọ rửa. Phía dưới, trên dãy phố hẹp đang mờ dần
trong sương chiều, dãy đèn điện bọc trong những quả cầu thủy tinh chạy dài suốt
phố cùng bật sáng lên một lượt, hãy còn nhợt nhạt, chưa sáng hẳn như khi trời tối.
Gần đâu đây có tiếng xe hơi rú ga, và có thể trông thấy chiếc xe chạy dọc phố
chui dần vào lớp sương chiều.
Trong phòng đã tối hẳn, và mùi hoa lan tím
tỏa ra dìu dịu. Người gửi hoa đến là người đã phạm tội với Katya. Điều đó đã
rõ. Đasa đứng yên trong bóng tối, tưởng tượng chị nàng đang vương vào một cái
gì rất mịn màng và đầy sức quyến rũ, như con ruồi vương mạng nhện. Một “cái gì”
lẫn trong mùi hương ẩm ướt của bó hoa, trong mấy chữ “Hãy yêu lấy tình yêu” kiểu
cách mà có sức làm rạo rực lòng người, và cả trong cái ý xuân mầu nhiệm của buổi
tối này.
Và đột nhiên tim nàng bắt đầu đập mạnh và dồn
dập. Đasa chợt có cảm giác như mình đang chạm ngón tay vào, đang trông thấy,
nghe thấy, cảm thấy một cái gì bị cấm đoán, một cái gì bí ẩn nó thiêu đốt người
ta một cách ngọt ngào. Nàng như đột nhiên đã toàn tâm toàn ý cho phép mình,
buông lỏng cho mình. Và không thể nào hiểu được cơ sự diễn ra như thế nào mà
ngay trong khoảnh khắc ấy nàng đã tan ra thành một làn hơi khói giống như làn
sương ở cuối phố, nơi mà chiếc xe hơi chở hai thiếu phụ đội mũ trắng đang bon tới,
không một tiếng động.
Chỉ nghe tiếng tim đập mạnh. Đầu nàng hơi
choáng váng, và trong khắp thân thể nàng, một điệu nhạc tự nó cất tiếng hát lên
khiến nàng rùng mình vui sướng: “Ta đang sống! Ta đang yêu. Niềm vui, cuộc sống
vũ trụ đều là của ta, của ta!”
- Cô bạn thân mến ơi! - Đasa mở mắt nói to
lên, - cô là một trinh nữ, cô bạn ạ, tính khí cô thật không sao chịu nổi...
Nàng đi vào góc phòng trong cùng, ngồi vào
chiếc ghế bành lớn lót đệm mềm, rồi tay bóc tấm giấy bọc thỏi sô-cô-la, nàng
thong thả ôn lại tất cả những việc xẩy ra trong hai tuần qua.
Trong nhà không hề có gì thay đổi. Katya
còn trở nên đặc biệt dịu dàng đối với Nikôlai Ivanôvits nữa là khác. Ông ta rất
vui, và đang dự tính xây một ngôi biệt thự ở Phần-lan. Chỉ một mình Đasa lặng lẽ
thể nghiệm tấn “bi kịch” của hai con người đã hóa mù này. Mở miệng ra nói chuyện
với chị trước thì nàng không đủ can đảm, còn Katya xưa nay vẫn chú ý đến những
tâm trạng của em là thế mà lần này lại dường như không nhận thấy chuyện gì hết.
Êkatêrina Đmitrievna đặt may cho mình và cho em gái những bộ trang phục mùa
xuân để mặc vào dịp lễ Phục sinh, suốt ngày mất tăm ở các hiệu may với mấy cô
thợ khâu, tham gia vào những phiên chợ từ thiện tổ chức theo yêu cầu của
Nikôlai Ivanôvits, một buổi dạ hội văn chương với mục đích mặc nhiên là quyên
tiền giúp cánh tả của đảng xã hội dân chủ - tức cái nhóm được gọi là bolsevik, - và hàng tuần ngoài tối thứ
ba ra còn tiếp khách vào tối thứ năm nữa. Nói tóm lại, nàng không có lấy một
phút nào rỗi rãi.
“Còn trong khi đó thì cô sợ sệt chẳng dám
làm gì, chỉ ngồi suy nghĩ về những sự đời mà cô ù ù cạc cạc chẳng hiểu chút
nào, và sẽ không hiểu chút nào khi bản thân chưa bị vấp vào đấy”, - Đasa nghĩ
thầm và cười khe khẽ. Từ cái hồ tối tăm, nơi những viên băng tròn rơi xuống, và
là mơi không thể hứa hẹn một cái gì tốt lành, từ từ hiện lên hình ảnh chói
chang và độc địa của Bexxônôv. Những ngày gần đây nó vẫn thường hiện lên như thế.
Đasa đã buông lỏng mình, và Bexxônôv đã khống chế được tâm trí nàng. Nàng lặng
người đi. Trong căn buồng tối, tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ nghe rõ mồn một.
Rồi ở một nơi nào xa lắm trong tòa nhà có
tiếng cửa đóng sập lại, và Đasa nghe tiếng chị hỏi:
- Cô ấy về lâu
chưa?
Đasa rời chiếc ghế bành đứng dậy và đi ra
phòng ngoài. Êkatêrina Đmitrievna nói ngay:
- Sao mặt em đỏ thế?
Nikôlai Ivanôvits vừa cởi áo khoác da vừa lặp
lại một câu nói dí dỏm trong vốn tiết mục của gã tình-nhân-hay-lý-sự. Đasa đưa
mắt hằn học nhìn đôi môi dày và nhão của ông ta, rồi theo Katya vào phòng ngủ của
chị. Ngồi xuống bên cái bàn trang điểm thanh lịch và mỏng manh như mọi vật khác
trong phòng Katya, nàng lắng nghe chị nói chuyện phiếm về những người quen vừa
gặp trong buổi dạo chơi vừa rồi.
Êkatêrina Đmitrievna vừa kể vừa sắp xếp lại
đồ đạc trong chiếc tủ gương, nơi cất những đôi găng tay, những mẩu đăng-ten, những
tấm mạng che mặt, những đôi giày lụa - cả một mớ những đồ dùng vặt vãnh sực nức
mùi nước hoa của nàng. “Té ra Kêrenxki lại thua kiện và chẳng còn lấy một xu,
chị có gặp vợ ông ta, cứ khóc suốt ngày đi; bây giờ họ sống khó khăn quá. Nhà
Timiryazev có bệnh sởi, Seinberg đã quay về với cô ả loạn óc của anh ta, nghe
nói cô ả còn dùng súng toan tự sát ngay trong nhà anh ta. Chao ôi, đã sang xuân
rồi; mùa xuân, mùa xuân! Mà hôm nay sao trời đẹp quá! Mọi người đều đổ ra phố
đi lang thang như say rượu. À phải, lại còn tin này nữa: chị có gặp Akunđin,
anh ta quả quyết rằng chỉ ít lâu nữa sẽ có cách mạng. Em hiểu không, ở các nhà
máy, ở nông thôn, đâu đâu cũng sùng sục lên. Chao ôi, chỉ mong sao cho chóng
đi! Nikôlai Ivanôvits mừng đến nỗi đã đưa chị ra Pivato, và hai vợ chồng đã tự
dưng vô cớ uống một chai sâm banh để chúc mừng cuộc cách mạng sắp tới”.
Đasa im lặng nghe chị nói, tay tẩn mẩn mở
nút mấy chiếc lọ con đựng nước hoa rồi lại đậy kín lại.
- Chị Katya ạ, - nàng nói đột ngột. - chị
hiểu không, em cứ như thế này thôi, chẳng được cái tích sự gì cho ai cả -
Êkatêrina Đmitrievna, tay đang kéo căng chiếc bít tất lụa, quay lại chăm chú
nhìn em. - Nhưng cái chính là cứ thế này thì bản thân em cũng chẳng cần đến em
nữa. Cũng như thể một người tự dưng quyết định suốt đời chỉ ăn cà-rốt sống thôi
và cho rằng làm như vậy mình sẽ cao hơn hẳn mọi người khác.
- Chị không hiểu em muốn nói gì cả,
- Êkatêrina Đmitrievna nói.
Đasa nhìn lưng chị và thở dài.
- Chẳng có người nào tốt, người nào em cũng
chê trách. Người thì ngu, người thì tồi, người thì bẩn. Chỉ một mình em tốt
lành. Ở đây em là người lạ, điều đó làm cho em rất khổ tâm. Em chê trách cả chị
nữa đấy, Katya ạ.
- Vì tội gì? - Không ngoảnh lại, Êkatêrina Đmitrievna hỏi khẽ.
- Chị ạ, chị phải hiểu em mới được. Em vênh
mặt lên mà sống - giá trị của em chỉ có thế. Như thế thật là ngu xuẩn, và em đã
chán cái cảnh phải làm người lạ giữa tất cả mọi người ở đây. Nói tóm lại, chị ạ,
em rất thích một người.
Đasa cúi gầm mặt xuống khi nói câu này. Lúc
bấy giờ nàng vừa đút ngón tay vào một chiếc lọ và không sao rút ra được nữa.
- Thì thế là tốt chứ sao hở cô bé, tìm được
một người mà mình thích thì may quá chứ còn gì nữa! Em sẽ hạnh phúc. Em mà
không hạnh phúc thì còn ai hạnh phúc nữa? - Êkatêrina Đmitrievna thở dài khe khẽ.
- Nhưng chị Katya ạ, câu chuyện có phải đơn
giản như thế đâu. Theo em thì em không yêu người ấy.
- Nếu em đã thích thì rồi em sẽ yêu.
- Vấn đề chính là ở chỗ em không thích người
ấy.
Êkatêrina Đmitrievna khép cửa tủ lại và đến
đứng bên cạnh Đasa.
- Kìa em vừa nói là em thích người ta kia
mà... Thế thì quả là...
- Katyusa ạ, chị đừng bắt bẻ em từng chữ
như thế. Chị còn nhớ cái người Anh ở Xextroretxk chứ? Đấy, người ấy thì em
thích, thậm chí còn yêu nữa là khác. Nhưng hồi ấy em là em... Em tức tối, em
tránh mặt người ta, em khóc cả đêm... Còn người này thì... Thậm chí em cũng chẳng
biết có phải chính hắn không nữa... Không, chính phải, đúng là hắn rồi... Hắn
đã làm cho em bàng hoàng cả người... Và bây giờ em đã thành một người khác hẳn.
Cứ như thể em đã ngửi phải một thứ khói gì... Giả sử hắn vào phòng em bây giờ
thì em sẽ không động đậy... Hắn muốn làm gì em cũng được.
- Đasa, em nói gì thế?
Êkatêrina Đmitrievna ngồi xuống cạnh em
gái, kéo em vào sát mình, cầm lấy bàn tay nóng rực của em hôn lên lòng bàn tay,
nhưng Đasa từ từ gỡ ra, thở dài, tựa đầu lên bàn tay, và nhìn rất lâu lên khung
cửa sổ đang ngả dần sang màu xanh biếc và điểm lấm tấm mấy vì sao.
- Đasa, người ấy tên gì?
- Alekxêy Alekxêyêvits Bexxônôv.
Katya ngồi ngay sang chiếc ghế bên cạnh,
đưa bàn tay lên cổ và im lìm không nhúc nhích. Đasa không nhìn thấy mắt chị -
nó khuất hẳn trong bóng tối, - nhưng nàng cũng cảm thấy là mình vừa nói với chị
một điều gì hết sức khủng khiếp.
“Thôi thế càng tốt” - nàng quay mặt đi,
nghĩ thầm. Và sau hai chữ “càng tốt” ấy nàng bỗng thấy lòng nhẹ nhõm và trống
trải hẳn đi.
- Chị ạ, chị thử nói đi, tại sao người khác
thì làm gì cũng được, còn em thì lại không? Hai năm nay em đã được nghe nói đến
hàng trăm hàng nghìn lạc thú đầy sức cám dỗ, thế mà từ khi ra đời cho đến nay
em chỉ mới có một lần được một cậu học sinh hôn trên sân băng. Nàng thở dài một
tiếng rõ to và lặng thinh. Êkatêrina Đmitrievna ngồi rũ rượi trên ghế, đầu gục
xuống, hai tay đặt lên đầu gối.
- Bexxônôv là một người rất xấu xa, - nàng
nói, - hắn là một người đáng ghê sợ, Đasenka ạ. Em có nghe chị nói không?
- Có.
- Hắn sẽ tàn hại cả đời em.
- Bây giờ còn biết làm thế nào được nữa!
- Chị không thể để như thế được. Thà là người
khác... Chứ em thì không thể được, không thể được đâu em của chị ạ.
- Không, con quạ non không đẹp, nó đen đủi
cả thể xác lẫn tâm hồn, - Đasa nói, - chị thử nói xem, Bexxônôv xấu xa ở chỗ
nào?
- Chị không thể nói được... Chị không biết...
Nhưng mỗi khi nghĩ đến hắn, chị rùng cả mình.
- Thế nhưng hình như chị cũng có thích hắn
chút ít thì phải?
- Không bao giờ... Chị ghét hắn vô cùng!...
Lạy chúa đừng để em lọt vào tay hắn.
- Katyusa, chị cũng thấy đấy... Bây giờ thì
chắc chắn là em sẽ rơi vào cạm bẫy của hắn.
- Em nói gì thế?... Cả hai chị em mình điên
mất rồi.
Nhưng chính Đasa thích kiểu nói chuyện như
thế này: cứ như thể đang nhón chân đi trên tấm ván mảnh. Nàng rất thích khi thấy
Katya xúc động. Bexxônôv thì nàng hầu như không còn nghĩ đến nữa, nhưng nàng vẫn
cố tình kể lể về những tình cảm của mình đối với hắn, thuật lại những lần gặp gỡ,
miêu tả gương mặt của hắn. Tất cả những thứ đó đều được nàng phóng đại lên,
thành thử nghe nàng nói có thể tưởng chừng như đã suốt mấy đêm trường nàng nhớ
nhung khắc khoải và chỉ thiếu chút nữa thì nàng đã sẵn sàng chạy đến tìm
Bexxônôv ngay bây giờ. Rốt cục chính nàng cũng thấy buồn cười. Nàng những muốn
ôm choàng lấy hai vai Katya, hôn chị rồi nói: “Nếu có một người ngốc nhất đời
thì chính là chị đấy Katya ạ!”. Nàng không ngờ Êkatêrina Đmitrievna bỗng rời ghế
tụt xuống tấm thảm nhỏ trải trên sàn, ôm chầm lấy Đasa, dúi mặt vào đùi em, và
toàn thân run lẩy bẩy, nàng kêu lên, giọng nghe rờn rợn:
- Em tha thứ cho chị, Đasa! Em tha thứ cho
chị!
Đasa đâm hoảng. Nàng cúi xuống người chị; vừa
sợ vừa thương, nàng cũng khóc nức nở và hỏi dồn chị: Katya muốn nói đến việc
gì, sao lại phải tha thứ cho chị? Nhưng Êkatêrina Đmitrievna cứ nghiến chặt
răng lại, chị vuốt ve Đasa và hôn mãi lên bàn tay nàng.
Đến bữa ăn trưa, Nikôlai Ivanôvits nhìn kỹ
hai chị em rồi nói:
- Ra thế cơ đấy... Thế liệu như tôi đây có
thể mong được biết nguyên nhân của những giọt lệ kia không?
- Nguyên nhân chẳng qua là cái tính khả ố của
em - Đasa đáp ngay - xin anh yên tâm, không có anh em cũng hiểu thừa rằng em
không đáng giá cái ngón tay út của vợ anh.
Cuối bữa ăn, lúc dọn cà-phê lên, có mấy người
khách đến chơi. Nikôlai Ivanôvits liền quyết định là, xét cái không khí lúc này
trong gia đình, nhất thiết phải ra tiệm một chuyến chơi. Kulitsek đi gọi điện
cho trạm xe hơi, còn Katya và Đasa thì được lệnh về phòng trang phục. Tsirva đến,
và khi được biết là cả nhà đang sửa soạn đi chơi, ông ta đột nhiên nổi cơn thịnh
nộ:
- Rốt cục ai sẽ chịu thiệt vì những cuộc
truy hoan liên miên này? Chính là nền văn học Nga vậy! - Nhưng rồi ông ta cũng
bị lôi lên xe với mọi người.
Tiệm “Bắc Palmir” đông nghịt khách và rất ồn
ào, gian phòng rộng thênh thang ở tầng dưới ngập trong ánh sáng trắng bệch của
những chùm đèn pha lê. Những chùm đèn, những làn khói thuốc lá từ các bàn kê
san sát đưa lên, những bộ lễ phục đen và những đôi vai để trần của phụ nữ, những
bộ tóc giả nhiều màu của họ xanh có, tím có, lục có, những chùm lông chim cắm
mũ, trắng xốp như tuyết, những hạt châu ngọc và kim cương lung linh trên cổ và
trên tai họ, tỏa ra những tia sáng màu hổ phách, màu bích ngọc hay hồng ngọc,
những người hầu bàn lướt nhanh trong bóng tối, người nhạc trưởng gầy gò với hai
cánh tay giơ cao và chiếc gậy của hắn đang cắt không khí trước tấm màn màu huyết
dụ, những chiếc kèn đồng sáng loáng trong dàn nhạc - tất cả những cái đó được
nhân lên gấp bội trong những tấm gương lớn che kín bốn bức tường, khiến người
ta cảm giác như cả nhân loại, cả thế giới đều có mặt trong những viễn cảnh vô tận
này.
Đasa vừa ngồi mút rượu sâm banh qua chiếc cọng
rơm vừa đưa mắt quan sát các bàn bên. Một người đàn ông mặt cạo nhẵn thín, hai má
đánh phấn, ngồi trước một cái xô đựng nước đá toát mồ hôi và một cái vỏ tôm rồng.
Đôi mắt hắn nhắm nghiền, đôi môi mím chặt lại một cách khinh bỉ. Chắc hẳn hắn
đang ngồi nghĩ rằng rốt cục điện sẽ tắt và mọi người sẽ chết - thế thì có gì
đáng lấy làm vui đâu!
Tấm màn rung rinh dao động, rồi vén ra hai
bên. Một người Nhật Bản bé lùn, mặt chằng chịt những nếp nhăn bi thảm, nhảy lên
sân khấu, và xung quanh hắn những quả cầu ngũ sắc, những cái đĩa, những ngọn đuốc
thi nhau lộn vòng trên không.
“Tại sao Katya lại xin mình tha thứ?” -
Đasa băn khoăn tự hỏi.
Và đột nhiên đầu nàng như bị một vòng đai
thắt chặt lại, tim nàng như ngừng đập. “Lẽ nào có thể như thế được?” Nhưng rồi
nàng lắc mạnh đầu, hít sâu không khí vào lồng ngực, cố bắt mình đừng nghĩ xem “như
thế” là thế nào, và đưa mắt sang nhìn chị.
Êkatêrina Đmitrievna ngồi ở cuối bàn, mệt mỏi,
buồn rầu và xinh đẹp đến nỗi Đasa nhìn chị mà rưng rưng nước mắt. Nàng đưa ngón
tay lên sát môi thở nhè nhẹ. Đó là một dấu hiệu ước định giữa hai chị em. Katya
đã trông thấy nó, đã hiểu ý em và môi nàng từ từ nở một nụ cười âu yếm.
Khoảng hai giờ sau bắt đầu nổi lên một cuộc
tranh luận: bây giờ nên đi đâu nữa? Êkatêrina Đmitrievna xin về nhà. Nikôla
Ivanôvits nói là mọi người thế nào thì ông cũng thế, thế mà “mọi người” thì lại
quyết định tiếp tục đi chơi.
Và ngay lúc ấy, qua đám đông đã vãn dần.
Đasa chợt trông thấy Bexxônôv. Hắn ngồi rũ rượi, một khuỷu tay chống vào tận giữa
bàn, chăm chú nghe Akunđin đang nói những gì không rõ, mồm phì phèo điếu thuốc
lá bị nhai gần nát bét, vừa nói vừa lấy móng tay vạch mạnh lên khăn trải bàn. Mắt
Bexxônôv nhìn đăm đăm vào cái móng tay đang chạy thành từng đường thẳng băng và
dứt khoát đó. Gương mặt hắn đăm chiêu và nhợt nhạt. Qua tiếng ồn ào, Đasa mường
tượng nghe loáng thoáng như một câu gì như: “Thế là hết, mọi sự đều chấm dứt”
nhưng vừa lúc ấy một gã hầu bàn người Tatar với cái bụng phệ đứng lấp mất hai
người. Katya và Nikôlai Ivanôvits đứng dậy. Họ cất tiếng gọi Đasa, nhưng nàng vẫn
thẫn thờ như cũ, lòng xốn xang vì tò mò và xúc động.
Khi mọi người đã ra phố, hơi băng đột ngột
phả vào người, trong lành và dịu ngọt. Trên nền trời màu tím thẫm lấp lánh mấy
chòm sao. Sau lưng Đasa có ai vừa nói vừa cười khúc khích: “Một đêm bảnh tuyệt!”. Một chiếc xe hơi từ từ ghé vào vỉa hè. Từ phía sau xe, từ khoảng không khí sực
mùi hơi xăng chui ra một người ăn mặc rách rưới; hắn cất chiếc mũ lưỡi trai,
nhún nhảy đến mở cửa xe trước mặt Đasa. Nàng vừa bước lên xe vừa liếc mắt nhìn
hắn. Đó là một người gầy gò, râu để lởm chởm, mồm méo xệch, người run lẩy bẩy,
co ro ép hai khuỷu tay vào mạng sườn.
- Xin mừng các vị đã qua một tối vui trọn vẹn
trong ngôi đền xa hoa và khoái lạc! - hắn cất cái giọng khàn khàn reo lên một
cách tươi tỉnh, nhanh nhẹn bắt lấy đồng hào đôi trong xe quẳng ra và múa chiếc
mũ lưỡi trai rách cúi chào sát đất. Đasa cảm thấy đôi mắt đen hung ác của hắn
như cào lên khắp da thịt nàng.
Họ về đến nhà thì đêm đã khuya. Đasa nằm ngửa
trên giường, không ngủ mà chỉ như mê man đi, tựa hồ cả thân thể nàng đã rã rời
hết ra vì mệt mỏi quá chừng.
Bỗng nàng rên lên một tiếng, kéo tung tấm
chăn đang đắp trên ngực xuống, ngồi dậy và mở mắt ra. Ánh nắng lọt qua cửa sổ rọi
xuống sàn gỗ đánh si... “Trời ơi, vừa rồi mình đã mơ thấy những chuyện gì khủng
khiếp thế?” Nàng thấy sợ đến nỗi suýt khóc òa lên, rồi đến khi trấn tĩnh được,
thì lại thấy mình đã quên hết mất rồi. Chỉ còn sót lại một cảm giác đau nhói
trong tim, dư âm của một cơn ác mộng ghê tởm.
Sau bữa ăn sáng Đasa đi nghe giảng, ghi tên
dự kỳ sát hạch, đi mua mấy cuốn sách và suốt buổi sáng mãi cho đến bữa ăn trưa
nàng quả nhiên đã thể nghiệm một cuộc sống lao động khắc khổ. Nhưng rồi đến tối
lại phải đi đôi bít tất lụa (sáng nay nàng đã quyết định là chỉ đi bít tất sợi),
đánh phấn vào tay và vào vai, chải lại mái tóc. “Giá cứ quấn tóc thành một búi
sau gáy thì hay quá, đằng này mọi người cứ la lên: hãy chải tóc theo kiểu thời
thượng! Nhưng tóc cứ tự nó xổ tung ra thì còn biết chải kiểu gì. Nói tóm lại là
khổ vô cùng. Rồi trên ngực chiếc áo lụa xanh lại thấy có một vết rượu sâm banh
nữa”.
Đasa bỗng thấy xót xa cho cái áo bị hỏng và
cho cuộc đời mình đang trôi đi một cách phí hoài đến nỗi đang cầm chiếc áo
trong tay, nàng buông mình ngồi bệt xuống và khóc òa lên. Nikôlai Ivanôvits mở
hé cửa thò đầu vào buồng, nhưng thấy Đasa chỉ mặc chiếc áo lót, lại đang khóc,
liền ra gọi vợ, Katya chạy vào, cầm lấy chiếc áo, kêu lên: “Ồ, tẩy là đi ngay
thôi mà”. Nàng gọi Đại hãn bảo đem xăng và nước nóng vào.
Chiếc áo đã tẩy sạch, Đasa đã được trang phục
xong xuôi. Nikôlai Ivanôvits đứng ở ngoài gắt: “Kìa các bạn, hôm nay là buổi diễn
đầu kia mà, lẽ nào lại đến muộn!”. Và dĩ nhiên là họ đến muộn.
Đasa ngồi cạnh Êkatêrina Đmitrievna trong
lô, buồn rầu nhìn lên sân khấu. Một người đàn ông cao lớn cằm dán râu giả, mắt
tô rộng ra một cách thiếu tự nhiên, đứng dưới một cái cây lép kẹp nói với một
thiếu nữ mặc trang phục màu hồng tươi: “Tôi yêu cô, tôi yêu cô”, và nắm lấy tay
thiếu nữ.
Tuy vở kịch không có gì thảm thiết lắm,
Đasa vẫn luôn luôn thấy muốn khóc, muốn thương xót người thiếu nữ mặc áo hồng,
và thấy bực mình khi các tình tiết diễn ra khác hẳn với ý nàng. Về sau mới biết
là cô thiếu nữ ấy vừa yêu vừa không yêu. Người chung tình ôm hôn cô ta thì cô
ta đáp lại bằng một chuỗi cười ma quái, và trốn theo cái thằng đểu mà hai ống
quần trắng phau thấp thoáng ở hậu cảnh. Người đàn ông kia giơ hai tay lên ôm đầu
nói rằng mình sẽ hủy một bản thảo gì đấy - sự nghiệp của đời mình - và thế là hết
hồi thứ nhất.
Có mấy người quen bước vào lô, và một cuộc
chuyện trò vội vã, sôi nổi bắt đầu.
Ông Seinberg bé nhỏ, đầu hói trụi, khuôn mặt
rúm ró cạo nhẵn trông như chốc chốc lại vụt chồm ra từ cái cổ áo hồ cứng, nói rằng
vở kịch có sức lôi cuốn rất mạnh.
- Cũng vẫn là vấn đề tính dục nam nữ, nhưng
được đặt ra một cách sắc sảo. Rốt cục rồi nhân loại cũng phải giải quyết dứt
khoát cái vấn đề chết tiệt này đi thôi.
Đáp lời Seinberg là Burôv, một ông dự thẩm
chuyên điều tra những vụ đặc biệt quan trọng, người to lớn, vẻ mặt lầm lì. Ông
ta là một người tư tưởng khoáng đạt có bà vợ đã trốn đi vào ngày lễ Giáng sinh,
theo một ông chủ tàu ngựa đua. Burôv nói:
- Đối với ai thì tôi không biết, chứ đối với
tôi thì vấn đề đó đã được giải quyết xong xuôi rồi. Người đàn bà dối trá bằng
chính sự tồn tại của họ: còn đàn ông thì dối trá bằng cách sử dụng nghệ thuật.
Vấn đề tính dục chẳng qua là một trò hề bỉ ổi, còn nghệ thuật là một dạng tội
hình.
Nikôlai Ivanôvits nhìn vợ cười phá lên.
Burôv nói tiếp, vẻ mặt lầm lầm:
- Khi loài chim đến mùa sinh nở thì con
chim trống liền khoác một bộ lông đuôi sặc sỡ. Đó là một sự dối trá, vì bình
thường thì đuôi nó xám xịt chứ không có lắm màu như thế. Một giống cây nào đó
trổ hoa: đó cũng là một sự dối trá, một thủ đoạn nhử mồi, còn cái thực chất nó
nằm trong những sợi rễ xấu xí ở dưới đất kia. Nhưng dối trá hơn cả là con người.
Mình hắn không trổ hoa, đít hắn không có đuôi, thế là hắn phải sử dụng cái lưỡi;
cái gọi là tình yêu và tất cả những thứ gì bao quanh nó đều là một sự dối trá
tăng lên gấp bội và ghê tởm hết sức. Những chuyện xung quanh vấn đề này chỉ bí ẩn
đối với những thiếu nữ mới lớn mà thôi - ông liếc về phía Đasa một cái - nhưng ở
thời đại ta, cái thời đại hoàn toàn mê muội này, lại có những con người nghiêm
túc ra công nghiên cứu những chuyện nhảm nhí ấy. Phải, quốc gia Nga-la-tư đang
mắc chứng tắc dạ dày.
Mặt nhăn nhó như người mắc chứng viêm chảy,
ông cúi xuống hộp kẹo, thò ngón tay moi moi một lát, nhưng chẳng chọn chiếc
nào. Đoạn ông đưa lên ngang mắt chiếc ông nhòm đi biển đeo lủng lẳng trên ngực.
Câu chuyện chuyển sang tình hình chính trị
trì trệ và thế lực phản động. Kilitsek, giọng thầm thì ra vẻ xúc động, kể lại vụ
điếm nhục xẩy ra gần đây nhất trong cung đình.
- Thật là một cơn ác mộng, một cơn ác mộng.
- Seinberg nói nhanh. Nikôlai Ivanôvits vỗ đùi nói:
- Thưa các ngài, chúng ta cần phải có cách
mạng lập tức. Nếu không, ta sẽ chết ngạt mất thôi. Tôi có nghe tin - ông mói khẽ
hẳn đi - ở các nhà máy tình hình rất căng thẳng!
Seinberg hăng tiết vung cả mười ngón tay
lên trời.
- Nhưng đến bao giờ, bao giờ? Chả nhẽ cứ chờ
đợi mãi?
- Ta sẽ được chứng kiến ngày ấy, Yakôv
Alexanđrôvits ạ, ta sẽ sống đến ngày ấy thôi, -Nikôlai Ivanôvits vui vẻ đáp -
và chúng tôi sẽ trao cho quan lớn cái cặp bộ trưởng bộ tư pháp, quan lớn ạ.
Nghe họ bàn về những vấn đề này nọ, về cách
mạng và về cái cặp bộ trưởng, Đasa phát chán. Một tay chống khuỷu lên vành lô bịt
nhung, còn tay kia ôm Katya ngang lưng, nàng nhìn xuống tầng dưới, thỉnh thoảng
lại mỉm cười gật đầu chào những người quen. Đasa biết và thấy rõ rằng nhan sắc
hai chị em nàng có sức hấp dẫn, và những cái nhìn ngạc nhiên từ trong đám khán
giả đưa lên - đàn ông thì đượm vẻ trìu mến, đàn bà thì chứa đầy ác cảm -cùng là
những mẩu câu nghe loáng thoáng và những nụ cười đều có sức khích động nàng như
không khí mùa xuân làm cho người ta ngây ngất. Tâm trạng ủy mị ban nãy đã tiêu
tan. Một món tóc quấn của Katya lòa xòa bên tai nàng khiến nàng thấy buồn buồn ở
rìa má.
- Katyusa, em yêu chị quá - Đasa thì thầm.
- Chị cũng thế.
- Em ở với chị thế này, chị có vui không?
- Vui lắm ấy!
Đasa đang nghĩ xem còn có thể nói với Katya
một điều gì cho chị vui lòng nữa không, thì chợt trông thấy Têlêghin ở tầng dưới.
Chàng mặc áo đuôi én màu đen, tay cầm chiếc mũ lưỡi trai và tờ chương trình, và
đã từ lâu liếc nhìn lên lô gia đình Xmôkôvnikôv một cách kín đáo để cho người
ta khỏi để ý. Khuôn mặt rám nắng, rắn rỏi của chàng nổi bật lên giữa những
khuôn mặt khác, quá trắng trẻo hoặc quá xanh xao. Tóc chàng nhạt màu hơn là
Đasa vẫn tưởng nhiều, nó vàng óng như màu tiểu mạch.
Bắt gặp đôi mắt của Đasa, chàng vội vã gật
đầu chào, rồi ngoảnh sang phía khác, nhưng lại đánh rơi chiếc mũ. Trong khi cúi
xuống nhặt, chàng chạm mạnh phải một bà béo ngồi ở hàng ghế bành, bèn lên tiếng
xin lỗi, mặt đỏ ửng, toan bước lùi lại thì giẫm phải chân ông chủ bút tờ tạp
chí mỹ học “Hợp xướng của các Nàng thơ”. Đasa nói với chị:
- Chị Katya à, Têlêghin kia kìa.
- Chị trông thấy rồi, rất dễ thương.
- Dễ thương đến nỗi em chỉ muốn hôn cho một
cái. Và chị không biết chứ anh ấy thông minh vô cùng. Katyusa ạ.
- Thế thì Đasa ạ...
- Gì cơ?
Nhưng chị nàng đã im bặt. Đasa hiểu ý và
cũng lặng thinh. Tim nàng lại nhoi nhói lên: trong cái vỏ ốc của lòng nàng, sự
tình không ổn chút nào hết: vừa qua nàng đã lãng quên đi trong chốc lát, nhưng
giờ đây, lại ghé mắt nhìn vào đấy, nàng thấy nó tối tăm, đáng sợ quá.
Khi đèn trong phòng lại tắt và tấm màn lại
tách đôi ra, mỗi nửa trôi về một bên sân khấu, Đasa thở dài, bẻ một mẩu
sô-cô-la bỏ vào miệng và bắt đầu chăm chú lắng nghe.
Người đàn ông có bộ râu giả tiếp tục dọa đốt
bản thảo, cô thiếu nữ ngồi trước dương cầm nhạo báng hắn ta. Và có thể thấy rõ
là cô thiếu nữ này phải đem gả chồng cho nhanh, chứ không nên kéo dài câu chuyện
nhạt nhếch này thêm ba màn nữa.
Đasa ngước mắt nhìn lên trần nhà hát. Ở đấy,
giữa những đám mây, bay lượn một giai nhân gần như khỏa thân, môi nở một nụ cười
tươi vui và trong sáng. “Trời ơi, sao giống mình quá thể” - Đasa nghĩ thầm. Và
ngay lúc ấy nàng nhìn thấy mình qua nhãn quan của người khác: một người con gái
đang ngồi trong lô, ăn sô-cô-la, nói nhảm, lẫn lộn lung tung và chờ đợi một cái
gì phi thường tự dưng xẩy ra. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra cả. “Và ta không thể
nào sống nổi chừng nào mà ta chưa đến với chàng, chưa nghe giọng nói của chàng,
chưa cảm giác được cả con người chàng. Những thứ khác chỉ là gian trá. Chẳng
qua cần phải trung thực”.
Kể từ tối hôm ấy Đasa không suy nghĩ nữa.
Bây giờ nàng đã biết chắc nàng sẽ đến tìm Bexxônôv, và rất sợ giờ phút ấy. Đã
có lúc nàng toan bỏ về Xamara với cha nàng, nhưng rồi lại nghĩ rằng cái khoảng
cách một nghìn năm trăm dặm không phải là một cái gì có thể cứu người ta khỏi bị
cám dỗ, thế là nàng khoát tay để mặc cho số phận xoay vần.
Tâm hồn trinh bạch lành mạnh của nàng phẫn
nộ, nhưng thử hỏi còn chống chọi sao nổi với “con người thứ hai”, một khi mọi sự
trên đời đều trợ lực cho hắn? Và cuối cùng, thật là nhục nhã vô cùng khi phải
đau khổ và nghĩ ngợi mãi về cái lão Bexxônôv kia, trong khi lão cũng chẳng thèm
biết đến mình nữa, cứ sống ung dung đâu ở đại lộ Kamenny Ôxtrôv, ngồi làm thơ về
mụ diễn viên mặc váy đăng-ten kia. Còn Đasa thì tất cả tâm hồn, cho chí những
ngõ ngách sâu kín nhất, đều tràn đầy Bexxônôv và đã bị Bexxônôv thu hút hết rồi.
Bây giờ Đasa cố ý chải tóc thật trơn, búi
chặt lại sau gáy, và mặc một chiếc áo cũ từ thời trung học để lại, mang từ
Xamara lên đây, nàng buồn bã và kiên trì học luật La-mã thuộc làu làu, không đến
chơi nhà ai hết và tránh những trò giải trí. Làm người trung thực té ra cũng chẳng
dễ gì. Chẳng qua Đasa đã đâm ra quá sợ sệt.
Đầu tháng tư, vào một buổi tối mát trời,
khi ánh tà dương đã tắt và bầu trời phơn phớt màu ngọc thạch ngập trong một ánh
sáng lân tinh không hắt bóng, Đasa đi bộ từ khu đảo trở về nhà.
Nàng bảo với người nhà là phải đi nghe giảng,
nhưng lại lên xe đi đến cầu Êlaghin và suốt buổi tối lang thang trên những lối
đi trơ trụi, qua những chiếc cầu con, nhìn xuống dòng kênh, ngắm những cành khô
màu tím tỏa rộng giát lên nền trời ửng đỏ ở phía tây, những khuôn mặt của khách
qua đường, những ngọn đèn xe ngựa thấp thoáng sau những thân cây phủ rêu. Nàng
không nghĩ gì, không vội đi đâu hết.
Trong tâm hồn nàng yên tĩnh, và làn không
khí mằn mặn của mùa xuân duyên hải ngấm vào khắp người nàng, tựa hồ sâu đến tận
xương tủy. Chân nàng đã mỏi, nhưng nàng không thấy muốn về nhà. Trên đại lộ
Kamenny Ôtrôv rộng thênh thang, những cỗ xe song mã lăn theo nước đại kiệu của
đôi ngựa, những chiếc xe hơi mình dài lướt qua, những tốp người đi dạo thong thả
diễu qua trong những tiếng cười và những câu đùa bỡn. Đasa rẽ sang một phố nhỏ.
Ở đây hoàn toàn im lặng và vắng vẻ. Bầu trời
bên trên các mái nhà đã ngã sang màu lục. Từ mỗi ngôi nhà, sau những tấm rèm
buông kín, đều có tiếng nhạc vẳng ra. Đây, có ai đang tập một bài sonata, và
đây là một điệu valse nghe sao quen thuộc quá, và đây nữa, trong khung cửa sổ tối
mờ mờ của một căn gác xép đỏ rực ánh hoàng hôn, một chiếc vĩ cầm đang cao giọng
ngân nga.
Những âm thanh ấy thấm sâu vào Đasa, và mỗi
đường gân thớ thịt trong người nàng cũng cất tiếng hát lên một nỗi nhớ nhung mơ
hồ. Thân thể nàng như đã trở nên nhẹ nhàng, thanh khiết.
Nàng đi vòng ra góc phố, xem số nhà trên đường,
mỉm một nụ cười kỳ dị và đến trước một cửa ra vào: ở đấy, ở phía trên đầu một
con sư tử đồng có găm một tấm danh thiếp với dòng chữ “A. Bexxônôv”. Nàng bấm
chuông thật mạnh.
7
Người gác cổng ở tiệm ăn “Thành viên” trong
khi cởi áo khoác cho Bexxônôv, nói với một giọng ngụ nhiều ý nghĩa.
- Alekxêy Alekxêyêvits ạ, có người đang chờ
ngài.
- Ai?
- Một người thuộc nữ giới.
- Cụ thể là ai?
- Chúng tôi không được biết ạ.
Bexxônôv đưa
mắt lơ đãng nhìn qua đầu các khách ăn, và đi vào góc trong cùng của gian phòng
đông nghịt... Loxkutkin, người chủ tiệm có cặp râu má bạc trắng cúi mình sau
vai chàng và cho biết là hôm nay có món lườn cừu đặc biệt.
- Tôi không muốn ăn gì đâu, - Bexxônôv nói,
- dọn cho tôi chai rượu vang trắng, thứ tôi vẫn dùng ấy.
Chàng ngồi rất thẳng, dáng nghiêm khắc, hai
tay để lên khăn bàn. Vào giờ này, ở nơi này, cũng như thường lệ, một luồng cảm
hứng ảm đạm tràn vào tâm hồn chàng. Tất cả những ấn tượng ngày hôm ấy đều đã kết
lại thành một hình dáng hài hòa và đầy ý nghĩa, và ở những tầng sâu nhất của
tâm hồn chàng đang xao xuyến vì tiếng nức nở kéo dài của những cây vĩ cầm
Rumani, vì mùi nước hoa của phụ nữ, vì bầu không khí ngột ngạt của gian phòng
đông nghịt, dần dần hiện lên cái bóng của hình dáng từ bên ngoài thấm vào đó,
và cái bóng ấy chính là cảm hứng. Chàng cảm thấy có một xúc giác bên ngoài thấm
vào đó, và cái bóng ấy chính là cảm hứng. Chàng cảm thấy có một xúc giác bên
trong, một xúc giác mù mờ nào đó cho phép chàng thấu hiểu cái ý nghĩa huyền bí
của sự vật và từ ngữ.
Bexxônôv cầm cốc rượu vang lên uống, để rượu
lọt qua hai hàng răng khép chặt. Tim chàng đập chầm chậm. Chàng có một khoái cảm
không sao tả xiết khi thấy toàn thân mình thấm đầy âm thanh và tiếng nói.
Trước mặt chàng, quanh chiếc bàn con đặt dưới
tấm gương, Xapôjkôv, Antôska Arnolđôv và Êlizaveta Kievna đang ăn tối.
Hôm qua Ẹlizaveta đã viết cho Bexxônôv một
bức thư dài hẹn gặp chàng ở đây, và bây giờ nàng rất hồi hộp, mặt cứ đỏ bừng
lên. Nàng mặc một chiếc áo đen sọc vàng, trên đầu thắt một chiếc nơ cũng làm bằng
thứ hàng ấy. Khi Bexxônôv bước vào, nàng tự dưng thấy ngạt thở.
- Cô phải cẩn thận đấy - Arnolđôv thì thầm
dặn nàng, để lộ tất cả những chiếc răng siết và răng lành ra một lúc, - hắn đã
bỏ rơi cô diễn viên, bây giờ không có đàn bà, hắn nguy hiểm như một con hùm đấy.
Êlizaveta Kievna cười phá lên, lắc lắc chiếc
nơ sọc và len qua các bàn đi về phía Bexxônôv. Có nhiều người ngoái lại nhìn
nàng, cười khẩy.
Trong thời gian gần đây cuộc sống của
Êlizaveta Kievna hết sức tẻ nhạt, - ngày lại qua ngày, nàng không có việc gì
làm, không hy vọng ở một ngày mai tốt đẹp hơn, nói tóm lại là cả một chuỗi ngày
vô vị. Têlêghin rõ ràng là có ác cảm với nàng, chàng cư xử với nàng rất lễ độ,
nhưng cứ tránh những dịp có thể nói chuyện riêng với nàng. Trong khi đó thì
Êlizaveta Kievna lại tuyệt vọng cảm thấy rằng chính Têlêghin là người nàng đang
cần. Mỗi khi từ phòng mắc áo vẳng lại tiếng nói của chàng, nàng nhìn chòng chọc
ra cửa phòng. Têlêghin bao giờ cũng nhón chân khi đi qua hành lang. Nàng chờ đợi,
tim nàng như ngừng đập, cánh cửa buồng mờ hẳn đi trước mắt, nhưng chàng lại đi
thẳng như mọi khi. Giá chàng gõ cửa lấy một lần, dù chỉ để xin mấy que diêm!
Vừa qua, để trêu gan Jirôv, con người công
kích mọi sự trên thế gian này với sự thận trọng của một con mèo. Êlizaveta
Kievna đã mua một cuốn sách của Bexxônôv về, lấy cặp uốn tóc rọc nó ra, đọc đi
đọc lại mấy lần liền, đánh đổ cà-phê lên, đưa cả vào giường làm cho nó nhàu nát
đi, và cuối cùng, trong một bữa ăn, nàng tuyên bố rằng Bexxônôv là một thiên
tài... Những người khách trọ của Têlêghin tha hồ nhao nhao lên phản đối.
Xapôjkôv gọi Bexxônôv là một cây nấm mọc trên cái thân thể đang mục ruỗng dần của
giai cấp tư sản. Trán Jirôv nổi gân xanh lên. Họa sĩ Valet đánh vỡ một cái đĩa.
Chỉ riêng Têlêghin là vẫn bàng quan. Lúc bấy giờ Êlizaveta Kievna liền lâm vào
cái trạng thái gọi là “tự khiêu khích”: nàng cười khanh khách rồi về phòng viết
cho Bexxônôv một bức thư hân hoan, kỳ quặc, yêu cầu được gặp chàng. Viết xong,
nàng trở lại phòng ăn và lặng lẽ ném bức thư lên bàn. Các khách trọ đọc to bức
thư lên cho nhau nghe và bàn bạc hồi lâu. Têlêghin nói:
- Thư viết rất táo bạo.
Êlizaveta Kievna liền trao bức thư cho chị
nấu bếp bảo đem bỏ ngay vào thùng thư, và có cảm giác mình đang lao vào vực thẳm.
Giờ đây khi đã đến cạnh bàn Bexxônôv,
Êlizaveta Kievna lấy một giọng thật ung dung nói:
- Tôi đã viết thư cho ông. Ông đã đến. Xin
cảm ơn ông.
Đoạn nàng lập tức ngồi xuống trước mặt
chàng, người quay nghiêng sang một bên, chân vắt chéo, khuỷu tay chống lên khăn
trải bàn, cằm tựa vào lòng bàn tay, và bắt đầu nhìn Alekxêy Alekxêyêvits bằng
đôi mắt vẽ. Bexxônôv lặng thinh. Lôxkutkin bày thêm một cái cốc nữa và rót rượu
cho Êlizaveta Kievna. Nàng nói:
- Chắc ông sẽ hỏi tôi muốn gặp ông để làm
gì?
- Không, tôi sẽ không hỏi điều đó đâu. Cô uống
đi.
- Ông nghĩ phải, tôi chẳng có gì để mà nói
hết. Ông được sống, ông Bexxônôv ạ, còn tôi thì không. Tôi buồn chán quá, có thế
thôi.
- Cô làm việc gì?
- Chẳng làm gì hết - Nàng cười phá lên rồi
bỗng đỏ mặt. - Đi làm gái điếm thì chán lắm. Tôi chẳng làm gì hết. Tôi đợi ngày
tiếng kèn đồng sẽ vang lên, và chân trời sẽ cháy rừng rực. Chắc ông lấy làm lạ?
- Cô là ai?
Êlizaveta Kievna không đáp. Nàng cúi đầu,
và càng đỏ mặt hơn nữa.
- Tôi là một ảo ảnh, - nàng nói thì thầm.
Bexxônôv mỉm một nụ cười mếu xệch. “Rởm thật”
- chàng nghĩ thầm. Nhưng trên mái tóc màu hung của nàng có một đường ngôi trinh
bạch, dễ thương quá, và đôi vai mũm mĩm hở rất rộng của nàng có vẻ thanh tân đến
nỗi Bexxônôv lại mỉm cười, lần này hiền hậu hơn. Chàng nhấp rượu qua kẽ răng và
bỗng nẩy ra cái ý muốn trút lên người con gái thật thà này một làn khói đen của
trí tưởng tượng ngông cuồng của mình. Chàng nói rằng đất nước Nga này đang chìm
dần trong bóng đêm để chờ ngày đền tội khủng khiếp. Chàng cảm biết được điều đó
qua những dấu hiệu huyền bí và bất tường:
- Chắc cô đã trông thấy tờ áp-phích dán khắp
thành phố: một con quỷ cưỡi chiếc lốp xe hơi vừa cười ha hả vừa lao vun vút xuống
một cái thang gác khổng lồ... Cô có hiểu như thế nghĩa là thế nào không?
Êlizaveta Kievna nhìn vào đôi mắt băng giá
của Bexxônôv, đôi môi đàn bà, đôi mày lá liễu giương cao lên. Nàng nhìn mấy
ngón tay đang run khe khẽ trong khi cầm chiếc cốc, nhìn cách uống rượu vang của
chàng - chàng uống chầm chậm, không muốn đã khát ngay. Một cảm giác chóng mặt dễ
chịu làm cho nàng ngây ngất. Từ xa, Xapôjkôv bắt đầu ra hiệu cho nàng. Bexxônôv
đột ngột quay lại và cau mày hỏi:
- Những người kia là ai?
- Đó là mấy người bạn của tôi.
- Tôi không ưa cái lối ra hiệu của họ.
Êlizaveta Kievna nói luôn, không suy nghĩ:
- Ta đi chỗ khác vậy nhé?
Bexxônôv nhìn nàng chằm chặp. Đôi mắt nàng
hơi hiếng, miệng nàng mỉm cười yếu ớt, trên thái dương điểm mấy giọt mồ hôi. Và
bỗng nhiên chàng thấy thèm khát người con gái cận thị khỏe mạnh này, chàng cầm
lấy bàn tay to và nóng bừng của nàng đặt trên bàn, nói:
- Hoặc là cô bỏ đi ngay đi, hoặc là cô hãy
im lặng. Ta đi đi. Cần phải thế!
Êlizaveta Kievna chỉ thở hắt ra một tiếng
ngắn. Nàng không cảm giác được là mình đã đứng dậy, đã vịn vào Bexxônôv như thế
nào, và họ đi len qua những chiếc bàn con như thế nào. Và khi hai người đã ngồi
lên chiếc xe ngựa chở khách, gió cũng không làm cho làn da nóng bừng của nàng dịu
bớt đi được. Chiếc xe nhỏ lăn lộc cộc trên đá lát đường. Cằm tựa lên hai bàn
tay tỳ trên chiếc can, Bexxônôv nói:
- Tôi năm nay ba mươi lăm tuổi, nhưng đời
tôi thế là hết rồi. Tình yêu không còn phỉnh phờ tôi được nữa. Còn có gì đáng
buồn hơn là khi người ta chợt thấy rõ rằng con tuấn mã của trang kỵ sĩ thật ra
chỉ là một con ngựa gỗ? Bây giờ cứ phải lê lết một thời gian dài dằng dặc nữa
trên cõi đời này, như một thây ma... - Chàng quay người, mép nhếch lên thành một
nụ cười gượng gạo - Rõ ràng là cả tôi nữa, cùng với cô, phải đợi đến ngày tiếng
kèn đồng Jêricô vang lên. Giá trên khu nghĩa địa này bỗng nổi kèn lên thì hay
quá! Và lửa bốc rực trời... Phải, có lẽ cô nói đúng.
Chiếc xe dừng lại trước một khách sạn ngoại
thành. Một người hầu ngái ngủ đưa họ đi theo một dãy hành lang dài, đến căn buồng
duy nhất chưa có người thuê. Đó là một căn buồng trần thấp, tường dán giấy hoa
đỏ nứt rạn và hoen ố.
Sát bên tường, dưới một bộ đình màn đã bạc
màu, có kê một chiếc giường lớn, dưới chân đặt một cái chậu tôn. Căn buồng phảng
phất mùi ẩm thấp tù hãm và mùi khét của những mẩu thuốc lá cháy dở. Êlizaveta
Kievna đứng ở ngưỡng cửa, hỏi thì thào:
- Ông đưa tôi đến đây làm gì?
- Ấy, ở đây thích lắm, - Bexxônôv đáp vội.
Chàng cởi áo khoác và bỏ mũ cho Êlizaveta
Kievna, đem để trên chiếc ghế bành nhỏ đã gẫy. Người hầu đem đến một chai sâm
banh, mấy quả táo nhỏ và một chùm nho phủ mùn cưa điên điển, ghé mắt nhìn vào
cái chậu và lui ra, vẻ vẫn lầm lì như cũ.
Êlizaveta vén tấm rèm ở cửa sổ lên: ngoài
kia giữa một khoảng đất hoang sũng nước có một ngọn đèn hơi đang cháy, mấy người
phu khoác bao tải khom lưng kéo những chiếc xe bò chở những thùng rác to tướng
đang lịch kịch lăn bánh qua. Nàng cười nhạt, đến dừng trước tấm gương sửa lại
mái tóc với những động tác mới lạ mà bản thân nàng cũng không hề biết bao giò. “Ngày
mai trấn tĩnh lại, ta sẽ phát điên mất” - cô điềm tĩnh tự nhủ và sửa lại chiếc
nơ sọc, Bexxônôv hỏi:
- Cô uống rượu vang nhé?
- Vâng, cho tôi xin một cốc.
Nàng ngồi xuống đi văng. Bexxônôv buông
mình ngồi bệt xuống tấm thảm bên chân nàng và nói, giọng trầm ngâm:
- Cô có đôi mắt đáng sợ quá: hoang dại và dịu
hiền. Một đôi mắt rất Nga. Cô có yêu tôi không?
Êlizaveta Kievna lại thảng thốt hoang mang,
nhưng rồi nàng trấn tĩnh được ngay: “Không. Nếu thế thì đúng là điên rồ rồi”.
Nàng cầm lấy cốc rượu đầy trên tay Bexxônôv, uống cạn. Ngay sau đó, đầu nàng bắt
đầu quay vòng chầm chậm, như thể bị hắt ngược ra phía sau.
- Tôi sợ ông, và có lẽ rất căm ghét ông, -
Êlizaveta Kievna vừa nói vừa lắng nghe lời mình từ xa vẳng lai, mà cũng chẳng
biết có phải chính mình nói ra không. - Đừng nhìn tôi như thế, tôi xấu hổ lắm.
- Cô thật là một cô gái kỳ dị.
- Bexxônôv, ông là một con người rất nguy
hiểm. Tôi vốn sinh trưởng trong một gia đình ly giáo, tôi tin quỷ xa tăng...
Ôi, trời ơi, ông đừng nhìn tôi như thế. Tôi biết ông cần gì ở tôi rồi... Tôi sợ
ông lắm. - Nàng cất tiếng cười vang, rung cả người lên, rượu trong chiếc cốc cầm
trên tay chao ra tung tóe. Bexxônôv úp mặt vào đùi nàng.
- Cô hãy yêu tôi đi... Tôi van cô, cô hãy
yêu tôi, - chàng nói, giọng tuyệt vọng, như thể sinh mạng của chàng giờ đây nằm
cả trong tay Êlizaveta Kievna - Tôi khổ lắm... Tôi... sợ lắm... Tôi sợ cô đơn lắm...
Cô hãy yêu tôi, yêu tôi!...
Elizaveta Kievna đặt tay lên đầu chàng và
nhắm mắt lại.
Bexxônôv nói rằng cứ đêm đêm nỗi sợ hãi trước
cái chết lại tràn vào lòng chàng. Chàng cần cảm thấy có một con người sống ở bên
cạnh chàng, gần chàng, có thể thương xót chàng, sưởi ấm chàng, hiến mình cho
chàng. Đó là một sự trừng phạt, một sự đọa đày... “Phải, phải, tôi biết thế...
Nhưng tôi đã khô cằn mất rồi. Tim tôi đã ngừng đập. Hãy sưởi ấm tôi. Tôi cần có
ít thôi. Cô hãy thương lấy tôi, tôi chết mất... Đừng bỏ tôi một mình, cô gái
đáng yêu, rất đáng yêu của tôi...”
Êlizaveta Kievna lặng thinh, sợ hãi và xúc
động. Bexxônôv hôn mãi vào hai lòng bàn tay nàng, những chiếc hôn mỗi lúc kéo
dài. Rồi chàng lại cúi xuống hôn đôi bàn chân to và khỏe của nàng. Nàng nhắm mắt
thật chặt, tim nàng như ngừng đập, nàng thấy hổ thẹn quá chừng.
Rồi bỗng có một ngọn lửa tràn vào khắp người
nàng. Nàng chợt thấy Bexxônôv đáng yêu và khốn khổ quá... Nàng nâng đầu chàng
lên và áp chặt môi vào môi chàng, trong một chiếc hôn nồng cháy. Sau đó, không
còn thấy hổ thẹn gì nữa, nàng vội vã cởi áo quần và lên giường nằm.
Khi Bexxônôv đã ngủ thiếp đi, đầu ngả trên
vai nàng, Êlizaveta Kievna mãi hồi lâu vẫn mở to đôi mắt cận thị nhìn lên gương
mặt xanh bủng của chàng, với những nếp nhăn mệt mỏi trên thái dương, dưới mí mắt,
quanh đôi môi khép chặt - gương mặt xa lạ nhưng từ đây đã thành vĩnh viễn thân
thuộc.
Nhìn người đàn ông đang ngủ, Êlizaveta
Kievna thấy khổ tâm đến nỗi không sao cầm được nước mắt.
Nàng nghĩ rằng Bexxônôv sẽ thức dậy, sẽ
trông thấy nàng nằm trên giường, to béo, xấu xí, với đôi mắt sưng húp, và sẽ cố
ruồng rẫy nàng ra cho thật nhanh. Nàng tâm niệm rằng từ rày không ai còn có thể
yêu nàng nữa, và mọi người đều sẽ đinh ninh rằng nàng là một người đàn bà trụy
lạc, ngu đần và dung tục, và nàng sẽ cố tình làm đủ cách để cho họ nghĩ như vậy;
rằng nàng yêu một người mà lại ăn nằm với một người khác, và cứ như thế đời
nàng lúc nào cũng sẽ ngập ngụa trong bùn lầy, trong rác rưởi, trong nỗi sỉ nhục
vô vọng, Êlizaveta Kievna cố nén tiếng nấc và lấy mép chăn lau nước mắt. Rồi dần
dần, từ lúc nào không hay, nàng ngủ thiếp đi, mắt vẫn dàn dụa.
Bexxônôv thở hít vào một hơi dài, trở mình
nằm ngửa ra, rồi mở bừng mắt. Khắp thân thể chàng ê ẩm trong một trạng thái
bàng hoàng da diết không thể lấy gì so sánh nổi mà những đêm truy hoan thường để
lại. Chàng thấy kinh tởm khi nghĩ rằng bây giờ lại phải sống qua một ngày mới bắt
đầu. Chàng nhìn trân trân vào quả cầu nhỏ bằng kim loại ở chân giường, rồi đành
lòng đương đầu với cõi thực và liếc mắt nhìn sang bên trái. Cạnh chàng là một
người đàn bà, cũng nằm ngửa như chàng, khuôn mặt che khuất dưới khuỷu tay để trần.
“Ai thế nhỉ?”. Chàng ráng sức vận dụng cái
ký ức đã mờ đục đi, nhưng vẫn không nhớ được gì. Chàng thận trọng rút hộp thuốc
lá dưới gối ra và châm lửa hút. “Thế này thì khỉ thật! Quên rồi, quên hẳn rồi.
Chà, rầy rà quá!”
- Cô đã dậy đấy à, - chàng nói, giọng ngọt
ngào, - chào cô. - Êlizaveta Kievna lặng thinh, khuỷu tay vẫn để yên. Chàng nói
tiếp: - Hôm qua chúng ta hãy còn là hai người dưng, thế mà hôm nay những mối
dây huyền bí của đêm vừa qua đã gắn bó chúng ta lại. - Chàng nhăn mặt: câu nói
nghe nhàm quá. Và cái chính là không biết cô ta sắp làm những gì đây, hối hận,
khóc lóc, hay lại sẽ buông mình theo một ngọn trào tình cảm? Chàng thận trọng
chạm khẽ vào khuỷu tay cô ta. Cô né ra. Hình như cô ta tên là Margarita thì phải?
Chàng nói, giọng buồn rầu:
- Margarita, cô giận tôi đấy à?
Êlizaveta Kievna liền ngồi dậy, tựa lưng
vào mấy chiếc gối, và tay giữ chiếc áo ngủ trên ngực cho khỏi tụt xuống, nàng bắt
đầu nhìn Bexxônôv với đôi mắt cận thị hơi lồi. Mi mắt nàng húp lên, đôi môi mọng
rúm ró đi trong một nụ cười cay đắng. Chàng chợt nhớ ra, và cảm thấy lòng tràn
ngập một tình trìu mến ruột thịt đối với người con gái ấy.
- Tên tôi không phải là Margarita, mà là
Êlizaveta Kievna, - cô nói. - Tôi căm thù anh. Anh ra khỏi giường ngay đi.
Bexxônôv lập tức trườn ra khỏi chăn, ra sau
tấm vải che đầu giường, bên cạnh cái chậu hôi hám, mặc vội quần áo vào, rồi kéo
rèm lên và tắt điện.
- Có những phút mà người ta không bao giờ
quên được - chàng nói lúng búng. Êlizaveta Kievna vẫn nhìn chàng với đôi mắt tối
sẫm. Khi chàng ngậm điếu thuốc lá ngồi xuống đi-văng, nàng chậm rãi buông ra mấy
tiếng:
- Về nhà, tôi sẽ uống thuốc độc.
- Tôi không hiểu được tâm trạng của cô đấy,
Êlizaveta Kievna ạ.
- Thì đừng hiểu hiếc gì nữa. Anh ra khỏi
phòng ngay, tôi cần mặc áo.
Bexxônôv đi ra dãy hành lang khét lẹt mùi
hơi than, gió luồn vào thông thống. Phải đợi khá lâu. Chàng ngồi trên bậu cửa sổ
hút thuốc một lát, rồi đi ra tận cuối hành lang. Ở đấy, từ một gian bếp nhỏ hẹp
đưa ra những tiếng nói của mấy người hầu buồng - một người đàn ông và hai người
đàn bà - đang uống trà, và nói chuyện với nhau, đứng ngoài hành lang nghe không
to lắm. Người đàn ông nói:
- Lại lải nhải về cái nông thôn chết tiệt của
cô rồi! Cũng đòi nói chuyện vận mệnh nước Nga như ai. Hiểu biết được nhiều lắm
đấy. Ban đêm cứ thử ghé vào các buồng săm ở đây mà xem: vận mệnh nước Nga là thế
đấy. Toàn những quân đểu cáng. Đểu cáng và vô lại tất.
- Ông ăn nói cho cẩn thận một chút, Kuzma
Ivanyts ạ.
- Tôi làm ở đây đã mười tám năm nay rồi,
tôi có quyền ăn nói như thế đấy.
Bexxônôv quay trở về. Cánh cửa vào buồng
chàng mở toang, căn buồng trống hoác. Cái mũ của chàng nằm lăn lóc giữa sàn.
“Thôi, càng tốt”, - chàng tự nhủ, đoạn ngáp
dài, vươn vai, vặn người cho các khớp xương kêu răng rắc.
Ngày mới đã bắt đầu như vậy. Nó khác ngày
hôm qua ở chỗ một ngọn gió lạnh đã xé tan những đám mây mọng nước mưa, xua hết
về phương Bắc và ùn lại ở đấy thành những đống trắng khổng lồ. Thành phố ướt
sũng tràn đầy ánh nắng trong trẻo tuôn xuống như thác. Dưới ánh nắng ấy, những
con quái vật nhầy nhụa, nhỏ li ti, mà mắt thường không trông thấy được, bị nướng
xọp đi, quằn quại rơi xuống bất tỉnh. Những thứ vi khuẩn sổ mũi, ho hen, sốt ác
tính, những con trực trùng rầu rĩ của bệnh lao và ngay cả những con sâu gần như
thần bí của bệnh suy nhược thần kinh ảm đạm cũng phải lùi vào mai phục sau những
tấm rèm, trong bóng tối mờ mờ của những căn buồng ngột ngạt và những căn hầm ẩm
ướt. Một làn gió nhẹ thổi qua các phố. Trong các nhà người ta lau kính, mở rộng
cửa sổ. Những người phu mặc áo xanh quét mặt đường lát đá. Trên đại lộ Nevxki,
những con bé hư hỏng mặt mày xanh xao mời khách qua đường mua những bó hoa
xuyên tuyết thơm mùi ô-đờ-cô-lôn rẻ tiền. Trong các cửa hàng người ta hối hả dẹp
hết các thứ hàng mùa đông, và tựa như những đóa hoa đầu mùa, trong các tủ kính
bắt đầu xuất hiện những món hàng mùa xuân đượm một niềm vui tươi sáng.
Những tờ báo ra hồi ba giờ đều chạy một
hàng chữ lớn: “Nhiệt liệt đón mừng mùa xuân của nước Nga!”, và đăng những câu
thơ hàm ý khá rõ. Nói tóm lại, người ta thi nhau nhổ toẹt vào sở kiểm duyệt.
Và cuối cùng, trong tiếng hò hét và tiếng
huýt sáo của lũ trẻ con, các nghệ sĩ phái vị lai trong nhóm “Trạm trung tâm”
kéo nhau đi diễu qua các phố. Họ có cả thảy ba người: Jirôv, họa sĩ Valet và một
người mà bây giờ chưa ai biết đến là Arkadi Xêmixvêtôv, một gã cao lêu đêu, mặt
dài như mặt ngựa.
Nhóm vị lai mặc những chiếc áo phồng ngắn bằng
nhung màu da cam không buộc dây lưng, trên có vẽ những đường ngoằn ngoèo, và đội
mũ ống cao. Người nào cũng đeo kính một mắt, và trên má đều có vẽ một con cá, một
mũi tên và kẻ một chữ “R”. Đến khoảng năm giờ chiều cảnh sát trưởng quận
Liteyny cho bắt họ chở lên xe ngựa khách về đồn để kiểm tra căn cước.
Cả thành phố đổ hết ra đường. Trên phố
Morxkaia, dọc bờ sông xây và đại lộ Kamenny Oxtrôv, từng dãy xe song mã, tứ mã
bóng loáng và từng dòng người tuôn đi nườm nượp. Nhiều người, rất nhiều người
có cảm giác là hôm nay sẽ xẩy ra một cái gì phi thường: hoặc ở Cung điện Mùa
đông nghe nói sẽ ký một bản tuyên ngôn nào đấy, hoặc trụ sở hội đồng bộ trưởng
sẽ bị giật mìn nổ toang, hoặc nói chung từ hôm nay sẽ “bắt đầu có chuyện” ở một
nơi nào đấy.
Nhưng bóng hoàng hôn xanh lam đã buông xuống
kinh thành, những dãy đèn thắp lên dọc các phố và các dòng kênh, soi bóng xuống
làn nước đen sẫm thành những sợi kim tuyến lung linh, và từ trên những nhịp cầu
bắc qua sông Nêva, phía sau những dãy ống khói của các xưởng đóng tàu có thể
trông thấy một vầng tà dương khổng lồ chìm trong mây khói. Thế mà vẫn chưa có
gì xẩy ra cả. Ngọn tháp cao vút trên pháo đài Pêtrôpavlov ánh lên một lần cuối
cùng. lại một ngày nữa đã qua.
Ngày hôm ấy Bexxônôv làm việc nhiều và có kết
quả. Được giấc ngủ sau bữa ăn sáng làm cho tươi tỉnh lại, chàng đọc Gơtơ rất
lâu, và công việc ấy đã làm cho chàng phấn chấn và xúc động.
Chàng đi đi lại lại trước mấy cái tủ sách
và nói một mình, chốc chốc lại ngồi vào bàn ghi lại những từ ngữ và những dòng
thơ. Bà u già ở với chàng trong căn nhà độc thân bưng lên một chiếc bình cà-phê
bằng sứ đựng một ít mô-ca mới đun xong, khói bốc nghi ngút.
Bexxônôv đang sống qua những phút quý giá.
Chàng viết rằng đêm đang xuống dần trên đất Nga, tấn bi kịch đang mở màn, và
cái dân tộc mang Thượng đế trong mình, do một phép nhiệm mầu nào đó, giống như
người cô-dắc trong Cuộc phục thù khủng
khiếp của Gôgol, đang biến thành một dân tộc chống lại Thượng đế và mang một
chiếc mặc nạ ghê sợ. Toàn dân đang chuẩn bị cử hành buổi Lễ đen phụng thờ Ác quỷ.
Vực thẳm đã mở rộng. Không còn cách gì cứu vãn nữa.
Nhắm mắt lại, chàng hình dung những cánh đồng
hoang vắng, những cây thập tự cắm trên những nấm mồ, những mái rạ bị gió cuốn tả
tơi, và xa xa, sau mấy ngọn đồi, là ánh lửa cháy nhà bốc lên đỏ rực. Hai bàn
tay ôm chặt lấy đầu, chàng nghĩ rằng mình yêu đất nước này chính là với tình trạng
đó - cái đất nước mà chàng chỉ biết qua những cuốn sách và những bức tranh.
Trán chàng hằn lên những nếp nhăn sâu, tim chàng tràn đầy những mối linh cảm
ghê sợ. Rồi, điếu thuốc lá bốc khói vẫn cặp giữa mấy ngón tay, chàng lấy bút viết
lên giấy kêu ken két, được một lúc bốn trang giấy liền đã kín đặc những dòng chữ
lớn. Đến xẩm tối, Bexxônov ngả mình xuống đi-văng, không buồn bật đèn, lòng vẫn
còn bồi hồi xúc động, đầu nóng bừng, hai bàn tay xâm xấp mồ hôi. Ngày làm việc
của chàng đã kết thúc.
Dần dần tim chàng bắt đầu đập đều hơn và điềm
tĩnh hơn. Bây giờ phải nghĩ xem buổi tối hôm nay và đêm nay sẽ làm gì cho hết
thì giờ. Gay thật!... Chẳng thấy ai gọi điện thoại. Chẳng có ai đến chơi. Đành
phải một mình đương đầu với con quỷ buồn chán. Từ tầng trên, nơi trú ngụ của một
gia đình người Anh, có tiếng dương cầm vẳng xuống, và tiếng nhạc ấy thức tỉnh
trong lòng chàng những khát vọng mơ hồ và phi lý.
Trong bầu không khí im lặng bao phủ lên tòa
nhà bỗng có tiếng chuông ở cửa réo lên. Kế đến là tiếng giày vải lẹp kẹp của u
già đang ra mở cửa. Một giọng phụ nữ hách dịch nói:
- Tôi muốn gặp ông ấy.
Sau đó những tiếng bước nhẹ và nhanh im bặt
ở ngoài cửa. Bexxônôv mỉm cười và vẫn nằm yên không nhúc nhích. Cánh cửa vụt mở
rộng và một người con gái hiện ra trong luồng ánh sáng từ phía sau lưng nàng
chiếu vào phòng. Dáng nàng thanh tú, hơi mảnh khảnh, và trên chiếc mũ rộng vành
của nàng rung rinh mấy đóa hoa mẫu cúc.
Không trông thấy gì vì mới ở chỗ sáng bước
vào, nàng dừng lại ở giữa phòng. Khi Bexxônôv lặng lẽ rời đi-văng nhổm dậy, người
con gái toan lùi lại, nhưng rồi nàng lắc đầu một cách bướng bỉnh và lên tiếng,
vẫn với cái giọng lanh lảnh như lúc nãy:
- Tôi đến gặp ông có việc rất quan trọng.
Bexxônôv đi ra bàn viết và bật đèn. Giữa những
chồng sách và những bản thảo, một chiếc chao đèn màu xanh vụt sáng lên, tỏa ra
khắp phòng một ánh sáng dìu địu.
- Tôi có thể giúp cô việc gì đây? - Alekxêy
Alekxêyyêvits hỏi. Sau khi chỉ cho khách một chiếc ghế tựa, chàng điềm tĩnh ngồi
xuống chiếc ghế. Mặt chàng xanh bủng, mắt thâm quầng. Chàng thong thả ngước mắt
lên nhìn khách rồi bỗng giật mình, mấy ngón tay run run,
- Kìa cô Đarya Đmitrievna,- chàng nói khẽ. -
Thế mà thoạt đầu tôi không nhận ra.
Đasa ngồi xuống ghế cũng một cách quả quyết
như khi vào phòng, để hai bàn tay đi găng da cáo lên đùi, cau mày lại.
- Cô Darya Đmitrievna ạ, tôi rất sung sướng
được cô đến thăm. Đó là một món quà rất lớn, rất lớn.
Không để ý đến lời lẽ của Bexxônôv, Đasa
nói:
- Xin ông đừng nghĩ rằng tôi là một người
hâm mộ ông, Tôi có thích một số thơ của ông, nhưng cũng có những bài tôi không
thích, - tôi không hiểu những bài đó, chẳng qua tôi thấy nó không hay, thế
thôi. Tôi đến đây tuyệt nhiên không phải để nói chuyện thơ ca... Tôi đến là vì
ông đã làm cho tôi đau khổ.
Nàng cúi gục đầu xuống, và Bexxônôv thấy cổ
nàng và hai cánh tay nàng, ở khoảng giữa đôi găng và ống tay áo dài đen, đỏ ửng
lên. Chàng lặng thinh và ngồi im.
- Dĩ nhiên đối với ông tôi chẳng là cái gì
hết. Giá có thể được thì tôi cũng muốn hoàn toàn dửng dưng đối với ông. Nhưng
ông cũng thấy đấy, nhiều khi người ta phải trải qua những phút rất gay go...
Nàng vụt ngẩng đầu lên và đưa đôi mắt
nghiêm nghị, trong sáng nhìn thẳng vào mắt chàng. Bexxônôv từ từ cụp hai hàng
mi xuống.
- Ông đã nhập vào tôi như một chứng bệnh.
Tôi luôn luôn bất chợt thấy mình đang nghĩ đến ông. Rốt cục tôi không thể nào
chịu được nữa. Thà đến nói thẳng với ông còn hơn. Hôm nay tôi đã quyết định như
vậy. Và đấy, ông cũng thấy rõ rồi, tôi đã thổ lộ tình yêu với ông...
Đôi môi nàng run run. Nàng vội vã quay mặt
đi và bắt đầu nhìn lên tường, nơi có treo một bản sao của cái khuôn sáp đắp mặt
Piôtr đệ nhất được chiếu sáng từ phía dưới, mắt nhắm nghiền, đôi môi mím chặt
trông như cười mỉm, tất cả các nhà thơ hồi bấy giờ đều rất thích treo nó. Ở tầng
trên, trong nhà ông mục sư người Anh, bốn giọng đang hòa nhau hát một bài thánh
ca theo thể phú cách khúc: “Ta sẽ từ giã cõi đời”. “Không, ta sẽ cất cánh bay
lên”. “Bay vào bầu trời pha lê”. “Bay vào hoan lạc vĩnh cửu”.
- Nếu ông bắt đầu trần tình rằng ông cũng
có những tình cảm này nọ đối với tôi, tôi sẽ đi ngay tức khắc, - Đasa nói vội
vã, giọng nhiệt thành. - Đối với tôi dù chỉ là một ý trọng nể thôi ông cũng
không thể có được - điều đó đã rõ. Phụ nữ không ai người ta xử sự như thế này.
Nhưng tôi không cần gì và không đòi hỏi gì ở ông hết. Tôi chỉ cần nói rằng tôi
yêu ông một cách dữ dội và đau đớn... Tôi đã hoàn toàn suy sụp vì mối tình
này... Đến lòng tự trọng tôi cũng không còn nữa...
Rồi nàng nghĩ thầm: “Bây giờ phải đứng dậy,
gật đầu chào một cách kiêu hãnh rồi bỏ đi ngay”. Nhưng nàng vẫn ngồi yên, mắt
nhìn lên cái mặt sáp đang cười nụ. Nàng thấy toàn thân rã rời, yếu ớt đến nỗi
không thể nhấc tay lên được nữa, và bây giờ nàng cảm biết được cả thân thể
mình, sức nặng và hơi ấm của nó. “Kìa trả lời đi, trả lời đi chứ” - nàng nghĩ
như trong cơn mê - Bexxônôv đưa bàn tay lên bưng lấy mặt và cất tiếng nói khe
khẽ như khi người ta nói chuyện trong nhà thờ, giọng hơi nghẹn ngào:
- Tôi chỉ biết lấy hết tâm hồn cám ơn mối
tình của cô. Những giây phút như thế này, mùi hương thơm ngát của cô đang phảng
phất quanh tôi là những điều mà người ta không bao giờ quên được...
- Ông không việc gì phải nhớ cả, - Đasa nói
qua kẽ răng.
Bexxônôv im lặng một lát rồi đứng dậy, đi
ra xa một quãng, và đến tựa lưng vào một tủ sách.
- Đarya Đmitrievna ạ, tôi chỉ còn có thể
cung kính nghiêng mình trước mặt cô. Tôi không xứng đáng được nghe những lời cô
vừa nói. Có lẽ tôi chưa bao giờ tự nguyền rủa một cách độc địa như thế này. Tôi
đã phung phí, vung vãi hết cả đời tôi và bản thân tôi rồi. Tôi biết lấy gì đền
đáp lại mối tình của cô? Mời cô đến một khách sạn ở ngoại thành chăng? Đarya
Đmitrievna, tôi phải trung thực với cô. Tôi không còn biết lấy gì ra mà yêu nữa.
Giá phải cách đây mấy năm, thì tôi sẽ tin rằng mình còn có thể uống thỏa thuê ở
nguồn thanh xuân vĩnh cửu. Tôi sẽ không để cho cô bỏ đi.
Đasa cảm thấy rõ những mũi kim mà những lời
lẽ của chàng đang châm lên khắp da thịt mình. Những lời lẽ ấy có một sức dày vò
và thu hút kỳ dị.
- Bây giờ cầm lấy ly rượu quý tôi chỉ có thể
hất đổ tung tóe ra mà thôi. Chắc cô phải hiểu muốn thế tôi phải tốn phí những
gì. Tôi chỉ cần đưa tay ra cầm lấy...
- Không đúng đâu, không đúng, - Đasa thì
thào rất nhanh.
- Đúng chứ. Và cô cũng cảm thấy thế. Không
có một tội lỗi nào có thể làm cho người ta khoái lạc bằng sự phung phí. Đổ rượu
cho tung tóe ra. Cô đến tìm tôi chính vì mục đích ấy. Đổ tung tóe ly rượu của
tuổi trinh bạch... Cô đã đem ly rượu ấy đến cho tôi...
Chàng từ từ nhắm mắt lại. Đasa nín thở,
kinh hoàng nhìn vào mặt chàng.
- Đarya Đmitrievna, cô hãy cho phép tôi được
nói thẳng. Cô giống chị cô đến nỗi phút đầu...
- Sao? - Đasa hét lên. - Ông nói gì thế?
Nàng rời ghế choàng dậy và đứng thẳng lên
trước mặt Bexxônôv. Chàng không hiểu ra, và lý giải nhầm nỗi xúc động của Đasa.
Chàng cảm thấy mình dần dần mất trí. Mũi chàng hít thở mùi thơm của nước hoa và
cái mùi hầu như không thể nhận rõ được tỏa ra từ da thịt đàn bà, một mùi hương
mơ hồ nhưng có sức làm cho người ta choáng váng, và bao giờ cũng mang sắc thái
riêng của từng người.
- Thật là điên rồ... Tôi biết... Tôi không
thể... - Chàng vừa thì thầm nói lắp bắp, vừa lần tìm tay nàng. Nhưng Đasa giật
phắt ra và bỏ chạy. Ra đến ngưỡng cửa, nàng ngoái lại nhìn với đôi mắt hoang
dã, rồi mất hút. Cánh cửa ra vào bị xô mạnh, nghe đánh sầm một tiếng dữ dội.
Bexxônôv chậm rãi đến cạnh bàn, lấy móng tay gõ gõ lên chiếc hộp pha lê, rồi
rút ra một điếu thuốc. Chàng áp chặt lòng bàn tay lên mặt, và với tất cả sức mạnh
khủng khiếp của trí tưởng tượng, chàng hình dung thấy rằng Đạo Thiên thần Trắng,
trong khi chuẩn bị cuộc đấu tranh quyết liệt cuối cùng, đã phái người con gái bồng
bột, dịu dàng và đầy sức quyến rũ này đến để lôi kéo chàng, cảm hóa chàng và cứu
chàng. Nhưng chàng đã nằm trong tay bày quỷ đen một cách vô hy vọng, và bây giờ
không còn có gì cứu nổi chàng nữa. Từ từ, như chất thuốc độc lần theo các huyết
mạch, niềm luyến tiếc và thèm khát không được thỏa mãn dâng lên thiêu đốt lòng
chàng.
8
- Đasa đấy à? Được chứ! Vào đi em!
Êkatêrina Đmitrievna đứng trước tủ gương thắt
lại chiếc Coóc-xê. Nàng lơ đãng mỉm cười với Đasa và tiếp tục xoay trở ngắm
nghía, vẻ bận rộn, đôi chân đi giày sa tanh cài chặt giẫm trên tấm thảm. Nàng mặc
đồ lót trắng bằng hàng nhẹ thắt ruy-băng và viền đăng-ten, đôi cánh tay nuột nà
và đôi vai kiều diễm đều xoa phấn, mái tóc dày chải vuốt lên thành một thứ mũ
miện lộng lẫy. Cạnh nàng, trên một chiếc bàn con thâm thấp, có một chén nước nước;
xung quanh la liệt những chiếc kéo cắt móng tay, những chiếc dũa con con, những
thỏi bút chì kẻ lông mày, những chiếc bông thoa phấn. Hôm nay được một buổi tối
nhàn rỗi, Êkatêrina Đmitrievna đang làm cái việc mà người nhà thường gọi là “rỉa
lông rỉa cánh”.
- Em có biết không, - nàng vừa nói vừa cài
chiếc nịt tất - bây giờ người ta không dùng kiểu coóc-xê có tấm lót phẳng ở
phía trước nữa đâu nhé. Em xem này, cái này kiểu mới đây, của hiệu bà Đuyclê
làm. Bụng đỡ vướng hơn nhiều, mà lại hơi được tôn lên một chút. Em thấy có
thích không?
- Không, em không thích, - Đasa đáp. Nàng đứng
tựa vào tường, hai tay chắp sau lưng. Êkatêrina Đmitrievna ngạc nhiên giương
cao đôi mày:
- Không thích thật à? Chán quá nhỉ. Mặc tiện
lắm.
- Chị bảo cái gì tiện?
- Có lẽ em không ưa kiểu đăng ten này
chăng? Có thể thay kiểu khác. Kể cũng lạ thật. Thế này mà em không thích à? - Và
nàng lại xoay trở bên này bên nọ, ngắm mình trong gương. Đasa nói:
- Chị muốn biết coóc-xê của chị có đẹp hay
không thì việc gì phải hỏi em?
- Ấy, anh Nikôlai Ivanôvits thì chẳng hiểu
chút gì về những thứ này đâu.
- Nikôlai Ivanôvits cũng chẳng có liên quan
gì vào đây.
- Đasa, em làm sao thế? - Êkatêrina Đmitrievna
ngạc nhiên đến nỗi ngẩn cả người ra. Mãi đến bây giờ nàng mới nhận thấy rằng
Đasa hầu như không tự chủ được nữa, nói lắp bắp qua kẽ răng, trên má nổi lên những
đám đo đỏ.
- Katya, thôi chị đừng soi gương ngắm vuốt
thế nữa.
- Nhưng chị cũng phải sửa soạn một tí chứ.
- Để cho ai?
- Em lạ thật đấy!... Cho chị, chứ chẳng cho
ai cả.
- Chị nói dối.
Hai chị em im lặng một hồi lâu. Êkatêrina
Đmitrievna lấy chiếc áo nội tẩm bằng lông lạc đà lót lụa xanh treo trên lưng
chiếc ghế tựa, mặc vào người và thong thả buộc dải thắt lưng lại. Đasa chăm chú
theo dõi từng cử động của chị, rồi nói:
- Chị vào gặp anh Nikôlai Ivanôvits và thực
thà kể hết cho anh ấy biết đi.
Êkatêrina Đmitrievna vẫn đứng yên, tay mân
mê dải thắt lưng. Có thể thấy rõ cổ nàng mấy lần cuộn lên, như thể nàng vừa nuốt
phải cái gì.
- Đasa, em vừa biết được một chuyện gì à? -
nàng hỏi khẽ.
- Em vừa ở nhà Bexxônôv về.
Mắt Êkatêrina Đmitrievna nhìn trân trân như
chẳng trông thấy gì trước mặt, rồi mặt nàng bỗng tái mét đi, vai nàng so lại.
- Chị có thể yên tâm. Vừa rồi ở nhà hắn em
chẳng làm sao cả đâu. Hắn đã cho em biết vừa đúng lúc...
Đasa đứng hết chân này lại đổi sang chân
kia.
- Em đã nghi từ lâu rằng chị... Chính là với
hắn... Nhưng chuyện đó ghê tởm quá nên em không thể tin được... Chị đã sợ, và
đã nói dối. Thế thì đây, bây giờ em không thể sống trong cái không khí dối trá
khốn nạn này nữa... chị sang gặp chồng chị mà nói hết đi.
Đasa không nói được nữa. - chị nàng đang đứng
trước mặt nàng, đầu cúi gằm! Cái gì thì Đasa còn có thể dự tính được chứ chị
nàng mà lại cúi đầu xuống nhận lỗi một cách nhẫn nhục như vậy thì nàng thật
không thể ngờ.
- Sang gặp ngay
bây giờ à? - Katya hỏi.
- Phải. Ngay phút nay... Chính chị cũng phải
hiểu...
Êkatêrina Đmitrievna thở hắt ra một tiếng
ngắn và đi ra cửa. Đến đấy, nàng chần chừ và nói thêm:
- Chị không sao nói được đâu, Đasa ạ. -
Nhưng Đasa chỉ làm thinh. - Thôi được, chị sẽ nói.
Nikôlai Ivanôvits đang ngồi trong phòng
khách. Tay cầm con dao bằng ngà gãi gãi lên bộ râu cằm, ông đọc một bài báo của
Akunđin đăng ở số “Bút ký Nga” mới gửi đến.
Đó là một bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày từ
trần của Bakunin. Nikôlai Ivanôvits đang khoái chí. Thấy vợ vào, ông reo lên:
- Katyusa, ngồi xuống đây. Mình thử nghe đoạn
này nhé: “Thậm chí sức lôi cuốn của con người đó - tức Bakunin ấy - cũng không
phải ở như nếp tư tưởng và lòng tận tụy đến cùng đối với sự nghiệp, mà chính là
ở cái tinh thần cao cả của những tư tưởng mà ông đem ứng dụng vào cuộc sống thực
tế, vốn thấm nhuần từng hành động, từng cử chỉ của ông; những cuộc nói chuyện
thâu đêm với Pruđông, cũng như lòng dũng cảm đã thôi thúc ông lao vào giữa ngọn
lửa đấu tranh, và ngay cả cái nghĩa cử lãng mạn của ông, khi nhân thể ghé qua
ông đã điều chỉnh hướng bắn cho những khẩu pháo của nghĩa quân Áo, tuy chưa biết
rõ họ chiến đấu chống ai và vì lý tưởng gì. Tinh thần cũa Bakunin là tiền thân
của sức mạnh lớn lao mà các giai cấp mới đang dốc vào cuộc đấu tranh. Hiện thực
hóa các tư tưởng - đó chính là nhiệm vụ của thế kỷ mới. Vấn đề không phải là
rút tư tưởng ra từ bên dưới một đống sự kiện lệ thuộc vào cái quán tính mù
quáng của cuộc đời, không phải là đưa nó vào một thế giới lý tưởng, mà là thực
hiện một quá trình ngược lại: chinh phục thế giới vật chất bằng thế giới tư tưởng.
Hiện thực là đống nhiên liệu, tư tưởng là tia lửa. Hai thế giới này, vốn cách
biệt và thù địch với nhau, phải được hòa lại làm một trong ngọn lửa của một cuộc
cách mạng thế giới...”. Đấy mình thử nghĩ coi. Katya ạ... Ý bài này đã rõ rành
rành: cách mạng muôn năm! Akunđin cừ thật! Quả chúng ta sống chẳng có tư tưởng
tình cảm gì lớn lao. Chính phủ chỉ tuân theo một sự chỉ đạo duy nhất: nỗi lo sợ
điên cuồng đối với tương lai. Giới trí thức đang ngốn cho đầy bụng và nốc cho
thật say. Quả chúng ta chỉ biết ba hoa không ngớt miệng, Katyusa ạ, trong khi lội
trong vũng lầy ngập đến mang tai. Nhân dân là một cái thây sống đang rữa dần. Cả
nước Nga đang ngập ngụa trong bệnh giang mai và rượu vôđka: nước Nga đã mục ruỗng ra rồi - thổi một cái là tan thành tro
bụi. Không thể sống thế được... Ta cần có một cuộc tự thiêu nào đấy, một cuộc tẩy
uế bằng lửa.
Nikôlai Ivanôvits nói rất sôi nổi với cái
giọng ấm như nhung của ông, mắt ông tròn xoe ra, con dao ngà rọc rọc lên không
khí. Êkatêrina Đmitrevna đứng một bên, hai tay vịn vào lưng ghế bành. Khi ông
ta đã nói hả hê, và lại hí hoáy rọc tờ tạp chí, nàng đến cạnh và đặt bàn tay
lên mái tóc ông:
- Kôlenka, em nói điều này ra, anh sẽ rất
đau lòng. Trước đây em đã định giấu đi, nhưng rồi rốt cục đến bây giờ em buộc
lòng phải nói...
Nikôlai Ivanôvits nghiêng đầu né xa bàn tay
vợ và chăm chú nhìn nàng.
- Ừ, mình nói đi.
- Chắc anh còn nhớ có một hôm chúng ta cãi
nhau, và trong cơn tức giận em đã có nói rằng anh chớ nên quá yên tâm về tiết hạnh
của em... Rồi sau đó em lại chối đi...
- Có, tôi có nhớ. - Nikôlai Ivanôvits bỏ số
báo xuống và quay hẳn người lại trên ghế bành. Bắt gặp cái nhìn giản dị và điềm
tĩnh của Katya, mắt ông hốt hoảng đảo qua đảo lại rất nhanh.
- Thế thì bây giờ em xin nói rằng... hôm ấy
em đã dối anh... Em đã không trung thành với anh...
Nikôlai Ivanôvits đau đớn nhăn mặt, cố gượng
mỉm cười. Miệng ông khô lại. Mãi đến khi không thể nào im lặng lâu hơn nữa, ông
nói khẽ, giọng trầm trầm:
- Mình nói ra như vậy là tốt. Cảm ơn mình.
Katya cầm lấy tay chồng, khẽ chạm môi vào,
và áp lên ngực. Nhưng bàn tay cứ tuột ra, và nàng không giữ nó lại. Rồi nàng lặng
lẽ buông mình ngồi xuống thảm, tựa đầu vào mép ghế bành bọc da:
- Em có phải nói gì thêm với anh nữa không?
- Không. Mình ra đi Katya ạ.
Nàng đứng dậy đi ra ngoài. Trên ngưỡng cửa
phòng ăn, đột nhiên Đasa lao vào ôm chầm lấy nàng, riết rất chặt và hôn tới tấp
lên tóc, lên cổ, lên tai nàng:
- Chị tha thứ cho em, chị tha thứ cho
em!... Chị kỳ diệu quá, chị thật tuyệt vời! Em đã nghe rõ hết... Chị tha thứ
cho em nhé, tha thứ nhé. Katya?... Katya?...
Êkatêrina Đmitrievna thận trọng gỡ tay em
ra, đến cạnh bàn ăn kéo cho mất nếp nhăn trên khăn trải bàn rồi nói:
- Chị đã làm theo lệnh của em, Đasa ạ.
- Katya, chị có bao giờ tha thứ cho em được
không?
- Em muốn thế là đúng, Đasa ạ. Như thế tốt
hơn.
- Em chẳng đúng điếc gì hết! Em chỉ vì uất
quá... uất quá... Nhưng bây giờ em đã thấy rõ là không ai có quyền lên án chị.
Cứ cho là chúng mình đều khổ sở, cứ cho là chúng mình đều đau xót, nhưng chỉ có
chị là phải, chị phải về mọi phương diện. Chị tha thứ cho em, Katya ạ.
Mấy giọt nước mắt to như hạt đỗ từ từ lăn
trên má Đasa. Nàng đứng sau lưng Katya, cách chị một bước, và nói thì thào rất
to:
- Nếu chị không tha thứ cho em, em không buồn
sống nữa đâu!
Êkatêrina Đmitrievna quay phắt lại:
- Em còn muốn cái gì ở chị nữa nào? Em muốn
rằng mọi sự lại êm đẹp đầm ấm như cũ chứ gì... Thế thì để chị nói cho mà nghe
nhé... Sở dĩ chị nói dối và cứ lặng thinh là vì chỉ có như thế mới có thể kéo
dài thêm ít nữa cuộc sống của chị em mình với Nikôlai Ivanôvits... Nhưng bây giờ
thì hết rồi. Em đã hiểu rõ chưa? Từ lâu chị đã không còn yêu Nikôlai Ivanôvits
nữa, và từ lâu chị đã không trung thành với anh ấy. Còn Nikôlai Ivanôvits có
yêu chị không thì chị không biết, nhưng đối với chị anh ấy không còn là một người
thân thuộc nữa rồi. Em hiểu chưa? Còn em thì như con chim vành khuyên cứ rúc đầu
vào cánh để khỏi trông thấy những điều ghê sợ. Chị thì chị thấy được và biết rõ
những điều đó, nhưng chị cứ sống trong cái tình trạng bỉ ổi này, vì chị chỉ là
một người đàn bà yếu đuối. Chị thấy rõ ràng em cũng đang sa lầy dần trong cảnh
sống này. Chị đã cố che chở cho em, chị đã cấm Bexxônôv đến nhà này... Ngay từ
trước khi hắn... Thôi cũng thế cả... Bây giờ thì hết rồi...
Êkatêrina Đmitrievna vụt ngẩng đầu lên,
nghe ngóng. Đasa lo sợ lạnh toát cả sống lưng. Nghiêng người lách qua tấm màn,
Nikôlai Ivanôvits hiện ra trên ngưỡng cửa, hai tay giấu sau lưng.
- Bexxônôv phải không? - ông hỏi, miệng mỉm
cười, đầu lắc lư. Đoạn ông bước vào phòng ăn.
Êkatêrina Đmitrievna không đáp. Trên má
nàng nổi lên những cái vệt thâm thâm. Đôi mắt nàng ráo hoảnh đi, - Nàng mím chặt
môi lại.
- Hình như mình nghĩ rằng cuộc nói chuyện
giữa chúng ta đã kết thúc phải không? Mình nhầm rồi đấy.
Ông vẫn cười nụ:
- Đasa, cô làm ơn cho chúng tôi nói chuyện
riêng một chút.
- Không, em không đi đâu hết - Đoạn Đasa đến
đứng cạnh chị.
- Nếu thế thì tôi phải đi khỏi nhà này.
- Thì anh đi đi, - Đasa đáp, mắt căm giận
nhìn Nikôlai Ivanôvits.
Nikôlai Ivanôvits đỏ bừng mặt lên, nhưng lập
tức trong đôi mắt ông lại thoáng hiện cái thần sắc ban nãy - một nỗi mừng rỡ
điên rồ.
- Thôi càng tốt, cô cứ đứng đấy. Số là thế
này, Katya ạ... Vừa rồi tôi ngồi nguyên ở chỗ cũ sau khi mình ra, và nói cho
đúng, trong mấy phút đồng hồ tôi đã thể nghiệm một tâm trạng mà nói chung người
ta khó lòng chịu đựng nổi... Tôi đã đi đến kết luận rằng tôi cần phải giết
mình... Phải, đúng thế.
Nghe nói mấy câu đó, Đasa nhích sát vào người
Katya, hai cánh tay ôm chặt lấy người chị. Môi Êkatêrina Đmitrievna rung lên,
khinh bỉ.
- Anh lên cơn thần kinh rồi đấy... Anh phải
uống thuốc an thần đi, Nikôlai Ivanôvits ạ.
- Không phải đâu Katya ạ, lần này thì không
phải là lên cơn thần kinh.
- Thế thì đã định vào đây để làm gì, anh cứ
làm ngay đi, - nàng thét to, ẩy Đasa ra và xấn vào sát mặt Nikôlai Ivanôvits. -
Nào, làm đi. Tôi xin nói thẳng vào mặt anh: tôi không yêu anh...
Nikôlai Ivanôvits lùi lại, đặt tay lên khăn
trải bàn khẩu súng lục xinh xinh kiểu phụ nữ, đưa mấy đầu ngón tay lên miệng cắn
chặt lấy rồi quay ngoắt đi ra cửa. Katya nhìn theo ông. Không ngoảnh lại,
Nikôlai Ivanôvits nói:
- Đau xót quá... Đau xót quá...
Bấy giờ Katya liền lao tới nắm lấy hai vai
ông, quay người ông trở lại đối mặt với mình.
- Nói dối... Anh chỉ nói dối... Ngay bây giờ
anh cũng đang nói dối...
Nhưng Nikôlai Ivanôvits chỉ lắc đầu và bỏ
đi. Êkatêrina ngồi xuống cạnh bàn.
- Thế đấy Đasenka ạ - một cảnh màn ba, có bắn
súng lục. Chị sẽ đi khỏi nhà này.
- Kìa Katyusa, lạy Chúa.
- Chị sẽ bỏ đi, chị không muốn như thế này
chút nào. Năm năm nữa chị sẽ già, đến lúc ấy thì đã muộn quá rồi. Chị không thể
sống như thế này được nữa... bỉ ổi quá! Bỉ ổi quá chừng!
Nàng đưa hai tay lên bưng mặt rồi gục xuống,
hai khuỷu tay chống lên mặt bàn. Đasa ngồi xuống cạnh chị, nhẹ nhàng hôn liên
tiếp lên vai chị. Êkatêrina Đmitrievna ngẩng đầu lên:
- Em tưởng chị không thấy thương anh ấy
sao? Xưa nay bao giờ chị cũng vẫn thương anh ấy. Nhưng em thử nghĩ mà xem: bây
giờ mà chị đến gặp anh ấy thì giữa hai người sẽ diễn ra một cuộc nói chuyện hết
sức dài dòng và giả dối từ đầu chí cuối... Cứ như thể lúc nào giữa chị và anh ấy
cũng có một con quỷ đang uốn éo, vờ vịt. Đánh một chiếc dương cầm sai dây nó
như thế nào, thì nói chuyện với Nikôlai Ivanôvits cũng y như thế... Không, chị
sẽ bỏ đi thôi... Ôi, Đasenka, giá em biết chị buồn chán đến nhường nào.
Tuy vậy cuối buổi tối hôm ấy Êkatêrina
Đmitrievna vẫn vào phòng làm việc của Nikôlai Ivanôvits.
Cuộc nói chuyện giữa hai vợ chồng kéo dài rất
lâu. Cả hai người đều nói khẽ và chua xót. Họ cố gắng trung thực, không nương
nhẹ nhau, thế nhưng rồi cả hai đều cảm thấy buổi nói chuyện không giúp họ đạt tới
một điều gì, hiểu thêm được một chút nào, hàn gắn được cái gì hết.
Khi Katya đã ra khỏi phòng làm việc,
Nikôlai Ivanôvits cứ ngồi nguyên ở bàn mãi cho đến sáng, chốc chốc lại thở dài.
Như về sau Katya được biết, trong suốt mấy tiếng đồng hồ ông ấy đã ngẫm nghĩ và
điểm lại cả một đời mình. Kết quả của những giờ suy tưởng ấy là một bức thư rất
dài gửi Katya, đoạn kết như sau:
“Phải, Katya ạ, chúng ta đều lâm vào tình
trạng bế tắc về tinh thần. Năm năm gần đây tôi không có lấy được một cảm xúc
nào mạnh mẽ, không có lấy được một ngọn trào phấn chấn. Ngay cả tình yêu của
tôi đối với mình và cuộc hôn nhân của chúng ta cũng có một cái gì hối hả cập rập.
Chúng ta sống ti tiện, nửa say nửa tỉnh, như thể thường xuyên bị thuốc mê. Chỉ
có hai lối thoát: hoặc tự tử, hoặc xé toạc cái màng bịt lên tư duy, tình cảm, bịt
lên ý thức của tôi. Nhưng cả hai lối thoát ấy đều vượt quá sức tôi...”
Cái tai biến trong gia đình đã xảy ra quá đột
ngột, và cái thế giới thân thuộc của hai vợ chồng đã sụp đổ một cách dễ dàng và
trọn vẹn đến nỗi Đasa choáng người đi, không sao còn nhớ đến bản thân được nữa;
những tâm trạng thiếu nữ của nàng phỏng có nghĩa lý gì! Toàn chuyện vớ vẩn, chẳng
hơn gì cái bóng con dê in lên tường mà ngày xửa ngày xưa u già đã chỉ cho hai
chị em nàng xem để dọa hai chị em nàng.
Ngày hôm ấy Đasa mấy lần đến đứng trước
phòng chị, lấy móng tay cào lên cánh cửa. Katya đáp:
- Đasenka, em cố để yên cho chị ngồi một
mình, em nhé.
Mấy ngày ấy Nikôlai Ivanôvits phải ra tòa
bào chữa cho một vụ án. Ông ra đi rất sớm, ăn sáng và ăn trưa ở hiệu, mãi đến tối
mịt mới về. Ông đang bào chữa cho một người đàn bà tên là Zôia Ivanôpna
Lađnikôva, vợ một viên chức sở thuế gián thu: một đêm chị ta đã đâm chết tình
nhân là anh sinh viên Slippê, con ông chủ nhà cho thuê ở Pêterburg trong khi
đang nằm trên giường, trong một ngôi nhà ở phố Gorôkhôva. Bài diễn văn bào chữa
của Nikôlai Ivanôvits đã làm cho các quan tòa và tất cả những người đến dự
phiên xử xúc động mãnh liệt. Các cô các bà khóc rưng rức. Bị cáo nhân Zôia
Ivanôpna đập đầu vào lưng ghế. Chị ta được tha bổng.
Nikôlai Ivanôvits, mặt xanh nhợt, hai mắt
trũng sâu, vừa bước ra khỏi tòa án đã có một đám đông phụ nữ vây lấy, tung hoa
lên người ông, hôn tay ông và reo hò ầm ỹ. Ông về nhà, nói chuyện với Katya
trong một tâm trạng đã hoàn toàn lắng dịu xuống.
Êkatêrina Đmitrievna đã sửa soạn xong hành
lý. Ông thành thật khuyên nàng đi sang miền Nam nước Pháp, và đưa cho nàng mười
hai ngàn rúp để chi tiêu. Còn về bản thân ông thì, cũng ngay trong khi nói chuyện
với vợ, ông quyết định bàn giao công việc cho người trợ lý để đi Krưm nghỉ ngơi
và suy nghĩ.
Thật ra, quan hệ giữa hai vợ chồng vẫn chưa
được xác định rõ ràng và dứt khoát - họ chỉ xa nhau một thời gian, hay là chia
tay vĩnh viễn? Người nào chủ động dứt tình? Những vấn đề gay cấn đã được người
ta ra sức lấy những công việc bận rộn lúc sắp lên đường để át đi.
Họ quên bẵng Đasa. Mãi đến phút cuối cùng
Êkatêrina Đmitrievna mới sực nhớ ra. Lúc bây giờ, mình mặc bộ trang phục đi đường
màu xám, đầu đội một chiếc mũ chụp con trang nhã buông mạng che mặt, dáng hơi gầy
đi, phong thái u sầu và đầy sức quyến rũ, nàng chợt trông thấy Đasa ngồi trên
chiếc rương đặt ở phòng mắc áo. Đôi chân đung đưa trên thành rương, Đasa đang
ăn miếng bánh mì phết mứt, vì hôm nay người nhà quên đặt bữa ăn trưa.
- Đanyusa, bé của chị, - Êkatêrina
Đmitrievna vừa nói vừa hôn em qua tấm mạng che mặt, - bây giờ em sẽ thế nào
đây? Thôi cùng đi với chị nhé?
Nhưng Đasa nói rằng mình sẽ ở lại nhà một
mình với Đại hãn, sẽ dự kỳ sát hạch và đến cuối tháng năm sẽ về Xamara ở với bố
cho đến hết mùa hè.
9
Đasa ở lại một mình trong ngôi nhà. Bây giờ
nàng thấy những căn phòng rộng thênh thang sao lạnh lẽo quá, và những đồ đạc
trong nhà đều có vẻ thừa thãi vô dụng. Ngay cả những bức tranh lập thể trong
phòng khách từ khi hai chủ nhân vắng nhà cũng dường như phai nhạt hẳn đi và
không dễ sợ như trước nữa. Những bức màn cửa rũ xuống thõng thượt với những nếp
cuốn im lìm như chết. Và tuy Đại hãn sáng sáng vẫn lặng lẽ đi lang thang qua
các phòng như một bóng ma, tay cầm chổi lông gà phẩy bụi, nhưng hình như vẫn có
một lớp bụi khác, vô hình, mỗi ngày một phủ dày lên khắp căn nhà.
Trong căn buồng của chị, nàng có thể đọc rõ
như trên một trang sách tất cả những cái gì làm thành chỗ dựa cho cuộc sống của
Êkatêrina Đmitrievna. Trong góc này là cái giá vẽ xinh xinh với bức tranh nhỏ mới
bắt đầu - một người con gái đội vòng hoa trắng có đôi mắt mênh mông choán hết nửa
mặt. Êkatêrina Đmitrievna, đã bấu víu vào chiếc giá nhỏ này để tìm cách ngoi
lên khỏi cảnh sống bận rộn điên cuồng, nhưng dĩ nhiên đã không đủ nhẫn nại. Và
đây là cái bàn thêu cũ kỹ, ngổn ngang những mẫu ren thùa bỏ dở, những mảnh vải
vụn đủ màu, tất cả đều chưa làm xong đã bỏ đấy - cũng chỉ là một ý đồ. Trong tủ
sách cũng không kém bừa bộn: có thể thấy rõ ràng người ta đã bắt tay vào xếp dọn
nhưng rồi lại bỏ bê ra đấy. Khắp các ngăn đều có những sách rọc chưa hết bị vứt
lổng chổng hay đút bừa vào. Những cuốn dạy cách luyện Yôga, những cuốn sách phổ
cập về nhân văn học, những tập thơ, những cuốn tiểu thuyết. Đã có biết bao
nhiêu là những mưu toan và những cố gắng vô hiệu hòng bắt đầu một cuốc sống tốt
lành! Trên bàn trang điểm Đasa tìm thấy một cuốn sổ tay bìa giát bạc, bên trong
có ghi: “sơ mi hai mươi bốn chiếc, xu-chiêng tám chiếc, xu-chiêng viền đăng-ten
sáu chiếc... Mua vé Cậu Vanya cho nhà
Kerenxki...”, rồi ở một quãng sau, viết rất to bằng kiểu chữ trẻ con... “Mua
bánh nhồi táo cho Đasa”.
Đasa sực nhớ lại câu chuyện nhỏ này: chiếc
bánh nhồi táo rốt cục không hề được mua về. Nàng thấy thương chị đến ứa nước mắt.
Dịu dàng, nhân hậu, quá tế nhị để có thể sống vững vàng trong cuộc đời này,
nàng bấu víu vào những vật nhỏ mọn, cố lấy thêm sức lực, cố phòng ngừa cho mình
khỏi bị xé vụn đi, khỏi suy sụp, nhưng chẳng biết lấy gì và chẳng tìm được ai
giúp đỡ cho mình.
Đasa thường dậy sớm ngồi đọc sách miệt mài,
và cuối cùng đã qua kỳ sát hạch với điểm “ưu” ở hầu hết các môn. Trong phòng
làm việc của Nikôlai Ivanôvits chuông điện thoại réo lên không ngớt. Cứ mỗi lần
như thế, Đasa lại sai Đại hãn ra trả lời nhất loạt: “Ông bà chủ đi vắng xa, tiểu
thư đang bận không ra nói chuyện được”.
Tối tối Đasa ngồi suốt buổi trước dương cầm.
Âm nhạc không khích động nàng như trước, nàng không thấy ước muốn một điều gì
mơ hồ, tâm hồn mơ mộng của nàng không bồi hồi như trước nữa. Bây giờ, ngồi
nghiêm chỉnh và điềm đạm trước cuốn vở nhạc có hai ngọn nến chiếu sáng từ hai
bên, Đasa như thể đang tắm gội tâm hồn trong những âm thanh trang trọng đang
tràn ngập khắp ngôi nhà vắng vẻ cho đến những ngóc ngách sâu kín nhất.
Thỉnh thoảng giữa tiếng nhạc lại hiện lên
những kẻ thù nho nhỏ - những kỷ niệm lạc lõng. Đasa buông xuôi hai tay và cau
mày. Những lúc ấy trong nhà trở nên im lặng đến nỗi có thể nghe rõ tiếng nến
cháy nổ tí tách. Rồi Đasa thở phào một tiếng rõ to, và đôi tay nàng lại nhấn mạnh
lên phím đàn lạnh lẽo, và những kẻ thù nho nhỏ kia, tựa hồ như đám bụi hay những
chiếc lá vàng bị gió cuốn đi, tất tả rời khỏi căn phòng lớn bay tán loạn ra mãi
tận đâu ngoài hành lang tối om, trốn sau những chiếc tủ và những chiếc hộp bằng
bìa... Đã vĩnh viễn mất đi rồi cái con Đasa đến bấm chuông ở cửa phòng Bexxônôv
và nói với chị Katya hiền lành những lời độc ác. Con bé dại dột ấy chỉ thiếu
chút nữa đã gây nên tai họa. Thật lạ lùng! Làm như thể trên đời này chỉ có những
tâm trạng yêu đương là đáng kể, nhưng cứ như vừa rồi, thì tình yêu nào có bao
giờ?
Đến khoảng mười một giờ Đasa đậy nắp dương
cầm lại, thổi tắt nến và đi ngủ, - tất cả những việc đó nàng làm một cách chững
chạc, không chút ngập ngừng. Trong thời gian ấy nàng đã quyết định bắt đầu càng
sớm càng hay một cuộc sống tự lập, tự mình kiếm lấy cách sinh sống và đưa Katya
về ở với mình.
Vào cuối tháng năm, vừa thi xong Đasa liền
lên đường về nhà cha nàng. Đường nàng đi qua Rybinxk, trên sông Volga. Tối hôm ấy,
ở ga xe lửa ra, nàng bước xuống chiếc tàu thủy trắng muốt đèn bật sáng trưng giữa
bóng đêm và dòng nước tối sẫm, sắp xếp hành lý trong căn buồng tàu sạch sẽ, tết
tóc thành bím, lòng tự nhủ lòng rằng cuộc sống tự lập đang bắt đầu một cách
không đến nỗi kém, rồi đầu gối lên khuỷu tay, miệng mỉm cười sung sướng, nàng
ngủ thiếp đi trong tiếng máy chạy đều đều.
Nàng bừng tỉnh vì tiếng chân bước nặng nề
và tiếng người chạy rầm rập trên boong tàu. Ánh nắng xuyên qua khe cửa chớp
tuôn vào buồng chiếu thành từng vệt loang loáng rỡn nô trên chiếc chậu rửa tay
bằng gỗ đỏ. Một làn gió nhẹ thổi tung bức rèm tơ, phả vào phòng mùi hương của
những loài hoa lắm mật. Nàng hé mở cửa chớp. Chiếc tàu thủy ghé vào một dải bờ
vắng vẻ. Dưới một mỏm đất mới sụt lở, ngổn ngang những rễ cây và những tảng đá,
có mấy chiếc xe ngựa đỗ, trên chở những thùng hàng bằng gỗ thông. Bên dòng nước,
một chú ngựa non lông nâu sẫm chạng đôi chân trước gầy gò có hai đầu gối rất
to, cúi cổ xuống uống nước. Trên mỏm đất, cột tín hiệu nhô cao lên thành một chữ
thập màu đỏ.
Đasa rời chiếc giường con nhảy xuống, căng
chiếc chậu cao su ra giữa sàn, nhúng bọt bể cho nó hút nước vào thật nhiều rồi
bóp cho nước chảy lên người. Làn nước mát tỏa lên da thịt nàng một cảm giác rờn
rợn. Nàng cười rúc rích, ngồi ép chặt hai đùi vào bụng. Lau mình xong, nàng đi
đôi bít tất trắng, mặc chiếc áo trắng và đội chiếc mũ trắng đã được chuẩn bị từ
hôm qua: các thứ đó đều rất vừa vặn và ăn ý với dáng vẻ của nàng. Xong đâu đấy,
với cái cảm giác phơi phới của một con người mới tự lập, nàng bước ra boong
tàu, điềm đạm nhưng vui sướng đến phát khiếp lên được.
Khắp thân tàu trắng muốt lấp loáng những vệt
nắng lung linh từ mặt nước phản chiếu lên. Nhìn xuống nước mà nhức cả mắt: dòng
sông sáng lòa lên và lấp lánh những tia sáng luôn luôn đổi màu. Xa xa trên một
dải bờ nhấp nhô đồi núi, một ngọn tháp chuông cũ kỹ hiện ra trăng trắng sau rặng
bạch dương mọc cao ngang lưng nó.
Khi tàu rời bến, vẽ thành một đường vòng
cung rồi chạy xuôi dòng, hai bờ sông từ từ nhích lại gần. Từ phía sau những gò
đất, đây đó nhô lên những mái nhà lợp rạ đã xỉn màu, trông như thể đang bò lổm
ngổm. Trên trời lơ lửng những đám mây dày, mặt dưới màu lam biêng biếc, hắt xuống
dòng sông sâu màu vàng pha thiên thanh những cái bóng trăng trắng.
Đasa ngồi trên một chiếc ghế mây, chân bắt
chéo lên, hai tay úp trên đầu gối, nàng cảm thấy những khúc sông lấp loáng uốn
cong, những đám mây in bóng trên dòng nước, những ngọn đồi bạch dương, những
bãi cỏ và những luồng không khí lúc thì phảng phất mùi cỏ đầm lầy, khi thì hăng
hắc mùi đất cày khô ráo, khi thì lại sực nức mùi hoa tam điệp lắm nhụy ngọt và
mùi ngải đắng, đều như chảy thấm qua người nàng, và tim nàng như nở rộng ra
trong một niềm hân hoan thanh thản.
Một người đàn ông thong thả lại gần, đứng
nghiêng người tựa sườn vào lan can và hình như đang liếc nhìn nàng. Đasa đã mấy
lần quên bẵng người ấy đi, nhưng người ấy vẫn đứng nguyên tại chỗ. Bấy giờ Đasa
bèn quyết định là không quay lại nữa, nhưng tính nàng quá bồng bột, nàng không
thể nào bình thản chịu đựng một cái nhìn chăm chú như vậy. Nàng đỏ mặt và giận
dữ quay phắt lại. Trước mặt nàng là Têlêghin, tay tựa vào cái cột nhỏ, đang ngần
ngại không dám đến gần, cũng không dám lên tiếng mà cũng không dám bỏ đi. Đasa
đột nhiên cười lên khánh khách - Têlêghin gợi cho nàng nhớ lại một cái gì mơ hồ,
vui tươi và tốt lành. Vả lại cả con người chàng với đôi vai rộng trong chiếc áo
vét trắng, với dáng dấp khỏe mạnh và rụt rè, dường như là một kết cục tất yếu của
tất cả cái cảnh sông nước yên tĩnh này. Nàng đưa tay ra cho Têlêghin bắt.
Têlêghin nói:
- Tôi có trông thấy cô xuống tàu. Nói cho
đúng hơn cô và tôi đã cùng ngồi một toa xe lửa từ Pêterburg. Nhưng tôi không
dám đến gần cô: cô có vẻ tư lự quá... Còn bây giờ, tôi có làm phiền cô không?
- Mời anh ngồi xuống đây, - nàng dịch lại
cho chàng một chiếc ghế mây - tôi đang đi về nhà ba tôi đây, còn anh?
- Tôi thì... thật ra tôi cũng chưa biết:
riêng như bây giờ thì tôi đang về Kinesma, quê hương tôi.
Têlêghin ngồi xuống cạnh nàng và bỏ mũ ra.
Lông mày chàng nhíu lại, trên trán hằn lên mấy nếp nhăn. Chàng nheo nheo đôi mắt
nhìn xuống luồng nước cuộn từ dưới thân tàu lên thành một đường uốn vồng và sủi
bọt trắng xóa. Bên trên luồng nước, sau lái, mấy con hải âu cánh nhọn hoắt bay
lượn, đâm bổ xuống mặt nước rồi bay vút lên với những tiếng kêu khàn khàn ai
oán, rồi tụt xa về phía sau, chúng lượn vòng và đánh nhau quanh một mẩu vỏ bánh
mì nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
- Hôm nay trời dễ chịu quá, cô Đarya
Đmitrievna nhỉ.
- Đẹp thật, anh Ivan IIyits ạ, đẹp quá chừng!
Tôi cứ ngồi nghĩ: như thể vừa từ cõi địa ngục thoát ra ngoài trời. Anh còn nhớ
câu chuyện chúng ta nói với nhau trên phố chứ?
- Tôi nhớ từng lời từng chữ ấy, cô Đarya
Đmitrievna ạ.
- Sau đó đã xảy ra những chuyện ghê gớm
quá, lạy Chúa! Rồi có dịp tôi sẽ kể cho anh nghe - Nàng trầm ngâm lắc đầu. -
Anh là người duy nhất ở Pêterburg mà lại không phát điên, tôi nghĩ như thế. -
Nàng mỉm cười và đặt tay lên ống tay áo của chàng. Mi mắt Ivan IIyits chớp chớp,
vẻ như sợ hãi, đôi môi chàng mím chặt lại. - Tôi rất tin cậy anh, Ivan IIyits ạ.
Anh mạnh lắm phải không?
- Ồ, mạnh gì tôi ấy!
- Mà lại rất đáng tin cậy - Đasa cảm thấy tất
cả những ý nghĩ của mình đều tốt lành, trong sáng và đầy trìu mến, và những ý
nghĩ của Ivan IIyits cũng tốt lành, đúng đắn và mạnh mẽ như thế. Và có cả một
niềm vui đặc biệt khi được nói ra, bày tỏ thẳng thắn những đợt sóng tình cảm
trong sáng, đi thẳng vào lòng người ấy. - Ivan IIyits, tôi chắc anh mà đã yêu
thì phải yêu một cách dũng cảm, quả quyết. Và anh đã muốn gì thì không đời nào
lùi bước.
Têlêghin không đáp. Chàng thong thả thọc
tay vào túi lấy ra một mẩu bánh mì và bắt đầu bẻ vụn ném cho chim. Cả một đàn hải
âu trắng lao vào đớp vụn bánh mì với những tiếng kêu thảng thốt. Đasa và Ivan
IIyits rời ghế ra đứng tựa lan can.
- Anh ném cho con kia với kìa. - Đasa nói,
- anh xem, nó đói quá rồi đấy.
Têlêghin ném thật xa vào khoảng không mẩu
bánh mì còn lại. Một con hải âu béo tốt, to đầu, lướt trên đôi cánh im lìm dang
rộng ra như hai lưỡi dao, nhằm mẩu bánh mì lao xuống, nhưng hụt mất, và lập tức
đến một chục con lao theo đường rơi của mẩu bánh xuống sát luồng nước sùi bọt ấm
từ dưới thân tàu cuộn lên. Đasa nói:
- Anh có biết tôi muốn trở thành người phụ
nữ như thế nào không? Sang năm tôi sẽ tốt nghiệp, sẽ bắt đầu làm được nhiều tiền,
và sẽ đưa chị Katya về ở với tôi. Rồi anh xem anh Ivan IIyits ạ.
Trong khi nghe mấy câu này, Têlêghin nhăn
nhó nhịn cười, nhưng rồi cuối cùng chàng cũng cười phá lên để lộ hàng răng to vững
chắc, trắng bóng. Chàng cười vui vẻ đến nỗi hai hàng mi ướt đẫm ra. Đasa đỏ mặt,
nhưng rồi cằm nàng rung lên và nàng cũng bất giác cười phá lên như Têlêghin,
tuy chẳng hiểu mình cười cái gì.
- Đarya Đmitrievna ạ, - cuối cùng chàng
nói, - cô hay quá. Trước đây tôi sợ cô đến chết đi được... Nhưng cô quả thật
hay vô cùng!
- Thôi bây giờ thế này nhé: ta đi ăn sáng
đi, - Đasa nói, vẻ hờn dỗi.
- Thế còn gì bằng! - Ivan IIyits sai đưa
bàn ra boong, rồi vừa nhìn vào thực đơn vừa xoa xoa cái cằm cạo nhẵn, dáng tư lự.
- Đarya Đmitrievna ạ, ta uống một chai rượu
nhẹ nhé, có được không?
- Uống một ít tôi cũng thích.
- Vang trắng hay vang đỏ?
Đasa cũng lấy giọng chững chạc nói:
- Thứ nào cũng được.
- Thế thì ta sẽ uống một thứ rượu gì sủi bọt
mạnh.
Dải bờ mấp mô đồi núi trôi dần về phía sau,
màu xanh mượt mà của lúa kiều mạch và màu xanh lam nhạt của thửa tiểu mạch và
màu hung phơn phớt hồng của lõa mạch đang trổ hoa. Qua một khúc sông lượn vòng,
trên dải bờ đất sét dốc đứng, giữa những bãi phân súc vật, lác đác mấy ngôi nhà
gỗ thấp lè tè mái lợp rạ, vách khoét cửa sổ hẹp. Xa hơn một chút có thể trông
thấy những cây thập tự trên khu nghĩa địa của thôn này và một cái chòi xay gió,
có sắm cánh quạt, trông xinh xẻo như đồ chơi, bên sườn bị sụt một mảng. Một lũ
trẻ men theo dải đất lở dốc đứng vừa chạy theo tàu vừa ném đá - những viên đá
chưa bay ra đến sông đã rơi bịch xuống. Con tàu lại qua một khúc sông cong nữa
và trên dải bờ vắng vẻ hiện ra những bụi cây thấp lè tè, bên trên bay lượn mấy
con diều hâu.
Một làn gió nhẹ và ấm lồng xuống dưới tấm
khăn trải bàn trắng, luồn vào trong áo dài của Đasa. Chất rượu vàng óng đựng
trong hai chiếc cốc lớn bằng pha lê dũa thành những khía lồi lõm đều đặn trông
quý giá như một chất rượu thần. Đasa nói rằng mình ganh tị với Têlêghin, -
chàng có sự nghiệp riêng, chàng vững vàng trong cuộc sống, còn như nàng thì còn
phải dùi mài sách vở một năm rưỡi nữa, lại thêm cái nỗi bất hạnh ghê gớm này:
nàng là phụ nữ. Têlêghin cười lớn đáp:
- Nhưng tôi bị đuổi khỏi nhà máy rồi còn
gì!
- Anh nói gì thế?
- Nội trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải
mất tăm! Nếu không, tôi đi trên chuyến tàu này làm gì; chả nhẽ cô chưa nghe nói
ở chỗ chúng tôi đã xẩy ra những chuyện gì à?
- Chưa, chưa...
- Như tôi đây còn may mắn. Phải... - Chàng
im lặng một lát, hai khuỷu tay chống lên khăn bàn. - Cô thấy đấy, ở ta mọi việc
đều làm một cách ngu xuẩn và bất tài quá, chả thấy đâu như vậy. Và có ma nó biết
thiên hạ đồn đại về người Nga chúng ta những gì. Thật uất ức và xấu hổ. Cô thử
nghĩ mà xem. Một dân tộc có tài năng, đất nước thì giàu có vô cùng, thế nhưng
thiên hạ trông thấy cái gì? Chỉ thấy bộ mặt trâng tráo của một tên thư lại.
Thay cho sự sống chỉ có giấy và mực. Cô không thể tưởng tượng người ta tiêu phí
hàng ngày bao nhiêu giấy mực. Thời Piôtr đệ nhất đã bắt đầu cạo giấy như thế
nào thì bây giờ cũng vẫn cứ thế mà cạo giấy: không dừng lại được nữa. Thế mà giấy
mực kiểu này thì rõ ràng là một cái gì đẫm máu.
Ivan IIyits đặt cốc rượu sang một bên và
châm thuốc hút. Hình như chàng không muốn kể tiếp câu chuyện nữa: việc ấy đối với
chàng khó chịu quá.
- Thôi, nhớ đến những của khỉ ấy làm gì.
Cũng nên nghĩ rằng một lúc nào đấy ở ta rồi cũng phải khá lên, không đến nỗi
thua kém người ta.
Suốt ngày hôm ấy Đasa và Ivan IIyits ở trên
boong tàu. Nếu có một người ngoài nào quan sát họ, người ấy sẽ tưởng họ nói
toàn những chuyện vô nghĩa, nhưng sở dĩ như vậy là vì họ nói với nhau bằng một
thứ “mật mã”. Các từ ngữ, dù thông thường đến đâu, khi được họ nói ra cũng do một
ma thuật huyền bí nào đấy mà đâm ra bao hàm hai ý nghĩa. Cho nên, khi Đasa đưa
mắt chỉ một cô tiểu thư mũm mĩm có chiếc khăn quàng bay phấp phới ở sau lưng và
viên phó thuyền trưởng đăm chiêu bước cạnh cô ta, rồi nói: “Ivan IIyits, anh
xem kìa, công việc của họ hình như ổn lắm rồi” thì phải hiểu thành: “Giả sử giữa
anh với tôi có gì, thì sẽ khác hẳn thế”. Nói cho đúng ra, cả hai người đều
không thể nhớ được mình đã nói những gì, nhưng Ivan IIyits cứ có cảm tưởng là
Đasa thông minh, tế nhị và tinh ý hơn mình nhiều, còn Đasa thì thấy chàng hiền
hậu hơn, tốt hơn, thông minh hơn nàng gấp bội.
Đasa đã mấy lần muốn lấy hết can đảm ra để
kể cho chàng nghe chuyện Bexxônôv, nhưng rồi nghĩ thế nào lại thôi. Ánh nắng
chiếu xuống đùi nàng nóng ran; gió mơn man trên má, trên vai, trên cổ nàng như
những ngón tay tròn trĩnh và âu yếm. Đasa nghĩ thầm:
“Thôi để mai hẵng kể. Đến lúc nào trời mưa
lâm thâm, mình sẽ kể”.
Đasa vốn thích quan sát, và biết quan sát
tinh tế như mọi người phụ nữ, cho nên đến xế chiều nàng đã biết được gần hết những
gì cần biết về tất cả các hành khách trên chuyến tàu. Đối với Ivan IIyits, điều
đó gần như là một phép thần thông vậy.
Nói về một ông chủ nhiệm khoa của trường Đại
học Pêterburg đang đi trên tàu, một con người lầm lì đeo kính đen và khoác áo
bành tô có mũ chụp, không hiểu sao Đasa quyết nghị rằng đó là một tay cờ bạc bịp
cỡ lớn chuyên hoạt động trên tàu. Và tuy Ivan IIyits vẫn biết thừa đó là một
ông chủ nhiệm khoa của trường đại học, bây giờ chàng cũng đâm nghi - có lẽ là một
tay cờ bạc bịp thật chăng? Nói chung ngày hôm ấy, quan niệm của chàng về thực tại
đã bị lung lay khá nhiều. Có lúc cảm thấy mình như chóng mặt, có lúc chàng như
người mê ngủ giữa ban ngày, và hầu như không đủ sức kìm hãm bớt những đợt sóng
tình cảm chốc chốc lại tràn ngập lòng chàng, và khiến chàng thấy thương yêu tất
cả những gì mình đang thấy và đang nghe: chàng đưa mắt nhìn quanh - chẳng hạn
bây giờ giá được nhảy xuống nước để cứu con bé con tóc ngắn ở đàng kia nếu nó
ngã ra ngoài thành tàu thì thích quá. Ôi, ước gì nó ngã xuống nước nhỉ!
Quá mười hai giờ khuya, Đasa bỗng dưng buồn
ngủ một cách đột ngột và khoái chá, đến nỗi chật vật lắm mới về được đến buồng
riêng. Đứng ở cửa buồng, nàng vừa ngáp vừa tạm biệt Têlêghin.
- Anh ngủ ngon nhé. Anh xem chừng nhớ theo
dõi tay cờ bạc bịp đấy.
Ivan IIyits lập tức lên phòng khách vé hạng
nhất, nơi ông chủ nhiệm khoa, vốn mắc chứng mất ngủ, đang đọc một tác phẩm của
Đuy-ma bố, nhìn ông ta một lát rồi kết luận rằng là một người rất tốt, tuy làm
nghề cờ bạc bịp. Sau đó chàng trở ra dãy hành lang bật đèn sáng trưng, phảng phất
mùi dầu máy, mùi gỗ sơn, mùi nước hoa của Đasa, rón rén đi qua trước cửa buồng
nàng, rồi khi về đến buồng mình, ngả lưng ra giường và nhắm mắt lại, chàng cảm
thấy mình bồi hồi xao xuyến, tràn ngập những âm thanh, những mùi hương, hơi nắng
ấm và một niềm vui dào dạt đến nỗi tim chàng như nhói lên.
Khoảng hơn sáu giờ sáng tiếng còi tàu đánh
thức chàng dậy. Đã sắp đến Kinesma, Ivan IIyits mặc vội quần áo và nhìn ra hành
lang. Các cửa buồng khác đều đóng kín, mọi người đều đang ngủ. Đasa cũng chưa dậy.
“Mình phải xuống thôi, không thì chẳng biết người ta sẽ nghĩ gì” - Ivan IIyits
nghĩ thầm rồi đi ra boong nhìn về phía cái thị trấn Kinesma đang nhích tới gần
một cách quá vội vã ấy, với những cầu thang bằng gỗ, những nếp nhà gỗ con con
trông như tấp đống lại một cách hú họa, những rặng bồ đề của công viên thị xã với
những khóm lá xanh pha vàng tắm trong ánh nắng ban mai, những đám bụi im lìm lơ
lửng trên những chiếc xe bò kéo thành hàng dài trên dốc. Một người thủy thủ nện
gót chân trên boong tàu, xách chiếc va ly màu da bò của Têlêghin đến.
- Thôi, thôi; tôi thay đổi ý định rồi, anh
đem cất đi cho tôi, - Ivan IIyits nói với anh ta, vẻ luống cuống, - tôi... anh ạ,
tôi đã quyết định đi đến Nijni kia. Ở Kinesma tôi cũng chẳng có việc gì cần lắm.
Đây, anh để xuống gầm giường cho tôi. Cảm ơn anh bạn.
Têlêghin ngồi trong buồng khoảng ba tiếng,
bới óc nghĩ cách phân bua với Đasa về cái hành động dung tục và nhảm nhí - của
mình, và thấy rõ rằng mình không thể nào giải thích nó được: nói dối cũng không
ổn, mà nói thật cũng chẳng xong. Đến mười giờ, lòng vừa hối hận vừa căm ghét và
khinh miệt bản thân, chàng ra ngoài boong, hai tay chắp sau lưng, dáng đi như lủi,
vẻ mặt rất gian, - nói tóm lại là một chân dung điển hình của hạng người dung tục.
Nhưng đã đi quanh boong hết một vòng rồi mà vẫn không thấy Đasa đâu, Ivan
IIyits đâm lo, bắt đầu dòm ngó khắp nơi. Vẫn chẳng thấy nàng đâu hết. Miệng
chàng se lại, khô không khốc. Chắc có chuyện gì chẳng lành rồi! Và bỗng chàng
suýt đâm sầm vào Đasa. Nàng vẫn ngồi ở chỗ hôm qua, trên chiếc ghế mây, rầu rĩ
và trầm lặng. Trên đùi nàng đặt một cuốn sách nhỏ và một quả lê. Nàng từ từ ngoảnh
mặt về phía Ivan IIyits, mắt nàng mở to ra như kinh hãi, rồi tràn ngập vui mừng,
má nàng ửng đỏ, quả lê lăn xuống sàn tàu.
- Anh vẫn ở đây ư? Anh chưa xuống à? - nàng
nói khẽ.
Ivan IIyits nuốt nỗi xúc động, ngồi xuống cạnh
nàng và nói, giọng trầm trầm:
- Tôi không biết cô sẽ nghĩ thế nào về hành
động của tôi, nhưng tôi không xuống Kinesma là cố ý.
- Về “hành động” của anh ấy à? Nghĩ gì thì
tôi chẳng nói đâu.
Đasa cất tiếng cười khanh khách, và đột
nhiên, khiến cho Têlêghin suốt ngày hôm ấy lại chóng mặt hơn cả hôm qua nữa,
nàng đặt bàn tay mình lên lòng bàn tay chàng, giản dị và trìu mến.
10
Nguyên là ở nhà máy cơ khí có xẩy ra một biến
cố như sau. Vào một buổi chiều mưa sùi sụt, mây xơ xác giăng đầy bầu trời loang
loáng ánh lân tinh, trong một ngõ hẹp hôi hám và ngập ngụa trong cái thứ bùn đặc
biệt màu quặng sắt xin xỉn thường phủ dày lên những con đường gần sát các nhà
máy lớn, trong đám thợ đang lục tục kéo về nhà sau tiếng còi tan tầm, thấy xuất
hiện một người lạ mặt mặc áo mưa vải nhựa, mũ chụp kéo lên kín đầu.
Người lạ mặt đi theo đám thợ một lát, rồi dừng
lại và bắt đầu phát truyền đơn, vừa phát vừa nói khe khẽ:
- Của Trung Ủy đấy... Các bạn đọc đi.
Công nhân vừa đi vừa cầm lấy truyền đơn,
không dừng lại, đoạn cất vào túi hay nhét dưới mũ.
Khi người mặc áo mưa đã phát gần hết truyền
đơn, có một người chen vào đám đông, lấy vai hích mạnh hai bên để mở một lối đi
về phía người kia. Đó là một người gác nhà máy. Hắn gọi vội: “Này, anh kia!”,
và nắm lấy vạt áo mưa. Nhưng người kia ướt trơn tuồn tuột, giật phắt ra và bỏ
chạy. Một tiếng còi huýt lên lanh lảnh, rồi từ xa một tiếng còi khác vang lên
đáp lại. Trong đám đông đang vãn dần truyền đi một tiếng rì rầm khe khẽ. Nhưng
công việc đã làm xong và người mặc áo mưa đã biến mất tăm.
Chừng hai hôm sau ở nhà máy cơ khí đã xẩy
ra một việc bất ngờ đối với ban giám đốc: sáng hôm ấy xưởng nguội đã không chịu
làm và đưa ra những yêu sách không lấy gì làm lớn cho lắm, nhưng rất quyết liệt.
Trong những cơ xưởng dài mà ánh sáng chỉ lọt
vào mờ mờ qua những khung cửa sổ bẩn thỉu và những tấm kính ám khói lợp trên
mái, những câu nói mơ hồ, những lời nhận xét và những tiếng rủa hằn học tung
lên như những tia lửa. Thợ thuyền đứng trước máy ném vào mấy ông sếp đi qua những
cái nhìn kỳ dị, và trong một tâm trạng khích động có kiềm chế, họ đợi những chỉ
thị tiếp theo.
Viên đốc công Pavlôv, một kẻ chuyên chỉ điểm
và mách lẻo, đang lẩn quẩn bên cái máy ép thủy lực, tình cờ bị một thanh sắt
nung đỏ rơi phải, giập nát cả bàn chân. Hắn kêu lên một tiếng man dại, và thế
là trong nhà máy truyền đi cái tin đồn có người bị giết. Đến chín giờ, chiếc xe
hòm to tướng của viên kỹ sư trưởng phóng vào sân nhà máy như một trận bão.
Ivan IIyits Têlêghin đến nhà máy vào giờ
thường lệ. Xưởng đúc, nơi chàng làm việc, là một tòa nhà rất lớn xây hình tròn,
rải rác đó đây có những tấm kính vỡ, những chiếc cầu lăn lòng thòng dây xích,
những cái lò đặt cách quãng đều đặn dọc tường và một cái nền bằng đất nện.
Chàng dừng lại ở ngưỡng cửa, so so hai vai vì hơi lạnh buổi sớm và vui vẻ bắt
tay bác đốc công Punkô vừa ra cửa gặp chàng.
Xưởng đúc vừa nhận được một đơn đặt hàng rất
vội yêu cầu phải làm ngay những cái bệ đặt động cơ. Ivan IIyits bàn với Punkô về
công việc sắp tới. Vẻ nghiêm trang và tư lự, chàng hỏi ý kiến Punkô về những việc
mà cả hai đều thấy là hiển nhiên. Kết quả của cái mẹo nhỏ nhặt này là Punkô,
cách đây mười lăm năm vào làm lao công ở nhà máy và đến nay đã thành một viên đốc
công tự đánh giá rất cao những tri thức và kinh nghiệm của mình, hoàn toàn hài
lòng với cuộc nói chuyện: lòng tự ái của bác ta đã được thỏa mãn, và Têlêghin
biết chắc rằng Punkô mà đã hài lòng thì công việc sẽ chạy.
Têlêghin đi một vòng quanh xưởng, nói chuyện
với thợ đúc và thợ khuôn với một giọng thân ái có chút bông lơn - cái giọng ăn
ý hơn cả với mối quan hệ giữa họ với chàng: cả hai chúng ta đều cùng làm việc,
thế thì chúng ta là bạn đồng sự, nhưng tôi là kỹ sư, anh là thợ, vậy thì thật
ra chúng ta là thù, nhưng vì chúng ta trọng nể nhau, cho nên chỉ còn có một
cách là chúng ta đùa nhau chút ít.
Một cái cần cẩu lăn tới một lò đúc gang,
dây xích kêu loảng xoảng. Filip Surin và Ivan Oresnikôv, hai người thợ cao lớn
và gân guốc, người thứ nhất có bộ tóc đen điểm hoa râm và đeo kính gọng tròn,
người kia có bộ râu xồm loăn xoăn, mái tóc vàng buộc gọn lại bằng một sợi dây
da nhỏ, mắt xanh màu da trời và vóc khỏe như vâm, cùng bắt tay vào việc: một
người dùng đòn bẩy cất tấm bêtông trên mặt lò, người kia đưa kìm vào một cái nồi
đúc lớn nung đỏ rực. Sợi xích bắt đầu kêu ken két, cái nồi đúc chuyển mình, rồi
kêu xèo xèo, sáng rực lên và để rơi lả tả những mảnh vảy cháy đen trong khi
trôi lừng lững về phía giữa xưởng.
- Thôi, - Oresnikôv nói, - hạ xuống.
Cần cẩu lại gầm lên, cái nồi thấp dần xuống,
một dòng đồng lỏng sáng chói bắn ra tung tóe thành những ngôi sao xanh lè nổ lốp
đốp trên không, chiếu một vùng sáng màu da cam lên cái mái hình vòm của xưởng,
chảy xuống dưới đất. Mùi đồng nung ngọt lợ bốc lên tanh lờm lợm.
Vừa lúc ấy cái cửa hai cánh dẫn sang phân
xưởng bên mở rộng ra, và một công nhân trẻ tuổi, gương mặt xanh xao và hung dữ,
nhanh nhẹn và quả quyết bước vào xưởng đúc.
- Ngừng việc ngay... Tắt máy đi! - anh ta
quát, giọng xẵng và đứt quãng, rồi liếc nhanh về phía Têlêghin. - Đã nghe rõ
chưa?
- Nghe rồi, nghe rồi, đừng quát tháo nữa, -
Oresnikôv điềm tĩnh trả lời rồi ngẩng đầu nhìn lên cần cẩu: - Đmitri ngủ đấy à?
Mở máy đi chứ?
- Ấy, đã nghe rồi thì phải hiểu lấy chứ,
chúng tôi không nhắc lần nữa đâu nhé, - người công nhân nói, đút hai tay vào
túi rồi quay phắt lại và bỏ ra ngoài.
Ivan IIyits ngồi xổm bên bộ phận máy vừa
đúc xong, cầm mẩu dây thép thận trọng bới bới lên mặt đất. Punkô ngồi trên một
chiếc ghế cao đặt cạnh cửa trước mặt quầy tính, đưa tay lên vuốt vuốt rất nhanh
bộ râu dê hoa râm, rồi nói, mắt đảo vòng quanh.
- Thế ra dù muốn hay không muốn cũng phải bỏ
việc. Còn đến khi nhà máy nó trị cho chẳng còn biết lấy gì nuôi lũ trẻ, thì
chuyện ấy các bố có nghĩ đến không?
- Bác đừng dính vào những chuyện ấy thì
hơn, Vaxili Xtepanyts ạ, - Oresnikôv đáp bằng cái giọng chắc nịch.
- Không dính vào là thế nào nhỉ?
- Là thế đấy, việc là việc của chúng tôi.
Bác thì cứ việc chạy lên các ông xếp, cúi rạp xuống. Còn bây giờ thì bác im đi.
- Bãi công về việc gì thế? - Cuối cùng
Têlêghin hỏi - Yêu sách gì?
Chàng nhìn sang Oresnikôv, nhưng anh ta ngoảnh
mặt đi. Punkô đáp:
- Thợ nguội họ bãi công đấy. Tuần trước bên
họ bắt đầu thí nghiệm chế độ làm khoán trên sáu mươi chiếc máy cái. Ấy thế rồi
kết quả là họ không kiếm được đủ số tiền công hàng ngày nữa, phải làm thêm giờ.
Họ dán lên cửa xưởng sáu cả một danh sách yêu cầu. Yêu cầu thì nhiều, nhưng
cũng chẳng có gì to tát.
Bác ta giận dữ thọc ngòi bút vào lọ mực và
bắt đầu tính sổ. Têlêghin chắp tay sau lưng đi dọc các lò đúc, rồi nhìn vào cái
lỗ tròn trong đó đồng lỏng sôi sùng sục đang nhảy nhót và uốn éo như đống rắn,
giữa một đám lửa trắng nóng không sao chịu nổi, chàng nói:
- Oresnikôv này, liệu có già lửa quá không
đấy, khéo đừng để cháy mất mẻ này nhé!
Oresnikôv lẳng lặng cởi cái tạp dề da treo
lên đinh, đội cái mũ chụp da cừu và mặc chiếc áo vét dạ vào, rồi nói cái giọng ồ
ồ vang khắp cả xưởng:
- Tắt máy thôi các cậu ạ. Sang bên nhà sáu,
phía cửa giữa ấy.
Đoạn anh ta đi ra cửa. Công nhân lẳng lặng
bỏ dụng cụ, người thì tụt từ cần cẩu xuống, người thì chui từ cái hố sâu dưới đất
lên, kéo nhau thành đoàn đi theo Oresnikôv. Rồi đột nhiên ở cửa ra vào có một
chuyện gì xảy ra: một giọng tức tối vang lên the thé, vỡ thành tiếng rít:
- Viết à? Viết à? Quân chó đẻ?... Này thì
ghi tên tao vào!... Báo với giám đốc đi!... - Đó là giọng người thợ khuôn
Alekxêy Noxôv đang quát Punkô. Khuôn mặt hốc hác của hắn ta từ lâu không cạo, với
đôi mắt đục nhờ nhờ trũng sâu vào hốc mắt, cứ nhăn nhó, co quắp lại, mấy thớ thịt
giật liên hồi, trên cái cổ khẳng khiu nổi lên một đường gân xanh. Hắn vừa quát
vừa giơ quả đấm đen thui nện lên mép bàn kế toán. - Quân hút máu người! Quân
đao phủ! Rồi chúng mày cũng sẽ nếm mùi dao!...
Bấy giờ Oresnikôv liền giơ hai tay nắm
ngang lưng Noxôv lôi ra khỏi bàn dễ như bỡn và dắt hắn ra cửa. Hắn im bặt. Xưởng
máy vãn dần.
Đến giữa trưa cả nhà máy đã bãi công. Có
tin đồn ở nhà máy Obukhôv và công trường lắp máy trên sông Nêva cũng có chuyện
lôi thôi. Công nhân đứng thành từng tốp lớn trong sân nhà máy đợi kết quả cuộc
đàm phán giữa ban quản trị với ủy ban đình công.
Hai bên họp bàn trong văn phòng. Ban quản
trị đã sợ và chịu nhượng bộ. Điểm gây cấn duy nhất còn lại là cái cổng ở phía
dãy hàng rào bằng ván mà công nhân đòi phải mở ra, nếu không họ phải đi vòng đến
mấy trăm thước giữa bùn lầy. Thật ra chẳng có ai cần đến cái cổng này làm gì hết,
nhưng đây là vấn đề tự ái: ban quản trị bỗng một mực từ chối, và thế là bắt đầu
diễn ra những cuộc tranh cãi kéo dài. Trong khi đó, đột nhiên có lệnh của bộ nội
vụ truyền xuống qua điện thoại: khước từ mọi yêu sách của ủy ban đình công và kể
từ nay không được nói chuyện với họ cho đến khi có lệnh mới.
Lệnh này đã làm hỏng hết công chuyện, đến nỗi
viên kỹ sư trưởng phải lập tức phóng xe vào thành để xin giải thích. Công nhân
ngơ ngác chẳng biết ra làm sao nữa; lúc bây giờ tâm trạng họ đang khá ôn hòa. Mấy
người kỹ sư ra gặp đám đông phân trần, giang hai tay ra tỏ ý bất lực. Đây đó thỉnh
thoảng còn có cả tiếng cười nữa. Cuối cùng kỹ sư Bullin, người to lớn đẫy đà,
có bộ tóc bạc trắng, hiện ra trên thềm văn phòng và gào to lên cho cả sân nghe
là cuộc đàm phán được hoãn đến ngày mai.
Ivan IIyits ở lại xưởng đến chiều, và thấy
rằng các lò trước sau rồi cũng tắt hết, bèn gãi gãi sau gáy mấy cái rồi bỏ về
nhà. Các nghệ sĩ vị lai đang ngồi trong phòng ăn, và đang hết sức tò mò muốn biết
những việc xảy ra ở nhà máy. Nhưng Ivan IIyits không kể cho họ nghe chút gì hết,
chỉ ngồi trầm ngâm nhai mấy miếng bánh mì tẩm bơ mà Êlizaveta Kievna để dành
cho chàng rồi về phòng khóa trái cửa lại và đi ngủ.
Sáng hôm sau khi đến nhà máy, từ xa chàng
đã thấy rõ rằng tình hình rất gay. Suốt dọc ngõ công nhân đứng tụm năm tụm ba lại
bàn bạc. Bên cổng tụ tập một đám rất đông, đến mấy trăm người, đang nhao nhao
lên như ong vỡ tổ.
Ivan IIyits lúc bấy giờ đội một chiếc mũ mềm
và mặc áo khoác xi-vin; chẳng ai để ý đến chàng. Lắng nghe những câu bàn cãi
trong các tốp thợ, chàng được biết rằng đêm qua toàn thể ủy ban đình công đã bị
bắt, và ngay bây giờ vẫn tiếp tục có những vụ bắt bớ trong đám công nhân, rằng
một ủy ban mới đã được bầu ra, và những yêu sách của công nhân bây giờ đã có
tính chất chính trị, rằng sân nhà máy hiện nay đầy những lính cô-dắc và nghe
nói đã có lệnh giải tán đám đông, nhưng đâu hình như lính cô-dắc không chịu thi
hành lệnh ấy, và cuối cùng chàng được biết rằng nhà máy Ôbukhôv, nhà máy đóng
tàu trên sông Nêva, nhà máy Pháp và một số nhà máy nhỏ nữa đã tham gia bãi
công.
Ivan IIyits quyết định len vào văn phòng
nhà máy hỏi tin tức, nhưng chật vật hết sức cũng chỉ vào được đến cổng. Bên cạnh
bác gác cổng Babkin mà chàng có quen, một người lầm lì cau có mặc chiếc áo tu
lúp to xù, có hai người lính cô-dắc cao lớn, mũ bình thiên không có lưỡi trai đội
lệch một bên tai, râu quai nón xòe ra hai bên. Họ vui vẻ và xấc xược nhìn những
bộ mặt ngái ngủ, hốc hác và xanh xao của thợ thuyền. Cả hai đều hồng hào, no đủ
và chắc hẳn đều là những tay giỏi đánh nhau và giỏi pha trò.
“Phải, những gã mu-gích này thì chằng nề hà
gì đâu” - Ivan IIyits tự nhủ, rồi toan đi vào sân, nhưng người cô-dắc đứng gần
chàng nhất lập tức chặn ngang đường, đôi mắt xấc xược nhìn chòng chọc vào mặt
chàng, rồi nói:
- Đi đâu? Lùi ngay!
- Tôi cần vào văn phòng, tôi là kỹ sư.
- Đã bảo là lui ngay mà lại!
Trong đám đông có tiếng nói nhao nhao:
- Quân vô đạo! Đồ chó săn!
- Chúng mày đã làm đổ bao nhiêu máu rồi!
- Đồ quỷ phưỡn bụng! Đồ địa chủ!
Bấy giờ một thanh niên thấp bé, mặt đầy mụn,
có cái mũi to vẹo sang một bên, mặc một chiếc áo khoác rộng thùng thình, một
chiếc mũ chụp cao đội một cách vụng về trên mái tóc quăn, chen lên hàng trước.
Hắn khua khua cánh tay gầy guộc rồi nói bằng giọng mũi:
- Các bạn cô-dắc! Chúng ta chẳng phải là
người Nga cả hay sao? Các bạn cầm vũ khí chống lại ai ở đây? Chống lại anh em
mình cả. Chúng tôi với các bạn có thù oán gì mà các bạn bắn vào chúng tôi?
Chúng tôi muốn gì? Chúng tôi muốn cho mọi người Nga đều được hạnh phúc. Chúng
tôi muốn cho ai nấy đều được tự do. Chúng tôi muốn thủ tiêu sự lộng hành...
Người cô-dắc mím môi nhìn người thanh niên
từ đầu đến chân một cách khinh bỉ, quay ngoắt đi và bắt đầu đi đi lại lại trong
cổng. Người cô-dắc kia trả lời dõng dạc, giọng như đọc sách:
- Chúng tôi không thể dung thứ những cuộc nổi
loạn, vì chúng tôi đã tuyên thệ trước Sa hoàng.
Lúc bấy giờ người cô-dắc thứ nhất, hình như
đã nghĩ ra được cách trả lời, bèn cất tiếng quát người thanh niên:
- Anh em cái con khỉ!... Thắt lại lưng quần
đi, không tụt mất bây giờ!
Và cả hai người cô-dắc cười phá lên.
Têlêghin lúc bây giờ đã lùi ra phía ngoài cổng.
Những đợt xô đẩy của đám đông dồn chàng sang một bên, về phía hàng rào, nơi có
một đống gang rỉ vứt ngổn ngang. Chàng toan trèo lên đông gang thì vừa trông thấy
Oresnikôv, chiếc mũ lông cừu hất ngược ra sau gáy, đang điềm tĩnh nhai bánh mì.
Anh ta nhích nhích đôi mày chào Têlêghin rồi nói giọng ồ ồ:
- Bắt đầu lôi thôi rồi đấy, ông Ivan IIyits
ạ.
- Chào Oresnikôv. Rồi sẽ kết thúc ra sao
đây không biết.
- Thì chúng tôi sẽ la hét một lúc rồi bỏ mũ
xuống thôi. Bao nhiêu cuộc nổi loạn đều thế cả. Họ đã đưa bọn cô-dắc đến. Thế
còn chúng tôi biết lấy gì đánh nhau với bọn ấy? Lấy củ hành này ném may ra chết
được hai thằng kia chăng?
Lúc bấy giờ trong đám đông thấy nhao nhao
lên một lát, rồi im bặt. Trong cảnh im lặng quanh cổng nhà máy vang lên một tiếng
nói giần giật, giọng hách dịch:
- Thưa các ngài, tôi yêu cầu các ngài giải
tán cho, ai về nhà nấy. Yêu sách của các ngài sẽ được xét sau. Yêu cầu các ngài
bình tĩnh giải tán.
Đám đông nhốn nháo lên, lùi về phía sau, xô
sang một bên. Người thì quay lại, người thì nhích tới. Tiếng lầm rầm mỗi lúc một
to. Oresnikôv nói:
- Họ kính cẩn yêu cầu lần thứ ba rồi đấy.
- Ai nói đấy?
- Viên đội trưởng cô-dắc.
- Các bạn, các bạn đừng giải tán - một tiếng
nói hổn hển vang lên. Ở phía sau Têlêghin, trên đống gang vụn, một người vừa nhảy
lên, vẻ khích động. Hắn đội một chiếc mũ rộng vành, mặt hắn tái mét, bộ râu đen
xơ xác ra, cổ chiếc áo vét tông rất diện cài kín lại bằng một chiếc kim băng.
- Các bạn tuyệt đối không nên giải tán - hắn
nói the thé, hai quả đấm nắm chặt giơ ra phía trước, - Chúng tôi được biết qua
một nguồn tin chắc chắn rằng quân cô-dắc đã khước từ không chịu nổ súng. Ban quản
trị đang tiến hành thương lượng với ủy ban đình công qua những người trung
gian. Hơn nữa, công nhân hỏa xa hiện nay đang thảo luận kế hoạch tổng đình
công. Trong chính phủ đang có tình trạng hốt hoảng.
- Hoan hô! - có giọng ai hét lên thất
thanh. Đám đông nhao nhao lên. Diễn giả ngụp vào đám đông và biến mất. Trong
ngõ có một tốp người đang chạy về phía đám đông.
Ivan Ilyits đưa mắt tìm Oresnikôv, nhưng
Oresnikôv đã ra đứng bên cổng, cách chàng khá xa. Có mấy lần hai tiếng “Cách mạng,
Cách mạng” vẳng tới tai chàng.
Ivan IIyits cảm thấy toàn thân mình run lên
vì một cảm giác khích động vừa lo sợ vừa vui mừng. Chàng trèo lên đống gang rỉ,
nhìn bao quát đám người bây giờ đã đông nghịt lên, và bỗng cách đấy hai bước
chàng trông thấy Akunđin, ông ta đeo kính, đội mũ cát-két có lưỡi trai rất rộng,
mình mặc áo khoác đen. Một ông đội mũ dạ tròn chen về phía Akunđin, hai môi run
bần bật. Têlêghin nghe thấy ông ta nói với Akunđin:
- Đi đi, Avvakumôvits, họ đang đợi ông đấy.
- Tôi không đến đâu, - Akunđin đáp gọn giọng
bực tức.
- Cả ủy ban đã tụ tập đông đủ. Không có ông
thì họ không chịu thông qua nghị quyết đâu.
- Tôi giữ ý kiến riêng của tôi, điều đó họ
biết rồi.
- Ông điên rồi sao? Ông cũng thấy rõ sự tình
đang diễn ra. Tôi xin nói cho ông biết là chỉ mấy phút nữa họ có thể bắt đầu nổ
súng bất kỳ lúc nào... - hai môi ông đội mũ tròn lại run lên bần bật.
- Trước hết, xin anh đừng quát tháo, -
Akunđin nói, - ông đi đi, và bảo họ chấp nhận một giải pháp châm chước. Tôi
không tham dự vào một vụ khiêu khích đâu...
- Có ma nó biết! Điên chẳng ra điên, rồ chẳng
ra rồ! - ông đội mũ dạ tròn nói đoạn chen vào đám đông.
Một người thợ nghiêng người lách vào gần
Akunđin. Đó là người hôm qua vào xưởng Têlêghin bảo thợ tắt máy. Akunđin nói gì
với hắn không rõ, chỉ thấy hắn gật đầu rồi mất hút trong đám đông. Một người thợ
khác lại đến - lại một câu ngắn gọn, lại gật đầu rồi bỏ đi.
Nhưng vừa lúc ấy trong đám đông có nhiều tiếng
quát bảo nhau coi chừng, và ba tiếng súng ngắn và dòn nổ vang. Tiếng ồn ào lập
tức im bặt. Rồi một giọng nghèn nghẹt kéo dài ra như thể cố ý: “A-a-a” Đám đông
giạt ra và lùi xa cổng. Trên lớp bùn bị giẫm nhoét, một người lính cô-dắc nằm
úp sấp xuống, hai chân co lên bụng. Và lập tức một tiếng kêu truyền khắp đám
đông: “Đừng, đừng”. Số là họ đang mở cổng ra. Nhưng từ một chỗ nào ở bên rìa
đám đông lại nổ ra một phát súng lục thứ tư, và mấy hòn đá trúng đạn tung lên,
văng vào cánh cổng sắt. Vừa lúc ấy Têlêghin trông thấy Oresnikôv đầu để trần, mồm
há hốc, đứng một mình ở phía trước đám đông đang bỏ chạy tán loạn. Anh ta đứng
đờ ra vì hoảng sợ, như thể bị đôi ủng to tướng gắn chặt xuống đất. Và ngay lúc ấy
mấy tiếng súng trường nổ ra, tiếng vang kéo dài như tiếng roi quất - một phát,
hai hát, rồi cả một loạt dài. Oresnikôv từ từ khuỵu chân xuống rồi ngã vật ra.
Một tuần sau, cuộc điều tra về vụ xung đột
xảy ra ở nhà máy đã tiến hành xong. Ivan IIyits Têlêghin có tên trong danh sách
những người bị tình nghi là có cảm tình với thợ. Bị gọi lên văn phòng, chàng
nói nhiều câu rất ngang bướng với ban quản trị khiến mọi người phải kinh ngạc,
và ký vào quyết định bãi chức.
11
Bác sĩ Đmitri Xtêpanôvits Bulavin, cha của
Đasa, đang ngồi trong phòng ăn, bên cạnh là một chiếc xamovar lớn bốc hơi nghi
ngút, đọc tờ báo địa phương “Tin tức Xamara”. Khi điếu thuốc lá đã cháy đến đoạn
bìa, ông mở chiếc hộp thuốc lá đầy ăm ắp lấy ra một điếu khác, châm vào mẩu vừa
hút, ho đỏ cả mặt lên, luồn tay vào vạt áo sơ mi đã cởi hết khuy gãi cái ngực
lông á. Ông vừa đọc vừa nhắp nước trà loãng trong chiếc đĩa tách, đánh rơi tàn
thuốc ra tờ báo, ra áo sơ mi, ra khăn bàn.
Sau cánh cửa chợt có tiếng giường kêu cót
két, rồi tiếng bước chân, Đasa đi vào phòng ăn, mình mặc áo nội tẩm choàng lên
trên áo lót, mặt vẫn đỏ ửng và ngái ngủ. Với đôi mắt lạ lùng, giễu cợt giống mắt
Đasa, Đmitri Xtêpanôvits nhìn con gái qua vành trên của đôi kính cặp mũi đã rạn
và chìa má ra cho nàng. Đasa hôn cha và ngồi xuống trước mặt, rồi kéo đĩa bánh
mì và bơ lại gần mình.
- Lại nổi gió lên rồi, - nàng nói.
Quả nhiên đã hai hôm nay có một đợt gió thổi
về rất mạnh. Bụi vôi bốc lên thành một đám lớn lơ lửng trên thành phố, che cả mặt
trời. Những đám bụi dày đặc, cay xè bị những cơn gió lốc cuốn theo quay cuồng
qua các phố làm cho những người qua đường thưa thớt phải quay lưng lại. Bụi
lách vào các kẽ hở, chui qua cả cửa kính, bám trên bậu cửa sổ thành một lới mỏng,
lọt cả vào mồm người ta và kêu lạo xạo trong răng. Gió thổi rung cả các cửa
kính làm cho mái tôn gầm lên như sấm. Đã thế trời lại nóng bức, ngột ngạt và
ngay ở trong nhà vẫn ngửi thấy mùi phố xá.
- Có dịch đau mắt đây này. Thích chưa, -
Đmitri Xtêpanôvits nói.
Đasa thở dài. Cách đây mười lăm ngày, trên
một chiếc cầu thang tàu thủy nàng chia tay với Têlêghin, rốt cuộc chàng đã đưa
nàng đến tận Xamara. Từ đấy nàng ở với bố, chẳng làm gì cả, trong căn nhà mới
trống trải mà nàng chưa hề quen thuộc, phòng khách ngổn ngang những thùng sách
gửi về từ đời nào mà vẫn chưa mở, cửa sổ thì mãi cho đến nay vẫn chưa treo màn
lên, muốn tìm cái gì cũng không có, chẳng biết chui vào đâu cho ổn, cứ như ở
quán trọ ấy.
Tay cầm thìa khuấy nước trà trong cốc, Đasa
chán ngán nhìn những đám bụi xám đang cuồn cuộn bốc từ dưới lên ở ngoài cửa sổ.
Nàng có cảm giác như thể sau hai năm vừa thấm thoát trôi qua như một giấc mộng,
nàng lại về nhà và những niềm hy vọng, những nỗi xúc động, những cảnh phồn hoa
lộng lẫy và cả đô thành Pêterburg náo nhiệt nữa đều đã tan biến hết, chỉ còn lại
những đám bụi này.
- Đại công tước bị ám sát rồi, - Đmitri
Xtêpanôvits nói, tay lật trang báo.
- Đại công tước nào ạ?
- Còn đại công tước nào nữa? Đại công tước
thái tử nước Áo, đã bị ám sát ở Xaraiêvô.
- Ông ta còn trẻ không ạ?
- Ba không biết. Rót ba cốc nữa.
Đmitri Xtêpanôvits ném vào miệng một miếng
đường nhỏ, ông không bao giờ cho đường vào nước chè và ngắm qua Đasa một lượt,
vẻ giễu cợt.
- Con thử nói ba nghe, - ông vừa nói vừa
đưa cái đĩa tách lên môi. - Êkatêrina đoạn tuyệt hẳn với chồng rồi à?
- Thì con đã kể cho ba nghe rồi đấy thôi!
- Ờ... ờ...
Rồi ông lại chúi đầu vào tờ báo, Đasa ra cửa
sổ. Tiêu điều đến thế là cùng! Nàng hồi tưởng lại con tàu trắng muốt, nhất là
ánh nắng chan hòa khắp nơi, bầu trời xanh ngăn ngắt. Dòng sông, boong tàu sạch
bóng, tất cả đều tràn đầy ánh nắng và hơi ẩm mát rượi. Hôm ấy nàng có cảm giác
là con đường sáng rực ấy, dòng sông đang khoan thai uốn khúc và con tàu “Fiôdor
Đôxtôievxki”, cùng với Đasa và Têlêghin đều sẽ hòa lại làm một, sẽ cùng đi vào
biển xanh mênh mông không bờ bến, một biển tràn đầy ánh sáng và niềm vui: biển
hạnh phúc.
Và lúc bấy giờ Đasa không vội vã, tuy nàng
hiểu Têleghin cảm nghĩ những gì và không hề có ý gì phản đối những cảm nghĩ của
chàng. Nhưng vội vã mà làm gì, khi mỗi phút giây của cuộc hành trình này, dù chỉ
nguyên có thế thôi cũng đã tốt đẹp lắm rồi, dù có thế nào trước sau rồi họ cũng
trôi về biển xanh hạnh phúc?
Khi tàu đã về đến gần Xamara, Ivan Ilyits cứ
sa xầm xuống, không đùa nữa. Đasa tự nhủ: chúng mình đang giong buồm về hạnh
phúc và cảm thấy cái nhìn của chàng đặt lên mình phảng phất giống như cái nhìn
của một con người cường tráng, vui tươi vừa bị xe cán phải. Nàng thấy thương
Têlêghin, nhưng nàng còn biết làm thế nào được, nàng làm sao có thể để cho chàng
đến thật gần nàng, một khi nàng hiểu rằng nếu làm như vậy thì sẽ lập tức bắt đầu
diễn ra những điều đáng lẽ phải diễn ra ở cuối cuộc hành trình. Họ sẽ không
trôi về đến hạnh phúc, vì ở giữa chặng đường họ đã không dằn lòng được mà đem
nó ra phung phí hết rồi.
Cho nên nàng đã dịu dàng âu yếm với Ivan
IIyits, và chỉ thế thôi. Còn chàng, chàng thấy rằng mình sẽ xúc phạm đến Đasa nếu
để cho nàng hiểu, dù chỉ bằng một lời thôi, cái điều đã làm cho chàng không ngủ
trong bốn đêm ròng, và cảm thấy mình đang ở trong một thế giới riêng biệt một
phân nửa là hư ảo, trong đó tất cả những gì ở bên ngoài đều lướt qua như những
cái bóng trong làn sương lam, trong đó đôi mắt xám của Đasa cháy rực lên, đáng
sợ và có sức gieo lo lắng vào tâm hồn, trong đó chỉ có những mùi hương, ánh
sáng mặt trời và cái cảm giác nhoi nhói ở trong tim là hiện thực.
Đến Xamara, Ivan IIyits chuyển sang một chiếc
tàu khác, đi ngược trở lại. Và vùng biển sáng ngời của Đasa, trong đó nàng bơi
đi một cách ung dung như vậy, đã biến đi, đã tan ra, đã bốc lên thành những đám
bụi ở bên kia tấm kính cửa sổ đang rung lên canh cách vì gió.
- Không biết rồi người Áo sẽ xơi lại người
Xerbi như thế nào, - Đmitri Xtêpanôvits nói, bỏ cặp kính mũi ra và ném nó lên tờ
báo - Thế còn về vấn đề Xlavơ thì con nghĩ thế nào?
Vẫn đứng ở cửa sổ, Đasa nhún vai:
- Ba có về ăn trưa không? - nàng hỏi, giọng
buồn rười rượi.
- Tuyệt đối không. Ba có một ca sốt phát
ban ở ngoại thành, nhà Poxtnikôv.
Đmitri Xtêpanôvits thong thả lấy chiếc áo
sơ mi có lắp cúc giả để trên bàn mặc vào, cài khuy áo tuýt-xo, soát lại các túi
áo túi quần xem mọi thứ có còn nguyên tại chỗ không, cầm chiếc lược gãy lên chải
bộ tóc bạc loăn xoăn ra trước trán.
- Thế nào, về vấn đề Xlavơ thì thế nào hả?
- Thật tình con không biết gì đâu, ba ạ.
Sao ba cứ gạn mãi thế?
- Số là ba có một vài ý kiến riêng về vấn đề
này, Đarya Đmitrievna ạ, - có thể thấy rõ rằng ông không muốn đi ra ngoại thành
chút nào, vả lại nói chung buổi sáng Đmitri Xtêpanôvits vốn thích ngồi bên
xamôvar nói chuyện chính trị, - Vấn đề Xlavơ, con có nghe không đấy hở? là một
vấn đề mấu chốt của chính trị quốc tế. Biết bao nhiêu người đang nát óc về vấn
đề nầy. Cho nên nơi chôn nhau cắt rốn của người Xlavơ, vùng Balkan, chính là
khúc ruột thừa của châu Âu. Ắt là con sẽ hỏi: Tại sao như vậy? Thế thì đây, xin
phép trình bày - Ông bắt đầu lần lượt gập mấy ngón tay phốp pháp: - Thứ nhất là
người Xlavơ có đến hơn hai trăm triệu, mà họ lại mắn đẻ như loài thỏ ấy. Thứ
hai là người Xlavơ đã thành lập được một quốc gia quân sự hùng cường như Đế quốc
Nga. Thứ ba là những tập đoàn Xlavơ nhỏ, bất chấp quá trình đồng hóa, đang tự tổ
chức thành những đơn vị độc lập và cố tiến tới cái gọi là khối liên minh Toàn
Xlavơ. Thứ tư, - và quan trọng nhất - là người Xlavơ đại diện cho một kiểu người
“đi tìm thượng đế” hoàn toàn mới về tinh thần và, về phương diện nào đó, hết sức
nguy hiểm cho nền văn minh châu Âu. Và cái tinh thần “đi tìm Thượng đế” - con vẫn
nghe đấy chứ, con mèo của ba? - là sự phủ định và hủy diệt của nền văn minh hiện
đại. Tôi đi tìm Thượng đế, - tức đi tìm chân lý - trong bản thân tôi. Muốn thế
tôi phải được tuyệt đối tự do, tôi phải phá hủy những thiết chế tinh thần đang
chôn vùi tôi, tôi phải phá hủy bộ máy nhà nước đang xiềng xích tôi.
- Ba ạ, ba đi thăm bệnh đi, - Đasa nói, giọng
chán chường.
- Không, hãy đi tìm chân lý ở đây, - Đmitri
Xtêpanôvits chĩa ngón tay xuống đất, như muốn chỉ căn hầm ở dưới sàn nhà, nhưng
rồi bỗng im bặt và quay ra phía cửa. Ở phòng ngoài, chuông đang réo. - Đasa, ra
mở cửa đi con.
- Con không ra được, con đã mặc quần áo gì
đâu!
- Matriona! - Đmitri Xtêpanôvits gọi. -
Chà, cái mụ chết tiệt này. - Đoạn ông thân hành ra mở cửa và vào trong ngay,
tay cầm một bức thư.
- Của Katyusa, - ông nói. - Khoan đã, không
được giật, để ba nói hết đã... Thế thì việc “đi tìm thượng đế” trước hết bắt đầu
từ sự phá hoại và thời kỳ này rất nguy hiểm, có sức truyền nhiễm mạnh. Hiện nay
nước Nga chính là đang trải qua giai đoạn này của cơn bệnh... Tối tối cứ thử ra
phố chính mà xem, chỉ nghe toàn “Cứu tôi v o o ới”.Thợ mù tạt đi ngất ngưởng giữa
phố, bọn du côn hoành hành đến nỗi cảnh sát không ngăn nổi. Bọn này không có
chút dấu vết gì của đạo đức nhưng cũng là những kẻ “đi tìm Thượng đế”. Mèo hiểu
chưa nào? Hôm nay chúng phá phách ở phố chính, ngày mai chúng sẽ bắt đầu phá
phách trên toàn bộ lãnh thổ nước Nga. Nhìn chung, dân ta đang trải qua giai đoạn
đầu của quá trình “đi tìm Thượng đế” - giai đoạn phá hủy nền tảng cũ.
Đmitri Xtêpanôvits vừa thở phì phò vừa châm
thuốc lá hút, Đasa rút bức thư của Katya trong tay bố và về thẳng buồng riêng.
Trong khi đó Đmitri Xtêpanôvits vẫn còn biện luận, chứng minh những gì gì một
lát nữa, đi đi lại lại qua các phòng lát ván sơn của căn nhà rộng thênh thang, trống
trải, bụi bặm, chốc chốc lại đẩy cánh cửa đánh sầm một cái, rồi lên đường ra
ngoại thành.
Katya viết:
“Đanyusa, em yêu quí, mãi cho đến nay chị vẫn
chưa được biết tin tức gì của em và Nikolai. Chị đang ở Paris. Ở đây đang giữa
mùa chưng diện. Váy bây giờ họ may phía dưới rất đẹp. Tất cả mọi người, giá em ở
đây mà xem cả thành Paris đều nhảy tango. Đang bữa ăn sáng, giữa hai món ăn, họ
đứng dậy nhảy. Đến bữa ăn chiều và bữa ăn tối cũng vậy. Cứ thế mãi cho đến
sáng. Chị không biết trốn vào đâu cho thoát cái điệu nhạc này, nó buồn bã, ngọt
ngào mà da diết thế nào ấy. Chị cứ có cảm giác mình đang chôn vùi tuổi trẻ, một
cái gì không bao giờ trở lại nữa, khi chị nhìn những người đàn bà mặc áo để hở
rất rộng ấy, với những đôi mắt tô đậm quầng mi lên bằng chì xanh và nhìn những
người bạn nhảy nam giới của họ. Nói chung chị rất buồn. Chị cứ nghĩ quẩn rằng sắp
có một người nào phải chết. Chị rất lo cho ba. Vì ba cũng già lắm rồi. Ở đây
người Nga rất đông, toàn những người quen của nhà ta cả, ngày nào cũng họp nhau
ở nơi nào đấy, thành thử chị có cảm giác như chưa rời khỏi Pêterburg. À, ở đây
có người nói với chị rằng Nikolai hình như đang chơi rất thân với một người đàn
bà góa có hai đứa con, đứa con còn bé tí. Em hiểu không? Lúc đầu chị rất đau
xót. Nhưng rồi không hiểu tại sao chị thấy thương thằng bé ấy quá... Ôi,
Danyusa à, đôi khi chị muốn có đứa con quá. Nhưng người ta chỉ có thể có con với
một người mình yêu mà thôi. Khi nào em đi lấy chồng, em phải có con đi nhé”.
Đasa đọc bức thư mấy lần, nhỏ vài giọt nước
mắt, nhất là vì thương thằng bé con hoàn toàn vô tội kia, rồi ngồi vào viết thư
trả lời chị. Nàng viết cho đến bữa ăn trưa, ngồi ăn một mình, - nàng chỉ ăn qua
loa mấy miếng, - rồi đi vào phòng làm việc của bố và bắt đầu lục lọi chồng báo
cũ, tìm được một cuốn tiểu thuyết tràng giang đại hải nào đấy, nằm ra đivăng giữa
mớ sách vứt ngổn ngang và đọc đến tối. Cuối cùng cha nàng về, mệt mỏi, người phủ
đầy bụi. Hai bố con ngồi vào ăn bữa tối. Hỏi gì Đmitri Xtêpanôvits cũng chỉ ậm ừ
trong miệng. Nhưng rốt cuộc Đasa cũng được biết rằng bệnh nhân, một thằng bé
lên ba, đã chết vì bệnh sốt phát ban. Sau khi báo cáo tin ấy, Đmitri
Xtêpanôvits thở phì phò một lúc, bỏ cặp kình mũi vào bao rồi đi ngủ. Đasa nằm
trên giường, trùm khăn kín đầu và khóc cho kỳ chán chê về các thứ chuyện buồn
này nọ ở trên đời.
Hai ngày trôi qua. Trận bão bụi kết thúc bằng
một cơn giông. Mưa trút rào rào xuống mái nhà suốt đêm và một buổi sáng chủ nhật
bắt đầu yên tĩnh và ướt át như thể vừa được gột rửa.
Sáng hôm ấy, vào giờ Đasa ngủ dậy, một người
quen cũ là Xêmiôn Xêminôvits Gôvyadin, làm thống kê ở ban quản trị nông phố, đến
thăm nàng. Đó là một người đàn ông gầy gò, lưng hơi gù, lúc nào cũng xanh lướt,
có bộ râu vàng và mái tóc gọng kính. Ông ta sực mùi sữa chua; ông kiêng rượu,
kiêng thuốc lá và kiêng thịt. Cảnh sát rất để ý đến ông. Ông ta chào Đasa, và
nói với nàng bằng một giọng giễu cợt, tuy ông ta không hề có chút lý do gì để
dùng cái giọng ấy:
- Tôi đến tìm nàng đây, hỡi người thục nữ!
Ta hãy đi chơi một vòng trên sông Volga.
Đasa nghĩ thầm: “Thế là mọi sự đã kết thúc
bằng ông thư lại Gôvyadin”, rồi cầm lấy chiếc dù trắng và đi theo Xêmiôn
Xêmiônôvits xuống bến sông Volga, nơi buộc thuyền cho thuê.
Giữa những dãy lán dài bằng ván chứa lúa
mì, những đống gỗ và những kiện lông cừu và bông chất cao như núi, lang thang
những người phu khuân vác và móc hàng, vai rộng, ngực nở, có người đã đứng tuổi,
có người còn trẻ măng, đều đi chân không, đầu và cổ để trần. Người thì đang
đánh sấp ngửa, người thì nằm ngủ trên những bao bột hay những tấm ván; xa xa,
có khoảng ba mươi người vác những cái thùng gỗ chạy trên những tấm ván gập ghềnh
bắc lên thuyền. Giữa hai chiếc xe giàn một người say rượu, mình lấm đầy bùn và
bụi, má chảy máu, hai tay giữ cạp quần, đang đứng chửi một cách uể oải và tục tằn.
- Thành phần này không biết thế nào là hội
hè, nghỉ ngơi đâu. - Xêmiôn Xêmiônôvits nhận xét, giọng răn dạy, - trong khi cô
và tôi, những người có trí tuệ và học thức, có thể nhàn nhã đi ngắm cảnh thiên
nhiên.
Đoạn ông ta bước qua hai bàn chân không to
tướng của một gã thanh niên ngực nở, môi dày đang nằm ngửa giữa đất. Một gã
khác ngồi trên súc gỗ nhai chiếc bánh mì Pháp. Đasa nghe rõ tiếng gã nằm giữa đất
nói với theo nàng:
- Filíp này, giá chúng mình được một ả như
thế nhỉ.
Gã kia vừa nhai nhồm nhoàm vừa đáp:
- Diện quá. Mất thì giờ bỏ cha!
Trên dòng sông rộng, nước đục lờ, giữa những
ánh phản chiếu loang loáng, có những bóng thuyền con bồng bềnh đang lao về phía
dải bờ cát xa xa. Gôvyadin thuê một chiếc thuyền như vậy, bảo Đasa cầm lái, còn
ông ta thì ngồi vào chỗ lắp chèo và bơi ngược dòng sông. Chẳng bao lâu gương mặt
nhợt nhạt của ông ta đã toát mồ hôi hột.
- Thể thao là một hoạt động quan trọng, -
Xêmiôn Xêmiônôvits nói đoạn cởi áo ngoài ra, thẹn thò tháo dải treo quần đút
vào dưới mũi thuyền. Hai tay ông ta gầy guộc, yếu ớt và lông lá. Ở hai tay áo
sơmi của ông có dính đôi măng-sét nhựa. Đasa mở dù ra và nheo nheo đôi mắt nhìn
xuống nước.
- Đarya Đmitrievna, cô bỏ qua cho nhé, tôi
hỏi thế này khi không phải: nghe trong phố họ nói cô sắp lấy chồng, có đúng thế
không?
- Không, không đúng.
Nghe thấy thế, ông ta nhoẻn rộng miệng ra
cười - một nụ cười rất bất ngờ trên gương mặt trí thức đăm chiêu tư lự của ông.
Ông toan cất cái giọng yếu ớt lên hát: “Xuôi dòng Volga, mẹ hiền của chúng ta”,
nhưng mới hát được mấy tiếng ông đã ngượng ngùng im bặt và ráng hết sức kéo đôi
mái chèo thật mạnh.
Một chiếc thuyền chở đầy người đi ngược lại.
Ba cô con nhà thị dân mặc áo dài bằng len mỏng màu xanh lá cây và màu đỏ thắm
ngồi cắn hạt quỳ và nhổ vỏ ra đùi. Người ngồi đối diện là một anh bán mù-tạt
say mèm, tóc quăn, ria mép đen, mắt đảo ngược lên như người hấp hối, đang chơi
một điệu polka trên phong cầm. Một anh chàng khác chèo lấy chèo để làm chiếc
thuyền chòng chành dữ dội. Một anh thứ ba huơ mái chèo đàng lái quát gọi Xêmiôn
Xêmiônôvits:
- Tránh đi chứ, mù à? Chết bây giờ!
Thế là cả bọn la hét và chửi mắng om sòm
trong khi chiếc thuyền trôi vút qua gần sát thuyền Xêmiôn Xêminôvits.
Cuối cùng đáy thuyền trượt lạo xạo trên một
dải cát. Đasa nhảy lên bờ. Xêmiôn Xêminôvits lại đeo dải quần và mặc áo ngoài
vào.
- Tuy là người thành thị, tôi vẫn chân
thành yêu mến thiên nhiên, - ông nói, nheo mắt lại - nhất là khi nó được bổ
sung bằng bóng dáng một người phụ nữ; hình ảnh này tôi thấy có một cái gì rất
là Turghêniev. Ta vào rừng đi.
Họ đi trên cát nóng bỏng chân lún đến mắt
cá. Govyađin phút phút lại ngừng chân lấy mùi soa ra lau mặt.
- Kìa, cô nhìn mà xem, chỗ kia tuyệt quá.
Đi mãi mới hết bãi cát, họ lại phải trèo
lên một bờ dốc thẳng đứng nhưng không cao lắm, và bắt đầu từ đây là những bãi cỏ,
rải rác có những khoảng đã tỉa thành từng hàng thẳng, cỏ đang úa dần. Một mùi
hương nồng ấm tỏa ra từ những đóa hoa lắm mật. Dọc theo bờ một cái khe nhỏ, mấp
mé dòng nước, mọc lên những cây giẻ lá loăn xoăn. Dưới một chỗ trũng, trong lớp
cỏ mọng, một dòng suối róc rách đổ vào một cái hồ tròn. Trên bờ hồ mọc những
cây bồ đề già và một cây thông xù xì chỉ có một cành chĩa hẳn ra ngoài như cánh
tay. Xa hơn, trên một gò đất hẹp và dài, có cây xiêm gai trắng đang nở hoa. Đó
là chỗ nghỉ chân ưa thích của những đám chim giẽ trên đường di cư.
Đasa và Xêmiôn Xêminôvits ngồi xuống cỏ mượt.
Dưới chân họ, nước trong những lòng khe uốn ngoằn ngoèo phản chiếu màu trời và
màu những đám lá xanh um. Cách Đasa không xa, trong đám bụi rậm, có hai con
chim nhỏ màu xám nhảy nhót, hót lên những tiếng đơn điệu. Và với tất cả nỗi buồn
của một tình lang bị phụ bạc, đâu đây trong rặng cây một con chim cu rừng cất
tiếng gù, gù mãi không thôi. Đasa ngồi duỗi chân, hai bàn tay để lên đầu gối, lắng
nghe gã tình lang bị phụ bạc cất tiếng dịu dàng nhắn nhủ rằng:
“Đarya Đmitrievna, Đarya Đmitrievna, cô có
việc gì thế, tại sao cô buồn và cứ muốn khóc thế? Đã có việc gì xảy ra đâu mà
cô buồn như thế. Đời đã tàn, đã trôi qua, đã bay mất? Chẳng qua cô là người bẩm
sinh hay khóc nhè mà thôi”.
- Tôi muốn thẳng thắn với cô, Đarya
Đmitrievna ạ, - Gôvyađin lên tiếng - Cô cho phép tôi... có thể nói là... gạt những
quy ước hình thức sang một bên nhé?
- Ông cứ nói đi, tôi thì thế nào cũng được,
- Đasa đáp, đoạn chắp hai bàn tay sau gáy, nàng ngả lưng trên cỏ, để nhìn thấy
bầu trời và khỏi nhìn thấy đôi mắt lươn tọc mạch của Xêmiôn Xêminôvits cứ lấm
lét nhìn trộm đôi bít tất trắng của nàng.
- Cô là một cô gái kiêu hãnh và táo bạo. Cô
trẻ, đẹp, tràn đầy sức sống...
- Cứ tạm cho là như thế, - Đasa nói.
- Chả nhẽ cô không bao giờ có ý muốn phá vỡ
cái luân lý ước định mà giáo dục và môi trường đã tiêm nhiễm vào chúng ta? Chả
nhẽ vì cái luân lý đã bị tất cả những người có thẩm quyền bác bỏ ấy mà cô cứ phải
kìm hãm mãi những bản năng đẹp đẽ của mình?
- Cứ thử cho là tôi không hề muốn kìm hãm
những bản năng đẹp đẽ của tôi. Thế thì sao? - Đasa hỏi, và với một lòng tò mò
lười biếng, nàng chờ xem ông ta sẽ trả lời như thế nào. Ánh nắng làm cho người
nàng nóng bừng lên, và nhìn lên bầu trời, nhìn những hạt bụi nắng li ti tràn ngập
cái vực thẳm xanh biếc ấy, nàng thấy dễ chịu đến nỗi chẳng còn muốn nghĩ ngợi
gì, chẳng buồn nhúc nhích gì nữa.
Xêmiôn Xêminôvits im lặng, lấy ngón tay cào
cào mặt đất. Đasa biết rằng ông ta có một người vợ làm bà đỡ, tên là Marya
Đavyđôvna. Mỗi năm vài bận Marya Đavyđôvna lại đưa ba đứa con bỏ về nhà bà mẹ vợ
ở ngay trước mặt, chỉ cách một con đường. Ở ban quản trị nông phố Xêmiôn
Xêminôvits phân trần với các bạn đồng liêu rằng nguyên nhân của những chuyện bất
hòa này trong gia đình là cái tính cách hiếu động và dâm đãng của Marya
Đavyđôvna. Marya Đavyđôvna thì giải thích ở bệnh viện của nông phố rằng sở dĩ
sinh chuyện là vì ông ta bất cứ phút nào cũng sẵn sàng đi ngoại tình với bất cứ
ai, suốt ngày chỉ nghĩ đến mỗi một chuyện ấy, sở dĩ chưa ngoại tình là vì hèn
nhát và nhu nhược: riêng điều đó thôi cũng đã đáng căm phẫn lắm rồi, và bà ta
không còn đủ can đảm để nhìn cái bộ mặt dài thườn thượt của hạng ăn kiêng ấy nữa.
Nhưng khi Marya Đavyđôvna bỏ về nhà mẹ như vậy, Xêmiôn Xêminôvits mỗi ngày mấy
bận để đầu trần vượt qua đường sang nhà bà nhạc. Sau đó hai vợ chồng lại giảng
hòa, và Marya Đavyđôvna lại đem con cái và gối đệm trở về nhà chồng ở.
Cuối cùng Xêmiôn Xêminôvits ho ho mấy tiếng
rồi nói:
- Khi một người đàn bà ngồi lại một mình với
một người đàn ông, thì sẽ phát sinh một sự thèm khát tự nhiên muốn thuộc về người
đàn ông đó, còn người đàn ông thì muốn chiếm đoạt thân thể người đàn bà. Tôi
xin yêu cầu cô trung thực và thẳng thắn. Cô hãy nhìn sâu vào bản thân, rồi cô sẽ
thấy rằng, xen vào giữa những định kiến và những sự dối trá, trong cô đang rạo
rực nỗi thèm khát tự nhiên của một bản năng sinh dục lành mạnh.
- Nhưng trong người tôi hiện nay không có “nỗi
thèm khát” nào “rạo rực” cả, thế là thế nào nhỉ? - Đasa hỏi.
Nàng thấy buồn cười và uể oải. Trên đầu
nàng, một con ong đang rúc vào cái nhị vàng của một đóa hoa xiêm gai trắng nhợt.
Gã tình lang bị phụ bạc vẫn gù trong rặng phong dương: “Đarya Đmitrievna, Đarya
Đmitrievna, cô yêu thật rồi chăng? Yêu rồi, yêu thật rồi, chứ chẳng sai: chính
vì thế mà cô buồn đấy”. Lắng nghe chim gù Đasa cất tiếng cười se sẽ.
- Hình như cô bị cát lọt vào giày thì phải.
Cô cho phép tôi rũ ra cho cô nhé - Xêmiôn Xêmiônôvits nói, giọng lạc hẳn đi,
nghe như bị nghẹt lại. Thế rồi ông cầm lấy gót giày Đasa mà kéo. Đasa ngồi bật
dậy, giật chiếc giày trong tay Xêmiôn Xêmiônovits và thuận tay đánh bốp một cái
vào mặt ông ta.
- Ông là một thằng khốn nạn, - nàng nói -
tôi không thể ngờ ông khả ố đến như vậy.
Nang đi chiếc giày vào, đứng dậy, vơ lấy
chiếc dù, và không nhìn Gôvyađin, nàng đi ra sông.
“Mình ngốc quá, đến địa chỉ cũng quên hỏi:
bây giờ biết gửi thư về đâu? - nàng tự nhủ trong khi tụt xuống bờ dốc. - không
biết anh ấy ở Kinesma hay ở Nijni? Bây giờ đành ngồi lại với Gôvyađin chắc? Ôi,
trời ôi!”. Nàng ngoái lại phía sau. Xêmiôn Xêmiônôvits đang đi xuống dốc, trên
đám cỏ, chân nhấc cao lên như con sếu, mắt tránh nhìn thẳng phía trước. “Mình sẽ
viết cho Katya: Chị có tưởng tượng được không, hình như em yêu rồi, em có cảm
giác như thế”. Rồi chăm chú lắng nghe mình, Đasa khe khẽ nhắc đi nhắc lại: “Anh
Ivan Ilyits thân yêu, thân yêu, thân yêu”.
Vừa lúc ấy, cách đấy không xa, có tiếng ai
gắt: “Đã bảo không xuống là không xuống, buông ra, rách váy người ta bây giờ”.
Dưới nước, gần sát bờ, một người đàn ông trần truồng đang lội bì bõm. Đó là một
người đã đứng tuổi, cằm để bộ râu ngắn, xương sườn hằn lên vàng vàng, trên cái
ngực lép kẹp lủng lẳng một sợi dây đen đeo chiếc thánh giá. Trông hắn rất chướng
mắt. Hắn lẳng lặng kéo một người đàn bà xuống nước, vẻ hung hãn. Ngươi đàn bà,
vẻ ngán ngẩm, lờ đờ, nhắc đi nhắc lại: “Buông ra, rách mất váy bây giờ”.
Đasa cắm đầu chạy thật nhanh dọc bờ sông, về
phía chiếc thuyền, cổ nghẹn ngào vì ghê tởm và hổ thẹn. Trong khi nàng đẩy thuyền
xuống nước, Govyađin chạy tới, thở hổn hển. Không trả lời một tiếng, không nhìn
vào ông ta, Đasa ngồi ra sau lái, lấy dù che mặt lại và im lặng suốt dọc đường
về.
Sau buổi đi dạo hôm ấy, Đasa bắt đầu thấy
giận Têlêghin, tuy bản thân nàng cũng không hiểu đầu đuôi ra sao mà mình lại đi
đến chỗ giận chàng làm như thể chính vì chàng mà mình phải chịu đựng cái cảnh
chán chường của một thị trấn bụi bặm, oi bức, với những dãy hàng rào hôi hám và
những góc cửa khả ố, những ngôi nhà gạch trông như những cái thùng, với những cột
điện thoai và cột tàu điện thay cho cây cối, với những buổi trưa oi ả nặng nề,
khi trên dãy phố một mầu trắng nhờ nhờ, không có lấy một bóng rợp, một mụ đàn
bà đã ngây thộn đi vì nắng gánh những bó cá khô vừa nhìn vào các cửa sổ phủ bụi
vừa rao: “Cá khô đơi, cá khô!”, trong khi một con chó, cũng đã ngây thộn đi và
gẩn như hóa dại, dừng lại bên mụ ta ngửi ngửi mấy bó cá; khi từ một mảnh sân xa
xa vẳng tới những âm thanh buồn bã chán chường của một chiếc phong cầm quay
đang chơi bài “Sóng Đunai”.
Cũng chỉ tại Têlêghin mà giờ đây Đasa cảm
thụ một cách đặc biệt nhạy bén sự tĩnh mịch trưởng giả đang vây bọc lấy nàng, sự
tĩnh mịch tuyệt đối của một bào thai trong bụng mẹ, và hình như muôn đời không
hề có ý định xê xích đi chút nào, khiến cho người ta chỉ muốn chạy ra đường mà
hét lên những tiếng man dại: “Tôi muốn sống, tôi muốn sống kia!”.
Lỗi của Têlêghin là ở chỗ chàng quá kín đáo
và rụt rè. Quả thật, chẳng lẽ nàng, Đasa lại phải nói: “Em yêu anh, anh có hiểu
không?”. Lỗi của chàng là ở chỗ chàng cứ biệt vô âm tín, như thể đã chui xuống
đất, mà thậm chí cũng có thể chàng đã quên bẵng nàng đi rồi.
Và thêm vào tất cả nỗi buồn chán này, vào một
trong những đêm đen kịt và nóng hầm hập như trong hầm lò, Đasa đã mơ thấy lại
chính giấc chiêm bao hồi nào ở Pêterburg, mà khi thức dậy nàng còn đầm đìa nước
mắt. Và cũng như dạo ấy, nó lại tan biến đi trong ký ức nàng như làn hơi mờ đục
trên tấm kính chảy mồ hôi. Nhưng nàng vẫn có cảm giác là giấc chiêm bao đau đớn
và ghê sợ đó là điềm báo trước một tai họa sau này. Đmitri Xtêpanôvits khuyên
Đasa tiêm thạch tín. Mấy hôm sau nàng lại nhận được một bức thư nữa của Katya.
Chị nàng viết:
“Đanyusa yêu dấu, chị nhớ em, nhớ những người
thân và nhớ tổ quốc quá. Càng ngày chị càng nghĩ rằng ngay cả trong việc đoạn
tuyệt với Nikôlai chính chị cũng là người có lỗi. Sáng sáng chị thức dậy rồi suốt
cả ngày chị sống với cái cảm giác mình có lỗi như vậy, cùng là một cảm giác ê
chề bải hoải trong tâm hồn. Ngoài ra - chị không nhớ rõ trong thư trước chị đã
kể chuyện này chưa - đã được ít lâu nay có một người cứ theo dõi chị. Mỗi lần
ra khỏi nhà lại thấy hắn đi ngược lại. Hễ bước vào thang máy trong một cửa hàng
lớn, lên được vài tầng lại thấy hắn nhảy vào. Hôm qua chị đến viện bảo tàng Le
Luvrơ. Xem đã mệt, chị ngồi xuống một chiếc ghế dài. Thế rổi chị chợt có cảm
giác như có ai lấy tay vuốt lưng chị. Chị quay lại thì thấy hắn ngồi cách đấy
không xa. Đó là một người gày gò, tóc đen đã bạc nhiều, bộ râu quai nón trông
như thể dán vào má. Hai tay hắn vịn trên một chiếc can, đôi mắt trũng sâu nhìn
nghiêm khắc. Hắn không bắt chuyện, không xán vào làm quen, nhưng chị sợ hắn
quá. Chị cứ có cảm giác là hắn lượn thành vòng trôn ốc quanh chị...”
Đasa đưa bức thư cho cha xem. Sáng hôm sau
ngồi đọc báo, Đmitri Xtêpanôvits, giữa những câu chuyện khác, có nói:
- Mèo con ạ, con
đi Krưm đi.
- Để làm gì kia ạ?
- Con tìm cái anh Nikôlai Ivanôvits ấy mà bảo
với anh ta đừng ngồi không một cách vô tích sự như thế nữa, mà hãy đi sang Pari
với vợ đi. Nhưng thôi... củng tùy anh ta... Đây la việc riêng của họ...
Đmitri Xtêpanôvits bực mình và xúc động,
tuy ông rất ghét để lộ cảm xúc của mình ra. Đasa thì mừng lắm: nàng hình dung
miền Krưm là một khoảng không gian bao la, xanh biếc một màu, dạt dào tiếng
sóng, có vẻ đẹp diệu kỳ. Một cây phong dương chóp nhọn, bóng in dài trên mặt đất,
một chiếc ghế đá, một chiếc khăn quàng bay phất phơi sau vai, và đôi mắt lo âu
của một người nào đang dõi theo nàng...
Nàng nhanh nhẹn sửa soạn hành lý rồi đi
Evpatorya, nơi Nikôlai Ivanôvits đang nghỉ mát.
12
Mùa hè năm ấy ở Krưm khách nghỉ mát từ
phương bắc đổ về đông đúc khác thường. Suốt dọc bờ bể thấy lang thang những người
Pêterburg gầy guộc, xương xẩu, mũi tróc vảy, kéo lê theo những chứng viêm chảy
và viêm phế quản của họ, những người Moxkva với giọng nói uể oải và ngân nga,
những người Kiev mắt đen không hề phân biệt “o” và “a”, và những người Xibêri
giàu có khinh miệt cái cảnh lăng xăng nhộn nhịp của những người nghỉ mát từ Nga
đến. Họ thi nhau phơi nắng cho kỳ đen sạm đi, cho kỳ chín dòn ra như nướng: những
bà thiếu phụ, những cô thiếu nữ, những chàng thanh niên chân dài lêu nghêu, những
ông linh mục, những ông công chức, những ông chủ gia đình bệ vệ. Cũng giống như
tất cả mọi người lúc bấy giờ ở Nga, họ sống buông xuôi, ưỡn ẹo như người không
xương sống.
Đến khoảng giữa mùa hè, nước mặn, hơi nóng
và lớp da rám nắng đã làm cho tất cả những con người ấy mất hết cảm giác thẹn
thùng, những chiếc áo dài thành thị bắt đầu có vẻ nhàm mắt, và trên bãi cát dọc
bờ biển xuất hiện những người đàn bà chỉ che thân qua loa bằng những chiếc khăn
mặt Tatar và những người đàn ông giống như những nhân vật cổ đại vẽ trên các độc
bình của người Etruri.
Trong cái khung cảnh
khác thường này của những làn sóng xanh, những cồn cát nóng và của da thịt lõa
lồ thỗn thện khắp nơi, nền tảng của gia đình dần dần lung lay xiêu đổ. Ở đây
cái gì cũng có vẻ dễ dàng, cái gì cũng có thể được cả. Còn như sau này sẽ ra
sao, khi đã trở về phương bắc, trong căn nhà buồn tẻ, khi ngoài cửa sổ trời mưa
dầm dề, ở phòng ngoài chuông điện thoại réo liên hồi và ai nấy đều có một bổn
phận gì đấy đối với người này người nọ - đến khi ấy sẽ ăn nói ra sao, sẽ trả
giá như thế nào thì chẳng cần nghĩ đến làm gì cho bận tâm. Sóng bể rì rào trườn
lên bờ, mơn trớn đôi chân. Và nằm dài trên cát, hai tay giang rộng, mi mắt nhắm
nghiền, người ta thấy nhẹ nhõm, ấm áp, sảng khoái. Tất cả, tất cả, cho đến những
việc nguy hiểm nhất, đều dễ dàng và thú vị.
Mùa hè năm nay lối
sống phù phiếm và buông tuồng của khách nghỉ mát vượt ra ngoài mọi khuôn khổ, cứ
như thể mấy mươi vạn con người thành thị đã bị một khối lửa khổng lồ nào, từ vầng
thái dương cháy rực phụt ra trong một buổi sáng thứ sáu, làm cho mất hết trí nhớ
và lương tri.
Suốt dọc bờ bể không có lấy một biệt thự
nào thoát nạn. Những mối dây liên hệ vững chắc đột nhiên bị cắt đứt. Người ta
có cảm giác là ngay cả bầu không khí cũng tràn đầy tiếng thì thầm tình tứ, tiếng
cười lả lơi và tất cả những lời tự tình vô nghĩa không sao tả xiết từng được
nói lên trên quả đất nông nổi nhan nhản những di tích hoang tàn của các thành
phố cổ đại và những hài cốt của các dân tộc đã diệt vong. Tựa hồ như ở đây đang
sắp sửa một cuộc đền tội tổng quát và những giọt nước mắt đắng cay đang được
chuẩn bị cho những trận mưa trong mùa thu tới.
Đến quá trưa thì xe Đasa đến vùng lân cận
Evpatorya. Khi đã gần vào sát thành phố, nhìn từ con đường chạy dài thành một dải
trắng bụi bay mù mịt giữa cánh thảo nguyên bằng phẳng qua những thửa ruộng muối
và những đụn rạ, nàng chợt trông thấy về phía mặt trời một chiếc tàu buồm lớn bằng
gỗ. Nó chỉ cách chỗ nàng khoảng nửa dặm và đang khoan thai di chuyển trên thảo
nguyên, giữa những bụi ngải đắng, từ trên xuống dưới chăng đầy những cánh buồm
đen trở bề mặt sang một bên. Cảnh tượng lạ lùng đến nỗi Đasa ồ lên một tiếng.
Người đàn ông Armêni ngồi bên cạnh nàng trên xe hơi cười lớn nói: “Sắp trông thấy
bể ngay bây giờ đấy”.
Chiếc xe hơi rẽ ngoặt qua những đám ruộng
muối vuông vức, leo lên một cồn cát, và từ trên cồn cát nhìn ra đã trông thấy
biển. Nó như thể nằm cao hơn mặt đất, một màu xanh thẫm chạy những đường bọt trắng
ngoằn ngoèo. Một làn gió tươi vui thổi ví vút bên tai. Đasa nắm chặt chiếc
va-ly con đặt trên đùi và tự nhủ:
“Biển đây
rồi. Bắt đầu rồi đấy”.
Trong khi đó Nikôlai Ivanôvits Xmôkônikôv
ngồi trong một gian nhà thủy tạ xây nhô hẳn ra ra ngoài mặt biển, uống cà-phê với
anh chàng tình-nhân-hay-lý-sự. Sau giấc ngủ trưa, những người khách nghỉ mát
thường đến đây ngồi quanh các bàn con, gọi nhau, nói chuyện về lợi ích của cách
trị liệu bằng chất iôđ, về mục tắm biển và về phụ nữ. Trong nhà thủy tạ rất
mát. Gió thổi tung mép rìa những tấm khăn giải bàn, và những chiếc khăn quàng của
phụ nữ. Một chiếc thuyền yacht một buồm
luớt qua, từ trên thuyền có ai cất tiếng gọi vui vẻ. Một tốp người Moxkva rất
đông kéo vào và chiếm một cái bàn lớn. Đó toàn là những nhân vật lừng danh thế
giới cả. Trông thấy họ, anh chàng tình-nhân-hay-lý-sự nhăn mặt và tiếp tục kể nội
dung vở kịch anh ta đang định viết.
- Kịch của tôi thì chủ đề đã suy nghĩ kỹ,
nhưng mới viết xong màn đầu. - Anh nhìn vào mặt Nikôlai Ivanôvits, vẻ đăm chiêu
và tôn quý. - Anh vốn có một trí óc rất sáng sủa, Kôlya ạ, anh sẽ hiểu tư tưởng
của tôi: một thiếu phụ xinh đẹp đang buồn chán, ủ rũ, quanh nàng toàn những kẻ
tầm thường, dung tục. Những con người ấy vốn tốt, nhưng đã bị vũng lầy của cuộc
sống hút xuống. Bấy giờ họ rượu chè be bét, chỉ còn những tình cảm thối nát.
Nói tóm lại, anh hiểu chứ... Rồi một hôm nàng nói: “Ta phải đi, phải đoạn tuyệt
với cuộc sống này, đi về một chân trời tươi sáng...”. Chồng nàng và bạn trai của
nàng ở lại... Cả hai đều đau khổ... Kôlya, anh hiểu chứ, cuộc sống đã hút họ xuống...
Nàng bỏ đi, không phải là đi với ai đâu. Ở đây không có tình nhân, tất cả đều dựa
trên cơ sở tâm trạng... Thế rồi hai người đàn ông ngồi trong tửu điếm, im lặng
uống rượu... Họ nuốt nước mắt cùng với rượu cô-nhắc... Gió trong lò sưởi rú
lên, như đưa ma cho họ... Buồn... Trống trải... Tối tăm...
- Anh muốn biết ý kiến của tôi phải không?
- Nikôlai Ivanôvits hỏi.
- Muốn lắm. Anh chỉ cần nói: “Misa anh đừng
viết nữa, bỏ quách đi”, tôi bỏ ngay.
- Vở kịch của anh rất đặc sắc. Đó chính là
cuộc sống - Nikôlai Ivanôvits nhắm mắt, lắc mạnh đầu. - Đúng, Misa ạ, trước đây
chúng ta không biết quý hạnh phúc của mình, thế rồi nó đã đi mất, và chúng ta,
không còn chút hy vọng, không còn chút nghị lực, chỉ còn biết ngồi uống chén rượu
tiêu sầu. Và gió thổi hun hút trên mồ chúng ta... Vở kịch của anh làm tôi hết sức
xúc động.
Hai mi dưới bùng nhùng của anh chàng
tình-nhân-hay-lý-sự rung rung, anh ta chìa môi ra và hôn Nikôlai Ivanôvits thật
mạnh, rồi rót cho mình và cho bạn mỗi người một cốc. Họ chạm cốc với nhau, chống
khuỷu tay lên bàn và tiếp tục tâm sự.
- Kôlya - anh tình-nhân-hay-lý-sự nói, mắt
gườm gườm nhìn Nikôlai Ivanôvits - trước đây anh có biết rằng tôi yêu vợ anh
say đắm không?
- Có, tôi có cảm thấy thế.
- Tôi đau khổ lắm. Kôlya ạ, nhưng anh là bạn
tôi... Đã bao lần tôi ra khỏi nhà anh như chạy trốn, thề không bao giờ bước qua
ngưỡng cửa nữa... Nhưng rồi tôi lại đến và đóng vai thằng hề... Còn anh,
Nikôlai ạ, anh chớ bao giờ buộc tội nàng, - anh ta chẩu môi ra một cách dữ tợn.
- Misa ạ, cô ấy đã đối xử với tôi một cách
tàn nhẫn.
- Có thể... Nhưng chúng ta đều có lỗi đối với
nàng... Chao ơi, Kôlya, anh có một điều tôi không thể hiểu nổi: làm sao mà
trong khi sống với một người đàn bà như vậy, đồng thời anh lại có thể - xin lỗi
anh - tằng tịu với một bà góa chồng như Xôfya Ivanôvna. Tại sao?
- Đó là một vấn đề phức tạp.
- Anh nói dối. Tôi đã trông thấy bà ta: một
con gà mái tầm thường.
- Misa ạ, bây giờ thì câu chuyện đã qua rồi,
dĩ nhiên... Xôfya Ivanôvna chẳng qua chỉ là người tốt. Cô ấy cho tôi những phút
vui mà không đòi hỏi chút gì. Còn ở nhà thì cái gì cũng quá phức tạp, quá khó
khăn, quá sâu xa... Đối với Êkatêrina Đmitrievna, tôi không có đủ sức mạnh tinh
thần...
- Kôlya ạ, nhưng chẳng lẽ... rồi chúng ta sẽ
về Pêterburg, ngày thứ ba sẽ đến, tôi sẽ ghé nhà anh sau buổi kịch... Và nhà
anh sẽ trống không... Tôi làm thế nào sống nổi?... Anh ạ... Bây giờ vợ anh ở
đâu?
- Ở Pari.
- Anh có viết thư không?
- Không.
- Anh đi Pari đi. Ta cùng đi.
- Vô ích.
- Kôlya, ta hãy nâng cốc chúc sức khỏe
nàng.
- Nào, ta nâng cốc.
Trong nhà thủy tạ, giữa các bàn con chợt thấy
nữ diễn viên Tsarôđêyeva xuất hiện, mình mặc chiếc áo màu lục trong suốt, đầu đội
chiếc mũ rộng vành, người gầy như con rắn, mắt thâm quầng. Chắc hẳn cột xương sống
nàng không được vững, vì nàng cứ ưỡn ẹo như chỉ chực gẫy gập người xuống. Ông
chủ bút tờ tạp chí mỹ học “Hợp xướng của các Nàng thơ” đứng dậy đón nàng, cầm lấy
tay nàng và thong thả hôn lên mặt trên khuỷu tay nàng.
- Một người đàn bà kỳ lạ, - Nikôlai Ivanôvits
nói qua kẽ răng.
- Không, Kôlya ạ, không có gì đâu.
Tsarôđêyeva chỉ là một thây ma. Có gì đâu?... Cô ta sống ba tháng với Bexxônôv,
ở các buổi biểu diễn ca nhạc thì cô ta ngâm những bài thơ suy đồi với cái giọng
như mèo kêu... Anh xem kìa, xem kìa: miệng rộng hoác đến tận mang tai; cổ nổi đầy
gân xanh. Đó không phải là một người đàn bà, đó là một con linh cẩu.
Tuy vậy, khi Tsarôđêyeva vừa gật gật cái mũ
chào bên này bên kia vừa nhoẻn cái miệng rộng với đôi môi hồng hồng ra cười
duyên và đi về phía bàn hai người, anh tình-nhân-hay-lý-sự, như thể bị choáng
váng, cũng từ đứng dậy, chập hai tay vào nhau đưa lên cằm.
- Ôi... Ninôtska thân mến... Cô phục sức thật
tuyệt vời!... Không ạ, tôi chịu thôi, chịu thôi... Các bác sĩ dặn tôi phải nghỉ
hoàn toàn, cô bạn ạ...
Tsarôđêyeva đưa bàn tay xương xẩu vỗ lên má
anh ta, nhíu mũi lại.
- Thế hôm qua anh nói nhảm gì về tôi ở tiệm
ăn thế?
- Hôm qua tôi nói xấu cô ở tiệm ăn ấy à?
Ninôska!
- Mà lại nói xấu thậm tệ chứ.
- Người ta vốn vu khống cho tôi đấy, xin thề
như vậy.
Tsarôđêyeva cười khanh khách, giơ ngón tay
út đặt lên môi anh ta: “Anh cũng biết tôi không thể giận anh lâu được”. Rồi
chuyển sang một giọng khác, vốn giành cho một vở kịch sinh hoạt thượng lưu tưởng
tượng nào đấy, nàng nói với Nikôlai Ivanôvits:
- Vừa rồi tôi có đi ngang phòng ông: ông có
khách đấy, hình như một người bà con của ông thì phải, một thiếu nữ rất xinh.
Nikôlai Ivanôvits đưa mắt rất nhanh về phía
bạn, rồi cầm lấy điếu xì gà hút dở để trên cái đĩa và hút liền mấy hơi, đến nỗi
khói tỏa ra lấp cả bộ râu.
- Thật bất ngờ, - ông nói, - có chuyện gì
thế không biết?... Tôi chạy về tí đây. - Ông ném điếu xì gà xuống biển và chạy
xuống cầu thang nhà thủy tạ, tay quay quay chiếc can, mũ đội hất ra sau gáy. Về
đến khách sạn, Nikôlai Ivanôvits đã bắt đầu thở dốc ra.
- Đasa, em đến có việc gì? Có chuyện gì xảy
ra thế? - ông vừa hỏi vừa đóng cửa phòng lại. Đasa ngồi giữa sàn, bên cạnh cái
va-ly mở nắp, mạng lại một chiếc bít-tất. Khi ông anh rể vào, nàng thong thả đứng
dậy, chìa má ra cho ông ta hôn rồi nói, giọng lơ đãng:
- Rất mừng được gặp anh. Ba với em quyết định
bàn với anh là anh nên đi Pari. Em có mang theo hai bức thư của chị Katya. Đây,
anh đọc đi.
Nikôlai Ivanôvits cầm lấy thư và ra ngồi cạnh
cửa sổ. Đasa vào phòng tắm thay áo, tai nghe tiếng động ở phòng bên: ông anh rể
đang loạt xoạt giở đọc từng trang thư, chốc chốc lại thở dài. Một lát sau thấy
im hẳn, Đasa hồi hộp chờ đợi.
- Em ăn trưa chưa? - bỗng có tiếng hỏi, - Nếu
em đói, ta ra nhà thủy tạ ăn.
Đasa nghĩ bụng: “Anh ta chẳng còn yêu chị ấy
chút nào nữa rồi”, đoạn cầm chiếc mũ chụp cả hai tay đội lên đầu và quyết định
gác câu chuyện đi Pari sang ngày hôm sau.
Trên đường ra nhà thủy tạ Nikôlai Ivanôvits
cứ lặng thinh mắt nhìn xuống chân, nhưng khi Đasa hỏi: “Anh vẫn tắm bể đấy chứ?”
thì ông vui vẻ ngẩng đầu lên và bắt đầu kể lể rằng ở đây ông và các bạn bè có
thành lập một hội đấu tranh chống các kiểu áo tắm, chủ yếu nhằm những mục đích
vệ sinh.
- Em thử tưởng tượng mà xem, trong một
tháng tắm nước mặn trên bãi bể này có thể hấp thu một lượng iôđ nhiều hơn là
người ta có thể đưa vào người bằng phương pháp nhân tạo cũng trong thời gian ấy.
Ngoài ra, cơ thể còn hấp thụ ánh nắng và hơi ấm của cát nữa. Đối với cách ăn mặc
của đàn ông thì còn khá: chỉ có một xlíp nhỏ, nhưng phụ nữ thì che mất gần hai
phần ba thân thể rồi còn gì! Bọn anh đã bắt đầu đấu tranh quyết liệt với tình
trạng này... Đến chủ nhật anh sẽ thuyết trình một buổi về vấn đề này.
Họ men theo bờ biển, bước trên một lớp cát
màu vàng nhạt êm như nhung, do vô số những vỏ sò mỏng bị sóng đánh tan ra mà
thành. Cách đấy không xa, nơi có những đợt sóng nhỏ xô lên dải cát rồi vỡ tan
ra thành những đám bọt sủi lên trắng xóa, hai thiếu nữ đội mũ chụp đỏ đang bồng
bềnh trên mặt nước như hai cái phao.
- Đệ tử của bọn anh đấy - Nikôlai Ivanôvits
nói, giọng nghiêm trang.
Trong lòng Đasa mỗi lúc một dấy lên mạnh
hơn một cảm giác mơ hồ không ra khích động mà cũng chẳng phải là lo âu. Nàng bắt
đầu có cái cảm giác này từ khi trông thấy chiếc tàu buồm đen trên thảo nguyên.
Đasa dừng lại, nhìn những đợt sóng chuồi nhẹ
vào bờ thành những màng nước mỏng liếm lên cát rồi rút đi, để lại những dòng suối
con con, và sự tiếp xúc nhịp nhàng này giữa nước với đất có một cái gì vui tươi
và vĩnh cửu đến nỗi Đasa ngồi thụp xuống và nhúng hai tay xuống đấy. Dưới nước,
một con dã tràng nhỏ lưng dẹt hấp tấp bò ngang sang một bên, phun ra một đám
mây nhỏ bằng cát tụt sâu xuống dưới đáy. Đợt sóng đã làm ướt cánh tay Đasa, bên
trên khuỷu tay một chút.
- Em có một cái gì khác trước ấy, - Nikôlai
Ivanôvits lim dim đôi mắt nói, - không biết là vì em đã xinh thêm lên nữa, hay
là vì em có gầy đi, hay có lẽ em đã đến lúc nên lấy chồng?
Đasa ngoảnh lại, nhìn Nikôlai Ivanôvits một
cách ngỡ ngàng, đứng dậy và không buồn lau hai cánh tay, nàng đi về phía nhà thủy
tạ, nơi anh tình-nhân-hay-lý-sự đang cầm cái mũ rơm vẫy vẫy.
Họ thết Đasa những chiếc bánh tsêburek và một cốc sữa chua, họ cho
nàng uống sâm-banh; anh tình-nhân-hay-lý-sự cứ cuống lên, chốc chốc lại đứng đực
ra một lát, miệng lẩm bẩm như nói một mình: “Trời ơi, xinh quá đi mất!”. Rồi
anh ta đưa mấy chàng thanh niên nào đấy đến giới thiệu: đó là những anh học
sinh trường kịch; họ nói khe khẽ, giọng nghẹt đi như khi xưng tội. Nikôlai
Ivanôvits rất hãnh diện khi thấy “Đasurka của mình” được mọi người hâm mộ như vậy.
Đasa uống rượu, cười khanh khách, chìa tay
ra cho người này, người nọ hôn, và nhìn đăm đăm ra mặt biển cồn sóng long lanh
ánh ngọc bích. “Hạnh phúc đấy” - Nàng nghĩ thầm.
Sau khi tắm biển và đi dạo, họ về ăn tối ở
khách sạn. Xung quanh náo nhiệt, rực rỡ và thanh lịch. Anh tình-nhân-hay-lý-sự
nói rất nhiều và rất hăng về tình yêu. Nikôlai Ivanôvits nhìn Đasa, uống rượu
tì tì và buồn thỉu buồn thiu... Còn Đasa thì cứ nhìn qua khe rèm những ánh loang
láng khi ẩn khi hiện đang lướt trên mặt nước. Cuối cùng nàng đứng dậy và đi ra
bờ biển. Một vầng trăng rõ nét và trông rất gần, như trong các chuyện của nàng
Sêhêrazađ, treo lơ lửng phía trên một con đường giát bạc chạy suốt mặt biển đến
tận chân trời. Đasa đan hai bàn tay vào nhau và bẻ ngón tay kêu răng rắc.
Nghe tiếng Nikôlai Ivanôvits gọi, nàng rảo
bước bỏ đi thật nhanh dọc những làn sóng đang uể oải trườn lên bờ. Trên cát có
một bóng phụ nữ đang ngồi và bóng một người nữa, một người đàn ông, nằm gối đầu
lên đùi người kia. Giữa những đốm sáng lung linh trên mặt nước màu tím thẫm bập
bềnh một đầu người đang bơi, đôi mắt phản chiếu ánh trăng nhìn Đasa và theo dõi
nàng hồi lâu. Xa hơn, một đôi trai gái đang ôm chặt lấy nhau; khi đi ngang chỗ
họ đứng, Đasa nghe thấy họ thở dài và hôn nhau.
Xa xa phía sau lưng có tiếng gọi: “Đasa!
Đasa!” Nàng ngồi xuống cát, chống khuỷu tay lên đầu gối và tì cằm lên bàn tay.
Giá thử bây giờ Têlêghin đến, ngồi xuống cạnh nàng, quàng tay ôm ngang lưng
nàng và cất tiếng hỏi khe khẽ, nghiêm nghị: “Em có phải là của anh không?” -
Nàng sẽ đáp: “Em là của anh”.
Sau cồn cát, một bóng người xam xám nằm úp
mặt xuống đất, bắt đầu nhúc nhích, ngồi dậy gục đầu xuống rồi nhìn hồi lâu cái
vệt sáng trăng trên mặt biển đang rung rinh, chập chờn như muốn làm trò vui cho
trẻ em, rồi đứng dậy và thất thểu đi qua chỗ Đasa ngồi, thẫn thờ như một bóng
ma. Tim chợt đập rộn rã điên cuồng. Đasa nhận ra Bexxônôv.
Đasa bắt đầu sống những ngày cuối cùng của
thế giới cũ. Những ngày vui tươi và vô tư lự, thấm ánh nắng của mùa hạ đang
tàn, chẳng còn được bao nhiêu. Nhưng những người đã quen nghĩ rằng ngày mai
cũng rõ ràng sáng sủa như những đường viền xanh lam của dãy núi xa xa, dù họ có
thông minh và thấu suốt chăng nữa, cũng không thể thấy được, biết trước được
cái gì sẽ kế theo khoảnh khắc họ đang sống. Sau cái khoảnh khắc tràn đầy hương
sắc phong phú, tràn đầy nhựa sống dào dạt ấy là một cõi tối tăm không có gì soi
thấu được. Dù nhãn quan, cảm giác hay tư duy, cũng đều không thể rọi vào đấy lấy
một gang tấc, may ra chỉ có một trực cảm mơ hồ như của loài dã thú trong cơn
giông, cho phép một vài người cảm thụ được những điều sắp diễn ra. Cái trực cảm
ấy giống như một nỗi lo âu vô ích không sao giải thích nổi. Và trong thời gian ấy
một đám mây vô hình buông dần xuống mặt đất, quay cuồng điên dại thành những đường
lượn đắc thắng và hung hãn, ngả nghiêng và rũ rượi. Và hiện tượng ấy chỉ được
đánh dấu bằng một dải bóng nắng chạy từ đông nam sang tây bắc, quét sạch tất cả
cuộc sống cũ tươi vui và tội lỗi trên cõi đời này.
13
Bexxônôv nằm dài trên bãi bể hết ngày này
sang ngày khác. Quan sát những gương mặt tươi cười của phụ nữ phủ một lớp rám nắng
như làm bằng bụi, và những gương mặt khích động nhuộm màu đồng đỏ của đàn ông,
chàng ngán ngẫm cảm thấy tim mình như một tảng băng nằm trong lòng ngực. Nhìn
ra biển, chàng nghĩ rằng đã nghìn vạn năm nay nó xua sóng dào dạt vỗ vào bờ. Và
bờ thì ngày nay đã rộn rịp bóng người, nhưng rồi loài người sẽ tuyệt diệt đi,
và bờ bể lại vắng tanh, nhưng biển cả vẫn mãi mãi dồn sóng vào bờ cát. Chàng
cau mặt, lấy mấy ngón tay cào vỏ sò lại thành một đống nhỏ và cắm mẩu thuốc lá
đã tắt vào đấy. Rồi chàng đi tắm. Rồi chàng uể oải ăn bữa tối. Rồi chàng đi ngủ.
Tối hôm qua cách chàng một quãng không xa
có một người con gái nào ngồi xuống cát nhìn ánh trăng một hồi lâu. Người nàng
phảng phất mùi lan tím. Một kỷ niệm thoáng qua trong ký ức mụ mẫm của chàng.
Bexxônôv trăn trở trên cồn cát rồi nghĩ: “Thôi đi, không cắn vào cái lưỡi câu ấy
được đâu! Về nhà ma! Đi ngủ!” - đoạn đứng dậy thất thểu về khách sạn.
Sau chuyến gặp gỡ này Đasa sợ lắm. Trước
đây nàng cứ tưởng cuộc sống Pêterburg với những đêm vui náo nhiệt ấy đã vĩnh viễn
lùi về quá khứ, và Bexxônôv, con người mà không hiểu vì sao cứ ám ảnh trí tưởng
tượng của nàng, đã bị quên hẳn đi rồi. Nhưng chỉ cần một khóe nhìn, chỉ cần cái
phút ngắn ngủi mà bóng chàng lướt qua, in lên nền trời sáng trăng, trong lòng
nàng đã dấy lên tất cả những cảm xúc trước kia với một sức mạnh mới, chứ không
phải chỉ còn lại những hồi quang mơ hồ leo lét. Bây giờ có cả một ước vọng minh
xác, nóng rực như ánh nắng giữa trưa hè: nàng khao khát được cảm giác con người
này. Không yêu, không đau khổ, không nghĩ ngợi, mà chỉ cảm giác.
Ngồi trong căn buồng trắng tràn ngập ánh
trăng trên chiếc giường trắng tinh, nàng nhắc đi nhắc lại với một giọng yếu ớt:
- Trời ơi, trời ơi, thế này là thế nào hở
trời?
Quá sáu giờ sáng Đasa ra bờ biển, cởi quần
áo, lội xuống nước ngập đến đầu gối và nhìn ra biển. Mặt biển nhợt nhạt một màu
xanh phơn phớt, và chỉ ở xa xa mới có đôi chỗ thoáng gợn lăn tăn. Nàng thong thả
bước ra. Nước từ từ dâng lên quá đầu gối, rồi lại hạ xuống thấp hơn. Đasa giang
tay ra, ngả mình xuống làn nước xanh mát rượi và bắt đầu bơi. Rồi người tráng một
lớp nước mặn mát mẻ, nàng quàng chiếc áo lông và nằm xuống lớp cát đã bắt đầu ấm
dần, gối đầu lên cánh tay.
- Ta chỉ yêu có một mình Ivan Ilyits mà
thôi, - nàng nghĩ thầm, má áp vào cánh tay thoảng mùi nước mát dịu, - ta yêu,
ta yêu Ivan Ilyits. Với chàng, ta thấy trong sạch, tươi mát, vui mừng. Đội ơn
Chúa, ta yêu Ivan Ilyits, ta sẽ lấy chàng”.
Nàng nhắm mắt lại và thiếp dần, cảm thấy
làn nước sát bên cạnh đang lên xuống dạt dào theo nhịp thở của nàng.
Giấc ngủ của nàng êm ái quá. Nàng luôn luôn
cảm thấy thân thể mình được làn cát mịn ấm áp nâng lên, nhẹ lâng lâng. Và trong
giấc ngủ nàng tự thấy yêu mình quá chừng.
Đến chiều, khi tà dương hình cầu dèn dẹt
buông dần xuống một chân trời cháy rực màu da cam không gợn một bóng mây, Đasa
gặp Bexxônôv ngồi trên một tảng đá bên con đường mòn lượn ngoằn ngoèo qua cánh
đồng ngải đắng bằng phẳng. Đasa đã tình cờ đến đây trên đường đi dạo. Trông thấy
Bexxônôv, nàng đứng lại, định quay lui, bỏ chạy, nhưng cái cảm giác nhẹ lâng
lâng ban nãy lại biến mất, và chân nàng nặng trĩu như đã gắn chặt xuống đất.
Nàng ngước mắt lên nhìn trộm Bexxônôv đang đi lại, hầu như không có vẻ gì ngạc
nhiên về cuộc gặp gỡ này. Chàng cất mũ và cúi đầu chào một cách khiêm nhường
như lối chào của các tu sĩ.
- Ra hôm qua tôi không nhầm, Đarya
Đmitrievna ạ. Chính cô ngồi trên bờ biển, phải không?
- Phải, chính tôi.
Chàng im lặng một lát, mắt cụp xuống, rồi
ngẩng lên nhìn qua vai Đasa, vào một nơi nào rất xa trên thảo nguyên.
- Trên cánh đồng này vào lúc chiều hôm người
ta cảm thấy như mình đang đứng trên sa mạc. Ít có ai qua lại chỗ này. Xung
quanh toàn là ngải đắng, đá sỏi, và đến hoàng hôn cứ ngỡ chừng trên quả đất này
không còn lại một người nào nữa.
Bexxônôv cất tiếng cười, hai hàng răng trắng
từ từ hé ra. Đasa nhìn chàng với đôi mắt một con chim hoang dại. Rồi nàng bước
cạnh Bexxônôv trên con đường mòn. Hai bên đường và trên khắp thảo nguyên mọc đầy
những bụi ngải đắng nhỏ và tỏa ra một mùi hương hăng hắc. Dưới ánh trăng hãy
còn nhợt nhạt, mỗi bụi cây hắt xuống mặt đất khô cằn một cái bóng mờ mờ. Trên đầu,
hai con dơi bay lên lượn xuống, vẽ thành những đường không đều, cánh run rẩy,
nom rất rõ trên nền trời đỏ rực ánh tà dương.
- Cám dỗ, những sự cám dỗ! Không thể trốn
đi đâu cho thoát khỏi cám dỗ, - Bexxônôv buông ra một câu, - nó quyến rũ và dụ
dỗ người ta, và rốt cục người ta lại rơi vào cạm bẫy man trá. Cô xem tạo hóa đã
tinh xảo chưa, - chàng giơ chiếc gậy chỉ lên vầng trăng lơ lửng không cao lắm
trên nền trời. - Suốt đêm trăng sẽ đan lưới, con đường mòn sẽ cải trang thành một
dòng suối, mỗi bụi cây sẽ giả làm một vật có hồn, ngay một thây ma cũng đâm ra
xinh đẹp, và gương mặt đàn bà sẽ có vẻ huyền bí. Và có lẽ cần phải thế thật: tất
cả sự minh mẫn khôn ngoan đều nằm gọn trong sự man trá ấy... Cô hạnh phúc
quá...
- Sao lại là man trá? Theo tôi thì chẳng có
gì là man trá. Chẳng qua là trời sáng trăng - Đasa nói giọng bướng bỉnh.
- Thì dĩ nhiên rồi, Đarya Đmitrievna ạ, dĩ
nhiên rồi... “Hãy như lũ trẻ thơ” mà! Sự man trá là ở chỗ tôi không hề tin một
chút nào những thứ đó. Nhưng “cũng hãy như loài rắn”. Vậy thì làm thế nào kết hợp
được cả hai? Muốn thế cần có cái gì?... Họ bảo tình yêu có sức hòa hợp? Cô thì
cô nghĩ thế nào?
- Tôi không biết. Tôi không nghĩ gì hết.
- Tình yêu từ những không gian nào đến? Làm
sao dụ dỗ nó về? Lời thần chú nào có hiệu lực? Phủ phục xuống đất và khấn khứa:
Lạy Chúa, Chúa hãy ban cho con tình yêu!... - Chàng cười lặng lẽ, để lộ hàng
răng.
- Tôi không đi nữa đâu. - Đasa nói, - tôi
muốn trở về bờ biển.
Họ quay trở lại, và bây giờ hai người đi giữa
cánh đồng ngải đắng, về phía một cồn cát. Đột nhiên Bexxônôv nói, giọng dịu
dàng và dè dặt:
- Tôi nhớ như in, đến từng lời từng chữ, những
điều cô nói với tôi hồi nào ở Pêterburg. Tôi đã làm cho cô sợ hãi (Đasa nhìn thẳng
trước mặt bước rất nhanh). Lúc bấy giờ có một cảm giác làm cho tôi bàng
hoàng... Không phải vì sắc đẹp đặc biệt của cô, không... Cái làm cho tôi rung động
sâu sắc, thấm thía, là tiếng nhạc không sao tả xiết trong giọng nói của cô. Hôm
ấy tôi nhìn cô nghĩ thầm: đây là cứu tinh của tôi - phải hiến dâng trái tim cho
cô, trở thành bần cùng, nhẫn nhục, tan biến đi trong ánh sáng của cô... Hay có
lẽ phải chiếm lấy trái tim cô? Và trở thành vô cùng giàu có?... Cô thử nghĩ mà
xem, Đarya Đmitrievna ạ, thế rồi cô đã đến, và tôi phải giải cho xong bài tính
đố ấy.
Đasa vượt lên trước, chạy lên cồn cát. Dải
ánh trăng rộng chạy dài trên khối nước nặng nề, óng ánh như vẩy cá, đến chân trời
thì dừng lại thành một vệt sáng dài, và ở phía trên vệt sáng là một cái tán mờ
đục. Tim Đasa đập mạnh đến nỗi nàng phải nhắm mắt lại. “Lạy Chúa cứu con thoát
khỏi tay hắn” - nàng nghĩ thầm. Bexxônôv thọc thọc đầu gậy xuống cát.
- Nhưng phải quyết định đi thôi, Đarya
Đmitrievna... Phải có một người bị thiêu trên ngọn lửa này...
- Tôi không hiểu, - Đasa nói giọng ngắt
quãng.
- Chỉ có khi nào cô đã mất hết, đã bần cùng
khánh kiệt, đã bị thiêu ra tro, thì khi đó cô mới bắt đầu sống thực sự, Đarya
Đmitrievna ạ... Không cần gì đến ánh trăng này... không cần cái thuật cám dỗ ba
xu ấy. Cô sẽ có được trí hiền minh. Muốn thế cô chỉ cần tháo bỏ cái dải thắt
lưng trinh nữ của cô ra mà thôi.
Hai tay giá ngắt của Bexxônôv nắm lấy tay
Đasa, chàng nhìn vào đáy mắt nàng. Đasa chỉ còn có đủ sức để từ từ nhắm nghiền
mắt lại. Sau mấy phút im lặng dài đằng đẵng Bexxônôv nói:
- Nhưng thôi, tốt hơn là cô đi về mà ngủ
đi. Tôi cũng thế. Chúng ta đã nói chuyện, đã thảo luận vấn đề từ đủ mọi phía; vả
lại cũng khuya rồi...
Bexxônôv đưa Đasa về đến khách sạn, lễ phép
chúc nàng ngủ ngon, rồi hất chiếc mũ ra sau gáy và đi men theo làn nước, đôi mắt
soi mói nhìn những bóng người lờ mờ đang đi dạo trên bờ biển. Bỗng chàng dừng
phắt lại, quay lui và đến gần một người đàn bà cao dong dỏng đang đứng im lìm,
vai quấn chiếc khăn san trắng.
Bexxônôv khoác chiếc can ra sau vai, cầm lấy
hai đầu rồi nói:
- Chào Nina.
- Chào anh.
- Em làm gì một mình trên bờ biển thế?
- Tôi đứng...
- Sao em lại đứng một mình?
- Một mình là vì chỉ có một mình, -
Tsarôđêyeva đáp khẽ, giọng giận dữ.
- Em vẫn còn giận kia à?
- Không đâu, anh bạn ạ. Tôi đã bình tâm lại
từ lâu.
- Nina, đi về với anh đi.
Tsarôđêyeva hất ngược đầu ra phía sau và im
lặng hồi lâu, rồi trả lời, giọng run run, nghe như mờ đục đi:
- Anh điên rồi à?
- Chả nhẽ bây giờ em mới biết?
Chàng cầm lấy cánh tay nàng, nhưng nàng giật
phắt ra và chậm rãi bước bên cạnh chàng, dọc những ánh trăng loang loáng đang
lướt theo gót họ trên mặt nước đen quánh như dầu.
Sáng hôm sau Nikôlai Ivanôvits rụt rè gõ
vào cánh cửa buồng đánh thức Đasa dậy.
- Đanyusa, dậy đi, em bé, dậy đi uống cà
phê với anh.
Đasa buông hai chân xuống thành giường,
nhìn đôi bít tất và đôi giày vải - cả hai đều phủ bụi xám xịt. Việc gì vừa xảy
ra. Hay nàng đã thấy lại giấc chiêm bao ghê tởm kia? Không. Không phải, còn tệ
hơn một cơn ác mộng nhiều. Đasa mặc quần áo qua loa rồi đi tắm.
Nhưng nước làm cho nàng mệt mỏi, nắng làm
cho nàng thấy bức bối. Trên mình khoác chiếc áo choàng lông, tay ôm lấy hai đầu
gối để trần, nàng nghĩ rằng ở đây không thể xảy ra một chuyện gì tốt lành hết.
“Vừa khờ, vừa nhát, lại vừa lười. Trí tưởng
tượng quá hay cường điệu. Bản thân mình cũng không biết mình muốn gì. Sáng thế
này, chiều đã thế khác. Đúng cái kiểu người mình vẫn ghét cay ghét đắng”.
Đasa nghiêng mái đầu nhìn ra biển, và lòng
nàng thấy buồn và hoang mang đến ứa nước mắt ra.
“Thử nghĩ mà xem, báu lắm đấy mà cứ phải
khư khư giữ mãi. Ai người ta cần đến cái ấy? không một ai ở trên đời này hết.
Mình không yêu ai, thực sự hết. Rốt cục hắn ta nói đúng: tốt hơn là đốt hết,
cháy quách đi và trở thành một người tỉnh táo. Hắn ta đã gọi, thế thì ngay tối
hôm nay ta sẽ đến và... Ôi, không được!...”
Đasa gục mặt xuống đầu gối: mặt nàng nóng hừng
lên không sao chịu nổi. Và nàng thấy rõ rằng không thể tiếp tục cuộc sống nước
đôi này nữa. Mãi rồi cũng phải thoát ra khỏi cái tình trạng trinh bạch không
tài nào chịu đựng lâu hơn được nữa. Hãy cứ mặc cho tai họa xảy ra. Nàng ngồi thừ
ra, ngán ngẫm nghĩ tiếp:
“Giả sử mình sẽ đi khỏi nơi này. Về với bố.
Với bụi bặm. Với ruồi nhặng. Đợi đến mùa thu. Năm học sẽ bắt đầu. Mình sẽ làm
việc mười hai tiếng một ngày. Mình sẽ khô đét đi, trở thành một con mụ xấu như
ma ấy. Mình sẽ học công pháp quốc tế thuộc làu làu. Mình sẽ mặc váy vải: nhà nữ
luật sư Bulavina đáng kính. Tất nhiên đó là một tiền đồ rất đáng trọng vọng”.
Đasa phủi những hạt cát bám trên da và trở
về khách sạn. Nikôlai Ivanôvits đang nằm trên sân thượng, mình mặc bộ pyjama lụa,
đọc một cuốn tiểu thuyết bị cấm của Anatôl Frăngx. Đasa ngồi ghé lên tay vịn
chiếc ghế xích đu, rồi vừa đung đưa chiếc giày vải vừa nói, vẻ trầm ngâm:
- Vừa rồi anh với em định nói chuyện về chị
Katya.
- Phải, phải.
- Anh Nicôlai ạ, cuộc sống của phụ nữ nói
chung rất khổ. Đến mười chín tuổi đầu, chẳng biết xoay xở ra sao nữa.
- Vào tuổi em ấy, Đanyusa ạ, phải sống cho
trọn vẹn, không nghĩ ngợi lôi thôi. Nghĩ nhiều lắm rồi cũng chẳng đi đến đâu.
Anh thấy em dạo này đẹp phát khiếp lên được ấy Đasa ạ.
- Em biết ngay mà! Nói chuyện với anh chẳng
được cái gì hết, anh Nikôlai ạ. Bao giờ anh cũng nói những chuyện đâu đâu ấy,
mà lại nói một cách chẳng tế nhị chút nào. Chính vì thế chị Katya mới bỏ anh đấy.
Nikôlai Ivanôvits cười phá lên, đặt cuốn tiểu
thuyết của Anatôl Frăngx lên bụng và chắp đôi bàn tay mập mạp ra sau gáy.
- Mùa mưa gió sẽ bắt đầu, và con chim nhỏ sẽ
tự nó bay về nhà. Em còn nhớ chị ấy thường rỉa lông rỉa cánh như thế nào chứ?...
Bất chấp tất cả những việc đã xảy ra, anh vẫn rất yêu Katyusa. Thôi thì cũng
hòa cả làng.
- A, ra bây giờ
anh lại nói cái giọng ấy! Thế nhưng em đây này, nếu em ở vào địa vị Katya em
cũng sẽ xử sự với anh đúng như thế.
Đoạn nàng tức giận
bỏ ra đứng ở lan can. Nikôlai Ivanôvits nói:
- Rồi đây lớn tuổi
hơn, em sẽ thấy rằng quan trọng hóa những chuyện không may trong cuộc sống là
có hại và không thông minh. Cái lối của họ Bulavin nhà các cô là thế: cái gì
cũng phức tạp hóa ra... Phải giản dị hơn, giản dị hơn nữa, phải gần thiên nhiên
hơn...
Ông ta thở dài rồi
im lặng ngắm nghía mấy cái móng tay. Một cậu học sinh cưỡi xe đạp phóng qua trước
mặt sân thượng, mồ hôi đầm đìa: cậu ta vừa đi ra phố lấy thư về cho khu nghỉ
mát.
- Em sẽ về nhà quê làm hương sư. - Đasa
nói, vẻ lầm lầm. Nikôlai Ivanôvits hỏi lại ngay:
- Em đi đâu?
Nhưng nàng không đáp, lẳng lặng trở về buồng.
Họ đem lại cho Đasa hai bức thơ, một của Katya, một của cha nàng. Ông Đmitri
Xtêpanôvits viết:
“Ba gửi bức thư của Katyusa cho con. Ba có
đọc thư ấy: nó không làm cho ba hài lòng. Nhưng thôi, anh ấy với con muốn thế
nào thì cứ thế mà làm. Ở đây mọi sự đều như cũ. Trời rất nóng. Ngoài ra, hôm
qua, Xêmiôn Xêmiônôvits Gôvyađin đã bị mấy gã thợ mù-tạt đánh cho một trận nhừ
tử, nhưng vì sao mà bị chúng đánh thì ông ta giấu biệt. Đấy tin tức chỉ có thế.
À, còn có chiếc bưu ảnh của một ông Têlêghin nào đấy gửi đến, nhưng ba đánh mất
mất rồi. Hình như ông ta cũng đang ở Krưm thì phải, hay ở đâu ba cũng quên mất
rồi”.
Đasa đọc lại rất kỹ mấy dòng sau cùng, và
tim nàng bỗng đập dồn dập. Rồi, bực mình quá, nàng giẫm mạnh chân xuống đất.
Tha hồ mà mừng nhé: “không biết là ở Krưm hay ở đâu đấy...”. Ông cụ quả là một
người kinh khủng, bừa bãi và ích kỷ. Nàng vò nát bức thư và ngồi thừ ra một hồi
lâu bên cái bàn viết con con, hai tay chống cằm. Rồi nàng bắt đầu đọc thư của
Katya:
“Đanyusa, em còn nhớ không: lần trước, chị
có kể cho em nghe chuyện cái người cứ đi theo chị ấy. Tối hôm qua ở vườn
Luykxemburg ông ta lại đến ngồi gần chị. Lúc đầu chị sợ quá, nhưng rồi vẫn ngồi
yên. Ông ta liền nói với chị: “Tôi đã theo cô, tôi biết tên cô và biết rõ cô là
ai. Nhưng sau đó tôi gặp phải một nỗi bất hạnh lớn: tôi đã yêu cô”. Chị nhìn
ông ta: ông ta ngồi rất bệ vệ, vẻ mặt nghiêm khắc, trông như tối xầm lại. Ông
ta nói: “Cô không nên sợ tôi, - tôi là một người già, sống cô độc. Tôi mắc bệnh
ung thư phổi, tôi có thể chết chưa biết lúc nào. Ấy thế mà tôi lại gặp phải một
nỗi bất hạnh như vậy”. Trên má ông ta, một giọt nước mắt từ từ lăn xuống. Rồi
ông ta lắc đầu nói tiếp: “Ôi, gương mặt cô sao đáng yêu quá, đáng yêu vô cùng”.
Chị nói: “Xin ông đừng đi theo tôi nữa”. Rồi chị toan bỏ đi, nhưng lại thấy
thương ông ta quá, chị ngồi lại và nói chuyện với ông ta... Ông ta nghe chị
nói, rồi nhắm mắt lại, lắc đầu. Thế rồi - em có thể tưởng tượng được không -
hôm nay chị nhận được bức thư của một người đàn bà, có lẽ là bà coi cổng nhà
ông ta, được ông ta nhờ báo tin cho chị biết là đêm qua ông ta đã chết... Ôi,
việc này sao khủng khiếp quá... Ngay vừa mới lúc nãy đây, chị ra cửa sổ: ngoài
phố hàng nghìn, hàng nghìn ngọn đèn, xe cộ tấp nập, khách bộ hành đi giữa mấy
hàng cây. Mới mưa xong, ngoài trời có sương mù. Chị cứ có cảm giác là tất cả những
cái đó đều đã qua từ lâu, tất cả đều đã chết, và những con người kia đều là những
người đã chết, dường như chị đang nhìn thấy những cái gì đã kết liễu rồi, còn
những cái gì đang diễn ra lúc này, khi chị đang đứng nhìn, thì chị không hề
trông thấy; nhưng chị biết là tất cả đều đã kết thúc. Chắc chị đau yếu lắm rồi.
Đôi khi chị nằm chị khóc, chị tiếc cuộc đời chị, tại sao chưa chi nó đã qua mất?
Dù sao trước đây chị cũng đã có được một chút gì có thể gọi là hạnh phúc, đã có
được những người thân; thế mà bây giờ không còn lấy chút dấu vết... Và lòng chị
đã héo hon, khô cạn mất rồi. Đasa ạ, chị biết là sẽ còn có một tai họa lớn nữa
xảy ra, đó sẽ là hình phạt dành cho tất cả chúng ta vì đã sống quá tồi tệ”.
Đasa đưa bức thư cho Nikôlai Ivanôvits xem.
Trong khi đọc, ông cứ thở dài thườn thượt,
rồi tuyên bố rằng xưa nay ông vẫn cảm thấy mình có lỗi đối với Katya.
- Anh đã thấy rõ rằng chúng ta sống chẳng
ra gì, những cuộc mua vui liên miên này rồi đến lúc sẽ kết thúc bằng một cơn
tuyệt vọng. Nhưng anh làm thế nào được, một khi cách tiêu thì giờ duy nhất của
đời anh, Katya và tất cả mọi người khác chính là vui chơi? Đôi khi anh nhìn ra
bể và nghĩ thầm: có một nước Nga nữa đang cày cuốc, chăn nuôi, đào than, dệt vải,
rèn sắt, xây dựng, có những kẻ bắt buộc cái nước Nga ấy phải làm tất cả những
việc này, còn chúng ta lại là một hạng người thứ ba nào đấy, là lớp quý tộc trí
tuệ của đất nước, là giới trí thức chúng ta không hề dính dáng đến khía cạnh
nào của nước Nga này cả. Nó nuôi nấng cung phụng cho chúng ta. Chúng ta là những
con bướm. Tấn bi kịch là ở đấy. Nếu anh thử đi trồng rau chẳng hạn hay làm một
việc gì có ích khác, thì sẽ không thành ra cái gì hết. Anh đành chịu cái số phận
bay lượn nhởn nhơ như con bướm cho đến hết đời. Dĩ nhiên chúng ta cũng viết
sách, đọc diễn văn, làm chính trị, nhưng tất cả những việc đó cũng đều là cách
tiêu dao ngày tháng, ngay cả khi lương tâm cắn rứt chúng ta cũng vậy. Ở Katyusa
những cuộc mua vui liên miên ấy đã kết thúc bằng một tình trạng tàn phá tan
hoang của tinh thần. Vả lại không thể nào khác đi được... Chao ôi, em không biết
chứ chị em là một người đàn bà tuyệt diệu, dịu dàng và hiền hậu vô cùng! Anh đã
làm cho Katya sa đọa, anh đã tàn hại Katya.... Phải, em nói đúng, phải đi tìm
chị ấy mới được...
Họ quyết định là cả hai người sẽ đi Pari,
và đi ngay tức khắc: hễ nhận được hộ chiếu xuất cảnh là lên đường luôn. Sau bữa
ăn trưa Nikôlai Ivanôvits đi lên phố, còn Đasa bắt tay vào sửa lại cái mũ rơm để
đội đi đường, nhưng rồi chỉ làm cho nó hỏng đi, đành đem cho cô hầu buồng. Sau
đó nàng viết thư cho bố, và đến chập tối nàng lên giường nằm: nàng đột nhiên thấy
mệt mỏi lạ lùng. Nàng tì má lên lòng bàn tay và lắng nghe tiếng bể dạt dào, mỗi
lúc một xa dần, mỗi lúc một êm ái hơn.
Rồi nàng cảm thấy như có ai cúi xuống người
nàng, vén món tóc rũ trên trán nàng và hôn lên mắt nàng, lên má nàng, lên khóe
môi nàng, nhẹ nhàng như một hơi thở. Chất ngọt của chiếc hôn ấy truyền khắp
thân thể nàng. Đasa dần dần tỉnh dậy. Trong khung cửa sổ mở rộng hiện ra mấy vì
sao thưa thớt, và một ngọn gió hiu hiu bay tạt vào lay động mấy tờ giấy viết
thư kêu loạt xoạt. Rồi, từ phía sau bức tường hiện ra một bóng người đến đứng
ngoài cửa sổ, chống khuỷu tay lên bậu cửa nhìn Đasa.
Bấy giờ đã tỉnh hẳn, nàng ngồi dậy, giơ hai
tay lên che ngực ở chỗ vạt áo ngủ buột khuy ra.
- Ông muốn gì? - nàng hỏi rất khẽ.
Người đứng ngoài cửa sổ nói bằng giọng của
Bexxônôv:
- Tôi đứng ngoài bờ biển đợi cô mãi. Tại
sao cô không ra? Cô sợ à?
Đasa im lặng một lát rồi đáp:
- Vâng.
Bexxônôv liền trèo qua cửa sổ, đẩy cái bàn
ra đến cạnh giường:
- Tôi đã qua một đêm ghê rợn, tôi đã định
treo cổ cho xong. Trong lòng cô có chút tình cảm nào đối với tôi không?
Đasa lắc đầu, nhưng không hé môi.
- Đarya Đmitrievna ạ, không hôm nay thì
ngày mai, hay một năm nữa, điều đó tất phải xảy ra. Tôi không thể sống thiếu cô
được, Cô đừng làm tôi mất hẳn dáng dấp của một con người - Bexxônôv nói khẽ, giọng
khản đặc, và đến sát Đasa. Nàng bỗng thở hắt ra một hơi ngắn nhưng rất sâu, và
tiếp tục nhìn vào mặt hắn - Tất cả những điều tôi nói hôm qua đều là nhảm
nhí... Tôi đau khổ ghê gớm... Tôi không đủ sức xua đuổi hình ảnh cô ra khỏi ký ức...
Cô hãy là vợ tôi...
Hắn cúi xuống sát người Đasa, hít thở mùi
da thịt của nàng, rồi luồn bàn tay ra sau gáy nàng và dán chặt môi vào môi
nàng. Đasa ấn hai tay vào ngực hắn; cố ẩy ra, nhưng tay nàng cứ mềm nhũn đi.
Trong cái ý thức đã tê dại của nàng hiện lên một ý nghĩa bình thản: “Đây là điều
mà mình vẫn muốn và vẫn sợ, nhưng nó giống như một cuộc giết người...”. Nàng
quay mặt đi, lặng nghe Bexxônôv, hơi thở sặc mùi rượu, đang lắp bắp nói gì bên
tai nàng. Và Đasa chợt nghĩ: “Với Katya hắn cũng làm y hệt như thế này”. Và bây
giờ nàng mới thấy một luồng khí lạnh truyền đi khắp người nàng, khiến nàng co
rúm lại, và mùi rượu càng thêm nồng nặc, và tiếng nói lắp bắp bên tai càng thêm
ghê tởm.
- Buông ra, - nàng vừa nói vừa ẩy mạnh
Bexxônôv ra, rồi đi về phía cửa cài lại cổ áo.
Đến đây Bexxônôv bỗng như điên như dại: hắn
nắm lấy tay Đasa kéo nàng và bắt đầu hôn lên cổ nàng. Nàng nghiến răng lặng lẽ
chống cự. Rồi đến khi Bexxônôv nhắc bổng nàng lên và bế nàng đi, nàng thì thầm
nói nhanh:
- Không đời nào, anh có chết thì cứ chết
đi...
Nàng lấy hết sức ẩy hắn ra, vùng được ra khỏi
tay hắn và đến đứng sát mé tường. Vẫn còn thở hổn hển, Bexxônôv buông mình rơi
phịch xuống một chiếc ghế và ngồi im không động đậy, Đasa xoa cánh tay ở những
chỗ có dấu ngón tay Bexxônôv hằn xuống.
- Lẽ ra không nên vội, - Bexxônôv nói.
Nàng đáp:
- Tôi ghê tởm anh.
Bexxônôv nghẻo đầu tựa vào lưng ghế, Đasa
nói:
- Anh điên rồi... Anh đi đi chứ...
Và nàng nhắc lại câu đó mấy lần nữa. Cuối
cùng Bexxônôv đã hiểu, hắn đứng dậy và hì hục leo qua cửa sổ một cách vụng về.
Đasa đóng hai cánh cửa chớp lại và bắt đầu đi đi lại lại trong căn phòng tối
om. Đêm hôm ấy nàng ngủ không yên.
Gần sáng, Nikôlai Ivanôvits đi chân đất lép
bép trên sân, đến trước cửa phòng hỏi nàng, giọng ngái ngủ:
- Em đau răng hay sao thế Đasa?
- Không ạ.
- Sao đêm qua có tiếng lịch kịch gì thế?
- Em không biết.
Ông ta vừa lẩm bẩm: “Lạ thật!”, vừa bỏ đi.
Đasa không thể ngồi hay nằm xuống được, nàng cứ đi đi lại lại từ cửa sổ đến cửa
lớn để làm kiệt quệ cái cảm giác ghê tởm đối với bản thân giày vò nàng nhức nhối
như một cơn đau răng. Ví thử đêm qua Bexxônôv đã chiếm đoạt được nàng thì có lẽ
còn hơn. Và với một nỗi đau xót tuyệt vọng nàng hồi tưởng lại con tàu trắng muốt
chan hòa ánh nắng, mường tượng nghe lại tiếng gù của gã tình lang bị phụ bạc
trong rặng phong dương, nó cứ lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại mãi câu nói dối của nó,
vì nó đã nói dối khi nó quả quyết rằng Đasa đã yêu. Nhìn cái giường mờ mờ trắng
trong ánh lê mình, cái nơi khủng khiếp mà vừa qua một cái mặt người đã biến
thành một cái mõm chó, Đasa cảm thấy không thể nào sống nổi với một kỷ niệm như
vậy. Dù có phải chịu một nhục hình ghê gớm đến đâu đi nữa cũng còn hơn là sống
với cảm giác ghê tởm này. Đầu nàng nóng bừng, và nàng cứ muốn cào bóc cho sạch
cái lớp mạng nhện mà nàng có cảm giác như đang bám lên mặt lên cổ, lên khắp
mình mẩy.
Cuối cùng ánh sáng lọt qua những khe cửa chớp
đã rõ hẳn. Trong nhà bắt đầu có tiếng cửa mở ra đóng vào từ nhiều phia vẳng lại.
Có tiếng gọi sang sảng: “Matriôsa, đem nước vào đây...”. Nikôlai Ivanôvits đã dậy,
và đang đánh răng ở bên kia tường. Đasa rửa mặt, đội chiếc mũ kéo sụp xuống tận
mắt và đi ra bờ biển. Nước biển trông như sữa, cát thì âm ẩm. Không khí phảng
phất mùi rong. Đasa rẽ ra đồng và đi dọc con đường cái. Từ phía trước một cỗ xe
nhẹ thắng một ngựa đang phóng tới, bánh xe tung bụi lên mù mịt. Trên ghế xà ích
là một người Tatar, và sau lưng hắn là một người vai rộng mặc toàn đồ trắng.
Nhìn cỗ xe đang lại gần Đasa nghĩ như trong giấc mơ (hai mắt nàng cứ ríu lại vì
nắng, vì mệt): “Lại một người tốt lành, sung sướng nữa. Thôi thì cứ để cho họ tốt
lành, sung sướng” - đoạn nàng tránh sang một bên đường. Chợt trên xe có tiếng
kêu lên hốt hoảng:
- Đarya Đmitrievna!
Có ai nhảy xuống đất và chạy lại. Nghe giọng
nói ấy, Đasa thấy tim mình lịm đi, hai chân bủn rủn. Nàng quay lại, Têlêghin
đang chạy về phía nàng, với nước da rám nắng, gương mặt xúc động, với đôi mắt
xanh lam, quen thuộc, thân thiết đến nỗi Đasa đặt ngay hai tay lên ngực chàng,
áp má vào lòng chàng và òa lên khóc to như trẻ con.
Têlêghin nắm chặt lấy hai vai nàng. Khi
Đasa cất tiếng nói đứt quãng toan phân trần điều gì, chàng nói:
- Thôi, Đarya Đmitrievna ạ, để sau. Chuyện ấy
không quan trọng.
Ngực áo vét-tông của chàng ướt đẫm nước mắt
Đasa. Và nàng thấy nhẹ hẳn lòng.
- Anh đến chỗ chúng tôi đây à? - Nàng hỏi.
- Phải, tôi đến chào cô, Đarya
Đmitrievna... Hôm qua tôi mới được biết là cô ở đây, cho nên tôi muốn đến từ biệt...
- Từ biệt ư?
- Có lệnh nhập ngũ, chẳng còn biết làm thế
nào được.
- Nhập ngũ à?
- Chẳng lẽ cô chưa nghe tin gì hết?
- Tin gì cơ?
- Chiến tranh rồi, tin thế đấy.
Đasa chớp chớp đôi mi nhìn chàng, và trong
giây phút ấy nàng chẳng hiểu gì hết.
14
Trong phòng làm việc của ông chủ bút tờ “Tiếng
Dân”, một tờ báo lớn của phái tự do, có cuộc họp bất thường của tòa soạn. Vì kể
từ hôm qua đã có lệnh cấm các thứ rượu, cho nên ngoài món trà thường lệ của tòa
soạn ra, họ còn dọn thêm rượu cô-nhắc và rượu rum.
Những ông biên tập của phái tự do đều là những
lão tướng râu ria, đang ngồi trong mấy chiếc ghế bành sâu hút thuốc lá. Họ rất
hoang mang. Các cộng tác viên trẻ ngồi tản mác trên các bậu cửa sổ và trên chiếc
đi-văng da nổi tiếng, pháo đài của phe chống đối, mà một nhà văn tên tuổi có
nói một cách thiếu thận trọng là nó lắm rệp.
Ông chủ bút là một người tóc bạc, nước da đỏ
đắn, phong thái như người Anh. Ông dùng một giọng chắc nịch rõ từng chữ, đọc một
trong những bài diễn văn kiệt xuất của ông, vốn có nhiệm vụ vạch rõ và trên thực
tế đã vạch rõ đường lối xử sự của toàn thể giới báo chí tự do.
-... Nhiệm vụ của chúng ta nó phức tạp ở chỗ
tuy không lùi lấy một bước trong việc chống lại chính quyền Sa hoàng, chúng ta
vẫn phải bắt tay với chính quyền này khi đứng trước cái nguy cơ đe dọa sự toàn
vẹn của quốc gia Nga. Cử chỉ của chúng ta phải trung thực và thẳng thắn. Vấn đề
trách nhiệm của chính phủ Sa hoàng, đã lôi cuốn nước Nga vào cuộc chiến tranh,
trong giờ phút này là một vấn đề thứ yếu! Ta phải chiến thắng đã, rồi sau đó mới
xét xử những kẻ có tội. Thưa các ngài, trong khi chúng ta đang nói chuyện ở
đây, thì trước thành Eraxnôxtav đang diễn ra một trận huyết chiến: vì chiến tuyến
đã bị chọc thủng, cho nên đạo quân cận vệ của ta đã được điều đến. Kết quả của
trận đánh ra sao thì hiện nay chưa được rõ, nhưng có một điều ta cần nhớ là
Kiev đang lâm nguy. Không còn nghi ngờ gì nữa: chiến tranh không thể kéo dài
hơn ba bốn tháng, và dù thắng bại ra sao, chúng ta cũng sẽ kiêu hãnh ngẩng cao
mái đầu lên mà nói với chính phủ Sa hoàng: trong giờ thử thách nghiêm trọng
chúng tôi có quyền yêu cầu các ngài đền đáp...
Một trong những biên tập viên kỳ cựu nhất,
Bêlôxvetôv, chuyên viết về vấn đề nông phố, không tự chủ được nữa, nổi khùng
quát lên:
- Kẻ tham chiến là chính phủ Sa hoàng,
chúng ta có liên quan gì vào đây, và tại sao lại đi nói chuyện bắt tay bắt
chân? Có đánh chết tôi đi tôi cũng không sao hiểu nổi. Cái lẽ lô-gích thông thường
là ta phải tách hẳn ra khỏi cuộc phiêu lưu này, và theo sau chúng ta là toàn thể
giới trí thức. Cứ để mặc cho các vua chúa đánh gãy cổ nhau - như thế chúng ta
chỉ có lợi mà thôi.
- Đúng, tùy các vị muốn nghĩ thế nào thì
nghĩ, chứ chìa tay ra cho Nikôlai Đệ nhị thì thật là ghê tởm - Alpha, người
chuyên viết xã luận, vừa làu bàu vừa chọn một chiếc bánh trong hộp bích quy, -
đêm nằm cứ toát mồ hôi ra ấy...
Mấy tiếng nói cùng nhao nhao lên một lúc:
- Không có và không thể có những điều kiện
gì khiến chúng ta thỏa hiệp được.
- Như thế là thế nào - đầu hàng à, tôi xin
hỏi?
- Bắt cả phong trào tiến bộ phải kết thúc một
cách nhục nhã à?
- Còn tôi, thưa các ngài, tôi vẫn mong có vị
nào cắt nghĩa cho tôi hiểu mục đích của cuộc chiến tranh này là cái gì.
- Ấy, đến khi nào bọn Đức nó dần cho một mẻ
thì sẽ hiểu ngay.
- Ồ, ông bạn, thế ra ông là người theo chủ
nghĩa quốc gia à?
- Chẳng qua tôi không muốn bị đánh bại, thế
thôi.
- Nhưng người ta có đánh ông đâu, người ta
đánh Nikôlai Đệ nhị kia mà!
- Xin lỗi... Nhưng còn Ba-lan? Còn Vôlyn?
còn Kiev?
- Ta càng bị đánh dữ thì càng chóng có cách
mạng.
- Tôi thì tôi không đổi Kiev lấy bất cứ cuộc
cách mạng nào của các ông.
- Kìa Piôtr Petrôvits, ông không biết ngượng
sao, ông bạn?
Chật vật mãi mới lập lại được trật tự, ông
chủ bút biện minh rằng căn cứ trên bức thông tri về tình hình chiến tranh, hễ
báo nào đăng một câu có ý công kích chính phủ một chút thôi là sẽ bị kiểm duyệt
quân sự đóng cửa ngay, và những mầm mống phôi thai của quyền tự do ngôn luận mà
chúng ta đã tốn bao nhiêu công sức mới giành được, đều sẽ bị thủ tiêu hết.
- ... Cho nên tôi xin đề nghị với quý hội
nghị tìm ra một quan điểm có thể chấp nhận được. Về phía tôi, tôi xin phép nói,
tuy đây có lẽ cũng là một ý kiến ngược đời, là chúng ta sẽ phải chấp nhận cả cuộc
chiến tranh này với tất cả những hậu quả của nó. Các ngài chớ quên rằng cuộc
chiến tranh này được công chúng rất hoan nghênh. Ở Moxkva người ta đã gọi nó là
cuộc chiến tranh vệ quốc thứ hai, - ông ta mỉm một nụ cười tinh tế và cụp mắt
xuống, - nhà vua được dân Moxkva nghênh tiếp một cách gần như nhiệt liệt. Cuộc
động viên tiến hành trong giới bình dân đã thu được những kết quả mà người ta
không thể và không dám mong đợi...
- Kìa Vaxili Vaxilyêvits, ông nói đùa hay
nói thật đấy? - Belôxvêtôv kêu lên, giọng bây giờ đã chuyển sang một điệu ai
oán thực sự. - Như thế là ông sổ toẹt cả một thế giới quan rồi còn gì... Đi
giúp sức chính phủ à? Thế còn một vạn người Nga ưu tú đang mục xương ở Xibêri
thì sao? - Thế còn những vụ xả súng vào thợ thuyền? Máu chưa ráo hết kia kìa!
Tất cả những câu chuyện đó đều hết sức hay
ho và cao thượng, nhưng mỗi người đều thấy rõ rằng không thể nào tránh khỏi một
sự thỏa hiệp với chính phủ, cho nên, khi nhà in đưa đến bản mo-rát bài xã luận
mở đầu bằng câu: “Trước cuộc xâm lăng của quân Đức ta phải thành lập một mặt trận
thống nhất”, hội nghị im lặng nhìn tờ giấy in, chỉ có vài người thở dài khe khẽ,
vài người thốt ra một câu ngụ nhiều ý nghĩa: “Thôi thế cũng xong!”. Belôxvêtôv
lập cập cài hết khuy chiếc áo đuôi tôm đen phủ đầy tàn thuốc lá, nhưng không bỏ
ra về mà lại ngồi xuống ghế bành như cũ. Thế là số báo mới chạy một dòng chữ lớn:
“Tổ quốc lâm nguy. Hãy đứng lên cầm vũ khí!”
Tuy vậy, trong lòng mỗi người đều thấy bối
rối và lo sợ. Làm thế nào mà cái thế giới vững chãi của châu Âu chỉ trong hai
mươi bốn tiếng đồng hồ đã bị hất tung lên, và tại sao nền văn minh nhân đạo của
châu Âu, mà hàng ngày tờ “Tiếng Dân” vẫn đem dùng để nêu gương cho chính phủ và
răn dạy cho dân chúng, bây giờ hóa ra lại chỉ là một cái lầu xếp bằng bài xì,
chỉ thổi một cái là đổ? (Quả tình người ta cũng có phát minh ra được máy in và
điện khí, rồi lại cả rađium nữa, nhưng đến một lúc nào đấy thì dưới tấm áo
sơ-mi hồ cứng vẫn lộ ra cái thằng người lông lá, tay cầm dùi cui, chẳng khác gì
loài dã thú) - Không, điều đó thì ban biên tập khó lòng lĩnh hội nổi, mà thừa
nhận lại càng khó hơn: sự thật quá ư cay đắng.
Cuộc hội nghị kết thúc trong một không khí
im lặng và buồn tẻ. Các nhà báo sừng sỏ đến tiệm Quiba ăn trưa, thanh niên thì
tụ tập trong phòng làm việc của ông phụ trách thời sự. Họ quyết định tiến hành
một cuộc điều tra hết sức tỉ mỉ về tâm trạng của công chúng trong những ngành
và những giới hết sức khác nhau. Antôska Arnônlđôv được giao việc điều tra về
phòng kiểm duyệt quân sự. Anh ta bèn lĩnh luôn một khoản tạm ứng và thuê một
chiếc xe ngựa sang trọng phóng dọc đại lộ Nevxki đến Bộ Tổng tham mưu.
Trưởng ban báo chí là đại tá tổng tham mưu
Xolntxev tiếp Antôska Arnônlđôv trong phòng làm việc của ngài và nghe anh ta một
cách lễ độ, đôi mắt lồi trong trẻo và vui tươi nhìn thẳng vào mặt anh ta -
Antôska đã chuẩn bị sẵn tinh thần là sẽ gặp một ông hộ pháp hình thù cổ quái, mặt
đỏ gay, tướng sư tử, một tử thù hung hãn của báo chí tự do, thế mà trước mặt
anh ta lại là một con người trang nhã, lịch sự, không thở khò khè, không gầm
lên bằng cái giọng đê cầm, và không hề có ý định xéo nát hay chém đứt đôi ai hết:
dung mạo ngài đại tá khó lòng có thể ăn ý với cách hình dung thông thường về những
tay sai mẫn cán của Sa hoàng.
- Như vậy, thưa đại tá, tôi hy vọng rằng
ngài sẽ vui lòng cho biết những ý kiến rất có thẩm quyền của ngài về những vấn
đề đang khiến chúng tôi bận tâm, - Arnônlđôv vừa nói vừa liếc mắt nhìn lên bức
chân dung toàn thân vẽ bằng màu thẫm của hoàng đế Nikôlai Đệ nhất, mà đôi mắt lạnh
lùng tàn nhẫn đang nhìn xuống người đại diện của giới báo chí, như thể muốn nói
với anh ta: “Áo thì ngắn cũn cỡn, giày thì vàng khè, mũi thì ướt đẫm mồ hôi,
dáng dấp thì bần tiện: mày sợ lắm hay sao thế, thằng chó đẻ?” - Thưa đại tá,
tôi vẫn tin chắc rằng đến ngày đầu năm quân đội Nga sẽ tiến vào Berlin, nhưng
tòa soạn chúng tôi đang quan tâm chủ yếu đến một số vấn đề có tính chất cục bộ...
Đại tá Xolntxev lễ phép ngắt lời:
- Tôi thấy hình như công chúng Nga chưa hiểu
rõ quy mô của cuộc chiến tranh hiện nay. Dĩ nhiên tôi chỉ có thể hoan nghênh
cái ước vọng của ông muốn cho quân đội anh dũng của ta tiến vào Berlin, nhưng
tôi e việc đó khó thực hiện hơn là ông tưởng. Về phía tôi, tôi nghĩ rằng nhiệm
vụ chính của báo chí hiện nay là chuẩn bị cho công chúng nhận thức được mối
nguy cơ rất nghiêm trọng đang đe dọa quốc gia, đồng thời biết rõ những sự hy
sinh lớn lao mà mọi người sẽ phải chịu đựng.
Antôska Arnônlđôv buông sổ tay xuống và ngỡ
ngàng nhìn viên đại tá. Xolntxev nói tiếp:
- Chúng ta không hề gây ra cuộc chiến tranh
này, và hiện nay chúng ta chỉ đang phòng ngự. Quân Đức có ưu thế so với quân ta
về số lượng pháo và về độ dầy của hệ thống đường sắt biên giới. Tuy vậy quân ta
sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để đừng cho quân địch vượt qua biên giới
nước ta. Quân đội Nga đang làm tròn bổn phận của họ. Nhưng có một điều rất đáng
mong mỏi là về phía mình, công chúng cũng sẽ thấm nhuần ý thức bổn phận đối với
tổ quốc. - Xolntxev nhướng cao đôi lông mày. - Tôi hiểu rằng lòng ái quốc trong
một số giới nào đấy cũng có phần phức tạp. Nhưng nguy cơ nghiêm trọng đến nỗi
tôi tin chắc rằng tất cả những vụ tranh chấp và oán cừu đều sẽ được gác lại một
thời thuận lợi hơn. Ngay hồi 1812 Đế quốc Nga cũng chưa phải đã trải qua một thời
kỳ gay go như thế này. Tất cả những điều mà tôi mong các ông nên rõ chỉ có thế.
Kế đến, cần cho công chúng biết rằng các viện quân y mà chính phủ hiện có được
không đủ để chứa hết số thương binh. Cho nên ngay về mặt này công chúng cũng cần
sẵn sàng giúp đỡ rộng rãi...
- Xin lỗi đại tá, tôi không được rõ số
thương binh có thể lên đến bao nhiêu?
Xolntxev lại nhướng cao đôi mày:
- Theo tôi thì trong mấy tuần tới phải ước
lượng từ hai mươi lăm đến ba mươi vạn.
Antôska Arnônlđôv nuốt nước bọt, ghi lại
các số liệu rồi hỏi, bây giờ giọng đã kính cẩn hơn nhiều:
- Như vậy thì số tử vong phải ước lượng là
bao nhiêu ạ?
- Thường chúng tôi tính từ năm đến mười phần
trăm số thương binh.
- Thế ạ? Xin cảm ơn ngài.
Xolntxev đứng dậy. Antôska nhanh nhảu bắt
tay ngài, rồi mở cánh cửa gỗ sồi ra và vấp phải Atlant lúc bấy giờ vừa bước
vào. Atlant là một nhà báo ho lao, đầu tóc rối bù, mặc chiếc áo vét-tông nhàu
nát, từ hôm qua chưa uống một giọt rượu nào.
- Thưa đại tá, tôi đến yết kiến ngài nhân vấn
đề chiến tranh - Atlant nói, tay che cái ngực áo sơ mi cáu ghét. - Thế nào đấy ạ,
quân ta sắp chiếm được Berlin rồi chứ ạ?
Rời bộ tổng tham mưu, Arnônlđôv đi ra quảng
trường Cung điện, đội mũ lên đầu và nheo nheo đôi mắt đứng đờ ra một lúc.
- Thế là sẽ chiến đấu cho đến thắng lợi cuối
cùng, - anh ta lẩm bẩm qua kẽ răng, - bây giờ thì các bố khọm hãy coi chừng, bọn
tớ sẽ cho các bố thấy rõ cái “chủ nghĩa thất bại” của các bố là thế nào!
Trên cái quảng trường rộng mênh mông, quét
sạch bóng, với cái cột trụ nặng nề bằng hoa cương của vua Alekxanđr, từ bốn
phía đều có những tốp mu-gích râu ria, lôi thôi lếch thếch đang đi qua đi lại.
Chốc chốc lại nghe vang lên những tiếng hô mệnh lệnh, giọng rất đanh. Bọn
mu-gích xếp hàng, chạy, nằm xuống đất. Ở một nơi có khoảng năm mươi người vừa
chồm dậy, cất tiếng thét rời rạc: “Ura-a-a!” và cắm cổ chạy nước kiệu lúp
xúp... “Đứng lại, đứng! Nghiêm!... Quân khốn nạn! Quân chó đẻ!...”. Một giọng
khản đặc át tiếng thét của họ. Ở một chỗ khác có thể nghe tiếng giảng giải: “Xông
lên đến nơi thì đâm lê vào bụng chúng. Nếu lưỡi lê gãy thì dùng báng súng mà
phang”.
Đó chính là những người mu-gích thô kệch xù
xì với những bộ râu chổi xể, mình mặc áo rubakha
rộng thùng thình, chân đi dép cỏ, mồ hôi muối đóng bạc cả bả vai, hai trăm năm
trước đây đã kéo đến dải bờ lầy lội này để xây dựng kinh thành. Bây giờ người
ta lại gọi họ tới giơ vai ra đỡ lấy rường cột đang lung lay của nền đế chế.
Antôska trở về đại lộ Nevxki, luôn luôn
nghĩ tới bài báo sắp viết. Giữa phố, trong tiếng sáo thổi vi vút như gió thu,
hai đại đội mặc quân phục dã chiến kéo qua, mang đủ bạc đà, cà-mèn và xẻng. Những
khuôn mặt có đôi lưỡng quyền rộng của binh sĩ đều phờ phạc và nhem nhuốc. Một
viên sĩ quan thấp bé mặc áo sơ-mi xanh lá cây, thắt nịt da mới bắt chéo qua ngực,
phút phút lại kiễng chân lên, quay lại và trợn trừng đôi mắt, vừa đi giật lùi vừa
nhìn lính hô to: “Một hai một! Một! Một!”. Như trong giấc mộng, đại lộ Nevxki
thanh lịch, lấp loáng bóng xe ngựa và cửa kính, vẫn ngập trong tiếng ồn ào náo
nhiệt.
“Một hai một hai!”. Người lắc lư đều nhịp
đoàn người mu-gích nặng nề và ngoan ngoãn bước theo viên sĩ quan bé nhỏ. Một cỗ
xe thắng con ngựa ô chạy nước kiệu, miệng sùi bọt trắng, đuổi kịp đoàn quân.
Người xà ích rộng mông kìm cương cho ngựa dừng lại. Trên xe, một thiếu phụ xinh
đẹp đứng dậy nhìn đoàn quân diễu qua. Nàng giơ bàn tay đi găng trắng lên làm dấu
chữ thập mấy lần cầu phước cho họ.
Đoàn quân đi qua, lấp sau dòng xe cộ. Trên
hai vỉa hè nóng bức và chật chội, mọi người đều như thể đang chờ đợi một cái
gì. Những người qua đường dừng lại, lắng nghe những câu chuyện trò và những câu
quát tháo ở đâu đâu, chen chúc nhau, hỏi thăm nhau, sốt ruột rời tốp này chạy
sang tốp khác.
Những đợt qua lại xô đẩy nhốn nháo ấy rõ hướng
dần: các đám đông đang rời đại lộ Nevxki ra phố Morxkaia. Ở đây người ta đi
ngay giữa lòng đường. Mấy gã thanh niên bé loắt choắt chạy qua, lặng lẽ và bận
rộn. Ở ngã tư người ta bỗng tung mũ và vẫy ô. “Urra! Urra!” - tiếng hô vang
vang trên phố Morxkaia. Lũ trẻ con huýt sáo inh ỏi. Bốn phía đều thấy những người
đàn bà ăn mặc sang trọng đứng thẳng trên xe ngựa. Đám đông, như một đợt sóng, đổ
xô vào quảng trường Ixaak, tràn ra khắp quảng trường, trèo qua cả hàng rào chấn
song. Tất cả các cửa sổ quanh quảng trường, các mái nhà, các bậc tam cấp trước
thềm nhà thờ Ixaak đều đông nghịt những người. Và tất cả mấy vạn con người ấy đều
nhìn về phía những khung cửa sổ tầng trên của tòa nhà nặng nề màu đỏ cạch, nơi
đang có những đám khói tuôn ra cuồn cuộn. Đó là tòa đại sứ Đức. Sau những cửa
kính bị đập vỡ toang, có những người chạy từ phòng này sang phòng khác, ném xuống
đám đông những tập giấy dày tỏa ra thành tờ bay lả tả. Cứ mỗi khi có đám khói
bay ra hay có một vật gì mới được ném từ cửa sổ xuống, trong đám đông lại có tiếng
gầm lên. Nhưng rồi trước mặt tòa nhà, nơi có hai ông khổng lồ bằng đồng đen cầm
cương ngựa, chợt thấy xuất hiện mấy gã thanh niên người bé loắt choắt và dáng bận
rộn ban nãy. Đám đông lặng đi, và có tiếng búa đập chan chát. Ông khổng lồ bên
phải lảo đảo rồi lăn kềnh ra vỉa hè. Đám đông rú lên, đổ ập lại. Một cuộc xô lấn
dữ dội bắt đầu, từ khắp các phía đều có người chạy tới. “Ném chúng nó xuống
sông Moika! Dìm cho chết tiệt cái quấn khốn kiếp ấy đi!”. Pho tượng thứ hai
cũng đổ nhào xuống. Một bà béo đeo kính cặp mũi nắm lấy vai Antôska Arnônlđôv
và thét vào mặt anh ta: “Ta sẽ dìm nước cả bọn chúng nó, anh bạn trẻ ạ!”. Đám
đông kéo ra sông Moika. Tiếng tù và cứu hỏa vang lên, và ở phía xa đã thấy lấp
loáng những chiếc mũ đồng. Từ các góc phố một đội cảnh sát cưỡi ngựa tiến ra.
Và đột nhiên, giữa những đám người đang chạy loạn xạ và la hét í ới, Arnônlđôv
chợt trông thấy một người mặt xanh xao một cách dễ sợ, đầu không đội mũ, hai
con mắt đục mở trừng trừng không chớp. Anh ta nhận ra Bexxônôv, liền len đến gần
chàng.
- Anh vừa ở đấy à? - Bexxônôv nói. - Tôi có
nghe thấy tiếng họ đang giết nhau.
- Có vụ giết người à? Họ giết ai thế?
- Tôi không biết.
Bexxônôv quay đi, và bước thất thểu trên quảng
trường, dáng đi như người mù. Những tàn dư của đám đông bây giờ chia thành từng
tốp chạy đến đại lộ Nevxki, nơi dân chúng đang bắt đầu đập phá hiệu cà phê
Roiter.
Ngay tối hôm ấy Antôska Arnônlđôv đứng bên
cái quầy trong một cái phòng mù mịt khói thuốc lá của tòa soạn, viết lia lịa
lên mấy băng giấy hẹp:
“Hôm nay ta đã thấy hết được quy mô rộng lớn
và vẻ đẹp tuyệt vời của lòng dân đang phẫn nộ. Cần nêu rõ rằng trong các hầm rượu
của đại sứ quán Đức dân chúng không uống lấy một chai nào: tất cả đều bị đập vỡ
và trút xuống sông Moika. Hòa giải là điều không thể nào có được. Chúng ta sẽ
chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng, dù có phải hy sinh bao nhiêu, xương máu
cũng đành. Quân Đức đã tưởng đâu bắt chợt được nước Nga đang triền miên trong
giấc mơ màng, nhưng khi nghe mấy tiếng sấm sét: “Tổ quốc lâm nguy”, nhân dân đã
đứng lên muôn người như một. Sự phẫn nộ của nhân dân sẽ khủng khiếp vô cùng. Tổ
quốc là một danh từ có sức mạnh vô song nhưng trước đây đã bị chúng ta xao
lãng. Ngay từ phát đại bác đầu tiên của quân Đức, nó đã sống dậy với tất cả vẻ
đẹp trinh bạch của nó và hiện lên thành một hàng chữ rực lửa cháy trong lòng mỗi
chúng ta...”.
Antôska nhắm mắt lại, lưng nổi gai ốc lên.
Đã đến nông nỗi phải viết một giọng văn như thế ư! Không phải như hai tuần trước
đây, khi anh ta được giao viết một bài điểm qua những trò giải trí mùa hạ. Anh
ta nhớ lại một hôm ở rạp “Buf” có một anh chàng hóa trang thành một con lợn
trèo lên bục hát: “Tôi là lợn con: tôi rất tự hào. Mẹ tôi là lợn xề, tôi giống
mẹ như đúc”.
Antôska viết tiếp, bút chạy kèn kẹt bắn mực
ra, tung tóe:
“... Chúng ta đang bước vào một thời đại
anh hùng. Trước đây ta sống mà cứ mục ruỗng ra như những cái xác chết: tình trạng
này đã đến lúc phải chấm dứt. Chiến tranh sẽ gột rửa chúng ta”.
Bất chấp sự phản kháng của phe thất bại chủ
nghĩa do Belôxvêtôv đứng đầu, bài báo của Arnônlđôv đã được đăng. Điểm nhượng bộ
duy nhất đối với quá khứ là bài này in ở trang ba dưới một đầu đề sặc mùi kinh
viện: “Trong những ngày chiến tranh”. Lập tức thư độc giả tới tấp gửi đến tòa
soạn, bức thì tỏ ý hả hê tán thưởng bài báo, bức thì tỏ ý mỉa mai chua chát.
Nhưng loại thứ nhất nhiều hơn hẳn. Antôska được nhận thêm một số nhuận bút tính
theo dòng và một tuần sau anh ta được gọi vào phòng giấy ông chủ bút. Trong căn
phòng này, Vaxili Vaxilyêvits, tóc bạc, mặt đỏ, người sực nức mùi ô-đơ-cô-lôn
Anh-cát-lợi, mời Antôska ngồi xuống ghế bành rồi nói, giọng ưu tư:
- Ông cần về nông thôn.
- Xin vâng lệnh.
- Chúng ta cần biết bọn mu-gích họ nghĩ gì
và nói gì. - Ông vỗ lên bó thư dày cộp - Giới trí thức đã bắt đầu hết sức quan
tâm đến nông thôn. Ông phải cung cấp cho bạn đọc một ấn tượng nóng hổi, trực tiếp
về cái thế giới hiểm hóc đó.
- Những kết quả của
đợt mộ lính đều cho thấy rõ một cao trào yêu nước mãnh liệt, Vaxili Vaxilyêvits
ạ.
- Tôi biết. Nhưng họ đào ở đâu ra cái lòng
yêu nước ấy mới được chứ? Anh muốn về đâu thì tùy, miễn là cố mà nghe và hỏi.
Thứ bảy này anh gửi về đây năm trăm dòng cảm tưởng nông thôn cho tôi.
Ở tòa soạn ra, Antôska đến đại lộ Nevxki
mua một bộ quần áo đi đường kiểu quân sự, một đôi ghệt vàng và một cái mũ lưỡi
trai. Anh ta thắng tất cả các thứ này vào và đến hiệu Đônông ăn trưa, một mình
nốc hết một chai sâm-banh Pháp, rồi đi đến kết luận rằng tiện hơn cả là đi về
làng Khlyby, nơi Êlizaveta Kievna đang ở chơi nhà ông anh nàng là Kiy. Tối hôm ấy
Arnônlđôv chiếm một giường trên toa tàu liên vận quốc tế, châm một điếu xì gà,
và ngắm đôi ghệt vàng da mới kêu cót két một cách hùng dũng, anh ta nghĩ thầm: “Trước
mắt ta là cuộc sống!”.
Khlyby là một làng hơn sáu mươi hộ, với những
vườn rau mọc đầy phúc bồn tử và những cây bồ đề trồng chính giữa đường đi, có một
ngôi trường lớn trên một ngọn gò, trước kia vốn là một tòa nhà trang chủ sửa lại.
Làng nằm gọn trong một dải đất trũng, giữa một khu đồng lầy con và sông
Xvinyukha. Đất trồng trọt của dân làng hẹp mà lại xấu, nông dân hầu hết đều đến
Moxkva làm nghề.
Chiều hôm ấy, khi Antôska ngồi xe ngựa đi
vào làng, cảnh tĩnh mịch làm cho anh ta phải ngạc nhiên. Chỉ có một con gà mái
ngu ngốc cuống quýt chạy từ dưới chân con ngựa ra cục tác om sòm, một con chó
già nằm dưới cái vựa thóc lên tiếng gầm gừ, và đâu đó trên sông có tiếng ai đập
áo quần giặt, với lại hai con cừu đực húc nhau ở ngay giữa lối đi, sừng chạm
vào nhau côm cốp.
Antôska trả tiền
cho ông lão điếc vừa đưa chàng từ ga về, và men theo con đường mòn đi về phía
ngôi trường cũ kỹ làm bằng gỗ súc thấp thoáng sau khóm lá bạch dương xanh rờn.
Trước thềm, Kiy Kievits - giáo viên ở trường này - và Êlizaveta Kievna đang ngồi
trên mấy bậc cấp ọp ẹp mục nát, nhàn nhã nói chuyện với nhau. Phía dưới, bóng mấy
cây thùy dương cao lớn trải dài trên bãi cỏ. Một đàn chim cưỡng bay đi, trông
như một đám mây sẫm màu luôn luôn thay đổi hình dáng. Xa xa có tiếng tù và của
mục đồng gọi gia súc về. Mấy con bò cái lông vàng từ trong đám sậy nhô ra, một
con rướn mõm rống lên một tiếng. Kiy Kievits rất giống em gái: cũng đôi mắt
trông như vẽ ấy. Anh ta vừa nhấm một cọng rơm vừa hỏi:
- Liza ạ, thêm vào
tất cả những khoản kia cô lại hết sức vô tổ chức trong lĩnh vực sinh dục. Những
của nợ như cô là những phế phẩm đáng ghê tởm của nền văn hóa tư sản.
Êlizaveta Kievna mỉm
cười uể oải nhìn ra ngoài bãi, nơi những tia nắng cuối cùng đang sưởi ấm và mạ
vàng lên những đám cỏ và những chỗ rợp.
- Anh nói chuyện
nghe chán chết đi được ấy, anh Kiy ạ, cái gì anh cũng học thuộc lòng, cái gì
anh cũng tưởng là rõ ràng như trong sách ấy.
- Liza, mỗi người
phải lo sắp xếp những ý nghĩ của mình lại cho có trật tự, cho thành hệ thống chứ
không phải cứ ngồi lo mình nói chuyện nghe có chán hay là không chán.
- Thì anh cứ lo đi
cho nó chóng nhớn.
Chiều hôm ấy trời
lặng gió. Trước thềm, những cành lệ liễu trong suốt rũ xuống im lìm. Dưới chân
đồi một con cuốc cất tiếng gọi đều đều. Kiy Kievits gặm một ngọn cỏ gà.
Êlizaveta mơ màng ngắm những ngọn cây đang mờ dần trong bóng hoàng hôn xanh biếc.
Giữa rặng cây hiện ra một người nhỏ nhắn, láu lỉnh, tay xách chiếc va-ly.
- À, đây rồi, -
Antôska reo lên, - Chào Liza, chào mỹ nhân...
Êlizaveta Kievna
trông thấy anh ta mừng quýnh lên, hối hả đứng dậy ôm chầm lấy.
Kiy Kievits chào một
tiếng lấy lệ rồi tiếp tục gặm ngọn cỏ. Antôska ngồi bệt xuống thềm châm xì gà
hút.
- Tôi đi lấy tin
đây. Kiy Kievits ạ, anh thử nói kỹ cho tôi nghe một chút, xem ở cái làng Khlyby
này người ta nghĩ và nói những gì về chiến tranh nào...
Kiy Kievits nhếch
mép cười nửa miệng.
- Có mà biết họ
nghĩ cái gì... Họ làm thinh... Chó sói cũng im lặng khi họp lại thành đàn.
- Thế nghĩa là
không có hiện tượng phản kháng lệnh trưng binh?
- Không, không có.
- Họ hiểu thằng Đức
là địch?
- Không, vấn đề
không phải ở thằng Đức!
- Thế thì ở ai?
Kiy Kievits cười nhạt.
- Vấn đề không phải ở như thằng Đức, vấn đề
ở như khẩu súng ấy - Họ sẽ nhận súng. Mà con người đã cầm khẩu súng trong tay rồi
thì tâm lý nó khác đi... Để đấy rồi mà xem, - coi thử những khẩu súng ấy sẽ nhằm
vào hướng nào mà bắn... Thế đấy...
- Thế nhưng dù sao họ cũng có nói chuyện về
chiến tranh chứ?
- Cứ vào làng mà nghe thử...
Khi Antôska và Êlizaveta Kievna đi vào làng
thì trời đã nhá nhem tối. Những chòm sao tháng tám lần lượt thắp lên lác đác
trên khắp bầu trời đang nguội dần. Ở phía dưới; trong làng Khlyby, không khí ẩm
thấp còn thoảng mùi bụi do chân gia súc tung lên và mùi sữa tươi. Bên các cổng
có những chiếc xe giàn đã tháo ngựa. Dưới rặng bồ đề, trong bóng tối dày đặc, một
cái cần múc nước giếng kêu cọt kẹt, một con ngựa thở dài đánh phào một tiếng,
và có thể nghe rõ tiếng nó vừa thở vừa uống nước. Ở một chỗ thoáng, bên cạnh một
cái vựa thóc nhỏ bằng gỗ lợp mái rạ, ba cô con gái ngồi trên những súc gỗ cất
tiếng hát khe khẽ. Êlizaveta Kievna và Antôska lại gần và cũng ngồi xuống cách
đấy một quãng. Ba cô gái hát:
Làng
Khlyby xinh đẹp mọi bề,
Mọi vật
đều như đồ trang sức:
Những
chiếc ghế, những bó hoa,
Và những
cô thiếu nữ đẹp như tranh...
Một cô quay về phía hai người mới đến rồi
nói khẽ với bạn:
- Thế nào, các cậu, về ngủ thôi chứ?
Nhưng họ vẫn ngồi yên không nhúc nhích.
Trong vựa thóc có ai lục xục một lát, rồi cánh cửa mở đánh kẹt một tiếng và một
lão mu-gích đầu hói mặc áo khoác ngắn phanh ngực bước ra ngoài; lão vừa thở ì ạch
vừa vặn đi vặn lại chìa khóa trong ổ một hồi lâu mới khóa được cửa, rồi đến cạnh
mấy cô con gái, thọc hai ngón tay vào thắt lưng, vểnh bộ râu dê ra.
- Mấy con chim họa mi vẫn hót đấy à?
- Vâng, chúng cháu hát, nhưng không phải để
ca ngợi bác đâu, bác Fyôđor ạ.
- Tao thì tao cho mấy roi đuổi hết đi bây
giờ... Có cái lối đâu lại ngồi hát suốt đêm như thế...
- Bác ganh tị đấy à?
Một cô khác thở dài nói:
- Chúng cháu chỉ còn biết hát về làng
Khlyby ta nữa mà thôi.
- Phải, các cô thì gay lắm rồi. Bây giờ thì
thui thủi một mình... - Fyôđor ngồi xuống cạnh mấy cô gái. Cô ngồi sát bên cạnh
lão nói:
- Hôm nay nghe các bà bên Kôzmôđêmyanxk nói
là họ bắt đi đông lắm. Bắt hết nửa làng rồi còn gì.
- Chỉ ít nữa rồi cũng đến lượt các cô đi nốt.
- Chúng cháu mà đi đánh nhau ấy à?
Ba cô con gái cười phá lên. Cô ngồi ngoài
cùng lại hỏi:
- Bác Fyôđor, vua của ta đánh nhau với ai
thế?
- Với một ông vua khác.
Ba cô con gái đưa mắt nhìn nhau. Một cô thở
dài, một cô khác sửa lại chiếc khăn san. Cô ngoài cùng nói:
- Đúng đấy, các bà ở Kôzmôđêmyanxk cũng bảo
là với một ông vua khác.
Lúc bấy giờ từ phía sau mấy thanh gỗ nhô
lên một cái đầu bù xù. Chủ nhân của cái đầu vừa kéo lại chiếc áo khoác ngắn cho
kín, vừa nói giọng khàn khàn:
- Thôi đừng nói nhảm nữa, Fyôđor ạ. Vua
khác nào. Chiến tranh với Đức đấy chứ.
- Đều có thể cả, - Fyôđor đáp. Cái đầu lại
tụt xuống.
Antôska Arnônlđôv lấy hộp thuốc lá ra mời
Fyôđor một điếu, rồi hỏi một cách dè dặt:
- Thế người làng ta vui vẻ đi lính cả chứ?
- Cũng có nhiều người thích đi, ông ạ.
- Thế nghĩa là có phong trào tự nguyện?
- Vâng, tự nguyện. Việc gì lại không đi? Dù
sao cũng được đi xem đó đây cho biết. Có chết trận thì cũng thế thôi, ở đâu mà
chả chết. Đất chúng tôi xấu. Quanh năm cứ bánh mì với nước kvax chén ròng. Chứ
đi lính thì nghe nói thịt ăn ngày hai lần, lại có cả đường, cả chè, cả thuốc lá
hút tha hồ.
- Nhưng đi ra trận mà không sợ à?
- Sao lại chả sợ, dĩ nhiên là có sợ chứ.
15
Những chiếc xe giàn phủ bạt, những chiếc xe
tải chở rơm và cỏ khô, những chiếc xe cứu thương, những cái phao cầu to tướng,
vừa lắc lư vừa kêu cót két vừa lăn bánh trên con đường cái rộng lầy lụa những
bùn. Trời mưa dầm dề không lúc nào ngớt, những hạt mưa nhỏ lăn tăn nối đuôi
nhau rơi chênh chếch, đều đều. Những luống cày và những cái rãnh hai bên đường
đều đầy ắp nước. Xa xa những làng mạc và những rặng cây vẽ thành những đường
cong mờ mờ.
Trong tiếng quát tháo, tiếng chửi mắng, tiếng
roi quất và tiếng trục bánh xe chạm vào nhau răng rắc, trong bùn lầy và mưa dầm,
đoàn xe tải của quân đội Nga đang tiến công kéo đi thành một dòng thác liên tục.
Hai bên đường ngổn ngang những con ngựa chết hoặc còn thoi thóp, những chiếc xe
đổ chổng bánh lên trời. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi nhà binh len qua dòng
thác đó. Thế là bắt đầu nổi lên những tiếng quát, những tiếng cằn nhằn, mấy con
ngựa lồng lên, một chiếc xe giàn chở nặng lăn xuống bờ đường đắp, kéo theo cả
những người lính áp tải.
Xa hơn, nơi dòng xe cộ đứt quãng ra, binh
sĩ kéo đi thành từng hàng dài, chân giẫm lép bép trên lớp bùn trơn, lưng đeo đầy
những bạc đà và vải lều. Chen vào những đám lính đi không có hàng lối ấy, thỉnh
thoảng lại có những chiếc xe tải chở đồ quân dụng và một đống súng trường chĩa
tua tủa ra tứ phía, bên trên có những anh lính cần vụ ngồi co ro. Chốc chốc lại
thấy một người lính rời đường cái chạy xuống ruộng, đặt súng bên cạnh rồi ngồi
thụp xuống.
Rồi lại đến một đoàn những xe vận tải, xe
giàn, phao cầu, xe kiệu, xe song mã ngất ngưởng kéo đi, bên trên lắc lư những
bóng người ướt át mặc áo đi mưa của sĩ quan. Dòng thác ồn ào này khi thì bị dồn
nhanh xuống dốc, ép chặt lại, quát tháo và đánh nhau ở các cầu, khi thì chậm chạp
bò lên và khuất sau một đỉnh dốc. Từ hai bên đường cái lại có những đoàn xe chở
bánh mì, chở cỏ khô và đạn đại bác. Những đơn vị kỵ binh nhỏ băng qua đồng, vượt
lên phía trước.
Thỉnh thoảng một đoàn pháo binh lại len vào
giữa dòng xe tải, trong tiếng bánh nặng lăn lịch kịch và tiếng những mảng sắt lớn
xô vào nhau chan chát. Những người lính Tatar với bộ mặt râu ria hung ác cưỡi
những con ngựa cao lớn, ngực nở, luôn tay quất roi vào ngựa và vào người, như
cái lưỡi cày dọn một lối đi giữa đường cái và kéo theo sau những khẩu đại bác
mõm dẹt nhảy chồm chồm trên đôi bánh xe. Từ khắp bốn phía có những người chạy lại,
đứng thẳng người trên xe, hoa chân múa tay. Rồi dòng sông lại khép lại, chảy
vào một khu rừng sực nức mùi nấm, mùi lá ải, đang rì rầm khe khẽ trong mưa.
Xa hơn, ở hai bên đường, từ những đống rác
và những súc củi cháy dở nhô lên những chiếc ống lò sưởi. Một cây đèn lồng vỡ
treo lủng lẳng trên cột. Một tờ quảng cáo chiếu bóng đã tróc hồ đánh phần phật
vào tường một ngôi nhà bị đại bác bắn sập. Và ngay cạnh đấy một thương binh mặc
ca-pốt xanh nằm trên một chiếc xe giàn đã mất hai bánh trước, khuôn mặt vàng
võ, đôi mắt mờ đục buồn rười rượi.
Cách đấy khoảng hai mươi lăm dặm, tiếng đại
bác ầm ì truyền đi dọc chân trời phủ khói. Suốt đêm suốt ngày, những đoàn quân
và những dòng xe cộ này cứ lần lượt đổ vào đấy. Từ khắp nước Nga, những đoàn xe
lửa chở bánh mì, chở người và chở đạn kéo nhau đổ dồn vào đấy. Cả nước rung
chuyển lên vì tiếng gầm của đại bác. Cuối cùng tất cả những nỗi khát khao, bất
mãn, hằn học đã tích tụ lại bấy lâu trong cảnh bị cấm đoán và bị bóp nghẹt, bây
giờ đã có cơ được thỏa chí hoành hành.
Dân cư các thành thị, đã chán ngấy cuộc sống
méo mó, dơ bẩn, bây giờ dường như vừa sực tỉnh một giấc ngủ nặng nề ngột ngạt.
Trong tiếng gầm của đại bác có cả tiếng âm ỉ đầy sức khích động của cơn giông tố
nhân loại. Người ta bắt đầu cảm thấy cuộc sống cũ không thể nào chịu đựng được
nữa. Dân chúng chào đón chiến tranh với một tâm trạng hả hê điên rồ và hằn học.
Trong các làng mạc người ta không mấy khi hỏi
xem cuộc chiến tranh này nhằm chống lại ai và vì lẽ gì - rốt cục cũng thế cả
thôi. Vì đã từ lâu nỗi căm thù và hằn học đã che mờ mắt người ta đi như một màn
sương đẫm máu. Thời cơ đã chín muồi cho những sự việc khủng khiếp. Thanh niên
và trung niên nông dân bỏ vợ con và người yêu ở nhà đi ra lính; tham lam và láu
lỉnh, họ ùa lên chật các toa đen, lướt nhanh qua các thành phố trong tiếng huýt
sáo và những câu hát sàm sỡ thô tục. Cuộc sống cũ đã cáo chung. Nước Nga như bị
một cái muôi khổng lồ khuấy đảo, mọi thứ đều chuyển động, xê dịch, ngây ngất vì
chất men của chiến tranh.
Ra đến khu vực chiến trường đang rền tiếng
súng trên hàng chục dặm, những đoàn xe tải và những đơn vị quân đội tản ra và
tan đi. Ở đây đã chấm dứt tất cả những gì có sinh khí và có tính người. Mỗi người
được phân một chỗ trong lớp đất công sự. Ở đây họ ăn, họ ngủ, họ giết rận và nã
súng trường cho đến kỳ mụ mẫm vào cái dải đất mưa phủ mù mịt ở phía trước.
Đêm đêm, suốt dọc chân trời đều bung lên những
đám cháy từ từ lan rộng và hắt những vầng ráng đỏ tía bốc lên cao những phát
pháo hiệu vạch những đường cong sáng lóe trên nền trời rồi rơi lả tả thành một
mớ sao băng, những quả đạn đại bác bay tới trong tiếng réo man dại như thú tìm
mồi, rồi nổ tung ra thành những cột lửa, khói, và bụi.
Ở đây bụng người ta như thót lại vì một nỗi
sợ hãi đến buồn nôn lên được, da thịt người ta cứ co rúm và mấy ngón chân bất
giác bấm chặt lại. Khoảng gần nửa đêm, tiếng súng hiệu vang lên. Những viên sĩ
quan chạy qua, miệng méo xệch, họ chửi bới, quát tháo, đánh đập để dựng cổ những
người lính đã phát phù lên vì buồn ngủ và ẩm ướt, bắt họ phải trỗi dậy. Thế là
những tốp người lộn xộn cắm cổ chạy trên cánh dồng, chửi bới tục tằn và gầm lên
như thú dữ, chốc chốc lại vấp ngã, khi thì nằm bệt xuống, khi thì lại chồm lên,
rồi choáng váng, hốt hoảng, phát điên lên vì sợ hãi và căm giận, họ lao vào chiến
hào của địch.
Rồi sau đó không ai còn nhớ ở đấy, trong những
chiến hào này, đã xảy ra những gì. Khi người ta muốn khoe khoang những chiến
công anh hùng - nào đã đâm lê ra sao, nào đã nện báng súng vỡ tan đầu tên lính
địch như thế nào - thì người ta phải nói khoác. Trận đánh đêm ấy chỉ để lại một
kỷ niệm duy nhất xác thực: những xác chết ngổn ngang trên chiến trường.
Một ngày nữa bắt đầu, những chiếc xe bếp được
đẩy tối. Những người lính, mệt mỏi và lạnh cóng, ăn bữa sáng và hút thuốc. Rồi
họ nói tục, kể chuyện đàn bà, và trong lĩnh vực này cũng nói khoác rất nhiều. Họ
bắt rận và ngủ. Họ ngủ suốt ngày trên mảnh đất trơ trụi của sấm sét và chết
chóc này, giữa những bãi cát và những vũng máu.
Têlêghin cũng sống như thế, trong bùn lầy
và trong cảnh ẩm thấp, không cởi áo ngoài và hàng mấy tuần liền không tháo ủng.
Trung đoàn dã chiến trong đó Têlêghin đóng chuẩn úy đã tham chiến nhiều lần.
Hơn một nửa trung đoàn sĩ quan và binh lính đã bị thương vong, mà vẫn không được
bổ sung quân số, và ai nấy chỉ còn mong sao chóng đến cái ngày mà, chết dở vì
kiệt sức, áo quần rách tả tơi, họ sẽ được chuyển về hậu phương.
Nhưng bộ tư lệnh tối cao lại muốn rằng trước
mùa đông phải tràn qua dãy Karpat bằng bất cứ giá nào, đột nhập vào Hungari và
phá sạch vùng này. Ai cũng tưởng rằng cuộc chiến đấu căng thẳng kéo dài không
ngớt từ hơn hai tháng nay sẽ bẻ gãy sức kháng cự của các đạo quân Áo đang rút
lui hỗn loạn. Krakôv và Viên sẽ thất thủ, và cánh trái của quân đội Nga sẽ lọt
sâu vào vùng hậu phương của Đức không còn có gì bảo vệ.
Theo đúng kế hoạch này, quân Nga tiến không
ngừng về phía tây, bắt hàng vạn tù binh, chiếm được vô số những kho dự trữ
lương thực, đạn dược, vũ khí và quân trang. Trong các cuộc chiến tranh trước
kia, chỉ một phần số chiến lợi phẩm ấy thôi, chỉ một trong những trận chiến đấu
ác liệt nướng hàng mấy lữ đoàn một lúc và kế tiếp nhau không ngớt ấy thôi, cũng
đã đủ để định đoạt số phận của chiến cuộc. Ấy thế nhưng mặc dầu ngay trong những
trận đầu đã có hàng quân đoàn chính quy bị tiêu diệt, mức ác liệt vẫn chỉ có
tăng lên mà thôi. Mọi người đều ra trận, từ trẻ con cho đến ông già: cả một dân
tộc. Trong cuộc chiến tranh này có một cái gì vượt quá sức lĩnh hội của con người.
Người ta tưởng đâu quân địch đã bị đánh tan, đã kiệt hết máu, chỉ cần dấn lên một
bước nữa là thu được thắng lợi quyết định. Bước dấn ấy đã được thực hiện, nhưng
thay cho những quân đoàn địch đang tan rã lại thấy hiện ra những quân đoàn mới
tiến lên với một thái độ ngoan cố trầm lặng để đón lấy cái chết và bị tiêu diệt.
Những bầy giặc Tatar hay những đoàn quân Ba-tư xưa kia không hề chiến đấu một
cách ác liệt và chết một cách dễ dàng như những con người châu Âu yếu ớt, mềm mỏng
này, hay như những người mu-gích Nga tinh khôn biết rằng mình chỉ là một đàn
gia súc câm, một mớ thịt trong cái lò sát sinh do các ông lớn bày ra.
Những đám tàn quân của trung đoàn Têlêghin
đào công sự trên bờ sông một con sông hẹp và sâu. Vị trí này rất bất lợi, lộ liễu,
công sự thì cạn xớt. Trung đoàn đang chờ lệnh tấn công từng giờ một, và trong
khi chờ đợi, mọi người đều vui mừng vì được đánh một giấc thật đẫy, quấn lại vải
lót chân, nghỉ cho lại sức, tuy ở bên kia sông, nơi có chiến hào của các đơn vị
Áo, tiếng súng vẫn nổ giòn.
Đến chiều, khi tiếng súng đã im ắng trong
khoảng ba tiếng đồng hồ như thường lệ, Ivan Ilyits đi lên bộ tham mưu trung
đoàn, đóng trong một tòa lâu đài bỏ hoang cách vị trí khoảng hai dặm.
Một lớp sương mù xơ xác đọng lại suốt dọc
con sông chảy quanh co trong những đám sậy và vương vào các bụi rậm mọc lên bờ.
Không khí im lìm, ẩm thấp và thoáng mùi lá ướt. Thỉnh thoảng một tiếng súng đơn
độc truyền đi trên mặt nước, nghe tròn trĩnh và âm u.
Ivan Ilyits nhảy qua cái rãnh đi ra đường
cái, dừng lại châm thuốc hút. Hai bên đường sừng sững những thân cây trụi lá
trong sương mù trông cao lớn dị thường. Phía dưới, những khoảng đất trống trông
như rót đầy sữa. Một viên đạn rít lên ai oán trong bầu không khí tĩnh mịch.
Ivan Ilyits thở hắt ra một hơi rõ dài và bước trên lớp sỏi lạo xạo, mắt ngước
lên nhìn dãy cây huyền ảo. Vì cảnh tĩnh mịch ở xung quanh và vì chàng đang trầm
ngâm bước đi một mình. Ivan Ilyits thấy tâm hồn lắng xuống, những tiếng ồn ào dữ
dội trong ngày lùi hẳn vào một nơi xa xôi lắm, và một nỗi buồn tinh tế, sắc nhọn
len lỏi vào lòng chàng. Chàng lại thở dài, ném điếu thuốc lá đi, chắp hai tay
sau gáy và cứ thế bước đi như trong một thế giới thần kỳ, nơi chỉ có những bóng
cây huyền ảo, chỉ có trái tim đầy sức sống của chàng đang mòn mỏi vì tình yêu,
và vẻ kiều diễm duyên dáng vô hình của Đasa.
Đasa đang ở cạnh chàng trong giờ phút nghỉ
ngơi và yên tĩnh này. Chàng cảm thấy sự gần gũi của nàng mỗi khi vắng lặng tiếng
rít lanh lảnh của đạn đại bác, tiếng nổ đì đoành của súng trường, tiếng quát
tháo và mắng chửi những âm thanh rất lạc lõng trong vũ trụ hài hòa của thượng đế,
- khi có thể rúc vào một xó nào trong căn hầm: và những khi ấy, vẻ đẹp tuyệt vời
của Đasa như chạm thấu đáy lòng chàng.
Ivan Ilyits có cảm tưởng là nếu một ngày
kia chàng phải chết, thì đến phút cuối cùng chàng vẫn sẽ còn thể nghiệm được niềm
hạnh phúc của những phút sum họp này. Chàng không nghĩ đến cái chết và không thấy
sợ nó. Bây giờ không còn cái gì, dù là cái chết cũng vậy, có thể lôi chàng ra
khỏi cái trạng thái lạ lùng này, một trạng thái khiến cho chàng cảm thấy mình
đang sống thực sự.
Mùa hè vừa qua, khi đến Evpatorya để nhìn
Đasa lần cuối cùng - như ý chàng vẫn nghĩ, Ivan Ilyits đã buồn rầu và xúc động,
cố nghĩ ra đủ cách xin lỗi nàng. Nhưng cuộc gặp gỡ trên đường, những giọt nước
mắt bất ngờ của Đasa, mái đầu sáng rực của nàng nép vào ngực chàng, bộ tóc, đôi
vai, đôi tay thoảng mùi nước biển của nàng, cái miệng trẻ thơ của nàng khi nàng
ngẩng mặt lên nhìn chàng với đôi hàng mi ướt đẫm nhắm nghiền và nói: “Ivan
Ilyits, anh, em mong anh quá” - tất cả những nét mà không lời nào nói lên được
như từ trên trời gieo xuống ấy, ngay từ khi đứng trên con đường duyên hải, chỉ
trong mấy phút đã đảo lộn hết cả cuộc đời chàng. Chàng đã nhìn vào gương mặt
yêu dấu ấy và nói với nàng:
- Anh yêu em suốt đời.
Thậm chí về sau chàng còn ngỡ như mình
không phải đã nói câu này ra mà chỉ nghĩ thầm thôi, nhưng nàng đã hiểu, Đasa
buông hai tay đang vịn lên vai chàng và nói:
- Em cần kể rất nhiều chuyện với anh. Ta đi
đi.
Họ sánh vai nhau ra ngồi bên bờ biển, trên
cát. Đasa bốc một nắm sỏi và thong thả ném xuống nước.
- Em cứ băn khoăn không biết khi anh đã rõ
hết mọi chuyện rồi, anh còn có thể quý em nữa không. Tuy thật ra dù anh có đối
với em thế nào cũng được, tùy anh thôi. - Nàng thở dài. - Trong khi vắng anh em
rất hư, Ivan Ilyits ạ! Nếu anh có thể tha thứ, xin anh tha thứ cho em.
Và nàng bắt đầu kể, kể hết một cách trung
thực và cặn kẽ, - nàng nói về Xamara, về chuyện nàng gặp Bexxônôv ở đây rồi
không còn muốn sống nữa vì quá ghê tởm cái không khí ô uế của Pêterburg bấy giờ
lại dấy lên, đầu độc máu nàng, thiêu đốt trí tò mò của nàng...
- Liệu em còn kháng cự được bao lâu nữa? Em
cứ muốn nhảy bừa vào vũng bùn - đường đi nước bước của em nó phải thế. Nhưng đến
phút cuối cùng em đã sợ... Ivan Ilyits, anh... -Đasa chập hai tay lại - anh
giúp em với. Em không muốn, không thể căm thù mình nữa... Nhưng dù sao trong em
chưa phải cái gì cũng đều hư hỏng hết... Em ước mong một cái gì khác hẳn, khác
hẳn...
Sau đó Đasa im lặng rất lâu. Ivan Ilyits
nhìn đăm đăm xuống làn nước xanh phẳng lì như tấm gương sáng lòa ánh nắng. Bất
chấp mọi sự trên đời, tâm hồn chàng vẫn tràn đầy hạnh phúc.
Chiến tranh đã bùng nổ, và ngày mai
Têlêghin phải lên đường đuổi theo cho kịp trung đoàn: điều đó mãi sau Đasa mới
nhớ ra, khi gió nổi lên và một đợt sóng tràn vào làm ướt chân nàng.
- Ivan Ilyits!
- Gì em?
- Anh có quý em không?
- Có.
- Nhiều không?
- Rất nhiều?
Bấy giờ nàng lê đầu gối trên cát dịch lại gần
chàng và đặt bàn tay lên bàn tay chàng, như hồi nào trên tàu thủy.
- Ivan Ilyits, em cũng thế - rất nhiều.
Xiết chặt mấy ngón tay của chàng, nàng im lặng
một lát rồi nói:
- Ban nãy trên đường cái anh nói gì với em
thế nhỉ? - nàng cau trán. - Chiến tranh gì thế? Đánh ai?
- Đánh Đức.
- Thế còn anh?
- Mai anh đi.
Đasa ồ một tiếng rồi lại im lặng. Từ đàng
xa, dọc theo bờ biển, Nikôlai Ivanôvits đang chạy về phía hai người, mình mặc bộ
pyjama; hẳn là ông ta vừa từ trên giường choàng dậy. Tay vung cao một tờ báo,
ông ta vừa chạy vừa quát tháo những gì không rõ.
Ông không hề chú ý đến Ivan Ilyits. Đến khi
Đasa nói: “Anh Nikôlai ạ, đây là người bạn thân nhất của em”. Nikôlai Ivanôvits
túm lấy áo Têlêghin và quát vào mặt chàng:
- Thời buổi thế đấy, anh bạn trẻ ạ. Hả? Văn
minh là thế này đây phỏng? - ông khua khua tờ báo, - Hả? Thật là quái gở! Anh
hiểu không? Thật là điên loạn.
Suốt ngày hôm ấy Đasa, ngoan ngoãn và trầm
ngâm, không rời Têlêghin nữa. Còn chàng, chàng có cảm giác là cái ngày hôm ấy,
chan hòa ánh nắng xanh và tiếng sóng bể, là một ngày vô tận. Mỗi phút như thể
được khuếch đại ra bằng cả một cuộc đời.
Têlêghin và Đasa cùng đi tha thẩn trên bờ
hè, cùng nằm trên dải cát, cùng ngồi trên sân thượng, ngẩn ngơ như đang chịu
tác dụng của một phép thần thông. Nikôlai Ivanôvits cứ bám riết lấy hai người,
theo họ khắp nơi, luôn mồm diễn thuyết tràng giang đại hải về chiến tranh và về
cuộc xâm lược tàn bạo của quân Đức.
Mãi đến chiều họ mới thoát được Nikôlai
Ivanôvits. Đasa và Têlêghin đi rất xa dọc theo bờ vịnh thoai thoải. Họ im lặng
bước đều nhịp bên nhau. Và đến đây Ivan Ilyits bắt đầu nghĩ rằng dù sao cũng phải
nói với Đasa một câu gì đấy: dĩ nhiên là nàng đang đợi chàng nói ra những lời
nhiệt thành và, hơn nữa, dứt khoát. Nhưng chàng có thể lúng búng những gì đây?
Làm sao có thể bày tỏ bằng lời nói những điều đang tràn ngập cả tâm hồn chàng?
Không, không thể nào diễn đạt được.
“Không được, - chàng nhìn xuống đất nghĩ thầm
- nếu mình nói với Đasa những lời như thế thì thật là thiếu lương tâm: Đasa
không thể yêu mình được, nhưng vốn là một người con gái trung thực và nhân hậu,
nàng sẽ nhận lời nếu mình xin kết hôn với nàng. Nhưng làm như thế tức là cưỡng
bức nàng. Vả lại mình càng không có quyền nói là vì hai người sẽ xa nhau trong
một thời gian vô định, và rất có thể là mình không trở về...”.
Têlêghin đang thể nghiệm một trong những
cơn tự dày vò thỉnh thoảng vẫn đến ám ảnh chàng. Đasa bỗng dừng lại, vịn vào
vai chàng và tháo chiếc giày vải ra.
- Ôi, trời ơi, - nàng nói đoạn bắt đầu rũ
cát trong chiếc giày ra, rồi xỏ chân vào đứng thẳng lại và thở một hơi dài. -
Khi anh đi rồi, em sẽ rất yêu anh, Ivan Ilyits ạ.
Nàng đưa tay lên ôm lấy cổ Têlêghin, rồi
nhìn vào đáy mắt chàng bằng đôi mắt trong sáng, gần như nghiêm khắc, không
thoáng bóng một nụ cười, nàng thở dài nhè nhẹ:
- Ở ngoài ấy chúng mình vẫn ở bên nhau nhé?
Ivan Ilyits thận trọng kéo sát nàng vào và
hôn lên đôi môi mềm dịu, run run của nàng. Đasa nhắm mắt lại, vịn vào cánh tay
Ivan Ilyits, và họ bước đi dọc theo dải nước nặng và sẫm màu lấp loáng những
tia màu huyết dụ đang từ từ liếm lên bờ cát dưới chân.
* * *
Ivan Ilyits nhớ lại tất cả những cảnh đó
vào những phút yên tĩnh, và cứ mỗi lần như vậy lòng chàng lại dạt dào một nỗi
xúc động không hề phai mờ. Giờ đây, hai tay chắp sau gáy, đi tha thẩn trong
sương mù, dọc theo con đường cái, giữa hai hàng cây, chàng lại mường tượng thấy
đôi mắt Đasa đang chăm chú nhìn chàng, thể nghiệm lại một lần nữa chiếc hôn kéo
dài của nàng.
- Ai, đứng lại! - từ trong đám sương mù, một
giọng thô lỗ quát ra.
- Quân ta, quân ta, - Ivan Ilyits vừa đáp vừa
bỏ hai tay xuống, đút vào túi quần. Đoạn chàng rẽ vào rặng sồi đi về phía tòa
lâu đài hiện lên mờ mờ ở cuối lối đi, mấy khung cửa sổ hắt ra một ánh sáng
vàng. Trên thềm một người lính trông thấy Têlêghin liền vứt điếu thuốc lá và đứng
nghiêm.
- Sao, xe thư chưa đến à?
- Thưa ngài, chưa ạ, chúng tôi đang đợi.
Têlêghin bước vào gian phòng ngoài. Ở cuối
phòng, bên trên một cầu thang gác rộng bằng gỗ sồi có treo một tấm thảm Gobelin cũ kỹ, dệt hình Ađam và Eve cầm
một quả táo, Ađam cầm một nhánh cây có hoa. Khuôn mặt đã phai màu và thân hình
xanh xanh của hai nhân vật nổi lên mờ mờ dưới ánh sáng leo lét của một ngọn nến
cắm trên một cái chai đặt trên một cột trụ đỡ tay vịn của cầu thang.
Ivan Ilyits mở cánh cửa bên phải và bước
vào một gian phòng trống trải, trần chạm trổ, hôm qua vừa bị một phát đại bác bắn
sụt mất một góc tường. Bên lò sưởi đang cháy rực, trung úy công tước Belxki và
thiếu úy Martynôv đang ngồi trên cái giường xếp. Têlêghin chào hai viên sĩ
quan, hỏi xem xe hơi ở bộ tham mưu bao giờ sẽ đến, rồi ngồi xuống cái thùng đạn
gần đấy, mắt nheo nheo vì chói.
- Thế nào, bên các anh vẫn bắn nhau đấy à?
- Martynôv hỏi.
Têlêghin nhún vai không đáp. Công tước
Belxki khe khẽ nói tiếp câu chuyện bỏ dở:
- Khiếp nhất là mùi hôi. Tôi có viết thư về
nhà, nói là cái chết đối với tôi không đáng sợ. Vì tổ quốc, tôi sẵn sàng hy
sinh tính mạng, nói cho đúng ra chính vì thế mà tôi xin chuyển sang bộ binh ngồi
dưới chiến hào. Nhưng mùi hôi thì tôi chịu, đến chết mất.
- Mùi hôi thì có quái gì mà sợ, không thích
thì đừng ngửi, - Martynôv vừa đáp vừa sửa lại sợi dây tết bím đính trên vai, -
nhưng ở đây phải cái không có đàn bà: cái ấy mới quan trọng. Tình trạng này sẽ
có hậu quả rất tai hại. Anh cứ thử nghĩ mà xem - quan tư lệnh quân đoàn là một
lão già liệt dương, cho nên ở đây chúng mình phải sống như trong nhà tu - chẳng
có rượu, chẳng có gái. Thế mà cũng gọi là chăm sóc quân đội, thế mà cũng gọi là
chiến tranh!
Martynôv rời chiếc giường xếp đứng dậy dùng
mũi giày đẩy những súc củi đang cháy rừng rực. Công tước Belxki trầm ngâm ngồi
hút thuốc, mắt nhìn vào ngọn lửa.
- Năm triệu thằng lính hàng ngày đi ỉa, -
công tước nói - lại thêm những xác người và xác ngựa chết thối ra đấy nữa. Cuộc
chiến tranh này sẽ để lại cho tôi một kỷ niệm duy nhất, nhớ suốt đời: mùi thối.
Eo ôi...
Ngoài sân có tiếng máy xe hơi phành phạch.
- Thưa các ngài, xe thư đã đến! - một giọng
xúc động quát chõ vào cửa.
Các sĩ quan vội ra thềm. Xung quanh chiếc
xe hơi có những bóng đen đang lăng xăng. Mấy người chạy đi chạy lại trên sân. Một
giọng khàn khàn cứ nhắc đi nhắc lại: “Xin các ngài đừng giật”.
Những túi đựng thư và bưu kiện được đưa vào
phòng ngoài, và trên cầu thang gác, dưới chân ông Ađam và bà Eva, người ta bắt
đầu tháo nó ra. Đây là chuyến xe thư duy nhất kể từ một tháng nay. Trong những
cái túi vải bố hoen bẩn này dường như đựng cả một đại dương ân ái và nhớ nhung
- tất cả cuộc sống thân yêu ngày nào đã bị từ bỏ, đã lùi rất xa vào dĩ vãng.
- Kìa các ngài, đừng có giật nào, - thượng
úy Babkin, một người to béo, mặt đỏ gay, cất cái giọng khàn khàn nói, - Chuẩn
úy Têlêghin, sáu thư và một bưu kiện... Chuẩn úy Nejny hai thư...
- Nejny chết rồi các ngài ạ.
- Bao giờ?
- Sáng nay...
Têlêghin đến cạnh lò sưởi. Cả sáu bức thư đều
là của Đasa. Địa chỉ trên mấy chiếc phong bì đều được viết bằng chữ to. Lòng
Têlêghin tràn ngập một niềm trìu mến dạt dào đối với bàn tay dễ thương đã viết
những con chữ to như vậy. Cúi lom khom trước ngọn lửa, chàng thận trọng xé chiếc
phong bì thứ nhất. Bức thư tỏa ra khắp người chàng một mùi hương kỷ niệm đậm đà
đến nỗi chàng phải nhắm mắt lại một phút. Rồi chàng đọc:
“Sau khi tiễn anh đi, em với Nikôlai
Ivanôvits ngay hôm ấy đã lên đường đi Ximfêropôl và đến tối đã ngồi trên chuyến
tàu đi Pêterburg. Bây giờ em lại ở trong căn nhà cũ. Nikôlai Ivanôvits lo lắm:
chị Katya chẳng thấy có tin tức gì, hiện chị ở đâu cũng không biết nữa. Những
gì đã xảy ra giữa anh và em nó lớn lao và đột ngột đến nỗi đến bây giờ em vẫn
chưa hoàn hồn. Đừng giận em nếu em không biết viết thế nào cho anh thấy rõ lòng
em. Em yêu anh. Em sẽ yêu anh với một mối tình chung thủy và mãnh liệt vô cùng.
Bây giờ em đang hoang mang quá. Thỉnh thoảng trên các phố lại thấy những đơn vị
diễu qua trong tiếng quân nhạc. Buồn đến nỗi tưởng như hạnh phúc đang đi xa dần
với những chiếc kèn, những người lính ấy. Em biết em không nên viết thế này,
nhưng dù sao em vẫn xin anh cẩn thận gìn giữ một chút trong khi ở ngoài mặt trận”.
- Thưa ngài, thưa ngài chuẩn úy - Têlêghin
khó nhọc quay đầu lại, trên ngưỡng cửa có một người lính liên lạc đang gọi
chàng - Thưa ngài có điện thoại - có lệnh gọi ngài về đại đội...
- Ai gọi?
- Thượng tá Rôzanôv. Ngài có dặn phải về
ngay.
Têlêghin gấp bức thư đang đọc dở, gộp vào tập
thư còn lại và đút cả vào trong áo sơ mi, kéo xụp mũ lưỡi trai xuống sát mắt và
ra ngoài.
Sương mù bây giờ lại càng dày đặc hơn,
không trông thấy cây cối đâu nữa. Đi cứ như đi trong sữa, chỉ biết dựa vào tiếng
sỏi lạo xạo mà định hướng. Têlêghin nhắc lại: “Em sẽ yêu anh với một mối tình
chung thủy và mãnh liệt vô cùng”. Bỗng chàng ngừng lại, nghe ngóng. Trong sương
mù không có lấy một tiếng động, thỉnh thoảng mới có một giọt nước mưa nặng đọng
trên cành cây rơi bộp xuống đất. Rồi gần đâu đây chàng bắt đầu phân biệt ra một
tiếng róc rách mơ hồ và tiếng rì rào khe khẽ. Chàng lại bước tới, tiếng róc
rách rõ hơn. Chàng giật mình lùi lại, dưới chân chàng, một mô đất lở ra và lăn
xuống nước bũm một tiếng nặng nề.
Hẳn đây là chỗ con đường cái bị cắt đứt
ngay trên bờ sông nơi có cái cầu bị đốt. Bên kia sông, cách đây chừng trăm bước,
chàng biết rõ là chiến hào của quân Áo đào ra đến sát bờ sông. Và quả nhiên,
sau tiếng bũm dưới nước, từ bờ bên kia có một phát súng nổ vang dội chuyển đi
trên mặt sông, rồi một phát nữa, lại một phát nữa, và tiếp theo là cả một tràng
dài, nghe như tiếng gõ liên hồi trên một mảng sắt. Đáp lại tràng liên thanh, ở
khắp nơi có những tiếng súng trường bắn vội vã, bị sương mù bịt bớt lại. Suốt
trên dòng sông những tiếng súng nổ, tiếng gầm, tiếng đạn rít mỗi lúc một to
lên, và trong bản hòa tấu ồn ào đáng nguyền rủa này khẩu súng máy vẫn cần cù điểm
từng tràng: “tặc-tặc-tặc, tặc, tặc-tặc”. Đâu đó trong khu rừng vang lên một tiếng
nổ trầm trầm. Làn sương mù thủng lỗ chỗ và vang dội tiếng súng vẫn treo dày đặc
trên mặt đất, phủ lên cái sự kiện quen thuộc và khả ố này.
Xung quanh Têlêghin, thỉnh thoảng có một
viên đạn xuyên vào thân cây đánh bụp một tiếng, hoặc một cành cây nhỏ trúng đạn
rơi xuống. Chàng rời đường cái rẽ ra đồng và lần mò đi hú họa giữa những bụi rậm.
Tiếng súng bỗng ngớt đi và ngừng hẳn, cũng một cách đột ngột như khi nổi lên.
Têlêghin bỏ mũ ra và lau vầng trán ướt đẫm mồ hôi. Xung quanh lại im phăng phắc
như dưới đáy nước, chỉ nghe tiếng lộp bộp của những giọt mưa đọng trên bụi cây
rơi xuống. Đội ơn Chúa, hôm nay chàng sẽ còn đọc được thư của Đasa. Chàng cười
khe khẽ và nhảy qua một cái rãnh nhỏ. Cuối cùng, ngay sát cạnh, có tiếng ai vừa
ngáp vừa nói:
- Đánh được một giấc ra trò, Vaxili nhỉ;
kìa tớ bảo: chúng mình vừa được một giấc ra trò.
- Im - có tiếng đáp đột ngột - Có người...
- Ai đấy?
- Quân ta, quân ta, - Têlêghin đáp vôi, và
ngay lúc ấy chàng chợt nhận ra dãy bờ đất đắp cao lên của một chiến hào và hai
khuôn mặt râu ria từ dưới đất nhô lên. Chàng hỏi:
- Đại đội mấy?
- Thưa ngài đại đội ba ạ, đại đội ta đấy
mà. Nhưng sao ngài lại đi giữa trời thế kia? Dễ trúng đạn lắm.
Têlêghin nhảy xuống và đi dọc theo chiến
hào cho đến chỗ rẽ dẫn vào hầm sĩ quan. Binh sĩ thức giấc vì trận nổ súng vừa
qua, đang trò chuyện rôm rả:
- Sương mù thế này thì dễ lắm, nó có thể
qua sông ở một chỗ nào đấy.
- Chả có gì khó.
- Tự nhiên bắn chí tử, cứ ầm ầm lên, khiếp
thật. Nó muốn dọa hay chính nó sợ thế không biết?
- Thế cậu có sợ không?
- Sao lại không. Tớ dát bỏ mẹ đi ấy.
- Các cậu ạ, thằng Garvrila bị bắn gãy mất
ngón tay đấy.
- Ấy, thằng ấy mới sướng.. Được về nhà.
- Đâu có chuyện ấy! Bay cả cánh tay kia mới
hòng. Đằng này chỉ chút ngón, hắn sẽ phải nằm meo ra ở một trạm nào gần đây,
xong đâu đấy lại mời ngài về đại đội.
- Bao giờ mới hết đánh nhau chuyến này nhỉ?
- Thôi tạnh đi.
- Rồi cũng thôi thôi, nhưng cánh ta chẳng sống
đến ngày ấy.
- Ít nhất cũng chiếm lấy thành Viên một
chút chứ nhỉ?
- Cậu muốn chiếm Viên để làm gì?
- Ấy, dù sao cũng nên...
- Đến mùa xuân mà chưa thôi thì mọi người
cũng trốn về hết. Không thì lấy ai cày cho? Bọn đàn bà chắc? Lính chết như rạ
ra đấy còn gì nữa. Đủ lắm rồi. No say rồi, chuồn thôi.
- Mấy ông tướng họ chẳng chịu thôi ngay cho
đâu.
- Nói chuyện kiểu gì thế? Ai vừa nói đấy?
- Thôi đi ông cai... ông đi đâu ông cứ đi
đi.
- Mấy ông tướng thì đời nào chịu thôi?
- Đúng đấy các cậu ạ. Trước hết, họ được
lĩnh gấp đôi lương, lại thêm nào huân chương, nào chữ thập. Có một tay bảo tớ:
cứ mỗi đầu lính mộ bọn Anh trả cho mấy ông tướng nhà ta băm tám rúp rưỡi đấy.
- Chà! quân khốn nạn! Nó bán chúng mình như
bán bò ấy.
- Thôi được rồi. Cứ đợi đấy, rồi sẽ thấy.
Khi Têlêghin bước vào căn hầm của sĩ quan, viên tiểu đoàn là thượng tá Rôzanôv,
người đẫy đà, mắt đeo mục kỉnh, tóc quăn từng món lơ thơ, đang ngồi trên một chồng
chăn ngựa xếp ở góc hầm, dưới mấy cành thông, nói:
- Bây giờ anh mới vui lòng về đến đây à,
anh bạn trẻ?
- Xin lỗi thượng tá, tôi đi lạc. Sương mù
ghê quá.
- Số là thế này, anh bạn ạ, đêm nay có một
việc phải làm... Ông ta bỏ vào mồm một miếng bánh mì nãy giờ vẫn cầm trong nắm
tay cáu bẩn. Têlêghin từ từ nghiến răng lại.
- Số là thế này, anh Ivan Ilyits thân mến ạ,
ta được lệnh vượt qua sông. Nên tìm cách làm thế nào cho công chuyện được dễ
dàng hơn. Anh ngồi xuống đây. Uống tí cô-nhắc nhé? Thế là tôi có nghĩ ra được
cái trò này... Ta bắc một cái cầu con ngay trước mặt cây thùy dương to to ở
ngoài kia. Hai trung đội sẽ qua sông...
16
- Xunôv!
- Thưa ngài có!
- Đào chỗ này... Khẽ chứ, đừng hất xuống nước.
Các cậu kia, nhích tới, nhích tới... Zubtxôv!
- Thưa ngài có!
- Đợi tí... Chèn vào đây... Đào thêm tí nữa...
Thả xuống... Từ từ chứ...
- Nhẹ tay tí chứ các cậu, bật cả vai tớ ra
bây giờ... Đẩy ra...
- Nào, đẩy đi...
- Quang quác cái mồm, khẽ chứ, con khỉ.
- Chèn đầu kia lại... Thưa ngài có phải nhấc
lên không ạ?
- Đã buộc hai đầu lại chưa?
- Xong ạ.
- Nhấc lên...
Trong những đám sương mù cuồn cuộn chan hòa
ánh trăng, hai cái xà gỗ cao ngất có những thanh ngang nối lại với nhau từ từ dựng
lên, kêu cót két: đó là cái cầu phao dùng cho cuộc hành quân đêm nay. Trên bờ
sông thấp thoáng những bóng lính mờ mờ. Họ nói chuyện và gắt nhau bằng một giọng
thầm thì vội vã.
- Sao, đã lắp xong chưa!
- Vững lắm rồi.
- Buông xuống nào... cẩn thận.
- Từ từ, từ từ, các cậu...
Hai cái xà dài chống một đầu lên bờ sông
bên này, ở chỗ sông hẹp nhất, từ từ nghiêng xuống và treo lơ lửng trong sương
mù, trên dòng nước.
- Liệu có tới bờ bên kia không?
- Hạ từ từ thôi.
- Nặng bỏ cha!
- Thôi, thôi, từ từ!...
Nhưng đầu cầu bên kia bỗng rơi xuống nước
đánh ào một tiếng rất to. Têlêghin khoát tay. Toán lính biệt động lặng lẽ nằm
phục xuống cỏ bên bờ sông. Sương mù đã bớt dày đặc, nhưng trời lại tối hơn, và
không khí trước buổi bình minh càng tê buốt. Bên kia sông vẫn im ắng. Têlêghin
cất tiếng gọi:
- Zubtxôv!
- Có.
- Bắt đầu lợp ván cầu đi!
Cái bóng dáng cao lênh khênh của Vaxili
Zubtxôv, người chua lét mùi mồ hôi, trườn qua bên cạnh Têlêghin và tụt xuống nước.
Ivan Ilyits trông rõ bàn tay to tướng của anh ta run run tóm lấy một bụi cỏ,
buông ra rồi mất hút.
- Sâu lắm. - đâu ở phía dưới có tiếng nói
rét mướt của Zubtxôv đưa lên.
- Các cậu chuyển ván xuống đi...
- Ván đâu, ván đâu, chuyển xuống!
Họ bắt đầu lặng lẽ và nhanh nhẹn chuyền tay
nhau mấy tấm ván. Không thể nào đóng đinh được, sợ ồn quá. Lắp xong mấy hàng đầu,
Zubtxôv từ dưới nước leo lên cầu và nói khẽ, răng đập vào nhau côm cốp:
- Nhanh lên, chuyển nhanh lên nào... ngủ
hay sao thế...
Dưới cầu nước chảy róc rách, lạnh buốt, hai
cái xà dọc đung đưa. Têlêghin nhìn ra được những đường viền đen sẫm của mấy bụi
cây ở bên kia bờ, và tuy đó cũng chỉ là những bụi cây y hệt như ở bên này, dáng
dấp của nó trông vẫn rờn rợn. Ivan Ilyits trở lên phía trên bờ, nơi tốp lính
đang nằm rồi, hô một tiếng đanh và gọn.
- Đứng dậy!
Lập tức trong những đám sương trắng đục nhô
lên những bóng người lờ mờ trông cao lớn một cách quái dị.
- Từng người một, chạy lên!
Têlêghin quay trở lại, tiến về phía cầu.
Ngay lúc ấy bỗng như có một tia nắng rọi vào đám sương mù làm cho những tấm ván
lát cầu màu vàng và gương mặt hốt hoảng của Zubtxôv đang nghển nghển bộ râu đen
láy vụt sáng bừng lên. Luồng ánh sáng của cây đèn chiếu quét sang một bên, rọi
vào đám bụi rậm làm nổi bật lên một cành cây cong queo với những nhánh khô trụi
lá, rồi lại chiếu lên ván cầu. Têlêghin nghiến răng chạy qua cầu. Và ngay tức
khắc, cả cái cõi im lặng đen ngòm bỗng như sụp đổ ầm ầm, dội vào tận óc thành một
tiếng sấm dữ dội. Từ bên bờ kia quân Áo bắt đầu nã súng trường và súng máy lên
cầu. Têlêghin nhảy lên bờ, ngồi thụp xuống và ngoái đầu lại. Một người lính cao
lớn - chàng không nhận rõ được là ai - đang chạy qua cầu bỗng áp chặt khẩu súng
trường vào ngực, buông nó ra, giơ hai tay lên và ngã sang một bên, rơi xuống nước.
Súng máy của địch quét lên cầu, xuống mặt nước, lên bờ... Một người nữa chạy
qua cầu rồi nằm rạp xuống cạnh Têlêghin - Đó là Xuxôv...
- Sẽ cho chúng nó biết tay, quân khốn kiếp!
Một người nữa chạy sang, rồi một người thứ
ba, rồi một người thứ tư. Đến người thứ năm thì mới ra đến giữa cầu đã ngã lộn
xuống, kêu la và vùng vẫy dưới nước...
Một lát sau cả đại đội đều đã qua sông. Họ
nằm rạp xuống lấy xẻng đắp một ít đất lên ở trước mặt. Bây giờ súng đã nổ dữ dội
suốt dọc bờ sông. Không thể nào ngóc đầu lên được: súng máy cứ nhắm vào chỗ đội
biệt động nằm mà nã tới tấp. Bỗng có tiếng rít như xé vải, nghe rất thấp - một,
hai, - cả thảy sáu lần như vậy và phía trước mặt có sáu tiếng nổ ình ình. Đó là
pháo của ta bắt đầu giã vào ổ súng máy.
Têlêghin và Zubtxôv đang nằm trước mặt
chàng vụt đứng dậy, chạy chừng bốn chục bước rồi lại nằm rạp xuống. Súng máy lại
nổ dòn từ phía tay trái, trong bóng tối. Nhưng có thể thấy rõ là hỏa lực bên ta
mạnh hơn: quân Áo phải chúi mũi xuống đất. Lợi dụng những lúc ngớt tiếng súng,
đội biệt động chạy từng đợt về phía chỗ hàng rào thép gai chăng trước mặt chiến
hào quân Áo đã bị pháo của ta bắn đứt tung từ hôm trước.
Đêm qua lính Áo đã cố chăng nó lại. Một xác
chết nằm vắt qua mấy sợi dây thép gai. Zubtxôv cắt đứt sợi thép, và cái xác chết
rơi phịch xuống trước mặt Têlêghin. Lúc bấy giờ anh lính Laptyev, không mang
súng, bò vượt lên trước mọi người rồi cắm cổ chạy lên và nằm rạp xuống ngay sát
bờ chiến hào địch. Zubtxôv quát với lên:
- Đứng dậy, ném tạc đạn vào!
Nhưng Laptyev cứ làm thinh, không nhúc
nhích, không ngoảnh lại - chắc hẳn anh chàng đang lịm đi vì sợ hãi. Hỏa lực địch
bắn càng rát, không sao nhích lên được. Họ phải dán mình xuống đất, cố nép vào
những chỗ trũng.
- Đứng dậy mà ném đi, thằng chó chết! -
Zubtxôv quát, - Ném đi! - rồi nhoài người ra, anh ta cầm súng trường ở đầu
báng, chích lưỡi lê vào lưng Laptyev ở chỗ cái áo khoác cộm lên. Laptyev nhăn
nhó ngoảnh mặt lại, tháo lựu đạn ra khỏi thắt lưng rồi đột nhiên chồm lên, ngực
đè trên bờ chiến hào, ném quả lựu đạn xuống. Tiếng lựu đạn nổ vừa dứt, anh ta
nhảy ngay xuống chiến hào.
- Xung phong, giết! - Zubtxôv quát, giọng lạc
hẳn đi.
Khoảng mười người lính Nga chồm dậy, chạy tới
chiến hào và mất hút dưới mặt đất, - chỉ nghe những tiếng nổ dữ dội, rất đanh
trong chiến hào.
Têlêghin loay hoay sờ soạng trên bờ hào như
người mù, mãi vẫn không tháo được lựu đạn ra. Cuối cùng chàng nhảy xuống hào và
chạy tới, hai vai vướng vào thành hào bùn dính nhớp nháp, luôn luôn vấp ngã, miệng
gào thật to... Chàng trông thấy một cái mặt người trắng bợt ra như đắp bằng bột
nép vào một ổ lõm trên vách chiến hào. Chàng nắm lấy vai người ấy, trong khi mồm
hắn cứ lẩm bẩm như trong cơn mê sảng.
- Câm đi, đồ quỷ, tao không làm gì mày đâu.
- Têlêghin suýt bật khóc lên, quát vào cái mặt trắng bợt ấy rồi lại chạy đi,
chân nhảy qua các xác chết. Nhưng trận đánh đã chấm dứt. Một lũ người xám xịt hạ
vũ khí rời chiến hào kéo ra đồng. Họ bị lùa đi bằng báng súng. Cách đấy chừng bốn
mươi thước, trong một ổ súng đắp kín một khẩu liên thanh vẫn còn bắn rát ra
phía sông. Têlêghin lách qua đám binh sĩ biệt động và tù binh, quát:
- Còn đợi gì nữa, còn đợi gì nữa!...
Zubtxôv, Zubtxôv đâu?
- Có.
- Còn đợi cái gì mà không bắt nó câm họng
đi hả?
- Làm thế nào mà đến gần nó được?
Họ chạy đi.
- Đứng lại!... Đây rồi!
Từ chiến hào, có một lối rẽ hẹp dẫn đến ổ
súng máy. Têlêghin chạy dọc đường ngách này, nhảy vào ụ súng tối om đang rung
giật lên vì tiếng nổ liên hồi inh tai nhức óc. Chàng nắm hai khuỷu tay tên lính
bắn súng máy kéo giật lại. Lập tức ụ súng im bặt, chỉ nghe tiếng thở khò khè của
tên lính bắn súng máy đang giãy giụa.
- Cái thằng khốn kiếp này sống dai thật, hắn
không chịu phỏng? Để đấy cho tôi, - Zubtxôv lẩm bẩm sau lưng chàng rồi giơ báng
súng nện ba phát liền vào sọ tên lính Áo. Tên này vừa giật nảy lên vừa kêu lên
mấy tiếng kỳ quặc: “bu-bu-bu” rồi ắng đi... Têlêghin buông hắn và ra khỏi ụ
súng. Zubtxôv gọi với theo:
- Thưa ngài, hắn bị xích chặt vào súng.
Chẳng bao lâu trời sáng hẳn. Trên mặt đất
sét vàng có thể trông rõ những vết máu và những vũng máu. Xung quanh vứt ngổn
ngang những tấm da bê mới lột, những cái vỏ đồ hộp, những chiếc cà mèn. Mấy xác
chết chúi mũi xuống đất, to lù lù như những cái bị. Binh sĩ biệt động, mệt rã rời,
người thì ngả lưng ra đất, người thì ăn đồ hộp, người thì lục lọi những cái túi
dết của lính Áo vứt lại.
Số tù binh đã được lùa sang bên kia sông từ
lâu. Trung đoàn tiến qua sông, chiếm lĩnh vị trí, và pháo binh ta giã vào phòng
tuyến thứ hai của quân Áo. Pháo địch ở đấy bắn trả uể oải. Trời mưa lâm thâm.
Sương mù đã tan hết. Ivan Ilyits chống khuỷu tay lên bờ hào nhìn ra cánh đồng
mà họ đã vượt đêm qua. Một cánh đồng rất tầm thường, đất nâu, ướt sũng. Đây đó
ngổn ngang những mẩu dây thép gai, lác đác có những vệt đen ở những chỗ đất bị
xới lên, và mấy cái xác của lính biệt động. Con sông rất gần. Không còn thấy những
lùm cây to lớn và những bụi rậm đáng gờm hôm qua đâu nữa. Đã phải tốn mất bao
nhiêu hơi sức mới vượt qua được cái khoảng cách ba trăm bước này!
Quân Áo tiếp tục rút lui, và các đơn vị
Nga, không nghỉ ngơi, truy kích họ cho đến tối mịt. Têlêghin được lệnh dẫn đội
biệt động đến chiếm lĩnh khóm rừng xanh xanh trên ngọn đồi. Đến chiều, sau một
trận đọ súng ngắn, chàng chiếm được vị trí này. Họ hối hả đào công sự, đặt cảnh
giới, mắc dây điện thoại liên lạc với trung đoàn, ăn những thứ mang theo trong
mấy cái bị, và dưới làn mưa đêm lâm thâm, trong khóm rừng tối mịt sực mùi lá ải,
nhiều người lăn ra ngủ, tuy đã có lệnh duy trì hỏa lực suốt đêm.
Têlêghin ngồi trên một gốc cây, tựa lưng
vào thân cây phủ một lớp rêu mềm. Thỉnh thoảng một giọt nước mưa nhỏ vào trong
cổ áo: như vậy cũng tốt, vì không sao ngủ quên đi được. Trạng thái khích động
ban sáng đã mất từ lâu, cũng không còn cái cảm giác mệt mỏi khủng khiếp khi người
ta phải đi hàng chục dặm trên những khoảng ruộng ra ướt sũng, trèo qua hàng rào
và nhảy qua hố rãnh, khi hai chân tê dại bạ chỗ nào cũng cứ giẫm bừa lên mà đi,
khi đầu như chỉ chực vỡ tung ra vì đau nhức.
Có ai giẫm trên lớp lá ải mon men đến gần,
và giọng Zubtxôv nói khẽ:
- Ngài xơi chiếc bánh khô nhé?
- Cám ơn.
Ivan Ilyits cầm lấy chiếc bánh khô và bỏ
vào mồm nhai. Chiếc bánh rất ngọt, cứ tan đi trong miệng, Zubtxôv ngồi xổm cạnh
chàng.
- Xin phép ngài hút điếu thuốc.
- Nhưng phải coi chừng, cẩn thận đấy.
- Tôi có cái tẩu con.
- Zubtxôv ạ, dù sao anh giết hắn như thế
cũng không đúng.
- Thằng bắn súng máy ấy à?
- Phải.
- Dĩ nhiên là không đúng.
- Có buồn ngủ không?
- Không sao, thức được ạ.
- Nếu tôi ngủ gật thì anh lay tôi dậy tí
nhé.
Chậm rãi, mềm dịu, nước mưa đọng trên cây
buông từng giọt xuống lớp lá ải, xuống bàn tay, xuống lưỡi trai mũ cát-két. Sau
những tiếng súng nổ ầm ầm, những tiếng quát tháo, những cuộc vật lộn kinh tởm,
sau vụ giết chết tên lính bắn súng máy, giờ đây chỉ có tiếng những giọt nước
rơi thánh thót như những viên thủy tinh tròn. Nó rơi vào bóng tối, rơi mãi tận
một nơi nào sâu lắm, nơi đang sực nức mùi lá ải... Tiếng mưa rơi xào xạc không
cho người ta ngủ... Không được, không được ngủ... Têlêghin gượng mở đôi mi nặng
trĩu và trông thấy những đường nét mờ mờ của các nhánh cây như phác nhẹ bằng
bút chì than... Nhưng cứ bắn suốt cả đêm thì cũng thật ngu xuẩn, thôi cứ để cho
lính họ nghỉ... Tám người chết, mười một người bị thương... Dĩ nhiên, “phải cẩn
thận giữ gìn một chút khi ra trận”... Chao ôi, Đasa, Đasa! Những giọt thủy tinh
tròn trĩnh sẽ hòa giải mọi sự, sẽ đem lại sự thanh thản cho mọi người...
- Ivan Ilyits!...
- Được, được, tôi không ngủ đâu Zubtxôv ạ...
- Còn đúng thế nào được - giết người ấy
mà... Chắc hắn cũng có nhà có cửa, có vợ có con, ấy thế mà mình cứ thọc cha nó
lưỡi lê vào, cứ như thể hắn là cái bù nhìn rơm. Thế là xong. Lần đầu tôi đâm chết
một thằng rồi sau đó chẳng ăn uống gì được nữa, cứ buồn nôn mãi... Đến bây giờ
thì đã giết đến thằng thứ mười hay thứ chín gì đấy... Khiếp thật đấy nhỉ? Thế
thì tội này chắc phải có một người nào gánh lấy chứ nhỉ, về những chuyện đâm giết
ấy.
- Tội gì?
- Thì như tội của tôi chẳng hạn... Tôi muốn
nói là tội của tôi chắc đã có người chịu thay cho rồi: một ông tướng hay một
ông gì gì đấy ở Pêterburg chuyên ngồi lo xếp đặt những chuyện đánh đấm này...
- Anh có tội tình gì, anh bảo vệ tổ quốc
kia mà?
- Đúng thôi, cái đó thì có đúng thật...
Nhưng Ivan Ilyits ạ, tôi nói cho ngài nghe nhé. Ắt phải có một đứa nào gây nên
tội, ta sẽ tìm cho ra. Đứa nào để xảy ra cuộc chiến tranh này, thì sẽ phải chịu
tội... Phải đền tội thật đích đáng về những chuyện này...
Trong rừng có một tiếng súng nổ vang rền.
Têlêghin giật mình. Từ một hướng khác có thêm mấy phát súng nữa.
Thật lạ lùng, vì từ chiều quân địch đã rút
khá xa, Têlêghin chạy đến máy điện thoại. Người điện thoại viên từ dưới hố ló cổ
lên.
- Thưa ngài máy hỏng rồi, chẳng nghe thấy
gì hết.
Bây giờ khắp khóm rừng ở chung quanh đều có
tiếng súng nổ dồn dập, đạn phạt qua các cành khô rào rào. Những trạm gác tiền
tiêu vừa bắn trả vừa rút. Têlêghin thấy anh lính Klimôv lù lù xấn đến bên cạnh,
nói một giọng man dại lạ lùng: “Thưa ngài, ta bị vây rồi!” - đoạn bưng lấy mặt
ngồi thụp xuống rồi ngã sấp ra đất. Lại có một người nào kêu lên trong bóng tối:
- Anh em ơi, tôi chết mất.
Giữa những thân cây ở xung quanh, Têlêghin
nhận ra những bóng dáng cao lớn của lính biệt động đứng đờ ra đấy. Họ đều nhìn
về phía chàng, chàng biết thế. Chàng liền ra lệnh cho mọi người phải tản đi và
rút ra ven rừng phía Bắc, vì phía này chắc chưa bị vây bọc. Còn chàng với những
ai tình nguyện ở lại sẽ cố thủ trong các hầm hào ở đây càng lâu càng tốt.
- Cần năm người. Ai tình nguyện ở lại?
Ba người tách ra khỏi mấy khóm cây và đi về
phía chàng. Đó là Zubtxôv, Xuxôv, và Kôlôv - một anh lính trẻ măng. Zubtxôv
ngoái lại gọi:
- Hai người nữa! Rybakin, ra đây!
- Ờ, được thôi...
- Một người nữa cho đủ năm.
Một người đang nằm giữa đất, dáng thấp lùn,
mặc áo khoác ngắn và đội mũ lông, lổm ngổm bò dậy.
- Tôi nữa chứ gì?
Sáu người ở lại nằm cách nhau khoảng vài
mươi bước, bắt đầu nổ súng. Những bóng người nép bên các thân cây đã biến mất.
Ivan Ilyits bắn hết mấy bao đạn, và bỗng thấy rõ mồn một trước mắt cái cảnh
sáng mai sẽ diễn ra: mấy tên lính mặc áo khoác màu xanh nhạt sẽ đến lật ngửa
cái xác đã biến dạng của chàng, sẽ bắt đầu lục soát, và một bàn tay nhớp nhúa sẽ
thò vào ngực chàng, dưới làn áo sơ mi.
Chàng đặt khẩu súng trường xuống, bới mặt đất
ướt nhão lên, rút tập thư của Đasa ra, hôn lên nó, đặt nó xuống dưới cái lỗ mới
đào rồi lấp lại, lấy lá ải phủ lên trên.
“Ới, ối, anh em ơi!” - tiếng Xuxôv rên rỉ ở
phía trái. Còn hai bao đạn nữa. Ivan Ilyits bò về phía Xuxôv lúc bấy giờ đã dúi
mặt xuống đất, nằm bên cạnh lấy mấy bao đạn trong túi dết của anh ta ra. Bây giờ
chỉ có Têlêghin và một người nào nữa ở bên phải chàng là còn bắn. Một lát sau đạn
hết. Ivan Ilyits đợi một lát, đưa mắt nhìn quanh rồi nhổm dậy và cất tiếng gọi
tên các đội viên của chàng. Chỉ có một tiếng trả lời: “Có!” rồi thấy Kôlôv chống
súng trường lại gần, Ivan Ilyits hỏi:
- Hết đạn rồi à?
- Hết sạch.
- Mấy cậu kia không thấy trả lời nhỉ?
- Không, không.
- Được, anh chạy đi!
Kôlôv hất súng ra sau vai và chạy lom khom,
lần theo các thân cây. Còn Têlêghin chạy chưa được mười bước thì từ phía sau đã
có một ngón tay sắt đầu tù chọc thẳng vào bả vai chàng.
17
Tất cả những cách hình dung chiến tranh như
những cuộc xung phong hùng dũng của kỵ binh, những cuộc hành quân phi thường và
những chiến công oanh liệt của binh lính và sĩ quan, đều đã tỏ ra lỗi thời.
Trận xung kích nổi tiếng của đội kỵ binh cận
vệ, trong đó ba kỵ đội xuống ngựa vượt qua hàng rào dây thép gai không bắn một
phát súng, đi đầu là trung đoàn trưởng công tước Đôlgorukôv, mồm ngậm điếu xì
gà bước hiên ngang dưới làn đạn liên thanh và văng tục bằng tiếng Pháp theo thường
lệ, trận xung kích ấy chung quy chỉ đưa đến một kết quả duy nhất là đội kỵ binh
cận vệ, sau khi thương vong mất một nửa, đã chiếm được hai khẩu trọng pháo mà về
sau mới biết là đã bị đóng chốt tại chỗ và chỉ có một khẩu liên thanh yểm hộ.
Nhân câu chuyện này, viên chỉ huy của một đội
bách cơ [Một
đơn vị quân đội Cô-dắc gồm một trăm người (hoặc hơn) tương đương một đại đội kỵ
binh] cô-dắc có nói: “Giá giao cho tôi thì chỉ cần mười thằng cô-dắc
cũng chiếm được cái của khỉ ấy”.
Ngay từ mấy tháng đầu đã có thể thấy rõ rằng,
lòng dũng cảm của người lính thời trước - một con người to lớn, râu ria, dáng dấp
hùng dũng, giỏi phi ngựa, vung kiếm và đứng thẳng người dưới mưa đạn - bây giờ
đã trở thành vô ích. Chiếm địa vị chủ chốt trong chiến tranh thời nay là kỹ thuật
quân sự và cách tổ chức hậu phương. Nhiệm vụ của binh sĩ nay chỉ còn là chết một
cách ngoan cường (và ngoan ngoãn), ở những vị trí đã được chấm trên bản đồ. Người
ta cần những người lính biết nấp, biết dán mình xuống đất, biết lẫn vào màu bụi.
Những nghị quyết đa cảm của hội nghị Gravenhage về vấn đề giết người như thế
nào thì phải đạo, giết như thế nào là vô đạo, đều bị xé toạc đi. Và cùng với mảnh
giấy lộn ấy, những tàn dư cuối cùng của những quy tắc luân lý vô dụng cũng bị vứt
luôn vào sọt rác.
Thế là trong có mấy tháng chiến tranh đã
hoàn thành công việc của cả một thế kỷ. Trước kia còn có rất nhiều người cho rằng
cuộc sống của con người tuân theo những quy tắc tối cao của cái thiện, và rốt cục
cái thiện phải thắng cái ác, và nhân loại sẽ trở nên hoàn hảo. Tiếc thay, đó chỉ
là những tàn tích của thời trung thế kỷ nó làm suy giảm ý chí và kìm hãm bước
tiến của văn minh. Bây giờ thì ngay những người không tưởng thâm căn cố đế cũng
phải thấy rõ rằng cái thiện và cái ác là những khái niệm triết học thuần túy,
và tinh hoa của nhân loại đang phụng sự một ông chủ xấu xa...
Đây là cái thời mà ngay lũ trẻ nhỏ cũng được
người ta dạy cho rằng giết người, phá hoại, diệt gọn từng dân tộc là những hành
động anh dũng và thiêng liêng. Người ta nhắc đi nhắc lại như vậy, người ta gào
lên như vậy, trên hàng triệu tờ báo. Sáng sáng, những người “am hiểu thời sự” lại
lên tiếng tiên đoán kết quả các trận đánh... Các báo cho đăng những câu sấm của
một bà đồng nổi tiếng là Mađam Tép. Người ta thấy xuất hiện hàng mớ những ông
thầy bói, thầy số, và những nhà tiên tri. Hàng hóa rất khan hiếm. Giá cả cao vọt
lên. Công cuộc xuất khẩu nguyên liệu của nước Nga bị đình chỉ. Ở ba hải cảng
phía bắc và phía đông - những lỗ thông hơi duy nhất còn lại trong cái xứ sở bị
vây kín này, người ta chỉ nhập đạn dược và dụng cụ chiến tranh. Đồng ruộng bị bỏ
bê. Hàng tỷ bạc giấy tuồn hết về nông thôn, và nông dân đã bắt đầu bán lúa mì một
cách miễn cưỡng.
Ở Xtốckhôlm, trong một buổi họp kín của ban
Thần bí học thuộc hội Nhân linh, vị sáng lập ra hội có nói rằng cuộc đọ sức khủng
khiếp xưa nay vẫn diễn ra trên thiên giới bây giờ đã chuyển xuống trần gian. Thảm
họa toàn cầu đã sắp đến và nước Nga sẽ là vật hy sinh để chuộc lại cái tội lỗi
của loài người. Quả thật tất cả những suy luận hợp lẽ đều chìm đắm trong cái biển
máu lan tràn trên một dải mênh mông dài đến ba nghìn dặm cắt ngang châu Âu.
Không một lý trí nào có thể cắt nghĩa nổi tại sao nhân loại lại cứ một mực đem
sắt, thuốc nổ và nạn đói ra để tự tiêu diệt như vậy. Những ung nhọt mưng mủ
hàng bao thế kỷ nay trên quả đất bây giờ đã vỡ ra lênh láng. Di sản của quá khứ
đang được thể nghiệm một cách đau đớn. Nhưng nói như thế cũng chẳng cắt nghĩa
được gì.
Ở nhiều nước đã bắt đầu có nạn đói. Khắp
nơi, cuộc sống ngưng trệ lại. Người ta bắt đầu thấy rằng chiến tranh mới chỉ là
màn đầu của tấn bi kịch.
Trước cảnh tượng này, một con người, cách
đây không lâu hãy còn là một “vĩ mô”, một vũ trụ cỏn con, một cá nhân được khuếch
đại ra quá khổ, nay đều đã teo nhỏ lại, biến thành một hạt bụi vô nghĩa. Thay
chân cho con người đó dưới ánh đèn rầm bi kịch, những khối người nguyên thủy đã
bước lên sân khấu.
Khổ hơn cả là phụ nữ. Mỗi người đàn bà, tùy
theo sắc đẹp, sức quyến rũ và tài nghệ riêng của mình, đều chăng ra một tấm mạng
nhện: sợi thì mảnh, nhưng cũng đủ chắc đối với cuộc sống bình thường. Dù sao
thì kẻ nào được họ chọn làm mồi thế nào rồi cũng vương vào đấy và vung cánh lên
kêu vù vù một cách tình tứ.
Nhưng ngay những tấm mạng nhện này cũng bị
chiến tranh xé toang. Trong một thời buổi tàn ác như thế này khó lòng nghĩ đến
chuyện chăng lại tấm mạng khác. Đành phải chờ những thời cơ thuận lợi hơn. Thế
là phụ nữ bắt đầu chờ đợi, trong khi năm tháng cứ trôi đi, và duyên thì ngắn ngủi
của họ cứ phôi pha một cách oan uổng trong cảnh sầu muộn.
Những người chồng, những người yêu, những
người anh, những người con của họ - bây giờ là những đơn vị có đánh số và hoàn
toàn trừu tượng, - đã nằm xuống, vùi dưới nắm đất trên những cánh đồng, ven những
khu rừng, bên các lề đường thiên lý. Và không có công phu nào có thể xóa bớt những
nếp nhăn cứ nhiều thêm mãi trên những gương mặt phụ nữ đã hết thì.
18
- Tôi bảo anh tôi: anh là một kẻ giáo điều;
tôi - căm ghét bọn xã hội dân chủ; trong đảng các anh hễ ai nói nhầm lấy một chữ
là các anh đưa ra tra tấn ngay. Tôi bảo anh ấy: anh là một người ở hành tinh
khác. Thế là anh ta đuổi tôi ra khỏi nhà. Bây giờ tôi trở về Moxkva, không có lấy
một xu. Ngộ nghĩnh chết người, Đarya Đmitrievna ạ, cô làm ơn hỏi hộ Nikôlai
Ivanôvits. Tôi thì việc gì cũng được, nhưng được làm trên xe hỏa tải thương thì
dĩ nhiên là tôi thích nhất.
- Được, tôi sẽ nói với anh ấy.
- Ở đây tôi chẳng quen ai cả. Cô có nhớ cái
“trạm trung tâm” của chúng tôi không? Vaxili Venyaminôvits Valet đã đi xa lắm rồi,
sang mãi tận đâu bên Tàu ấy... Xapôjkôv thì đâu ở ngoài mặt trận. Jirôv thì ở
vùng Kavkza, đang diễn thuyết về nghệ thuật vị lai. Còn Ivan Ilyits Têlêghin
thì ở mãi đâu tôi không rõ. Hình như cô quen thân anh ấy thì phải.
Êlizaveta Kievna và Đasa thong thả bước
trên phố hẹp, giữa những đống tuyết tấp lại hai bên đường. Tuyết rây xuống dìu
dịu, kêu lạo xạo dưới chân. Một anh xà ích đánh chiếc xe trượt tuyết thấp lè
tè, một chân đi ủng dạ thò ra ngoài càng xe, cho ngựa chạy nước kiệu lúp xúp đi
qua mặt hai người và quát:
- Hai cô kia, chết chẹt bây giờ!
Mùa đông năm ấy tuyết xuống nhiều. Những
cành bồ đề che trên dãy phố nhỏ đều phủ tuyết trắng xóa. Trên bầu trời nhợt nhạt,
lốm đốm bông tuyết, chim bay từng bầy rộn rã. Những đàn quạ nhỏ bay loạn xạ
trên thành phố, đỗ trên ngọn tháp, trên mái vòm nhà thờ, rồi lại bay vút lên
trong không khí giá buốt.
Đasa dừng lại ở góc phố, sửa lại chiếc khăn
trùm trắng. Cái áo khoác lông chồn và cái bao tay của nàng đều lốm đốm những
bông tuyết. Mặt nàng đã gầy đi, đôi mắt nàng to hơn và nghiêm nghị hơn.
- Ivan Ilyits bị mất tích, - nàng nói, -
tôi không được biết gì về anh ấy cả.
Đasa ngước mắt nhìn lên đàn chim. Chắc
trong thành phố phủ tuyết, lũ quạ này đói lắm. Êlizaveta Kievna với nụ cười
ngưng đọng trên đôi môi đỏ chót đứng yên, đầu gục xuống. Nàng đội chiếc mũ chụp
có cánh che tai, mặc chiếc áo khoác đàn ông, ngực thì chật ních mà cổ lông thì
lại quá rộng, và đôi ống tay ngắn không che được đôi bàn tay đỏ ửng. Trên cổ
nàng, với màu da phơn phớt vàng, mấy bông tuyết đang tan dần.
- Ngay hôm nay tôi sẽ nói với Nikôlai
Ivanôvits, - Đasa nói.
- Việc gì tôi cũng làm, - Êlizaveta Kievna
nhìn xuống chân và lắc đầu. - Trước đây tôi yêu Ivan Ilyits, yêu ghê lắm ấy. - Nàng cất tiếng cười, đôi mắt cận thị rưng rưng. - Thế mai tôi đến nhé, chào cô.
Nàng từ biệt Đasa rồi quay đi, đôi chân đi ủng
dạ bước những bước dài, hai tay lạnh cóng đút vào túi theo kiểu đàn ông.
Đasa nhìn theo nàng, rồi nhíu đôi mày, rẽ
sang góc phố và đi vào cổng tòa biệt thự được dùng làm viện quân y thành phố. Ở
đây, trong những gian phòng cao tường lát gỗ sồi phảng phất mùi iôđôform, những
người bị thương, đầu húi ngắn, mình mặc áo dài, nằm hay ngồi trên giường. Cạnh
cửa sổ có hai người đang đánh cờ đam. Một người đi bách bộ trong phòng, hắn
quay phắt về phía nàng, nhíu cái trán thấp lại và ngả lưng ra giường, hai tay
chắp sau gáy.
- Chị y tá ơi, - một giọng yếu ớt gọi nàng.
Đasa đến cạnh giường một người trẻ tuổi cao lớn, mặt sưng phị, môi dày. - Chị
làm ơn trở người cho tôi nằm sang bên trái một chút - hắn phều phào, cứ sau một
tiếng nói lại một tiếng rên. Đasa ôm choàng người hắn, ráng hết sức nhấc hắn
lên và vần sang một bên như vần cái bị. - Đến giờ lấy nhiệt độ cho tôi rồi đấy
chị ạ. - Đasa vẩy chiếc nhiệt kế và đút vào nách cho hắn. - Chị ạ, tôi buồn nôn
quá, ăn được chút ít đã nôn thốc nôn tháo ra hết rồi. Không sao chịu được nữa.
Đasa đắp chăn cho hắn rồi bỏ đi chỗ khác. Ở
các giường bên, thương binh cười tủm tỉm. Một người nói:
- Chị y tá ạ, cậu ấy làm nũng đấy chị ạ, chỉ
cốt được chị nâng niu thôi, chứ cậu ấy khỏe như con bò mộng ấy.
- Kệ cậu ấy, làm nũng một chút cũng được chứ
sao? - một giọng khác nói, - cậu ấy chẳng làm hại gì ai: chị y tá có việc để mà
làm, mà cậu ấy cũng được vui lòng.
- Chị y tá ơi. Xêmiôn đang muốn hỏi gì chị
đây này, nhưng cậu ấy còn thẹn.
Đasa đến cạnh một người mu-gích có đôi mắt
tươi vui tròn xoe như mắt quạ và cái miệng nhỏ chúm chúm như miệng gấu; bộ râu
chổi rễ loe ra rất rộng đã được chải chuốt cẩn thận. Thấy Đasa đến, anh ta vểnh
râu ra và chẩu môi về phía nàng.
- Họ đùa đấy chị y tá ạ, tôi có làm sao
đâu, tôi rất bằng lòng, cám ơn chị.
Đasa mỉm cười. Cái cảm giác nặng trĩu trong
lòng ban nãy đã tiêu tan. Nàng ngồi xuống cạnh giường Xêmiôn, vén tay áo anh ta
lên và xem kỹ chỗ băng bó. Xêmiôn bắt đầu kể lể rất tỉ mỉ mình đau như thế nào
và đau ở đâu.
Đasa đến Moxkva hồi tháng mười: hồi ấy
Nikôlai Ivanôvits, dưới sự thôi thúc của những tình cảm ái quốc, đã gia nhập
chi nhánh Moxkva của Liên minh Thành thị được tổ chức để lo việc phòng thủ. Căn
nhà ở Pêterburg thì ông giao lại cho mấy người Anh trong phái bộ quân sự. Lên
Pêterburg, ông ta ở với Đasa trong một căn nhà tạm bợ và sinh hoạt hết sức giản
dị. Ông mặc một chiếc áo chẽn bằng da hươu, chửi bới bọn trí thức ủy mị và làm
việc hùng hục như con ngựa cày - ông thường nói thế.
Đasa đọc sách hình luật, trông coi công việc
nội trợ trong căn nhà nhỏ bé của hai người và ngày nào cũng viết thư cho Ivan
Ilyits. Lòng nàng thanh thản và yên tĩnh. Dĩ vãng có vẻ xa xăm như đã thuộc về
một kiếp khác. Nàng chỉ thấp thỏm nóng lòng chờ tin tức và cố sao sống thật
trong sạch và đoan trang để dành mình cho Ivan Ilyits.
Một buổi sáng đầu tháng mười một, ngồi trước
chén cà phê, Đasa giở tờ “Ngôn luận Nga” ra đọc, và trong danh sách những người
bị mất tích nàng thấy có tên Têlêghin. Bảng danh sách chiếm hai cột chữ nhỏ: bị
thương có những ai; tử trận có những ai; mất tích có những ai, và ở cuối mục
này có Têlêghin Ivan Ilyits, chuẩn úy.
Cái biến cố đã vùi dập cả cuộc đời nàng được
đánh dấu như vậy đấy: chỉ vẻn vẹn một hàng chữ nhỏ.
Đasa có cảm giác là những con chữ nhỏ li ti
này, những dòng chữ khô khan, những cột báo, những hàng đầu đề này dần dần thấm
máu. Đó là một giây phút kinh hoàng không sao tả xiết: tờ báo biến thành chính
những điều được đăng trên báo: một bãi lầy lụa, máu me và hôi hám. Nó toát ra một
ám khí nặng nề và rung lên vì những tiếng gào lặng lẽ.
Đasa rùng mình ớn lạnh. Ngay cả nỗi tuyệt vọng
của nàng cũng chìm ngập trong nỗi kinh hoàng và ghê tởm thú vật này. Nàng nằm
xuống đi văng và lấy áo khoác đắp lên người.
Đến bữa ăn trưa Nikôlai Ivanôvits, về ngồi
bên cạnh Đasa và lặng lẽ vuốt chân nàng.
- Em phải đợi. Đanyusa ạ, cái chính là phải
chờ xem đã - ông nói. - Anh ấy mất tích, tức là bị bắt làm tù binh. Anh biết có
hàng nghìn trường hợp như thế.
Đêm hôm ấy Đasa nằm mơ thấy một người đàn
ông mặc áo sơ mi nhà binh ngồi trên chiếc giường sắt, trong một căn buồng hẹp
và trần trụi phủ đầy mạng nhện và bụi bặm. Khuôn mặt xám ngoét của hắn biến dạng
đi vì đau đớn. Hắn đưa hai tay lên cào cào, gỡ gỡ trên cái đầu hói trụi, bóc da
ra như bóc vỏ trứng rồi thò mấy ngón tay vào móc cái chất gì ở dưới lớp da đầu
ra, bỏ vào mồm ăn.
Giữa đêm khuya Đasa rú lên một tiếng ghê rợn
đến nỗi Nikôlai Ivanôvits khoác vội cái chăn chạy đến cạnh giường nàng và hỏi
mãi hồi lâu mà vẫn không sao biết được việc gì đã xảy ra. Ông lấy thuốc an thần
nhỏ vào cốc nước, cho Đasa uống và bản thân ông cũng uống luôn thể.
Đasa ngồi trên giường nắm chặt hai tay đấm
mạnh lên ngực và nói khe khẽ, giọng tuyệt vọng:
- Anh Nikôlai ạ, em không sống được nữa
đâu. Anh hiểu chứ? Em không thể sống, và không muốn sống làm gì nữa.
Sau sự việc đã xảy ra, nàng thấy khó sống
quá, mà sống như nàng vẫn sống trước kia thì không thể được.
Chiến tranh mới chỉ chạm ngón tay sắt vào
Đasa, mà tất cả những cảnh chết chóc và đau thương đã trở thành những nỗi niềm
riêng của bản thân nàng. Và khi những ngày tuyệt vọng đau đớn đầu tiên đã qua,
Đasa bắt đầu làm cái việc duy nhất mà nàng có thể làm và biết cách làm: nàng học
qua lớp y tá cấp tốc và đến làm việc ở bệnh viện quân y.
Lúc đầu rất khổ. Từ mặt trận đưa về những
người thương binh đã lâu ngày chưa được thay băng. Những cuộn băng xô tỏa ra một
mùi nồng nặc đến nỗi các nữ y tá đều thấy khó ở. Những khi mổ xẻ, Đasa phải cầm
những bàn tay, bàn chân đã đen xạm lại, máu mủ và thịt rữa đông cứng trên các vết
thương bóc ra từng mảng, và nàng đã được thấy những con người cường tráng nghiến
răng ken két và run bắn cả người lên một cách thương tâm.
Những nỗi đau khổ ấy nhiều đến nỗi dù có dốc
hết lòng trắc ẩn trên khắp thế gian này cũng không thể nào xoa dịu nổi. Đasa bắt
đầu cảm thấy rằng bây giờ nàng đã vĩnh viễn gắn bó với cuộc sống tàn tật và máu
me này, và ngoài nó ra không còn có một cuộc sống nào khác nữa. Đêm đêm trong
gian phòng trực ngập trong ánh sáng dìu dịu của ngọn đèn chao xanh, Đasa lắng
nghe những tiếng động quanh phòng. Bên kia tường có ai nói ú ớ ở trong cơn mê,
một chiếc xe hơi đi qua làm những lọ thủy tinh đặt trên giá thuốc rung lên lạch
cạch. Cảnh buồn tẻ này chính là một mảng nhỏ của cuộc sống thực.
Những đêm khuya ngồi bên bàn thường trực,
Đasa nhớ lại dĩ vãng, và dĩ vãng mỗi lúc một hiện lên rõ rệt như một giấc chiêm
bao. Trước kia nàng sống ở một chốn nào cao xa. - nhìn không thấy mặt đất; nàng
cũng sống như tất cả những con người sống ở trên ấy, kiêu căng và mê say bản
thân mình. Thế mà giờ đây nàng đã phải từ cái chốn cao xa ấy rơi xuống vũng máu
và bùn, xuống cái nhà thương này, một nơi sực mùi bệnh tật, nơi mà người ta rên
rỉ nhọc nhằn trong giấc ngủ, nói ú ớ trong cơn mê. Ngay lúc này đây, một người
lính Tatar đang hấp hối, và mươi phút nữa phải sang tiêm morphin cho anh ta.
Cuộc gặp gỡ với Êlizaveta Kievna sáng nay
đã làm cho Đasa rất xúc động. Ngày hôm ấy rất vất vả: từ Galixi có chuyến
thương binh về, tình trạng nguy ngập đến nỗi có một người phải cưa bàn tay, một
người phải cưa cả cánh tay lên đến tận vai, hai người mê sảng trong cơn hấp hối.
Qua một ngày đầu tắt mặt tối, Đasa mệt lử ra, nhưng trong ký ức nàng vẫn chập
chờn hình ảnh Êlizaveta Kievna với đôi bàn tay đỏ ửng, chiếc áo khoác đàn ông,
nụ cười thiểu não và đôi mắt hiền lành nhẫn nhục.
Tối hôm ấy, ngồi nghỉ trong phòng trực,
Đasa nhìn chiếc chao đèn xanh và nghĩ bụng: ước gì mình cũng có thể khóc ở ngã
tư đường như Êlizaveta Kievna, có thể nói với một người ngoài: “tôi yêu Ivan
Ilyits ghê lắm”.
Đasa ngồi trên chiếc ghế bành lớn, khi thì
nghiêng người sang một bên, khi thì co hai chân lên ghế, giở một cuốn sách ra cố
đọc - đó là bản sơ kết ba tháng hoạt động của “Liên minh thành thị”, toàn những
cột chữ số và những danh từ không thể nào hiểu được - nhưng chẳng tìm thấy chút
an ủi nào trong cuốn sách. Nàng nhìn đồng hồ, thở dài rồi đi sang phòng bệnh
nhân.
Thương binh đang ngủ, không khí rất nặng nề.
Ngọn đèn con ở giữa vòng sắt của chùm cắm nến treo cao trên cái trần lót gỗ sồi
tỏa ra một ánh sáng mờ đục. Một người lính Tatar trẻ tuổi, tay bị cưa cụt, đang
mê sảng, cái đầu trọc vật qua vật lại trên gối. Đasa lấy cái túi nước đá để giữa
sân đem đặt lên vầng trán nóng hầm hập của người thương binh và nhém chăn lại
cho anh ta. Rồi nàng đi một vòng qua các giường bệnh và ngồi xuống một chiếc ghế
đẩu, hai tay bó gối.
“Lòng mình chưa được luyện - nàng nghĩ thầm
- mình chỉ biết yêu cái gì thanh lịch, đẹp đẽ. Còn thương xót và yêu mến một
cái gì không dễ yêu thì chưa tập được”.
- Chắc chị buồn ngủ lắm phải không chị y
tá? - nàng chợt nghe một tiếng nói dịu dàng và quay lại. Xêmiôn, râu ria xồm
xoàm, đang nằm trên giường nhìn nàng. Đasa hỏi:
- Sao, anh không ngủ à?
- Ban ngày ngủ đã chán mắt rồi.
- Tay anh có đau không?
- Đỡ rồi... chị ơi!
- Gì cơ?
- Trông mặt chị phờ phạc quá, chắc buồn ngủ
quá rồi còn gì? Đi mà ngủ đi một chút chị ạ! Tôi sẽ thức: có gì cần, tôi sẽ gọi.
- Không. Tôi có buồn ngủ đâu.
- Chị có ai ở mặt trận không?
- Chồng chưa cưới của tôi.
- Ấy, Chúa phù hộ cho anh ấy.
- Anh ấy mất tích rồi.
- Khổ chưa! - Xêmiôn lắc lắc chòm râu, thở
dài. - Tôi cũng có thằng em bị mất tích, nhưng về sau lại có thư nó gửi về: nó
bị bắt làm tù binh. Thế anh ấy là người thế nào, chắc tốt lắm phải không?
- Rất tốt anh ạ, rất tốt.
- Có thể tôi biết cũng nên. Tên anh ấy là
gì?
- Ivan Ilyits Têlêghin.
- Tôi có nghe. Khoan đã, khoan đã... Phải,
có nghe nói. Anh ấy bị địch bắt, họ nói thế... Trung đoàn nào?
- Trung đoàn Kazan,
- Thôi đúng anh ấy rồi. Bị bắt. Vẫn sống.
Chà, người tốt lắm! Không sao đâu chị ạ, chị chịu khó kiên nhẫn một chút. Đến
mùa tuyết tan là hết đánh nhau: sẽ đình chiến. Chị sẽ sinh con cho anh ấy, chị
cứ tin tôi.
Đasa nghe mà nước mắt cứ nghẹn ngào trong cổ.
Nàng biết là Xêmiôn bịa đặt ra hết, anh ta không hề biết Ivan Ilyits là ai. Và
nàng thấy ơn anh ta quá. Xêmiôn nói khẽ:
- Thương chị quá...
Trở về ngồi trong phòng trực, mặt quay vào
lưng ghế bành, Đasa cảm thấy như thể những con người ấy đã niềm nở nhận nàng, một
người xa lạ, vào cái gia đình của họ: “Chị hãy ở lại với chúng tôi”. Và nàng cảm
thấy giờ đây mình đã có được lòng thương xót đối với tất cả những con người ốm
đau đang ngủ ở phòng bên. Rồi trong tâm trạng đăm chiêu, lòng tràn đầy thương
xót, nàng chợt hình dung rõ mồm một Ivan Ilyits ở một nơi nào xa lắm, cũng đang
nằm trên chiếc giường sắt hẹp như những người ấy, cũng đang ngủ, đang thở đều đều...
Đasa đứng dậy đi bách bộ trong phòng. Bỗng
có tiếng chuông điện thoại réo lên. Đasa giật nảy mình - trong cảnh im lặng
ngái ngủ này, tiếng chuông nghe gắt gỏng và thô bạo lạ lùng. Chắc lại có chuyến
tàu đêm chở thương binh về.
- Tôi nghe đây, - nàng nói; và trong ống nghe,
một giọng phụ nữ xúc động nói vội vàng:
- Cô làm ơn gọi Đarya Đmitrievna Bulavina
ra điện thoại cho tôi gặp một chút.
- Tôi đây. - Đasa đáp, và tim nàng bỗng đập
mạnh kinh khủng - Ai đấy? Katya à?... Katyusa! Chị đấy à? Chị!..
19
- Thôi thế là cả nhà lại đoàn tụ rồi đấy,
hai cô bé của tôi ạ. - Nikôlai Ivanôvits vừa nói vừa kéo căng chiếc cổ áo da
hươu cài chặt lại trên bụng, đoạn nâng cằm Êkatêrina Đmitrievna và hôn đánh chụt
một cái lên má nàng. Rồi đi vòng ra sau ghế Đasa, ông hôn lên tóc nàng nói: -
Chào cô em, đêm qua ngủ ngon chứ?
- Katyusa ạ, bây giờ Đasa với anh là hai
người bạn chí thiết đấy. Cô em cừ lắm, làm việc ra trò.
Ông ngồi vào cái bàn trải khăn mới, kéo cái
cốc bằng sứ đựng quả trứng chần lại và bắt đầu bóc vỏ trên đầu quả trứng ra.
- Katyusa ạ, bây giờ anh đâm thích món trứng
kiểu Anh - ăn với chút mù tạt và bơ, ngon lạ lùng em ạ, em cứ thử ăn mà xem. Thế
còn người Đức hiện nay thì mỗi tháng chỉ được hai lần ăn trứng, mỗi lần một quả.
Em thấy thế nào?
Ông há cái miệng rộng ra cười ha hả.
- Với cái quả trứng duy nhất ấy ta sẽ đánh
bẹp Đức quốc cho mà xem. Nghe nói bên ấy đã bắt đầu thấy đẻ ra những đứa trẻ
không có da. Thì Bixmark cũng đã từng nói với cái lũ ngốc ấy là phải sống hòa
bình với nước Nga kia mà! Chúng nó không chịu nghe, chúng nó khinh nhờn ta. Thế
là bây giờ biết nhau nhé: hai quả trứng một tháng.
- Thế thì khủng khiếp quá, - Êkatêrina
Đmitrievna nói, mắt nhìn xuống đất, - trẻ con đẻ ra không có da thì sợ quá đi mất.
Con ai cũng thế thôi - của ta hay của người Đức.
- Xin lỗi em. Katyusa ạ. Em nói nhảm rồi đấy.
- Em chỉ biết là nếu ngày nào cũng giết
chóc mãi như thế này thì thật là ghê sợ, ghê sợ đến nỗi không còn muốn sống làm
gì nữa.
- Biết làm thế nào được hở em, đành phải bắt
đầu qua kinh nghiệm xương máu của bản thân mà cố hiểu thế nào là Quốc gia.
Chúng ta chỉ đọc qua những tác giả như Ilôvaixki mà biết rằng những anh mu-gích
nào đấy đã chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ trên những cánh đồng Kulikôvô và
Bôrôđinô gì đấy. Chúng ta nghĩ: chà, nước Nga lớn thật! - cứ nhìn địa đồ thì biết.
Thế nhưng bây giờ cứ thử chịu khó cống hiến một phần nhất định của cuộc đời để
duy trì tính toàn vẹn của cái khoảng tô màu xanh lá cây trên địa đồ chạy suốt từ
châu Âu sang châu Á ấy mà xem. Vui vẻ gì, nếu em bảo là cơ chế nhà nước của ta
tồi, thì về điều này anh có thể đồng ý được. Bây giờ, khi tôi đi chết cho quốc
gia, trước hết tôi phải hỏi: thế còn các anh, những kẻ đưa tôi đến tử địa, các
anh đã nắm hết được cái thuật lãnh đạo quốc gia chưa? Liệu tôi có thể yên tâm
mà đổ máu cho tổ quốc không? Phải, Katyusa ạ, chính phủ vẫn theo thói quen cũ
tiếp tục nhìn các tổ chức xã hội với con mắt hiềm nghi, nhưng bây giờ thì đã rõ
là nói không thể thiếu chúng ta được. Đố đấy! Còn chúng ta thì lúc đầu nắm lấy
đầu ngón, rồi sau nắm lấy cả bàn tay. Anh thì anh rất lạc quan em ạ, - Nikôlai
Ivanôvits đứng dậy lấy bao diêm trên lò sưởi, châm thuốc hút và vứt mẩu diêm
vào cái vỏ trứng. - Máu đã đổ ra sẽ không phí hoài đâu. Khi chiến tranh kết
thúc, người cầm tay lái quốc gia sẽ là chúng tôi -các nhà hoạt động xã hội. Những
việc mà bọn “Zemlya i volya” [Phái Dân túy -
“Đất đai và Tự do”], bọn xã hội cách mạng và bọn mác-xít đều đã
không làm được thì chiến tranh sẽ làm được cho mà xem. Thôi chào hai cô nhé. -
Ông xốc lại chiếc áo chẽn rồi đi ra, trông sau lưng giống như một người đàn bà
béo cải trang.
Êkatêrina Đmitrievna thở dài và ra ngồi bên
cửa sổ, tay cầm mẩu len đan dở. Đasa đến ngồi cạnh nàng, trên tay dựa của chiếc
ghế bành, tay quàng qua vai chị. Hai chị em đều mặc áo dài đen cài kín cổ, và
giờ đây, ngồi im lặng và trầm tĩnh, trông họ giống nhau lạ lùng. Ngoài cửa sổ
tuyết rơi thưa thớt, và một ánh sáng trong trẻo do tuyết phản chiếu hắt lên mấy
bức tường trong phòng. Đasa áp má vào mái tóc của Katya thoang thoảng một mùi
nước hoa là lạ.
- Katyusa, thời gian qua chị sống thế nào?
Chị chẳng kể gì cả.
- Kể gì nữa hở mèo con? Chị kể hết trong
thư rồi còn gì?
- Thế nhưng em vẫn không hiểu, Katyusa ạ.
Chị rất đẹp, rất có duyên, rất tốt. Em chẳng còn thấy ai được như chị đâu.
Nhưng tại sao chị không có hạnh phúc? Mắt chị bao giờ cũng buồn.
- Thế tức là lòng chị không được hạnh phúc.
- Kìa, em hỏi chuyện đứng đắn kia mà.
- Chính chị cũng cứ nghĩ mãi chuyện ấy đấy,
bé ạ. Chắc hẳn là khi con người có đủ mọi thứ, thì lúc bấy giờ nó mới thực sự bất
hạnh. Chị có một người chồng tốt, một đứa em đáng yêu, chị có tự do... Thế mà
chị sống như trong hư ảo, và bản thân chị cũng như một ảo ảnh... Chị còn nhớ
khi ở Pari chị có nghĩ là giá bây giờ được sống ở một thị trấn hẻo lánh nào đấy
mà nuôi gà, trồng rau, tối tối chạy sang bên kia bờ sông với người yêu, thì
thích quá... Không Đasa ạ, đời chị thế là hết rồi.
- Katyusa, chị đừng nói nhảm.
- Em ạ, - Katya nhìn em với đôi mắt tối sầm
và trống rỗng, - chị cảm giác được cái ngày ấy... Đôi khi chị thấy rất rõ như
in một tấm nệm sọc, một tấm khăn trải giường tuột xuống, một cái chậu lầy nhầy
mật xanh... Còn xác chị thì nằm đấy, mình vàng vọt, tóc bạc trắng...
Buông mẩu len đan xuống, Êkatêrina
Đmitrievna nhìn những bông tuyết rơi trong làn không khí im lặng không một hơi
gió thoảng qua. Xa xa, dưới ngọn tháp đỉnh nhọn của thành Kremlin, xung quanh
con chim ưng thiếp vàng xòe cánh, một bầy quạ quay cuồng như một đám lá bị gió
tốc tung lên.
- Chị còn nhớ có một hôm chị dậy sớm, rất sớm.
Từ trên bao lơn có thể nhìn thấy thành Pari trong một làn hơi xanh xanh, và bốn
bề có những làn khói trắng, xám, lam, bốc lên. Đêm qua vừa có cơn mưa nhỏ, cho
nên không trung phảng phất mùi khí ẩm mát rượi, mùi cỏ lá, mùi va-ni. Những đứa
trẻ cầm sách vở, những người đàn bà cầm lẵng đi trên hè phố. Những hiệu bán thức
ăn bắt đầu mở cửa. Trong cảnh ấy có một cái gì vững bền và vĩnh cửu. Chị cứ muốn
xuống đường phố, lẫn vào giữa đám đông, gặp một người có đôi mắt dịu hiền, đặt
hai bàn tay lên ngực người ấy. Nhưng khi chị ra đến khu Đại lộ thì cả thành phố
như đã phát điên. Những người bán báo chạy tất tưởi, đâu đâu cũng thấy tụm lại
những tốp người đang bàn tán sôi nổi. Trên tất cả các báo đều thấy lộ rõ tâm lý
sợ chết và lòng căm thù. Chiến tranh đã bắt đầu. Từ hôm ấy chị chỉ nghe toàn
chuyện chết chóc... Thế thì còn biết hy vọng vào cái gì?...
Đasa im lặng một lát rồi hỏi:
- Katyusa ạ...
- Gì em?
- Chị với Nikôlai bây giờ thế nào?
- Chị không biết, hình như hai người đã tha
thứ cho nhau. Em xem: đã qua ba hôm nay rồi anh ấy rất âu yếm đối với chị. Bây
giờ ai lại đi lo đến những chuyện đàn bà? Cứ đau khổ, cứ phát điên đi - bây giờ
ai người ta cần đến những thứ ấy? Cứ vo ve như con ruồi đi: tiếng của mình mà
mình cũng khó lòng nghe thấy được. Chị ganh tị với các bà già, đối với họ thì rất
đơn giản: sắp chết rồi, thế thì chỉ có việc sửa soạn.
Đasa trăn trở cựa quậy trên tay ghế, thở
dài thườn thuợt mấy lần và cất tay khỏi vai chị. Êkatêrina Đmitrievna nói, giọng
dịu dàng:
- Đasenka ạ, Nikôlai Ivanôvits có nói với
chị rằng em đã đính hôn. Có đúng không? Chị thương em quá, tội nghiệp. - Nàng cầm
tay Đasa lên hôn rồi áp vào ngực mà vuốt ve. - Chị tin rằng Ivan Ilyits còn sống.
Nếu em yêu anh ấy thực sự, thì em không cần gì ở trên đời này nữa.
Hai chị em im lặng nhìn tuyết rơi ngoài cửa
sổ. Ngoài phố, giữa mấy đống tuyết, một trung đội học sinh võ bị kéo qua, đế ủng
trượt trên mặt đường đóng băng, tay cắp chổi tắm hơi và áo quần lót sạch. Họ
đang đến nhà tắm. Vừa diễu qua, họ vừa hát đồng thanh, hết mỗi câu lại huýt mấy
tiếng rõ mạnh.
Đàn
chim ưng hãy như đại bàng bay lượn
Hãy
gác xa phiền muộn, thảm sầu
Nghỉ mấy ngày, Đasa lại đến bệnh viện quân
y, Êkatêrina Đmitrievna ở lại một mình trong căn nhà mà mọi vật đều xa lạ đối với
nàng: hai bức phong cảnh tẻ nhạt treo trên tường, vẽ một đống rơm dải nước mới
tan giữa những cây bạch dương trụi lá: bên trên chiếc đi-văng trong phòng khách
treo ảnh những người không quen biết; trong góc phòng có một bó trắc bá phủ bụi.
Êkatêrina Đmitrievna thử đi ra nhà hát xem
những nữ diễn viên già đóng kịch Ôxtrôvxki, đi xem triển lãm tranh, đi viện bảo
tàng. Nhưng nàng thấy tất cả các thứ đó đều buồn tẻ, phai tàn, cằn cỗi, và bản
thân nàng là một cái bóng đi lang thang giữa một cuộc đời đã bị mọi người ruồng
bỏ.
Êkatêrina Đmitrievna thường ngồi suốt mấy
tiếng đồng hồ bên cửa sổ, cạnh chiếc lò sưởi điện, nhìn ra thành Moxkva yên lặng
dưới tuyết. Trong làn không khí dịu mềm, qua những bông tuyết đang từ từ buông
xuống, văng vẳng ngân lên một tiếng chuông buồn bã: người ta đang làm lễ cầu hồn
hay an táng một người mới được chở xác từ mặt trận về. Cuốn sách nàng cầm buột
ra khỏi tay - đọc mà làm gì? Mơ ước mà làm gì? Những ước mơ và những suy tưởng
ngày xưa sao bây giờ nó vô nghĩa thế!
Thời gian cứ trôi từ tờ báo ra buổi sáng
cho đến tờ báo ra buổi chiều. Êkatêrina Đmitrievna thấy mọi người xung quanh đều
chỉ sống bằng tương lai, bằng những ngày thắng lợi và hòa bình tưởng tượng. Tất
cả những cái gì củng cố những hoài vọng đó đều được thể nghiệm với một niềm hân
hoan cường điệu, còn những tin thất bại thì làm cho mọi mái đầu đều cúi gằm xuống.
Thiên hạ như đâm ra dở hơi, háo hức nghe ngóng những tiếng đồn, những mẩu câu đứt
đoạn, những tin tức huyễn hoặc, và chỉ một dòng chữ trên báo thôi cũng đủ cho họ
hăng tiết lên.
Cuối cùng Êkatêrina đã quyết định được, và
nhờ chồng thu xếp cho mình làm một việc gì đấy. Đến đầu tháng ba nàng đến làm
cùng một quân y viện với Đasa.
Thời gian đầu, cũng giống như Đasa, nàng thấy
ghê sợ trước cảnh dơ bẩn và đau đớn. Nhưng rồi nàng cũng tự chủ được và dần dần
thấy ham công việc. Sự khắc phục này đã đem lại cho nàng một niềm vui lớn. Lần
đầu tiên nàng được cảm thấy mình gần gũi với cuộc sống xung quanh. Nàng đã đem
lòng yêu mến cái công việc bẩn thỉu và nặng nhọc ấy, và thương xót những người
mình đang săn sóc. Một hôm nàng nói với Đasa:
- Tại sao người ta lại bày vẽ ra cái chuyện
phải sống một cuộc đời phi thường, tinh vi nào đấy mới được? Thật ra chúng mình
cũng chỉ là những người đàn bà bình thường, chúng mình cần một người chồng cho
giản dị, đẻ con cho nhiều, và sống cho gần cây cỏ hơn...
Trong tuần lễ Thánh, hai chị em chịu chay tịnh
ở nhà thờ thánh Nikôla trên đường Rjev, Êkatêrina Đmitrievna đem bánh paskha [Bánh
cổ truyền làm bằng pho mát trắng trộn với nho, dùng trong lễ Phục sinh]
của quân y viện đến nhà thờ để nhận phép lành và cùng với Đasa ăn mừng lễ Phục
sinh trong viện. Nikôlai Ivanôvits tối hôm ấy có buổi họp bất thường, quá hai
giờ sáng mới đi xe hơi đến quân y viện tìm hai chị em. Êkatêrina Đmitrievna nói
rằng hai chị em nàng không buồn ngủ, và yêu cầu Nikôlai Ivanôvits cho xe chở họ
đi chơi. Ý này thật kỳ quặc và phi lý, nhưng họ đãi anh lái xe một cốc cô-nhắc,
thế là cả nhà đi xe ra cánh đồng Khôđynxkôie...
Trời hơi giá: hai bên má cứ như kim châm. Bầu
trời không một gợn mây, lác đác những vì sao sáng trong thưa thớt. Băng kêu lạo
xạo dưới bánh xe. Katya và Đasa, đều trùm khăn bệnh viện màu trắng, khoác áo
xám, nép sát vào người nhau trên ghế xe, tụt sâu vào trong. Nikôlai Ivanôvits
ngồi bên cạnh tài xế ngoảnh lại nhìn họ: cả hai đều có đôi mày thẫm, đôi mắt rất
to.
- Thú thật anh không biết cô nào là vợ anh
đấy - ông nói khẽ.
Một trong hai người đáp:
- Anh không đoán được đâu! - rồi cả hai cười
phá lên.
Phía trên cánh đồng rộng mênh mông và tối mờ
mờ, bầu trời đã bắt đầu chớm chuyển sang màu lục ở sát mé chân trời, và xa xa nổi
lên những đường viền đen sẫm của khóm rừng Xêrêbrianny.
Đasa nói khẽ:
- Katyusa ạ, em thèm yêu quá. - Êkatêrina
Đmitrievna siết nhẹ tay nàng.
Bên trên khóm rừng, trong màu xanh ướt át của
bình minh, có một ngôi sao lấp lánh đổi màu, như đang thoi thóp thở.
- À quên mất, Katyusa ạ, - Nikôlai
Ivanôvits quay hẳn cả người lại trên ghế xe, - Tsumakôv, đại diện toàn quyền của
Liên minh, vừa mới về. Ông ta có kể rằng tình hình ở Galixi rất nghiêm trọng.
Quân Đức nã pháo hết sức dữ dội: hỏa lực của chúng tiêu diệt hàng trung đoàn của
ta. Còn quân ta thì không đủ đạn đại bác, thế có chết không chứ... Có ma nó biết
như thế là nghĩa lý gì!...
Katya không đáp, chỉ ngước mắt lên nhìn mấy
vì sao. Đasa áp má vào vai nàng, Nikôlai Ivanôvits chửi đổng một câu nữa rồi bảo
anh tài xế lái xe về nhà.
Đến ngày thứ ba của tiết Phục sinh,
Êkatêrina Đmitrievna thấy khó ở, không đến trực được, phải nằm liệt ở nhà. Sau
mới biết nàng bị sưng phổi - chắc nàng đã cảm lạnh vì gió lùa.
-----------
Còn tiếp
-----------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét