Thứ Ba, 19 tháng 11, 2019

Pie Đệ Nhất - Phần III (Ch 61 - Ch 90)

Pie Đệ Nhất

Tác giả: Aleksey Nikolaievich Tolstoy
Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Nhà Xuất bản Văn Học - 2000

Chương 61

Chiến dịch tu viện Ba Ngôi đã chấm dứt. Cũng như bảy năm trước đây, người ở tu viện đã thắng Moskva. Sau khi đã suy nghĩ, bọn đại thần, vị giáo trưởng và Natalia Kirilovna đã nhân danh Sa hoàng Piotr viết cho Sa hoàng Ivan:
Ngự huynh, giờ đây đã đến lúc hai chúng ta phải tự cai trị lấy vương quốc mà Chúa đã giao cho chúng ta, vì chúng ta đã đến tuổi rồi; còn kẻ thứ ba không xứng đáng kia, tức là chị gái chúng ta, chúng ta không muốn bà ấy chia xẻ chức tước và uy quyền với nam giới chúng ta”.
Một đêm, không ồn ào lắm, người ta chuyển Sofia từ điện Kreml đến tu viện Novodevichi.
Người ta chặt đầu Saklovity, Tsecmony, và Obroxim Petrov; những tên gian ác khác thì phải chịu nhục hình quất roi trên một quảng trường ở ngoại ô; người ta cắt lưỡi chúng và đày chúng đi Siberi chung thân.
Về sau viên tổng trấn ở Dorogobuz bắt được tên giáo sĩ Medvedev và Nikita Gladki. Hai tên này đều phải chịu những cực hình tàn khốc rồi xử trảm.
Người ta phân phát phần thưởng bằng đất đai và tiền bạc: các quan đại thần thì được 300 rúp một người; các vị đại quan được mỗi người 270 rúp, các vị quý tộc ở Duma (1) mỗi người 250 rúp. Các dapife tới tu viện cùng một lúc với vua Piotr, mỗi người được 37 rúp; các dapife đến sau mỗi người được 32 rúp. Những người đến trước ngày 10 tháng tám được 30 rúp một người, những người đến trước ngày 20 tháng tám: 27 rúp một người. Các nhà quý tộc từ các tỉnh tới thì được thưởng 18, 17 hoặc 16 rúp. Các lính xtreletz thì được một rúp, không được đất, để thưởng lòng trung thành tận tụy của họ.
Trước khi trở về Moskva, các quan đại thần chia nhau các bộ: bộ thứ nhất và bộ quan trọng nhất - Bộ Ngoại giao - được trao cho Lev Kirilovich, nhưng không được tước vị “người bảo vệ vương quyền”.
Không còn cần đến chiến tranh và các nhu cầu khác, người ta rất có thể hoàn toàn không cần đến Boris Alekseevich Golixyn, - giáo trưởng và Natalia Kirilovna không thể tha thứ cho ông ta về nhiều chuyện, nhất là về việc ông ta đã cứu Vaxili Vaxilievich thoát khỏi nhục hình quất roi và bục xử trảm. Nhưng các quan đại thần cho rằng không nên làm nhục một dòng dõi danh giá như thế:
“Nếu chúng ta cho phép làm như vậy thì chẳng bao lâu nữa, ngay chúng ta đây cũng sẽ bị trục xuất khỏi các bộ. Hãy thử nhìn xem: bọn thương gia thô tục, những tên thơ lại nguồn gốc ti tiện, bọn ngoại quốc và đủ các loại vô lại xúm quanh Sa hoàng Piotr để xin xỏ những của cải tịch thu được, để dành lấy địa vị này nọ”.
Người ta trao cho Boris Alekseevich Bộ Nội điện Kazan để đảm bảo cho ông ta có nguồn thu nhập và được danh giá. Được tin ấy, Boris Alekseevich nhổ toẹt xuống đất, rồi ngay ngày hôm đó, ông ta uống rượu say và quát lên:
- Quỷ tha ma bắt chúng nó đi, tài sản riêng của ta cũng đủ cho ta chi tiêu rồi.
Rồi vẫn say rượu, ông sai gia nhân đưa mình về lãnh địa của tổ tiên để lại, gần Moskva, để ngủ cho thích mắt...
Các vị bộ trưởng mới, - đám ngoại quốc bắt đầu gọi họ như vậy, - đuổi bọn viên chức, thơ lại ra khỏi các bộ, đưa những viên chức khác vào thay và lại bắt đầu cai trị theo lối cũ. Không có thay đổi gì đặc biệt.
Chỉ có ở điện Kreml, bây giờ không phải là Ivan Miloslavski nữa, mà là Lev Kirilovich mặc áo lông hắc điêu thử, đóng sầm các cửa một cách hách dịch và đi những bước ngắn, gõ mạnh gót giầy kêu choang choang.
Tất cả những con người ấy đều già nua, ai cũng biết tên tuổi. Lụn bại, hối lộ và rối loạn, người ta chỉ có thể chờ đợi ở họ có thế thôi. Ở Moskva và ở Kukui, đám nhà buôn, chủ thầu, buôn bán nhỏ và thợ thủ công ở các ngoại ô, đám thương nhân ngoại quốc, thuyền trưởng, - người Hà Lan, người Hanovre, người Anh, - đều nóng lòng sốt ruột chờ đợi một trật tự mới và những con người mới.
Có đủ các thứ tin đồn về vua Piotr: rất nhiều người đặt tất cả mọi hy vọng của họ vào nhà vua. Nước Nga, cái vốn vàng, vốn bạc ấy, bị vùi sâu dưới một lớp bùn đã có hàng trăm năm nay... Ai là người có thể đem lại cho nó sức sống nếu không phải là vua mới?
Vua Piotr không về ngay Moskva. Nhà vua rời tu viện với đạo quân của mình và tiến về xloboda Alekxandrovskaia, nơi hãy còn sừng sững những bức tường bằng gỗ phiến đã mục của tòa lâu dài khủng khiếp của Sa hoàng Ivan đệ tứ. Tại đó, tướng Xomme đã tổ chức một trận đánh kiểu mẫu, kéo dài suốt một tuần, cho đến khi hết thuốc súng mới thôi. Và chính tại đó, vũ nghiệp của Xomme đã chấm dứt - Ông tướng đáng thương đó ngã ngựa và què chân suốt đời.
Đến tháng mười, vua Piotr đi Moskva, chỉ có những trung đoàn cận vệ trẻ đi theo. Cách Moskva chừng mười dặm, tại làng Alekseyevskoe, một đám đông rất lớn tới đón nhà vua.
Họ mang theo những tranh thánh, cờ xí, những chiếc bánh mì tròn đặt trên đĩa. Hai bên đường, có những thanh xà và những súc gỗ với những chiếc rìu cắm chặt vào đấy; những tên xtreletz, đại diện cho những trung đoàn đã không đi đến tu viện Ba Ngôi, nằm dài trên mặt đất ẩm ướt, cổ đặt lên những thanh xà. Nhưng vị Sa hoàng trẻ tuổi không ra lệnh xử trảm; nhà vua không có vẻ tức giận nhưng cũng không tỏ vẻ niềm nở.
-------------
Chú thích:
(1) Hội đồng các nhà quý tộc.

Chương 62

Lơfo trở thành một người có thế lực. Ngoại kiều sống ở Kukui và những người có công việc buôn bán từ Arkhagensk và Voloda đến đều nói tới hắn một cách rất trọng vọng. Nhân viên các hãng buôn ở AmsterdamLondon viết thư đều khuyên: có việc gì thì phải gửi biếu hắn ít quà, nếu được rượu vang ngon thì càng tốt. Nhân dịp Lơfo được thăng cấp tướng sau chiến dịch tu viện Ba Ngôi, dân Kukui liền góp tiền biếu hắn một thanh kiếm. Đi qua nhà hắn, họ nháy mắt ngụ nhiều ý nghĩa mà bảo nhau. “Ồ, đúng rồi...”. Ngôi nhà Lơfo nay hóa chật quá, vì có rất nhiều người muốn đến bắt tay hắn, nói chuyện với hắn vài câu hoặc chỉ cốt để hắn nhớ lại mình. Tiết thu đã lâu rồi mà người ta vẫn vội vàng khởi công cất cao hơn và mở rộng thêm ngôi nhà: xây một cái thềm đá hai bên có lối lên, tô điểm cho mặt tiền một số cột và tượng trụ. Ngoài sân, nơi trước kia có một tia nước phun, bây giờ người ta đào một cái hồ dành cho các trò du hí dưới nước và để đốt pháo bông. Người ta xây các căn nhà lánh ra một nơi cho lính pháo thủ đóng.
Có lẽ bản thân Lơfo không dám chi những khoản lớn như vậy, nhưng vị Sa hoàng trẻ tuổi lại muốn thế.
Thời gian ở tu viện Ba Ngôi, Lơfo đã trở nên cần cho vua Piotr, như một người mẹ thông minh cần cho đứa con: Lơfo chỉ thoáng nghe đã hiểu ngầm được ngụ ý, hắn báo cho nhà vua để phòng mọi nguy hiểm, dạy nhà vua cân nhắc lợi hại và hình như chính hắn cũng rất mến nhà vua Piotr; hắn luôn luôn có mặt bên cạnh Sa hoàng không phải như các quan đại thần buồn bã dập đầu xuống đất dưới chân nhà vua để xin ban cho làng mạc và nông nô, mà vì sự nghiệp chung của hai người và để cùng nhau vui chơi. Lịch sự, hoạt bát, dễ tính, hắn hiện ra trong buồng ngủ của vua Piotr, chào hỏi và mỉm cười, như mặt trời ban mai chiếu sáng khuôn cửa sổ; ngày hôm đó đã bắt đầu một cách vui vẻ như vậy với những công việc hoan hỉ, những sự chờ đợi thú vị. Vua Piotr mến Lơfo vì tìm thấy ở hắn những mơ ước sảng khoái về các xứ sở hải ngoại, các đô thị và hải cảng nguy nga có những tàu biển và những thuyền trường đượm mùi thuốc lá và rượu “rhum” - tất cả những điều đã làm nhà vua say mê từ bé trong các tranh vẽ và bản khắc đưa từ nước ngoài về. Đến cả y phục của Lơfo cũng không phải mùi Nga, khác hẳn và ngửi rất dễ chịu.
Vua Piotr muốn ngôi nhà của vị sủng thần trở thành một hòn đảo nhỏ của cái chất ngoại quốc đã hấp dẫn nhà vua: lâu đài của Lơfo được tô điểm thêm để Sa hoàng lấy chỗ vui chơi. Tiền nhà vua bòn rút được của mẹ và của Lev Kirilovich được vung ra không tiếc tay. Giờ đây khi ở trên kia, tại Moskva, nhà vua đã có chân tay của mình rồi, vua Piotr ra sức lao vào các cuộc hành lạc. Nhà vua buông lỏng mọi dục vọng; chính những lúc đó, nhà vua rất cần có Lơfo: nhà vua có nhiều ham muốn nhưng chẳng biết thực hiện ra sao nếu không có hắn. Mà thần dân của nhà vua là người Nga thì liệu có thể bày vẽ ra được những gì? Quanh đi quẩn lại chỉ có đi săn bằng chim ưng hay nghe những người mù hát xẩm than khóc sướt mướt. Chao ơi! Lơfo chỉ thoáng nghe đã hiểu ngầm được ngự ý. Hắn giống như chiếc lá hốt bố trong mẻ bia nấu những dục vọng của vua Piotr.
Đồng thời, người ta lại tiếp tục các công trình xây cất ở kinh thành Prexburg: sửa sang tòa thành nhỏ cho những trò du hí quân sự mùa xuân. May quân phục mới cho các trung đoàn: áo nẹp của trung đoàn Preobrazenski màu lá mạ, của trung đoàn Xemionovski xanh da trời và của trung đoàn Butyrski của Gordon thì đỏ. Suốt mùa thu là khiêu vũ và yến tiệc. Khoảng thời gian giữa các cuộc vui tổ chức tại lâu đài của Lơfo là lúc các công, thương gia nước ngoài bàn bạc công việc kinh doanh.

Chương 63

Phòng khiêu vũ mới xây dựng còn ẩm, khí nóng của hai lò sưởi ám hơi nước lên các cửa sổ hình cung, lên các tấm gương giả cửa sổ trên bức tường kín mít phía đối diện. Sàn nhà lát gỗ sồi đánh xi. Hoàng hôn chưa xuống mà các chúc đài ba nhánh gắn vào tường, có trang điểm một chiếc gương, đã thắp sáng. Mưa tuyết nhỏ rất nhẹ. Ngoài sân, các xe trượt tuyết đang tới, len lỏi giữa những đống đất sét và vỏ bào lấm tấm tuyết: xe Hà Lan kiểu thiên nga sơn đen thếp vàng; xe Nga dài như chiếc rương chất đầy gối và da gấu; xe kín mít bằng da nặng trình trịch, đóng sáu ngựa con trước con sau; và đây là một chiếc xe trượt tuyết thuê, trên có một người ngoại quốc nào đó đang cười, đầu gối nhấc cao; y đã trả hai kopeik mướn một nông dân đánh xe từ phố Lubianka đến Kukui.
Bên trên thềm đá rải thảm phủ tuyết bị dẫm nhão nhoét, hai thằng hề, Tomox và Xeka, đứng đón khách, một đứa mặc áo choàng kiểu Tây Ban Nha đen dài đến ngang lưng, đội mũ rơm cắm lông quạ, đứa kia giả làm người Thổ Nhĩ Kỳ chít khăn dài hai arsin, bằng vỏ gai bện, phía trước có một cái tai lợn. Đám thương gia Hà Lan thích trêu thằng hề bận y phục Tây Ban Nha; họ vừa búng mũi hắn vừa hỏi thăm sức khỏe vua Tây Ban Nha. Trong buồng hiên sáng trưng, tường gỗ sồi trang trí một số đĩa sứ xanh, khách khứa trao áo bông và mũ cho bọn gia nô mặc áo dấu. Đứng ở cửa phòng khiêu vũ để đón các vị khách, Lơfo bận áo nẹp bằng xa-tanh trắng thêu chỉ bạc, đội tóc giả rắc phấn bạc.
Khách kéo lại gần đống lửa cháy đỏ rực, uống rượu vang Hungary và châm tẩu hút thuốc. Người Nga ngượng vì nỗi ít nói (rất ít người nói được tiếng Hà Lan, tiếng Anh hay tiếng Đức) nên đến sau, khi đã đến lúc ngồi vào bàn ăn. Không chút ngượng ngùng, khách khứa ra trước lửa sưởi mông và cẳng nịt trong bít tất dài, nói chuyện buôn bán. Chỉ có chủ nhà là tíu tít chạy từ người này sang người khác như con bướm liệng, tà áo nẹp lòe xòe phấp phới; hắn giới thiệu, hỏi thăm sức khỏe, tình hình đi đường, hỏi xem quán trọ vị khách ghé có đủ tiện nghi không, bảo họ đề phòng trộm cướp...
- Ồ thưa vâng, người ta kể nhiều chuyện về bọn vô lại Nga, - vị khách đáp, - chúng rất hay cướp bóc và có khi còn giết cả những khách đi đường giàu có...
Một thương nhân Anh buôn gỗ là Xitni rít răng nói:
- Một nước mà dân chúng sống bằng cái cách gian giảo là một nước xấu... Lái buôn Nga cầu chúa giúp họ lừa lọc khéo hơn, họ cho thế là khôn ngoan. Ô, tôi biết rõ cái nước đáng nguyền rủa này... Đến đây thì phải thủ một khí giới trong bọc...
Hamington, một lái buôn nhỏ, quê ở Kukui, cháu cụ đình thần Hamington là người ngày xưa đã phải lánh nạn sang Moskovi(1) để trốn bàn tay tàn bạo của Cromwen, kính cẩn lại gần những người đang nói chuyện:
- Ngay như nếu chẳng may mà sinh trưởng ở đây thì cũng khó mà quen được những thói tục tằn và gian giảo của người Nga. Chúng cứ như bị ma trêu quỷ ám ấy!
Xitni khinh khỉnh nhìn người dân địa phương nói tiếng Anh không sõi, ăn vận thô kệch theo lối cổ; hắn cau mặt khinh bỉ, nhưng nể gia chủ, hắn vẫn trả lởi Hamington:
- Chúng tôi không có ý định sống ở đây. Chúng tôi buôn lớn nên đối với chúng tôi thói gian giảo của người Nga chẳng có gì quan trọng.
- Thưa ngài, ngài buôn gỗ?
- Thưa ngài vâng, tôi buôn gỗ. Chúng tôi có tậu một khu rừng lớn gần Arkhagensk.
Nghe thấy tậu rừng, người Hà Lan là Van Leyden lại gần những người đang nói chuyện; mặt hắn đỏ tía, người chắc nịch, mắt trụi lông mi, để râu nhọn kiểu Tây Ban Nha, cái cằm ba ngấn của hắn cọ vào chiếc cổ áo to tướng hồ bột.
- À vâng, - hắn nói, - gỗ Nga thì tốt, nhưng những trận gió quái ác ở Bắc Băng Dương và bọn cướp Na Uy thì không tốt. - Hắn há miệng, mặt càng đỏ và phá lên cười, từ cặp mắt ti hí chớp chớp trào ra hai giọt nước mắt.
- Không sao, - Xitni đáp; người hắn cao lênh khênh, xương xương, vàng ệch - Một cây gỗ to giá thành là hai mươi lăm kopeik. Ở Newcastle, chúng tôi bán chín siling(1). Chúng tôi có thể chịu đựng được những sự nguy hiểm ấy.
Gã người Hà Lan tặc lưỡi:
- Chín siling một cây gỗ ?
Hắn đến Moskovi để mua sợi gai, vải, hắc ín và bột tạt. Hai chiếc tàu của hắn đậu qua mùa rét ở Arkhangensk. Công việc kinh doanh của hắn kéo dài. Các nhà buôn lớn ở Moskva đại diện của Sa hoàng mua trữ hàng cho Ngân khố, nghe phong thanh có hai chiếc tàu đó liền tăng giá lên quá đáng. Các tư nhân buôn cất nhỏ đưa ra toàn hàng xấu. Còn lão người Anh này thì rõ ràng là vớ bở, trừ phi lão ta nói dối không kể. Thật bực mình. Liếc mắt nhìn không thấy có người Nga đứng gần, Van Leyden nói:
- Nga hoàng nắm ba phần tư hắc ín toàn thế giới, gỗ cây to thượng hảo hạng và toàn bộ xơ gai. Nhưng mua được những thứ hàng đó cũng khó chẳng khác gì chúng ở trên cung trăng. Ồ thưa ngài, không phải, khu rừng của ngài không có lãi mấy đâu. Miền Bắc hoang vu; trừ phi ngài dạy loài gấu đốn gỗ. Hơn nữa, bọn Na Uy và bọn Thụy Điển sẽ đánh đắm hai tàu của ngài, còn chiếc thứ ba sẽ bị băng nổi ép vỡ. - Hắn lại cười vì thấy đã làm lão người Anh kiêu ngạo phải khó chịu - Đúng, đúng, nước này giàu như Tân thế giới, giàu hơn cả Ấn Độ, nhưng chừng nào bọn quý tộc còn cai trị thì chúng ta còn là thua thiệt. Dân Moskva không hiểu cái lợi của họ, họ buôn bán như đồ mọi rợ ấy. Chà, giá mà họ có được những hải cảng ở biển Baltic và những con đường đi xe được và giá mà họ kinh doanh như những burger(4) lương thiện thì ở đây có thể làm ăn to được.
- Thưa ngài vâng, - Xitni nghiêm trang đáp, tôi nghe ngài nói mà vui lòng và tôi đồng ý với ngài. Tôi không biết ngài thì thế nào, nhưng tôi nghĩ ở nước ngài cũng như ở bên nước Anh chúng tôi, người ta không đóng loại tàu nhỏ nữa. Tất cả các xưởng ở Anh đều đóng loại tàu bốn, năm trăm tấn. Hiện nay chúng tôi cần có gấp năm số gỗ và sợi gai, mỗi chiếc tàu cần tới trên mười ngàn yard (4) vải buồm.
- Ồ, ồ! - Cả đám người nghe câu chuyện đều ngạc nhiên kêu lên.
- Thưa ngài, thế còn da? Ngài quên mất món da Nga mà ngài cần, - Hamington ngắt lời.
Xitni giận dữ lừ mắt nhìn con người vô lễ đó. Hắn nheo cái cằm xương xương, vừa ngắm đống lửa một lát vừa chớp chớp mắt. Lơfo dịch lại.
- Chúng tôi sẽ để ông được thấy hoàng thượng, - Alexaska đáp. Rồi hắn cười, để lộ hàm răng trắng đều đặn... - Và nếu ông uống được rượu và biết cười đùa thì ông cứ việc thỏa sức dự vui với hoàng thượng. Ông sẽ có nhiều kỷ niệm kể lại cho cháu chắt ông nghe... (Rồi hắn nói với Lơfo). Ông thử hỏi xem hắn cần những thứ hàng gì? Gỗ à... Tôi cuộc là ông đến đây để xin nông dân, thợ đốn gỗ chứ gì? (Lơfo hỏi, Xitni mỉm cười gật đầu). Được thôi, chỉ cần Sa hoàng bảo Lev Kirilovich một tiếng. Vậy cần chạy chọt đâu thì hắn làm đi...
Bỗng vua Piotr hiện ra ở ngưỡng cửa, tuyết phủ đầy người; Sa hoàng cũng mặc áo nẹp của trung đoàn Preobrazenski như Alexaska - chẽn ở vai và ngực. Đôi má lúm đồng tiền đỏ ửng vì lạnh, nhà vua mím môi, nhưng cặp mắt đen thì lại cười. Nhà vua bỏ chiếc mũ ba cạnh ra và dậm chân để rũ tuyết bám trên đôi ủng to mũi vuông, ống cao quá đầu gối:
- Gute Tag meine Herrschaften(5), - nhà vua nói, giọng trẻ và trầm. Lơfo đã vội chạy nhanh tới, cúi mình, một tay đưa ra phía trước, còn một tay khuỳnh khuỳnh như chiếc quai giỏ. - Ta đói lắm rồi... Thôi, ngồi vào bàn đi...
Nhà vua nháy mắt với những người ngoại quốc đang nín thở; người hơi gù, cao gần ngang khuôn cửa, nhà vua quay gót rồi đi qua buồng ngoài bước vào phòng ăn.
-------------
Chú thích:
(1) Chỉ vùng Moskva.
(2) Bốn rúp năm mươi kopeik (ghi chú của tác giả).
(3) Thị dân ở Hà Lan, Bỉ.
(4) Thước Anh, bằng 0,91 mét.
(5) Chào các ông (tiếng Đức).

Chương 64


Khách khứa mặt đã đỏ ửng, các bộ tóc giả xiêu vẹo. Alexaska bỏ khăn quàng, lao vào nhảy một điệu trepak cuồng loạn; rồi hắn lại uống rượu tiếp, càng uống mặt càng tái mà không say. Hai thằng hề giả bộ say hơn mọi người, chơi trò nhảy qua lưng nhau, đập bong bóng bò đựng hạt đậu khô vào đầu khách khứa. Hết thảy mọi người cùng nói. Nến đã cháy hết nửa cây. Các bà ở Kukui sắp đến dự khiêu vũ. Xitni ngồi ngay ngắn, vẻ dè dặt, nhưng cặp mắt đỏ hơi hiếng, nói với vua Piotr, còn Hamington đứng sau ghế hai người để dịch:
- Nhờ ngài tâu với hoàng thượng là người Anh chúng tôi nghĩ rằng hạnh phúc nước chúng tôi là ở chỗ thương mại hàng hải được phát đạt. Chiến tranh là một việc cần thiết đáng buồn và tốn kém, nhưng buôn bán là một thiên ân.
- Đúng thế, đúng thế, - vua Piotr đồng ý. Vua thích nghe tiếng ồn ào và các cuộc bàn cãi như thế này, và nhất là những suy luận lạ lùng của người ngoại quốc về Nhà nước, thương mại, về lợi hại. - Về hạnh phúc! Hay đấy! Được, cứ nói tiếp, cứ nói tiếp, cứ nói đi, trẫm nghe đây.
- Anh Hoàng và các vị lord(1) tôn kính không bao giờ duyệt đạo luật nào có hại cho việc buôn bán: Cho nên Ngân khố của nhà vua đầy ắp. Thương gia Anh là một nhân vật được trong nước trọng vọng. Và hết thảy chúng tôi đều sẵn sàng đổ máu cho Anh quốc và cho Đức vua chúng tôi. Xin Đức hoàng thượng trẻ tuổi chớ giận nếu tôi nói rằng ở Nga có nhiều đạo luật dở và vô ích. Ô, một đạo luật tốt là một điều vĩ đại? Nước chúng tôi cũng có những đạo luật nghiêm ngặt, nhưng có lợi cho chúng tôi, nên chúng tôi tôn trọng...
- Có quỷ hiểu hắn nói gì! - Vua Piotr vừa cười vừa uống cạn chiếc ly cao chân hình chân chim. - Nếu hắn nói thế ở Kreml... Ngươi thấy không, Franx, ở đấy bọn họ đến chết ngất cả mất. Tốt, ngươi thử nói xem nước ta có cái gì dở? Hamington, dịch đi!
- Ồ, vấn đề này hệ trọng mà tôi lại say rượu, - Xitni trả lời. - Nếu hoàng thượng cho phép thì ngày mai tôi hoàn toàn tỉnh táo, tôi sẽ có thể trình bày những hủ tục ở Nga và nói rõ nước giàu là nhờ đâu và muốn thế phải làm gì.
Vua Piotr giương mắt dò xét cặp mắt hiếng, xa lạ của người hầu chuyện: phải chăng anh lái buôn này nhạo báng người Nga là ngốc? Nhưng Lơfo đã cúi nhanh xuống vai nhà vua thì thầm:
- Cái triết lý làm thế nào cho nước giàu ấy, nghe hay đấy.
- Được! - vua Piotr nói. - Nhưng hắn thử nói xem ở nước ta có điều gì dở.
- Vâng, - Xitni lấy hơi, gắng tỉnh rượu. - Trên đường đến nhà chủ nhân nhã nhặn đây, xe trượt tuyết của tôi chạy qua một nơi có dựng một cái giá treo cổ. Ở đấy có một khoảng đất nhỏ dọn sạch tuyết và một người lính đứng canh.
- Chỗ ấy ở phía sau cửa ô Pokrovskie, - Alexaska nhích ghế lại gần nhắc.
- Vâng... Chợt tôi trông thấy cái gì nào? Đầu một người đàn bà thò ra khỏi mặt đất, mắt chớp chớp. Tôi hoảng quá, hỏi người cùng đi. “Sao cái đầu ấy lại chớp chớp mắt thế?”. Y đáp: “Nó còn sống. Đây là một lối hành hình theo kiểu Nga. Đàn bà giết chồng là bị chôn sống; vài ngày sau, khi nào người đó chết, họ đem treo người lên, đầu lộn xuống dưới”.
Alexaska nhếch miệng cười: “Hì, hì...”. Vua Piotr đưa mắt lườm hắn rồi nhìn Lơfo đương dịu dàng mỉm cười.
- Thế sao? Nó chẳng giết chồng đấy ư? Nước trẫm áp dụng cái hình phạt này từ lâu rồi. Vậy theo các người thì phải đại xá cho cái tội ác ấy chăng?
- Tâu hoàng thượng, - Xitni nói, - nếu hoàng thượng hỏi người đàn bà khốn nạn đó xem tại sao nó lại phạm vào cái tội tàn bạo như vậy thì tôi chắc nó sẽ làm lượng trên phải mủi lòng. (Vua Piotr khẽ cười). Tôi được tai nghe mắt thấy một số chuyện ở Nga... Ồ, mắt người ngoại quốc tinh lắm. Phụ nữ Nga sống trong các terem(2) y như giống súc vật. - Xitni đưa khăn tay lên lau vầng trán nhớp nháp mồ hôi, cẩm thấy mình quá lời nhưng tính kiêu ngạo và ma men khiến hắn cứ thao thao nói. - Đối với một công dân tương lai, cái gương mẹ hắn bị chôn sống rồi bị treo người lên một cách nhục nhã còn ra sao nữa! Một nhà văn nước chúng tôi là Wiliam Secxpia có viết một vở kịch rất hay kể câu chuyện xúc động về con trai một phú thương Ý vì yêu một phụ nữ mà đã uống thuốc độc như thế nào. Còn người Nga thì dùng roi, gậy để trừng phạt vợ, đánh vợ thừa sống thiếu chết mà tục lệ này lại còn được pháp luật khuyến khích nữa. Ở London, khi tôi về nhà, người vợ kính trọng của tôi tươi cười đón tôi, các con tôi chẳng sợ sệt gì chạy đến với tôi; trong nhà tôi, tôi tìm thấy sự bình yên và khôn ngoan. Vợ tôi không bao giờ có ý giết tôi là vì tôi tốt với vợ tôi.
Lão người Anh xúc động ngừng nói, cúi đầu xuống. Vua Piotr nắm lấy vai hắn.
- Hamington, dịch cho hắn nghe. - Rồi nhà vua chõ vào tai Xitni hét rất to bằng tiếng Nga - Chúng ta cũng đã thấy hết. Chúng ta không hề khoe ở nước chúng ta cái gì cũng tốt cả. Trẫm, đã trình với thái hậu, trẫm muốn gửi ra ngoại quốc năm chục dapife tuyển trong số tinh khôn nhất để học tập các người... Chúng ta phải bắt đầu từ ABC... Ngươi văng vào mặt trẫm là đồ man rợ, đồ khố rách áo ôm, đồ ngu ngốc, đồ vũ phu... Trẫm biết rồi, chứ đâu phải bây giờ! Nhưng hãy đợi đấy, hãy đợi đấy...
Nhà vua đứng dậy, đá cái ghế để lấy lối đi.
- Alexaska, cho đóng ngựa.
- Hoàng thượng định đi đâu, Myn Herz?
- Đến cửa ô Pokrovskie...
-------------
Chú thích:
(1) Tước quý tộc của Anh.
(2) Terem: gác xép trong các nhà thời xưa ở Nga.

Chương 65

Cái đầu từ từ ngước mắt lên... Cái chết vẫn chưa đến, chưa... Đất giá lạnh bó chặt lấy người... Làm sao có thể sưởi ấm được đất... không sao cọ quậy được trong nấm mồ này... Họ đã chôn ta đến tận đây. Tuyết nhè nhẹ rơi trên khuôn mặt lật ngửa ra đằng sau. Giá mà lại thấy buồn mửa để mắt mờ đi, ta sẽ đỡ xót xa cho cái thân ta... Bọn đàn ông là đồ ác thú, đúng thế, đồ ác thú? Khi còn nhỏ ta sống như một đóa hoa đồng nội. Mẹ yêu dấu đặt tên ta là Dasenka. Ôi, mẹ sinh con ra ở đời làm gì? Để cho bọn đàn ông chôn sống con... Con vô tội... Mẹ ơi, mẹ có trông thấy con không? Cái đầu hé môi, cái lưỡi khô gọi: “Mẹ ơi, mẹ thân yêu, con sắp chết đây...”. Nước mắt ràn rụa. Những bông tuyết bám trên hàng mi...
Sau cái đầu, trên bãi rộng chìm trong bóng tối, sợi dây thừng ở giá treo cổ làm cái vòng kêu cót két...
Và khi ta chết, họ vẫn không để ta yên, họ sẽ đem treo ta lên... Ta đau đớn, ta đau đớn, đất đè nặng lên người ta. Có những tảng đá ép vào hông ta... Ôi, đau quá, nỗi cực khổ lại bắt đầu, đau quá! - Cái đầu há hốc miệng lả xuống - “Cầu Chúa che chở cho con. Mẹ thân yêu, mẹ hãy thưa với Người... Con vô tội... Khi con giết nó con có tự chủ được đâu... Giống chó còn biết cắn... Cả ngựa cũng thế...”. Người đàn bà chẳng biết lấy gì để kêu nữa, ngây dại ra vì đau đớn. Cặp mắt mở rộng, vụt tắt. Cái đầu ngoẹo sang một bên...
Lại bắt đầu... Tuyết rơi... Vẫn chưa chết... Sắp được ba ngày rồi... Gió làm sợi dây thừng kêu cót két...
“Thế là ba hôm nay không ai vắt sữa con bò... Nhưng cái gì thế kia: một đốm sáng đỏ chăng? Ôi, sợ quá... Có nhiều bó đuốc... Nhiều xe trượt tuyết... Nhiều người... Họ đến đây... Lại những cực hình nữa chăng?”
Người đàn bà muốn giậm chân nhưng hàng núi đất đè nặng lên đôi bàn chân mụ, ngăn không cho mụ cọ quậy dù là một ngón chân.
Vua Piotr nói to:
- Nó đâu? Ta không thấy. Chó nhá mất rồi sao?
- Ê, người gác! Ngủ đấy à? Ê, gác? - những người đứng cạnh các xe trượt tuyết gọi to.
- Tôi đây-ây-ây! - Có tiếng đáp ề à.
Qua mưa tuyết đang rơi, người gác chạy lại, vướng víu trong tấm áo da cừu. Hắn không dừng lại mà cứ thế phục xuống chân vua Piotr, như một con gấu; hắn cúi lạy nhà vua rồi quỳ lên.
- Có phải ở đây chôn một người đàn bà không?
- Thưa vâng, tâu Đức Sa hoàng kính mến.
- Nó còn sống chứ?
- Thưa vâng, tâu hoàng thượng.
- Sao nó bị chôn sống?
- Thưa, nó dùng dao cắt cổ chồng.
- Nó đâu?
Người gác chạy đi, ngồi xổm xuống, khúm núm lấy vạt áo da cừu phủi lớp tuyết phủ trên mặt người đàn bà và mớ tóc bết băng đóng cứng.
- Thưa nó còn sống, nó còn sống, tâu hoàng thượng nó chớp mắt.
Vua Piotr, Xitni, Alexaska cùng năm sáu tân khách của Lơfo lại gần cái đầu. Hai tên lính ngự lâm giơ cao đuốc lên làm những chiếc mũ sắt sáng lấp loáng. Giữa đám tuyết, một cái mặt bẹt trắng bệch như tuyết, nhìn đám người mới đến với cặp mắt thao láo sâu hoắm.
- Tại sao mày giết chồng? - Vua Piotr hỏi. Cái đầu nín lặng. Người gác đá mũi ủng dạ vào má nó:
- Sa hoàng hỏi mày đấy, đồ ngu.
- Nó có đánh mày hay hành hạ mày không? - Vua Piotr cúi xuống người đàn bà - Tên nó là gì?
- Daria...
- Này Daria, mi kể ta nghe đầu đuôi thế nào.
Người đàn bà nín lặng. Người gác bối rối ngồi thụp xuống ghé vào tai mụ, nói:
- Mày phải nghe lời, may ra được tha đấy. Mày làm khổ tao đấy, con mụ kia.
Bấy giờ cái đầu mới há hốc lỗ miệng đen ngòm ra: một giọng khàn khàn, thều thào, căm hờn thốt lên:
- Tôi đã giết nó. Nếu phải làm lại, tôi vẫn cứ giết nó, cái đồ ác thú ấy...
Cái đầu nhắm mắt lại. Mọi người nín lặng. Nhựa từ các bó đuốc xèo xèo rơi xuống. Xitni nói liến thoắng nhưng chẳng có ai dịch. Người gác lại lấy mũi ủng dạ ẩy cái đầu - cái đầu quặt quẹo như đã chết. Vua Piotr ho sù sụ đi về phía xe trượt tuyết. Nhà vua khẽ bảo Alexaska:
- Cho đem bắn đi.

Chương 66

Nhà vua lạnh cóng chẳng nói chẳng rằng quay về ngôi nhà sáng trưng của Lơfo. Nhạc công đang cử nhạc ở hành lang phòng khiêu vũ. Các tấm gương phản chiếu những chiếc áo dài sặc sỡ, những khuôn mặt, những cây sáp. Qua làn hơi ấm, vua Piotr nhìn ngay thấy bộ tóc màu nâu nhạt của Anna Monx. Cô gái vẻ mặt mơ màng, đôi vai trần cúi xuống, ngồi cạnh tường. Vừa lúc đó, dàn nhạc chơi một điệu valse chậm, chĩa thẳng những chiếc kèn đồng từ ngoài hành lang vào; tiếng nhạc kể với nhà vua về Ansen, về chiếc áo dài màu hồng mỏng, nhẹ như tơ nàng mặc, về đôi bàn tay thơ ngay nàng đặt trên đầu gối... Tại sao, tại sao một nỗi buồn ghê gớm vò xé lòng nhà vua? Dường như chính nhà vua bị chôn dưới đất đến tận cổ giữa gió thổi, bão tuyết, đang kêu gọi tình yêu của nàng từ một cõi xa xăm vô thực. Anna chớp chớp mắt; trước hết thảy mọi người nàng trông thấy vua Piotr đứng ở ngưỡng cửa.
Nàng đứng dậy chạy như bay trên sàn nhà đánh xi bóng lại chỗ nhà vua. Giờ đây, nhạc điệu tươi vui ca ngợi nước Đức tốt lành có cây hạnh đào nở hoa màu hồng trước những khuôn cửa sổ xinh xắn, sạch sẽ sạch bong; thân phụ và thân mẫu rất phúc hậu mỉm cười âu yếm ngắm Hanx và Greten đứng dưới cây hạnh đào - biểu tượng của tình yêu muôn thuở; và tới lúc vầng thái dương của họ biến mất trong khoảng trời đêm xanh ngát thì cả hai sẽ thở một hơi dài bình thản mà đi xuống mồ. Chao ôi, cái cõi xa xăm vô thực!...
Vua Piotr ôm Ansen ấm áp trong tấm áo lụa hồng và lặng lẽ khiêu vũ mãi, lâu đến nỗi các nhạc công chơi sai cả. Nhà vua nói:
- Anna!
Nàng ngước khóe mắt tin cậy, trong trắng, tươi sáng nhìn vào cặp mắt nhà vua.
- Hôm nay Người buồn ư, Pete!
- Annutska, nàng có yêu ta không?
Để trả lời, Anna gật mạnh; cổ nàng buộc một dải nhung... Tất cả các bà, cả người đương khiêu vũ lẫn người ngồi đều hiểu Sa hoàng hỏi Anna Monx gì và nàng trả lời như thế nào. Sau khi khiêu vũ quanh phòng một vòng, vua Piotr nói:
- Có nàng, ta sung sướng...

Chương 67

Người ta xốc nách đưa vị giáo trưởng vào. Lão ban phúc lành cho đức hoàng thái hậu tuổi tác, cho tiểu đệ của hoàng thái hậu và các vị đại thần; vẻ nghiêm nghị lão giơ bàn tay khổ hạnh ấn những hạt bằng xương của chuỗi tràng hạt vào miệng mọi người. Sa hoàng Piotr vẫn chưa đến. Giáo trưởng Ioakim ngồi xuống một chiếc ghế gỗ lưng cao và cúi đầu xuống rất thấp; chiếc mũ chùm đầu che kín mặt. Ánh nắng lọt vào phòng qua những khuôn cửa sổ nằm sâu dưới các vòm của điện Hữu giác. Mọi người đều lặng lẽ, chắp tay nhìn xuống. Chỉ có bóng một cánh chim bồ câu đậu bên ngoài trên bậu cửa sổ phủ tuyết làm gợn sự im lặng.
Chiếc lò sưởi bằng sứ màu lam tráng men tỏa hơi rất ấm, đượm mùi trầm và mùi sáp. Điều phải làm trước hết, điều quan trọng nhất là cứ ngồi yên vị như thế, trong một sự im lặng uy nghiêm theo cho đúng nghi thức và thủ tục. Mặc cho những lớp sóng người - ôi, hư vô của hư vô - đụng vào cái bất di bất dịch đó mà vỡ tan tành? Hãy chấm dứt mọi cám dỗ, mọi điều canh tân! Thành lũy của nước Nga là đây, - dù ta có nghèo khó cũng chẳng cần, quý hồ ta công minh... Còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ giúp ta...
Mọi người đều im lặng đợi nhà vua đến. Natalia Kirilovna mê mẩn thiếp đi. Vài tháng nay, bà đẫy ra, sức khỏe suy yếu. Xtresnev vừa rền rĩ vừa rón rén nhặt chuỗi hạt từ trên lòng hoàng thái hậu rớt xuống thảm. Thời Sofia, trong phòng này có một chiếc đồng hồ quả lắc hình cái tháp nhỏ. Người ta đã mang nó đi nơi khác vì nó kêu tích tắc nghe rất khó chịu. Hơn nữa, chẳng đã có câu: “Không ai rõ giờ mình điểm lúc nào...” đó sao. Đếm giờ, đếm thời gian là tự dối mình. Cứ để mặc thời gian từ từ êm ả trôi trên đất Nga.
Cánh cửa buồng ngoài sập đóng, có những tiếng nói từ ngoài trời lạnh vọng vào, làm rối loạn sự yên tĩnh uể oải. Thái hậu cố nhịn ngáp, làm dấu trước miệng.
Một thiếu niên thị vệ hiền lành kính cẩn báo tin Sa hoàng đã đến. Không vội vàng, các vị đại thần liền bỏ mũ cao xuống. Natalia Kirilovna cau mặt nhìn ra cửa, nhưng nhờ ơn Chúa, vua Piotr bận y phục Nga. Trước khi bước qua ngưỡng cửa, nhà vua đã cố nén cười, rất đường bệ đi vào...
“Con chim bồ câu của ta, chân nó như chân sếu, nó thật khó mà giữ được vẻ trịnh trọng”, thái hậu thầm nghĩ, nét mặt lại tươi tỉnh, niềm nở.
Vua Piotr lại gần vị giáo trưởng, xin ban phúc lành rồi hỏi thăm sức khỏe của hoàng huynh Ivan đang ốm.
Nhà vua cần tiền gấp nên nhận được thư mẹ gọi về là ngoan ngoãn đến nghe lời Ioakim. Nhà vua ngồi lên ngai, tì lên khuỷu tay, một bàn tay che miệng phòng khi ngáp bất chợt và dấn mình vào không khí im lặng mơ mơ màng màng của gian phòng như thể chìm vào một chiếc nệm lông chim.
Ioakim rút trong áo thụng đen ra một quyển vở, - bàn tay lão run run vì tuổi già; lão từ từ giở trang giấy, người mắt lên trời, ấn mãi mấy ngón tay lên cây thập ác tám cánh đính trên mũ ni, làm dấu rồi cất giọng ẻo lả chậm chạp và nhạt nhẽo đọc.
Đừng có lóa mắt bởi cái ảo tưởng là dẹp xong bọn phiến loạn thì lòng người và cả nước đã yên... Ta cực lòng vì không thấy có sự nhất trí về tư tưởng cũng như sự phồn thịnh của mọi dân tộc. Ở kinh đô, nào thầy tu, nữ tu sĩ, nào giáo sĩ, trợ tế, không có việc làm, thô bỉ và vụng về và đủ các loại cầu bơ cầu bất - chúng đông vô kể - lấy giẻ bó chặt tay và cẳng, nhiều kẻ còn bịt mắt hoặc nhắm nghiền lại, đi lang thang ngoài phố, ăn xin một cách ranh ma, già dối. Phải chăng thế là một vườn hoa nở? Rồi trong các nhà ta thấy nạn rượu chè, tệ đoán mộng, yêu thuật và trụy lạc ghê gớm. Chồng túm tóc vứt vợ trần truồng ra đường, vợ giết chồng, còn con cái, tựa một lũ điên rồ, mọc như cỏ dại... Phải chăng thế là một vườn hoa nở? Ta còn thấy con trai nhà quý tộc, và người thợ lẫn người nông dân, tự châm lửa đốt nhà rồi kiếm một cái chùy bỏ vào rừng, thả sức hung bạo hoành hành. Hỡi nông dân, cày của ngươi đâu? Hỡi người buôn bán, đấu của người đâu? Hỡi bọn nhà quý tộc, danh dự của ngươi đâu?...”
Giáo trưởng cứ thế tiếp tục, kể ra mọi tai họa đang hoành hành khắp nơi. Vua Piotr không buồn ngáp nữa. Natalia Kirilovna bồn chồn ngước mắt lúc nhìn con, lúc nhìn các đại thần; nhưng đám này vẫn vểnh râu ngồi im theo tục lệ. Mọi người đều, rõ việc nước thật rối ren. Nhưng giải quyết cách nào? Đành âm thầm chịu đựng thôi...
Ioakim đọc tiếp:
Thần quyết định trong sự hiểu biết hèn mọn của thần nói rõ sự thật với các thánh thượng cao cả...
Chừng nào bọn phi đạo Do Thái còn hoành hành trong nước thì sẽ không thể có được trật tự và thịnh vượng. Chúng ta khổ về tội lỗi của ta... Trước kia chúng ta là đệ tam La Mã, nay chúng ta đã thành đệ nhị XodomGomo (1)... Tâu các thánh thượng cao cả, cần phải cấm bọn dị giáo xây dựng đền đài của chúng, và cần phải phá hủy những cái chúng đã cất xong. Không thể để cho bọn tà đạo đáng nguyền rủa chỉ huy các trung đoàn. Quân đội chính giáo tìm được lợi ích gì ở chúng? Chúng chỉ làm Chúa giáng giận dữ xuống. Chó sói mà lại chỉ huy cừu! Cần phải cấm dân chính giáo giao thiệp với bọn tà đạo. Không nên đưa vào nước ta những phong tục nước ngoài cũng như không được thay đổi mảy may y phục của ta. Khi chúng ta đã dần dần hồi phục và tinh thần chính thống đã vượng, chúng ta cần tống cổ bọn dị chủng ra khỏi nước Nga, còn khu xloboda người Đức, cái địa ngục ấy, cái nơi đồi bại ấy phải đem đốt đi”.
Mắt vị giáo trưởng rực lửa, khuôn mặt run lên, bộ râu mảnh, đôi bàn tay tím ngắt cũng run lên. Bọn đại thần cúi mặt xuống; rõ ràng là Ioakim đã quá trớn; trong một vấn đề như thế nầy, không thế thẳng thừng được.
Cặp mắt Romodanov trố lồi ra như mắt tôm.
Giáo trưởng đọc xong. Natalia Kirilovna chẳng hiểu gì hết, vẫn tiếp tục gật đầu mỉm cười.
Vua Piotr ngồi ngả người trên ngai, cặp môi trề ra như môi con nít. Giáo trưởng cất quyển vở, đưa những ngón tay khẳng khiu lên xoa mặt rồi nói:
- Chúng ta sẽ bắt đầu đại sự bằng một việc nhỏ... Thời Sofia Alekseyevna do thần cố vật nài, tên tà đạo khốn kiếp Quirin Kunman đã bị bắt ở Kukui... Tra hỏi thì y khai thấy ở Amsterdam có một người bận lễ phục trắng hiện ra và hạ lệnh cho y đi Moskva là nơi theo y nói, dân chúng đang chìm đắm trong cảnh phi đạo u mê. - Ioakim xúc động lặng im một lát. - “Còn các ngươi, - y nói lúc hỏi cung, - các ngươi mù quáng: các ngươi không thấy đầu ta có hào quang bao bọc và Đức Thánh thần phán qua miệng ta”. Và y dẫn nhiều đoạn trích trong các thuyết đồi bại của Jakov Bom và Christof Bactutx (2). Ngoài ra chính y đã quyến rũ con bé Maria Xelifontova ở Moskovi và đe dọa làm con bé sợ phải mặc nam phục; con bé ở nhà y trong một buồng chứa đồ. Suốt ngày đêm cả hai đứa say túy lúy kéo vĩ cầm và gõ não bạt; Kunman thò đầu ra cửa sổ gào lên như bị ma làm rằng Đức Thánh thần đã ốp vào y. Y xem bói cho những kẻ đến cầu y và truyền lệnh bắt họ hôn y nơi bụng dưới. Lạy Chúa, sao người ta có thể im lặng lấy một phút khi quỷ Satan đắc thắng ở đây? Thần cúi xin các đấng thánh thượng cao cả hãy hạ chiếu chỉ thiêu sống Quirin Kunman cùng với sách vở của y...
Tất cả mọi người đều quay đầu lại nhìn vua Piotr. Nhà vua hiểu rằng vụ Quirin Kunman đã được quyết định từ lâu rồi. Nhà vua đọc thấy bản án trong khóe mắt bình tĩnh của mẹ. Chỉ có Romodanovski cọ quậy ria mép tỏ vẻ không tán thành. Vua Piotr ngồi ngay ngắn lại và cắn xước móng tay. Vậy đây là lần đầu tiên trong đời, người ta đòi hỏi nhà vua quyết định một quốc sự. Thực ghê gớm, nhưng nhà vua đã cảm thấy ớn người vì giận dữ. Nhà vua nhớ đến những câu chuyện mới đây ở nhà Lơfo, những nét mặt thông minh, đầy tự trọng của những người ngoại quốc. Một sự miệt thị lễ phép. Hôm sau, Xitni đã nói với nhà vua:
- Nước Nga là một nước châu Á từ lâu quá mất rồi. Ở quý quốc dân chúng sợ người châu Âu, nhưng đối với người Nga, không có kẻ thù nào nguy hại bằng chính người Nga đấy!
Vua Piotr nhớ lại nỗi sỉ nhục phải nghe những lời đó. Lúc ấy, nhà vua đã thưởng Xitni một cái áo lông chồn và sai người bảo hắn đừng quay lại nhà Lơfo nữa mà đi ngay Arkhangensk.
Nhưng nếu lão người Anh nghe thấy câu chuyện này thì lão sẽ nói sao? San bằng các nhà thờ Lute và Gia-tô ở khu xloboda ư? Nhà vua nhớ lại tiếng chuông lanh lảnh của ngôi nhà thờ Đức, mùa hè, lọt qua các khuôn cửa sổ để ngỏ. Tiếng chuông ban mai ấy bao hàm sự đoan chính và trật tự, đượm hương những ngôi nhà ngăn nắp ở Kukui, chiếc rèm ren ở cửa sổ phòng Anna Monx.
Cả nàng nữa ngươi cũng đem thiêu sống sao, cái thằng già chết dẫm kia, đồ quạ đen! Ngươi muốn biến Kukui thành đống tro tàn!
Giờ đây cặp mắt vua Piotr như muốn đốt cháy lão giáo trưởng. Nhưng mạnh hơn cơn thịnh nộ, phải chăng nhờ những bài học của Lơfo, tính ương ngạnh và mưu trí của nhà vua đã vượt lên. Được rồi, các ngài đại thần ạ, đồ rậm râu! Chửi rủa họ ư? Thì chẳng phải lâu la gì, họ sẽ quỳ mọp dập đầu xuống thảm, thái hậu sẽ òa lên nức nở, lão giáo trưởng sẽ giấu mũi vào giữa hai đầu gối, nhưng rồi mặc dù thế, nghĩ sao họ vẫn cứ làm vậy, hơn nữa, họ sẽ thắt chặt hầu bao lại...
- Thánh lão, - vua Piotr giận dữ nhưng vẫn nhã nhặn nói. Natalia Kirilovna ngạc nhiên ngươc mắt nhìn con. - trẫm cay đắng mà nhận thấy rằng trẫm và Người không nhất trí... Trẫm không can thiệp vào công việc của Người. Mưu đồ của trẫm có lẽ cũng to tát đấy - nhưng Người có biết không đã? Trẫm định chinh phục biển cả... Trẫm thấy hạnh phúc của nước nhà là ở chỗ thương mại hàng hải phát đạt, nó là một thiên ân... Về quân sự trẫm không thể không cần đến người ngoại quốc... Nhưng cứ thử đụng vào các nhà thờ của họ xem, họ sẽ bỏ trốn hết... Thế có nghĩa là gì? - Nhà vua nhìn thẳng vào mặt các vị đại thần, hết người nầy đến người khác. - Người muốn bẻ gãy cánh trẫm chăng?
Các vị đại thần ngạc nhiên thấy vua Piotr có những lời lẽ cứng cỏi như vậy. Họ nhìn nhau:
- Ồ, ồ? Các ngài thấy chưa? Nhà vua xử sự thẳng tay!
Romodanovski gật gù:
- Đúng vậy, quả đúng vậy.
Giáo trưởng hếch mũi về phía ngai vàng, cất giọng xúc động hùng dũng nói to:
- Tâu thánh thượng cao cả! Thánh thượng hãy trao cho thần thủ hạ của quỷ Satan là tên tà đạo Quirin Kunman.
Vua Piotr sầm mặt. Nhà vua cảm thấy phải nhượng bộ bọn rậm râu về điểm đó. Natalia Kirilovna vừa lắp bắp: “Sa hoàng yêu dấu”, vừa chắp tay cầu khẩn. Nhà vua liếc mắt về phía Romodanovski. Ông này khẽ dang cánh tay.
- Trẫm chẳng dính líu gì đến Kunman hết, - vua Piotr nói. - Trẫm nộp đầu y cho Người.
Vị giáo trưởng mệt lừ liền ngồi xuống nhắm mắt lại.
- Và bây giờ có việc này, các vị đại thần ạ: trẫm cần tám ngàn rúp cho quân đội và hạm đội...
Ra khỏi điện, vua Piotr cho Fedor Yurievich Romodanovski lên cùng ngồi xe trượt tuyết và đi về nhà ông ta ở phố Lubianka ăn bữa tối.
-------------
Chú thích:
(1) Hai thành phố cổ của xứ Palestin, bị lửa trời huỷ diệt vì sa đoạ, truỵ lạc (theo kinh thánh đạo Thiên chúa).
(2) Tác giả những sách thần bí (chú thích của tác giả).

Chương 68

Từ làng Mytisi, người ta đưa mụ Vorobikha đến điện Kreml gặp vị hoàng hậu trẻ tuổi.
Evdokia mừng quá liền ra lệnh cho đưa mụ Vorobikha từ xe trượt tuyết vào thẳng phòng ngủ của mình. Phòng nầy ở tầng gác hai của một ngôi nhà gỗ có hai khuôn cửa sổ nhỏ xíu căng rèm che nắng. Trên ổ nằm nóng bỏng trên lò, bà đỡ già, đi ủng dạ và mặc áo bông, nằm ngủ suốt ngày. Evdokia sắp đẻ đến nơi và mấy ngày hôm nay, nàng không rời khỏi đống nệm nhồi lông thiên nga. Chắc chắn là nàng cũng muốn thoát ra khỏi cái xó buồng nghẹt thở này để đi xe trượt tuyết dạo một vòng quanh Moskva tuyết phủ có những ngọn khói lam bay lên dưới vòm trời thấp và trong các ngõ hẻm, những cành cây tha thướt, lấp lánh ánh bạc, vướng vào vai cổ ngựa... Nhưng thái hậu và hết thảy các bà hầu cận đều la lên:
- Lạy Chúa? Dạo chơi bằng xe trượt tuyết làm sao được! Phải nằm xuống, không được động đậy, cẩn thận cái bụng, Người chẳng mang hòn máu của Sa hoàng đấy ư?
Họ chỉ cho phép nàng được nghe những chuyện cổ tích có hậu... Cả đến khóc nàng cũng bị cấm vì có hại cho đứa bé. Mụ Vorobikha kính cẩn nhưng nhanh thoăn thoắt bước vào. Mụ sạch sẽ, chân vận giầy gai mới, dưới chiếc váy bằng vải thô mụ thủ một túm đan sâm cho thơm. Mụ có cặp môi hiền hậu, mắt nhỏ như mắt chuột, khuôn mặt tuy già nhưng vẫn hồng hào; mụ nói liến thoắng không lúc nào ngơi miệng. Đến ngưỡng cửa, mụ đưa cặp mắt sắc nhìn khắp gian phòng, trông thấy tất cả rồi quỳ phục xuống trước giường và liền được ban ơn ngay: vị hoàng hậu trẻ tuổi chìa cho mụ một bàn tay nhớp nháp:
- Vorobikha ngồi xuống, kể chuyện đi... Giải buồn cho ta...
Vorobikha lau sạch cặp môi và mào đầu bằng chuyện về một lão ông và một lão bà, các cô con gái một giáo sĩ, một con dê đực sừng vàng...
- Khoan đã Vorobikha... - Evdokia nhỏm dậy để nhìn xem có phải bà đỡ vẫn ngủ không. - Ngươi bói cho ta một quẻ, - nàng bảo.
- Ồ tâu hoàng hậu xinh đẹp, già không biết bói.
- Ngươi nói dối, Vorobikha... Ta không hé chuyện ra với ai, đâu bói cho ta một quẻ bằng hạt đậu đi...
- Ồ thời này mà dùng đậu thì người ta lấy gậy đánh cho tuốt xương ra... Hay là dùng bột lúa mạch nhào với nước phép?
- Bao giờ ta bắt đầu trở dạ? Sắp rồi ư? Ta sợ lắm... Ban đêm tim ta se lại, se lại, rồi ngừng đập... Ta ngồi nhỏm dậy, ta tự hỏi: con ta có sống không? Ôi, lạy Chúa!
- Nó đạp chân à? Ở đâu?
- Nó đạp chân ở đây này... Nó xoay đi xoay lại dường như khẽ lấy đầu gối và khuỷu tay cọ vào ta.
- Nó xoay từ phải sang trái hay ngược lại?
- Cả hai chiều... Nó quẫy tợn lắm...
- Con trai đấy.
- Ô thật ư?
Vorobikha âu yếm chớp chớp cặp mắt chuột thì thào:
- Hoàng hậu còn muốn bói gì nữa? Tâu hoàng hậu xinh đẹp, già thấy Người nóng lòng muốn hỏi già một điều. Hoàng hậu nói thầm vào tai già này.
Evdokia quay mặt vào tường; khuôn mặt nàng có những vết nâu ở trán và thái dương, cặp môi mọng, đỏ ửng lên...
- Có phải ta xấu đi chăng, ta không rõ nữa...
- Hoàng hậu đẹp lắm, đẹp như tranh ấy...
- Ngươi im đi... - Evdokia quay mặt lại, đôi mắt nâu tràn lệ. - Người có thương ta không. Người có yêu ta không? Ngươi hãy nói cho ta biết... Đi lấy bột lúa mạch đi...
Vorobikha đã mang theo một cái túi đựng đủ các thứ cần dùng: một cái đĩa đất, một lọ đầy nước và một thứ bột sẫm màu... Mụ thì thào: “Đây là hạt giống dương sỉ nhặt trước ngày lễ Thánh Năng”. Mụ đổ nước vào bột, nhào lên, đặt cái đĩa trên chiếc ghế dài cạnh giường; mụ lẩm bẩm đọc thần chú, cầm lấy chiếc nhẫn cưới của Evdokia, nhúng vào đĩa và bảo hoàng hậu nhìn vào.
- Hoàng hậu hãy nghĩ đến điều làm mình lo lắng, Người cứ nói to lên hoặc làm cách khác cũng được, tùy ý. Người nghi có chuyện gì thế?
- Từ khi ở tu viện Ba Ngôi về đây thì Người thay đổi. - Evdokia khẽ mấp máy môi nói, - Người chẳng chịu nghe lời ta làm như ta là một con thậm ngốc. “Khanh nên đọc một quyển sử... Học tiếng Hà Lan hay tiếng Đức đi...”. Ta đã thử làm nhưng ta chẳng hiểu gì cả? Có cần phải đọc sách thì mới yêu vợ không?
- Thế hoàng thượng và hoàng hậu không ăn nằm với nhau đã lâu chưa?
- Gần ba tháng rồi... Natalia Kirilovna cấm. Người lo cho cái bụng của ta...
- Hoàng hậu hãy nhìn vào giữa cái nhẫn này, Người có trông thấy cái gì đục đục không?
- Hình như là một mặt người...
- Hoàng hậu hãy nhìn kỹ thêm... Một mặt đàn bà phải không?
- Hình như thế... Phải rồi, một mặt đàn bà...
- Nó đấy. - Vorobikha mím môi làm ra vẻ quan trọng; cặp mắt nhỏ của mụ nhìn chăm chú như qua một cái lỗ chuột... Evdokia thở hổn hển, nhỏm dậy: bàn tay nàng lướt từ phía trên chiếc bụng căng phồng lên tới ngực nơi trái tim thổn thức như con chim bị nhốt.
- Ngươi biết những gì? Ngươi giấu ta điều gì? Nó là ai thế?
- Ai, ai à, một thứ rắn độc, một con người Đức... Cả Moskva đều xì xào về nó, nhưng không dám nói to... Họ đã bỏ bùa mê cho hoàng thượng ở xloboda. Đức Hoàng hậu thân yêu đừng buồn, hãy còn quá sớm để phiền muộn. Ta sẽ có cách... Người hãy cầm lấy cái kim... - Vorobikha thoắt rút ở khăn bịt đầu ra một chiếc kim, miệng lẩm bẩm đưa cho hoàng hậu. - Hoàng hậu cứ lấy những ngón tay xinh đẹp của Người cầm lấy, đừng sợ gì hết. Người hãy nhắc lại câu già nói “Cút đi, cút đi đồ rắn độc ác nghiệt, xảo quyệt, con Anna có sừng, quặt quẹo, gãy vụn và què liệt, hãy cút đi đừng quay lại, tới bên kia núi Fafe, nơi mặt trời chẳng mọc, trăng chẳng sáng, sương chẳng bám, hãy rơi vào trong đất ẩm sâu ba xagien rồi ở lại đấy, con Anna ở lại cái nơi cô quạnh đó, đồ rắn độc ác nghiệt, xảo quyệt, cho đến ngày tận thế, a-men”. Người đâm đi, đâm kim vào giữa cái nhẫn ấy, đâm vào giữa mặt nó.
Evdokia đâm mãi vào cái đĩa đến nỗi gãy cả kim. Lúc đó, nàng ngả người xuống, gấp cánh tay che lấy mắt, cặp môi mọng run run nức nở.
Tối đến, các mụ hầu và các vú em, các bà đỡ và các thiện nữ nhốn nháo, làm cửa và sàn nhà kêu cót két.
- Sa hoàng ngự đến!
Vorobikha ném một hạt trầm vào cây nến để làm cho không khí dịu mát đi, rồi lủi mất.
Vua Piotr nhảy lên cầu thang bốn bậc một. Nhà vua cúi xuống giường hoàng hậu, người sực hơi lạnh bên ngoài và mùi rượu.
- Chào Dunia (1)... Vậy khanh chưa đẻ ư? Thế mà trẫm cứ tưởng... - Nhà vua khẽ cười, - có vẻ xa xăm, tươi vui với cặp mắt tròn xa lạ...
Evdokia cảm thấy lạnh ở ngực. Nàng nói rành rẽ:
- Thiếp sẽ rất sung sướng nếu chiều được lòng hoàng thượng. Thiếp thấy mọi người đợi mãi đã ngán rồi. Thiếp xin lỗi.
Nhà vua cau mặt, cố hiểu xem hoàng hậu làm sao. Nhà vua giơ hai tay cầm lấy một chiếc ghế dài, ngồi xuống, đinh thúc ngựa rạch một vệt trên thảm.
- Trẫm dùng bữa tối ở nhà Romodanovski... Người ta tâu với trẫm là khanh sắp đẻ tới nơi... Trẫm tưởng là đã bắt đầu rồi...
- Thiếp sẽ chết khi lâm bồn, rồi hoàng thượng sẽ được tin. Người ta sẽ báo cho hoàng tượng rõ...
- Thôi đi... Đẻ chết sao được.
Lúc đó hoàng hậu liền lấy hết sức tung chăn đệm ra rồi chỉ vào bụng:
- Nó đây, hoàng thượng trông... Chỉ có thiếp mới phải lo sợ, kêu rên, chứ không phải hoàng thượng. Chết sao được! Hoàng thượng sẽ biết sau tất cả mọi người... Cứ cười đi, cứ vui chơi đi, cứ rượu nhiều vào... Đi đi, đi đi hãy đi đến cái xloboda đáng nguyền rủa của hoàng thượng...
Nhà vua há miệng nhìn hoàng hậu trừng trừng.
- Thiếp xấu hố với mọi người. Ai cũng rõ...
- Ai cũng rõ chuyện gì?
Nhà vua mặt hầm hầm, thu gọn chân lại như một con mèo. A, bây giờ thì Evdokia chẳng cần gì hết...
Hoàng hậu kêu to:
- Ai cũng rõ hoàng thượng lui tới cái nhà con tà đạo người Đức ấy! Cái con hầu ở quán rượu ấy! Không biết nó đã cho hoàng thượng uống gì thế?
Thế là nhà vua đỏ bừng mặt, vã cả mồ hôi ra, đá văng cái ghế dài đi. Trông nhà vua dữ dội đến nỗi Evdokia tự nhiên giơ cánh tay lên che mặt. Nhà vua đứng sững, quắc cặp mắt quỷ vương nhìn vợ.
- Đồ ngu! - Vua Piotr chỉ thốt ra được có thế.
Hoàng hậu giơ hai tay, ôm lấy đầu và òa lên nức nở khóc thầm. Đứa bé uể oải bồn chồn trở mình trong bụng mẹ. Một cơn đau nhói ghê gớm như đứt ruột đứt gan, thắt chặt ngang lưng hoàng hậu với một sức mạnh khó hiểu.
Nghe thấy tiếng hoàng hậu gào lên như một con vật, các mụ hầu và các vú em, các bà đỡ và các thiện nữ liền đổ xô vào buồng. Hoàng hậu kêu la, cặp mắt điên dại, miệng há hốc. Mọi người tíu tít... Họ tháo các bức tranh thánh xuống, thắp các ngọn đèn chong đêm lên. Vua Piotr đã đi khỏi. Qua những cơn đau đầu tiên, Vorobikha và bà mụ xốc nách đưa Evdokia sang đẻ ở buồng tắm hơi nước nóng sực.
-------------
Chú thích:
(1) Gọi Evdokia một cách trìu mến.

Chương 69

Một con quạ nhỏ mắt trắng từ dưới trái tranh hoảng hốt bay lên đậu trên ngọn cây, sương muối rơi xuống lả tả. Gã Digan chợt ngầng đầu lên, - phía bên kia các cành cây tuyết phủ, trời bình minh mùa đông phô màu sắc đỏ hồng hồng. Khói bốc lên nghi ngút, - các bà nội trợ đã nhóm bếp lò. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng ủng dạ dẫm tuyết lạo xạo và tiếng ho húng hắng; cửa nhỏ các nhà kêu cót két, một chiếc rìu nện chát chát.
Các mái nhà dốc đứng in hình lồ lộ những cây bạch dương; toàn khu Zaretsie um lên những làn khói hồng: những ngôi nhà vững chãi của quân xtreletz, những kho chứa hàng cao ngất của bọn lái buôn, những túp nhà nhỏ của dân nghèo thị trấn này - thợ thuộc da, thợ mũ, lái nấu kvas...
Con quạ nhỏ nghịch ngợm chuyền từ cành nọ sang cành kia làm rơi bụi tuyết vào mắt Digan. Gã bực mình giơ bao tay lên doạ. Gã kéo chiếc thùng láng băng ở dưới giếng lên, đổ nước thơm ngát vào chiếc chậu gỗ.
Vào cái ngày chủ nhật tươi đẹp này, tim gã thắt lại vì một cơn giận dữ chua xót. “Mẹ kiếp! Chúng nó bắt mình làm nô lệ... Mình ở đây không bằng một con vật thồ. Mà mình cũng gánh vác được gia đình mình có kém gì ai đâu kia chứ?”. Cái thùng kêu lanh canh, cái gầu kĩu kịt, chiếc bánh xe gãy, cột ở ngọn, lắc lư.
Chủ nhà là gã xtreletz Opsey Rezov đi ra thềm. Ngang lưng chiếc áo lông cừu hắn mặc, có thắt một sợi dây lưng bằng len đỏ. Hắn gặp lạnh húng hắng ho, kéo sụp mũ xuống tận mắt, đeo bao tay vào, lắc chùm chìa khóa kêu leng keng.
- Mày vợi nước rồi chứ?
Để trả lời, con mắt độc nhất của Digan chỉ lóe lên một ánh chớp - đôi giầy vỏ gai trượt trên mô đất đóng băng bên cạnh chiếc chậu gỗ. Opsey ra mở chuồng súc vật: chủ nhà mà cẩn thận thì phải tự tay cho súc vật uống nước. Giữa đường hắn lấy chiếc ủng dạ trắng điểm một hàng chấm đỏ gạt một con sào vướng lối đi:
- Tao chưa lấy sào này quật cho mày một trận đấy thằng con nhà nông nô kia... Mày lại bắt đầu vung vãi mọi thứ ra sân rồi.
Hắn mở cửa, lấy cọc chặn cửa rồi nắm bờm lôi ra hai con ngựa thiến béo tốt, vỗ vào cổ chúng, huýt sáo và hai con ngựa liền uống nước lạnh buốt, chốc chốc lại nghểnh cổ lên: chúng nhìn bình minh, nước từ cặp môi âm ấm của chúng chảy xuống ròng ròng. Một con hí, toàn thân khẽ rung lên... “Này, này, đứng im” - Opsey khẽ bảo. Hắn cho mấy con bò cái và một con bò đực nhỏ màu nâu ra khỏi chuồng; đàn cừu lúc nhúc rối rít theo sau những chiếc móng nhỏ dẫm lên tuyết kêu lạo xạo. Digan vẫn vợi nước mãi, mệt nhoài, quần ướt sũng. Opsey nói:
- Bụng mày không tốt mấy mà ác thì có thừa. Mày chẳng bao giờ yêu thương vỗ về giống vật, mày chỉ biết có trợn trừng trợn trạc cái con mắt mày. Tao thực không hiểu tâm địa mày thế nào?
- Sức làm được đến đâu thì làm đến đó, người ta có phải là giống bò đâu.
Opsey cười gằn một cách độc ác:
- Được, được!
Hắn bắt Digan phải cho súc vật ăn trước mặt hắn và thay ổ rơm. Digan phải đi đi lại lại hàng chục lần từ chuồng súc vật đến cuối sân, chỗ các đống rơm trắng xóa tuyết ríu rít bầy chim sẻ trên rơm bị xáo lộn. Gã bổ củi mang vào nhà. Mặt trời chiếu sáng các ngọn cây phong phủ tuyết nổi bật lên nền trời xanh. Chuông nhà thờ bính boong. Opsey nghiêm trang làm dấu. Một em gái mặt tròn, mắt xanh như mắt quạ con, nhảy ra thềm.
- Bố ơi, nhanh lên vào ăn cơm.
Opsey giậm ủng cho rơi hết tuyết rồi đi vào cái cửa thấp và đóng sập cửa lại, ra vẻ ông chủ.
Chẳng ai gọi Digan. Gã đợi một lát, xì mũi, lấy vạt áo rách chùi mũi mãi rồi tuy chẳng được mời cũng bước vào trong tầng hầm ấm áp, mờ mờ tối, nơi gia đình nhà chủ ăn cơm. Gã né mình ngồi lên chiếc ghế dài gần ngưỡng cửa.
Mùi súp bắp cải hầm thịt thơm nức. Opsey cùng em trai là Konxtantin cũng là quân xtreletz ung dung ngồi ăn, lần lượt múc thức ăn trong một cái âu gỗ. Một bà lão cao lớn, nét mặt nghiêm nghị mắt lờ đờ, tiếp thức ăn.
Hai anh em Opsey có một cửa hàng ở chợ bán đồ đan lát, một nhà tắm hơi nước công cộng ở phố Bansuc và một cối xay gió: ngoài ra họ còn lĩnh canh của vương hầu Odoevski mười hai dexiatin ruộng và đồng cỏ. Trước kia hai người làm lấy (họ không dự chiến dịch Krym) nay Sa hoàng Piotr chẳng để họ được yên lúc nào: ngày nào cũng có thể bị gọi đi xâu hoặc luyện tập quân sự. Quân xtreletz không được phép làm việc trong các cửa hàng hay trong các nhà tắm của họ. Phó mặc cho bọn làm thuê công nhật thì không được. Thành thử các bà vợ và chị em, tóm lại phụ nữ phải làm. Còn đàn ông thì hầu hạ các trò du hí của Sa hoàng.
- Mùa gặt hè tới này, không biết ta sẽ làm thế nào, thật là gay quá, - Opsey nói? Hắn siết chặt trên ngực một chiếc bánh mì tròn, làm xước cả áo sơ-mi và cắt một khoanh cho em trai và cho hắn. Hai người thở dài, cắn bánh, lúc lắc những miếng thịt trong thìa và lại ăn súp.
- Thời buổi này, mướn người làm thuê công nhật là nguy hiểm, - Konxtantin nói. - Mới có một đạo dụ: phải đem nộp những tên du đãng sống không ai bảo lãnh trong các xloboda hoặc các quán rượu, trong các nhà tắm, các kho chứa gạch...
- Nhưng nếu có việc làm thì sao?
- Thì phải chịu trách nhiệm về nó như đối với một thằng kẻ cướp... Digan có đưa anh giấy tờ giới thiệu gì không? Biết nó là ai?
- Có ma nào mà biết được... Nó chẳng bảo gì hết...
- Tốt hơn có lẽ nên cho nó ra để tránh tai vạ chăng?
Lúc Digan bước vào, tay rứt những mảnh băng phủ kín bộ râu cằm, con mắt độc nhất nhìn trừng trừng vào hai anh em, Opsey nói to:
- Tao chán cái thằng ấy lắm rồi.
Một lát im lặng. Hai anh em vẫn ăn. Mùi bánh mì và súp bắp cải làm Digan run lên. Gã vứt một mảnh băng xuống ngưỡng cửa và cất giọng khàn khàn hỏi:
- Ra hai bác nói chuyện về tôi đấy à?
- Có lẽ thế. Sao? - Opsey đặt cái thìa xuống. - Thế là sáu tháng nay mày ăn bánh mì nhà tao. Nhưng mày là ai? Có ma quỷ biết... Có nhiều thằng chẳng có tên tuổi gì như mày lảng vảng quanh hết nhà này đến nhà khác.
- Tôi mà không có tên tuổi gì à? Thế tôi đã ăn cắp gì của bác? - Digan hỏi.
- Hiện nay tao chưa biết gì hết.
- Chưa biết gì hết! Thì chính thế.
- Có lẽ mày cứ ăn cắp lại hơn. Tại sao hai con cừu của tao chết? Tại sao bò cái của tao lại đờ đẫn, sữa lại thối không thể uống được? Tại sao? - Opsey lại gần đầu bàn, đấm xuống bàn. - Tại sao đàn bà nhà tao đau bụng suốt vụ thu? Tại sao? Tại gặp phải vía xấu! Tại cái con mắt đen ngòm của mày cứ trợn trừng trợn trạc!
- Bác Opsey, bác đừng có làm ồn lên, - Digan nói, giọng mệt mỏi. - Bác là một nông dân tinh khôn kia mà.
- Konxtantin, chú nghe thấy chưa? Nó lại còn mắng tao nữa kia chứ. Tao làm ồn lên à! - Opsey đứng dậy khỏi bàn ăn, cọ quậy mấy ngón tay, gập lại, nắm chặt quả đấm.
Digan không thể cãi được, - hai anh em hắn khỏe mạnh, béo tốt. Gã khôn hồn đứng lên.
- Tôi thấy tôi có nai lưng ra làm thế nào bác cũng nói được... Tôi làm cật lực cho nhà bác, bác Opsey ạ, xin cảm ơn... (Gã chào). Bác cứ việc nghĩ xấu về tôi, tôi cũng chẳng cần. Nhưng bác trả tôi tiền công...
- Tiền công nào? - Opsey quay mặt về phía em trai, về phía bà lão đương nhìn cuộc đấu khẩu bằng con mắt đờ đần như chết. - Nó có đưa mình giữ giúp của cải gì không? Hay là tao vay mượn gì nó?
- Bác Opsey ạ, cần phải biết sợ Chúa. Mỗi tháng nửa rúp, của tôi thế là hai rúp rưỡi...
Thế là Opsey nhảy một bước đến gần Digan, giận dữ điên cuồng quát to:
- Tao phải trả công mày à? Mày có muốn sống mà ra khỏi đây không? Bọn đồ đĩ, mày thử tự soát lại con người mày xem?
Hắn nắm lấy cổ Digan, hét lên một tiếng man rợ mà đấm vào mang tai gã: nếu Digan không cúi xuống thì hẳn là phải chết vì quả đấm sau, Konxtantin nắm lấy đôi vai run run của anh giữ lại. Digan loạng choạng bước ra. Konxtantin chạy theo, đẩy một cái vào lưng gã tống gã ra khỏi nhà. Digan giương con mắt độc nhất lên nhìn mãi cái cổng: gã những muốn đốt phăng nó đi...
“Cứ đợi đấy, cứ đợi đấy”, gã nói, giọng ghê gớm. Gã sờ lên má thấy có máu.
Nhiều người đi qua; họ quay mặt lại cười, Digan ngẩng thật cao đầu, nện ủng xuống đất, đi thẳng về phía trước mặt.

Chương 70

- Đi, đi thúc lên, lấy khuỷu tay mà huých...
- Những người này chạy đi đâu thế?
- Đi xem một người bị thiêu...
- Một vụ hành hình à?
- Cố nhiên không phải hắn muốn...
- Có những người tự thiêu đấy.
- Những người đó là vì đạo, đó là bọn giáo phái ly khai...
- Thế còn người này sao lại bị thiêu?
- Hắn là người Đức...
- Ơn Chúa, cuối cùng đến lượt chúng nó...
- Cũng chẳng sớm gì cho cam! Cái bọn hút thuốc lá chết tiệt ấy? Chúng phát phì béo quay nhờ mồ hôi chúng ta đấy.
- Trông kìa, đã bốc khói rồi.
Digan cũng đi về phía bờ sông nơi đông đảo dân chúng ở xloboda đứng chen chúc nhau trên những đống tro. Từ nãy gã đã chú ý đến hai người, hai tên du đãng cũng như gã. Gã cố tìm cách đứng gần họ: chưa biết chừng may ra vớ được cái gì bỏ vào miệng. Rõ ràng là hai người này đã từng bị thẩm vấn, tra tấn. Một người mặt rỗ, má quấn mảnh vải để che vết thích ấn, tên là Yuda. Người kia gù gập lưng xuống chống đôi nạng ngắn nhưng đi rất nhanh, vểnh cao chòm râu cằm, cặp mắt tươi tỉnh. Trên tấm áo bằng len thô, y khoác một cái chiếu gai. Tên y là Opdokim. Digan rất thích y. Và Opdokim đã sớm để ý đến gã da ngăm ngăm đen, chột mắt, mồm sưng vếu, đứng sát vào họ. Y tì nạng nghểnh lên, khẽ bảo:
- Này chú mình, chú mình sán lại gần bọn tớ chẳng ăn thua gì đâu. Chính chúng tớ cũng là kẻ cắp đây.
Yuda mím môi, nói qua kẽ răng sang một bên:
- Có một thằng cha mật vụ đứng sát thế này, chúng tớ đã dìm nó xuống một hố nước đấy.
“A, Digan tự nghĩ, ra họ là những tay anh chị cả...”. Và gã càng thích đi theo họ...
- Cái chết đáng nguyền rủa lại không ưa tớ, - gã nói, hàng lông mi bám đầy sương giá chớp chớp. - Thế là đành phải sống vậy, chứ sao... Các cậu nên để tớ nhập bọn với... Đông người, càng dễ làm ăn!
Yuda vẫn rít răng nói với Opdokim:
- Nó là một tên “hắc nhỡn” phải không?
- Không phải, không phải, chắc chắn thế, - gã kia trả lời, giọng ngân nga. Rồi y ngoái cổ ngước nhìn từ dưới lên trên, nhìn thẳng vào con mắt độc nhất của Digan. Họ không nói gì nữa.
Phía dưới, trên mặt băng, bọn xtreletz lạnh cóng, giậm chân đi giầy và vỗ tay đeo bao cho ấm. Họ đứng quanh giàn củi cao ngất. Cạnh đó dựng cái giá nhục hình để hành tội nơi công chúng. Một đám khói trắng bốc lên từ đống lửa người ta đương nung ấn thích. Đám đông đợi đã lâu, lạnh cóng.
- Bọn họ kia kìa, bọn họ kia kìa... Chen vào, huých mạnh khuỷu tay vào?
Ở phía thành phố, hiện ra những long kỵ binh: Họ thúc ngựa đi trên mặt sông đóng băng.
Theo sau là một xe trượt tuyết thường có một người Đức và một cô gái đội chiếc mũ đàn ông, ngồi quay lưng về phía ngựa.
Rồi đến một vị đại thần, nhiều tên dapife và một viên lục sự, tất cả đều cưỡi ngựa.
Sau nữa đến một xe trượt tuyết lớn bằng da đen có mui.
Quân xtreletz dẹp ra cho đoàn người đi. Viên lục sự nhảy xuống đất. Cái xe trượt tuyết có mui lại gần, rẽ sang một bên, nhưng không thấy có ai xuống. Mọi người đều nhìn chiếc xe: một tiếng rì rầm ngạc nhiên lan trong đám đông.
Từ sau giàn củi, Emelian Xvezev hiện ra, đội mũ đỏ vai vác roi. Thủ hạ của y nắm lấy cô gái ngồi trong xe trượt tuyết và đá túi bụi cô gái về phía giá nhục hình; chúng lột chiếc áo bông tồi tàn của cô ra, bắt cô ôm lấy chiếc cột rồi trói tay cô vào đó. Viên lục sự đọc to một tờ giấy bằng da thuộc mở rộng lủng lẳng những con dấu xi. Nhưng trời rét như cắt ruột nên nghe không rõ. Người ta chỉ biết cô gái tên là Maska Xelifontova và người Đức là Kunkin gì đó hoặc đại khái như vậy. Đôi vai nhô cao và cái gáy hói của hắn nhô ra khỏi xe.
Bộ mặt ngựa của Emelian thản nhiên nhếch mép. Y thong thả lại gần cột, cầm lấy cái roi. Chỉ nghe đánh vút một cái rồi thấy ngay một lằn đỏ bắt chéo trên lưng trần của cô gái. Cô gái rống lên như lợn. Tên đao phủ chỉ đánh có năm roi và còn nhẹ tay. Họ cởi trói cho cô, kéo cô loạng choạng đến gần đống củi đang cháy và Emelian rút chiếc ấn sắt đỏ trong than hồng ra áp vào má cô: cô kêu thét lên, ngã chúi xuống, dãy dụa. Họ xốc cô lên, mặc áo vào cho cô, đặt cô lên một chiếc xe trượt tuyết. Chiếc xe thong thả lượn đi trên mặt sông Moskva đóng băng, dẫn cô vào nhà tu kín.
Viên lục sự vẫn đọc tờ giấy bằng da thuộc. Giờ đến lượt tên người Đức. Hắn thấp lùn, đẫy đà, bước xuống xe và tự đi về phía giàn củi. Bỗng hắn chắp hai bàn tay run rẩy lại, ngẩng khuôn mặt béo phị gần lấp kín dưới bộ râu đen xồm xoàm và cái tên chó má người Đức ấy lẩm bẩm ấp a ấp úng rồi bất thình lình òa lên khóc nức nở. Họ túm lấy hắn kéo lên giàn củi. Trên đó Emelian lột hết quần áo hắn ra, đẩy hắn ngã sấp xuống, đặt các thứ sách vở tà thuyết lên cái lưng béo tốt đỏ hồng rồi cầm lấy thanh củi cháy ở dưới đưa lên châm lửa đốt. Đạo dụ ghi rõ ràng là phải đem sách vở đốt trên lưng hắn. Từ phía bờ sông (nơi Digan đứng), một gã môi dầy kêu lên:
- Kunkin, sưởi đi cho ấm.
Nhưng mọi người phản đối:
- Câm đi, đồ vô sỉ... Mày đi mà sưởi cho ấm có được không.
Gã bị mắng liền lủi ngay. Từ giàn củi nhóm lửa tứ phía, một đám khói dày đặc bốc lên. Đám xtreletz chống giáo đứng. Tất cả im phăng phắt. Ngọn khói từ từ bốc lên cao.
- Nó sẽ chết ngạt trước vì củi ẩm...
- Người Đức thì người Đức, chứ thiêu sống như vậy ôi lạy Chúa...
- Nó có học, nó viết vào những quyển vở rồi thế đấy!
Qua khung cửa sổ nhỏ của chiếc xe trượt tuyết căng mui - mọi người bây giờ đều thấy rõ - một bộ mặt xám ngoét, trông tưởng như từ một bức tranh liệt thánh cũ bước xuống, nhìn đám khói, nhìn ngọn lửa cháy lem lém trên giàn củi.
- Trông kìa, mắt lão ta quắc lên dễ sợ quá?
- Đâu phải việc một giáo trưởng đi xem những vụ hành hình...
- Đấy, họ đem thiêu người ta chỉ vì tín ngưỡng. Ê, thôi đi, đồ thầy tu tồi.
Chính Opdokim cứ bô bô lên nói như vậy, chẳng sợ gì hết. Tất cả những người đứng gần y đều lảng đi, chỉ còn trơ lại có Yuda và Digan. Nện đôi nạng xuống đất Opdokim nói tiếp:
- Hắn theo tà đạo à? Thế thì đã sao? Hắn tin đạo nào là tùy ý hắn... Cứ cho là hắn không thích theo đạo mình đi nữa... Thì chỉ có vậy mà bị thiêu à? Con người ta đang sống trong đày đọa, nhục hình...
Giàn củi to tướng nổ lép bép, khói lửa cuồn cuộn bốc lên như hình chiếc phễu. Có người nói trông qua đám lửa thấy tên người Đức vẫn còn cựa quậy. Chiếc xe trượt tuyết căng mui chạy nước kiệu bỏ đi. Đám đông từ từ giải tán. Yuda nhắc:
- Ta đi thôi, Opdokim.
- Không, không, các cậu ạ... - Cặp mắt y cười, nhưng khuôn mặt y đỏ bừng bừng, sạch bong như mới ở buồng tắm ra, lại khóc, chòm râu dê rung rung. - Tìm sự thật làm gì vô ích... Bọn thầy tu và bọn cầm đầu chúng ta toàn là đồ đi hành tội, túi đầy vàng rủng rỉnh, bọn chúng đều khoác những chiếc áo chầu của thói tàn bạo. Hãy trốn đi thôi, các trẻ em, các người bị tra tấn, những kẻ bị thích ấn, bị hành tội, hãy mau mau trốn vào rừng sâu.
Mãi một lúc sau họ mới kéo nổi Opdokim đi, - cả ba chuồn vào một ngõ hẻm và bước vào một quán rượu.

Chương 71

Cuối cùng, Digan cầm lấy cái thìa, - bàn tay gã run run đưa lên miệng nước súp bắp cải nấu suông rớt xuống mẩu bánh. Gã rất lo họ không dẫn gã vào quán rượu và khi đi đường gã đã than thở về cuộc đời mình, đưa bao tay lên lau mắt. Opdokim nín lặng, chống nạng chạy nhanh như một con gián. Đến cửa quán, bỗng nhiên y hỏi:
- Cậu có biết ăn cắp không?
- Có bọn thì tớ sẵn sàng vác một quả chùy đi vào rừng...
- Ồ ồ, can trường đấy...
- Cậu cho bọn tớ là hạng người thế nào? - Yuda hỏi. Digan chột dạ: “Họ định bỏ rơi mình chắc”. Gã rầu rầu nhìn cái cổng đổ nát, đống tuyết phủ váng nước rửa bát đã đóng băng ở ngoài sân, cánh cửa quán đệm chiếu, mùi thức ăn lọt ra làm gã chóng cả mặt. Gã khẽ nói:
- Các cậu là những người hoàn toàn công bằng... Ăn cắp là vì đói khổ, chứ đâu phải lỗi tại các cậu... Ngày nay có đến nửa số dân chúng trốn vào rừng... Các cậu đừng đuổi tớ, cho tớ cái gì ăn...
- Có lúc bọn tớ cũng thương người, ông bạn ạ, nhưng cũng có lúc bọn tớ rất tàn nhẫn, Opdokim nói - Coi chừng đấy! - Và y cầm đôi nạng sang tay trái dọa - Cậu đã bám lấy chúng tớ, giờ thì đừng có lùi.
- Yuda, có vớ được gì không?
Yuda rút trong bọc ra một cái túi dốc vào lòng bàn tay một đống xu đồng. Cả ba cùng đếm số tiền ăn cắp được. Opdokim vui vẻ nói:
- Giống chim chẳng gặt mà cũng chẳng gieo, chính Chúa cấp mồi cho nó. Bọn tớ chẳng đòi hỏi gì nhiều, chỉ cần vừa đủ ăn thôi... Cậu chột, vào đây với chúng tớ!
Ba người ngồi vào góc trong cùng chỉ còn lờ mờ ánh ngọn nến mỡ bò gắn trên quầy. Có nhiều khách, - vài ba người ngà ngà say cởi khuy áo lông cừu ướt đẫm mồ hôi, đang làm ầm ỹ, một số khác ngủ lăn ra trên các ghế dài. Opdokim gọi nửa chai vodka và một liễn súp bắp cải. Khi hầu bàn đã mang các thứ lại, Opdokim gõ thìa:
- Cậu chột, ăn đi, lộc Chúa đấy! - Y tu một ngụm rượu ở chai. Y nhai nhỏ nhẻ như thỏ. Cặp mắt y long lanh, vui vẻ. - Tớ sẽ kể hai cậu nghe một chuyện ngụ ngôn... Thế nào các cậu có nghe không? Ngày xưa có hai anh chàng, một vui và một buồn. Anh vui nghèo; bọn quý tộc bọn thầy cò và bọn quan tòa đã lấy mất hết của cải của anh ta. Họ làm tình làm tội anh vì những chuyện không đâu, họ bắt anh chịu điếu hình (1) thành ra anh ta gãy lưng, đi gập người lại làm đôi... Thế nhé... Còn anh buồn là con một vị quý tộc giàu nhưng bủn xỉn. Các nông nô bị hắn để đói mèm bỏ trốn cả. Sân nhà hắn cỏ mọc đầy. Suốt ngày hắn ngồi một mình trên cái hòm đựng đầy vàng bạc. Cả hai sống như vậy. Anh vui chẳng có gì: anh lấy giọt sương rửa mặt và nhìn vào một gốc cây mà làm dấu. Đói thì anh ăn trộm hoặc ăn xin nhân danh Chúa. Người nghèo bao giờ cũng bố thí vì họ hiểu thế nào là đói khổ. Anh vui đi đây đi đó, bông đùa, sống lần hồi qua ngày. Anh buồn đầu óc chỉ luẩn quẩn mỗi một điều: làm thế nào để khỏi mất tiền. Các cậu ạ hắn còn sợ một điều nữa là sợ chết. Hắn cúng vào Nhà thờ những cây nến nặng một pud và đồ trang trí cho các tranh liệt thánh: lúc nào hắn cũng cầu mong Chúa lùi cái giờ chót của hắn lại. - Opdokim cười, dụi chòm râu vào bàn. Y giơ cánh tay dài nghêu ra cầm thìa, múc súp nhai như thỏ và nói tiếp: - Thì chính cái anh giàu ấy đã hành hạ anh vui, làm anh ta phải đi ăn xin... Một đêm, anh vui lẻn vào nhà hắn để ăn trộm. Anh ta đem theo một cái dùi cui. Anh ta lần mò qua các gian buồng, cuối cùng anh trông thấy anh giàu ngủ trên một chiếc ghế dài. Dưới ghế để cái hòm. Anh vui không nhìn thấy cái hòm, liền túm tóc anh giàu bảo: Xưa kia mày tước đoạt của tao, bây giờ mày phải đưa tao cái gì cho tao khỏi chết đói. Anh giàu sợ chết, nhưng đồng thời lại không muốn mất tiền. Hắn nói: tôi không có tiền, tôi không có. Anh vui liền cầm dùi cui nện anh giàu vào mạng sườn, vào mồm... - Yuda khoái trá nhe răng cười ngất. - Anh ta cứ đánh mãi cho đến lúc chính anh ta cũng phải buồn cười... - Thôi được rồi, anh ta bảo, đêm khác tao lại đến mày cứ để sẵn một mũ đầy tiền đấy cho tao. Anh giàu chẳng ngu gì, liền làm đơn thưa lên Sa hoàng. Sa hoàng cho lính đến gác. Nhưng anh nông dân vui rất khôn khéo. Anh ta đánh lừa lính gác, lẻn vào buồng anh giàu và túm lấy tóc hắn: mày để sẵn tiền ra chưa? Anh giàu run lập cập thề sống thề chết: tôi không có tiền, tôi không có. Thế là anh vui lại lấy dùi cui nện, anh giàu suýt bỏ mạng. Được rồi, anh vui bảo, tao lại đến một đêm thứ ba nữa; lần này mày phải để sẵn một hòm đầy tiền cho tao...
- Thế là công bằng, - Digan nói.
- Anh ta đã đánh hắn rồi, - Yuda cười nói.
- Thế nhé... Lần này, Sa hoàng cho cả một trung đoàn đến gác quanh nhà anh giàu... Làm thế nào? - Nhưng anh nông dân vui láu cá... Anh giả trang làm lính xtreletz, đến nhà anh giàu bảo: “Này anh em lính gác, anh em canh cổng cho ai thế”. Bọn kia đáp: “Cho một người nhà giàu, theo lệnh Sa hoàng” - “Anh em canh thế này được trả lương hậu chứ?”. Bọn kia nín lặng - “Thế thì anh em ngốc lắm, - anh nông dân nghèo nói - anh em đi canh của không công cho kẻ khác, tên nhà giàu sẽ chết trên đống của như con chó, anh em sẽ chẳng được gì, anh em sẽ xỉ mũi ra mà ăn, có thế thôi”. Anh ta khích động bọn lính khéo đến nỗi họ bẻ khóa kho rượu và tầng hầm để đánh chén. Say rồi, lòng thù oán tự nhiên đến với họ. Đêm tối họ phá cửa vào. Họ trông thấy gì? Anh nhà giàu bị đánh nhừ tử, mình bê bết nhơ bẩn, run cầm cập trên cái hòm. Lúc ấy anh chàng tinh khôn mới túm lấy tóc hắn: “Tao hỏi mày món nợ của tao, mày đã chẳng chịu đưa tao tí gì, - anh nói, - giờ thì mày phải đưa tao hết”. Rồi anh ta quẳng gã nhà giàu cho bọn lính xé xác, thu lấy số của cải đủ sống rồi lòng nhẹ lâng lâng ra đi.
Nhiều người đến ngồi vào bàn Opdokim đương kể chuyện. Họ nghe coi bộ đồng tình. Một người trong bọn họ say rượu hoặc có lê không còn tỉnh táo nữa, khóc nức nở, dang hai tay ôm lấy cái đầu hói. Khi mọi người để cho y nói, y nói nhanh đến nỗi phì cả nước bọt ra tứ phía: không tài nào hiểu nổi y nói gì... Mọi người phá ra cười.
- Kuzma đã từng đi lại với bọn quý tộc. Chẳng biết bọn chúng tuồn cho hắn cái món thông minh gì đằng cửa hậu thế.
Người ta gạt bấc ngọn nến trên quầy để nhìn cho rõ hơn và cười cho thỏa thích hơn. Bộ mặt phèn phẹt điểm chòm râu rối của anh chàng Kuzma này sưng húp; rõ ràng là y uống rượu say liên miên. Trên người y chỉ có mỗi một chiếc quần chẽn ống tồi tàn và một chiếc sơ-mi rách bươm không có thắt lưng.
- Hắn uống đến cả cây thập tự rửa tội cho hắn.
- Hắn la cà ở đây từ một tuần nay.
- Cậu bảo hắn còn đi đâu được, chân đất mà trời thì rét thế này?
Kuzma hai tay túm lấy quần, gào lên.
- Cái khổ của tớ là cái khổ của toàn dân? Các cậu hãy xem đây! Thằng quý tộc Troekurov đã nhúng tay vào! - Y cởi phăng ngay quần ra, chìa cho mọi người xem đôi mông sưng vù chi chít những sẹo xanh và vết tím bầm. Mọi người cười phá lên. Cả bác chủ quán cùng lấy ngón tay gạt bấc ngọn nến và cúi xuống trên quầy. Kuzma kéo quần lên.
- Các cậu có biết anh thợ rèn Kuzma Zemov mở lò gần nhà thờ đức Thánh bà Barber tử vì đạo không? Tớ làm ở đấy mười lăm năm... Anh thợ rèn Zemov! Chưa có một thằng trộm nào mở nổi những khóa tớ làm. Liềm của tớ đem bán tận Ryazan. Cái liềm này ai làm? Zemov. Đạn bắn cũng không xuyên thủng được những áo giáp do tay tớ rèn. Ai đóng móng ngựa? Ai nhổ răng cho các bà phụ nữ và bọn đàn ông? Zemov! Các cậu đã biết những chuyện ấy chưa?
- Biết rồi, biết rồi, - mọi người vừa kêu lên vừa cười. - Kể tiếp đi...
- Nhưng có điều này các cậu chưa biết, là Zemov đêm không ngủ - Y giơ hai tay ôm lấy cái đầu hói. - Zemov đầu óc rất táo bạo. Giá ở nước khác thì tớ đã nên danh nên giá rồi... Nhưng ở đây thì cái thông minh của tớ cũng chỉ đến dùng để nuôi lợn thôi... A, rồi các cậu sẽ nhớ đến tớ! - Y nắm quả đấm to sù vung lên hăm dọa về phía khuôn cửa sổ nước chảy ròng ròng, có bốn miếng kính nhỏ, bên ngoài là đêm đông mịt mùng. - Gai góc sẽ phủ kín mộ các cậu... Nhưng người ta sẽ tưởng nhớ đến Zemov...
- Khoan đã, Kuzma, cậu hãy kể cho chúng tớ biết tại sao tụi nó đánh cậu? Kể đi, không ai cười nữa đâu...
Kuzma ngạc nhiên dường như đến bây giờ y mới trông thấy mọi người, y ngắm nhìn các bộ mặt xúm lại sát quanh y: những cái mũi bóng loáng, những bộ râu xồm xoàm, những cái mồm há hốc chỉ chực cười rộ lên, hàng chục con mắt hau háu xem làm trò. Mọi vật chung quanh y có vẻ như lềnh bềnh, lẫn lộn.
- Nhưng các cậu ạ. Với điều kiện là các cậu không được cười. Tớ đau lòng lắm, các cậu ạ...
Y lục trong túi thuốc lá mãi mới moi ra được một mảnh giấy gấp lại. Y trải tờ giấy lên bàn, lấy móng tay giữ mảnh giấy có vẽ hai cái cánh giống như cánh dơi với nhiều vòng và đòn bẩy. Đôi má sưng vù của Kuzma phồng lên.
- Đây là một cái máy cừ khôi và tuyệt diệu, - y kiêu hãnh nói. - Cánh bằng mica, mỗi cái dài ba arsin, rộng một arsin mười hai versok. Nó đập như cánh dơi nhờ các đòn bẩy, chỉ cần đập chân và vẫy tay nữa... - Y nói giọng tin tưởng - Người ta có thể bay được! Tớ sẽ trốn sang Anh. Ở đấy tớ sẽ làm những cái cánh này. Tớ sẽ nhảy từ một gác chuông xuống, chẳng sao cả. Người ta sẽ bay như sếu! - Y lại phát khùng hăm dọa khuôn cửa sổ nhỏ ẩm ướt. - Cái thằng đại thần Troekurov lầm rồi. Chúa làm cho loài người thành con sâu bò trên mặt đất. Còn tớ, tớ sẽ dạy cho người ta cách bay lên không (2).
Opdokim thò tay ra khẽ vỗ vai y:
- Cậu ơi, cậu phải kể có đầu có đuôi chứ. Người ta hại cậu như thế nào?
Kuzma cau mặt, thở ra đằng mũi:
- Tớ làm cánh nặng quá, tớ tính lầm mất một tí... Tớ nghèo... Đôi cánh nhỏ quá, làm bằng bất cứ thứ gì, bằng ván mỏng, bằng da. Trong sân nhả tớ, tớ nhảy từ trên nóc nhà xuống, ngược chiều gió. Đôi cánh đưa tớ đi xa được năm mươi bước. Và thế là tớ bốc đồng. Họ mách tớ cách làm. Tớ liền tìm đến Bộ Cấm binh, kêu cứu ầm lên. Họ bắt bớ và cố nhiên là định choảng tớ. Tớ mới bảo họ rằng: đừng, đừng đánh tôi, cứ đưa tôi lên quan, tôi có việc quốc sự cần trình ngài. Họ dẫn tớ đi. Cái thằng ác quỷ Troekurov đương ngồi, mặt mũi khó đăm đăm đến kem cũng phải chua. Tớ bảo nó: Con có thể bay như sếu được, xin ngài cho con hai mươi lăm rúp, ít mica và sáu tuần nữa con sẽ bay lên không! Nó không tin. Tớ bảo nó: “Xin ngài cử một viên lục sự đến nhà con, con sẽ cho xem đôi cánh nhỏ của con. Nhưng dùng đôi cánh nhỏ đó mà bay trước mặt hoàng thượng thì bất kính”. Thằng đại thần không biết làm thế nào, nó do dự, nhưng nó không sao tống khứ được tớ đi - là vì mọi người đều đã nghe thấy tiếng tớ kêu cứu. Nó chửi tớ, túm tóc tớ, bắt tớ hôn Kinh Phúc âm, thề rằng tớ sẽ không lừa nó. Nó cho tớ mười tám rúp. Và tớ làm xong đôi cánh trước ngày tớ hẹn. Đôi cánh nặng quá. Đến đây, tại quán rượu này, tớ mới nghĩ ra. Tớ say, nhưng tớ đã hiểu! Mica chẳng được cái tích sự gì, phải có giấy bằng da thuộc căng trên một khung gỗ! Tớ mang đôi cánh đến điện Kreml để thử... Nhưng tớ đã không bay được, tớ bị ngã vỡ mặt... Tớ bảo thằng Troekurov: chuyến bay thử không thành công, xin ngài cấp thêm năm rúp nữa thì con sẽ bay được nếu không xin cứ chặt cổ con đi. Thằng đại thần không muốn nghe nữa. Nó thét lên: quân kẻ cướp! quân lừa đảo! quân tà đạo! Mày đòi khôn hơn Chúa à? Thế là nó sai nện tớ hai trăm gậy trước mặt nó. Các anh em, tớ phải ăn hai trăm gậy, tớ chỉ nghiến răng chịu. Và có lệnh bắt tớ hoàn lại số tiền mười tám rúp đã chót tiêu mất. Chúng đem bán cái lò rèn, đồ nghề và túp nhà của tớ. Bây giờ trần như nhộng thế này thì tớ làm gì được? Trừ phi vác một quả chùy mà vào rừng?
- Giờ cũng chỉ còn có nước ấy thôi, tội nghiệp cho cậu. - Opdokim nói tuy khẽ nhưng rành rọt. Kuzma Zemov liền nhập bọn với Opdokim. Họ ra chợ giời sắm cho y một đôi ủng dạ và một chiếc áo nẹp tồi tàn. Từ đó, cả bốn lang thang khắp Moskva, lảng vảng tại các chợ, chung quanh các nhà tắm công cộng, trong các ngõ hẻm ở khu Kitaigorod. Yuda móc túi. Họ dạy Digan cách đảo con mắt độc nhất thế nào cho lồi hẳn ra ngoài trông rất ghê sợ và ăn xin một cách thảm thiết. Opdokim quàng một chiếc thừng vào cổ Kuzma kéo đi như một thằng rồ, một gã động kinh: “Các ông, các bà hãy rủ lòng thương người điên mà bố thí cho hắn, tránh ra, tránh ra, các ông các bà, hắn có thể chồm vào người đấy...”. Hết ngày, bốn anh chàng kiếm được cũng đủ ăn và thỉnh thoảng còn có tiền mua một chai vodka. Nhưng họ rất vất vả và lo ngay ngáy vì chiểu theo một đạo dụ của Sa hoàng, người ta đang lùng bắt bọn đồng nghiệp của họ điệu về Bộ Hình.
Tuần chay vừa hết. Mặt trời mùa xuân lên ngày càng cao bên trên Moskva. Nơi nào nắng to thì nước nhỏ giọt từ các mái nhà xuống, tuyết tan, một mùi hôi thối lộn mửa tỏa ra. Tuyết lẫn với phân chẳng còn kêu lạo xạo dưới xe trượt nữa. Một tối, Opdokim tuyên bố trong quán rượu:
- Này các cậu, giờ chưa phải lúc đi sao? Ta chẳng có gì phải tiếc rẻ ở đây hết... Đợi khi nào đất khô là ta ra đi tới nơi thoáng đãng.
Yuda muốn bàn:
- Ta còn ít người quá, lại không có khí giới, vào rừng chết đói mất...
- Thế thì trước khi ra đi chuyến này, - Opdokim nói, - ta sẽ làm một mẻ lớn.
Ba gã kia sợ hãi nhìn y.
- Ta sẽ có mọi thứ cần dùng. Thêm một tội nữa cũng chẳng làm chúng ta đau khổ hơn đâu. Nếu đau khổ hơn thì quả thật chẳng có công bằng gì hết, dù là trong Kinh Thánh đi nữa. Anh em đừng ngại, tớ chịu trách nhiệm cả.
--------------
 Chú thích:
(1) Cực hình trói quặt tay ra sau lưng treo lên cao rồi thả cho rơi tõm xuống gần đất.
(2) Thời kỳ tả ở đây là vào năm 1694, ở Moskva. (Ghi chú của tác giả).

Chương 72

Câu chuyện bắt đầu vào mùa xuân: mèo thì cười, chuột thì khóc... Hai ông vua khai chiến với nhau: vua Ba Lan và vua đô thành Prexburg. Các trung đoàn cận vệ trẻ, trung đoàn Butyrski và trung đoàn Lơfo được cử đến giúp vua thành Prexburg. Vua Ba Lan nhận được các đơn vị xtreletz mạnh nhất, các trung đoàn xtreletz: Xukharev, Txykle Kropkov, Netsaev, Durov, Normatski và Ryazanov. Fedor Yurevich Romodanovski, biệt danh là Fridiriquyx, được phong làm vua thành Prexburg. Vua Ba Lan Ivan Ivanovich Buturlin rượu chè, xấu miệng và hay ăn hối lộ, nhưng rất thạo món ăn chơi quấy phá. Thủ đô quy định cho nhà vua là Nhà chim ưng ở quảng trường Xemionovski.
Mới đầu người ta tưởng đó là những trò du hí thường lệ của vua Piotr. Nhưng ngày nào nhà vua cũng ban hành những đạo dụ, đạo nào cũng đáng lo ngại. Bọn quý tộc, bọn đại thần của triều đình và các quan thị vệ được đem chia cho hai ông vua, kèm theo bằng sắc chứng thực. Vua Piotr bắt đầu chơi đùa một cách khiếm nhã.
Nhiều vị đại thần lấy làm uất ức: trong biên niên sử chưa bao giờ có ghi chuyện đó - đem các bằng sắc ra mà đùa nghịch! Họ tìm đến bái yết Natalia Kirilovna và dùng lời lẽ thận trọng phàn nàn về con trai của thái hậu. Thái hậu dang hai cánh tay mập mạp ra, chẳng hiểu chuyện gì. Lev Kirilovich nói dỗi:
- Chúng tôi làm thế nào được. Chúng tôi nhận được dụ đóng đủ ấn tín của hoàng thượng. Các vị cứ việc tự tìm đến bái yết Người, xin Người hủy bỏ đạo dụ đi.
Họ không dám đến chỗ vua Piotr. Họ cho rằng bằng cách này hay cách khác rồi ra mọi việc cũng sẽ thu xếp ổn thỏa. Nhưng với vua Piotr mọi việc lại không được thu xếp ổn thỏa.
Bất chợt quân lính ập vào nhà một số vị đại thần, buộc họ phải bận triều phục vào và đưa đi Preobrazenskoe để làm tròn nghĩa vụ những đình thần giúp vui.
Vị vương hầu già Primkov Rostovski đã vì vậy mà bị liệt cẳng. Có vài người định cáo ốm nhưng cũng chẳng được. Mà trốn đi đâu cho được. Thế là đành phải tuân lệnh, đi chuốc lấy cái nhục nhã.
Ở Prexburg, - từ xa đã trông thấy những tháp bát giác dựng bằng gỗ để cả cây, những bờ dốc cỏ mọc trên đặt những cỗ pháo, chung quanh căng nhiều lều trắng - có đủ thứ làm một người Nga có thể phát điên lên được. Tưởng chừng như một cơn ác mộng vô lý; đây chẳng còn là một trò du hí nữa; mọi việc xảy ra như thật. Trong một cái lều sặc sỡ, vua Fridriquyx ngả mình trên một chiếc ngai thếp vàng, trên có long đình màu quả dâu: đầu đội mũ miện bằng đồng; áo nẹp xa tanh trắng thêu đầy sao, ngoài phủ một chiếc áo lót lông thỏ rừng; đôi ủng to mang bộ đinh thúc ngựa kêu cồm cộp; miệng ngậm tẩu. Vua quắc mắt không đùa. Nhìn kỹ thì đúng là Fedor Yurievich. Nhổ nước bọt ư? Cấm. Zinoviev, một vị quý tộc ở Duma, phát chán, - nhổ một bãi - ngay hôm đó ông ta liền bị lột hết chức tước; vứt lên trên một chiếc xe ngựa nông dân và đem đi đày. Natalia Kirilovna phải thân hành đến Preobrazenskoe để xin tha cho ông, người ta mới gọi ông về.
Còn Sa hoàng Piotr, - thật chỉ còn biết dang hai tay ra mà chịu nhà vua thôi - nhà vua chỉ bận mỗi chiếc áo nẹp của lính, chẳng có cấp bậc gì hết. Khi lại gần ngai Fridriquyx, vua Piotr cũng xuống gối và nếu có xảy ra việc gì, ông vua quỷ quái này liền chửi mắng Sa hoàng như một gã lê dân vậy. Các vị quý tộc và đại thần của Triều đình thẹn đỏ mặt, ngồi trong Duma của những kẻ làm trò vui mà nghênh tiếp các sứ thần, phê chuẩn các đạo dụ của Prexburg. Đêm đến mọi người tiệc tùng say khướt ở tòa lâu đài của Lơfo, tại đây còn có một ông vua thứ hai, vua về ban đêm, vô đạo, chỉ nhìn cũng đủ thấy xấu hổ là gã nông dân Nikita Zotov, đại vương - trùm đạo của bọn rồ ở Kukui.
Ngoài ra chắc là để cho được hoàn toàn sa đọa, do sự xúi giục của bọn ngoại quốc chết tiệt, người ta lấy ở các Bộ ở Moskva một nghìn thơ lại trong số ít tuổi nhất, cấp cho khí giới, bắt cưỡi ngựa và thẳng tay dạy họ nghề quân sự. Fridriquyx tuyên bố tại viện Duma:
- Rồi ai nấy cũng sẽ phải làm như vậy tuốt... Có thể chúng mới không như con gián rúc trong khe nữa. Ở ta, mọi người đều sẽ phải nếm món súp lính.
Nghe câu đó, Sa hoàng Piotr đang đứng canh cửa (có mặt ông vua, Sa hoàng Piotr không dám ngồi) phá lên cười. Fridriquyx nổi nóng dọa vua Piotr, giậm chân, đinh thúc ngựa kêu choang choang, - Sa hoàng phải ngậm miệng... lẽ ra các vị đại thần phải khóc lên và vừa cầu nguyện vừa nhắc đến hết thảy mọi tội lỗi của mình và cùng nhau phủ phục xuống chân Sa hoàng mà van nài: “Xin hoàng thượng hãy chặt cổ các thần đi, bắt các thần chịu cực hình, nổi giận lôi đình, nếu hoàng thượng không thể bỏ được các trò du hí ấy. Nhưng hoàng thượng là thái tử của các đức hoàng đế trị vì Byzanxơ, hoàng thượng sẽ đưa nước Nga xuống vực thẳm nào đây? Phải chăng bóng dáng Quỷ vương đứng ở đằng sau Người?”
Nhưng không, họ không đủ can đảm, họ chẳng dám nói gì hết.
Vua Ba Lan Vanka Buturlin cũng có một triều đình như vậy ở quảng trường Xemionovski. Nhưng ở đây ít ra thì cũng không cần phải làm hề, công việc lại yên ổn: các vị quý tộc và các quan đại thần của triều đình ngồi trên những chiếc ghế dài kê dọc tường trong Duma của những kẻ làm trò vui, giơ tay áo lên che miệng để ngáp cho đến lúc hoàng hôn nhuộm xanh các khung cửa sổ nhỏ, sau đó họ trở về Moskva ngủ đêm. Ông vua này, một gã Cain, do ác ý muốn chơi khăm, đã định bắt họ phải nói tiếng Ba Lan tuốt, nhưng đã không thắng nổi thái độ bướng bỉnh của đám đại thần; vả chăng chính vua cũng chán không buồn đùa với họ nữa và để mặc họ ngủ gà ngủ gật tùy thích. Mọi người chưa kịp làm quen với những chuyện đó thì lại có tin mới: rừng vừa mới phủ sắc xanh thấp thoáng thì Buturlin đã phái sứ thần sang bên vua Fridriquyx để tuyên chiến; Buturlin dẫn các trung đoàn, các đoàn xe quân lương và đám đại thần tiến về Prexburg. Quân xtreletz bực tức hành quân ra trận, - lúc ấy đương vụ gieo hạt, một ngày là quý, ấy thế mà ma quỷ lại xúi bẩy Sa hoàng bày trò. Có lệnh phải vây thành theo đúng quy tắc, đào công sự, tiến dần lên, phá hoại, xung phong. Trò chơi trở nên khó khăn. Người ta không dè xẻn thuốc súng. Người ta nạp những vò đất vào súng cối bắn nổ như tiếng bom.
Từ trên lũy của tòa thành quân bị bao vây trút bùn, nước hòa phân súc vật xuống đầu quân đi bao vây; họ dùng những cây sào buộc bùi nhùi vào đầu đốt lên để đánh lại. Hai bên vác gươm cùn choảng nhau, đốt cháy mặt nhau, chọc mù mắt nhau, nện gãy xương nhau. Thiệt hại chẳng kém gì một trận giao tranh thật sự. Và cứ thế kéo dài hàng tuần, suốt mùa xuân.
Trong những lúc ngừng chiến, hai ông vua lại tiệc tùng linh đình với Sa hoàng Piotr và các sủng thần của Sa hoàng.
Mùa hạ trôi qua, Buturlin không chiếm nổi Prexburg bèn lui quân ba mươi dặm vào rừng đóng trại. Đến lượt Fridriquyx tiến quân đánh lại. Bọn xtreletz phát khùng vì cái cảnh đó, đâm ra đánh nhau thật. Đã có hàng chục người chết. Một vò đất từ súng cối bắn ra trúng đầu tướng Gordon làm ông ta suýt chết. Vua Piotr bị cháy xém cả mặt mày: nhà vua phải dán thuốc cao đầy mình. Một nửa quân số ỉa tháo tỏng ra máu. Mãi đến khi đốt hết thuốc súng, gãy hết khí giới, quân phục của lính tráng và quân xtreletz rách bươm, Lev Kirilovich cầm thư của vị thái hậu tuổi tác tìm đến nơi hạ trại và khóc lóc xin đừng đòi cấp thêm tiền nữa vì Ngân khố đã sạch nhẵn từ lâu, - bấy giờ Sa hoàng Piotr mới thôi và các ông vua mới ban lệnh cho quân rút về các xloboda.
Dân chúng xôn xao bàn tán về cái chiến dịch trò đùa đó:
- Chẳng lẽ lại tiêu phí ngần ấy tiền của chỉ để mua vui. Hẳn là phải có mưu đồ ngấm ngầm gì đây. Vua Piotr còn ít tuổi, khờ khạo, ai bảo gì cũng nghe. Không khỏi có kẻ muốn làm giàu về sự lụn bại này!

Chương 73

Đời sống khốn khó, chật vật. Thời Sofia tuy vậy cũng còn có chừng mực, chứ bây giờ quan lớn quan bé đều moi ruột móc gan người ta... Xử kiện thì bất công; người ta trắng trợn ăn của đút, hà lạm của công. Nhiều người bỏ vào rừng sinh nhai bằng nghề lạc thảo. Một số trốn tránh cuộc sống chết tiệt ấy, lánh nạn đến các vùng hẻo lánh, vùng sông ngòi miền Bắc, để khỏi phải đổ mồ hôi nuôi béo một đám những quan tổng trấn, lãnh chúa, thơ lại, lý trưởng, thẩm phán của Bộ Hình, toàn một bọn khát máu không biết luật pháp và thương xót là cái gì. Ơ miền Bắc, họ sống ẩn dật không ai biết tới; sông và rừng nuôi họ. Họ đốn cây ở các khu rừng thưa và gieo lúa mạch. Họ đốn ngã những cây thông cổ thụ về dựng những ngôi nhà kiểu thôn ổ, rộng thênh thang, có nhiều cột chống cách xa nhau. Họ vĩnh viễn từ bỏ chốn cũ chỉ mang theo lên nơi heo hút nầy những câu chuyện cổ tích, những bài anh hùng ca dân gian và những điệu hát buồn. Họ tin có thần giữ nhà và thần rừng. Họ tìm đến cầu nguyện ở nhà các cụ già razkonic khắc khổ, các cụ dùng bột và nham lê đỏ làm lễ ban thánh thể cho họ.
“Quỷ vương ngự trị trên thế gian, - các cụ bảo họ, - chỉ riêng những người trốn tránh Sa hoàng và giáo trưởng mới tìm được con đường siêu thoát”.
Nhưng thỉnh thoảng bọn tay sai của Quỷ vương phái đi lùng những kẻ không quy phục và bọn chống đối, sục vào tận các xó xỉnh hẻo lánh, nơi sơn cùng thủy tận này. Thế là các nông dân bèn bỏ cả nhà cửa, gia súc đem vợ con tụ tập trong sân nhà một cụ già hoặc ở nhà thờ và bắn vào quân lính; nếu không có gì để bắn thì họ chửi rủa bọn chúng và không chịu tuân lệnh; để khỏi bị bắt, họ tự thiêu sống trong căn nhà gỗ hoặc trong nhà thờ, kêu thét ầm ĩ và gào to các bài thánh ca.
Những kẻ vô tâm, trốn tránh cảnh nghèo đói và áp bức để vào rừng sinh sống bằng cướp bóc, dần dần đi tới các vùng sông Volga và sông Đông ấm áp, phì nhiêu. Nhưng ở đấy vẫn còn mùi vẻ Nga, các đạo dụ của Sa hoàng vẫn tới được, các giáo sĩ đạo chính thống vẫn hoành hành, và nhiều người tụ tập thành những đội vũ trang bỏ đi xa hơn nữa - đến xứ Dagestan, miền Kabarda, bên kia sông Terek; hoặc giả họ nhập bọn với dân Tarta xứ Krym và trở thành thần dân của vua Thổ Nhĩ Kỳ. Ở các dải đất mênh mông phương Nam, người ta không tin ở vị thần giữ nhà tăm tối, người ta tin hơn vào thanh gươm và một con ngựa tốt. Đất Nga tàn tệ hơn cả chốn ngục thất cực nhục nhất: cấm cười, không hiếu khách, đã hàng ngàn năm nay những đôi ủng gai dẫm lên mảnh đất ấy, lưỡi cày hờn giận cào lên mảnh đất ấy, phủ đầy tro tàn của những làng mạc bị tàn phá, đó đây rải rác những nấm mồ vô chủ, một nước man rợ, bất hạnh.

Chương 74

- Bố ơi, cái gì thế. Họ kéo chuông lạ lắm?
- Sao, họ kéo chuông lạ lắm à?
- Ồ đúng thế bố ạ... Vào giờ này, người ta không hay kéo chuông, mà cái lối kéo chuông này. Bố ơi, có lẽ có tai biến gì đây, ta đi về thôi.
- Khoan đã, ngốc ạ.
Ivan Artemiev Brovkin (mọi người đã quên cái thời gọi lão là Ivaska) đứng trên thềm một ngôi nhà thờ nhỏ rất cổ ở phố Miaxnitskaia. Cái áo lông cừu bọc dạ màu lam mới tinh căng phồng trên mình lão, đôi ủng dạ mới, cái khăn len cũng mới nốt quấn chặt lấy cổ lão khiến lão phải ngửa đầu ra phía sau. Một cơn gió lạnh thấu xương rít lên quất vào mặt. Gió thổi trận mưa đá nhỏ rào rào qua đường phố tối như mực, lấp đầy các ổ gà đã đóng băng. Nhiều người dừng chân trước các cửa hàng nghe ngóng: tất cả các nhà thờ đều đánh chuông, tiếng chuông rời rạc, lủng củng có vẻ như người ta phát khùng đánh bậy đánh bạ.
Xanka Brovkin (cô đương tuổi mười tám), ăn bận lịch sự, xinh đẹp, béo tốt, đúng thì gả chồng, lại giật tay áo bố. Xanka ít khi đến Moskva, mỗi lần đến trống ngực cô lại đập thình thịch: cô vẫn sợ bị chẹt xe.
Hôm ấy, cô đi với bố ra kinh thành để mua lông tơ nhồi nệm cưới. Các bà mối đi lại nhà Brovkin không ngớt, nhưng làm ăn càng khấm khá, Ivan Artemiev càng nhằm cao. Con trai lão là Aliosa đã lên đến cấp đội trưởng pháo thủ và được lòng Sa hoàng. Viên quản lý nhà Volkov đến thảm vợ chồng Brovkin trong ngôi dinh cơ mới, sang trọng của lão. Ivan Artemiev lĩnh canh của nhà Volkov nhiều đồng có và ruộng. Lão còn buôn gỗ nữa. Lão cung cấp gà vịt cho Preobrazenskoe dùng nấu ăn cho Sa hoàng. Cả làng chào lão sát đất vì người nào cũng nợ lão; lão sinh phúc cho một số, còn đối với một số khác thì không: có mười hai nông dân nợ tiền phải đến ở nhà lão làm trừ nợ.
- Thế nào, ta còn đợi gì nữa? - Xanka hỏi.
Lúc đó, giáo sĩ Finka, râu hung hung đỏ, lại gần thềm, (mới mười năm mà hắn phát phì đến nỗi cái áo thầy tu lót lông gần như nứt ra). Hắn đẩy một gã giữ kho đồ thánh, gầy gò, có cái mũi rầu rĩ:
- Đi lên, đồ vịt chết tiệt, đi lên chứ, Benzebut (1)!
Gã coi kho ngã giúi, bíu vào chiếc khóa và mở cửa nhà thờ. Finka thụi vào sườn gã:
- Sao tay mày run thế, đồ nát rượu... Tao đã dặn mày lúc nãy rồi kia mà (hắn đánh vào cái lưng còng của gã coi kho), tao đã dặn mày lúc nãy là: đi kéo chuông... Tại mày rồi tao lại phải chịu lỗi.
Gã coi kho lách qua cánh cửa sắt hé mở và trèo lên gác chuông. Finka đứng lại ở thềm. Ivan Artemiev giơ cả hai tay lên ngả mũ, - lão đeo đôi bao tay bằng da mới, - trịnh trọng cúi chào:
- Hôm nay dường như có hội thì phải? Bố con tôi đương tự hỏi. Xin Cha làm phúc cho chúng tôi được biết chuyện.
Finka chớp chớp mắt, liếc nhìn đường phố dưới cơn gió đương thổi bạt trận mưa đá nhỏ làm rối tung bộ râu của hắn; hắn dằn giọng nói to để mọi người nghe thấy:
- Đó là Quỷ vương lên ngôi.
Ivan Artemiev liền ngồi thụp xuống ngay. Xanka đưa hai tay lên ngực, mặt tái mét, cuống cuồng làm dấu; cô chỉ hiểu được rằng đó là một điều gì ghê gớm lắm.
Từ cửa ô Miaxniskie, dân chúng hò hét đổ đến. Có tiếng huýt còi và tiếng cười man rợ. Những kẻ hiểu kỳ nín lặng nhìn. Người ta đóng các cửa hàng lại. Có những kẻ ăn mày quần áo rách tơi tả, mình trần trùng trục, những người động kinh, những gã mất mũi không biết từ đâu hiện ra... Một lão dở người tóc bạc trắng, lắc cái dây xích và khóa đeo ở ngực loảng xoảng, hô vang: “Nabukodonovo, Nabukodonovo!”(2).
Ivan Artemiev cảm thấy tim mình như muốn rụng xuống gót ủng. Xanka khẽ rên rỉ ngã người vào khuôn cửa sổ có chấn song của nhà thờ, bên dưới một ngọn đèn chong suốt đêm ngày. Cô gái này quả thật dễ xúc cảm.
Và đây là cảnh họ mục kích: Trải dài suốt dọc phố, từ từ tiến lên một đoàn những cổ xe bốn bánh, mỗi xe đóng sáu con lợn, những chiếc xe trượt tuyết đóng bò cái phết hắc ín và phủ lông chim; những xe hai bánh nhỏ, thấp, do dê, chó kéo. Trên các cỗ xe, có những người đội mũ gai, mặc áo khoác bằng chiếu gói hàng, đi ủng bằng rơm bện, và đeo bao tay da chuột.
Một vài người mặc áo nẹp ghép bằng những mụn vải sặc sỡ, có đính đuôi và chân mèo.
Roi vụt đen đét, lợn kêu eng éc, chó sủa ăng ẳng và đám người hóa trang, say mèm khắp lượt, mặt đỏ gay, kêu meo meo, be be. Giữa đoàn xe, mấy con ngựa khoang còm, cổ buộc những chiếc chổi nhỏ bằng cành phong, kéo cỗ xe bốn bánh thếp vàng của Sa hoàng.
Qua cửa kính, người ta trông thấy giáo sĩ Bitka trẻ tuổi, bạn lưu linh của vua Piotr, ngồi trên ghế trước đang ngủ, đầu rủ xuống ngực. Hai người nằm sóng soài trên ghế sau. Một người đàn ông mũi to, áo khoác sang trọng, mũ cắm lông công và bên cạnh là một người đàn bà mập mạp, mũm mĩm, mặt bự phấn, lông mày kẻ, tai đeo hoa, mình khoác đầy lông hắc điêu thử, tay cầm một chai vodka. Đó là Yakov Turgenev, thằng hề mới của Sa hoàng, nguyên là dapife của Sofia, đã đổi cái cảnh thất sủng lấy chiếc mũ hề và mụ Surera, vợ góa một người coi kho đồ lễ. Người ta vừa làm lễ cưới cho họ trước đó hai hôm rồi đưa đi thăm viếng liên miên hết nơi này đến nơi khác.
Đi sau cỗ xe là hai ông vua - Romodanovski và Buturlin - và đi giữa hai người là đại vương trùm đạo, “vị hoàng đế rất thần thánh Anikita ở Prexburg”, đội mũ chủ giáo bằng sắt tây, khoác áo đỏ, tay cầm hai chiếc tẩu bắt chéo. Rồi lũ lượt đến các vị quý tộc và đại thần của hai triều đình. Người ta nhận ra bọn Seremetiev, Trubetxkoi, Dolgoruki, Zinoviev, Boborykin...
Từ ngày thành lập đến nay, Moskva chưa hề chứng kiến một cảnh nào nhục nhã đến thế bao giờ. Trong đám đông, người ta chỉ trỏ cho nhau xem, người ta ngạc nhiên, người ta thốt ra những tiếng “à” kinh hãi... Một vài người lại gần để chào xỏ các vị quý tộc.
Sau đám quý tộc là một chiếc tàu thủy lắp bánh xe; gió thổi như bão làm lay chuyển các cột buồm. Vua Piotr mặc áo nẹp của lính pháo thủ, đi trước hàng ngựa.
Nhà vua vênh mặt lên, trợn cặp mắt tròn xoe vừa nhìn mọi người, vừa đánh trống. Dân chủng sợ hãi không dám chào lạy Sa hoàng, điều đó có lẽ bị cấm chăng?
Nhìn thấy Sa hoàng đeo trống, lão dở người lại hô: “Nabukodonoxo!”. Nhưng người ta lôi ngay lão ra phía sau, để lão lẫn vào đám đông.
Đứng trên boong tàu, mặc giả thủy thủ Hà Lan có Lơfo, Gordon, Pambur để ria mép, Timmecman, và các đại tá mới được đề bạt: Vaidơ, Manden, Kragio, Bruxơ, Livinxton, Xam, Slipenbac. Họ vừa cười vừa nhìn xuống, vừa phì phèo chiếc tẩu, vừa giậm chân.
Khi vua Piotr tới ngang ngôi nhà thờ nhỏ, Ivan Artemist liền kéo tay áo Xanka đang sợ chết khiếp và quỳ xuống.
- Cúi lạy đi, đồ ngốc, - lão vội thì thào, - bố con mình không hiểu được chuyện này đâu.
Giáo sĩ Finka ngoạc cái miệng rộng ra cười ha hả giọng ồm ồm (đến Sa hoàng cũng phải quay lại nhìn hắn). Hắn vẫn cười, giơ hai tay lên, quay đi và để hai tay giơ lên mà bước vào nhà thờ.
Đoàn người đã đi khỏi. Ivan Artemist đứng dậy, ấn sụp mũ xuống mắt.
- Hừ, - lão nói, vẻ tư lự, - quả thật. Hừ... Dù sao... Chà, chà... Thôi được? - Rồi lão nghiêm giọng bảo Xanka
- Thôi, tỉnh lại. Ta đi mua lông tơ.
-------------
Chú thích:
(1) Tên của Quỷ vương.
(2) Một bạo chúa thời cổ, vua xứ Cande: theo truyền thuyết Do Thái, đã bị Chúa trời trừng phạt vì tội bạo ngược, vì vậy phát điên.

Chương 75

Mọi người lấy làm lạ không rõ cái thằng quỷ ấy lấy sức lực ở đâu ra mà khỏe đến thế? Giá phải một người khác, dù có lớn tuổi và khỏe đi nữa, thì có lẽ đã ngỏm từ lâu rồi. Mỗi tuần ít nhất hai lần người ta phải đưa nhà vua say mèm từ xloboda Đức về. Nhà vua ngủ bốn tiếng đồng hồ liền, rồi vừa tỉnh dậy đã tự hỏi xem có bày ra được trò tiêu khiển nào mới.
Trong dịp lễ Noen, vua Piotr nghĩ ra chuyện đi thăm đám quý tộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, cùng với đại vương trùm đạo, hai ông vua, các tướng lĩnh và các đại thần đương triều (vua Piotr đã ban một đạo dụ mới hết sức nghiệt ngã để buộc các vị đại thần phải tuân lệnh).
Tất cả đều cải trang và đeo mặt nạ. Vaxili Xokovnin thuộc giới quý tộc Moskva, hiện thân của mọi thói hư tật xấu, hay gây gổ và thô tục, được chỉ định làm đại chủ tướng các cuộc vui. Hắn được tặng danh hiệu “nhà tiên tri”. Hắn mặc chiếc áo dài dòng thánh Francoi xẻ một chỗ ở đít.
Trong các hội hè, nhân dịp lễ Noen, các gia đình quyền quý, nhất là gia đình các vương hầu, các đại thần dòng dõi kỳ cựu, hoàn toàn bị phỉ báng, làm nhục. Hàng trăm gã hung hăng cầm ống tiêu, trống đồng và đàn đura ùa vào các nhà, huýt còi, gào thét điên cuồng. Vị gia chủ sùng đạo rợn cả tóc gáy khi trông thấy bọn này nhảy nhót chồm chồm, toác miệng ra cười.
Người ta nhận ra Sa hoàng vì tầm vóc cao lớn và bộ quần áo thủy thủ Hà Lan của nhà vua, - quần dạ ngắn, phồng ra như quả bóng, cộc tới đầu gối, bít tất len, guốc, mũ tròn kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Lúc thì nhà vua quấn lên đầu một chiếc khăn quàng nâu, lúc thì đeo một cái mũi giả thật dài.
Họ chơi các nhạc cụ, họ dậm chân, họ cười sằng sặc. Cả bọn chẳng hề phân biệt thứ bậc, nhảy xô vào các nhà đòi phải có bắp cải chua, trứng luộc, xúc-xích, vodka ngâm hồ tiêu, vũ nữ... Cả nhà huyên náo, ầm ầm như địa ngục. Họ nốc rượu đến mụ cả người trong đám khói thuốc lá mù mịt, gia chủ phải uống gấp đôi, - nếu không uống nổi thì họ dùng sức bắt ép...
Chủ nhà càng danh gia thế tộc bao nhiêu, họ càng chơi xỏ những vở quái gở bấy nhiêu. Thấy vương hầu Belotxenski tỏ ra ngang bướng, họ liền lột trần truồng ra, bắt phải lấy mông đè vỡ một chậu trứng gà. Để chế diễu cái thân hình phì nộn của Boborykin, họ bắt ông ta chui qua mấy cái ghế mà một người gầy chui cũng không lọt. Họ nhét một cây nến vào hậu môn vương hầu Volkonski, châm lửa đốt rồi vây quanh hát những bài thánh ca cho đến lúc cả bọn ngã lăn kềnh ra vì cười. Họ lấy bồ hóng và nhựa thông quết vào các nạn nhân, đem dựng người lên, đầu cắm xuống đất, chân chổng lên trời. Họ lấy bễ đút vào hậu môn vị quý tộc Ivan Akaevich Miaxny; ít lâu sau thì ông chết.
Những trò tiêu khiển vào dịp lễ Noen khủng khiếp đến nỗi nhiều người chuẩn bị đợi những ngày đó như đợi chết.
Mãi đến sang xuân mọi người mới thở được. Vua Piotr đùng một cái bỏ đi Arkhangensk. Năm đó các thương gia Hà Lan Van Leyden và Hairich Pontenburg quay lại. Hai người mua hàng của Nhà nước gấp đôi năm trước - trứng cá ép, cá hồi ướp lạnh, da thú, keo vây cá tơ hồng và cũng như mọi khi, cả hắc ín, gai cải, và bột tạt...
Các nhà hàng thủ công bán cho họ đồ da Nga và đồ ngà chạm. Lev Kirilovich được người ngoại quốc là Macxlit nhượng lại cho xưởng đúc khí giới ở Tula, nài bán cho hai người khách hàng Hà Lan nhiều thứ khí giới chạm trổ, nhưng đòi giá cao quá nên họ không mua.
Xuân đến, sáu chiếc tàu đã xếp đủ hàng. Chỉ còn đợi hết băng trôi ở Bắc Hải nữa thôi. Bỗng Lơfo (theo yêu cầu của hai người Hà Lan) gợi ý vua Piotr là nhà vua nên đi một chuyến lên tận Arkhangensk để coi thử những chiếc tàu lớn. Ngay hôm sau, nhiều giao thông viên cưỡi ngựa mang thư cho các quan tổng trấn đã rong ruổi trên con đường đi Voloda. Vua Piotr ra đi cũng vẫn với đám tùy tùng ấy - đại vương - trùm đạo Anikita, hai ông vua, Lơfo, các đại thần của hai triều đình; nhưng họ còn đem theo đi nhiều người đứng đắn - viên lục sự của Duma là Viniux, Boris Golixyn, Troekurov, Apraxin, em vợ cố Sa hoàng Fedor và năm chục lính do Alexaska Melsikov dũng kiện chỉ huy.
Mọi người đi xe ngựa đến Voloda, tới đó giáo hội và thương hội kéo ra ngoài thành phố nghênh tiếp Sa hoàng. Nhưng vua Piotr vội đi; ngay hôm ấy, tất cả đều xuống bảy chiếc thuyền buồm chạy trên sông Xukhona đến Uxtiuc Veliki; từ đó, họ theo sông Dvina miền Bắc đi Arkhangensk.
Lần đầu tiên, vua Piotr được mục kích những con sông ấy, nước chảy cuồn cuộn, những khu rừng giàu có, mênh mông. Đất đai mở ra trước tầm mắt, không biết đâu là tận cùng. Những đám mây trôi thành từng đàn, xám xịt.
Hàng bầy chim bay đằng trước thuyền. Sóng vỗ mạnh vào mạn thuyền, gió to thồi căng phồng những cánh buồm, làm cột buồm kêu cót két. Các tu viện hai bên bờ kéo chuông làm lễ rửa thánh tước. Và nấp trong rừng rậm, các tín đồ razkonic chăm chú theo dõi đoàn thuyền của Quỷ vương đi.

Chương 76

Trên chiếc bàn trải thảm, có hai ngọn nến đang cháy. Nhựa bò thành giọt trên các bức tường bằng gỗ súc ghép mới bào. Sàn ván mới in rõ vết chân ướt bước từ góc này sang góc kia, đến cửa sổ, đến giường. Một đôi giầy bê bết bùn lăn lóc chiếc giữa buồng, chiếc dưới gầm bàn. Bên ngoài các khuôn cửa sổ nhỏ, trong ánh hoàng hôn nửa vời của một đêm trắng không sao, một cơn gió âm ướt xa lạ rì rào thổi, sóng vỗ oàm oạp vào bờ biển gần đó.
Vua Piotr ngồi trên giường. Chiếc quần lót ướt đến đầu gối, đôi bàn chân để trần quay vào trong. Khuỷu tay chống lên đầu gối, chiếc cằm ngắn tì trên hai nắm tay, nhà vua trân trân nhìn khuôn cửa sổ nhỏ mà chẳng trông thấy gì. Sau bức vách ngăn, hai ông vua thi nhau ngáy. Trong ngôi nhà vội và dựng trên ngọn đảo Maseev để đón Sa hoàng, mọi người nằm ngủ hỗn độn. Hôm đó vua Piotr làm bọn người đi hộ giá mệt nhoài. họ trông thấy Arkhangensk vào lúc tảng sáng.
Hầu hết mới đến miền Bắc lần đầu. Họ đứng trên boong ngắm bình minh.
Họ chưa từng thấy một cảnh bình minh như vậy bao giờ; ánh rạng đông dần dần tràn ngập chân trời về phía bên kia các đám mây đen, tầng tầng lớp lớp, chồng chất lên nhau.
Một mặt trời khổng lồ, dị thường, nhô lên bên trên ngọn cây các khu rừng tối đen; tia sáng tỏa ra khắp bầu trời, chiếu thắng vào bờ biển, vào các tảng đá, các cây thông. Quá khuỷu sông Dvina nơi đoàn thuyền phải chờ vất vả, mọi người thấy một tòa nhà dài tựa một cái thành có sáu ngọn tháp vây quanh, với những lũy và hàng rào: đó là khu người ngoại quốc. Bên trong khoảng đất tứ giác đó là những kho hàng kiên cố, những ngôi nhà nhỏ lợp ngói, sạch sẽ; trên tường thành có nhiều súng thần công và súng cối. Chạy dài dọc bờ biển là những bức tường dựng trên cọc để cột tàu, những kè gỗ, những nhà kho chất từng núi bao, kiện hàng và thùng to. Thừng cuộn xếp đống. Gỗ xẻ xếp hàng chồng. Chừng hai chục chiếc tàu vượt đại dương đậu dọc các tường cột tàu, còn trên con sông thì có tới gấp ba số đó thả neo.
Mọi người thấy sừng sững một rừng cột buồm to tướng, dây dợ chằng chịt như mạng nhện; đuôi tàu rất cao, chạm trổ, dập dềnh trên mặt nước. Trên mạn tàu quét hắc ín, chung quanh kẻ một vạch trắng rộng, có những khẩu đại bác ghếch nòng qua các cửa sổ mở toang...
Bên hữu ngạn, phia đông, chuông làm lễ rửa thánh tước đổ hồi. Nơi đó là đất nước Nga thần thánh muôn thuở với những gác chuông, những ngôi nhà gỗ tồi tàn nằm rải rác đó đây tựa hồ như vì buồn phiền và biếng nhác, những hàng rào, những đống phân. Dọc bờ sông - có hàng trăm thuyền, xuồng chất đầy nguyên liệu phủ chiếu gai. Vua Piotr liếc nhìn Lơfo (cả hai đứng cạnh nhau ở phía sau). Lơfo vẫn lịch sự như mọi ngày, cầm chiếc gậy nhỏ khẽ gõ lên boong - dưới hàng ria mép nhỏ thoáng một nụ cười dịu dàng; trong mí mắt hum húp là một nụ cười, trên má thoa phấn là một lũm đồng tiền. Hắn hài lòng, vui vẻ, sung sướng. Vua Piotr bỗng muốn đấm vào mặt ông bạn thân Franx, đến nỗi nhà vua thở phì phì ra đằng mũi. Cả đến anh chàng Alexaska phóng túng ngôi trên chiếc ghế của tay chèo dưới chân vua Piotr cũng phải gật đầu kêu: “ái chà chà!”.
Đã hơn một thế kỷ nay, bờ phía Âu châu phì nhiêu và kiêu kỳ, đáng gờm vì có vàng và đại bác, ngó nhìn bờ phía Đông, vừa ngạc nhiên vừa miệt thị, tựa hồ ông chủ ngắm gã nô lệ của mình.
Từ mạn chiếc tàu gần nhất, một làn khói nhỏ bay ra, tiếng ầm ầm tiếp theo át cả tiếng chuông. Vua Piotr rời khỏi phía sau tàu. Nhà vua dẫm lên chân các tay chèo, nhảy xổ tới cỗ pháo nhỏ ba cân Anh (1), giật lấy mồi lửa trong tay một pháo thủ. Một tiếng nổ. Nhưng so sánh sao được với tiếng sấm vang của một hạm pháo? Đáp lại loạt súng của Sa hoàng, tất cả các tàu ngoại quốc đều tỏa khói. Hai bên bờ tựa hồ như rung lên... Cặp mắt vua Piotr rực lửa; nhà vua nhắc đi nhắc lại mãi; “Hay lắm, hay lắm...”. Dường như những hình ảnh thời thơ ấu của nhà vua sống lại... Tan khói, nhiều người ngoại quốc hiện ra trên bến tàu bên tả ngạn. Họ vẫy mũ... Van Leyden và Pontenburg... Để đáp lễ, vua Piotr giật phăng chiếc mũ ba cạnh hớn hở vẫy, miệng hét to những lời chào mừng...
Nhưng ngay lập tức, trông thấy nét mặt căng thẳng của Apraxin, Romodanovski và của viên lực sự rất khôn ngoan - Viniux - nhà vua sầm mặt, quay đi.
Vua Piotr ngồi trên giường ngắm nhìn ánh sáng lờ mờ, xám ngắt bên ngoài khuôn cửa sổ nhỏ.
Đám dân Đức sống trong xloboda Kukui đã thần phục. Còn ở đây thì không sao hiểu thảm hại làm sao khi chúng lướt bên mạn những chiếc tàu cao ngất. Thật là nhục!
Mọi người đều cảm thấy thế: đám đại thần rầu rĩ và những người ngoại quốc niềm nở đứng trên bờ, và các thuyền trưởng, các thủy thủ, những con “sói già” của biển cả, dày dạn sóng gió, đứng thành hàng trên boong lái.
Thật khôi hài! Thật là nhục!... Các đại thần (có lẽ cả Lơfo nữa là người đầu tiên hiểu rõ tâm trạng của vua Piotr) chỉ mong có mỗi một điều: cứu vãn lấy danh dự. Họ liền vênh mặt lên, đầy vẻ kiêu hãnh để ít ra cũng bằng thái độ của mình, chứng tỏ rằng Sa hoàng các xứ Đại, Tiểu, và Bạch Nga chẳng thèm tò mò muốn xem tàu bè của bọn lái buôn. Nếu như nhà vua muốn cấm không cho tàu ngoại quốc vào Bạch Hải thì các người cũng chẳng làm gì được, vì biển đó là biển của ta.
Giá vua Piotr không đi thuyền buồm đến thì có lẽ chính nhà vua cũng bị lòng kiêu hãnh lung lạc. Nhưng nhà vua nhớ lại rất rõ, hình dung lại vẻ khinh miệt ngạo mạn mà tất cả đám người phương Tây đó che giấu dưới những nụ cười nhã nhặn, từ tên thủy thủ có bộ râu hoa râm, hàm răng khuyết sỉ đến gã thương nhân sang trọng trong bộ y phục bằng nhung Tây Ban Nha. Đấy kia, đứng chót vót trên lái một chiếc tàu, gần chiếc đèn treo, có một người đẫy đà da sạm nắng, vẻ dữ tợn, đầy lông vàng, đội mũ cắm lông đà điểu, chân đi bít tất lụa. Tay trái hắn cầm chiếc ống nhòm kẹp vào háng, tay phải chống gậy... Hắn là một thuyền trưởng đã từng đánh nhau với bọn tàu ô và bọn hải phỉ... ở khắp các biển. Hắn thản nhiên nhìn xuống anh chàng trẻ tuổi cao lêu đêu, vô nghĩa lý, đứng trong chiếc thuyền nặng nề. Sa hoàng của dân man rợ... Chắc hẳn hắn đã ngắm nhìn theo kiểu đó, từ trên nhìn xuống, ở một nơi nào tại Mã đảo hoặc quần đảo Philippin, sau khi hạ lệnh nạp đạn ria vào các khẩu pháo...
Và do tính tình khôn ngoan của người Á đông, vua Piotr cảm thấy phải có thái độ đối với bọn này, thái độ duy nhất giúp nhà vua thắng nổi họ. Phải làm cho họ ngạc nhiên, đưa ra cho họ mục kích một cái gì họ chưa từng thấy. Cứ mặc cho đám đại thần vênh mặt lên, càng tốt... Nhưng còn nhà vua, Piotr Alekxeev, thuyền phó trong hạm đội Pereyaslav, nhà vua sẽ cư xử cách khác, như muốn nói rằng: các ngài, vì chúng tôi túng thiếu; xin các ngài hãy chỉ giáo cho chúng tôi biết cách cầm một chiếc rìu.
Vua Piotr hạ lệnh chèo thẳng vào bến. Nhà vua nhảy trước tiên xuống nước ngập đến đầu gối, leo lên trên kè buộc tàu, ôm lấy Van Leyden và Pontenburg, rồi mạnh mẽ bắt tay các người khác, ôm hôn họ. Nhà vua nói cả tiếng Đức lẫn tiếng Hà Lan kể lại cuộc hành trình, vừa cười vừa chỉ vào đoàn thuyền buồm chở các vị đại thần đứng ngây ra như phỗng.
- Trẫm cuộc là các ngài chưa từng trông thấy những chiếc thuyền thổ tả như thế bao giờ, ngay cả khi nằm mơ.
Nhà vua tấm tắc khen ngợi quá đáng những con tàu có đặt nhiều cỗ pháo, dậm chân, tự vỗ đôm đốp vào cặp đùi gầy:
- Chà! giá mà nước trẫm có được ít nhất hai chiếc tàu như thế!
Rồi nhà vua khéo léo xen vào chuyện rằng mình sắp thành lập đến nơi một xưởng đóng tàu ở Arkhangensk:
- Trẫm sẽ thân làm thợ mộc và trẫm sẽ bắt các quan đại thần đóng đinh.
Nhà vua liếc mắt nhìn thấy những nụ cười giả dối mất dần; các thương gia bệ vệ bắt đầu lấy làm lạ: quả thật họ chưa thấy vị Sa hoàng như thế này bao giờ. Vua Piotr nhận lời họ mời dự tiệc; nhà vua nháy mắt:
- Các ngài cứ thết đãi trẫm, rồi ta sẽ bàn chuyện làm ăn có lợi cho các ngài.
Nhà vua nhảy từ trên kè xuống một chiếc thuyền buồm, cho bơi về đảo Maseev để tới ngôi nhà mới cất xong, nơi quan tổng trấn Matveev ra nghênh tiếp nhà vua, người run bần bật vì sợ hãi. Với viên quan này, vua Piotr nói chuyện cách khác; nửa giờ sau, nhà vua giận dữ đá y ra ngoài. (Khi đi đường, người ta đã báo cáo với nhà vua là Matveev vòi tiền của người ngoại quốc).
Rồi vua Piotr cùng Lơfo và Alexaska đáp một chiếc thuyền buồm đi thăm các tàu.
Tối đến mọi người dự tiệc tại khu người ngoại quốc ở. Vua Piotr khiêu vũ với các phụ nữ Anh và các bà ở Hanovre hăng đến nỗi rơi mất cả gót giầy. Quả thật, đây là lần đầu tiên người ngoại quốc được thấy một vị Sa Hoàng như thế.
Thế là suốt đêm nhà vua chẳng hề nhắm mắt. Về chuyện làm cho bọn ngoại quốc kinh ngạc thì nhà vua đã thành công. Nhưng rồi thì sao? Nước Nga vẫn ì ra như trước: nặng nề, u mê, cùng khốn. Làm gì có chuyện nhục nhã! Chỉ những kẻ giàu có, quyền thế mới biết xấu hổ. Chứ còn ở đây thì nhà vua làm thế nào mà có đủ sức để thức tỉnh dân chúng, làm họ mở mắt ra?
Vậy các ngươi có phải là giống người không? Hay là hàng nghìn năm nay, khóc đã cạn hết nước mắt và đổ hết máu, tuyệt vọng vì không bao giờ biết được chân lý và hạnh phúc, các ngươi đã mục nát ra như thể một cái cây gục xuống đám rêu?
Ma quỷ đã run rủi nhà vua làm Sa hoàng ở một nước như thế này!
Vua Piotr nhớ lại đêm thu, hầu như ngạt thở dưới làn gió lạnh buốt, nhà vua đã kêu lên với Alexaska:
- Thà làm một anh thợ quèn ở Hà Lan còn hơn làm Sa hoàng ở nước này.
Nhưng bấy nhiêu năm nhà vua đã làm được những gì? Chẳng được gì hết. Nhà vua đã vui chơi. Vaska Golixyn còn xây được nhiều nhà gạch; y đã ký hòa ước với Ba Lan...
Lòng hối hận, nỗi căm giận đám quần thần, dân Nga và sự thèm muốn dày vò vua Piotr đến nỗi tim nhà vua như bị những móng tay cào xé: nhà vua ghen với bọn lái buôn kiêu ngạo, - họ giương những cánh buồm tự do, rong ruổi trở về nhà họ, nơi xứ sở thần kỳ của họ... Còn ngươi, ngươi sẽ quay lại với cái cảnh Moskva bần cùng của ngươi.
Hay là ban một đạo dụ khủng khiếp hơn hết thảy các đạo dụ khác? Để xử giảo, xử giảo liên miên, phạt trượng không tiếc tay. Nhưng xử phạt ai, ai kia? Kẻ thù thì vô hình, không sao tóm bắt được, kẻ thù ở khắp nơi, kẻ thù ẩn náu ngay trong bản thân nhà vua.
Vua Piotr bỗng đứng dậy, mở cánh cửa thông sang buồng bên:
- Franx?
Lơfo nằm trên ổ choàng dậy, trố cặp mắt húp ra.
- Khanh ngủ à, sang đây...
Lơfo chỉ mặc có áo lót, ngồi xuống giường cạnh nhà vua Piotr:
- Pete khó chịu đấy ư? Thử cố nôn xem sao?
- Không, không phải thế đâu... Này, Franx, trẫm muốn tậu hai chiếc tàu của Hà Lan...
- Thế thì tốt quá.
- Rồi ta cũng đóng tàu cả ở đây nữa... Để chở hàng của ta...
- Tốt lắm.
- Khanh có khuyên ta gì thêm nữa không?
Lơfo ngạc nhiên nhìn thẳng vào mắt vua Piotr và, cũng như mọi lần, hắn gỡ được cái mớ ý nghĩa rối bòng bong của nhà vua hơn cả chính nhà vua nữa. Hắn cười:
- Hãy khoan, để thần mặc quần và mang tẩu sang đã. - Từ trong căn buồng nhỏ hắn đang bận quần áo, Lơfo nói với một giọng khác thường. - Pete, thần đợi có chuyện này từ lâu rồi... Hoàng thượng đã đến cái tuổi làm nên những việc lớn...
- Việc lớn gì? - Vua Piotr thốt lên.
- Các anh hùng La Mã xưa nay ta vẫn noi gương... - Lơfo trở lại, tu sửa những vòng quăn của bộ tóc giả. Vua Piotr, cặp mắt sáng quắc, nhìn hắn. - Các anh hùng La Mã xây dựng vinh quang của họ trong chiến tranh...
- Với ai? Lại đi Krym đánh nhau nữa ư?
- Hoàng thượng không thể không cần đến Hắc Hải cũng như biển Azop được đâu... Hôm nay, Pontenburg có ghé tai hỏi thần làm sao người Nga lại cứ nộp cống cho vua xứ Krym mãi thế?
Cặp mắt vua Piotr lóe lên một ánh chớp rồi nhìn chòng chọc vào người bạn thân tựa hồ hai chiếc đinh ghim.
- Và cả biển Bantic nữa, hoàng thượng cũng không thể không cần đến... Nếu hoàng thượng không làm thì người Hà Lan cũng sẽ buộc hoàng thượng phải làm. Họ bảo nếu hoàng thượng xây dựng một hải cảng ở biển Bantic, họ sẽ xuất khẩu được gấp mười lần hàng.
- Đánh nhau với người Thụy Điển ư? Khanh điên à? Khanh nói đùa đấy chứ? Trên thế giới không ai thắng nổi họ, thế mà khanh...
- Nhưng Pete, thần có nói mai kia đâu. Hoàng thượng đã hỏi thì thần xin trả lời: nếu hoàng thượng đã ra tay thì phải làm những việc to lớn, là vì nếu cứ bo bo vào những chuyện nhỏ nhặt thì chỉ đau tay thôi.
-------------
Chú thích:
(1) Một cân Anh bằng 0,458 kg.

Chương 77

Các lái buôn và các phường buôn, hết thảy dân chúng ở các thị trấn, các chủ hiệu và thợ thủ công, trong công việc buôn bán và trong tất cả mọi nghề đều khổ vì các quan tổng trấn, các tham biện và nhân viên của họ vì bị chúng vòi tiền và làm cho phá sản. Bọn chúng cắn xé chúng con như thể loài sư tử, loài chó sói mõm há to tướng. Tâu đại vương, Người hãy rủ lòng thương lấy chúng con...”
- Thế nào, họ lại đệ đơn kêu các quan tổng trấn à? - Vua Piotr hỏi.
Nhà vua ngồi ăn ở một đầu bàn. Nhà vua vừa mới ở xưởng đóng tàu về, chưa kịp bỏ xuống hai ống tay áo sơ mi vài thô bê bết nhựa thông xắn đến khuỷu. Nhà vua chấm mẩu bánh vào một chiếc đĩa đất đựng thịt quay, nhai vội, lúc thì ngắm con sông Dvina xám ngắt như chì lăn tăn gợn sóng nổi bọt, lúc lại nhìn viên lục sự Andrey Andreevich Viniux to béo, râu màu nâu nhạt, mặt trắng, ngồi ở đầu bàn đằng kia.
Andrey Andreevich đọc cho vua nghe thư tín từ Moskva gửi đến - cặp kính tròn cưỡi trên chiếc mũi to: cặp mắt xanh, lạnh lùng và tinh khôn mở thao láo. Ít lâu nay, y có thêm thế lực, nhất là từ sau cái đêm nói chuyện với Lơfo, vua Piotr ra lệnh y đọc cho mình nghe thư tín từ Moskva gửi đến. Trước kia mọi công việc giấy tờ là do Troekurov quán xuyến, vua Piotr chẳng hề ngó tới. Nhưng giờ thì nhà vua muốn nghe hết mọi chuyện. Họ đọc thư tín cho nhà vua nghe trong bữa ăn vì nhà vua chỉ rỗi có lúc đó: suốt ngày vua Piotr ở ngoài xưởng cùng đám thợ ngoại quốc mộ ở trên các tàu... Vua Piotr làm thợ mộc, thợ rèn, khiến người ngoại quốc rất ngạc nhiên; vua Piotr hỏi họ về mọi điều muốn biết với sự háo hức của một kẻ man rợ, tranh cãi và đánh lộn với tất cả mọi người. Xưởng đã có trên một trăm thợ. Trước tiên người ta tuyển thợ trong các xloboda và thị trấn, và nếu họ từ chối người ta dùng vũ lực xích họ lại, lôi đi.
Đến bữa chiều, vua Piotr, đói cồn cào như con vật, đáp thuyền buồm trở về đảo Maseev. Viniux cất giọng trầm trầm đọc cho vua nghe các đạo dụ để xin chữ ký, các bản thỉnh nguyện, các đơn kiện, các thư từ. Từ mớ giấy tờ lời văn cầu kỳ đó tỏa ra một sự chán ngán cổ sơ; các bản thỉnh nguyện nghe y như tiếng rên siết của một bầy nô lệ. Nước Nga cổ của bọn viên chức, nói dối, ăn cắp, hành hung, tìm cách lẩn tránh sau những công thức quan liêu giấy tờ; cái cơ thể khổng lồ ù lì đó rền rĩ vì bị loài rận và loài gián xâu xé.
- Thưa vâng, đây là một đơn mới, kiện viên tổng trấn Xtiovka Xukhotin! - Andrey Andreevich đáp. Y sửa lại mục kỉnh, tiếp tục đọc cái đơn đầy nước mắt kiện viên tổng trấn Kungur. Hắn đánh thuế nặng, thu làm của riêng khiến nghề buôn bị phá sản, bắt các lái buôn và thợ thủ công các đại xã nhốt vào nhà để xe rồi lấy gậy đánh làm một người bị chết, thật tội nghiệp.
Hắn bắt các đoàn xe chở hàng nộp thuế, lấy tiền bỏ túi: mùa đông tám kopeik một xe, mùa hè ba kopeik một thuyền. Hắn đã nhốt chủ xưởng cự phú là Zmiev vào một cái hòm nắp có đục lỗ để nạn nhân khỏi bị chết ngạt ngay. Hắn đoạt lấy mọi khoản thu của các hội đồng hàng tỉnh và các quán rượu của nhà vua và còn dọa sẽ phá tan hoang xứ Kungur nếu có ai kiện hắn.
- Phải đem treo cổ thằng chó ấy ở chợ Kungur? - Vua Piotr thét lên. - Viết đi!
Viniux ngước mắt qua cặp kính, nghiêm nghị nhìn nhà vua:
- Treo cổ thì nhanh thôi, nhưng hoàng thượng chẳng thể dùng cách đó mà sửa được bọn chúng đâu. Muôn tâu Sa hoàng Piotr Alekseevich, thần đã nói với hoàng thượng từ lâu rồi, không nên để bọn tổng trấn tại chức quá hai năm. Chúng quen mui đi, chúng học được hết mọi mánh khóe. Còn một viên tổng trấn mới được đề bạt thì không đến nỗi tệ hại lắm. Muôn tâu Sa hoàng Piotr Alekseevich, trước hết, hoàng thượng nên dễ dàng với các lái buôn thì đừng nói một chứ đến hai cái mạng họ, họ cũng sẽ chẳng quản hy sinh cho hoảng thượng, nhưng đừng để họ phải chịu thuế má nặng quá. Có người sợ không dám mang ra chợ bán hai đôi giầy gai: người ta sẽ tóm lấy hắn, nện hắn nhừ tử mà đoạt lấy tiền. Mà ai là người làm giàu cho hoàng thượng nếu không phải là phường buôn? Các vị quý tộc ư? Chẳng hòng lấy được của họ cái gì đâu, họ ngốn tất vào miệng. Còn nông dân thì trần trụi từ lâu rồi. Đây, hoàng thượng thử nghe xem.
Viniux lục lọi trong một mớ giấy, lôi ra một tờ đọc lên:
- “Do ý muốn của Chúa nên bao giờ lúa mì của chúng con cũng xấu, băng giá làm trụi cả đồng ruộng và hiện nay chúng con lúa mì chẳng có, mà củi sưởi, gia súc cũng không, chúng con đang chết đói và chết rét. Muôn lạy Chúa thượng, xin Người hãy đưa mắt soi xét nỗi bần cùng và bước hoạn nạn của chúng con. Xin Người qui định một mức thuế để chúng con thoát khỏi cảnh khốn đốn. Chúng con không thể nộp thịt lợn, thịt bò, gà vịt hoặc các thức ăn khác cho các lãnh chúa của chúng con được nữa vì chúng con nghèo khổ, cùng kiệt quá mất rồi. Chúng con phải ăn rau lê, chúng con đói phù cả người. Xin Người hãy rủ lòng thương chúng con...”.
Vua Piotr vừa nghe vừa giận dữ đập cái bật lửa vào một mảnh đá lửa đến nỗi ngón tay bật máu. Nhà vua châm tẩu hút, kéo một hơi khói dài. Cuộc sống trì trệ quá! Mặt trời xuyên qua những đám mây bay nhanh, rung rinh trên làn sóng đã ngả sang màu lam. Từ nhánh sông bên kia, trên một kè đóng tàu vươn lên những thanh gỗ sườn của một chiếc tàu đóng dở. Có tiếng rìu đẽo, cưa kéo. Nơi đó sực mùi thuốc lá, hắc ín, vỏ bào, thừng chão. Gió biển thổi mát cả lòng...
Đêm trước Lơfo có bảo vua Piotr: “Nước Nga khiếp quá, Pete ạ... Phải lộn nó lại như một chiếc áo lông cừu, xây dựng nó thành mới”.
- Ở nước ngoài, không có trộm cắp, cướp bóc, - vua Piotr nheo mắt nhìn sóng biển nói. - Dân các nước đó phải chăng là một giống người khác?
- Người họ cũng thế thôi, muôn tâu Sa hoàng Piotr Alekseevich, nhưng thật thà có lợi cho họ hơn là trộm cắp, ở đấy người ta trọng vọng thương nhân và chính thương nhân cũng biết tự trọng. Dưới triều Aleksey Mikhailovich, cha thần có đến Tula dựng một nhà máy, ông cụ muốn làm ăn lương thiện. Nhưng họ không để yên cho ông cụ làm: họ gây chuyện kiện cáo làm ông cụ khánh kiệt. Ở ta, ai không ăn cắp thì mọi người cho là ngu; tính thật thà không được coi trọng. Danh giá chỉ là ở chỗ ngoi được lên trên kẻ khác. Nhưng trong người mình cũng có kẻ thông minh. - Mấy ngón tay trắng trẻo, mũm mĩm của Andre Andreevich dường như đang chăng một mạng nhện. Ánh nắng phản chiếu lên đôi mắt kính; lời lẽ y dịu dàng, văn hoa:
- Hoàng thượng hãy nâng địa vị các thương nhân lên, lôi họ ra khỏi đống bùn, cho họ có sức mạnh và rồi ra, chỉ là một lời hứa danh dự của họ cũng sẽ đảm bảo cho sự lương thiện của họ - hoàng thượng hãy mạnh dạn dựa vào họ.
Cả Xitni, Van Leyden và Lơfo cũng góp ý kiến với nhà vua như vậy. Vua Piotr thấy ở họ một điều gì mới lạ, nhà vua như có cảm giác đặt chân lên một mạch quặng vàng. Đây không còn là chuyện ba trung đoàn cận vệ trẻ nữa mà là cả một khối, một sức mạnh. Nhà vua tựa khuỷu tay vào bậu cửa sổ, ngắm nhìn các làn sóng bóng nhẫy như dầu dưới ánh sáng, nhìn xương đóng tàu nơi có chiếc búa tựa hồ như đang lặng lẽ nện lên một cái cọc mãi một lúc lâu sau mới có tiếng vọng tới. Nhà vua chớp chớp mắt, trái tim kiêu hãnh hồi hộp, rào rạt một niềm nửa lo nửa mừng.
- Có một thương nhân ở Voloda là Ivan Zigulin thân hành tìm đến đây đưa đơn thỉnh cầu. Y mong được bái kiến hoàng thượng. - Andrey Andreevich nói rành rọt.
Vua Piotr gật đầu. Viniux với cái thân hình béo phị bệ vệ lắc lư đi ra cửa gọi một người rồi nhanh nhẹn quay về chỗ ngồi. Vào sau y là một thương nhân vai rộng, tóc để theo kiểu Novgorod rủ xuống trán, dưới là một khuôn mặt cứng cỏi, mắt sắc. Y vung rộng tay làm dấu, cúi chào sát đất. Vua Piotr cầm tẩu chỉ cái ghế:
- Ngồi xuống... Trẫm ra lệnh cho ngươi.
Zigulin ngọ nguậy cặp lông mày, rón rén ngồi xuống.
- Ngươi muốn gì? Nói đi.
Zigulin liếc nhìn Viniux. Rõ ràng là Zigulin hiểu rằng lúc này không phải lúc dập đầu sướt trán mà phải cho xem túi tiền; y đàng hoàng vuốt ria mép, liếc mắt nhìn đôi ủng da dê và trịnh trọng dặng hắng:
- Thần xin dập đầu xuống đất cúi lạy hoàng thượng cao cả. Khi được tin hoàng thượng đóng tàu trên sông Dvina, thần nghĩ bụng: thật là hạnh phúc! Thần mong hoàng thượng chớ bắt thần phải bán hàng cho người ngoại quốc. Tâu hoàng thượng, thật cứ như đem cho không, xin thề là như vậy. Mỡ và da hải cẩu, cá hồi ướp muối, ngà, ngọc trai quý. Xin hoàng thượng cứ hạ lệnh cho thần giao hàng xuống các tàu của hoàng thượng. Bọn Anh đã làm thần khánh kiệt. Hoàng thượng hãy rủ lòng thương lấy thần. Về phía thần, vì hoàng thượng, thần xin hết sức: thà rằng thần phụng sự đấng Sa hoàng của thần còn hơn đi phụng sự bọn vua chúa nước ngoài...
Vua Piotr nhìn y, cặp mắt sáng quắc; nhà vua đưa tay ra vỗ vai y, hớn hở cười to:
- Đến mùa thu này, trẫm sẽ đóng xong hai chiếc tàu và trẫm đã gửi mua một chiếc ở Hà Lan. Ngươi cứ giao hàng cho trẫm, nhưng không được gian trá, nghe chưa? Không thì liệu hồn!
- Lạy Chúa, sao hoàng thượng lại có thể nghĩ thế được, thần...
- Nhưng ngươi có đi theo hộ tống hàng không? Ngươi sẽ là viên Kommerzienrat (1) đầu tiên. Ngươi có đem hàng sang bán ở Amsterdam không?
- Thần chưa được học các thứ tiếng nước ngoài. Nhưng nếu hoàng thượng đã ra lệnh thì cái đó không hề gì. Thần sẽ đi Amsterdam bán hàng, thần sẽ không để ai lừa gạt...
- Tốt lắm! Andrey Andreevich, thảo một đạo dụ: Gửi vị thương gia hàng hải đầu tiên. Đúng tên ngươi là Zigulin Ivan đấy chứ? Thế còn tên đệm?
Zigulin há miệng, đứng lên, mắt trố ra, râu vểnh lên:
- Sao, hoàng thượng ghi cả tên đệm của thần vào nữa ư? Chà, thế thì hoàng thượng muốn gì xin cứ tha hồ!
Rồi cũng như trước bức tranh thờ Chúa, y vẫn thường quỳ xuống cầu xin phù hộ cho y buôn may bán đắt, y phục xuống chân Sa hoàng.
Zigulin đã đi khỏi. Ngòi bút của Viniux lạo xạo trên giấy. Vua Piotr rảo bước đi lại trong căn phòng và cười. Rồi nhà vua dừng lại:
- Thế nào, còn việc gì nữa? Đọc đi, nhưng vắn tắt thôi.
- Lại một vụ cướp. Trên đường đi tu viện Ba Ngôi, có một đoàn xe chở tiền ngân khố bị cướp. Chết mất hai lính hộ tống. Sau khi điều tra, người ta đã đến tận nhà bắt Xtiovka Odoievski, con út của vương hầu Xemion Odoievski. Người ta dùng một chiếc xe ngựa thường để điệu hắn đến Bộ Hình. Ở đấy hắn đã thú nhận và bị trừng trị; trong tầng hầm của Bộ, hắn đã phải chịu hình phạt roi; bị tịch thu vĩnh viễn ngôi nhà ở Moskva và bốn trăm nông hộ thuộc quyền sở hữu của hắn. Cha hắn là vương hầu Xemion phải bảo lĩnh cho hắn. Mười lăm tên gia nô của Xtiovka bị treo cổ.
- Andrey Andreevich này, bọn vương tôn quý tộc là như thế đấy. Chúng vác chùy đi làm giặc.
- Muôn tâu Sa hoàng Piotr Alekseevich, hoàng thượng nói đúng, bọn chúng đi làm giặc.
- Quân lười biếng, bọn rậm râu! Ta biết, ta chưa quên đâu. Bọn chúng mỗi đứa đều thủ sẵn một con dao để giết ta. - Nhà vua ngoẹo cổ. - Nhưng ta đã dành cho mỗi tên một lưỡi rìu rồi.
Nhà vua nhổ một bãi, chân giật giật. Nhà vua xòe mấy ngón tay bíu lấy cái khăn bàn kéo về phía mình. Viniux vội giữ lấy lọ mực cùng giấy má.
- Giờ ta đã có sức mạnh trong tay. Ta sẽ đương đầu với chúng. Không thương tiếc.
Nhà vua đi ra cửa.
- Xin hoàng thượng thứ lỗi, còn hai bức thư nữa. Của thái hậu và hoàng hậu...
- Ta vẫn còn đây thì tiện thể đọc đi.
Nhà vua lại quay ra cửa sổ và nạo tẩu. Viniux khẽ cúi chào, bắt đầu đọc:
- “Chào lạy bệ hạ thân yêu, niềm vui của tiểu tử, Đức Sa hoàng Piotr Alekseevich của tiểu tử muôn tuổi... - Vua Piotr quay lại chau mày ngạc nhiên. - Con trai bệ hạ là Alioska xin bệ hạ ban phước lành, bệ hạ chiếu sáng niềm vui của tiểu tử. Tâu bệ hạ, Người là niềm vui của tiểu tử xin Người hạ cố trở về với tiểu tử ngay... Sở dĩ tiểu tử xin bệ hạ ban cho cái ân đó là vì tiểu tử thấy đức hoàng thái hậu, bà của tiểu tử đang hết sức âu sầu. Xin đức hoàng thượng, niềm vui của tiểu tử, chớ phiền lòng vì bức thư của tiểu tử viết kém là vì tiểu tử chưa được học, tâu hoàng thượng!
- Ai viết thư này thế?
- Đức hoàng thái hậu Natalia Kirilovna viết, tay run lắm, chữ khó xem.
- Thế thì ngươi hãy viết vài câu trả lời. Chẳng hạn ngươi cứ viết là ta đang đợi các tàu từ Hamburg đến. Ta bình an, ta không ra biển đâu, thái hậu và hoàng hậu đừng lo. Và chớ có đợi ta sớm trở về làm gì, ngươi hiểu chưa?
Viniux khẽ thở dài nói tiếp:
- Hoàng tử Aleksey Petrovich có nhúng mực ngón tay út điểm chỉ vào thư.
- Thế à, tốt, tốt, - ngón tay út.
Nhà vua thở hơi ra đằng mũi, cầm lấy bức thư thứ hai trong tay Vinuix.
- Ngón tay út?
Vua Piotr đọc thư của hoàng hậu trên xuồng. Gió mát từ biển thổi vào căng phồng cánh buồm, chiếc xuồng nhỏ tồi tàn nhấp nhô như một vật sống, các làn sóng sủi bọt đập vào mạn xuồng, bọt tay tung tóe hai bên mũi. Vua Piotr ngồi cầm lái, đọc bức thư nhỏ nước bắn lấm tấm, đặt trên đầu gối:
Cúi lạy hoàng thượng thân yêu muôn tuổi. Thiếp xin hoàng thượng, nguồn ánh sáng của thiếp, ban ân cho thiếp, hoàng thượng thân yêu hãy làm vui lòng thiếp hãy viết thư cho thiếp, cho thiếp biết sức khỏe của hoàng thượng để thiếp mừng vì thiếp rất buồn rầu, khổ sở. Từ khi hoàng thượng, nguồn ánh sáng của thiếp, đi xa, hoàng thượng không hề viết cho thiếp lấy một dòng. Thiếp là người khổ sở nhất trên đời vì hoàng thượng. Cúi xin hoàng thượng, niềm vui của thiếp viết thư cho thiếp biết bao giờ hoàng thượng trở về với thiếp. Olesenka và thiếp sống...”
Chiếc xuồng trành về một bên. Vua Piotr vội bẻ lái sang trái, một đợt sóng to, ầm ầm ngầu bọt, đập vào mạn xuồng, đổ ụp xuống khiến nhà vua ướt từ đầu đến chân. Nhà vua phá lên cười. Bức thư nhỏ vô dụng bị gió giật khỏi đầu gối nhà vua, bay đi, biến mất ở xa xa trong lớp sóng.
-------------
Chú thích:
(1) Cố vấn thương mại (tiếng Đức).

Chương 78

Natalia Kirilovna cuối cùng rồi cũng gặp lại con trai đúng vào ngày như có một cái đinh đâm vào tim mình. Hoàng thái hậu nằm chênh vênh trên đống gối nhồi lông tơ thiên nga, mở to mắt ngắm bức tường, một hình vẽ thếp vàng cuốn ốc trên tấm da trơ. Bà sợ không dám nhìn đi nơi khác hoặc cựa mình; nỗi trống trải trong lòng dày vò bà hơn tất cả mọi cơn khát; bà thấy ngột ngạt, nhưng vừa mới gắng thở thì khóe mắt bà lại trợn trừng vì kinh hoảng.
Lev Kirilovich luôn luôn rón rén bước vào hỏi các phu nhân hầu cận:
- Thế nào? Trời hỡi trời, xin trời tránh cho chúng con ...
Lão nuốt nước bọt, ngồi xuống giường hỏi chị, nhưng hoàng thái hậu chẳng đáp. Đối với hoàng thái hậu, toàn thế giới dường như chỉ là ảo ảnh. Bà chỉ còn cảm thấy mỗi một điều: trái tim bị cái đinh đâm vào.
Mãi cuối cùng, lính báo hiệu mới về tới điện Kreml, trên những con ngựa đẫm bọt, lấy hết sức gào to:
- Hoàng thượng sắp về, hoàng thượng sắp về!
Các viên coi kho đồ lễ vừa làm dấu thánh giá ra tứ phía, vừa trèo lên gác chuông; cửa các nhà thờ lớn Thiên sứ Misen và Thăng thiên mở rộng: các vị tổng tư tế và trợ tế vội gỡ mái tóc dài ra khỏi áo lễ; võ quan bảo vệ hoàng cung tập trung trên thềm, quân phi báo vội chạy chân không ra khắp Moskva để báo tin cho các tu viện trưởng.
Lev Kirilovich thở hổn hển, cúi xuống bảo chị:
- Hoàng thượng, vầng thái dương của ta đã về!
Natalia Kirilovna nuốt hơi đánh ực một cái, đôi bàn tay mũm mĩm bắt đầu giằng xé áo lót, cặp môi tím ngắt, đầu ngoẹo đi. Lev Kirilovich kinh hoảng rụng rời, miệng há hốc. Các phu nhân vội đổ đi tìm vị giáo sĩ rửa tội. Đám người nghèo hèn rên khóc trong các xó xỉnh, góc nhà. Cả hoàng cung náo động.
Lúc đó, gác chuông nhà thờ Ivan Veliki rền vang tiếng đồng, chuông các nhà thờ lớn và các tu viện đổ hồi, bọn gia nhân kêu ầm ĩ. Giữa tiếng chuông, tiếng gào thét,  giọng hô dữ dội của các võ quan Đức vang lên: “Chú ý! Xuống súng... Đứng lại!... Nghiêm...”.
Nhiều đoàn xe tải, xe ngựa bốn bánh đổ về phía Thềm Đỏ chạy hết tốc lực trước hàng quân và đám dân chúng.
Mọi người đưa mắt tìm nhưng không thấy Sa hoàng trong đám áo choàng sang trọng, áo khoác và mũ cắm lông chim của bọn tướng lĩnh.
Vua Piotr chạy thẳng đến cung thái hậu; trong các hành lang mọi người chỉ kịp tránh vội sang một bên. Da sạm nắng, gầy gò, tóc cắt ngắn, bận áo chẽn bằng nhung đen, quần bồng, nhà vua leo lên cầu thang, trong số những người gặp nhà vua lướt qua, có kẻ tưởng đó là một kỵ sĩ ở Kukui (rồi khi nhận ra là Sa hoàng, họ kinh hãi làm dấu). Mọi người không ai chờ nhà vua tới thì bỗng nhà vua mở cửa đột ngột xộc vào căn phòng nhỏ, thấp, ngột ngạt, tường lót da Cordu.
Natalia Kirilovna nhổm dậy trên đống gối, cặp mắt long lanh trừng trừng ngó nhìn người thủy thủ Hà Lan gầy gò đó.
- Mẹ, - nhà vua kêu lên như thuở xa xăm xưa kia khi còn nhỏ, - mẹ thân yêu.
Natalia Kirilovna giơ hai tay ra đón con:
- Piotr thân yêu, con của mẹ.
Tình mẫu tử giúp cho thái hậu nén được nỗi đau đớn vì cái đinh đâm vào trái tim và bà nín thở trong khi nhà vua phục xuống đầu giường hôn lên vai và mặt mẹ. Bỗng một cơn đau nhói như xé ngực thái hậu, bấy giờ bà mới rời mấy ngón tay buông cổ con trai ra.
Vua Piotr vùng đứng dậy; nhà vua tựa hồ như tò mò nhìn cặp mắt trợn trừng của mẹ. Các phu nhân không dám khóc to phải cắn vào khăn tay. Lev Kirilovich run lẩy bây. Một lát sau, đôi hàng mi Natalia Kirilovna rung lên. Vua Piotr khàn khàn thốt ra một câu, chẳng ai hiểu nhà vua nói gì. Nhà vua lao ra phía cửa sổ, lắc mạnh cái khuôn chì làm các miếng kính tròn nhỏ rơi vung vãi.
- Đi tìm Blumentrox ở xloboda!
Thấy mọi người vẫn chưa hiểu, nhà vua liền nắm lấy vai một phu nhân.
- Đồ ngu, đi kiếm y sĩ! - Rồi đẩy bà ta ra ngoài.
Bà phu nhân hết cả hồn vía, chạy bổ xuống cầu thang mồm lắp bắp:
- Sa hoàng ra lệnh! Sa hoàng ra lệnh! - Nhưng ra lệnh làm gì thì bà ta không nói được.
Natalia Kirilovna hơi đỡ một chút và hai hôm sau bà đã gượng dự được buổi lễ chầu. Bà đã ăn được...
Vua Piotr đi Preobrazenskoe, nơi Evdokia ở cùng với hoàng tử Aleksey (hoàng hậu chuyển ra đó hồi mùa xuân để xa thái hậu). Nàng tưởng chồng mấy hôm nữa mới tới, nên chẳng trang điểm, chải tóc gì hết thì bỗng nhiên vua Piotr hiện ra trên con đường nhỏ, rải cát trong vườn rau, chỗ người ta đang nấu thứ mứt táo “antonovka” dưới bóng những cây bồ đề.
Những cô hầu phòng để bím tóc dài, người nào cũng xinh đẹp, trán chít một dải băng, mặc áo dài mùa nực màu hồng, đang gọt táo dưới sự trông nom của mụ Vorobikha; nhiều cô gái khác vác củi tiếp cho chiếc lò con đun cái chảo đồng đang sủi; một số khác nữa ngồi trên tấm thảm, đùa với hoàng tử là một cậu bé con gầy còm, trán to, có cặp mắt âu sầu không vui và cái miệng nhỏ hay nhè.
Chẳng hiểu chú bé muốn gì. Các cô gái mông to bắt chước tiếng mèo kêu, chó sủa, bò bốn chân, rũ ra cười nhưng chú bé nhìn họ khó chịu, chỉ chực khóc.
Evdokia bực mình:
- Đồ ngốc, các cô đầu óc để đâu ấy... Xterska, sao lại vén áo lên thế? Chờ đấy để ta cho mấy roi vào chỗ ấy! Vaxionka, làm sừng cho thái tử xem đi... Bắt một con bọ dừa, lấy cọng rạ xuyên vào người nó, nghĩ ra một trò chơi gì chứ... Cả lũ các cô ở đây ăn bánh mì của ta mà không làm thằng bé vui được à?
Evdokia thấy bức, nàng bị đàn ruồi mùa thu quấy rầy. Nàng bỏ khăn, sai bới tóc. Ngày hôm ấy, trời trong suốt không gợn một cơn gió, bên trên rặng bồ đề là vòm trời xanh trong, Nếu ngày lễ Biến dung của Đức Chúa Trời - là ngày người ta xin giáng phúc cho táo - chưa qua, được chạy ra sông tắm mát thì sung sướng biết chừng nào, nhưng con hươu đã nhúng sừng xuống nước mất rồi cho nên việc đó cấm, nếu làm sẽ mang tội. Bỗng có một người đàn ông ngăm ngăm đen, cao lênh khênh, bận toàn đồ đen, hiện ra trên con đường nhỏ. Evdokia đưa hai bàn tay lên ôm lấy má. Trống ngực nàng đập mạnh đến nỗi nàng chẳng còn biết gì nữa.
Các cô gái thốt lên một tiếng “a”. Rồi mạnh ai nấy chạy tán loạn, bay tung cả bím tóc, trốn vào các bụi tử đinh hương và tường vi. Vua Piotr lại gần Evdokia, ôm lấy hai bên nách nàng, hôn vào miệng, ép răng chặt vào môi nàng. Nàng nhắm nghiền mắt lại chẳng chịu hưởng ứng. Qua khe chiếc áo dài cởi khuy, nhà vua hôn lấy hôn để cặp vú ẩm ướt của nàng.
Evdokia rên thẹn đỏ mặt, run lẩy bẩy. Cậu bé Olesenka còn một mình ngồi trên tấm thảm, khóc thút thít như một chú thỏ non. Vua Piotr liền ôm lấy con tung lên cao làm chú bé hét váng lên.
Cuộc gặp gỡ chẳng ra thế nào. Vua Piotr hỏi mấy câu, Evdokia trả lời ngược hết cả. Đầu tóc rũ rượi, phục sức sơ sài. Chú bé bê bết mứt. Cố nhiên là đức ông chồng lăng quăng một lúc rồi bỏ đi.
Trước hoàng cung, một đám đông, nào thợ cả, thương nhân, nào tướng lĩnh, bạn rượu vây quanh nhà vua. Ở xa cũng nghe thấy tiếng cười nhát gừng của Sa hoàng.
Rồi nhà vua bỏ ra xem hạm đội sông Yauza. Và từ đó nhà vua đi thẳng đến xloboda Kukui. A, Dunia, Dunia, nàng đã để hạnh phúc tuột khỏi tay mất rồi!
Mụ Vorobikha bảo tình hình còn có thể cứu vãn được. Mụ kiên quyết bắt tay vào việc. Mụ cho các cô gái đi đun nước xông hơi và sai các vú em đưa Olesenka đi rửa ráy, thay quần áo. Mụ thì thầm với hoàng hậu:
- Con bạch nga của già ơi, đêm đến đừng có hốt hoảng đấy, Chúng con sẽ để hoàng hậu xông hơi theo kiểu nông dân chúng con, chúng con sẽ rót kvas lên mấy hòn đá nung, sẽ tắm hoàng hậu bằng nước cánh kiến trắng, hoàng thượng có thể ngửi hít vào đâu tùy ý. Là vì với đàn ông, cốt nhất là cái mùi thơm. Còn hoàng hậu xinh đẹp của già ơi, nếu hoàng thượng có bảo gì thì cứ cười suốt để cho cả người rung rung lên, cười khẽ thôi, cười tí chút ở ngực thôi. Thế thì cứ gọi là một người chết cũng phải phát điên phát cuồng lên.
- Vorobikha, hoàng thượng lại tìm đến với con người Đức rồi...
- Ồ hoàng hậu ạ, khôn thì đừng có đả động gì đến chuyện ấy. Con người Đức ấy có đáng kể gì: mặt thì nhăn nhó, óc thì hám lợi, tâm địa thì đen tối, da thì dính nhằng nhằng. Còn hoàng hậu thì như con bạch nga, cứ đón hoàng thượng vào chiếc giường nhỏ, cố gắng cho dễ thương, tươi tỉnh lên. Con người Đức ấy chẳng so sánh nổi với hoàng hậu đâu.
Evdokia đã hiểu, nàng hối hả sửa soạn. Nồi nước xông hơi rất nóng. Bọn con gái do Vorobikha điều khiển đặt hoàng hậu nằm lên chiếc ghế dài bên trên; họ lấy những bó cành phong dấp nước bạc hà và cánh kiến trắng vẩy lên trên mình nàng. Rồi họ đưa nàng - mềm mại và bải hoải - về buồng ngủ, họ chải tóc, tô son, thoa phấn cho nàng, đặt nàng lên giường rồi kéo rèm.
Evdokia nằm đợi. Có tiếng chuột sột soạt đâu đây. Đêm đến, hoàng cung thiêm thiếp ngủ. Một lính canh gõ mõ ngoài sân. Tim Evdokia đập thình thịch trên gối. Vua Piotr mãi vẫn chưa đến. Evdokia nhớ lại lời mụ Vorobikha, và mặc dù căm ghét con bé người Đức đến run cả bụng và lạnh toát cả chân, nàng cứ nằm trong bóng tối tủm tỉm cười thầm.
Tên lính canh đã thôi gõ mõ, đàn chuột cũng đã im. Sáng mai, nàng sẽ xấu hổ ngay cả với các cô hầu phòng thôi!
Evdokia gắng tập trung can đảm; nhưng nàng nhớ lại đêm tân hôn với vua Piotr khi hai người cùng ăn một con gà. Và nàng gục mặt vào gối thổn thức, làm ướt đẫm cả gối.
Một hơi thở nóng bỏng làm nàng thức giấc. Nàng định ngồi nhỏm dậy: “Ai đấy? Ai đấy?”.
Nàng còn ngái ngủ nên không hiểu là ai đã đè lên người nàng. Khi đã rõ, nàng cực thân, rên rỉ, nắm hai tay che lấy mắt. Vua Piotr trông không còn ra hình người nữa, say mèm, nồng nặc mùi thuốc lá, từ nhà con bé người Đức đi thẳng lại đây là nơi nàng chờ đợi chồng bấy lâu nay. Nhà vua chẳng hề vuốt ve nàng, cứ lặng lẽ cưỡng chế nàng một cách hung bạo.
Chao ôi, thật chẳng bỏ cái công tắm nước cánh kiến trắng!
Evdokia nằm lùi ra mép giường. Vua Piotr lúng búng câu gì đó rồi lăn ra ngủ như một nông dân say rượu nằm trong hố. Qua khe rèm, lờ mờ ánh ban mai xanh nhạt. Evdokia trông thấy cặp chân dài trần trụi của vua Piotr thì cả thẹn liền kéo chăn đắp lên. Nàng khóc thầm; thật uổng công Vorobikha dặn dò...
Một người liên lạc cưỡi ngựa phóng nước đại từ Moskva đến: Natalia Kirilovna lại mệt. Mọi người đổ đi tìm Sa hoàng. Nhà vua đang ở xloboda mới của Preobrazenskoe, ngồi ở bàn trong ngôi nhà gỗ của người lính Bukhbustov, ăn bánh tráng nhân dịp có một lễ rửa tội. Toàn chỗ bạn bè cả: trung úy Alekxandr Melsikov, Alioska Brovkin vừa được Sa hoàng phong làm quan hầu và đại vương-trùm đạo. Mọi người bỡn cợt cười đùa, Melsikov kể chuyện mười hai năm trước hắn trốn khỏi nhà bố cùng với Alioska; hai người đã sống ở nhà Zaiatz, đã đi lang thang, ăn cắp. Một hôm, bên bờ sông Yauza, họ trông thấy vua Piotr hồi ấy còn bé và dạy nhà vua cách xuyên kim có chỉ qua má.
- Thế ra hồi ấy là ngươi đấy à? Chính ngươi đấy à? - Vua Piotr ngạc nhiên hỏi to. - Sau đó ta đi tìm ngươi suốt sáu tháng trời... Ta mê người vì cái kim ấy đấy Alexaska ạ!
Rồi nhà vua hôn hắn vào miệng, vào lợi.
- Thế Piotr Alekseevich, hoàng thượng còn nhớ không? - đại vương-trùm đạo vừa hỏi vừa giơ ngón tay út lên dọa, - Hoàng thượng còn nhớ cái roi của thần dùng đánh hoàng thượng vì những trò tinh nghịch không? Chà, hồi ấy hoàng thượng quả là một thằng bé hư thượng hạng. Đã có lần hoàng thượng...
Rồi Nikita Zotov kể chuyện rằng từ hồi còn là con nít không cao hơn một chiếc ủng, vua Piotr đã có chí khí của một nhà chính trị. Đã có lần Người hỏi các vị đại thần một câu làm họ suy đi nghĩ lại mãi vẫn không trả lời được. Bấy giờ vua Piotr mới giơ bàn tay nhỏ xíu và giải đáp. Quả là thần kỳ. Khách khứa ai nấy há hốc miệng ra nghe kể những chuyện kỳ lạ đó. Và vua Piotr, mặc dầu chẳng nhớ gì những chuyện phi thường ấy, cũng phụ họa theo vì thấy mọi người đều tin là có thực...
Bukhbustov lại rót một lượt rượu đầy cốc. Y là một nông dân láu cá, nhưng lại làm ra vẻ hiền lành và không vụ lợi. Y rất hiểu vua Piotr, dù nhà vua say hay tỉnh cũng vậy.
Nhưng cố nhiên y không thể sánh được với Alexaska: y không còn trẻ như Alexaska nữa và cũng không lanh trí bằng. Y mỉm cười, thết đãi khách và không tham gia trò chuyện.
- Các vị thứ tưởng tượng xem, - Melsikov nói, cọ hai tay áo màu quả dâu thêu kim tuyến vào khăn bàn (hắn ngồi rất ngay ngắn, ăn ít, uống rượu không say, chỉ có cặp mắt là xanh thêm), - các vị thứ tưởng tượng xem câu chuyện chúng tôi vừa được biết: quan hầu của Sa hoàng là Aleksey Brovkin có một cô em, một cô gái xinh đẹp vừa tuổi cập kê. Ta cần can thiệp vào việc này.
Anh chàng Alioska nghiêm trang chớp chớp mắt và bỗng tái mặt. Mọi người hỏi dồn hắn, vua Piotr hỏi nhiều hơn cả. Bấy giờ Alioska mới chịu xác nhận; quả là có câu chuyện phải gả chồng cho cô em gái Alekxandra của hắn - Xania - nhưng chưa tìm được món nào xứng đáng. Ông bố là Ivan Artemist bây giờ làm cao đến nỗi những thương gia bậc trung ông cũng chê. Ông nuôi một đàn chó ngao làm mọi người sợ hãi phải tránh đi qua cửa nhà ông. Ông thẳng tay xua đuổi các bà mối. Ông đày đọa Alekxandra vào một cảnh ngộ làm nàng ngày đêm khóc lóc: tuổi xuân qua đi, nàng e rằng chỉ vì cái thói kiêu hãnh của bố, tình trạng nầy dễ có khi sẽ kết thúc bằng một cái khăn nữ tu sĩ chứ không phải là một vòng hoa cô dâu...
- Sao thế, không có đám nào đánh tiếng ư? - vua Piotr sốt ruột hỏi. - Này trung úy Melsikov, ngươi nên cưới vợ đi?
- Không được, thần còn ít tuổi quá, chẳng kham nổi một cô vợ đâu, Myn Herz.
- Thế còn ngươi, đại đế rất thánh Anikita? Ngươi có muốn lấy vợ không?
- Đối với một cô gái chanh cốm, thần luống tuổi quá mất rồi? Thần thích đi lại với bọn đĩ hơn.
- Thôi được, bọn quỷ ma men... Alioska, viết thư cho ông bố ngươi đi, bảo ta sẽ làm ông mối cho.
Alioska trút bộ tóc đen giả to sù ra và nghiêm trang cúi chào sát đất.
Vua Piotr định về làng ngay tức khắc để đến nhà Brovkin. Nhưng có người liên lạc ở điện Kreml đến trao cho nhà vua một bức thư của Lev Kirilovich. Hoàng thái hậu đã băng hà.
Mọi người đứng dậy khỏi bàn, bỏ tóc giả ra trong khi vua Piotr đọc thư.
Cặp môi nhà vua run run, hai bên mép trễ xuống. Nhà vua đến bậu cửa sổ cầm lấy mũ đội sụp xuống tận mắt, nước mắt ròng ròng trên má.
Nhà vua lẳng lặng bước ra đi ngang qua xloboda, đôi giầy hất bụi mù lên.
Được nửa đường thì một cỗ xe lại đón; vua Piotr lên xe, thúc ngựa phi nước đại về phía Moskva.
Trong lúc mọi người còn mải bàn tán và dự đoán về các việc có thể xảy ra, thì Alekxandr Melsikov đã báo cho Lơfo biết cái tin quan trọng: vua Piotr trở nên vị chúa tể độc nhất. Lơfo sung sướng ôm ghì lấy Alexaska.
Hai người thì thầm trò chuyện. Vua Piotr không còn lảng tránh được công việc quốc sự nữa. Nhà vua sẽ nắm trong tay toàn bộ Ngân khố và quân đội, chẳng còn ai dám trái ý nhà vua trừ phi các bè bạn thân cận nhất. Phải di chuyển chính triều ra Preobrazenskoe và bảo Anna Monx đừng làm bộ làm tịch nữa mà hãy hiến thân hoàn toàn cho Sa hoàng đi. Phải thế mới được.
Sa hoàng chưa tới, không ai đụng đến Natalia Kirilovna. Thái hậu nằm, nét mặt ngơ ngác, tím ngắt như bị bóp cổ, mắt nhắm nghiền, cầm một tượng thánh nhỏ trong đôi bàn tay phù.
Vua Piotr ngắm nhìn khuôn mặt. Nhà vua có cảm giác thái hậu bỏ đi xa lắm đến mức chắc đã quên hết mọi chuyện. Nhà vua cố tìm xem may ra còn thấy được trên khóe môi một chút tàn dư nào của tình mẫu tử chăng? Nhưng không. Chưa bao giờ cặp môi đó mím lại với một vẻ xa lạ như thế. Vậy mà mới sáng nay thôi, những khi đỡ ngạt thở, thái hậu còn gọi tên nhà vua: “Piotr, con của mẹ... Ta muốn ban phúc lành cho nó”.
Nhà vua cảm thấy mình trơ trọi giữa toàn người lạ... và tự thương thân vì thấy mình bơ vơ...
Nhà vua so vai, cau mặt.
Trong phòng ngoài các phu nhân đang khóc sướt mướt ra, còn có vị giáo trưởng mới Adrian, người bé nhỏ, tóc màu nâu nhạt, đứng nhìn Sa hoàng với một vẻ tò mò ngây dại, và công chúa Natalia Alekseyevna, chị ruột vua Piotr, hơn nhà vua ba tuổi, một thiếu nữ dịu dàng và tươi tắn. Nàng rầu rĩ đứng, một bàn tay đỡ lấy má như kiểu các cô thôn nữ, cặp mắt màu tro long lanh tình thương mẹ. Vua Piotr lại gần:
- Natasa... Tội nghiệp cho mẹ...
Natalia Alekseyevna ôm lấy đầu vua, ghì vào lòng.
Các phu nhân khẽ sụt sùi. Giáo trưởng Andrian quay lưng lại linh sàng để nhìn Sa hoàng khóc cho rõ hơn, miệng hơi hé ra. Lev Kirilovich loạng choạng bước vào, bộ râu ướt đầm đìa, cặp má sưng đỏ lên như miếng thịt tươi; lão phục xuống cạnh linh sàng, nằm im, chỉ có cặp mông là run rẩy.
Trong khi mọi người lau chùi và trang điểm cho người quá cố, Natalia Alekseyevna dẫn em trai về căn buồng nhỏ của mình ở tầng gác trên.
Vua Piotr ngồi xuống cạnh khuôn cửa sổ nhỏ lắp kính ngũ sắc. Nơi đây hầu như chẳng có cái gì thay đổi từ thuở thơ ấu của hai chị em. Nhà vua lại thấy vẫn những chiếc rương nhỏ, những tấm thảm ấy; trên các giá có những con giống bằng bạc, bằng thủy tinh, bằng đá; một chiếc gương Vơnidơ hình trái tim, những trang kinh thánh tô màu, những vỏ ốc hải ngoại...
- Natasa, - nhà vua khẽ hỏi, - thế còn người Thổ Nhĩ Kỳ mắt dữ đâu, chị có nhớ không? Chị và em đã bẻ đầu nó đi rồi ấy mà.
Natalia Alekseyevna ngẫm nghĩ rồi mở một chiếc rương nhỏ lấy ở đáy rương ra tượng người Thổ Nhĩ Kỳ cụt đầu. Nàng đưa em xem, đôi mày rung rung. Nàng ngồi xuống cạnh em, ghì chặt lấy em; hai chị em òa lên khóc.
Chập tối, người ta rước thi hài Natalia Kirilovna bận áo dài đỏ thêu kim tuyến vào Điện Hữu giác. Vua Piotr ngồi cạnh linh cữu, cúi xuống một cái giá tán kinh giữa những ngọn nến lầm rầm đọc. Trước hai cửa ra vào, là đội cận vệ trang phục trắng đứng từng đôi một, vai vác một lưỡi phủ nhỏ; họ khe khẽ dẫm chân tại chỗ.
Lev Kirilovich quỳ ở phía chân linh cữu. Mọi người trong hoàng cung mệt lử đã ngủ cả...
Đương đêm có tiếng kẹt cửa rồi Sofia bước vào, bận áo choàng đen cứng, đội mũ đen. Công chúa không nhìn em trai, hôn lên vầng trán tím ngắt của Natani Kirilovna rồi cũng quỳ xuống.
Vua Piotr lật những trang giấy dây sáp dính lại với nhau, khẽ đọc. Lâu lâu lại có tiếng chuông bính boong. Sofia liếc mắt nhìn em. Khi khuôn cửa sổ đã lờ mờ sáng. Sofia lặng lẽ đứng dậy, lại gần giá tán kinh khẽ bảo:
- Để chị đọc thay... Em đi mà nghỉ.
Nghe cái giọng nói đó, vua Piotr tự nhiên thấy chối tai. Nhà vua ngừng bặt, nhún vai, né ra.
Sofia khẽ đọc tiếp. Vừa đọc công chúa vừa lấy ngón tay gạt bấc nến.
Vua Piotr tựa lưng vào tường, nhưng không thấy thoải mái, đầu nhà vua chạm tới vòm trần. Vua ngồi xuống một chiếc rương, chống khủy tay lên gối, che mặt, tự nhủ: “Dù sao ta cũng chẳng tha thứ cho chị ấy!”.
Cảnh tượng đêm cuối cùng của cuộc sống cũ trong điện Kreml đã diễn ra như vậy.
Hai hôm sau, tang lễ vừa xong, vua Piotr liền đi thẳng đến Preobrazenskoe ngủ. Evdokia đến sau. Đi theo nàng là cả một đoàn các phu nhân mà nàng cũng chẳng rõ tên họ là gì. Giờ họ gọi nàng là mẫu hậu thân yêu, xoắn xuýt lấy nàng, nịnh hót nàng, cầu xin nàng cho phép được hôn tay. Nàng phải vất vả mới gạt họ đi được. Nàng đến chỗ Olesenka trước rồi về buồng ngủ.
Vua Piotr cứ để nguyên quần áo, nằm dài trên chiếc giường phủ xa-tanh trắng, chỉ tháo có đôi giầy lấm bụi. Evdokia nhăn mặt: “Ô, những cái thói ở Kukui thế đấy, họ uống rượu rồi cứ thế nằm vật xuống”.
Nàng ngồi xuống trước gương cởi áo; trước khi ăn nàng muốn nghỉ ngơi. Nàng không sao quên được bọn phu nhân trong cung, những lời nịnh hót của họ. Và nàng chợt hiểu giờ đây nàng đã là một bà hoàng uy quyền tuyệt đối. Nàng chớp mắt, mím môi như kiểu cách một vị hoàng hậu: “Anna Monx, đày chung thân sang Siberi. Điểm thứ nhất này. Rồi mình phải nắm lấy chồng mình... Cố nhiên bà mẹ chồng đã quá cố ghét mình nên chỉ có nói xấu mình với nhà vua thôi. Giờ thì cơ sự sẽ đổi khác. Hôm qua mình chỉ là cô bé Dunia tầm thường, hôm nay đã là hoàng hậu toàn bộ các Đại và Tiểu và Bạch Nga”. Nàng hình dung mình sẽ ra mắt dân chúng như thế nào, khi ở nhà thờ lớn Thăng Thiên bước ra, giữa tiếng chuông rền vang, đi trước các vị đại thần, nàng thấy như tắt cả thở. Mình phải sai may cho mình một cái áo đại lễ mới. Lẽ nào mình lại đi bận đồ của Natalia Kirilovna thải ra. Petrusa thì luôn luôn đi vắng, mình sẽ phải cai trị lấy... Thì Sofia cũng đã cai trị đấy, vậy mà bà ấy có hơn tuổi mình bao nhiêu đâu. Và nếu có gì cần suy tính thì đã có các vị đại thần... Bỗng nàng khẽ bật cười khi nghĩ đến Lev Kirilovich. “Trước kia lão có chú ý gì mấy đến mình, lão còn mải nhìn đi đâu ấy; thế mà hôm nay lúc cử hành tang lễ, lão lại đỡ mình, mắt chăm chú chờ đợi một đặc ân. Chà, cái thằng béo ngu ngốc!”.
- Dunia?
Nàng giật mình quay lại. Vua Piotr chống khuỷu tay, nằm nghiêng:
- Dunia, mẹ mất rồi.
Evdokia chớp chớp mắt.
- Trống trải quá... Ta ngủ thiếp đi mất... A... Dunetska...
Nhà vua như chờ đợi một điều gì ở nàng. Cặp mắt nhà vua trông tội nghiệp. Nhưng nàng đang say sưa với ý nghĩ của mình nên đã mạnh dạn hẳn lên:
- Như vậy là ý Chúa muốn thế... Chúng ta chẳng nên phàn nàn, có phải không? Chúng ta đã khóc, thế là phải đạo rồi. Chúng ta là bậc vua chúa... Còn phải lo nhiều chuyện khác!
Vua Piotr từ từ chống tay ngồi dậy, hai chân buông thõng. Ở chỗ ngón chân cái, chiếc bít tất có một lỗ thủng.
- Hơn nữa, thiếp còn muốn nói với bệ hạ điều này: cứ mặc nguyên quần áo nằm lên chăn xa-tanh là không nên, là bất lịch sự... Lúc nào bệ hạ cũng lăn lộn với đám lính tráng và bọn nông dân. Vậy mà thật đã đến lúc phải...
- Sao, sao? - Vua Piotr ngắt lời. Cặp mắt nhà vua lại sáng lên. - Khanh có chót nhỡ ăn phải nấm độc không đấy Dunia?
Mắt Piotr làm nàng sợ; tuy nhiên nàng vẫn tiếp tục tuôn ra những lời lẽ ngu ngốc tuy đã đổi khác giọng. Nhà vua chẳng hiểu gì cả. Nhưng khi nàng thốt ra: “Mẫu hậu vẫn ghét thiếp xưa nay, từ ngày cưới. Thiếp đã khóc hết biết bao là nước mắt”, thì vua Piotr đột nhiên nghiến răng và bắt đầu xỏ giầy.
- Petrusa, có chỗ thủng đấy, bệ hạ thử nhìn xem, thay bít tất đi, trời ạ...
- Ta đã thấy nhiều đứa ngu, nhưng không thấy ai như cô... Thôi được, thôi được... - Hai bàn tay nhà vua run lên - Dunia, rồi cô sẽ biết tay ta về cái chết của mẹ ta. Cả đời lần này ta mới hỏi cô là một... Ta sẽ không quên đâu...
Nhà vua đi ra, đóng sập cửa mạnh đến nỗi Evdokia rúm cả người lại. Nàng sững sờ ngồi trước gương hồi lâu. Nào mình có nói gì đâu nhỉ? Hoàng thượng điên khùng mất rồi, có thế thôi.
Lơfo đợi nhà vua đã từ lâu ở buồng ngoài. Khi cử hành tang lễ, hai người chỉ nhìn thấy nhau từ xa. Hắn choàng tới nắm lấy tay nhà vua:
- Ôi, Pete, Pete, đau xót quá... (Vua Piotr vẫn còn hầm hầm). Thần xin phép được chia buồn với hoàng thượng. Thần xin có lời chia buồn, thần xin có lời chia buồn Ôi, lòng thần tràn ngập đau thương, đau thương.
Cũng như mọi lần mỗi khi xúc cảm là Lơfo lại nói lẫn cả tiếng Đức làm vua Piotr hết sức động lòng.
- Thần biết là thần muốn an ủi hoàng thượng cũng vô ích... Nhưng hoàng thượng hãy lấy tính mạng của thần, hoàng thượng cứ lấy đi và đừng đau khổ nữa, Pete...
Vua Piotr ôm chặt lấy Lơfo và siết má vào bộ tóc giả thơm phức của hắn. Thật là một người bạn đáng tin. Lơfo thì thầm:
- Ta lại đằng nhà thần đi, Pete... Hoàng thượng cần phải khuây khỏa nỗi buồn... Chúng thần sẽ giúp hoàng thượng vui lên đôi chút, nếu hoàng thượng muốn... Hay là ta cùng khóc...
- Phải đấy, phải đấy, Franx, lại đằng nhà khanh đi!
Lơfo đã chuẩn bị đầy đủ. Bàn ăn dọn cho năm người trong một căn buồng nhỏ, cửa ra vào trông ra vườn có những nhạc công nấp sau các bụi cây. Hai thằng lùn, Tomox và Xeka, bận áo dài kiểu La Mã và đội một vòng lá phong hầu bàn. Khắp buồng có trang trí những tràng hoa hồng. Vua Piotr, Lơfo, Melsikov và đại vương trùm đạo ngồi vào bàn. Không thấy có vodka và các món nhắm thường dọn kèm theo. Hai thằng lùn giơ cao trên đầu mang ra những chiếc đĩa mạ vàng đựng món paté chim sẻ và cun cút quay.
- Thế cái đĩa thứ năm kia của ai? - Vua Piotr hỏi.
Lơfo tủm tỉm cười, nhếch mép.
- Hôm nay, ta dự một bữa ăn tối kiểu La Mã để mừng thanh danh nữ thần Xerex nổi tiếng với câu chuyện ly kỳ, cảm động xảy đến với con gái Người là Prodecpin...
- Chuyện ly kỳ ra sao? - Alexaska đã bải hoải đến cực độ hỏi. Hắn mặc áo nẹp lụa và đội bộ tóc giả, búp uốn rủ chấm thắt lưng. Anikita cũng phục sức giống thế.
- Nàng Prodecpin bị Diêm vương là Pluton bắt mất, - Franx đáp - Mẹ nàng lo buồn... Và câu chuyện hình như đến đó phải kết thúc. Vậy mà không. Không có chết chóc gì hết, mà lại là một sự phát triển vĩnh cửu... Cô gái Prodecpin khốn khổ đã mọc xuyên qua đất thành những quả lựu kỳ diệu và cô đã hiện lên với mẹ như vậy để an ủi mẹ.
Vua Piotr im lặng, buồn bã. Ngoài vườn tối đen và ẩm ướt. Nhìn qua khuôn cửa sổ trông thấy sao trên trời. Thỉnh thoảng một chiếc lá úa rơi xuống trong luồng ánh sáng từ căn buồng hắt ra.Vua Piotr lại hỏi:
- Thế suất ăn này là của ai?
Lơfo giơ một ngón tay lên. Có tiếng cát trong vườn lạo sạo. Ansen bận một chiếc áo dài rộng thùng thình bước vào; tay trái nàng cầm những bông lúa, còn tay phải bưng một chiếc đĩa đầy cà rốt, rau diếp, củ cải và táo. Tóc nàng tết thành một búi cao dắt mấy bông hồng.
Ánh nến chiếu sáng khuôn mặt kiều diễm.
Vua Piotr không đứng dậy, nhà vua bíu lấy tay ghế vươn mình về phía trước. Anna đặt chiếc đĩa trước mặt nhà vua và cúi rạp xuống chào lạy; chắc người ta có dạy nàng chúc tụng một câu hợp cảnh, nhưng nàng bối rối chẳng nói gì và như vậy lại hơn...
- Xerex dâng hoa quả lên bệ hạ, như vậy có nghĩa là không có chết chóc gì cả... Bệ hạ hãy nhận lấy để mà sống! - Lơfo vừa reo lên, vừa mời Anna ngồi xuống ghế. Nàng ngồi bên cạnh vua Piotr. Người ta rót thứ rượu vang bọt của Pháp loại mạnh. Vua Piotr nhìn Anna không rời mắt. Tuy vậy quanh bàn vẫn còn vấn vương đôi chút ngượng ngùng. Anna đặt mấy ngón tay lên cánh tay nhà vua:
- Thiếp xin có lời chia buồn kính thưa ngài Pete. - Cặp mắt to của nàng nhòa lệ - Thiếp xin hiến dâng tất cả để có thể an ủi được bệ hạ.
Rượu vang, lại có Ansen ngồi kề bên, tỏa một sự ấm áp dịu dàng trong lòng vua Piotr. Đã thấy đại vương trùm đạo nháy mắt. Alekkxaska thèm vui nhộn đến chết được. Lơfo sai một thằng lùn ra vườn và nhạc nổi lên - gồm đàn và trống nhỏ. Áo Anna sột soạt, mắt nàng đã ráo lệ như trời tạnh sau cơn mưa. Vua Piotr gắng quên sầu:
- Rót thêm rượu vang mạnh, rót thêm rượu vang mạnh, Franx...
- Ngươi nói chí phải, con ạ, - Anikita nói, khuôn mặt nhăn nheo hớn hở. - Với các vị thần Hy Lạp và La Mã, quả có dễ chịu hơn...

Chương 79

Trong các khu rừng sâu bên kia sông Oka (nơi cả bọn sống suốt mùa hạ), gã què Opdokim như cá gặp nước, hắn ưa may và táo bạo. Hắn tuyển một tốp nhỏ nông dân giàu kinh nghiệm và dày dạn, không sợ đổ máu mà cũng chẳng sợ chết, lảm việc gì đều tính toán kỹ. Chúng cắm trại trên một hòn đào, giữa một bãi lầy người hay vật muốn vào chỉ có mỗi một con đường mòn độc đạo ngoằn ngoèo. Đây là nơi tập trung mọi thứ lấy được: bánh mì, gà vịt, rượu vang, quần áo, đồ bạc cướp của các nhà thờ. Cả bọn sống trong những hố phủ cành cây. Một chòi gác được bố trí trên một cây thông cổ thụ, Yuda thường vẫn trèo lên để quan sát tứ phía.
Chín tên cướp trú chân trên đảo, còn hai tên táo tợn nhất bọn thì làm do thám lảng vảng trong các quán rượu và trên các nẻo đường. Một đoàn xe chở hàng nào rời khỏi Moskva đi Tula, hoặc một tên đại thần nào sửa soạn để đi đến lãnh địa của hắn, hoặc một gã chủ quán của triều đình say rượu khoe hở ra rằng có chôn của, - lập tức một chú bé người làng cầm chiếc gậy mục đồng hay cái giỏ tót luôn vào rừng rậm, rồi chạy thật nhanh đến đảo. Nó huýt một tiếng còi, Yuda ngồi trên cây thông huýt còi đáp lại. Opdokim còng gập người từ trong chỗ trú đi ra. Chúng dẫn chú bé qua bãi lầy vào tới đảo rồi hỏi chú. Opdokim có chân tay ở khắp các thị trấn giáp con đường cái. Có bị chặt khúc, chúng cũng chẳng cung khai nửa lời.
Opdokim ve vuốt chúng, đãi chúng ăn, biếu chúng một kopeik, hỏi thăm bố mẹ chúng. Nhưng lớn bé đều sợ hắn một phép: tính tình hắn lúc nào cũng bình tĩnh và thanh thản, nhưng ngay cả thái độ niềm nở của hắn cũng làm chúng khiếp sợ.
Sống trong bãi lầy chẳng vui vẻ gì. Tối đến sương mù nhờ nhờ như sữa tỏa lên. Gân cốt, các vết thương cũ khổ sở vì ẩm. Ban đêm Opdokim cấm đốt lửa. Có một đêm tối như mực, một tên trong bọn cướp lên tiếng:
- Bọn tống trấn và bọn lãnh chúa chưa đủ hay sao mà lại còn bị thêm một thằng quỷ cưỡi đầu cưỡi cổ thế này?
Rồi hắn đốt một đống củi. Opdokim ôn tồn mỉm cười lại gần hắn, tay trái cầm lấy đôi nạng, còn tay phải chẹn lấy cổ hắn. Hắn thè cả lưỡi, lòi cả mắt ra, chúng đem quẳng xác hắn xuống hầm.
Mặt trời mọc vàng bủng, không mang lại chút hơi ấm nào. Các ngọn cây khuất đến lưng chừng trong sương mù. Bọn cướp ho, gãi những cặp mông bị ăn roi, xỏ lại giầy, hâm lại ca thức ăn. Chẳng có việc gì cho ra công việc. Thật là sung sướng khi nghe thấy tiếng còi của người đưa tin trong rừng. Cả bọn suốt ngày nằm nghiêng đến mụ cả người.
Chúng buồn liền đem chuyện ra kể, nghêu ngao những bài hát của bọn tù đi đày, nghe xót xa đến quặn lòng, ít khi chúng nói về bản thân chúng và có nói thì cũng nói rất ít. Ngoài Yuda và Zemov ra, còn cả bọn toàn là nông nô đào tẩu, - người ta săn bắt chúng, cùm chúng lại nhưng rồi chúng lại vượt ngục.
Opdokim thường ngồi lên một hòn đá phủ rêu kể chuyện. Cả bọn ngồi nghe, vẻ mặt rầu rầu trong cảnh rừng tịch mịch như ngủ. Opdokim kể những câu chuyện kỳ dị. Thà hắn cứ nói dối hẳn đi như những thằng khác còn hơn.
- Nghe đây này, các cậu ạ, - những thằng đó nói, - chẳng bao lâu sẽ có đạo dụ bằng vàng của Sa hoàng, rồi tất cả mọi người sẽ được tự do: cứ việc sống tùy sở thích, yên ổn, no đủ, chẳng phải lo nghĩ chuyện gì hết!
Cố nhiên, đấy là chuyện bịa, nhưng trong tiếng lá thông ẩm ướt reo, nghĩ đến vẫn thích.
Đằng này Opdokim lại không thế, hắn chẳng nói chuyện gì đáng phấn khởi bao giờ:
- Các cậu ạ có một thời, nhưng nó đã qua mất rồi, thời ấy đến sớm quá. Xưa kia tớ mặc một chiếc áo nẹp bằng dạ, đeo bên sườn một thanh gươm sắc và giắt một xấp thư phiến loạn trong lần lót mũ. Thời đó sẽ trở lại, các chú mày ạ, cho nên tớ mới giữ các chú mày lại trong rừng. Những kẻ đói khổ, những người khố rách áo ôm đã tụ tập nhau lại như bầy quạ, thành những đám đông vô kể. Họ mang theo một đạo dụ bằng vàng, khâu trong lần lót áo nẹp của Xtepan Timofeevich Razin, người Cô-dắc. Đạo dụ ấy viết bằng một mũi dao nhọn và bằng máu lấy ở các vết thương của chúng ta ra. Trong đạo dụ có ghi: hãy thẳng tay không chút thương xót với bọn nhà giàu, bọn lãnh chúa cùng với trại ấp của chúng, san phẳng hết thảy mọi thành phố và thị trấn cùng với đô thành Moskva. Trên dải bình địa, đưa dân Cô-dắc đến tự do sinh cơ lập nghiệp. Chà, việc đó không thành, các chú mày ạ. Nhưng rồi đâu sẽ có đấy, chẳng sai đâu. Điều đó có ghi trong quyển sách của Chim câu.
Hắn tì chòm râu cằm lên chiếc nạng, giương cặp mắt lờ đờ, nửa lục nửa lam nhìn bãi lầy, nhẹ tay đập một con muỗi đậu trên má và khẽ mỉm cười:
- Nếu anh em ta còn sống được đến ngày lễ Thánh cáo thì sẽ được hái nấm, ở đây có rất nhiều... Và hễ tuyết bắt đầu rơi là tớ sẽ dẫn cả bọn đi, các chú mày ạ, nhưng không đến Moskva nữa... Ở đấy làm ăn bây giờ gay go lắm. Vương hầu Romodanovski đã được bổ nhiệm giữ Bộ Hình. Người ta kể chuyện về hắn rằng: ngày nào, giờ nào hắn uống no máu thì hắn vui vẻ; nhưng hễ ngày nào hắn không có máu uống thì đến một mẩu bánh mì hắn cũng không nuốt nổi... Tớ sẽ dẫn các chú mày đến bờ sông Vyga, vào tận trong rừng sâu, tới chỗ ở của những người razkonic. Ở đấy có một căn buồng lớn có nhiều giường. Họ đục nhiều lỗ châu mai để chống lại quân của Sa hoàng. Có nhiều súng hỏa mai và thuốc nổ. Có một tu sĩ ở đó. Ông cụ thấp bé, già, tóc bạc trắng. Có chừng hai trăm tín đồ razkonic sống rải rác dọc sông Vyga... Họ ở trên nhà sàn. Họ cày ruộng không cần ngựa và cụ tu sĩ bảo gì họ làm tất. Càng ngày họ càng đông thêm. Chẳng ai giấu nổi ông cụ điều gì. Hàng tuần mọi người đều đến xưng tội với cụ. Cụ lấy một hạt nham lê đỏ, một nhúm bột lúa mạch hoặc kiều mạch đem trộn lẫn tất cả với nhau, cụ chỉ dùng có thế để làm lễ ban Thánh thể. Tớ sẽ dẫn anh em đến chỗ cái gốc nho về chiều đó bằng những con đường bí mật và các chú mày ạ, tới đấy, bọn ta sẽ nghỉ ngơi, ngừng mọi tội ác.
Bọn cướp nghe Opdokim nói đến sông Vyga thì thở dài, nhưng thật ít đứa tin rằng chúng có thể sống mà tới đó được, âu cũng là chuyện bịa nốt. Opdokim ít khi dự vào các vụ cướp. Hắn ở lại đảo một mình để nấu cháo, giặt quần áo. Nhưng khi nào chính hắn giắt một quả chùy chạm trổ vào dây lưng, là đồng bọn của hắn biết rằng chuyến đó sẽ gay go. Tuy tàn tật nhưng hắn lanh lẹn như một con nhện, khi đêm đến hắn huýt còi nghe sởn tóc gáy, vác chùy xông vào đàn ngựa mà đập vào trán. Nếu khách qua đường là một tên quý tộc hay một gã nhà giàu thì hắn thẳng tay chẳng tha, hắn sẽ tự tay hạ thủ. Nếu là những nông nô thì họ chỉ phải một mẻ sợ, hắn sẽ tha cho đi. Nhưng tai họa cho kẻ nào nhận được mặt hắn.
Ở Moskva, người ta biết rõ những vụ cướp xảy ra trên con đường đi Tula. Người ta đã nhiều lần phái binh lính do một trung úy chỉ huy đi dẹp bọn cướp. Nhưng không một mống nào vào rừng sống sót trở về. Chỉ có các bãi lầy, nơi Opdokim nhử họ vào, là biết được số phận hãi hùng của họ.
Bọn cướp sống như vậy, kiếm đủ ăn. Hết hè, Opdokim thu nhập ít đồ cho Digan, Yuda và Zemov đem đi bán ở chợ chính Tula.
- Các chú mày hãy đem tiền về, đừng có để linh hồn mắc thêm tội. Dù sao các chú cũng chẳng sống được đâu. Không, tớ sẽ tìm ra các chú.
Một tuần sau, chỉ có một mình Yuda trở về, bị thương ở đầu, đồ không còn mà tiền cũng hết.
Hòn đảo vắng tanh, chỉ còn vương vãi một đống tro lạnh và mấy cái quần áo rách. Gã chờ, gã cất tiếng gọi. Chẳng có ai thưa. Gã tìm nơi Opdokim chôn tiền đồng và bạc nén, nhưng không tìm thấy. Rừng rậm sừng sững, màu vàng xen màu đỏ, những sợi tơ hồng bay trên không, lá rụng lả tả. Yuda thấy lòng buồn rười rượi, gã nhặt vài mẩu cùi bánh khô rồi bỏ ra đi, chẳng biết là đi đâu, có lẽ là về Moskva.
Vừa ra khỏi đầm lầy, đến khu rừng thông đỏ sặc sỡ, gã trông thấy một đồng đảng là Fedor Fedorrop, nông nô đào tẩu của nhà Naryskin.
Fedor vốn hiền hành, đông con, tính tình nhẫn nhục như giống ngựa. Hắn phải nộp tô cao cho lãnh chúa và có thể nói là hắn lấy cái thân hắn ra để nuôi đàn con. Có một điều đã đem tai họa lại cho hắn: rượu vào là hắn điên lên; hắn vác gậy nhọn đi lang thang trong xóm, dọa đánh tan xác viên quản lý của Naryskin. Ai đã giết viên quản lý, hắn hay kẻ nào khác? Fedor thề với con cái là hắn vô tội trước Chúa rồi bỏ trốn.
Nay hắn bị treo cổ trên cành thông, tay bị trói giật cánh khuỷu, đầu ngoẹo sang một bên. Yuda không dám nhìn thẳng vào mặt hắn: “Ôi! bạn ơi!”, gã bật khóc và đi vào phía rừng  rậm.

Chương 80

Nếu các quan đại thần ngồi trong viện Duma, tại điện Kremlin vẫn hy vọng sống được như xưa nhờ ơn Chúa, - vị Sa hoàng trẻ tuổi, - họ tự nhủ, - sẽ bày ra những trò ngông cuồng của thời niên thiếu, mọi việc sẽ đâu vào đấy chẳng việc gì phải lo nghĩ; dù cơ sự có xảy ra thế nào đi chăng nữa thì nông dân vẫn cứ nuôi bọn mình, nếu bây giờ ở Preobrazenskoe, vua Piotr sống giữa đủ các hạng người mới, gian tham, nào lái buôn, nào quý tộc đã đem đổi danh dự của cha ông lấy một bộ tóc giả dài, nhà vua thẳng tay phung phí Ngân khố vào các trò du hí quân sự, vào việc đóng tàu, xây dựng các xloboda cho binh lính và lâu đài cho đám sủng thần, nếu nhà vua cứ vô tư lự đắm đuối trong các cuộc hoan lạc, tửu sắc, nếu Nhà nước trục trặc như một chiếc xe bò đi trên bãi lầy, - thì ở phương Tây (tại Vơnidơ, trong đế quốc La Mã và tại Ba Lan) sự việc lại diễn biến theo một chiều hướng không thể nào dung thứ sự trì trệ và tráo trở của triều đình Moskva được nữa.
Quân Thụy Điển hùng cứ ở Bắc Hải, còn quân Thổ Nhĩ Kỳ thì làm bá chủ Địa Trung Hải và được vua Pháp ngầm ủng hộ. Hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đoạt các tàu buôn của Vơnidơ. Vệ binh của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ tàn phá nước Hungary. Quân Tarta vùng Krym, thần dân của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ hoành hành trên các thảo nguyên miền nam Ba Lan.
Và Nhà nước Moskva theo một hiệp ước đã ký kết phải khởi binh đánh quân Tarta và quân Thổ Nhĩ Kỳ, thì cứ lần lựa, quanh co chẳng làm gì, chỉ gửi mấy bức thư.
“Bản triều đã hai phen cử một đạo quân đến Krym, nhưng các nước đồng minh không chịu ủng hộ. Năm nay, thu hoạch lúa kém, phải đợi sang năm. Bản triều không  khước từ việc binh đao, nhưng bản triều đợi quý quốc khởi chiến rồi bản triều sẽ giúp, bản triều xin thề như vậy”.
Các sứ thần của phiên vương xứ Krym nấn ná mãi ở Moskva; họ không tiếc một thứ quà cáp nào để đút lót quan đại thần, họ ra công thuyết phục đám đại thần là nên ký hòa ước vĩnh viễn với xứ Krym; họ thề sẽ không bao giờ tàn phá nước Nga nữa và thôi không đòi cái khoản cống vật nhục nhã xưa kia nữa.
Lev Kirilovich viết thư cho các sứ thần Nga ở Viên, Krakow và Vơnidơ là đừng có tin vào những lời hứa của Hoàng đế (1), Quốc vương (2) và Đại thống lĩnh (3), và về phía mình thì cũng chỉ hứa hẹn lửng lơ thôi.
Câu chuyện dây dưa đã sang đến năm thứ ba. Người Thổ Nhĩ Kỳ dọa sẽ đốt phá toàn cõi Ba Lan và cắm cờ trắng lưỡi liềm lên Viên và Vơnidơ. Johan Quetiux sứ thần của Hoàng đế từ Viên tới Moskva.
Đình thần hoảng sợ: thế nào cũng phải quyết định một bề rồi. Người ta đón tiếp sứ thần rất trọng thể, dẫn ông ta vào điện Kreml để ở trong một tòa lâu đài nguy nga, định mức cung đốn ăn uống gấp đôi sứ thần các nước khác, rồi người ta bắt đầu dối trá, làm rối rắm và kéo dài mọi việc, nói rằng Sa hoàng đi vắng để dự một cuộc hành lạc và nếu không có hoàng thượng thì chẳng quyết định được chuyện gì hết.
Tuy nhiên cũng vẫn phải bàn bạc. Johan Quetiux dồn bọn đại thần vào chân tường, nêu ra bản hòa ước ký trước kia và buộc họ phải quyết định khởi chiến: các quan đại thần phải hôn cây thánh giá mà thề như vậy.
Quetiux rất mừng liền ra về. Hoàng đế La Mã và Quốc vương Ba Lan gửi thư tạ ơn đến Moskva trong đó họ gọi Sa hoàng là “Hoàng thượng” với đủ mọi thứ danh hiệu thậm chí cả danh hiệu “Quốc vương các xứ Iberi, Georgi và Kabarda và tất cả các đất đai của cha ông, tổ tiên”.
Sau việc đó, Moskva còn lần lữa thêm được ít lâu. Nhưng rõ ràng là không thể tránh khỏi chuyện binh đao.
-------------
Chú thích:
(1) Hoàng đế Áo (ở thủ đô Viên).
(2) Quốc vương Ba Lan (ở thủ đô Krakow).
(3) Đại thống lĩnh Vơnidơ.

Chương 81

Sau tuần hội giả trang, khi tiếng chuông tuần chay vang rền trên đô thành Moskva yên tĩnh trong ánh bình minh êm dịu, cùng một lúc mọi người bàn tán về chiến tranh ở khắp các chợ, các xoloboda và trong hết thảy các thị trấn. Dường như chỉ trong vòng một đêm có kẻ đã nói với mọi người:
- Dẫu sao thì thế nào cũng sẽ có chiến tranh, cũng có chuyện gì đó xảy ra. Nếu xứ Krym lọt vào tay ta thì ta có thể buôn bán với toàn thế giới. Biển cả mênh mông, ở đấy bọn hành khất không phải giấu tiền vào trong miệng đâu.
Nông dân khá giả và đám quý tộc nông thôn nghèo đưa nhiều đoàn xe chở lúa mì đi từ vùng lân cận Voronez, Kursk, Belgorod đến, kể chuyện rằng ở thảo nguyên dân chúng nóng lòng chờ đợi chiến tranh với bọn Tarta:
- Thảo nguyên của ta ăn mãi xuống phía Nam và ra phía Đông hàng ngàn dặm. Thảo nguyên y như một cô gái khỏe mạnh, chỉ việc rũ quần lót lên là có ngay lúa mì mọc cao tới cổ, quân Tarta ngăn không cho chúng ta làm thế... Chúng bắt đi mất biết bao nhiêu dân ta đem giam cầm ở Krym, ái chà chà! Ở thảo nguyên mới tự do làm sao! Không phải như ở Moskva của các người đâu.
Các cuộc bàn tán về chiến tranh ở Kukui sôi nổi hơn đâu hết. Nhiều người không tán thành:
- Ta cần chi đến Hắc Hải. Ta có mang gỗ làm nhà, hắc ín và dầu hải cẩu sang bán ở đất Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Vơnidơ đâu? Phải chiếm lấy các biển phía Bắc.
Nhưng binh lính, nhất là đám thanh niên, lại hăng hái muốn đánh nhau. Mùa thu qua, hai đạo quân đến gần Kozukhovo: tại đây họ đã đánh nhau chẳng phải như những năm trước, mà là theo đúng quy tắc quân sự. Về các trung đoàn của Lơfo và Butyrski, các trung đoàn giúp vui Preobrazenski và Xemionovski trước đây, nay được mệnh danh là các trung đoàn Ngự vệ, người ngoại quốc nói rằng chẳng thua kém gì quân Thụy Điển và quân Pháp.
Nhưng người ta chỉ vênh vang được về chiến dịch Kozukhovo oanh liệt trong các bữa tiệc, khi nâng cốc chúc tụng, giữa tiếng trống đồng và các loạt đại bác. Bọn võ quan đeo tóc giả đen như lông quạ, thắt lưng lụa rủ chấm đất, gót giầy mang đinh thúc ngựa to tướng, đã nhiều lần nghe có người nói sau lưng:
- Này các chiến binh Kozukhovo! Các anh chỉ dũng cảm với bom giấy thôi. Thử đi mà nếm ít đạn của quân Tarta xem nào?
Chỉ có đám đại thần thân cận với ngai vàng là ngần ngại - Romodanovski, Artamon Golovin, Apraxin, Gordon, Viniux, Alekxandr Melsikov: việc này có vẻ bấp bênh.
- Nhỡ thua thì sao? Lúc ấy thì chẳng mống nào thoát được: dân chúng phẫn khích lên sẽ quét sạch hết bọn mình mất... Nhưng nếu ta không khởi sự chiến tranh thì lại càng ngu. Dân họ đã xì xào rằng người ngoại quốc mê hoặc các đức vua, họ bảo bọn chúng đã thay tâm đổi tính Sa hoàng của ta rồi nên Người mới sinh ra ăn chơi xa phí ghê gớm, làm khổ dân nhưng chiến công thì lại chẳng có được mảy may.
Vua Piotr lặng thinh. Có ai nhắc đến chuyện chiến tranh thì nhà vua trả lời mập mờ:
- Được rồi, được rồi. Đã nô giỡn ở Kozukhovo thì rồi sẽ đi chơi nhau với quân Tarta...
Chỉ có Lơfo và Melsikov biết là vua Piotr cố giấu nỗi lo sợ của mình, nỗi lo sợ nhà vua đã trải qua trong cái đêm đáng ghi nhớ nhà vua phải chạy trốn vào tu viện Ba Ngôi. Nhưng hai người cũng biết được rằng rồi ra nhà vua sẽ chủ chiến. Hai tu sĩ mặt đen từ Giesusalem mang tới một bức thư của Đoxifei, vị giáo trưởng Giesusalem. Giáo trưởng than phiền rằng sứ thần Pháp có đến Andrinov, y biếu quan tể tướng bảy mươi ngàn đồng louis vàng (1) và đút lót mười ngàn đồng louis vàng cho phiên vương Krym lúc đó cũng có mặt ở Andrinov và yêu cầu người Thổ Nhĩ Kỳ nhường lại Đất Thánh cho nước Pháp...

Thế là quân Thổ Nhĩ Kỳ đã cướp mất Mộ Thánh của chúng tôi là những tín đồ chính giáo, đem cho người Pháp; chúng chỉ để lại cho chúng tôi có hai mươi bốn ngọn dạ đăng.
Quân Pháp cướp của chúng tôi mất nửa quả đồi Gongota, toàn bộ nhà thờ Betlem, Động Thánh; chúng tàn phá tất cả các tượng thánh, san phẳng điện thờ, nơi chúng tôi phân phối ánh sáng Thánh và chúng gây nhiều tổn thất cho Giesusalem hơn cả quân Ba Tư và quân A Rập.
Nếu bệ hạ phụng thiên mệnh làm quân vương xứ Moskovi lại bỏ mặc Thánh đường thì thiên hạ sẽ dị nghị về bệ hạ thế nào? Vậy bệ hạ không nên giảng hòa với quân Thổ Nhĩ Kỳ, chúng phải trả lại cho tín đồ chính giáo toàn bộ Đất Thánh trước đã. Và nếu như quân Thổ Nhĩ Kỳ không chịu, bệ hạ nên khởi chiến.
Thời cơ nay thuận lợi, ba đạo quân lớn của Quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ đang mắc đánh nhau bên Hungary với Hoàng đế Áo.
Trước hết bệ hạ hãy chiếm lấy Ukraina, rồi Moldavi và Valasi, bệ hạ nên chiếm cả Giesusalem, và đến khi đó hãy giảng hòa.
Trước đây bệ hạ đã cầu được Chúa khiến cho quân Thổ Nhĩ Kỳ và quân Tarta mắc vào chuyện can qua với quân Đức, hiện nay thời cơ cũng thuận lợi mà bệ hạ lại không lợi dụng!
Bệ hạ thử xem bọn Hồi giáo nhạo báng bệ hạ như thế nào: chúng bảo bọn Tarta chỉ có một nhúm thế mà lại khoe rằng đã buộc bệ hạ phải chịu cống nạp; bọn Tarta là thần dân của quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ, vậy ra chính bệ hạ cũng là thần dân của vua Thổ Nhĩ Kỳ”.

Bức thư làm triều đình Moskva bực tức. Viện Duma quý tộc nhóm họp. Vua Piotr bận triều phục, khoác hoàng bào ngự trên ngai, lặng lẽ và rầu rĩ. Các đại thần trút nỗi lòng vào các bài diễn văn hoa mỹ; họ nhắc nhở đến các biên niên sử cổ xưa, than khóc về nỗi Thánh đường bị xúc phạm. Chiều tối đã nhuốm lam các khuôn cửa sổ, ánh sáng các ngọn đèn chong đêm thắp trong một góc phòng, phản chiếu lên các bộ mặt, - các đại thần lần lượt đứng lên theo tước vị và chức vụ hất đôi tay áo nặng nề về phía sau rồi nói, nói mãi, vung vẩy mấy ngón tay trắng muốt, - toàn những vầng trán kiêu hãnh, đẫm mồ hôi, những cặp mắt nghiêm nghị, những bộ râu gọn ghẽ; các bài diễn văn rỗng tuếch quay như chiếc chong chóng của con nít rồi đọng lại một cách khó chịu trong đầu óc vua Piotr. Cho tới khi đó chưa ai nói thẳng vào vấn đề chiến tranh; các quan đại thần chỉ nói loanh quanh và liếc nhìn Viniux, viên lục sự của viện Duma có hai thơ lại giúp việc đang ghi các bài diễn văn. Họ sợ không dám nói ra hai chữ “chiến tranh” làm xáo lộn cuộc đời bình thản của họ.
Ngộ bỗng nhiên cái cảnh loạn lạc tàn phá lại tái diễn thì sao? Họ chờ Sa hoàng phán bảo và rõ ràng là họ sẽ quyết một bề theo ý nhà vua. Nhưng chính vua Piotr cũng sợ phải riêng mình cáng đáng trách nhiệm định đoạt cái việc trọng đại đó. Nhà vua hãy còn trẻ và bị kinh sợ từ thuở nhỏ.
Nhà vua chờ hoài, cặp mắt chớp chớp.
Cuối cùng các đại thần thân cận nhất của nhà vua mới lên tiếng, nhưng lần này họ nói khác: họ đi thẳng vào vấn đề. Tikhol Xtresnev tuyên bố:
- Cố nhiên hoàng thượng sẽ quyết định. Nhưng quần thần chúng ta phải hy sinh tính mạng cho Mộ Thánh bị xúc phạm, và thanh danh của quân vương chúng ta... Chúng đã nhạo báng ta ở Giesusalem, còn gì nhục nhả hơn nữa? Không, thưa chư vị đại thần, phải quyết định trưng binh...
Lev Kirilovich, đầu óc vốn chậm chạp, bắt đầu kể lể từ cái thời xa xưa khi cử hành lễ nước Nga ra đời dưới triều đại Sa hoàng Vladimir; nhưng thấy vua Piotr cau mặt, ông ta liền dang hai tay:
- Vậy thưa chư vị đại thần, ta không có gì phải lo ngại cả... Vaxili Golixyn đã thất trận ở Krym. Nhưng thử hỏi quân của ông ta đã đánh giặc bằng gì? Bằng gậy. Ngày nay, nhờ ơn Chúa, khí giới ta không thiếu. Đây này, ví dụ như ở xưởng của tôi ở Tula, những khẩu pháo tôi đúc cũng tốt chẳng kém gì pháo của quân Thổ Nhĩ Kỳ. Còn súng hỏa mai và súng lục của tôi lại tốt hơn. Xin bệ hạ cứ ban lệnh là đến tháng năm, thần xin giao đủ một trăm ngàn rúp mũi giáo và gươm. Không, ta không thể lùi được, ta phải đánh.
Romodanovski dặng hắng rồi tuyên bố:
- Nếu ta chỉ có một mình thì có lẽ ta cũng phải đắn đo. Nhưng cả châu Âu nhìn vào ta... Ta không thể dậm chân tại chỗ được, vì như vậy sẽ mất hết. Nay chẳng còn là thời Goxtomysl nữa, một thời kỳ ác liệt đã tới. Việc cần làm trước tiên là đánh bại quân Tarta...
Dưới vòm trần đỏ, không khí im phăng khắc. Vua Piotr cắn móng tay. Boris Alekseevich Golixyn bước vào, mày râu nhẵn nhụi, nhưng lại phục sức theo kiểu Nga, tươi cười trao cho vua Piotr một cuộn giấy da thuộc. Đó là một lá đơn thỉnh nguyện của phường buôn Moskva; họ đề nghị bảo vệ đồi Gongotha và Mộ Thánh, quét sạch các con đường phương Nam, đuổi quân Tarta đi và nếu có thể được thì dựng lên nhiều thành phố trên bờ Hắc Hải.
Viniux nâng đôi mục kính lên trán, cất cao giọng khúc triết đọc lá đơn.
Vua Piotr đứng dậy, chiếc mũ Monamakh chạm tới long đình:
- Vậy thế triều thần quyết định thế nào?
Cặp mắt nhà vua gườm gườm, cái miệng chum chúm như tĩ gà. Các đình thần đứng dậy cúi lạy:
- Tâu đại đế, xin phụng mệnh thánh ý, hoàng thượng hãy ban lệnh trưng binh...
-------------
Chú thích:
(1) Tiền Pháp thời ấy.

Chương 82

- Digan, nghe tớ bảo?
- Gì kia?
- Cậu cứ khai với nó là cậu phụ việc trong lò rèn của tớ... Cậu cứ thề và hôn cây thánh giá đi...
- Làm thế có bõ công không?
- Có chứ... Ta sẽ sống được... Đây là một dịp may.
- Tớ chán lắm rồi. Kuzma ạ. Thà chết quách đi cho nó rảnh...
- Đừng hòng! Họ sẽ xẻo mũi cậu, đánh cho róc da lòi xương rồi đày sang Siberi...
- Quả cậu nói có đúng... Mình sắp bị thế đấy.
- Thằng quản lý của lão Lev Kirilovich được cấp giấy đi Moskva để đến các nhà giam tìm những người cần thiết đưa về xưởng. Vì đúng cái môn của tớ, nên tớ mới nói chuyện... Chúng còn nhớ tớ... Này ông bạn ạ, chúng quên cái thằng Kuzma Zemov này sao được. Chúng cho tớ chén súp bắp cải nấu thịt... Và chúng không đánh đập đâu... Nhưng chúng bắt phải vào khuôn vào phép... Nếu chúng có gọi tên thì cậu cứ trả lời như tớ đã dặn: cậu là chân quai búa của tớ.
Digan ngẫm nghĩ rồi lại hỏi:
- Súp bắp cải nấu thịt à?
Digan và Zemov chuyện trò trong nhà tù ở Tula, trong ngục tối. Hai gã bị bắt giam đã gần một tháng nay. Cho đến giờ, họ mới bị đánh có một trận, khi bị bắt ở chợ cùng với những của ăn cắp. (Yuda chạy thoát). Họ đang chờ cuộc điều tra và hỏi cung.
Nhưng chính viên tổng trấn Tula cùng với bọn lục sự và thơ lại của hắn cũng đang bị điều tra. Người ta quên bẵng mất hai gã tù. Sáng sáng, lính gác xích họ lại, điệu ra chợ cho đi ăn xin. Họ kiếm cái ăn cho họ và cho tên lính gác bằng cách đó.
Đáng lẽ đem họ đày đi Siberi thì nay bỗng nhiên người ta đưa họ đến xưởng chế tạo khí giới của Lev Kirilovich. Ít ra họ vẫn giữ được cái mũi nguyên vẹn.
Digan khai như Zemov dặn. Người ta xích hai gã giải từ nhà giam ra khỏi thành phố đi về phía sông Upa trên bờ có nhiều nhà gạch không cao mấy, chung quanh vây rào; bánh xe guồng nước cho máy xay rít lên trong một con mương khơi từ sông vào. Trời rét, trên không mây từ phương Bắc kéo về lờ lững trôi. Trên bờ sông đất sét, một đám đông phạm nhân bốc củi, gang và quặng chở trên các thuyền buồm tới. Xung quanh chỉ thấy toàn gốc cây, bụi rậm trơ trụi, đồng ruộng xơ xác. Gió thu thổi. Con mắt độc nhất của Digan tràn đầy buồn bã khi hai gã tới gần cái cổng đánh đai sắt có lính cầm kích đứng canh. Vậy ra chúng đánh người ta túi bụi, lùng bắt người ta như loài dã thú, làm tình làm tội người ta chưa đủ, - chúng cho thế chưa đủ. Lại còn phải nai lưng ra làm cho chúng... Sao chúng chẳng để người ta chết quách đi cho rảnh...
Hai gã bị đưa vào một cái sân đen sì, ngổn ngang những sắt vụn. Nơi đây lúc nào cũng ầm ầm thật khủng khiếp, tiếng cưa rít xoàn xoạt, tiếng búa nện chan chát.
Qua một khuôn cửa ám khói, hai gã trông thấy những tia lửa từ một cái lò bắn ra tung tóe; chỗ này, những người trần trùng trục đang lần lượt quai búa để rèn một thanh kim loại; chỗ kia, một chiếc búa máy rất nặng chạy bằng bánh xe guồng nện xuống một thỏi gang, những mảnh vụn kim loại lỏng bắn vào các tạp dề da, đằng xa là những thợ làm nguội cặm cụi bên các bàn đồ nghề... Từ phía cổng cái, có những người đẩy xe cút kít chở than trên nền ván dốc đến tận một cái lò to bè bè; chiếc lò cao khạc lửa và khói đen.
Zemov lấy khuỷu tay huých Digan:
- Chúng nó sẽ biết tay Kuzma Zemov...
Trong một ngôi nhà gạch đỏ xinh xắn, cách biệt khu lò rèn, có một bộ mặt nhẵn nhụi, đỏ hồng như vừa mới tắm xong, đội một chiếc mũ bông, nhìn qua cửa sổ. Đó là Klaixte, viên quản lý của xưởng, người Đức.
Y gõ tẩu vào kính cửa. Tên lính gác vội vã dẫn Zemov và Digan đến trước mặt y và trình bày cho y biết hai gã là ai và ở đâu tới.
Klaixte nâng cửa sổ lên, thò đầu ra, môi mím lại. Quả tua mũ lủng lẳng trước bộ mặt phì nộn của y, Digan đưa con mắt ác cảm và hãi hùng nhìn quả tua mũ...
“Úi chà? Thằng này hẳn là một con quỷ hút máu!”, gã tự nghĩ.
Sau Klaixte là một chiếc bàn sạch sẽ trên để một miếng thịt quay, mấy chiếc bánh mì vàng óng và một tách cà phê. Làn khói thơm thơm của chiếc tẩu tỏa ra ngoài cửa sổ. Cặp mắt Klaixte lạnh như băng soi mói vào tâm hồn người Nga. Y ngắm nghía chán chê hai gã tù rồi mới chậm rãi nói:
- Nói dối sẽ không xong đâu. Họ đưa lại đây cho tao những thằng nông dân, toàn là đồ lợn đẻ. Chúng nó chẳng biết làm cái gì hết, đồ chó chết. Mày khai mày làm thợ rèn giỏi - tốt lắm... Nhưng mày mà nói dối thì tao có thể đem treo cổ lên... - Y gõ tẩu vào gỗ cửa sổ - Đúng, tao có thể cho đem hai thằng khốn nạn này đi giam cổ lại.
Dọc đường, tên lính gác ra vẻ dạy đời, bảo hai gã:
- Nghe tao bảo, hai chú mày, phải coi chừng ông ấy! Chỉ phạm một lỗi nhỏ thôi, trây lười hoặc ngủ gật bỏ công việc thì ông ấy ác lắm.
- Bọn tôi đến đây không phải để nghênh trời, nghênh đất, - Zemov nói. - Có thể chính bọn tôi sẽ dạy cho ông người Đức của thày quyền vài bài học đấy...
- Thế chúng mày là ai? Tao nghe nói trước đây chúng mày đi ăn cướp. Vậy thế tại sao chúng mày bị bắt?
- Thày quyền tốt bụng quá, tôi cùng với lão chột này tìm đến các tín đồ razkonic. Nhưng quỷ sứ đã cám dỗ bọn tôi.
- À thế thì lại là chuyện khác, - tên lính gác vừa đáp vừa mở khóa một cánh cửa thấp. - Ở đây, phép tắc như thế này... Vào đi, tao đi thắp nến.
Họ đi xuống tầng hầm. Những tia sáng lọt qua các lỗ của một cái đèn rèn bằng sắt, chiếu sáng những tấm phản, những bàn bằng ván ghép, một cái lò ám khói, mấy cái quần áo rách vắt trên dây.
- Phép tắc ở đây là thế này... Bốn giờ sáng tao đánh trống cầu kinh... Tao sẽ đi làm. Bảy giờ đánh trống ăn sáng, - nửa tiếng... Tao có đồng hồ, biết chưa? - Hắn rút ở trong túi ra một cái đồng hồ bằng đồng, to bằng củ xu hào. - Rồi lại đi làm... Đến trưa ăn, sau đó được ngủ một tiếng đồng hồ. Đến bảy giờ ăn tối, nửa tiếng, và mười giờ nghỉ tay...
- Thế mà không ai chết à? - Digan hỏi.
- Có chứ, cái đó thì nhất định rồi. Nhưng đây là nhà tù, người anh em ạ; nếu mày không ăn cắp thì mày đã ở nhà, nằm trên bếp lò rồi... Ở đây có mười lăm người tự do, mộ vào làm; bọn họ nghỉ lúc bảy giờ và ngủ riêng một nơi. Ngày lễ họ về nhà.
Digan ngồi trên phản hỏi, giọng càng khàn khàn hơn:
- Vậy thế đối với bọn tôi, cứ như thế mãi à?
Zemov đang nhìn vào các lỗ sáng của chiếc đèn tròn bỗng bị một cơn ho. Tên lính gác càu nhàu trong bộ râu và cầm lấy đèn đi ra.

Chương 83

Một bộ râu hoa râm oai vệ, chải mượt, mái tóc trát bơ, thắt lưng bằng lụa có thêu tên bốn mươi vị thánh, thắt ra ngoài chiếc sơ mi hồng, dưới vú... Nhưng chính cái bụng tròn trĩnh, phưỡn ra đến hết cỡ của lão Ivan Artemits Brovkin được đám nông dân là bạn nối khố cũ xưa kia, anh em rể, hàng xóm, chăm chú nhìn hơn cả. Ivan Artemist ngồi trên chiếc ghế dài, hai bàn tay luồn dưới mông. Cặp mắt nghiêm nghị của lão không hề chớp, lão bận một chiếc quần chẽn ống bằng dạ loại tốt đi một đôi ủng da sặc sỡ kiểu Kazan mũi cong lên khoằm thành móc. Còn đám nông dân thì đứng cạnh cửa, trên một cái chiếu gai mới, để khỏi dẫm ủng gai bẩn lên sàn nhà.
- Này anh em nông dân, - Ivan Artemist nói với họ, - tôi không phải là kẻ thù của anh em. Cái gì làm được thì tôi làm, nhưng cái gì tôi không thể làm được thì anh em chẳng nên trách tôi...
- Bác Ivan Artemist ạ, đến một chỗ thả gà anh em chúng tôi cũng không có. Giống súc vật thì còn biết cái gì nữa nên chúng mới làm bậy, dẫm lên rơm của bác. - Còn thằng chăn bò, chúng tôi sẽ cho nó mấy roi để mừng sức khỏe bác.
- Tốt, tốt, - Ivan Artemist nói hai lần.
- Bác trả lại súc vật cho anh em.
- Chúng tôi ở chật chội quá, chật chội quá...
- Anh em nông dân nghe tôi nói đây, tôi có được lãi lời gì với anh em đâu, - Ivan Artemist đáp. Lão rút tay ở dưới mông ra khoanh lại lên trên bụng. - Nhưng tôi muốn rằng phải có trật tự... Tôi đã cho anh em tiền, rất nhiều...
- Có thế, bác Ivan Artemist ạ, chúng tôi không quên điều đó, chúng tôi không quên đâu.
- Tôi làm tất cả các việc đó chỉ vì tốt bụng mà thôi... Là vì tôi sinh trưởng ở đây, cha tôi mất ở đây. Nên Chúa cho tôi ăn lộc, tôi lại chia cho anh em. Thử xem tôi đã ăn lãi của anh em bao nhiêu nào, nghĩ mà nực cười... Mỗi năm mười kopeik một rúp, - chà, chà, chà... Nào có phải để làm giàu đâu, tôi chỉ muốn giữ cho có trật tự.
- Điều đó anh em chúng tôi xin tạ ơn bác.
- Tôi sắp xa anh em mãi mãi... Tôi sẽ kinh doanh nhiều việc, nhiều việc lớn... Tôi sẽ đến ở tại Moskva... Thôi cũng được... - Lão thở dài, nhắm mắt lại. - Nếu chỉ trông vào anh em thì tôi sẽ sống ra cái quái gì, thật chẳng ra gì. Tôi gia ân cho anh em là do tốt bụng, vì nhớ đến thời xưa. Còn anh em thì sao? Anh em đã trả ơn tôi như thế nào? Anh em làm tôi bị thiệt, anh em đặt điều vu khống tôi. Thế thì bảo có khổ không chứ! Thôi, cầu Chúa hãy tha thứ cho anh em,. Anh em trả tôi ba kopeik một bò, nửa kopeik một cừu, rồi đem súc vật về.
- Cảm ơn bác, cầu Chúa ban sức khỏe cho bác, bác Ivan Artemist ạ.
Đám nông dân chào rồi đi. Lão còn muốn nói chuyện nữa. Hôm đó, lão thấy vui trong dạ.
Nhờ con là Aliosa làm môi giới lão đã lọt được vào tận nhà trung úy Alekxandr Mensikov và dâng một cái lễ hai trăm rúp. Melsikov đã thu xếp cho lão được gặp Lơfo. Lão Brovkin chưa bao giờ được vào nơi cao sang như vậy; lão sợ sệt khi trông thấy một người đàn ông tầm thước, tóc rủ chấm thắt lưng, phục sức toàn lụa với nhung, mấy ngón tay đầy nhẫn lấp lánh ngũ sắc. Dung mạo nghiêm nghị, mũi cao, cặp măt soi mói như hai chiếc kim.
Nhưng khi Lơfo biết người đứng trước mặt mình là bố của Alioska có đem theo một bức thư của Melsikov thì hắn liền tươi cười vỗ vai lão. Thế là Ivan Artemist được cấp giấy phép tiếp tế lúa đại mạch và cỏ khô cho quân đội.
Khi đám nông dân đã đi khỏi, lão gọi:
- Xania, cất cái chiếu gai đi... Bọn họ làm bẩn rồi.
Nhiều nếp nhăn nhỏ nhạo báng xòe ra chung quanh khóe mắt Ivan Artemist. Giàu có như lão, lão rất có thể tự cho phép cười được lắm, là vì từ thuở bé tí cho đến khi râu đã hoa râm, lão nào có dịp được cười đâu.
Xanka bước vào, nàng bận một chiếc áo lụa dài xanh như màu cỏ có đơm khuy. Bím tóc màu hạt dẻ to bằng cánh tay rủ chấm khoeo chân; nàng hơi đưa bụng ra phía trước để bộ ngực quả thực là đồ sộ khỏi lộ rõ quá. Cặp mắt nàng màu lam, khờ khạo.
- Xì! Sao họ đi ủng gai tha lắm bùn vào thế?
Nàng quay khuôn mặt xinh xắn đi, lấy đầu ngón tay nhón một góc chiếu vứt ra cửa. Ivan Artemist đưa cặp mắt tinh quái nhìn Xania. Một con bé như vậy giá, có đem gả cho vua cũng chẳng hổ nào.
- Tao muốn xây một ngôi nhà gạch ở Moskva... Tao sẽ có chân trong số một trăm thương nhân đầu tiên... Xania, nghe tao bảo... Tao không gả chồng cho mày sớm quá là đúng... Tao sẽ có thông gia vào hàng danh giá... Sao mày lại ngoảnh mặt đi? Đồ ngốc!
- A, phải! - Xanka cầm bím tóc quất vào không khí và quắc mắt lườm cha. - Bố cứ mặc con...
- Cứ mặc con nghĩa là thế nào? Ý tao muốn sao là sẽ nên vậy... Mày mà làm tao cáu lên thì tao sẽ gả mày cho một thằng chăn cừu.
- Thà có người để cùng chăn lợn còn hơn là tàn tạ đi chỉ vì những chuyện điên rồ của bố...
Ivan Artemist ném cái bình muối bằng gỗ vào đầu Xanka. Đánh con gái ư? Nhưng lão lại lười không muốn đứng dậy. Xanka tru tréo lên nhưng ánh mắt ráo hoảnh.
Vừa lúc ấy có tiếng gõ cổng dữ dội đến nỗi Ivan Artemist há hốc cả miệng ra: Đàn chó sủa ầm lên.
- Xania, ra xem...
- Con sợ lắm. Bố ra mà xem.
- Chờ đấy, bọn gõ cửa chết tiệt kia, - Ivan Artemist cầm lấy cái chổi ở cửa, đi xuống dưới sân, - Đợi một lát đồ mặt mo... Đứa nào thế? Tao thả chó ra bây giờ...
- Mở cửa! - Có tiếng thét giận dữ như điên cuồng. Mấy tấm ván cổng kêu răng rắc. Lão Brovkin đâm hoảng. Lão lao ra cổng, hai tay run lẩy bẩy. Lão vừa mới rút then thì hai cánh cổng mở toang, một đoàn kỵ sĩ ăn mặc sang trọng, gươm tuốt trần kéo vào, theo sau là một cỗ xe thếp vàng đóng bốn ngựa, đằng sau cỗ xe có mấy thằng lùn da đen đứng. Rồi đến một cỗ xe hai bánh trên có Sa hoàng Piotr và Lơfo, đầu đội mũ ba cạnh, mình khoác áo choàng rộng để tránh bùn bắn khi đi đường. Họ dậm chân, cười hét.
- Chủ nhà đâu? Đem hắn lại đây, sống hay chết cũng được!
Ivan Artemist vãi đái ra quần. Vừa lúc đó con trai lão là Aliosa và Melsikov trông thấy lão; hai người nhảy bổ lại, xốc nách lão nhấc bổng lên, lôi về phía thềm và cứ thế mà giữ cho lão khỏi quỳ xuống.
Vua Piotr không đánh mà cũng không làm gì gớm hơn, chỉ bỏ mũ ra cúi rất thấp chào lão:
- Chào ông anh họ... Chúng ta nghe nói bác có món hàng đẹp... Chúng ta dẫn một người khách muốn mua hàng đến... Chúng ta sẽ không so kè về giá cả đâu!
Lão Ivan Artemist há miệng ra, nhưng vẫn im lặng. Những ý nghĩa cuồng loạn lũ lượt vụt qua đầu lão: “Không biết có phải họ phát giác ra một vụ làm bậy nào chăng? Ta cần phải giữ miệng không nói gì hết”.
Sa hoàng và Lơfo phá ra cười ngất, còn những người khác thì ho sặc sụa vì cười. Aliosa kịp nói với bố:
- Họ đến để dạm hỏi Xanka đấy!
Ivan Artemist thấy các vị khách cười thì biết rằng chẳng phải họ đến để hại mình, bèn cứ tiếp tục giả đò ngớ ngẩn. Bác nông dân nhà ta láu cá lắm. Thế là lão cứ làm ra vẻ sợ hãi hết hồn mà cùng đám khách bước vào nhà.
Người ta để lão ngồi bên dưới các bức tranh thánh; bên phải lão là Sa hoàng, bên trái là đại vương trùm đạo. Nhìn hé qua cặp mi chớp chớp, Ivan Brovkin cố đoán xem ai là chú rể.
Bỗng lão ngẩn người ra thật sự: ngồi giữa hai chàng phù rể - Alioska và Melsikov - là chủ cũ của lão: Vaxili Volkov, mặc áo nẹp ánh bạc.
Ivan Artemist trả hắn hết mọi khoản nợ nần đã từ lâu và bây giờ thì lão đủ sức tậu được cả hắn cùng đất đai lẫn đám nông nô của hắn. Không phải đầu óc thông minh của Brovkin mà là cặp mông đã ăn roi của lão phát hoảng.
Vua Piotr đột nhiên hỏi:
- Thế bác không ưng chú rể à?
Mọi người lại phá lên cười sằng sặc... Volkov mím môi dưới hàng ria mép quăn. Melsikov nháy mắt với vua Piotr:
- Có lẽ bác nhớ lại những nỗi bất bình xưa kia chăng? - Hắn nháy mắt về phía Brovkin - Có lẽ xưa kia chú rể túm tóc bác mà lôi xềnh xệch phải không? Hay có lẽ hắn đã quất lên lưng bác đến gãy cả cán roi chăng? Nhân danh Chúa, bác hãy tha thứ cho hắn! Hãy làm lành với nhau đi!
Biết trả lời làm sao bây giờ? Tay chân Ivan Artemist run lên cầm cập. Lão nhìn Volkov, hắn tái mặt, ngoan ngoãn nhịn nhục...
Bỗng Ivan Artemist nhớ lại chuyện Aliosa đã bênh vực lão trong sân lâu đài Preobrazenskoe như thế nào; lão thấy lại cái cảnh Volkov chạy theo sau Melsikov trên tuyết, năn nỉ, níu lấy anh ta, gần như mếu máo...
“Hà, hà, - Ivan Artemist tự nhủ, - đứa ngốc nhất ở đây hình như lại chẳng phải là mình...”
Lão nhìn Volkov và thích chí đến nỗi suýt nữa thì hỏng việc...
Nhưng lão đã vỡ nhẽ người ta muốn lão làm gì: một trò chơi nguy hiểm - vượt qua vực thẳm trên một cành cây nhỏ... Thôi được!
Mọi người nhìn lão. Ivan Artemist ngầm làm dấu thánh giá trên rốn dưới gầm bàn, rồi cúi lạy vua Piotr và đại vương - trùm đạo:
- Thưa các vị làm mối thân mến, xin cảm tạ được hân hạnh các vị chiếu cố. Nhân danh Chúa, xin các vị thứ lỗi cho bọn quê mùa ngu ngốc chúng tôi nếu vì sơ suất chúng tôi đã để các vị phải phật ý về bất cứ điều gì. Cố nhiên chúng tôi chỉ là những người lái buôn, những người nông dân thô kệch, vô học. Chúng tôi ăn nói cục mịch. Chúng tôi có một mụn con gái ế chồng, nỗi khổ là thế. Giá gả được nó cho một anh chàng nát rượu tồi tệ nhất, chúng tôi cũng đã lấy làm sung sướng rồi. - Lão chột dạ đưa mắt nhìn vua Piotr; nhưng không sao, mọi chuyện vẫn êm đẹp: Sa hoàng phì cười như một con mèo. - Chúng tôi không hiểu vì đâu các chàng rể cứ xa lánh ngôi nhà chúng tôi. Tiện nữ xinh đẹp, chỉ phải nỗi một mắt kém, nhưng mắt kia vẫn tinh. Và tiện nữ rỗ chằng rỗ chịt như bị quỷ sứ đập đỗ lên mặt, nhưng vẫn có thể trùm khăn che đi được... (Volkov đưa cặp mắt hầm hầm nhìn Ivan Artemist). Hơn nữa nó lại thọt chân, lắc lư đầu và dáng đi hơi tập tễnh. Nhưng ngoài mấy điểm, xin các vị rước con cháu quý mến của chúng tôi đi cho. (Brovkin đương có đà, thở dài, lau mắt). Này Alekxandra con, - lão rên rỉ gọi, - con hãy ở lại đây... Aliosa, đi tìm em con đi. Có lẽ nó đang ở trong nhà xí đấy, nó đau bụng, tôi quên khuấy mất không nói để các vị rõ, xin miễn thứ... Dẫn cô dâu ra đây...
Volkov vùng dậy định ra khỏi bàn. Nhưng Melsikov dùng sức giữ hắn ta lại. Không ai cười, chỉ có cằm vua Piotr hơi run run.
- Thưa các vị làm mối thân mến, xin đa tạ, - Brovkin nói. - Chú rể thật vừa ý chúng tôi vô cùng. Chúng tôi sẽ đối đãi với chàng như bố đẻ: nếu chàng ăn ở tốt thì muốn gì sẽ được nấy và chúng tôi phạt nếu chàng mắc lỗi. Nếu bố có quất cho con một roi hoặc nếu bố có túm tóc con thì đừng giận, con rể yêu của bố nhé. Con làm rể một gia đình nông dân mà...
Hết thảy mọi người ngồi ở bàn đều ôm bụng mà lăn ra cười. Volkov nghiến răng lại; hắn xấu hổ đỏ bừng hai má, trào cả nước mắt ra.
Aliosa kéo Xanka ở buồng ngoài vào, nàng cưỡng lại. Nàng giơ tay áo che mặt. Vua Piotr đứng phắt dậy, gạt hai tay nàng ra. Và Xanka trông đẹp quá đến nỗi tiếng cười im bặt: mày thanh như mũi tên, cặp mắt đen láy, đôi hàng mi rậm, chiếc mũi nhỏ hếch, đôi môi trẻ thơ run rẩy, hai hàm răng đều đặn lập cập, hai má ửng hồng như táo đỏ. Vua Piotr hôn vào môi và cặp má nóng bừng của nàng. Brovkin kêu to ra lệnh:
- Xanka, chính đức Sa hoàng đấy, con cứ để yên.
Nàng ngửa đầu, nhìn thẳng vào mặt vua Piotr. Trống ngực nàng đập thình thình. Vua Piotr nắm lấy vai nàng, dẫn lại bàn và trỏ vào Vaxili Volkov:
- Thế nào, chàng rể chúng ta dẫn tới cho cô có đến nỗi tồi lắm không?
Xanka sửng sốt: lẽ ra nàng nên giả bộ thẹn thò mới phải, nhưng nàng lại giương cặp mắt rực lửa nhìn chú rể như một con rồ. Bỗng nàng thở dài và lẩm bẩm: “Ôi mẹ ơi...”.
Vua Piotr lại ôm lấy nàng, hôn lia lịa.
- Này ông mối, đủ rồi đấy, - đại vương trùm đạo nói. - Buông cô bé ra...
Xanka trùm vạt áo lên mặt. Aliosa vừa cười vừa đưa em vào. Volkov rứt rứt ria mép: rõ ràng hắn thấy nhẹ cả mình. Đại vương trùm đạo lè nhè nói:
- Hỡi anh em, ta phải quý mến nhau ở nơi cha của chúng ta là thần Baccux. Xin dọn rượu và các món nhắm ra...
Ivan Artemist sực nhớ ra, cuống cả lên. Bọn đày tớ nháo nhào đuổi bắt gà ở ngoài sân.
Aliosa cười bẽn lẽn, dọn bàn. Có tiếng Xanka nói lạc cả giọng:
- Matriona, đi lấy chùm chìa khóa ở trong buồng, dưới Bức tranh vẽ bốn mươi vị thánh tử vì đạo ấy...
Vua Piotr nói to với Volkov đang cúi lạy và hôn bàn tay nhà vua. Ivan Artemist tự tay bưng chảo có món trứng rán ra. Vua Piotr không cười bảo lão:
- Trẫm cảm ơn ngươi về tấn hài kịch ấy, ngươi đã làm cho trẫm vui... Nhưng này Vanka, chớ quên vị trí của ngươi đấy, chú ý đừng có quá trớn...
- Tâu bệ hạ, thần có bao giờ muốn thế nếu không phải ý trên muốn vậy... Về phần thần, đã lâu lắm thần không còn biết sợ là gì...
- Thôi được, thôi được, ai lạ gì đồ quỷ các ngươi... Về tiệc cưới phải nhanh lên vì chú rể sắp phải ra trận. Cho đi tìm một phụ nữ Đức ở xloboda đến để dạy cho con gái ngươi mọi phép lịch sự và khiêu vũ... Ta đi đánh giặc về... sẽ đưa Xanka vào triều...

Chương 84

Tháng hai năm 1695, tại điện Kreml, từ trên thềm phòng ngủ của Sa hoàng. Viniux, viên lục sự của điện Duma loan báo cho tất cả các dapife, các triều thần, các viên lục sự, các nhà quý tộc của Moskva và các thành phố khác phải cùng với quân lính của mình tới tập trung tại Belgorod và Xepsk dưới quyền chỉ huy của vị đại thần Boris Petrovich Seremetiev, để tham gia chiến dịch Krym.
Seremetiev là một viên tướng nhiều kinh nghiệm và thận trọng. Vào khoảng tháng tư, sau khi đã tập hợp được mười hai vạn quân sĩ và bắt liên lạc với quân Cô-dắc Tiểu Nga, ông từ từ tiến xuống mé hạ lưu sông Dniep. Nơi đây sừng sững pháo đài Osakov cổ xưa và các đô thị Thổ Nhĩ Kỳ kiên cố: Kizikerman, Acxlan Ordek, Sakhkerman và thành Xokoliny trên một hòn đảo ở cửa sông Dniep; từ thành đó người ta chăng dây xích sắt sang hai bên bờ để chặn đường ra biển.
Đạo quân khổng lồ của Moskva tới bao vây các đô thị kiên cố ấy suốt mùa hạ. Tiền thiếu, vũ khí, đại bác cũng thiếu; cần những cái vặt vãnh nhỏ nhặt nhất cũng phải trao đổi thư từ rất lâu với Moskva.
Tuy nhiên đến tháng tám, người ta cũng xung phong đánh chiếm được Kizikerman và hai đô thị kiên cố khác. Nhân dịp đó, trong doanh trại của tướng Seremetiev có tổ chức một bữa tiệc linh đình. Sau mỗi lời chúc rượu, đại bác lại nổ vang trong chiến hào, gieo rắc khủng khiếp vào hàng ngũ quân Thổ Nhĩ Kỳ và quân Tarta.
Khi Moskva biết tin chiến thắng, ai cũng thở phào:
- Thôi thế là chúng ta đã giật được một miếng của xứ Krym rồi, thế cũng vẻ vang chán?
Cũng vào mùa xuân ấy, hai vạn quân tinh nhuệ nhất trong quân đội - trung đoàn Preobrazenski, Xemionovski, và trung đoàn của Lơfo, quân xtreletz, lính chiến và các đại đội thư ký - không hề có tuyên bố gì trước được bí mật đưa lên các thuyền buồm lớn nhỏ, thuyền chèo tay, trước cầu Vxekhvistski trên sông Moskva, rồi trong tiếng nhạc và tiếng đại bác nổ, cả đoàn thuyền dài hàng mấy dặm xuôi về phía sông Oka, rồi từ đó vượt qua sông Volga, tiến thẳng về phía Xarixyn.
Tướng Gordon dẫn đầu một đạo quân mười hai ngàn người vượt thảo nguyên tiến về Chekask. Cả hai đạo quân đều tiến đến Azop, một pháo đài Thổ Nhĩ Kỳ trên bờ biển cùng tên. Tại đây quân Thổ Nhĩ Kỳ chiếm giữ những con đường buôn bán đi phương Đông và dẫn tới các thảo nguyên màu mỡ miền Kuban và Terek.
Hội đồng quân sự - gồm Lơfo, Gordon, Artamon Golovin và vua Piotr - đã quyết định mở một cuộc hành quân nghi binh về phía Azop. Để cho công việc khỏi bị tiết lộ và để khỏi có vẻ quá coi trọng quân Thổ Nhĩ Kỳ, có lệnh truyền trong quân đội phải gọi vua Piotr là pháo thủ Piotr Alekseyev... (Vả lại nhỡ có thất bại thì cũng đỡ nhục nhã hơn).
Hội đồng đã suy nghĩ rất lâu xem nên giao quyền coi giữ Moskva cho ai?
Dân chúng không yên. Nhiều bọn trộm cướp lảng vảng ngay dưới chân tường đô thành, cỏ mọc lan tràn trên đường sá đến nỗi việc đi lại trở nên nguy hiểm. Sofia, kẻ thù nguy hại ấy đang ở tu viện Novodevichi, mụ đang nằm yên thực. Song được bao lâu?
Chỉ có một người duy nhất có thể tin cậy được không chút do dự, người duy nhất trung thành mà không có tà tâm, người duy nhất có làm cho dân chúng sợ, đó là Fedor Yurievich Romodanovski, vị vương hầu - chấp chính của những chiến dịch vui đùa và của Đại hội đồng tiêu khiển. Người ta giao Moskva cho ông ta. Và để bọn quý tộc đại thần không thể ngầm chế giễu quá khứ của ông ta, Romodanovski được chính thức và long trọng phong là vương hầu - chấp chính và hoàng thượng. Bọn đại thần nhắc lại trường hợp giống như vậy xảy ra một trăm năm về trước, khi hoàng đế Ivan bỏ đi đến xloboda Alekxandrovskaia, đã tôn một gã nửa người, nửa ngợm, nửa hề là tên vương hầu người Tarta, Ximron Berbu latovich, làm “Sa hoàng của tất cả các nước Nga”. Họ gợi lên việc xưa đó và nhẫn nhục cam chịu. Còn đối với dân chúng thì người cầm đầu là một vương hầu - chấp chính hay một con quỷ dữ, cái đó chẳng hệ trọng gì cho lắm; họ chỉ biết Romodanovski là một người khắc nghiệt và chém giết không hề ghê tay.
Pháo thủ Piotr Alekseyev dẫn đầu đoàn quân trên chiếc thuyền lớn nhiều tay chèo của Lơfo.
Dọc đường họ gặp lắm nỗi vất vả. Sà lan, thuyền buồm lớn, xuồng do phường thương nhân đóng ngấm nước khắp chỗ rồi chìm nghỉm. Vào những đêm xuân mù sương, đoàn thuyền lang thang trên những con nước dang lên, rồi mắc cạn vào bãi cát. Đến Nizni Novgorod phải thay thuyền và chuyển sang thuyền bè của sông Volga.
Vua Piotr viết thư cho Romodanovski:
Myn Herr Koning (1), vì ơn đức tối cao của hoàng thượng, chúng thần phải nhỏ đến giọt máu cuối cùng, chính vì lẽ đó chúng thần đã được phái đi chinh chiến. Thần xin tâu với hoàng thượng biết là Chúa đã ban sức khỏe cho bầy tôi tớ của hoàng thượng, các tướng Artamon Mikhailovich và Franx Yakovlevich cùng toàn quân. Và chúng thần có ý định ngày mai tiếp tục lên đường. Sở dĩ chúng thần đã chậm trễ là vì một số thuyền bè sau ba ngày đường đã rất khó khăn mới tới được bến. Thuyền bè của bọn thương nhân đóng xấu tệ hại, có những chiếc chật vật lắm mới tới nơi được. Còn như quân sĩ thì cho đến hôm nay chỉ có một số nhỏ đã chết. Bấy nhiêu điều xin trình hoàng thượng. Kẻ nô lệ vĩnh viễn của hoàng thượng chí tôn: Bôm Bor Dir (2) Pete”.
Đoàn quân không dừng lại Kazan, nước lên vỗ sóng vào tường thành trắng xóa. Họ đi ngang qua cả thành phố Simbirsk nằm trên bờ sông cao, và cả thành phố Samara có lũy bằng đất bao quanh bên trên đóng cọc rào để tự vệ chống lại bọn du mục. Vượt quá Saratov, bờ sông cỏ mọc rậm rạp đã biến vào một ảo ảnh chói chang ánh nắng, con sông xanh lam lờ đờ chảy; không khí nóng như thiêu như đốt từ thảo nguyên bốc lên như từ một miệng lò.
Suốt mấy ngày trời, vua Piotr, Lơfo, Alexaska và đại vương trùm đạo, - Ông ta được đem đi theo để chủ tọa những cuộc hội họp náo nhiệt và chè chén - ngồi hút thuốc trên bệ cao đằng lái của chiếc thuyền lớn chèo tay. Nhìn đoàn thuyền trải dài ra hàng bao nhiêu dặm, với những mái chèo khua nước loang loáng ánh nắng, người ta tưởng chừng như trò chơi quân sự vẫn tiếp diễn. Pháo đài Azop là cái gì? Và làm thế nào để chiếm được nó? Chưa ai hiểu rõ ràng ra sao cả: đến nơi rồi sẽ hay. Vị đại vương trùm đạo say bí tỉ và xúc động trong lòng vừa lấy móng tay bóc lớp da tróc trên cái mũi tím bầm vừa nói:
- Thế là lâm sự rồi đấy, con ạ... Ta dạy bệ hạ chữ số lâu chưa nhỉ? Thế mà giờ đây chúng ta đã ra đi chinh chiến. Chà, chú mày ơi...
Lơfo ngắm nhìn vẻ đẹp huy hoàng và hùng tráng của con sông mênh mông vô tận.
- Vua nước Pháp thì có nghĩa lý gì? Hoàng đế nước Áo thì thấm vào đâu? - hắn nói. - Chao ôi, Pete, giá bệ hạ có thêm được ít tiền nữa. Cần phải mộ thêm nhiều kỹ sư ở châu Âu, nhiều võ quan, nhiều kẻ thông minh. Đất nước này rộng lớn, hoang dã và vắng vẻ biết chừng nào!
Đến Xarixyn, đoàn thuyền dừng lại. Tai họa bắt đầu từ đây. Người ta nhận thấy chỉ có năm trăm con ngựa. Binh lính chèo thuyền đã rã cánh tay nay lại phải nai lưng ra kéo đại bác, khí tài. Bánh mì, kê, dầu đều thiếu. Quân đội, đói khát và mệt lử, đi qua thảo nguyên mất ba ngày mới tới được thành phố Pansino trên sông Đông, nơi tập trung những kho lương chính.
Binh lính kiệt sức quỵ xuống rất nhiều. Người ta tưởng sẽ được nghỉ ngơi ở Pansino. Nhưng từ thành phố đó, viên đại thần Tikhol Xtresnev, giữ trách nhiệm tiếp tế cho toàn quân gửi tới một bức thư như sau:.
“Kính thưa ngài pháo thủ: Những tên tiếp tế kẻ cắp đã khiến chúng thần vô cùng đau lòng.
Những tên thương nhân Voronin, Usakov và Gorezin đã cam kết giao cho chúng ta mười lăm nghìn thùng rượu mật ong, bốn mươi lăm nghìn thùng dấm và từng ấy thùng vodka, hai vạn con cá chiên ướp muối và cũng từng ấy cá mè, cá xandr (3), cá măng, một vạn pud giăm-bông, năm nghìn pud bơ và mỡ, tám nghìn pud muối. Chúng đã nhận ba mươi ba nghìn rúp.
Chúng đã ăn cắp một nửa số tiền đó. Không có lấy một lạng muối nào. Cá thì thối không tài nào nhập kho được. Lúa mì mốc meo hết. Chỉ có một thứ hàng tốt là lúa mạch và cỏ khô của thương nhân Brovkin bán. Vụ ăn cắp này sẽ làm chúa công kính mến buồn phiền và quân lính phải chịu đói. Bây giờ chỉ có đức Chúa trời mới có thể giúp cho chiến dịch của chúa công khỏi bị chậm trễ...”.
Vua Piotr và Lơfo để quân đội lại, phi ngựa đến Pansino. Cái làng nhỏ này nằm trên một hòn đảo nhỏ ở giữa sông Đông, chung quanh có càng xe bò bao vây tua tủa trông như một khu rừng cháy trụi. Những con bò sừng dài nằm la liệt khắp nơi, đàn ngựa chân bị buộc đang ăn cỏ. Nhưng tịnh không có lấy một bóng người: vào giờ này, sau bữa ăn trưa, ai ai cũng ngủ: lính gác, lính tuần tra, người đánh xe bò, quân lính.
Tiếng vó ngựa của các kỵ sĩ từ sông Đông đến dội lên đơn độc. Nghe tiếng gọi giận dữ của vua Piotr, một cái đầu bù xù hiện ra sau một dãy hàng rào giữa những thân cây đay. Vừa gãi, gã nông dân vừa đưa khách đến nhà viên đại thần ở. Vua Piotr mở mạnh cửa; đàn ruồi bị khuấy động bay lên vù vù. Trên hai tấm ghế dài kê sát nhau, chăn trùm kín đầu, Xtresnev đang ngủ. Vua Piotr giật tung chăn, túm lấy mớ tóc lưa thưa của viên đại thần đang sợ khiếp vía - cơn thịnh nộ làm nhà vua không nói được - nhà vua nhổ vào mặt hắn, đẩy hắn ngã chúi xuống nền đất nện và lấy ủng đá mãi vào mạng sườn mềm nhũn của lão già.
Miệng thở hồng hộc, vua Piotr ngồi xuống cạnh bàn ra lệnh mở cửa sổ. Mắt nhà vua trợn ngược lên. Trên khuôn mặt gầy hốc đi, những nét thịnh nộ hằn lên dưới làn da sạm nắng.
- Mi báo cáo đi. Đứng lên! - Vua Piotr thét vào mặt Xtresnev. - Ngồi xuống? Mi đã treo cổ bọn thương nhân tiếp lương chưa? Chưa à? Tại sao?
- Tâu bệ hạ! Thưa ngài pháo thủ... - Tikhol Xtresnev không dám ho, không dám cúi chào - Trước hết cần phải bắt bọn thương nhân nộp cho ta các thứ chúng đang nợ, theo các bản kê khai, vì nếu chúng chết đi thì ta sẽ chẳng lấy được gì cả.
- Không phải thế... Đồ ngu! Thế tại sao Ivan Brovkin lại không ăn cắp? Người của ta không ăn cắp còn tất cả bọn khác đều ăn cắp cả hử? Hãy trao hết đơn đặt hàng cho Brovkin. Cho cùm tên Usakov và tên Voronin lại và giải chúng nó về Moskva cho Romodanovski.
- Đúng, gut(4), - Lơfo nói.
- Còn việc gì nữa? Thuyền chưa sẵn sàng có phải không?
- Thưa ngài pháo thủ, thuyền bè đã sẵn sàng cả rồi ạ. Những chiếc thuyền cuối cùng vừa đến Voronez ngày hôm nay.
- Ta ra sông.
Xtresnev chân đi giầy da dê thuộc, mình mặc áo choàng không có dây lưng, lập cập chạy theo Sa hoàng đang bước những bước dài như đi trên cà kheo. Trên khúc sông Đông loang loáng ánh nắng, vô số thuyền bè đậu thành nhiều hàng: thuyền, xuồng, thuyền buồm Cô-dắc hẹp lòng, thuyền chèo tay nhọn mũi chỉ có mái chèo đặt ở đằng trước với một cánh buồm thẳng tắp và một buồng tàu phía sau. Tất cả chỗ thuyền bè đó đã được đưa thẳng từ xưởng đóng thuyền đến. Dòng nước đung đưa đoàn thuyền. Nhiều chiếc ngập tới nửa. Cờ xí rũ xuống. Ván thuyền để mộc nứt nẻ dưới ánh mặt trời gay gắt, sườn thuyền quét hắc in bóng láng.
Lơfo đứng dạng đôi chân đi ủng da màu vàng nhìn đoàn thuyền qua ống nhòm:
- Schr gut. Thuyền bè đủ đấy.
Vua Piotr nhắc lại, cụt lủn:
- Gut.
Bàn tay rám nắng của nhà vua run run. Rồi cũng như mọi lần, Lơfo lại nói to lên ý nghĩ của vua Piotr:
- Cuộc chiến tranh chính bắt đầu từ đây.
- Tikhol Nikitievich, đừng giận ta nhé, - vua Piotr hôn vào bộ râu của Xtresnev, khiến lão nấc lên. - Phải cho quân đội xuống thuyền ngay không chậm trễ. Ngay tức khắc... Chúng ta phải tiến thẳng một mạch chiếm lấy Azop.
Ngày thứ sáu, vào lúc bình minh, trong ngôi nhà của Xtresnev đầy khói thuốc lá, một bức thư được thảo ra gửi cho vương hầu - chấp chính:
Myn Herr Koning... Đức cha của hoàng thượng, đức ông chí thánh Anikita, tổng giáo chủ Orexburg và tất cả vùng Yauza và giáo trưởng của toàn khu Kukui, cũng như bọn bầy tôi của hoàng thượng, các tướng Artamon Mikhailovich và Franx Yakovlevich cùng bạn bè của họ đều mạnh khỏe cả, và ngày hôm nay rời Pansino lên đường vẫn mạnh khỏe... Chúng thần Mars(5). Và chúng thần uống rượu bia còn nhiều hơn nữa...”.
Bức thư mang những chữ ký hầu như không đọc được:
“Frantsiska Lơfo. Alexaska Melsikov. Fetka Troekurov... Petruska Alekseyev... Artamoska Golovin... Varionoi Madamkin... “.
Thuyền đi suốt một tuần, đi ngang qua các thị trấn Cô-dắc kiên cố nằm trên các hòn đảo giữa sông Đông: Goluboi, Timoveiski, Txymblianski, Razdory, Manyts...
Trên hữu ngạn cao xuất hiện những mái nhà, hàng rào và tường thành bằng gỗ sồi của thành Chekask. Đoàn thuyền thả neo ở đấy ba ngày đợi các thuyền đến chậm.
Khi đoàn thuyền đã đến đủ, người ta lại dong buồm chạy thẳng đến Azop. Đêm êm ả, sâu thẳm, tỏa mùi nước mưa và cây cỏ. Châu chấu kêu ra rả. Chim ăn đêm kêu lên những tiếng lạ kỳ. Trên chiếc thuyền chèo tay đi đầu của Lơfo không một ai ngủ, mọi người không hút thuốc cũng không trò chuyện, cười đùa. Các mái chèo giơ lên rồi chậm rãi hạ xuống khuấy lên một tiếng nước động.
Lần đầu tiên, vua Piotr cảm thấy trên khắp da thịt mình mối lo sợ nguy hiểm. Sát đấy, trên bờ, những bóng đen, những hình dáng lờ mờ đang động đậy. Nhà vua chăm chú nhìn vào bóng tối và nghe thấy cây lá rì rào. Từ phía đó, trong khoảng sâu thẳm của đêm tối, tiếng bật dây cung của một cánh cung Tarta có thể bất chợt vang lên bất cứ lúc nào. Vua Piotr thấy sởn tóc gáy.
Xa tít về phía Nam, ánh một cơn giông lóe lên trên bầu trời đầy mây. Nhưng không nghe thấy tiếng sấm.
- Ngày mai, - Lơfo nói, - Chúng ta sẽ nghe thấy tiếng đại bác của tướng Gordon.
Tang tảng sáng, bầu trời tan mây lại trong vắt. Một người hoa tiêu Cô-dắc điều khiển chiếc thuyền chèo tay qua sông Koixoga, tất cả đoàn thuyền theo sau.
Sông Đông đã ở lại phía sau, bên phải. Mặt trời lên, chiếu nắng gay gắt; nước sông dường như dày thêm, hai bên bờ lùi ra xa, sương mù tan đi trên các cánh đồng trũng. Phía trước, bên kia bãi cát, dải sông Đông loang loáng lại xuất hiện. Trên các ngọn đồi, người ta trông thấy các lều vải, xe, ngựa. Cờ xí bay phấp phới.
Đó là doanh trại chính của tướng Gordon, bến cảng Mitisy, cách Azop mười lăm dặm.
Vua Piotr tự tay châm ngòi khẩu đại bác đặt phía mũi thuyền, - viên đạn nẩy nẩy trên mặt sông như một quả bóng. Tiếng súng và tiếng đại bác nổi lên ầm ầm khắp đoàn thuyền. Vua Piotr hét lên, giọng trầm và đứt quãng: “Chèo đi, chèo đi...”. Mái chèo cong oằn lại, quân lính cúi gập đầu xuống chèo.
Đạo quân đổ bộ lên bến Mitisy. Quân lính mệt rã rời nằm lăn ra cát ngủ, các hạ sĩ quan dùng gậy đánh bắt họ dậy. Chẳng bao lâu lều dựng lên trắng xóa, trên sông phảng phất mùi khói lửa trại.
Dẫn đầu ba trăm quân Cô-dắc, vua Piotr, Lơfo và Golovin phi nước đại vượt qua các ngọn đồi để đến doanh trại của Gordon đóng ở giữa đường đi đến Azop. Từ xa cũng nhìn thấy cái lều sặc sỡ của viên tướng dựng trên một ngôi mộ cỏ. Trên quãng đường họ đi, lăn lóc những ngựa bị tên bắn chết, xe bị gãy. Một tên Tarta nhỏ bé, mình trần đến thắt lưng, gáy đầy máu đã khô, nằm úp sấp, mặt lấp trong bụi ngải cứu. Con ngựa của Vua Piotr chững lại không chịu đi, nhìn né sang một bên.
- Hễ các đoàn xe vận tải của ta rời khỏi Mitisy, - những người lính Cô-dắc giải thích, - là bọn Tarta lại bắn tên ra như mưa, khúc đường này là nguy hiểm nhất. Kia kìa... - họ giơ roi chỉ - các ngài có trông thấy những bóng người sau các ngọn đồi kia không? Chúng nó đấy! Cẩn thận, chúng bắn tên bây giờ!
Các kỵ sĩ thúc ngựa phi về ngôi mộ cổ. Tướng Gordon mình mặc áo giáp sắt, đội mũ cắm lông chim, đứng trước lều, ống kính viễn vọng nằm tỳ bên hông, khuôn mặt nhăn nheo trông khắc khổ nghiêm trang.
Tiếng kèn đồng vang lên, súng đại bác nổ. Đứng trên đỉnh ngôi mộ cổ, có thể nhìn thấy, như trong lòng bàn tay, cái vịnh dưới ánh nắng chiều, những nóc nhà thờ cao vút và những bức tường màu vàng xám của thành Azop; những đống đổ nát của cái xloboda bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đốt vào ngày quân Nga đến; trên những ngọn đồi màu nâu trước pháo đài người ta trông thấy những đường gãy gập của các chiến hào và những đồn hình ngũ giác. Xa xa, trong vịnh Azop yên lặng, có những chiến thuyền cao đậu, buồm đã hạ, trên thuyền đặt nhiều đại bác.
Gordon chỉ vào chúng:
- Tuần trước quân Thổ Nhĩ Kỳ đưa một nghìn năm trăm tên vệ binh từ Kaffa vào bằng đường biển. Hôm nay đám thuyền đó lại đưa thêm quân đến. Hôm qua quân ta có bắt được một tên tù binh, không hiểu nó nói có thật không nhưng nó bảo số quân trong thành lả sáu nghìn người và có một đội kỵ binh Tarta trong thảo nguyên. Chúng chẳng thiếu gì cả. Biển nằm trong tay chúng. Không thể nào chiếm được thành bằng cách bao vây chúng đói đâu.
- Chúng ta sẽ xung phong đánh chiếm chứ? - Lơfo vừa giơ chiếc bao tay lên vừa nói.
Golovin phụ họa theo:
- Chúng ta sẽ ào ạt xông lên chiếm lấy thành. Khó gì chuyện ấy...
Vua Piotr say sưa nhìn mặt biển Azop mênh mông, những bức tường thành, những hình trăng lưỡi liềm sáng loáng trên các ngôi nhà thờ Hồi giáo, thuyền bè và ánh sáng lộng lẫy của buổi chiều tà. Nhà vua có cảm giác những hình ảnh thân yêu của thời thơ ấu nay đã sống dậy; mảnh đất bí ẩn thực sự là kia rồi!
- Thế nào, còn ông, Piotr Ivannovich? Sao ông không nói gì? Liệu chúng ta có chiếm được Azop không?
- Phải chiếm lấy, - Gordon mím chặt những nếp nhăn quanh miệng lại, trả lời.
Một tấm bản đồ được lấy từ trong lều ra rồi trải lên một cái trống. Các tướng lĩnh cúi xuống nhìn. Vua Piotr lấy móng tay vạch vòng quanh các vị trí dàn quân:
- Gordon ở giữa, cách thành khoảng năm trăm bước, Lơfo ở cánh trái và Golovin ở cánh phải. Ở đây ta sẽ đặt khẩu đội pháo tấn công, ở kia những khẩu súng cối, chỗ này là nơi chúng ta bắt đầu đào hào để áp tới gần thành. Ta định thế có được không, Piotr Ivannovich?
- Phải đánh tan chúng... Chúng ta sẽ tung quân Cô-dắc tấn công chúng...
- Vâng, có thể đánh tan chúng được... Nhưng thần thấy đem lương thực từ cảng Mitisy đến sẽ chật vật đấy. Còn như cử một đơn vị lớn đi hộ tống từng đoàn xe một thì khó lắm...
- Các tướng lĩnh hãy nghe đây, sao ta lại không đưa lương thực đến bằng thuyền nhỉ?
Các tướng lĩnh lại cúi các bộ tóc giả xuống tấm bản đồ.
- Bằng thuyền lại càng khó hơn. - Gordon nói. - Sông Đông có dây xích chắn ngang. Ở cửa sông có hai cái tháp và một hỏa lực pháo mạnh.
- Phải chiếm hai cái tháp đó! Các tướng quân thấy thế nào?
- Hai cái tháp, hừ khó quái gì! - Golovin vừa cười vừa nói. Và hắn nháy cặp mắt đẹp và đần độn nhìn những lỗ châu mai của cái tháp tròn sừng sững ở phía Tây, bên kia dãy đồi.
Gordon nghĩ một lát rồi trả lời:
- Có thể chiếm được các tháp ấy, tại sao lại không?
- Vậy thì, Piotr Ivanovich, cầu chúa hãy phù hộ cho chúng ta, - vua Piotr cầm má Gordon kéo lại và hôn ông ta, - Ngày mai người sẽ dời vị trí tiến lại gần thành. Còn chúng ta sẽ tiến với toàn quân không chậm trễ. Ta sẽ bắn đại bác hai ngày rồi sẽ xung phong lên.
Từ phía chiến thuyền Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng kèn đồng khẽ vẳng lại: đó là tiếng kèn thu quân.
Bóng hoàng hôn trùm lên vịnh. Đỉnh các ngôi nhà thờ Hồi giáo vẫn rực sáng nhưng rồi cũng tắt dần. Trong không khí chỉ còn nghe thấy tiếng châu chấu bay lách tách khô khan. Vua Piotr bước vào lều, bên trong hai cây nến chiếu sáng một bàn ăn thịnh soạn. Mọi người ngồi lên trên những cái trống. Một món thịt cừu bốc khói nghi ngút được đưa ra. Vua Piotr hăm hở vọc cả hai bàn tay vào đĩa. Lơfo đã cởi bộ áo giáp ra cho thoải mái, rót rượu vang Hungary vào những chiếc cốc bằng thiếc.
Khi Golovin mặt đỏ tía tai hét lên:
- Xin chúc mừng sức khỏe của ngài đệ nhất pháo thủ!
thì tiếng hò reo bắt đầu từ căn lều vải tràn xuống khắp hàng quân thưa thớt, trong đêm tối:
“Vạn tuế! Vạn tuế!”
Đại bác gầm vang khiến ngọn lửa của các cây nến lay động, chập chờn.
- Được lắm! - vua Piotr nói.
Lơfo cười và rót rượu đầy các cốc:
- Pete ạ, thế này mới là sống vui thú.
- Trong doanh trại của ngài có đám con gái phục vụ rượu, nước không thế, thưa tướng quân? - Golovin vừa hỏi vừa cởi bộ áo giáp.
Lơfo và vua Piotr phá lên cười:
- Chà, gì chứ cái đó thì Varionoi Madamkim thạo lắm.
- Cho một kỵ binh đi mời Varionoi lại đây...
Sáng hôm sau, Gordon đã được bổ sung thêm hai trung đoàn xtreletz, tiến đến Azop. Các xotnia (6) Cô-dắc đi tiên phong phi nước kiệu lên ngọn đồi màu nâu ở trước pháo đài: lên tới đỉnh, họ ghìm ngay ngựa lại. Nhiều tên lính Cô-dắc phi nước đại quay trở về phía bộ binh đang tiến lên theo hàng bốn, chúng la hét ầm ĩ: “Quân Tarta! hãy tránh ra! Đưa đại bác lại!”.
Ở bên trái ngọn đồi, kỵ binh Tarta đang dàn ra theo hình móng ngựa. Chúng đông dễ có đến mười nghìn người. Chúng phi ngựa mỗi lúc một nhanh làm bụi bốc lên mỗi lúc một dầy đặc. Tên bay tới tấp. Hàng ngũ các xotnia Cô-dắc rối loạn. Nhiều kỵ binh Cô-dắc cúi rạp mình trên lưng ngựa bỏ chạy. Mặc cho các viên đại tá ra lệnh vung chùy lên, toàn bộ kỵ binh Cô-dắc, gươm vẫn nằm trong vỏ, ào ào phi xuống chân đồi như một dòng thác. Nhưng quân Tarta đã đánh bọc sườn quân Nga ở phía tay phải, những con ngựa bé nhỏ lông lá xồm xoàm của chúng phi như bay, bụng sát đất, những lưỡi kiếm cong múa tít trên đầu. Tiếng kêu hét ầm ĩ.
Bụi cuốn lên mù trời. Một bộ phận kỵ binh Cô-dắc quay lại để chiến đấu bằng gươm. Quân đôi bên hỗn chiến. Bộ binh xốc tới, xếp thành hình vuông. Quân xtreletz dùng thừng kéo đại bác lên. Vành móng ngựa của kỵ binh Tarta sắp khép lại. Súng đại bác nổ loạn xạ. Ngọn đồi biến mất sau các làn khói. Một con ngựa lồng lên phi thục mạng. Một tên Tarta ngã lăn xuống đất. Một viên đạn trái phá rít lên. Từng loạt súng đại bác nổ vang. Quân sĩ hốt hoảng vừa bắn vừa la hét. Các sĩ quan cuống cuồng. Tiếng đại bác tấn công nổ rầm rầm, át cả tiếng ồn ào ấy. Không còn hiểu sự thể ra sao nữa: ai thắng thế?
Đột nhiên có chuyện gì đó xảy ra, không khí bỗng dễ thở hẳn. Gió cuốn khói đi không thấy quân Tarta lẫn quân Thổ Nhĩ Kỳ đâu nữa. Chỉ còn những con ngựa bị ngã đang vùng vẫy và vô số thi thể, cái thì đã nằm im, cái thì đang quằn quại, nằm la liệt trên mặt đất màu nâu.
Phía trước, tướng Gordon cưỡi con ngựa ô đứng trên đồi. Lưng áo giáp của ông ta sáng loáng, ống kính viễn vọng tỳ vào bên hông. Cái đầu nhỏ bé tóc bạc của ông nhô ra khỏi bộ áo giáp trông như một hòn bi: một viên đạn đã bắn rơi mất mũ của ông. Ông từ từ giơ gươm lên và cưỡi ngựa đi bước một xuống chân đồi về phía Azop. Tiếng hô vang lan đi khắp hàng quân:
- Tiến lên, tiến lên! Dũng cảm lên!
Đơn vị của tướng Gordon cố thủ sau các dãy chướng ngại vật cự mã, ngay sát pháo đài. Từ trên tường thành, quân Thổ Nhĩ Kỳ bắn đại bác xuống doanh trại gieo rắc khiếp đảm khắp nơi. Khi một viên đạn trái phá bắn ra rồi rít lên, xoáy tròn lông lốc thì các đại tá, sĩ quan, dapife, triều thần, đều nằm sấp cả xuống đất, lấy lai tay áo che kín đầu: Các viên đạn trái phá đó - không còn là những hũ đựng đầy bột đậu phơi khô của các chiến dịch du hí ngày trứơc - nổ rầm rầm, cày tung lên từng cục đất đến nỗi các binh sĩ, mặt tái mét, chỉ còn biết làm dấu thánh giá, không làm được gì khác nữa. Riêng có Gordon, vẻ mặt nghiêm nghị và bình tĩnh, đi lại trong doanh trại không hề quay đầu lại khi có tiếng rít quái ác của đạn đại bác.
Ông quát bảo quân lính, cấm họ không được cúi rạp người chào các quả cầu Thổ Nhĩ Kỳ.
- Ai cúi chào, ta sẽ trừng phạt... Hèn nhát là xấu... Schande, Schande (7)? Thật nhục nhã! Thế mà cũng gọi là lính Nga đấy!
Như ông tiên đoán, việc tiếp tế lương thực rất gay go, nhất là nước uống. Quân Tarta mở những cuộc đột kích dữ dội, tiêu diệt những đoàn xe từ cảng Mitisy đến. Không thể nào đánh bại được bọn Tarta, chúng có những con tuấn mã chạy nhanh như gió, - chúng không chịu giao chiến chỉ bắn tên vào quân Nga rồi biến mất trong thảo nguyên.
Cuối cùng, người ta cũng xây dựng xong doanh trại; quân lính trú ẩn trong những chiến hào sâu để tránh đạn đại bác. Mãi đến ngày thứ tư, quân của Lơfo và Golovin mới đến được vị trí, trống dong cờ mở đi đầu.
Vua Piotr nghiêm trang dẫn đầu một trung đoàn pháo thủ. Trong hàng ngũ lính trơn của đơn vị này có Melsikov, Aliosa Brovkin, Volkov, người Hà Lan Jakov Hanxen, một pháo thủ thành thạo vừa được tuyển mộ.
Đi trước vua Piotr là một gã hộ pháp, mũi như mũi gấu, môi dày, vừa đánh chũm chọe vừa nhảy nhót; đó là một tay bạn rượu mới của Sa hoàng, một người đánh chũm chọe biệt hiệu là Varionoi Madamkin, một gã trác táng nghiện rượu chưa từng thấy bao giờ.
Vua Piotr dẫn đầu một phân đội pháo thủ tới doanh trại của Gordon (quân của Lơfo ở bên cánh trái, quân của Golovin ở bên cánh phải, đang gấp rút đào hảo đắp lũy cố thủ). Quân lính xây đồn chung quanh có xếp những sọt và những bị đất cách trại năm trăm bước về phía pháo đài. Qua các lỗ châu mai trên tường thành người ta trông thấy những chiếc mũ fez (8) và những cặp mắt hau háu của các xạ thủ Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Piotr vịn vào vai Alexaska nhảy lên miệng hào. Gordon vội vàng kéo nhà vua lại.
- Achtung (9)! Cẩn thận!
Nòng dài của một khẩu súng ở lỗ châu mai trên tường thành nhả khói, ống nhòm của vua Piotr bật tung ra khỏi tay, nhà vua nhảy xuống hào cúi mình. Mọi người chạy lại. Vua Piotr gượng gạo mỉm cười để lộ hai hàm răng.
- Gớm thật! Quân chó chết! - Nhà vua gắng gượng thốt lên. - Đưa cho ta ngòi đạn...
Các pháo thủ kéo lại một khẩu súng cối ngắn bằng đồng, họng súng chổng lên trời. Vua Piotr khéo léo nhồi thuốc nổ vào súng (mắt đảo nhìn mọi người chung quanh), tung tung trong lòng bàn tay một viên đạn trái phá nặng chừng hai mươi livrơ (10), sửa lại ngòi nổ rồi đút viên đạn vào trong nòng súng. Nhà vua ngồi xổm xuống ngắm:
- Cầu Chúa phù hộ! Đây là phát đầu tiên... Hãy lui cả lại!
Khẩu súng cối khạc ra một đám lửa. Quả trái phá vọt lên và rơi xuống chân tường thành.
Quân Thổ Nhĩ Kỳ thò đầu qua các lỗ châu mai, hét lên những lời thóa mạ. Vua Piotr đỏ mặt tía tai. Quân lính lại kéo tới một khẩu súng cối thứ hai...
Dưới các tường thành cao của pháo đài Azop, mọi người đều hổ thẹn không dám nhắc lại những câu nói huyênh hoang mới đây và lời hứa hẹn sẽ chỉ một trận xung phong là chiếm được thành. Đội quân bao vây vừa bố trí các khẩu đội pháo và đồn lũy vừa bắn đại bác trong mười lăm ngày. Nhiều đám cháy nổ ra trong thành phố. Một tháp canh sụp đổ. Nhân dịp đó, người ta mừng rỡ làm om xòm trong hầm của Sa hoàng Piotr.
Nhưng rồi hai mươi chiến thuyền theo đường biển đem viện binh đến cho quân Thổ Nhĩ Kỳ.
Chúng dập tắt các đám cháy. Ban đêm, vệ binh Thổ Nhĩ Kỳ, dắt dao găm mũi cong bò như rắn đến tận hào lũy quân Nga và cắt cổ lính canh. Và những bức tường thành vẫn đứng trơ trơ không sao hạ nổi.
Gay go nhất là việc tiếp tế lương thực. Trong một cuộc họp, các tướng lĩnh quyết định kêu gọi quân cảm từ: họ hứa thưởng mười rúp mỗi người cho những ai chiếm được các tháp. Khoảng chừng hai trăm lính Cô-dắc vùng sông Đông xung phong đi. Một trung đoàn được cử đi theo họ.
Ban đêm quân Cô-dắc luồn đến tháp canh bên tả ngạn con sông và cố phá cửa. Họ thất bại. Họ bèn dùng đòn bẩy phá được một lỗ hổng rồi xông vào trong tháp. Trong đó có khoảng chừng ba mươi tên còn lại. Họ chiếm được mười lăm khẩu đại bác. Họ dùng súng đó để bắn vào tháp canh thứ hai bên hữu ngạn sông Đông khiến quân Thổ Nhĩ Kỳ phải bỏ tháp chạy.
Đó là một sự việc lớn: đường sông Đông đã thông.
Trong các doanh trại, người ta tổ chức những buổi lễ cầu nguyện và đại vương trùm đạo thân từ Mitisy đến dự tiệc mừng.
Nhưng bỗng một tai họa lớn xảy ra. Ban ngày, trời nóng như thiêu như đốt. Đến buổi trưa, lính tráng uể oải đi lang thang tìm bóng mát. Họ không còn chút phẫn nộ nào trong lòng, họ không hề mảy may muốn chiến đấu. Họ được phát súp bắp cải nấu cá sấy đựng trong cà mèn và một cốc vodka một đầu người. Ánh mặt trời gay gắt nóng như nung như nấu không tài nào chịu nổi; châu chấu rít lên ken két, ruồi nhặng quấy nhiễu mọi người, mùi phân súc vật thối um.
Trong không khí nóng bức đó, tường và tháp của thành Azop dường như nghiêng ngả chập chờn.
Theo một tục lệ lâu đời, sau bữa ăn trưa, mọi người ngủ trong các doanh trại. Toàn thể quân Nga ngủ và ngáy khò khò, từ viên đại tướng cho chí người lính nấu bếp. Lính canh thì ngủ gà ngủ gật.
Vào cái giờ buồn ngủ đó, tên pháo thủ người Hà Lan Jakov Hanxen bỗng biến mất. Vua Piotr là người đầu tiên phát hiện ra việc đó, vào khoảng một giờ trưa, khi nhà vua bước ra khỏi lều vừa ngáp dài vừa nhấp nháy mắt trước ánh sáng chói lòa. Ngày hôm đó, quân Nga định phá một cái tháp nhà thờ Hồi giáo bằng ba viên đạn trái phá. Hanxen đã đánh cuộc là hắn sẽ phá được. Piotr hét lên:
- Hay là quỷ tha ma bắt nó đi rồi!
Người ta khám xét khắp doanh trại. Một tên lính nói là nó thấy một người mặc áo nẹp đỏ, đeo túi đựng quần áo bỏ chạy về phía pháo đài. Vua Piotr nổi giận đấm vào hàm tên lính.
Song quả nhiên người ta không thấy quần áo của tên Hanxen trong hầm. Hắn đã chạy sang bên quân Thổ Nhĩ Kỳ rồi chăng? Có lệnh truyền cho tất cả các trung đoàn sáng ngày hôm sau phải nguyền rủa tên Hà Lan khốn kiếp. Tướng Gordon lo lắng trước sự phản bội đó, đòi hỏi phải họp hội nghị và tuyên bố rằng trong các doanh trại của Golovin và Lơfo công việc chuẩn bị phòng thủ hết sức lơ là và tắc trách, không có những đường giao thông hào nối liền các trại và nếu quân Thổ Nhĩ Kỳ mà xông ra thì một tai họa lớn sẽ xảy đến.
- Chiến tranh không phải là một trò đùa, thưa chư vị tướng quân. Chúng ta chịu trách nhiệm về sinh mạng của quân lính. Vậy mà ở đây, ai ai cũng có vẻ như chơi đùa ấy.
Môi của Lơfo tái nhợt đi vì tức giận. Golovin phật ý gườm gườm nhìn Gordon như một con bò mộng. Nhưng tướng Gordon vẫn khăng khăng đòi phải hoàn thành ngay chiến tuyến phòng thủ:
- Trong chiến tranh, trước hết là phải biết sợ địch, thưa chư vị tướng quân.
- Chúng ta phải sợ chúng à?
- Chúng ta sẽ diệt chúng như diệt ruồi ấy!
- Ồ thưa các tướng quân, không đâu. Azop không phải là một con ruồi.
Các tướng lĩnh thóa mạ tướng Gordon, cho ông ta là đồ hèn, đồ chó. Nếu không có vua Piotr thì họ đã giật phăng bộ tóc giả của ông đi rồi.
Ngay ngày hôm đó, vào giờ cả quân đội đang say sưa giấc nồng sau bữa ăn trưa, quân Thổ Nhĩ Kỳ mở cửa pháo đài và lặng lẽ, không một tiếng động nhằm đúng các đường hào đang dở dang ở điểm tiếp giáp giữa các doanh trại, mà xông tới. Đến một nửa số quân xtreletz đang ngủ bị đâm chết. Số còn lại vứt cả súng ống giáo mác đâm đầu bỏ chạy về phía vị trí đặt mười sáu khẩu đại bác, vị trí này cũng chỉ có công sự bảo vệ qua loa. Không kịp bắn đại bác nữa. Quân Thổ Nhĩ Kỳ tay cầm gươm yatagan (11) đã đuổi kịp quân xtreletz, trèo vào đồn; chúng hò hét xông vào đội pháo thủ đang đứng sát cánh nhau, trong số đó con trai tướng Gordon, đại tá Yakov, đang vung một cái chổi thông nòng súng.
Trong các doanh trại thật là một cảnh tượng nhốn nháo hỗn loạn, súng nổ loạn xạ. Vua Piotr đứng trên nóc hầm của mình, hai bàn tay nắm chặt lại, khóc nấc lên vì xúc động. Hét lên ư ? Ra lệnh ư ? Vô ích. Mắt nhắm mắt mở quân lính chạy tán loạn như điên. Nhà vua trông thấy Gordon vượt qua lũy doanh trại vung hai khẩu súng ngắn, lập cập chạy lại phía đồn của pháo binh để cứu con. Theo sau ông ta, một đám lính mặc áo nẹp màu lục, đỏ, xanh ùa chạy, hỗn độn. Trên lũy doanh trại của Lơfo, một đám đông dầy đặc phất cao lá cờ cũng đang chạy lại cứu viện. Cả cánh đồng đầy những quân lính. Khói thuốc súng phủ kín đồn bị địch chiếm.
Quân Thổ Nhĩ Kỳ bắn để yểm hộ cuộc rút tui: chúng mang theo các khẩu đại bác và chạy nhanh xuống sườn dốc dẫn đến pháo đài. Chúng ngã lăn ra dưới chân lũy, rồi vùng vẫy, nổ súng, những chiếc quần đỏ rộng thùng thình của chúng xuất hiện đây đó. Quân Nga rải rác trên cánh đồng, giờ đây đã họp lại thành một hàng không đều, tiến nhanh đuổi theo quân Thổ Nhĩ Kỳ về phía pháo đài. Từ hầm trú ẩn, chỗ vua Piotr đứng quan sát, cảnh đó diễn ra như một trò chơi... Quân ta đã thắng thế. Quân Thổ Nhĩ Kỳ bị quân Nga bám theo sau lăn xuống đường hào chạy quanh pháo đài.
- Đem ngựa lại đây! - Vua Piotr kêu to, - Xung phong? Kèn đâu, hãy thổi hiệu lệnh xung phong!
Nhà vua dậm chân. Nhưng chẳng ai nghe cả.
Alexaska Mensikov, mắt đỏ ngầu, phi ngựa qua. Hắn lấy bản lưỡi kiếm đánh ngựa và nhảy vọt qua hào. Miệng há to, hắn thét: “Hura...”. Tiếng trống dồn dập. Đột nhiên có chuyện gì đó xảy ra. Quân Thổ Nhĩ Kỳ đã chạy tới chân tường thành. Cổng pháo đài mở. Một toán vệ binh Thổ Nhĩ Kỳ xông ra và một người cưỡi ngựa trắng, y phục toàn màu đỏ, đầu chít một cái khăn to, dang hai tay giơ lên trời...
Giữa tiếng súng nổ, vang lên một tiếng thét ghê rợn đến nỗi vua Piotr rùng mình... Quân Nga bỏ chạy, quân Thổ Nhĩ Kỳ cưỡi ngựa và chạy bộ đuổi theo sau... Quân lính cứ ngã xuống, ngã xuống. Vua Piotr ôm chặt lấy thái dương... Nhà vua lại trông thấy Alexaska; hắn đang phi ngựa về phía người bận quần áo đỏ, chít khăn và thế là đánh nhau... từng đám khói thuốc súng bay mù mịt. Đạn trái phá nổ tung. Những con ngựa lồng lên. Quân lính hiện ra, chạy lại, mặt mày méo xệch đi vì sợ. Họ lăn qua các bờ lũy, lăn xuống các chiến hào. Họ đã thua, họ đã bị đánh bại.
Trong trận đó, quân Nga mất đến năm trăm người, một đại tá, mười sĩ quan và toàn bộ một khẩu đội pháo.
Suốt mấy ngày sau, vua Piotr không nhìn về phía pháo đài, nơi quân Thổ Nhĩ Kỳ đang nhăn răng ra cười.
Alexaska huênh hoang trước mặt mọi người về thanh kiếm đẫm máu của mình. Hắn là một anh hùng...
Không khí chán nản lan tràn trong các doanh trại.
Chà, thật là một giấc ngủ trưa mới ngon lành làm sao chứ?
Lơfo và Golovin chẳng còn dám ra mắt vua Piotr nữa. Bây giờ trong doanh trại của họ chỉ còn nhìn thấy đất bị xẻng hất bay tung tóe mà thôi.
Thất bại đó làm vua Piotr kinh ngạc sững sờ. Nhà vua lầm lì trầm lặng; mấy ngày đó dường như làm cho nhà vua chín chắn thêm.
Một ý nghĩ đã đóng đinh trong đầu nhà vua: Phải chiếm cho kỳ được Azop!
Oanh liệt hay không oanh liệt cũng phải chiếm cho kỳ được. Nếu cần nhà vua sẽ bắt tất cả nước Nga bò lê bò càng, nhưng phải chiếm lấy Azop!
Tối đến, ngồi trước hầm, nhà vua hút thuốc dưới ánh sao và hỏi Gordon về chiến tranh, về vũ vận, về các tướng lĩnh vinh quang thời xưa. Gordon nói:
- May mắn chỉ đến với người chỉ huy nào biết đánh giặc với nồi cháo bột và cái xẻng, người chỉ huy nào gan lì và thận trọng... Nếu người lính tin tưởng vào người chỉ huy và nếu họ được ăn uống no đủ, họ sẽ chiến đấu dũng cảm.
Vua Piotr không còn chơi cái trò bắn đại bác vào pháo đài nữa. Suốt ngày nhà vua ở nơi đang đào hào tiến về phía địch: quân Nga tiến dần từng bước một tới pháo đài. Cởi bộ áo nẹp và mớ tóc giả, nhà vua đào đất, đan sọt và ăn uống tại chỗ với quân lính.
Về phía sông, pháo đài Azop nằm ở lưng chừng dốc. Gordon khuyên nên xây công sự chiến đấu có đại bác trên một hòn đảo đối diện với pháo đài. Yakov Dolgoruki, tính tình hung hăng, ương bướng, xung phong đảm nhiệm công việc nguy hiểm ấy. Hắn sẵn sàng mất đầu cũng được miễn là hắn có thể nổi bật lên trong cuộc chiến tranh. Đêm đến, hắn dẫn đầu hai trung đoàn chiếm đóng hòn đảo và thiết lập công sự.
Sáng hôm sau, quân Thổ Nhĩ Kỳ thấy rõ mối nguy cơ, bắt đầu chuyển một đội quân khá lớn, có kỵ binh Tarta yểm hộ, sang bên hữu ngạn sông Đông để từ đó đánh bật quân Nga ra khỏi đảo. Gordon yêu cầu hai tướng đến cứu viện. Bản thân ông cũng lập tức xuất phát với các đại bác và kỵ binh và đóng vị trí sau chướng ngại vật cự mã mé dưới đảo, phía hạ lưu.
Quân Thổ Nhĩ Kỳ sợ hãi dừng lại. Và tất cả đều thủ thế nguyên như vậy. Gordon bên tả ngạn, Dolgoruki thấp thỏm lo âu ở trên đảo và quân Thổ Nhĩ Kỳ cũng bối rối, đóng ở hữu ngạn. Lơfo và Golovin chần chừ rồi quyết định không rời doanh trại: cả hai người đã chán ngấy Gordon lắm rồi: “Mặc hắn tự lo liệu xoay sở lấy một mình!”
Đứng trên đồn, vua Piotr nhìn sự chuyển vận của các đội quân và cũng như mọi người, nhà vua chẳng hiểu gì về tình hình đang diễn ra. Nhà vua e ngại không dám can thiệp vào công việc... Bỗng nhiên, kỵ binh Tarta nhảy xuống sông bơi, bọn vệ binh Thổ Nhĩ Kỳ túm lấy đuôi ngựa. Quân Tarta biến mất vào thảo nguyên và quân Thổ Nhĩ Kỳ rút về pháo đài.
Gordon trương cờ cử nhạc trở về. Quân Nga đã thắng trận mà không phải đánh chác gì hết.
Từ hòn đảo, đạn trái phá dội tới tấp vào thành Azop, đứng ở hòn đảo nhìn thấy rõ thành như ở trong lòng bàn tay: đạn đại bác phá sập nhà cửa, nhóm lên những đám cháy. Người ta trông thấy dân chúng chạy trốn về phía các tường thành để tìm cách thoát thân.
Trong doanh trại quân Nga, không khí vui vẻ trở lại. Họ lại bàn chuyện xung phong. Nhưng lần này cũng vậy Gordon lại ngăn cản được một dự định dại dột.
Ông khuyên nên thử điều đình xem sao: có thể với những điều kiện thỏa đáng, tên pasa(12) Murtozo chỉ huy pháo đài sẽ ra hàng cũng nên.
Sau một trận bắn phá dữ đội, trong khi cả thành Azop đang bốc khói nghi ngút, quân Nga phái hai người lính Cô-dắc đem một bức thư đến cho tên pasa. Rồi mọi người quan sát: hai người lính Cô-dắc lại gần tường thành giơ mũ và lá thư lên vẫy. Quân Thổ Nhĩ Kỳ để cho họ vào. Nhưng một lát sau chúng tống cổ họ ra một cách thô bạo.
Chà, thử nghĩ coi? Họ là những đại biểu của Sa hoàng kia mà! Họ đem bức thư trở về, tên Jakov Hanxen đã viết lên bức thư những chữ Nga tục tĩu.
Trong lều của Golovin, tướng Gordon nói mãi rằng theo khoa học quân sự thì trước hết phải đào hào tiến sát vào tường thành, phá một lỗ hổng rồi sau đó mới xung phong được, nhưng vô ích, chẳng ai buồn nghe lời ông ta. Các tướng lĩnh ngồi ở bàn, trước mặt đặt các cốc rượu. Vua Piotr hai tay ôm đầu gãi gáy, nhìn những ngọn nến: nhà vua tưởng đâu như đã nghe tiếng kèn chiến thắng vang lên trên tường thành Azop. Gordon gõ thanh gươm:
- Tướng Condé (13) vĩ đại thường hay. . .
Golovin lè nhè nói:
- Condé, cái gì cũng Condé, hãy xéo đi đâu thì xéo với thằng Condé của ông cho rảnh? Vì ông mà mọi người mất hết thì giờ và danh dự của chúa công đã bị ô nhục.
Lơfo trâng tráo cười vào mặt Gordon. Vua Piotr khăng khăng đòi phải tấn công tức khắc.
Cuộc xung phong được định vào ngày mồng 5 tháng tám.
Người ta kêu gọi quân cảm tử. Người ta hứa cho mỗi sĩ quan hai mươi lăm rúp và cho mỗi lính mười rúp nếu ai cướp được một khẩu đại bác. Trong buổi lễ cầu nguyện, các giáo sĩ của các trung đoàn lính hô hào quân lính hy sinh. Trong các trung đoàn lính thường và lính xtreletz không ai tình nguyện. Họ lầm lì quay đi: “Chúng tôi không phải là đồ ngu mà đâm đầu vào một việc như vậy!”. Nhưng quân Cô-dắc sông Đông cử các viên chỉ huy đến gặp vua Piotr: hai nghìn năm trăm quân lính Cô-dắc sẵn sàng leo lên tường thành; nếu cần còn có thể lấy thêm nhiều quân hơn nữa với điều kiện: phải để bọn họ cướp phá thành Azop ít ra là trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Vua Piotr cùng các tướng lĩnh ôm hôn các viên chỉ huy Cô-dắc và hứa sẽ giao thành cho họ trong ba ngày.
Người ta bổ sung thêm năm nghìn lính xtreletz và lính thường cho quân Cô-dắc. Đêm trước ngày tấn công, Gordon bước vào hầm của vua Piotr; dưới ánh sáng một mẩu nến đang cháy, nhà vua mút tẩu thuốc, xem xét một tấm bản đồ quân sự.
- Người ta nói chuyện với quân sĩ chưa? Piotr Ivannovich, thôi thì nhờ Trời chứ?
Gordon ngồi xuống, tay cầm cái mũ đặt trên đầu gối; ông già mệt mỏi rã rời. Một bộ râu trắng mọc lan trên dôi gò má hóp của ông. Ông thở một cách khó khăn, để hở bộ răng dài, vàng khè khuyết mất hai chiếc răng cửa. Lòng đầy một nỗi buồn pha lẫn trìu mến, ông nhìn chàng thanh niên tự phụ. Suy cho đến cùng, có lẽ tuổi trẻ cần phải cưỡng bức số mệnh chăng.
- Mùa đông này ta sẽ xây dựng một hạm đội lớn ở Voronez, - vua Piotr nói, giương cặp mắt đỏ ngầu nhìn lên. - Ngày mai, Piotr Ivanovich, phải chiếm lấy bằng được Azop. - Nhà vua lấy tẩu chỉ vào cái vịnh nhỏ ở phía Tây cửa sông Đông. - Nhìn đây... Nơi đây ta sẽ lập thêm một pháo đài thứ hai. Trong mùa đông, quân Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không bén mảng vào biển Azop đâu, rồi sang xuân ta sẽ đến đây với một hạm đội hùng mạnh. Hãy coi đây, ở đây, trong eo biển Kesk, ta sẽ xây dựng một pháo đài, thế là biển cả sẽ thuộc về tay ta... Ta đóng thuyền và tiến vào Hắc Hải. - Cái tẩu vung lên chỉ trỏ đây đó trên tấm bản đồ - Ở đó tha hồ rộng rãi. Ta sẽ chiếm Krym bằng đường biển. Vùng Krym thuộc về tay chúng ta. Còn lại các eo biển Bospho và Dardanel. Bằng chiến tranh hay bằng con đường hòa bình, chúng ta sẽ tìm đường tiến ra Địa Trung Hải. Rồi chúng ta sẽ tung lụa là, lúa mì của ta tràn ngập các thị trường... Hãy coi những nước này: Vơnidơ, Rome... và nhìn đây, đây là Moskva. Ta sẽ chở hàng hóa bằng đường thủy đến tận Xarixyn và ở đó xưa kia ta phải đi đường bộ đến Pasino thì nay ta sẽ cho đào một con kênh đến tận sông Đông. Thế nào? Khi đó chúng ta sẽ là những thương gia thực sự... Piotr Ivanovich này, liệu chúng ta có chiếm được Azop không?
Suy nghĩ một lát, Gordon trả lời;
- Thần cũng không biết nữa... Thần đã gặp quân sĩ rồi. Nhiều đứa rất ngốc, chúng tưởng rằng không cần thang cũng xung phong được. Và trên nhiều bộ mặt thần đã thấy vẻ ngại ngùng và sự chán nản: Nhưng thần đã nhắc nhở họ một câu tục ngữ Nga: “Làm trai cho đáng nên trai”. Tất cả bọn lính đã tình nguyện đi thì sẽ đi cả thôi. Thần sẽ xử bắn nếu họ hèn nhát. Vả lại mọi việc đã sẵn sàng: thang, sọt đất và thủ pháo. Chúng ta hãy cầu Chúa phù hộ chúng ta.
Vua Piotr không yên tâm. Quá nửa đêm, nhà vua đánh thức Melsikov dậy và hai người phi ngựa đến doanh trại của quân Cô-dắc. Không khí yên lặng như tờ. Quân Cô-dắc đang ngủ rất vô tư lự trên xe của họ.
Viên ataman, đầu trọc lốc, nét mặt cương nghị, có cặp mắt linh lợi, đón tiếp khách. Hắn mời vua Piotr ngồi lên một cái yên ngựa trước đống lửa trại còn hắn thì ngồi xếp chân bằng tròn.
Lính Cô-dắc xúm lại chung quanh họ. Cá khô sấy và vodka được đưa ra và câu chuyện bắt đầu, mạnh dạn và giễu cợt. Cứ như lời quân Cô-dắc nói thì chúng không sợ gì hết thảy, kể cả Ma vương.
Chúng len vào sát đống lửa, ánh lửa chiếu sáng những bộ râu đen sì và những bộ mặt ngỗ ngược của chúng.
Chúng nói, vẻ chế giễu:
- Quân Cô-dắc là sức mạnh lớn nhất, là tinh hoa của loài người... Thế mà, ở Moskva, người ta nói gì về chúng thần? Nói rằng chúng thần là quân kẻ cướp không hơn không kém! Moskva cử đến cho chúng thần những tên tổng trấn còn đầu trộm đuôi cướp hơn cả chúng thần nữa... Tâu Sa hoàng, hoàng thượng đến gặp anh em chúng thần là rất tốt. Hãy nhìn chúng thần kỹ vào. Chúng thần có vẻ gì là hạng người xấu không? Toàn chim đại bàng cả đấy, quân Cô-dắc là chim đại bàng cả đấy. Chà! chà... Nên nể nang chúng thần một chút.
Khi màn trời ngả sang màu lục đàng Đông, có những tiếng gọi khẽ bay đi khắp trại. Hàng trăm lính Cô-dắc trèo qua lũy đất và như những con mèo, mất hút trong cánh đồng tối om về phía tường thành đối diện với dòng sông. Những tên Cô-dắc khác xuống thuyền kéo theo những cuộn thừng có móc sắt và những cái thang nhẹ. Trại Cô-dắc lặng lẽ vợi hết người.
Ánh sao nhạt dần trên bầu trời mênh mông, Gà trống của đoàn xe quân lương cất tiếng gáy.
Làn gió ban mai khiến mọi người rùng mình. Về phía Bắc, một ánh sáng vụt lóe lên, một khẩu đại bác nổ: các trung đoàn Butyrski và Tambobski của tướng Gordon xung phong.
Chỉ có quân lính của các trung đoàn Butyrski và Tambobski là leo lên được tường thành.
Quân xtreletz theo sau, nghe thấy tiếng vũ khí loảng xoảng của một cuộc chém giết ác liệt; chúng khiếp vía chui vào những vườn anh đào của một làng bị đốt cháy. Quân Cô-dắc tấn công dữ dội ở phía sông nhưng thang ngắn quá. Từ trên tường thành, quân Thổ Nhĩ Kỳ ném đá, đổ nhựa thông sôi bỏng. Quân Cô-dắc tiu nghỉu về trại. Cuộc xung phong đã bị đánh lui.
Mặt trời mọc lên, chiếu sáng cả một đống vô số xác người ngổn ngang dưới chân thành. Quân Thổ Nhĩ Kỳ quẳng xác quân Nga từ trên đỉnh tường thành xuống; các xác chết lăn lông lốc xuống hào. Hơn một nghìn năm trăm quân sĩ đã thiệt mạng. Trong các chiến hào, binh lính than thở:
- Hôm qua chúng mình còn cười đùa với thằng Vaniuska thế mà hôm nay quạ đã rỉa xác nó rồi.
- Kiếm chuyện với bọn Thổ Nhĩ Kỳ làm gì kia chứ? Chúng mình chẳng có việc gì ở đấy hết!
- Chúng ta liệu có chiến đấu được không? Rồi chúng nó sẽ thịt hết quân ta
- Rồi ra chỉ có các tướng tá là trở về Moskva thôi
Các tướng lĩnh đã họp với Sa hoàng trong lều của Golovin. Gordon lặng lẽ rầu rĩ. Lơfo vẻ mặt buồn bực cố ghìm không ngáp, nhìn lảng ra chỗ khác. Golovin nét mặt mệt mỏi chốc chốc lại cúi gục đầu xuống. Chỉ có Melsikov cùng đến với Sa hoàng với cái vẻ hùng dũng của một vị anh hùng là đứng hai tay chống nạnh. Đầu hắn quấn một tấm băng vải, lưỡi gươm của hắn một lần nữa lại đẫm máu, hắn leo lên tường thành. Thần chết không muốn nhận gã quỷ sứ đó.
Vua Piotr ngồi, vẻ mặt giận dữ, người cứng nhắc. Các tướng lĩnh đều đứng.
- Thế nào? - Nhà vua hỏi - Các ngài sẽ nói gì, các ngài tướng soái? Như thế là chúng ta đã bị nhục nhã hết nước rồi! Thế nào, phải bãi bỏ cuộc bao vây chứ?
Lơfo lén bóp khuỷu tay Gordon, Golovin giơ hai bàn tay ra, tỏ vẻ tuyệt vọng. Mọi người im lặng. Vua Piotr lấy móng tay gõ gõ xuống bàn, má giật giật vì một cố tật. Melsikov, cặp mắt xấc xược, bước một bước lại bàn... Hắn giơ tay ra:
- Piotr Alekseevich, xin hoàng thượng cho phép... Theo cấp bậc lẽ ra thần không được nói... Nhưng vì thần leo lên trên tường thành. Cố nhiên thần đã đâm chết một tên Aga(14). Thần xin nói về thói tục của chúng. Phải năm người lính của ta mới chọi được một tên lính Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng hung hăng như điên như dại, thật là khủng khiếp. Đấy, tên Aga đã bị thần xâu vào gươm rồi, ấy thế mà cái thằng chết tiệt ấy vẫn giận dữ rống lên như một con lợn, lấy răng cắn vào lưỡi gươm. Vả lại vũ khí của chúng tốt hơn của ta: chúng có những thanh gươm yatagan sắc như dao cạo. Trong khi mình lấy gươm hay lấy mác đâm chém một thằng thì chúng nó thừa thì giờ chặt đầu mình ba lần rồi. Chừng nào chúng ta chưa phá thủng được tường thành thì chúng ta không thể đánh thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ được. Phải phá vỡ tường thành đã. Và thay cho vũ khí dài phải cho quân lính dùng thủ pháo và kiếm Cô-dắc.
Alexaska nhíu lông mày rồi hiên ngang lui vào bóng tối.
- Chàng thanh niên này đã giải thích rất rõ ràng cho chúng ta, - tướng Gordon nói, - nhưng chỉ có thể dùng mìn mới phá vỡ được tường thành. Như vậy là phải đào hầm ngầm. Nhưng đó là một việc hết sức nguy hiểm và rất lâu dài.
- Mà chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn bánh mì nữa, - Golovin nói. - Lương thực gần cạn rồi.
Lơfo mơ màng nói:
- Hay là ta hoãn chiến dịch đến sang năm vậy?
Vua Piotr ngả người ra đằng sau, đưa cặp mắt đục ngầu nhìn những người cho tới gần đây vốn là bạn rượu của mình. Mặt nhà vua đỏ bừng bừng:
- Cút cả đi các ngài tướng! - Nhà vua gào lên, - Ta sẽ thân chinh dẫn đầu cuộc xung phong. Đích thân ta đây! Tối nay sẽ bắt đầu việc đào hầm ngầm. Mà phải có bánh mì! Nếu không ta sẽ treo cổ bọn có tội. Chiến tranh bắt đầu từ ngày mai... Alexaska, gọi các kỹ sư đến đây.
Franx Timmerman, đã già đi, da thịt lèo nhèo, cùng Adam Vaide, một người ngoại quốc trẻ tuổi, người xương xương, cao lớn, khuôn mặt cởi mở, thông minh, bước vào lều.
- Các ngài kỹ sư, - vua Piotr lấy bàn tay vuốt thẳng tấm bản đồ và kéo cây nến lại gần. - Phải làm nổ các tường thành vào tháng chín... Các ngài hãy nhìn kỹ đi, suy nghĩ đi! Tôi cho các ngài một tháng để tiến hành công việc đào hầm ngầm.
Nhà vua đứng dậy, châm tẩu vào ngọn nến rồi bước ra khỏi lều để ngắm sao. Alexaska thì thầm điều gì qua vai nhà vua. Các tướng lĩnh vẫn đứng ở trong lều kinh ngạc về hành vi lạ lùng quá đỗi của ngài Bom Bar Dir (15)
Cuộc bao vây tiếp tục. Do trận xung phong của đối phương thất bại, quân Thổ Nhĩ Kỳ càng thêm hăng hái, ngày đêm quấy rối quân bao vây, phá hủy các công sự, đột kích vào các chiến hào. Kỵ binh Tarta phóng như bay trong những đám bụi mù trời ngay cạnh các doanh trại, chúng cướp phá các đoàn xe tải lương. Một số lớn lính Cô-dắc đã bỏ mạng trong các trận chiến đấu với kỵ binh Tarta. Quân số bên Nga sụt dần. Nay thiếu cái này, mai thiếu thứ khác. Những đám mây mang giông tố từ Hắc Hải ùn ùn kéo tới. Dân Moskva chưa từng thấy những cơn giông như thế bao giờ, chớp đánh xuống thành những cột lửa sáng rực, tiếng sấm làm rung chuyển cả mặt đất, những trận mưa như trút nước làm chiến hào và hầm ngầm đầy ắp. Sau các cơn giông, mùa thu ngấm ngầm đến với những ngày lạnh lẽo xám ngắt. Quân đội không có quần áo ấm. Bệnh tật phát ra. Các trung đoàn xtreletz bắt đầu xì xào
Và ngày nào cũng vậy, trên mặt biển ngày nào cũng lạnh lẽo, lại xuất hiện những cánh buồm. Viện binh của quân Thổ Nhĩ Kỳ không ngừng kéo tới.
Lơfo đã nhiều lần tìm cách thuyết phục vua Piotr bãi bỏ cuộc bao vây. Nhưng quyết tâm của nhà vua dường như sắt đá.
Vua Piotr trở nên khắc khổ, nóng nảy. Nhà vua gầy rộc đi đến nỗi chiếc áo nẹp xanh mặc trên người phấp phới như treo trên một cây sào. Nhà vua không cười đùa nữa. Đại vương trùm đạo say mèm mò đến trại đã bị nhà vua lấy cán xẻng đánh.
Ai cũng tưởng không thể nào làm việc được với cường độ mà vua Piotr đòi hỏi. Thế nhưng hóa ra lại có thể làm được như vậy. Vào giữa tháng chín, kỹ sư Adam Vaide báo cáo đã đào tới chân pháo đài và thợ đào đường hầm có nghe thấy tiếng động trong đó: hay là quân Thổ Nhĩ Kỳ đang đào ngược lại để phá chăng?
Nếu vậy thì mọi việc hỏng bét. Vua Piotr cầm một ngọn nến soi đường, chui vào trong hầm ngầm và cũng nghe thấy tiếng động. Mọi người lập tức quyết định không nên chần chừ nữa mà phải làm nổ ngay ít nhất chỗ hầm đặt mìn đó. Quân lính nhồi vào trong hầm tám mươi ba pud thuốc nổ. Các đơn vị được hiệu lệnh chuẩn bị xung phong. Ba tiếng súng đại bác báo hiệu cho thợ và quân lính. Vua Piotr châm lửa vào mồi rồi chạy ra tận phía cuối doanh trại, theo sau là Alexaska và Varionoi Madamkin. Quân Thổ Nhĩ Kỳ bỏ tường thành chạy đi trú ẩn trong các công sự bên trong thành của chúng. Không khí im lặng một cách ghê gớm. Chỉ có tiếng kêu của những con quạ bay sang bên kia sông Đông. Bỗng nhiên dưới chân pháo đài mặt đất lồi lên, một tiếng ầm nặng nề vang dậy; từ chỗ lồi đã vỡ toang, vọt lên trời một cột lửa, khói, đất đá cùng cột kèo bắn tung tóe và một phút sau, tất cả những thứ đó bắt đầu rơi xuống các chiến hào của quân Nga. Một cơn lốc nóng bỏng thổi qua. Từng khúc xà gỗ cháy rực rít lên bay vào tận giữa trại. Cách vua Piotr ba thước, Varionoi Madamkin ngã lăn ra, vỡ tan sọ. Có đến một trăm rưởi lính và quân xtreletz, hai đại tá và một trung tá thiệt mạng hoặc bị thương. Một nỗi kinh hoàng không tả xiết lan tràn trong quân đội. Khi bụi mù đã tan đi, người ta thấy các bức tường thành vẫn nguyên vẹn và ở trên, quân Thổ Nhĩ Kỳ đang cười sằng sặc.
Ai cũng ngại gặp nhà vua. Vua Piotr tự tay thảo (nét bút nguệch ngoạc, bỏ sót một số chữ và làm mực bắn tung tóe) một mệnh lệnh nói rằng vào cuối tháng là chậm nhất, quân đội sẽ xung phong bằng cả đường thủy lẫn đường bộ. Hai đường hầm ngầm còn nguyên vẹn được tiếp tục hoàn thành. Lệnh truyền cho các đơn vị phải xưng tội và làm lễ chịu phép thánh.
Mọi người đều chuẩn bị để hy sinh.
Bây giờ người ta thấy vua Piotr luôn luôn cưỡi một con ngựa nhỏ lông xồm đi vòng quanh trại. Cỏ quất vào đôi chân gầy guộc của nhà vua. Chiếc mũ dạ ba cạnh bạc phếch vì mưa gió đội chụp xuống tận tai. Khi nào cũng có hai kỵ sĩ theo sau: Melsikov với mấy khẩu súng ngắn giắt vào thắt lưng và Aleksey Brovkin mang theo một cái kèn đồng và một khẩu súng trường. Quân lính trốn kỹ cả ở dưới chiến hào: chỉ một lời nói, thậm chí không cần thế, chỉ một vẻ mặt rầu rĩ là ba gã quỷ sứ đó gọi viên hạ sĩ quan đến ngay. Và thế là tra hỏi.
Động một tí là roi vọt. Mấy tên lính xtreletz chỉ có nói với nhau:
- Người ta mang họ đến đây để nuôi béo quạ Thổ Nhĩ Kỳ bằng thịt người Nga.
Vua Piotr đã đánh vào mặt chúng và ra lệnh treo cổ chúng vào đôi càng xe chổng ngược lên trong đoàn xe quân lương.
Vào đêm 24, rạng ngày 25 tháng mười, vua Piotr chuyển vào đảo, nơi đóng quân của Yakov Dolgoruki để đứng ở đó quan sát cuộc chiến đấu. Trong các doanh trại không một ai ngủ.
Theo lệnh trên, các giáo sĩ ở các trung đoàn đều ngồi cạnh những đống lửa trại.
Đâu đâu cũng thấy những bộ ria mép của các hạ sĩ quan động đậy. Vào lúc rạng đông lạnh lẽo, các trung đoàn đi ra cánh đồng. Hai tiếng nổ vang lên. Một ngọn lửa ghê rợn chiếu sáng trong chốc lát các tháp nhà thờ Hồi giáo, các pháo đài, các ngọn đồi, con sông... khuôn mặt của binh lính, mắt trợn trừng vì khiếp sợ
Quân Nga xung phong.
Trung đoàn Butyrski đột nhập vào chỗ tường thành bị phá vỡ và dưới làn mưa thủ pháo của địch, họ chiến đấu trên các chiến lũy bên trong pháo đài.
Quân lính của hai trung đoàn Preobrazenski và Xemionovski đi thuyền đến, đặt thang và trèo lên thành. Quân Thổ Nhĩ Kỳ bắn tên và dùng giáo đâm.
Người từ trên thang ngã xuống có tới hàng trăm. Tức giận điên cuồng, họ lại leo lên, chửi rủa đến đứt hơi.
Cuối cùng họ vượt được lên tường thành. Đích thân tên pasa Murtoza, theo sau có bọn vệ binh gào thét như thú dữ, vung gươm xông về phía quân đối phương.
Các trung đoàn khác tiến tới chân tường la thét, nhốn nháo nhưng không có đủ hăng hái để xông vào cõi chết. Họ không leo lên tường thành. Quân xtreletz lần này cũng vậy, chỉ tới hào là dừng lại. Gordon bèn ra lệnh lui quân. Chỉ có một nửa số quân trung đoàn Butyrski là sống sót rút khỏi lỗ hổng ở tường thành.
Các đội quân du hý chiến đấu đã hơn một tiếng, đánh lui tên pasa Murtoza, đột nhập vào những con đường hẻm chật chội; từ sau các đống gạch đá bay tới tấp.
Nhưng không có ai đến tiếp viện. Vua Piotr cuống cuồng như điên trên đảo, cứ liên lạc cưỡi ngựa đi ra lệnh tung quân tấn công vào tường thành lần nữa. Lơfo nai nịt trong bộ áo giáp vàng, đội mũ có đính một chòm lông chim, phi ngựa giữa các trung đoàn đã bị xáo lộn, tay vung một lá cờ Thổ Nhĩ Kỳ lấy được của địch. Golovin cầm ngọn giáo gãy đánh đập quân lính một cách tàn nhẫn... Gordon một mình đứng bên chiến lũy dưới làn mưa tên đạn, giọng khản đặc, kêu gọi xung phong
Quân lính tiến tới bờ hào rồi lại lùi lại. Nhiều người vứt súng, vứt giáo ngồi bệt xuống đất, hai tay ôm lấy mặt; cứ giết chúng tôi ngay tại chỗ cũng được nhưng chúng tôi không đi, chúng tôi không thể nào đi được.
Một lần nữa trống báo hiệu lui quân lại vang lên. Im lặng lại trở lại trong pháo đài và các doanh trại. Từng đàn chim sà xuống những đống xác chết.
Đến đêm thứ ba, quân Nga quyết định bãi bỏ cuộc bao vây. Họ lặng lẽ, không đèn đóm, thắng các khẩu đại bác vào xe ngựa rồi ra đi, men theo tả ngạn sông Đông; đi đầu là các đoàn xe quân lương theo sau là đám tàn quân và đi đoạn hậu là hai trung đoàn của Gordon.
Họ để lại ba nghìn lính và quân Cô-dắc đóng trong những ngọn tháp được củng cố mạnh mẽ.
Đến sáng, một trận bão từ biển thổi vào, sông Đông tối sầm lại và dâng nước lên. Họ tìm cách vượt qua sông để sang bờ bên phía Krym; một số lớn người và xe ngựa bị nước cuốn đi mất. Họ lại tiếp tục đi trên bờ phía Nogaisk dưới tầm mắt của bọn Tarta. Gordon luôn luôn phải đánh lui những cuộc đột kích của chúng: quân lính quay súng đại bác lại rồi xếp thành hình vuông và nổ từng loạt súng đánh trả. Trung đoàn của Xvec lạc đường trong đêm tối và bị tiêu diệt toàn bộ, mất cả viên đại tá chỉ huy lẫn cờ xí, dưới lưỡi gươm của quân Tarta.
Những người sóng sót thì bị chúng bắt làm tù binh đem đi.
Quá Chekask, quân Tarta không đuổi theo nữa.
Bây giờ quân Nga tiến trong một đồng cỏ hoang vắng, trơ trụi. Họ đã phải ăn đến những chiếc bánh khô cuối cùng. Không có gì để đốt lửa, không có lấy một nơi kín đáo để tránh cái lạnh ban đêm. Mây mùa thu nặng nề trôi. Tầng tầng lớp lớp. Gió bấc nổi lên, mang theo băng giá tới. Đất đóng một lóp băng mỏng. Tuyết rơi xuống dầy đặc, bão táp ập đến. Quân lính đi chân đất, mặc áo nẹp mùa hạ, lang thang là không còn đứng lên nữa. Sáng sáng, nhiều người nằm bất động ngay tại nơi nghỉ quân. Chó sói theo sát quân đội, hú lên trong bão táp.
Ba tuần sau, khi quân Nga tới được Valuiki thì họ đã mất hai phần ba số quân. Vua Piotr cùng những người thân cận đi vượt lên trước, đến xưởng rèn vũ khí của Lev Kirilovich ở Tula. Hai tên tù binh Thổ Nhĩ Kỳ đi theo Sa hoàng và người ta đem theo một lá cờ lấy được của địch.
Dọc đường nhà vua Piotr viết thư cho vị vương hầu - chấp chính.
Myn Herr Koning... Sau khi không chiếm được Azop, trên đường về, hội đồng các tướng lĩnh đã báo cáo cho thần biết rằng để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới phải đóng tàu chiến, thuyền buồm, thuyền chèo tay và các thuyền bè khác. Kể từ ngày hôm nay, chúng thần sẽ hăng hái bắt tay vào việc này. Về phần chúng thần thì xin báo để hoàng thượng biết rằng đức cha trị vì chí thánh Anikita, tổng giám mục Prexburg và toàn vùng Yauza và giáo trưởng của toàn khu Kukui cùng đám bầy tôi của hoàng thượng, đội ơn Chúa, vẫn được mạnh khỏe. Piotr”
Thế là chiến dịch Azop lần thứ nhất kết thúc một cách chẳng vinh quang gì.
-------------
Chú thích:
(1) Tâu đức vua (Tiếng Đức).
(2) Pháo thủ.
(3) Một thứ cá thịt ngon có nhiều ở Trung và Đông Âu có con dài tới một mét.
(4) Tốt (tiếng Đức).
(5) Mars, thần chiến tranh (theo thần thoại Hy Lạp)
(6) Đơn vị quân Cô-dắc gồm một trăm người.
(7) Nhục nhã (tiếng Đức).
(8) Mũ hình cái đấu của người Thổ Nhĩ Kỳ.
(9) Cẩn thận chú ý (tiếng Đức).
(10) 0,450 kilô.
(11) Một thứ gươm ngắn của người Thổ Nhĩ Kỳ.
(12) Tổng đốc Thổ Nhĩ Kỳ.
(13) Một tướng tài của Pháp thế kỷ 17 (1621-1686).
(14) Tướng Thổ Nhĩ Kỳ
(15) Ngài pháo thủ.

Chương 85

Hai năm trôi qua. Những ai trước kia đã to mồm lớn tiếng thì nay phải ngậm tăm, ai đã cười thì nay im thin thít. Nhiều sự việc lớn lao và khủng khiếp đã xảy ra trong khoảng thời gian đó. Bệnh bắt chước phương Tây xâm nhập không gì cản nổi vào cuộc sống lờ đờ như ngái ngủ, những vết nứt ngày càng rộng mở; những thế lực không thể điều hòa được ngày càng xa nhau thêm.
Bọn triều thần và lãnh chúa quý tộc, bọn tăng lữ và quân xtreletz e sợ những sự đổi thay (những hoạt động mới, những con người mới); chúng thù ghét tính mau lẹ và phũ phàng của mọi sự đổi mới...
“Thật không còn là một xã hội nữa mà là một quán rượu. Họ phá vỡ hết thảy, họ quấy rầy tất cả chúng ta. Một tên thương nhân gốc gác thấp hèn tìm cách chiếm lấy quyền bính. Mọi người không còn sống nữa mà lúc nào cũng hối hả. Sa hoàng đã giao quyền bính cho quân ăn chơi trác táng và quân ăn hối lộ không hề biết sợ Chúa. Chúng ta đang lăn xuống vực thẳm”.
Nhưng những tay tháo vát, dòng dõi hèn kém đang ước muốn những đổi thay, cảm thấy bị châu Âu quyến rũ như thế bị bùa mê phép ngải, những người muốn vớt lấy dù chỉ là một hạt của đám bụi vàng đang bao bọc các nước phương Tây - những người này nói là họ không lầm về vị Sa hoàng trẻ tuổi: nhà vua chính là người họ đã chờ đợi bấy lâu nay.
Sau thất bại và nhục nhã ở Azop, chàng thanh niên trác táng của Kukui đột nhiên trở nên chín chắn; thất bại, như chiếc hàm thiếc bằng thép, đã khiến nhà vua thuần tính hơn. Ngay những người thân cận nhất cũng không nhận ra nhà vua nữa. Đấy là một con người khác hắn, bắn tính, ương bướng, mải miết. Sau thất bại ở Azop, nhà vua chỉ xuất hiện một thời gian rất ngắn ở Moskva; ở thủ đô, mọi người cười khẩy: “Chuyện, giờ có còn là những trò chơi ở Kozukhovo nữa đâu”.
Ngay sau đó nhà vua đi Voronez. Người ta đưa các thợ và các thợ thủ công trong khắp nước Nga về thành phố đó.
Từng đoàn xe đi đến Voronez trên những con đường mùa thu. Những cây sồi cổ thụ của các khu rừng ven miền Voronez và ven bờ sông Đông đổ gục dưới lưỡi rìu. Người ta xây dựng những xưởng đóng tàu, những nhà kho, lán ở và khởi công đóng hai chiếc tàu chiến, hai mươi ba chiếc thuyền chèo tay và bốn chiếc thuyền phóng hoả. Mùa đông năm ấy rét dữ. Cái gì cũng thiếu. Người chết kể có hàng trăm. Ngay trong giấc mộng cũng không thể thấy một cảnh đày ải cực khổ như vậy. Người ta đuổi bắt bọn người bỏ trốn và xích chân tay họ lại. Giỏ thổi như bão lắc mạnh những xác người cóng lạnh lủng lẳng trên giá treo cổ. Có kẻ táo bạo đốt cháy các khu rừng vây quanh Voronez. Những nông dân dẫn các đoàn xe vận tải đã đâm chết đám lính hộ tống, chiếm lấy tất cả những gì có thể chiếm được, rồi bỏ trốn, lang thang đây đó... Trong các làng mạc, nông dân tự làm mình què quặt đi, tự chặt đứt một ngón tay để khỏi phải đi Voronez. Tất cả nước Nga cưỡng lại: quá thật thời đại của Quỷ vương đã đến. Thuế má, tô tức, tạp dịch cũ chưa đủ, bây giờ người ta lại còn lôi mọi người đi làm những công việc mới, không ai hiểu được. Bọn chúa đất nguyền rủa, chửi bới khi phải nộp tiền để đóng tàu bè; nhà kho trống rỗng. Đám tăng lữ áo trắng, áo đen xì xào, rất bất bình: hiển nhiên là quyền thế đã rời khỏi tay họ và chuyển sang bọn người ngoại quốc và bọn vô lại trong nước, bọn người nguồn gốc hèn kém mới phất.
Khó khăn thay, những bước đầu của thế kỷ mới. Mặc dầu vậy, vào mùa xuân, thuyền bè cũng đóng xong.
Người ta đã mộ các kỹ sư và các chỉ huy trung đoàn từ Hà Lan sang. Ở Pasino và Chekask, người ta đã tích lũy được những kho dự trữ lương thực lớn. Quân đội đã được bổ sung.
Vào tháng năm, vua Piotr đi trên chiếc thuyền chèo tay mới, đặt tên là Prinxipium, dẫn đầu hạm đội xuất hiện trước tường thành Azop. Quân Thổ Nhĩ Kỳ bị bao vây bằng đường thủy và đường bộ, chống cự một cách tuyệt vọng, đánh lùi mọi cuộc tấn công.
Khi bánh mì và thuốc súng cạn sạch, chúng đã đầu hàng. Ba nghìn vệ binh do tên bây (1) Haxan Araxlanov dẫn dầu, rời bỏ thành Azop bị tàn phá.
Trước hết đó là một chiến thắng đối với chính người trong nước: Kukui đã thắng Moskva. Lập tức những bức thư lời lẽ hoa mỹ được gửi đến hoàng đế Leopol, đến vị đại thống lĩnh thành Vơnidơ, đến vua nước Phổ.
Ở đầu cầu Kamen bắc qua sông Moskva, Andrey Andreevich Viniux cho dựng một khải hoàn môn. Trên đó đứng giữa đống cờ quạt và vũ khí là một con chim ưng hai đầu ở dưới có hàng chữ như sau:
“Chúa phù hộ chúng ta, không ai có thể chiến thắng chúng ta được. Và sẽ không ai chiến thắng nổi chúng ta!”.
Những tượng thần Herquyn và thần Mars (2) thếp vàng cao ba xagien đứng đỡ vòm khải hoàn môn. Ở dưới là tên pasa của thành Azop và tên murza (3) Tarta bằng gỗ sơn, mình mẩy đeo đầy xiềng xích với lời chú thích:
“Trước kia chúng ta giao chiến trong thảo nguyên. Giờ đây khó khăn lắm chúng ta mới chạy thoát được quân đội của Moskva”.
Ở hai bên khải hoàn môn, trên những khung vải rộng có vẽ thần biển Neptun với lời chú thích:
“Tôi cũng vậy, tôi xin chúc mừng hoàng thượng nhân dịp chiếm thành Azop và cũng xin thần phục hoàng thượng”.
Ở bên kia, bức tranh vẽ lại cảnh quân Nga đã đánh bại quân Tarta ra sao:
“Than ôi, Azop đã mất chúng tôi đành bỏ chạy”.
Cuối tháng chín, người đứng đông nghịt hai bên bờ sông Moskva và trên các mái nhà: từ phía bên kia sông, đội quân chiến thắng Azop đi dưới khải hoàn môn vượt qua cầu.
Đi đầu là đại vương - trùm đạo tay cầm thanh kiếm và cái khiên ngồi trên cỗ xe có sáu ngựa kéo. Theo sau là bọn ca sĩ, bọn người thổi sáo, bọn người lùn, bọn thơ lại, bọn đại thần, quân lính.
Tiếp đến mười bốn con ngựa thắng yên cương lộng lẫy của Lơfo, có người cầm cương dắt đi. Bản thân Lơfo mặc áo giáp, cầm trong tay tấm bản đồ thành Azop, đứng trên cỗ xe trượt tuyết thếp vàng của Sa hoàng lướt đi trên lớp băng mỏng của đường phố.
Rồi lại đến bọn đại thần, bọn thơ lại, lính chiến, thủy thủ, những viên phó đô đốc mới Lima và De Lozier. Viên đại thần Sein, người thấp lùn, mặt to bè bè, ngồi ưỡn ngực trên một cỗ chiến xa Hy Lạp giữa một đám nhạc công đánh chũm choẹ đồng ầm ĩ; khi sắp mở chiến dịch Azop lần thứ hai, hắn đã được phong làm đại nguyên soái để bịt mồm bọn quý tộc đại thần.
Sau hắn, người ta cầm cán kéo lê dưới đất mười sáu lá cờ Thổ Nhĩ Kỳ, tên tù binh Tarta khổng lồ Alatyk bị giải đi, nhấp nháy cặp mắt xếch nhìn đám đông và nhe răng giận dữ: nó bị mọi người hò reo chế diễu.
Theo sau trung đoàn Preobrazenski là một cỗ xe tứ mã mang theo một giá xử giảo, tên phản bội Jakov Hanxen, đứng ở dưới chân giá, dây thòng lọng quàng vào cổ: bên cạnh hắn hai tên đao phủ cầm kìm tra tấn, dập lại kêu loảng xoảng và vung roi lên.
Rồi đến các kỹ sư, các người đóng tàu, thợ mộc, thợ rèn. Sau quân xtreletz đến tướng Gordon cưỡi ngựa, rồi đến bọn tù binh Thổ Nhĩ Kỳ choàng vải liệm người chết.
Tám con ngựa trắng kéo một cỗ xe bằng vàng hình chiếc thuyền. Đi bộ trước cỗ xe là vua Piotr, mình mặc áo thủy thủ, đầu đội mũ ba cạnh bằng dạ có cắm lông chim đà điểu. Dân chúng ngạc nhiên nhìn bộ mặt tròn trĩnh, cái thân hình cao lênh khênh hơn cỡ người bình thường; nhiều người vừa làm dấu phép vừa nghĩ đến những tin đồn đại khủng khiếp và bí mật về Sa hoàng.
Quân đội diễu qua Moskva đi đến Preobrazenskoe. Chẳng bao lâu bọn đại thần được lệnh đến đó để họp. Trong buổi họp của viện Đại Duma, trái với quy tắc và tục lệ có những người ngoại quốc, tướng lĩnh, đô đốc và kỹ sư cũng tham dự, vua Piotr tuyên bố với đám đại thần bằng một giọng rắn rỏi:
- Nữ thần Tư mệnh (4) xưa nay chưa bao giờ xuống gần phía Nam như bây giờ, lúc này đang đi giữa chúng ta, sung sướng thay kẻ nào nắm được tóc nữ thần. Vì vậy cho nên, hỡi các vị đại thần, các ngươi cần quyết định như sau: Azop đã bị tàn phá, đốt cháy, nay cần được xây dựng lại và cần có một đội quân quan trọng đóng ở đấy. Taganrok, cái pháo đài ta vừa xây gần đó cũng vậy, cần phải được sửa sang cho tốt và có người ở. Và còn một điều này phải làm nữa: chúng ta chiến đấu dưới biển tiện lợi hơn trên bộ nên phải xây dựng một hạm đội bốn mươi chiến thuyền hay hơn nữa. Tàu phải được trang bị đầy đủ, phải có đại bác, súng nhỏ vì đó là những tàu chiến. Cách đóng tàu như thế này: vị giáo trưởng và các tu viện sở hữu tám nghìn hộ nông dân - sẽ nộp một chiếc tàu. Các vị đại thần và tất cả các quan trong triều sở hữu một vạn hộ nông dân - một chiếc tàu. Thương nhân, thợ thủ công và các xloboda sẽ đóng mười hai chiếc tàu lớn. Để làm việc đó các vị đại thần, các tăng lữ, các quan trong triều và thương gia sẽ thành lập ba mươi lăm phường hội, phải bỏ tiền ra thuê một số thợ cả người ngoại quốc, những người thông ngôn, thợ rèn lành nghề. Một người thợ mộc lành nghề, một họa sĩ và một thầy thuốc có tủ thuốc đầy đủ.
Sau đó vua Piotr ra lệnh đánh một thứ thuế thân đặc biệt để lấy tiền đào kênh Volga - Đông và ra lệnh bắt tay ngay vào việc đào kênh không được chậm trễ. Đám đại thần vung tay vung chân song đều tuân lệnh không cãi lại. Sự vội vã ấy làm đám đại thần khổ sở, song họ thấy rõ là có bàn cãi cũng vô ích: vua Piotr đã quyết định mọi việc từ trước cả rồi. Ngồi trên ngai vàng, nhà vua không phải là nói nữa mà là giận dữ sủa lên, các tướng lĩnh của nhà vua mặt cạo nhẵn nhụi, gật gù bộ tóc giả tán thưởng. Chà, thật là gay! Quanh Preobrazenskoe là cả một doanh trại trú quân thực sự: nào tiếng kèn, tiếng trống, nào những bài hát của lính tráng.
Tóm lại người ta buộc viện Duma của các đại thần ngồi họp toát mồ hôi ra chỉ là vì tôn trọng tục lệ cổ xưa mà thôi. Chẳng lâu la gì nữa, rồi Sa hoàng sẽ chẳng cần gì đến cái viện đó.
Quả vậy, một sự việc lớn xảy ra ngay sau đó rất đơn giản, không cần đến quyết định của các quan đại thần: đại vương - trùm đạo và là thư ký riêng của Sa hoàng thảo một sắc lệnh, sai quân lính đưa đến cho năm trăm thanh niên con nhà quý tộc dòng dõi thế phiệt nhất của Moskva:
Lệnh truyền cho họ phải ra nước ngoài để học toán pháp, kỹ thuật xây dựng công sự, đồn lũy, đóng tàu và các khoa học khác (mà, nhờ ơn Chúa, từ đời vua Vladimir chí thánh, người ta không cần dùng đến). Trong nhiều tòa nhà ở Moskva, người ta than phiền về sắc lệnh đó nhưng những kẻ được lệnh không dám xin bãi bỏ đi, mà cũng không dám viện cớ ốm đau để từ chối.
Người ta trang bị cho các chàng thanh niên, ban phúc lành cho họ, từ biệt họ dường như họ đang đi vào cõi chết. Mỗi thanh niên có một người lính đi theo để hầu hạ và đưa tin cho gia đình. Rồi vào vụ nước lũ mùa xuân, họ lên đường đi đến những xứ sở xa xôi và kỳ diệu.
Một trong những dapife đó là Piotr Andreevich Tolstoy, con rể của Treokurov. Hắn đang mong muốn, bằng bất kỳ giá nào, chuộc tội đã tham gia vào vụ nổi loạn của quân xtreletz.
-------------
Chú thích:
(1) Danh hiệu tướng lĩnh cao cấp hoặc tỉnh trưởng của Thổ Nhĩ Kỳ.
(2) Hai thần tượng trưng cho sức mạnh và cho chiến tranh.
(3) Chủ tướng của Tarta.
(4) Thần tượng trưng cho vận may.

Chương 86

Việc chiếm thành Azop là một việc làm rất nông nổi và nguy hiểm: người Nga đã chuốc lấy một cuộc chiến tranh lớn với cả đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy mà khó khăn lắm họ mới họ mới đủ lực lượng cần thiết để giữ một pháo đài mà thôi: vua Piotr và các tướng lĩnh đã hiểu rõ điều đó trong các trận chiến đấu ở Azop. Thái độ tự phụ xưa kia của thời Kozukhovo đã biến mất không còn để lại dấu vết gì nữa. Bây giờ không còn ai còn nghĩ đến những cuộc chinh phục mới: nếu như có thể cầm cự với Thổ Nhĩ Kỳ được ở thời kỳ đầu thì cũng đã là may mắn lắm rồi.
Cần phải tìm bạn đồng minh, hoàn thiện và trang bị cấp tốc hải quân, tổ chức lại theo kiểu mới, theo kiểu châu Âu, bộ máy Nhà nước đã hoen gỉ và kiếm cho ra tiền, tiền và tiền.
Chỉ có châu Âu là có thể cung cấp được tất cả những thứ ấy. Cần phải cử người sang đó, mà cử thế nào để bên ấy cho ta những thứ ta yêu cầu. Công việc khó khăn và cần tiến hành nhanh không chậm trễ.
Vua Piotr (và những người thân cận) giải quyết vấn đề ấy với mưu mẹo của người Á đông: nhà vua quyết định cử đi một phái đoàn lớn với đầy đủ lễ nghi long trọng và đích thân nhà vua cũng đi theo, cải trang làm Piotr Mikhailov, hạ sĩ quan trong trung đoàn Preobrazenski, như để đi dự dạ hội hóa trang. Một cách để nói rằng: “Các người cho chúng tôi là những kẻ man ri mọi rợ. Nhưng chúng tôi, mặc dù là Sa hoàng v.v... và mặc dù là kẻ chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Azop, chúng tôi không kiêu căng, chúng tôi là những con người giản dị, sống dễ dãi và có lẽ ít cổ hủ hơn các người. Chúng tôi có thể ngủ với màn trời chiếu đất, ăn uống với nông dân trong cùng một cái âu và chúng tôi chỉ có một mối lo lắng là xóa bỏ sự dốt nát và ngu đần của chúng tôi, học hỏi các người, những ân nhân của chúng tôi”.
Tất nhiên, suy tính như thế rất đúng: giả thử người ta có đem sang châu Âu một cô gái đuôi cá thì có lẽ dân bên ấy không ngạc nhiên bằng, Họ nhớ lại là chính người anh ruột của vua Piotr đã được tôn sùng như một vị thần. Còn chàng thanh niên bảnh trai này, cao đến một toadơ (1), bị một cái tật giật méo cả mặt thì lại bất cần cả nghi vệ của một vị Sa hoàng, chỉ vì khao khát muốn học cách buôn bán và các môn khoa học. Điều đó không thể tưởng tượng được và thật là kỳ lạ.
Được chỉ định làm sứ thần đặc mệnh toàn quyền: Lơfo, Fedor Alekseevich Golovin, tổng trấn Siberi, một người thông minh lanh lợi và thạo nhiều thứ tiếng và Prokofi Voznixyn, lục sự viện Duma. Đi theo họ có hai mươi nhà quý tộc Moskva và ba mươi lăm dũng sĩ tình nguyện trong đó có Alexaska Melsikov và vua Piotr.
Một chuyện phiền phức bất ngờ làm chậm trễ ngày lên đường: người ta phát hiện ra một vụ âm mưu trong đám Cô-dắc vùng sông Đông, cầm đầu là đại tá Txykle; hồi vua Piotr ở tu viện Ba Ngôi, hắn là người đầu tiên đã dẫn đến một trung đoàn xtreletz. Vua Piotr không bao giờ quên được rằng Txykle đã từng là tay chân trung thành của Sofia và một mực giữ thái độ nghi ngờ trước sự nịnh hót của hắn.
Sau chiến thắng Azop, nhà vua cử Txykle đi xây dựng pháo đài Taganrok. Đối với con người có nhiều tham vọng ấy, việc này không khác gì là bị đi đày. Đến Tagan rok, hắn gặp bọn Cô-dắc bất mãn vì những công việc họ buộc phải làm - thói tự do họ vốn quen sống trong thảo nguyên đã bị bóp chết dưới bàn tay sắt của Sa hoàng. Txykle chẳng bao lâu bội phản, hắn nói với quân Cô-dắc những lời lẽ như sau:
“Trong nước có nhiều việc tồi tệ vì nhà vua bỏ đi sang mãi tận bên kia biển cả và cử làm sứ thần kẻ thù của chúng ta, cái thằng ngoại quốc Lơfo đáng nguyền rủa, và phí phạm Ngân khố vào cái việc đó. Sa hoàng ương bướng, không chịu nghe ai, hắn ăn chơi trác táng, làm thiên hạ phải điêu đứng than khóc và hắn phung phá Ngân khố vào những chuyện không đâu. Đêm đêm, hắn thường một mình mò đến với con mụ người Đức. Ta rình và lấy dao đâm chết hắn rất dễ. Nếu giết được hắn thì chẳng còn ai làm phiền các bạn nữa, hỡi anh em Cô-dắc, hãy hành động như Xtenka Razin đã hành động. Sau đó, các bạn hãy bầu lấy một Sa hoàng mới, tôi chẳng hạn, nếu các bạn ưng: tôi theo đức tin cũ và tôi ưa những con người bình thường, nguồn gốc bình thường”.
Quân Cô-dắc hét to trả lời:
“Hãy chịu khó chờ đấy, hễ nhà vua đi ra ngoại quốc là chúng ta sẽ hành động như Xtenka Razin...”.
Elizariev, viên chỉ huy của chừng năm mươi lính xtreletz, ra roi không thương tiếc, quất ngựa phóng về Moskva và tố giác giác âm mưu đó. Cuộc điều tra cho hay là Txykle có liên lạc với bọn quý tộc ở Moskva là Xokovnin và Puskin, và chúng đều có liên hệ với tu viện Novodevichi.
Vua Piotr tự tay tra khảo Txykle; tên này tuyệt vọng vì đau đớn và lo sợ đến cực độ đã khai ra một số sự việc mới về những âm mưu đen tối xưa kia của Sofia và Ivan Mikhailovich Miloslavski, (đã chết trước đây ba năm). Bóng dáng của Miloslavski, con người xưa kia đã khiến vua Piotr khiếp sợ từ thời thơ ấu, nay lại hiện lên, nước Nga cũ đáng căm ghét mà nhà vua chưa đập chết hẳn, nay đang hồi sinh lại.
Tại tu viện Dolxkoi, người ta phá hầm mộ của họ Miloslavski, lôi quan tài đựng xác Ivan Mikhailovich đem đặt lên một cỗ xe trượt của nông dân, thắng mười hai con lợn gù, mõm dài; kêu eng éc dưới làn roi quất, chúng kéo chiếc quan tài chạy qua những vũng nước phân lầy lội đi khắp đô thành Moskva đến tận Preobrazenskoe. Dân chúng đi theo rất đông, không biết nên cười hay nên rú lên vì khủng khiếp.
Tại Preobrazenskoe, trên quảng trường của xloboda của quân nhân, lính tráng súng trường chĩa ra phía trước xếp thành một ô vuông. Trống đánh ầm ầm. Ở giữa hình vuông có dựng một đoạn đầu đài trên đặt một tấm thớt kê đầu và bên cạnh là các tướng lĩnh và vua Piotr cưỡi ngựa, đội mũ ba cạnh, bận áo choàng. Nhà vua giật giật dây cương mặc dầu con ngựa ngoan ngoãn vẫn đứng im; mặt nhà vua trắng bệch méo xẹo một bên; vua Piotr ngửa đầu ra như để cười. Nhưng nhà vua không cười. Người ta mở nắp quan tài. Một cái sọ và đôi tay rữa thịt, tím ngắt trong gấm vóc đã mục gần hết. Vua Piotr thúc ngựa tiến lên và nhổ vào xác Ivan Mikhailovich. Người ta kéo cỗ quan tài xuống dưới gầm bàn đoạn đầu đài, rồi giải đến Txykle, Xokovnin, Puskin cùng ba hạ sĩ quan xtreletz, chân tay chúng đã bị nhục hình bẻ gãy. Đại vương-trùm đạo say mềm người, đọc lời tuyên án.
Trước tiên, người ta túm tóc Txykle lôi xềnh xệch trên bậc thang dốc đứng dẫn lên đoạn đầu đài. Người ta lột hết quần áo của hắn, đè ngửa thân hình trần truồng của hắn lên tấm thớt gỗ. Tên đao phủ hực một tiếng, chặt đứt cánh tay phải, rồi chặt cánh tay trái của hắn, người ta nghe thấy tiếng những cánh tay rơi bịch xuống sàn gỗ ván. Txykle dãy dụa đá tứ tung - bọn đao phủ túm lấy chân hắn, duỗi dài ra rồi chặt đến tận bẹn. Txykle kêu thét lên. Bọn đao phủ giơ cao khúc mình với bộ râu xồm xoàm của hắn, đoạn vứt hắn xuống tấm thớt rồi chặt nốt cái đầu.
Qua kẽ hở ở sàn ván của đoạn đầu đài, máu chảy xuống quan tài của Miloslavski.
-------------
Chú thích:
(1) Bằng 1,949 mét.

Chương 87

Việc cai trị quốc gia được giao lại cho các đại thần đứng đầu là Lev Kirilovich, Xtresnev, Apraxin, Troekurov, Boris Golixyn và viên lục sự Viniux.
Moskva cùng với tất cả những nạn cướp bóc, trộm cắp, được giao cho Romodanovski.
Vào khoảng giữa tháng ba, đoàn sứ thần cùng Piotr Mikhailovich lên đường đi đến Kurlan (1).
Ngày mồng một tháng tư, vua Piotr viết bằng mực bí mật:
Myn Herr Viniux. Hôm qua ta đã đến Riga, nhờ ơn Chúa, mạnh khỏe và các vị sứ thần đã được tiếp đón trọng thể. Khi ta đến, lúc vào và ra khỏi lâu đài, người ta đã bắn hàng loạt đạn của hai mươi bốn khẩu đại bác. Con sông Dvina còn đóng băng và vì vậy ta buộc phải ở lại đây một thời gian. Nhờ ngươi chào hộ các bạn bè cho ta. Sau này cũng vậy ta cũng sẽ viết thư bằng mực bí mật, - ngươi cứ hơ tờ giấy lên lửa là sẽ đọc được. Nhưng để giữ hình thức bên ngoài, ta sẽ viết bằng mực đen những chữ sau đây ở đoạn nào thuận tiện: “Nhờ ông chuyển hộ lời chào ngài đại tướng, vị chủ tướng của tôi, đừng bỏ mặc”... Phần còn lại, ta sẽ viết bằng mực bí mật vì những người ở đây tò mò lắm!”
Viniux trả lời bức thư đó như sau:
“Khi chuyển thư đầu tiên của ngài sứ thần và các bạn ngài đến đây, chúng tôi đã lập tức họp nhau lại và nâng cốc chúc sức khỏe của các vị sứ thần và các chàng công tử dũng cảm và nhất là chúc mừng sức khỏe của đức vua đến nỗi Baccux và cháu ngài là Ivaska Khmen nitski đã bò lăn ra. Các vị tướng tá, tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan cùng toàn thể quân lính xin chào ngài. Tên lính đánh trống Luka thuộc đại đội thứ nhất đã mất rồi. Tên A Rập Haniban, nhờ ơn Chúa, đã bình tĩnh lại. Người ta đã tháo xiềng cho hắn, hắn đang học tiếng Nga. Ở gia đình ngài, mọi người đều mạnh khỏe cả”.
Một tuần sau, một bức thư thứ hai tới Moskva:
Herr Viniux. Hôm nay tôi rời đây đi Mito. Tôi đã ở bên kia sông - sông tan băng vào đúng ngày lễ Phục sinh. Ở đây, bọn tôi sống như lũ nông nô và chỉ có con mắt là được no nê thôi. Các thương nhân ở đây mặc áo khoác ngắn và có vẻ rất thật thà; nhưng đến khi bọn tôi muốn bán các cỗ xe trượt tuyết, họ đã mặc cả như những người đánh xe, chỉ một đồng kopeik họ cũng chửi bới om xòm. Họ trả mười kopeik một con ngựa và cỗ xe. Còn như chúng tôi muốn mua thứ gì thì họ đòi giá đắt gấp ba. Nhờ ông chuyển hộ tôi lời kính chào ngài đại tướng, vị chủ tướng của tôi và cúi rạp đầu xuống đất cầu xin ngài để tâm tới ngôi nhà nhỏ của tôi, đừng bỏ mặc (Phần sau bằng mực bí mật). Khi ta đi qua Riga và pháo đài, có nhiều quân lính trên tường thành, có dễ đến hai nghìn quân là ít. Thành phố xây đắp nhiều công sự nhưng còn dở dang. Dân ở đây sợ khiếp vía và không để cho bọn ta đi lại trong thành phố cũng như tại nơi khác, ngay dù có một đội lính kèm, và họ chẳng niềm nở mấy. Nạn đói hoành hành trong vùng, vụ mùa thu hoạch kém”.
Và ba tuần sau:
“Hôm nay ta sẽ đi từ đây đến Koenigsberg bằng đường biển. Ở Libo, ta đã thấy một vật lạ mà ở bên mình cho là chuyện bịa. Trong một hiệu bào chế ta đã thấy một con hỏa xà ngâm trong chiếc bình đầy rượu, ta đã lôi nó ra ngoài và đặt nó trong lòng bàn tay. Con hỏa xà đúng hệt như người ta tả: đó là một con vật sống trong lửa. Ta đã cho tất cả bọn xà ích về. Nhưng những tên nào bỏ trốn về trước thì ngươi hãy cho tìm bắt về, đánh cho thật cẩn thận vào. Phải giải chúng đến các chợ và bắt chúng ăn xin cho đủ số tiền nợ, để về sau này bọn khác không dám bắt chước chúng nữa”.
-------------
Chú thích:
(1) Một tỉnh cũ của Nga, nay là một phần nước Estonia.

Chương 88

Một làn gió nhẹ mát mẻ thổi phồng bốn cánh buồm lớn của cột buồm lớn và cột buồm mũi và hai cánh buồm thẳng ở mũi thuyền, ở đỉnh cột buồm cái cao vút.
Hơi nghiêng nghiêng về phía trái, chiếc thuyền buồm Thánh George lướt trên mặt biển xám mùa xuân rực rỡ ánh sáng mặt trời. Đây đó, từng mảng băng mỏng manh, bọt bám chung quanh, trôi lềnh bềnh. Ở đuôi thuyền cao vút như một ngọn tháp, lá cờ của thành Brandeburg phấp phới trước gió. Boong thuyền rửa sạch sẽ, đồ đồng lau chùi sáng loáng. Những đợt sóng vui tươi vỗ vào tượng thần Neptun bằng gỗ rồi tung tóe thành một làn bụi lấp lánh ngũ sắc ở phía mũi thuyền dưới cột buồm cái.
Vua Piotr, Alexaska Melsikov, Aliosa Brovkin, Volkov và giáo sĩ Bitka lẻo khoẻo có bộ râu cắt xén và cái trán dô - tất cả đều ăn bận theo kiểu người Đức với những bộ quần áo bằng dạ xám và đi tất vải, giầy bằng da Nga có khóa sắt, đang ngồi trên đống dây thừng tẩm hắc ín cuộn thành vòng, hút những tẩu nhồi thuốc lá thơm. Vua Piotr tì khuỷu tay lên đầu gối co lại, vẻ vui tươi và hiền lành, giải thích:
- Frederich, vị Đại Tuyển hầu xứ Brandeburg mà chúng ta sắp đến thăm ở Koenigsberg là một người bạn, các ngươi sẽ thấy ông ta đón tiếp chúng ta ra sao... Đại Tuyển hầu đang rất cần chúng ta. Ông ta sống trong một nỗi kinh hoàng thường xuyên: một bên bọn Thụy Điển o ép, bên kia là bọn Ba Lan... Ta đã điều tra rồi. Ông ta sẽ yêu cầu chúng ta liên minh quân sự với ông ta, chắc chắn là như vậy đấy các ngươi ạ.
- Cái đó thì còn phải xem thế nào đã, - Alexaska nói.
Vua Piotr nhổ toẹt xuống biển, lấy tay chùi miệng tẩu thuốc:
- Đúng đấy, Alexaska. Chúng ta chẳng cần gì đến cái liên minh ấy. Nước Phổ sẽ không đánh nhau với quân Thổ Nhĩ Kỳ đâu. Nhưng này, bọn bay đến Koenigsberg đừng có làm chuyện gì bậy bạ đấy nhé, nghe không? Nếu không ta sẽ chặt đầu đấy... Không được để cho chúng ta mang tiếng xấu.
Giáo sĩ Bitka, lưỡi líu lại vì quá chén, nói:
- Thái độ của chúng thần lúc nào cũng đứng đắn. Đừng dọa chúng thần, vô ích. Nhưng tước Đại Tuyển hầu là cái quái gì thế? Chúng thần chưa hề nghe thấy nói bao giờ cả.
Alexaska trả lời:
- Kém vua một chút, hơn quận công một chút, một vị Đại Tuyển hầu là thế đấy. Nhưng tất nhiên, đất nước ông ta bị tàn phá: ông ta chỉ sống bằng bánh mì và nước kvas thôi.
Aliosa Brovkin lắng tai nghe, đôi mắt màu xanh nhạt mở to và đôi môi nhẵn nhụi há hốc ra.
Vua Piotr thổi phì khói thuốc vào mồm hắn. Aliosa ho sặc sụa. Mọi người cười ồ, thụi vào mạng sườn hắn.
- Thế thì sao, thế thì sao, - Aliosa nói. - Kể ra cũng đáng sợ thật đấy chứ. Chúng ta cứ như thế này mà đến chỗ họ.
Viên thuyền trưởng già, một người Phần Lan, ngạc nhiên nhìn những người Nga đang nô đùa giữa đống dây buồm. Ông ta không thể tin được rằng một trong những chàng thanh niên vui tính ấy lại là vị Sa hoàng của xứ Moskovi. Nhưng xét cho cùng thì ở trên đời này có biết bao nhiêu là chuyện kỳ lạ. Xa xa, những bờ cát dập dềnh trôi bên trái con thuyền. Thỉnh thoảng lại xuất hiện một cánh buồm. Một chiếc thuyền, các cánh buồm căng phồng, chạy về phía Tây, tận bên kia chân trời. Biển này xưa kia là biển của người Viking, của thương nhân vùng Hanx và hiện giờ thuộc về người Thụy Điển.
Mặt trời sắp lặn. Con thuyền Thánh George thả dây buồm; trong tiếng sóng vỗ rì rào nhè nhẹ và thuận theo chiều gió, nó hướng về một bãi cát dài ngăn vũng Friste Ha với biển cả. Một ngọn đèn biển hiện lên rồi đến những công sự thấp lè tè của pháo đài Pilo, bảo vệ đường vào vũng. Khi đã đến gần, thuyền trưởng mời những người Nga dùng bữa ăn chiều.

Chương 89

Đến sáng, khách mới tới kéo nhau lên bộ. Nơi đây cũng không có gì đặc biệt: toàn cát và thông. Khoảng hai chục thuyền đánh cá, những chiếc lưới phơi trên cọc. Nhà cửa bé nhỏ thấp lè tè trông ọp ẹp xơ xác vì gió mưa, nhưng ở các khung cửa sổ đều căng rèm trắng nho nhỏ... (Vua Piotr thú vị nhớ đến Ansen). Ở ngưỡng cửa quét tước sạch sẽ, những người đàn bà đội mũ vải ngồi đan len, đàn ông đội mũ da, không để ria mép chỉ có một bộ râu quai nón. Họ đi đứng có vẻ nặng nề hơn chúng ta, song ai nấy đều chăm chỉ làm việc và tỏ ra hòa nhã nhưng không e dè.
Vua Piotr hỏi quán rượu ở đâu. Đám người Nga ngồi vào những chiếc bàn gỗ sồi sạch sẽ, ngạc nhiên trước vẻ ngăn nắp và mùi thơm của căn phòng. Họ gọi rượu bia. Chính ở đây, vua Piotr đã viết một bức thư bằng tiếng Nga gửi cho Đại Tuyển hầu Frederich yêu cầu một cuộc hội kiến. Volkov, có một tên lính của pháo đài đi theo, đưa bức thư đến Koenigsberg.
Một số dân chài cùng với vợ đứng trước cửa nhà họ, một số khác nhìn qua cửa sổ. Vua Piotr vui vẻ nháy mắt với những người dân hiền lành đó, hỏi tên họ, hỏi xem mẻ cá đánh có được nhiều không, rồi nhà vua mời tất cả mọi người ngồi vào bàn uống rượu bia.
Vào khoảng trưa, một cỗ xe ngựa thếp vàng, mui có dính một chùm lông đà điểu dừng lại trước quán rượu. Viên Kam mer Junker (Quan thị vệ - tiếng Đức) tên là Fon Prinx, mặt thoa phấn, bận toàn đồ lụa màu xanh da trời, nhanh nhẹn nhảy ra khỏi xe rồi xô đẩy những người dân chài và vợ họ, vẻ mặt sợ hãi tiến về phía những người Nga đang gõ ầm ĩ những chiếc cốc thiếc xuống bàn. Cách bàn ba bước, y bỏ chiếc mũ rộng vành ra rồi lùi lại một bước, tay khuỳnh tròn như vòng thúng, chân gập lại, lia chòm lông ở mũ quét mặt sàn.
- Chúa công tôi, Đức điện hạ Đại Tuyển hầu Brandenburg Frederich rất vui lòng mời... (Y nghẹn lại. Vua Piotr giơ ngón tay dọa) vị quý khách bấy lâu mong đợi hãy vui lòng rời túp lều tranh tồi tàn này để tới ngôi nhà dành cho ngài, xứng đáng với cương vị của ngài.
Alexaska Melsikov nhìn chằm chằm viên quan mặc quần áo xanh da trời, hắn đá chân Aliosa dưới bàn.
- Cái đó tớ hiểu rồi, đó là những kiểu cách lịch sự đấy! Hắn đứng nhón trên đầu ngón chân: trông cứ như tranh vẽ ấy... Mà này, nhìn xem kìa: bộ tóc giả của hắn ngắn ngủn còn của chúng ta thì dài đến tận rốn. Chà, thằng chó đẻ!
Vua Piotr lên xe cùng với Fon Prinx. Các chàng trai tùy tòng nhà vua đi một cỗ xe hai bánh thường theo sau. Ngôi nhà của một thương gia đã được dành riêng cho khách tại Knaihop, khu phố đẹp nhất thành phố.
Đoàn xe đến Koenigsberg vào buổi chiều tà, bánh xe lăn ầm ầm trên mặt đường lát đá sạch bong. Không có rào giậu gì cả, thật là kỳ lạ! Nhà cửa trông thẳng ra phố; từ đường, có thể với tay tới những khung cửa sổ dài, có ô kính nhỏ. Khắp nơi sáng ngời một thứ ánh sáng niềm nở. Cửa ngõ đều bỏ ngỏ. Người đi lại không chút sợ hãi.
Người ta những muốn hỏi họ: làm sao mà các ngươi lại không sợ mất trộm nhỉ? Có thể nào ở thành phố các ngươi lại không có trộm cướp ư? Trong ngôi nhà thương nhân họ đến ở, cả ở đấy nữa người ta cũng không cất giấu thứ gì, đồ vật quý giá để ngay trước mặt. Phải là một thằng ngốc mới không lấy gì. Vua Piotr ngắm nhìn những bức tranh, bát đĩa và sừng bò rừng, nói thầm với Alexaska:
- Hãy cảnh cáo tất cả mọi người thật nghiêm khắc rằng hễ đứa nào táy máy dù chỉ là một trang sức nhỏ ta sẽ sai treo cổ nó ngay ở cổng.
- Bệ hạ nói đúng. Myn Herz, chính thần cũng lo. Trong khi chờ cho họ quen dần, thần sẽ cho khâu kín tất cả các túi áo quần của họ lại... Vì, cầu Chúa che chở, khi họ mà đã rượu vào thì biết thế nào được.
Fon Prinx trở lại với cỗ xe ngựa. Vua Piotr đi cùng với y vào cung.
Họ vào cung bằng một cổng nhỏ, đi qua khu vườn có một bể nước phun, những bụi cây xén tỉa theo hình cầu, hình gà trống hay hình kim tự tháp nổi lên thành những khối đen trên các thảm cỏ. Frederich đón khách trong vườn trên ngưỡng một tấm cửa lắp kính; ông ta giơ về phía Piotr mấy đầu ngón tay có lớp ren thêu ở ống tay áo trùm lên. Một bộ tóc giả mượt bao lấy khuôn mặt thanh tú, có cái mũi nhọn và vầng trán rộng. Những ngôi sao bằng kim cương lấp lánh trên một dải lụa màu xanh da trời bắt chéo ngang ngực.
- Ồ vương đệ, vương đệ của ta, - thoạt tiên ông nói bằng tiếng Pháp, rồi bằng tiếng Đức.
Vua Piotr nhìn ông ta từ đầu đến chân như một người đi cà kheo nhìn xuống và không biết nên gọi ông ta ra sao: vương huynh ư? Không thích hợp với tước vị của ông ta... Gọi là vương thúc chăng? Nếu mình gọi lầm, ông ta có thể phật lòng.
Không rời tay khách, Đại Tuyển hầu đi giật lùi dẫn khách đi trên thảm vào một phòng khách nhỏ. Vua Piotr cảm thấy choáng váng, dường như một trong những bức tranh mình yêu thích nhất treo trên tường buồng ngủ của nhà vua ở Preobrazenskoe thời thơ ấu bỗng sống dậy. Trong lò sưởi bằng đá cẩm thạch, một đống lửa reo vui bên trên có một chiếc đồng hồ nhỏ hết sức tinh xảo dang lắc lư cái quả lắc. Một quả cầu, những ngôi sao và một mảnh trăng lưỡi liềm tô điểm cho chiếc đồng hồ. Ánh sáng êm dịu của những cây đèn nến ba nhánh có gắn gương treo trên tường soi sáng những tấm thảm treo tường, những chiếc ghế, những tấm ghế dài mỏng manh và vô số đồ trang sức nhỏ xinh xẻo và kỳ lạ mà vua Piotr khó có thể hiểu được công dụng.
Những cành hoa táo và hoa anh đào cắm trong các lọ cao, trong vắt như bong bóng xà phòng. Tuyển hầu xoay xoay trong tay một hộp thuốc lá, cặp mắt sắc sảo lim dim khiến nét mặt ông có vẻ hiền hậu. Ông ta mời khách ngồi trước lò sưởi, trên một chiếc ghế thếp vàng mảnh dẻ đến nổi vua Piotr sợ gãy nên hầu như cứ phải lên gân bắp đùi không dám ngồi thật.
Tuyển hầu nói tiếng Đức thỉnh thoảng lại chêm những chữ tiếng Pháp. Cuối cùng ông ta đả động đến vấn đề liên minh quân sự. Vua Piotr hiểu. Nhà vua mạnh dạn lên. Bằng một thứ ngôn ngữ của thủy thủ lẫn lộn tiếng Hà Lan và tiếng Đức, nhà vua giải thích rằng mình đi vi hành và không bàn đến chính sự nhưng một tuần nữa những viên sứ thần sẽ tới, Tuyển hầu sẽ bàn chuyện hiệp ước với họ.
Tuyển hầu vỗ tay. Nơi vua Piotr tưởng là một khung cửa sổ, thực ra là một cánh cửa gắn gương, lặng lẽ mở ra và những tên gia nhân mặc chế phục đỏ bưng tới một chiếc bàn con bầy thức ăn đồ uống. Vua Piotr thấy bụng mình quặn lại - tức thì nhà vua vui hẳn lên. Nhưng thức ăn ít ỏi đến bực mình: vài lát xúc xích, một con chim bồ câu quay nhỏ xíu, một miếng paté nhỏ, rau trộn... Tuyển hầu mời khách ngồi vào bàn với một cử chỉ lịch sự; ông ta nhét một chiếc khăn hồ cứng vào giữa hai chiếc khuy áo và nói, miệng mỉm cười tế nhị:
- Toàn châu Âu khâm phục theo dõi những chiến thắng chói lọi của Đức Sa hoàng chống lại kẻ thù của Chúa. Tiếc thay, tôi đành phải hoan nghênh bệ hạ. Đất nước đáng thương của tôi bị quân thù bao vây tứ phía - bọn Ba Lan và bọn Thụy Điển. Chừng nào quân ăn cướp Thụy Điển còn làm bá chủ Xăcxơ, Ba Lan, biển Baltic, xứ Livoni, thì các dân tộc không thể nào có được phồn vinh... Ngài bạn trẻ của tôi, rồi chẳng bao lâu bệ hạ sẽ hiểu rằng kẻ thù chung của chúng ta mà Chúa đã sai xuống để trừng phạt những tội lỗi của chúng ta - không phải là bọn Thổ Nhĩ Kỳ mà là bọn Thụy Điển. Chúng bắt mỗi chiếc tàu đi qua biển Baltic phải nộp thuế cho chúng. Chúng ta đều làm việc cả, còn chúng thì sống bằng nghề ăn cướp như giống ong vò vẽ vậy. Không phải chỉ có chúng ta khổ đâu. Các quận huyện Hà Lan và nước Anh cũng khổ. Còn như bọn Thổ Nhĩ Kỳ đấy ư? Chúng chỉ mạnh nhờ vào sự giúp đỡ của Pháp, của tên chuyên chế tham tàn đang với bàn tay tiếm đoạt về phía ngôi báu của dòng họ Hapxbur ở Tây Ban Nha. Ngài bạn thân mến, chẳng bao lâu bệ hạ sẽ chứng kiến một cuộc liên minh to lớn chống lại nước Pháp. Vua Louis XIV đã già rồi, các tướng lĩnh danh tiếng của ông ta đã xuống mồ cả, nước Pháp phá sản vì thuế má nặng nề. Họ sẽ không đủ sức đi cứu giúp, quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ sẽ thua thôi. Nhưng Thụy Điển, ồ, đó mới là kẻ thù nguy hiểm nhất sau lưng xứ Moskovi.
Khuỷu tay chỉ khẽ tỳ xuống bàn. Tuyển hầu bứt những cánh hoa của một đóa hoa táo. Cặp mắt lờ đục của ông ta long lanh, khuôn mặt cạo nhẵn được ánh nến chiếu sáng nom quả thật là hết sức thông minh. Vua Piotr cảm thấy người Đức đó sắp cho mình vào tròng. Nhà vua uống cạn một cốc rượu to:
- Tôi muốn học cách bắn đại bác với các kỹ sư của vương huynh.
- Bệ hạ có thể sử dụng tất cả xưởng pháo binh của tôi!
- Danke... (Cảm ơn).
- Bệ hạ thử nếm chút rượu nho vùng Moze này.
- Danke! Đối với nước tôi, bây giờ mà xen vào cuộc giao tranh giữa các nước châu Âu thì khí sớm, quân Thổ Nhĩ Kỳ gây cho chúng tôi nhiều mối âu lo.
- Nhưng trước hết, bệ hạ đừng trông mong vào sự giúp đỡ của Ba Lan, ngài bạn trẻ của tôi ạ. Ở đó người ta đang bị ách Thụy Điển thống trị.
- Thứ rượu Moze này thật tuyệt!
- Hắc Hải sẽ chẳng đem lại một tí gì cho sự phát triển thương mại của bệ hạ đâu. Trong khi đó thì đặt vài cửa khẩu trên bở biển Baltic sẽ mở ra cho nước Nga những nguồn của cải vô ngần.
Tuyển hầu nhấm nhấm những cánh hoa, cái nhìn ánh thép cùng với nụ cười thoáng qua của ông lướt trên vẻ mặt bối rối của vị khách xứ Moskovi.

Chương 90

Suốt tuần sau, cho tới khi đoàn sứ thần đến, vua Piotr sống ở ngoài thành phố và đi bắn đại bác vào bia. Xtaitne Fon Xtecfen, kỹ sư trưởng pháo binh cấp cho nhà vua một tấm bằng chứng nhận như sau:
“Ông Piotr Mikhailov phải được công nhận và coi trọng với tư cách một người bắn đại bác giỏi cả trên lý thuyết học lẫn cả trong thực hành, một nghệ sĩ thận trọng và khéo léo trong việc sử dụng súng ống, và căn cứ vào các kiến thức xuất sắc của ông, yêu cầu mọi người giúp ông mọi sự cần thiết và quan tâm biệt đãi...”.
Các sứ thần đến Koenigsberg với một nghi lễ huy hoàng chưa từng thấy. Đi đầu đoàn xe, người ta dắt những con tuấn mã mình phủ vải choàng và đồ mã sức lộng lẫy; theo sau là các vệ binh người Phổ, các thị đồng, kỵ sĩ công tử. Kèn đồng kiểu Nga thổi lên đinh tai nhức óc.
Rồi đến ba mươi dũng sĩ bận áo nẹp xanh lục thêu chỉ bạc. Đám tùy tùng của các sứ thần cưỡi ngựa, bận áo nẹp màu đỏ tía có thêu huy hiệu vàng trước ngực và sau lưng.
Ba viên sứ thần - Lơfo, Golovin và Voznixyn ngồi trên một cỗ xe ngựa lớn bốn bánh hoàn toàn bọc kính; họ bận áo khoác xa tanh trắng lót lông hắc điêu thử, đội mũ bằng lông hải ly cao như những ống khói, có đính những con chim ưng hai đầu bằng kim cương.
Họ ngồi, mình ngửa ra sau, ngay đơ như phỗng, các hạt châu ngọc đeo kín ngón tay họ và ở tay cầm của chiếc gậy chống, lóe lên lấp lánh.
Sau cỗ xe ngựa đến các nhà quý tộc của Moskva, mặc trên người tất cả những thứ quý giá đắt tiền nhất của họ.
Trong khi diễn ra các cuộc đón tiếp và hội đàm với vị Đại Tuyển hầu, vua Piotr đi thuyền buồm du ngoạn trên vũng Friste Hai.
Ở đây không thể làm được việc gì hết: dù cho Tuyển hầu có khôn ngoan đến đâu đi nữa thì một sự liên minh với Ba Lan vẫn cần thiết hơn là với ông ta. Trái lại thời xưa, các viên sứ thần không nệ lời từ và chữ nghĩa, tư thế của họ đứng đắn, nhưng họ đã từ chối không quỳ gối và hôn tay Tuyển hầu vì, như họ nói, dù sao ông ta cũng không phải là một vị vua. Họ đề nghị không phải là một liên minh quân sự mà là một liên minh hữu nghị và khăng khăng giữ ý kiến đó.
Tuyển hầu cố nài. Các sứ thần tuyên bố: ừ thì đồng ý một liên minh quân sự nhưng đôi bên sẽ khởi chiến đánh các cường quốc nào đình chỉ chiến sự với Thổ Nhĩ Kỳ.
Quyết định đó cũng không vừa ý Tuyển hầu. Ông ta đến tìm vua Piotr trên du thuyền và nói chuyện suốt đêm với Sa hoàng. Nhưng chàng thanh niên chỉ ngồi gặm móng tay bẩn. Cuối cùng vua Piotr nói:
- Thôi được... Nhưng chúng ta sẽ không viết thành văn bản. Nếu ngài cần, Tuyển hầu ạ, thì chúng ta sẽ giúp ngài. Tôi xin thề trên thánh giá. Ngài tin lời tôi chứ?
Sau khi thỏa thuận bằng miệng một liên minh bí mật (dẫu sao vẫn phải xác nhận bằng giấy tờ), đoàn sứ thần sửa soạn ra đi nhưng một tin hết sức quan trọng đã giữ họ lại trong ba tuần ở Pilo; cuộc tuyển lựa một vị vua mới đã bắt đầu tiến hành ở Ba Lan.
Trong những buổi họp của các đại và tiểu nghị hội, các nhà quý tộc Ba Lan đã đấu gươm đọ súng với nhau để bênh vực ứng cử viên của mình. Có tất cả đến mười ứng cử viên nhưng những người chủ yếu và có triển vọng nhất là Auguste, Tuyển hầu xứ Xăcxơ và hoàng thân Conti, em vua Pháp. Một người Pháp lên ngôi vua Ba Lan có nghĩa Ba Lan sẽ rút lui khỏi liên minh chống Thổ Nhĩ Kỳ và tuyên chiến với Moskovi. Chỉ có tới đây, trên bờ biển phía châu Âu này, vua Piotr mới hiểu hết ý nghĩa của vai trò chính trị. Từ Pilo, nhà vua sai người về ra lệnh cho Viniux thảo một bức thư gửi cho người Ba Lan để hăm dọa uy hiếp phe ông hoàng người Pháp. Ở Moskva, người ta viết một bức thông điệp cho vị hồng y giáo chủ, giáo trưởng thảnh Gơnede. Trong đó nói:
“Nếu một người Pháp lên ngôi vua Ba Lan, thì khi đó không những khối liên minh thần thánh chống kẻ thù mà cả quan hệ hòa hảo muôn thuở với nước Ba Lan cũng sẽ bị tổn thương nghiêm trọng. Vì vậy cho nên trẫm, luôn luôn muốn duy trì mối tình hữu hảo với các vua Ba Lan, cũng như với các nhà quý tộc Ba Lan, viện Rada và viện Riexzơ Poxpolita(l), không muốn có một vị vua đứng về phía người Pháp hoặc Thổ Nhĩ Kỳ “.
Nhiều tấm lông hắc điêu thử và tiền vàng kèm theo bức thông điệp để làm hậu thuẫn.
Từ Paris, người ta cũng gửi vàng đến.
Dân Ba Lan kiêu căng bầu cả Auguste và Conti lên ngai vàng. Những vụ rối loạn bắt đầu nổ ra. Các nhà quý tộc Ba Lan võ trang cho gia nhân và tá điền của mình rồi tàn phá ấp trại của nhau, đốt phá các làng mạc.
Vua Piotr lo lắng, viết thư về Moskva để điều một đội quân đến biên giới xứ Lituyani để cứu viện Auguste. Nhưng Auguste dẫn đầu một đạo quân mười hai nghìn người, đích thân đến Ba Lan để lên ngôi.
Phái thân Pháp bị đánh bại.
Các nhà đại quý tộc Ba Lan trở về lâu đài của họ, bọn quý tộc nhỏ thì trở về các quán rượu.
Hoàng thân Conti, cả châu Âu đều biết rõ, chỉ đi tới Boulogne; ông ta nhún vai rồi quay về với các thú vui ăn chơi của mình.
Vua Auguste tuyên thệ với viên công sứ Nga ở Warsawa rằng nhà vua sẽ đứng về phe vua Piotr. Việc lớn đó đã kết thúc ổn thỏa. Các sứ thần cùng Piotr có các dũng sĩ hộ vệ, rời khỏi Pilo.
-------------
Chú thích:
(1) Nghị hội Ba Lan.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét