Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2019

Con Đường Đau Khổ - Tập I (tiếp)

Con Đường Đau Khổ - Tập I

Tác Giả: Aleksey Nikolayevich Tolstoy
Dịch Giả: Cao Xuân Hạo
Nhà Xuất Bản Văn Học - 1976

Tập I - Hai Chị Em (tiếp)

Ôi, ĐẤT NGA!
(Bài ca về binh đoàn Igor)

20

- Chúng mình bây giờ nông nỗi như thế đấy, nói ra cũng đủ chết khiếp.
- Thôi đừng trố mắt ra nhìn lửa mãi nữa đi ngủ đi.
- Nông nỗi này... Chao ôi, các bạn ạ, nước Nga đến tiêu vong mất thôi...
Bên bức vách đất của một căn nhà nhỏ lợp một cái mái rạ cao và nhọn hoắt, ba người lính ngồi trước một đống lửa đang lụi dần. Một người tháo băng quấn chân treo lên mấy cái cọc để hong cho khô, chốc chốc lại dòm xem, sợ nhỡ nó có bốc cháy chăng. Một người khác đang vá cái quần, tay rút kim một cách thận trọng. Người thứ ba, mặt rỗ, mũi to, râu đen và thưa, ngồi xếp bằng tròn giữa đất, tay thọc sâu vào túi áo khoác, trân trân nhìn ngọn lửa với đôi mắt trũng sâu, điên dại.
- Cái gì cũng bị chúng nó đem bán hết rồi, nông nỗi là như thế đấy. - anh ta nói khe khẽ. - hễ bên ta bắt đầu thắng thế một chút là có lệnh rút ngay. Họ chỉ biết treo cổ mấy thằng Do Thái, còn bọn phản trắc nằm ngay trên chóp bu thì cứ để yên.
- Người ta chán ghét cái cuộc chiến tranh này ra sao thì chẳng có một tờ báo nào dám nói ra đâu, - người lính hong băng quấn chân vừa nói vừa thận trọng đặt một nhánh củi khô lên đống than. - Tấn công, rồi lại rút lui, rồi lại tấn công, cứ liên miên như thế mãi! Rốt cục lại trở về chỗ cũ. Chả ăn thua mẹ gì! - anh ta nhổ toẹt một bãi nước bọt vào lửa.
- Vừa rồi trung úy Jađôv gặp tớ, - người lính đang vá quần cười nhạt nói, đầu vẫn không ngẩng lên. - Thế thì chẳng biết ông ta chán đời hay bị ma làm. Ông ta bắt đầu hạch sách tớ. Sao quần lại thủng thế kia? Đứng nghiêm mà thế à? Tớ làm thinh. Cuộc nói chuyện kết thúc rất giản dị: tớ ăn một quả thoi vào mồm.
Người lính phơi băng nói:
- Súng đạn chẳng có, biết lấy gì mà bắn? Ở đại đội ta mỗi khẩu pháo chỉ còn bảy quả đạn. Họ chỉ còn mỗi một cách là nện vào mõm cánh lính ta.
Người vá quần ngạc nhiên nhìn hắn, lắc đầu như muốn nói: thôi, thôi được rồi! Người lính râu đen có đôi mắt dễ sợ nói:
- Họ bắt dân đi lính hết sạch, bây giờ đến bốn mươi ba tuổi họ vẫn còn bắt đấy. Quân đông như thế lẽ ra có thể đi suốt cả thế giới ấy. Chúng mình có từ chối đâu? Nhưng họ cũng phải làm tròn bổn phận họ chứ? Rồi chúng mình sẽ làm tròn bổn phận chúng mình thôi.
Người vá quần gật đầu:
- Đúng đấy...
- Tôi đã trông thấy một chiến trường gần Varsava, - người lính râu đen nói - Năm hay sáu nghìn xác lính xạ kích Xibêri nằm ngổn ngang ra đấy, từng đống như rạ ấy. Tại sao? Vì đâu mà đến nỗi như thế? Số là thế này... Ở hội đồng quân sự họ quyết định tiến quân thế này thế kia xong xuôi rồi thì một ông tướng lẻn ra đánh một bức điện ngầm đi Berlin. Hiểu chưa? Hai lữ đoàn Xibêri mới xuống ga đã đi thẳng ra trận địa ngay, thế là bị súng máy quét sạch. Cậu cứ kêu ca là bị nện vào mõm. Ngày xưa hễ tớ lắp ách ngựa không xong là bố tớ xông đến cho một quả đấm vào mặt. Thế là đúng: phải học đi, phải biết sợ! Nhưng còn xạ thủ Xibêri thì sao lại đem ra cho người ta làm thịt như bầy cừu thế? Tớ bảo cho các cậu biết: nước Nga đi đời rồi, chúng nó bán rẻ chúng mình. Và thằng phản bội đây chính là một thằng mu-gích của ta, người cùng làng với tớ, làng Pokrôvxkôie ấy, đã bỏ đi cầu bơ cầu bất từ lâu. Tên hắn tớ chẳng buồn nói ra nữa... Hắn là một thằng dốt nát, bợm bãi, nhưng được cái tốt mã. Hắn ngại làm, quay ra ăn trộm ngựa, rồi kết cánh với bọn Raxkôlkini [một giáo phái ở Nga, ly khai với Giáo hội Chính giáo] quen thói chơi gái, uống rượu mùi... Thế rồi bây giờ hắn ngồi ở Pêterburg như ông vua, các ông bộ trưởng và các ông tướng đều xun xoe quanh hắn. Chúng mình thì ăn đạn phơi xác hàng nghìn giữa đất ướt, còn chúng nó thì ngồi ở Pêterburg bật đèn điện sáng trưng. Chúng nó ăn uống no nê phè phỡn, béo chương béo nứt ra.
Anh ta bỗng im bặt. Không khí yên tĩnh và ẩm ướt; mấy con ngựa nhai thóc rau ráu trong căn nhà kho, một con đá vào vách đánh bịch một tiếng. Từ phía sau mái nhà một con chim ăn đêm bay vụt qua đống lửa, kêu lên một tiếng não nùng rồi bay mất hút. Và vừa lúc ấy ở một nơi nào rất xa trên bầu trời nổi lên một tiếng rít xé tai mỗi lúc một gần, như có một con thú gì bay lại với một tốc độ phi thường, cánh xé toạc đêm tối, rồi đâm xuống một chỗ nào. Và xa xa phía sau căn nhà kho vang lên một tiếng nổ rung chuyển cả mặt đất. Mấy con ngựa lồng lên xích kêu loảng xoảng. Người lính đang vá quần nói, giọng sợ sệt:
- Một phát ra trò!
- Súng cỡ to quá nhỉ!
- Yên nào!
Cả ba nghển cổ lên. Trên bầu trời không sao, một tiếng rít thứ hai nổi lên, kéo dài dễ đến vài phút, rồi ở một nơi nào gần như phía sau căn nhà kho có tiếng nổ, mấy cây thông chóp nhọn hiện lên trên nền lửa sáng, và mặt đất lại rung chuyển. Rồi ngay tức khắc một quả đạn thứ ba bay tới. Tiếng của nó nghe như tiếng nấc, âm sắc kỳ dị như có sức thôi miên, nghe khó chịu đến nỗi tim ngừng đập. Người lính râu đen đứng dậy, lùi mấy bước. Và từ phía trên một luồng gió phụt xuống, như có một làn chớp đen vụt lóe ra, và một cột lửa đen ngòm tung lên trong tiếng nổ long trời.
Khi cột lửa đã sụp xuống, nơi ban nãy có đống lửa và mấy người lính chỉ còn là một cái hố sâu. Bên trên bức vách sụt lở của căn nhà kho, cái mái rạ bốc cháy, tỏa ra một đám khói vàng. Từ trong đám lửa, một con ngựa bờm dài bay ra, mũi thở phì phò, và lao về phía mấy cây thông hiện lên lờ mờ trong bóng tối.
Và ở phía sau đường rìa lởm chởm của cánh đồng bằng, những ánh chớp đã bắt đầu nhấp nháy liên hồi, những khẩu đại bác gầm lên, những quả pháo sáng vẽ thành những đường ngoằn ngoèo trên trời, rọi xuống mặt đất ẩm ướt. Đạn đại bác khoan thủng bầu trời trong tiếng gầm rít ồ ạt.

21

Cũng tối hôm ấy, cách căn nhà kho không xa, trong một căn hầm chỉ huy, có tổ chức một bữa chén giữa các sĩ quan của một đại đội thuộc trung đoàn Uxôtxki nhân dịp đại úy Tyôtkin vừa nhận được thư nhà báo tin vợ sinh con trai. Căn hầm nằm rất sâu dưới mặt đất, nóc đệm ba hàng gỗ súc xếp lên nhau, trần thấp, dưới ánh sáng của những chùm nến cắm trong cốc, tám sĩ quan ngồi quanh bàn với một bác sĩ và ba cô y tá thuộc trạm quân y lưu động.
Họ đã uống rất nhiều rượu mạnh. Ông bố diễm phúc, đại úy Tyôtkin, gục đầu vào cái đĩa còn đầy thức ăn thừa mà ngủ, bàn tay bẩn thỉu vắt lên trên cái đầu hói trụi. Nhờ không khí ngột ngạt, nhờ rượu mạnh và ánh nến dìu dịu trong căn hầm, ba cô y tá trông xinh hẳn lên. Họ đều mặc áo dài xám và trùm khăn bệnh viện màu xám. Một cô tên là Muska, hai bên thái dương quấn hai món tóc đen láy. Cô ta cười khanh khách luôn mồm, ngửa cái cổ trắng nõn ra khiến hai người ngồi hai bên và hai người ngồi trước mặt cứ phải dán đôi mắt nặng trĩu hơi men vào đấy. Một cô nữa là Marya Ivanôvna, người béo lẳn, má đỏ ửng lên đến tận lông mày, hát tình ca Tzigan hay lạ lùng. Các thính giả mê mẩn tâm thần, cứ đập thình thịch và nhắc đi nhắc lại: “Chao ôi, quỷ quái thật! Thế mới ra sống chứ!”. Cô thứ ba là Êlizaveta Kievna. Trước mặt cô những ngọn nến tách ra thành hàng trăm đốm lửa lập lòe, chiếu những tia sáng bạc ra bốn phía, mặt các khách dự tiệc trắng bệch ra trong làn khói, và gương mặt của người ngồi bên cạnh cô là trung úy Jađôv trông dễ sợ và đẹp lạ lùng. Đó là một người rộng vai, tóc vàng, mặt cạo nhẵn, có đôi mắt trong suốt. Jađôv ngồi rất thẳng, đai và nịt thắt rất chặt, uống rất nhiều nhưng mặt chỉ tái đi. Những khi cô Muska tóc đen cất tiếng cười, những khi Marya Ivanôvna cầm cây đàn ghita lên, lấy chiếc khăn mùi soa vo tròn lau mặt và cất cái giọng trầm lên hát: “Em ra đời trên những cánh thảo nguyên Molđavi”, - đôi môi thẳng như kẻ chỉ của chàng từ từ nhếch một bên mép lên thành nụ cười, và chàng rót thêm rượu mạnh vào cốc mình.
Êlizaveta Kievna nhìn sát vào khuôn mặt nhẵn nhụi, không một nếp nhăn của chàng. Chàng tiêu khiển cô y tá bằng những câu chuyện lịch sự và vô nghĩa, và giữa những mẩu chuyện bâng quơ, chàng kể rằng trong trung đoàn có một anh thượng úy Martynôv, nổi tiếng là người tin định mệnh. Quả nhiên có những đêm, sau khi uống một cốc cô-nhắc, anh chàng vượt qua hàng rào dây thép gai, đến gần sát công sự địch và chửi quân Đức bằng bốn thứ tiếng, vừa rồi anh ta đã phải trả giá cái lối chơi ngông của mình bằng một vết thương ở bụng. Êlizaveta Kievna thở dài nói rằng Martynôv quả là một trang anh hùng. Jađôv cười nhạt:
- Xin lỗi, chỉ có những kẻ hám danh và những thằng ngốc, chứ chẳng làm gì có anh hùng.
- Nhưng khi anh xung phong vào công sự địch, thì đó chẳng phải là một hành động anh hùng hay sao?
- Trước hết người ta chẳng xung phong gì hết, chẳng qua người ta bị bắt buộc phải xung phong, và những thằng nào chịu xung phong là những thằng hèn. Dĩ nhiên có những người không bị ai ép buộc mà vẫn liều mạng, nhưng đó là những người có một bản năng hữu cơ khiến họ khát khao giết chóc. - Jađôv gõ gõ mấy đầu móng tay cứng rắn xuống bàn. - Nếu cô muốn thì có thể nói đó là những người đã đạt đến trình độ cao nhất của ý thức hiện đại.
Chàng nhỏm người lên lấy một hộp mứt lớn ở đầu bàn kia lại mời Êlizaveta Kievna.
- Không, tôi không ăn đâu, - nàng nói, và cảm thấy tim mình đập mạnh, toàn thân mềm nhũn - Thế còn anh thì sao?
Jađôv cau lớp da trên trán lại, mặt chàng hằn lên những nếp nhăn li ti rất bất ngờ, trông già hẳn đi.
- Còn anh thì sao cái gì? - chàng xẵng giọng nhại lại - Hôm qua tôi bắn chết một thằng Do Thái sau căn nhà kho. Cô muốn biết việc ấy có thú vị hay không phỏng? Thật là ngớ ngẩn.
Chàng cắn điếu thuốc lá giữa hai hàng răng sắc nhọn và quẹt diêm. Mấy ngón tay dèn dẹt của chàng cầm que diêm rất vững, nhưng ngọn lửa vẫn không đưa đúng vào điếu thuốc lá, và rốt cục vẫn không châm được.
- Ra tôi say rồi, xin lỗi cô, - chàng nói, đoạn vứt que diêm bấy giờ đã cháy tận sát móng tay chàng. - Ta ra ngoài một chút cho thoáng.
Êlizaveta đứng dậy, thẫn thờ như trong cơn mê, và bước theo Jađôv trong con đường hầm hẹp dẫn ra ngoài. Những giọng nói lè nhè, vui vẻ gọi với theo hai người, và Marya Ivanôvna gẩy mạnh lên dây đàn, cất tiếng hát ồm ồm: “Đêm phảng phất niềm hân hoan êm ái...”. Ngoài trời thoang thoảng mùi đất ải của mùa xuân. Đêm hôm ấy tối trời và yên tĩnh. Jađôv bước nhanh trên cỏ ướt, hai tay đút túi quần. Êlizaveta Kievna đi sau chàng một quãng, miệng cười chúm chím. Bỗng Jađôv đứng lại và hỏi đột ngột:
- Nào, bây giờ thì sao?
Êlizaveta Kievna thấy hai tai nóng ran lên. Cố nén tiếng nấc đang dâng lên trong cổ họng, nàng đáp rất khẽ, gần như không thể nghe ra được:
- Em không biết.
- Cô lại đây. - Chàng hất hàm về phía một căn nhà nhỏ, mái hiện ra mờ mờ trong đêm tối. Bước được mấy bước chàng lại dừng lại, và bàn tay lạnh như băng của chàng nắm chặt lấy cánh tay Êlizaveta Kievna.
- Sức vóc tôi như một vị thần - chàng nói, giọng sôi nổi lên một cách bất ngờ, - Tôi có thể bẻ đôi một đồng hào. Tôi nhìn suốt vào từng người như nhìn qua tấm kính. Tôi căm thù chúng nó! - Chàng ngừng bặt như chợt nhớ ra điều gì, rồi giẫm chân xuống đất - Những tiếng cười hô hố ấy, những bài hát, những câu chuyện trò hèn hạ ấy, tôi hết sức ghê tởm! Chúng nó chẳng khác lũ dòi nhung nhúc trong đống phân ủ nóng... Tôi sẽ chà nát chúng nó - Cô nghe đây... Tôi không yêu cô, tôi không thể yêu được! Tôi sẽ không yêu đâu... Cô đừng tơ màng gì chuyện ấy... Nhưng tôi cần cô... Tôi rất tởm cái cảm giác bị lệ thuộc vào kẻ khác... Cô phải hiểu... - Chàng luồn tay vào dưới khuỷu tay Êlizaveta Kievna, kéo mạnh nàng vào lòng và ép chặt vào thái dương nàng đôi môi khô và nóng như than hồng.
Nàng vùng vẫy giằng ra, nhưng Jađôv ghì chặt đến nỗi xương nàng kêu răng rắc, và nàng ngả đầu xuống, người rũ rượi trĩu nặng trên tay chàng.
- Cô không giống chúng nó, cô khác tất cả chúng nó - chàng nói, - tôi sẽ dạy cho cô biết... - Jađôv bỗng im bặt, ngẩng đầu lên. Trong đêm tối nổi lên một tiếng rít đanh và sắc như mũi khoan.
- Chà, quỷ thật! - Jađôv nói qua kẽ răng.
Ngay lúc ấy có tiếng nổ ầm ầm ở phía xa. Êlizaveta Kievna vùng ra, nhưng Jađôv càng ghì chặt nàng hơn nữa. Nàng kêu lên, giọng tuyệt vọng:
- Buông tôi ra chứ!
Một quả đạn đại bác thứ hai nổ rền. Jađôv vẫn nói lẩm bẩm. Bỗng ngay sát cạnh, bên kia căn nhà kho phụt lên một cột lửa đen ngòm, tiếng nổ long trời hất những bó rạ tung lên cao.
Êlizaveta Kievna vùng ra khỏi tay Jađôv và chạy về hầm.
Các sĩ quan đang hối hả chạy từ cửa hầm ra. Họ quay sang nhìn căn nhà kho đang bốc cháy, rồi chạy lúp xúp trên mặt đất đầy những vệt bóng chằng chịt do ánh sáng chiếu xiên hắt ra. Người sang bên trái, về phía các chiến hào đào trong khu rừng nhỏ, người thì chạy sang bên phải, về phía hào giao thông dẫn đến công sự đầu cầu. Bên kia sông, rất xa sau dãy đồi, các trận địa pháo của quân Đức đang gầm gừ nhả đạn. Trận pháo kích bắt đầu từ hai mục tiêu: bên phải là cái cầu, bên trái là chỗ lội sông dẫn sang một cái ấp ở bờ bên kia bị một đại đội của trung đoàn Uxolxki chiếm giữ. Một phần hỏa lực được tập trung vào các trận địa pháo của quân Nga.
Êlizaveta Kievna trông thấy Jađôv, đầu để trần, hai tay đút túi, đang đi băng qua đồng đến ổ súng máy. Rồi đột nhiên, ngay ở chỗ cái bóng dáng cao lớn của Jađôv đang bước đi, bùng lên một vòng tròn lửa xù xì phủ khói đen. Êlizaveta Kievna nhắm mắt lại. Khi nàng lại mở mắt ra, Jađôv đang đi chếch sang bên trái, tay vẫn đút túi, hai khuỷu tay khuỳnh ra. Đại úy Tyôtkin cầm ống nhòm đứng cạnh Êlizaveta Kievna quát lên, giọng giận dữ:
- Tôi đã bảo mà, chiếm cái ấp ấy làm quái gì! Bây giờ cứ thử nhìn mà xem: nó bắn nát cả chỗ lội qua sông rồi còn gì! Quân khốn kiếp! - Đại úy lại đưa ống nhòm lên mắt. - Ái chà, chúng nó rót thẳng vào ấp! Đại đội sáu thế là đi tong! Mẹ kiếp! - Ông ta quay lại, tay đưa gãi lia lịa cái đầu hói trụi - Slyapkin!
- Có, - một người thấp bé, mũi to, đầu đội mũ chụp lông, nhanh nhẩu đáp.
- Đã nói chuyện được với đại đội sáu chưa?
- Đường dây đã bị cắt mất rồi ạ.
- Truyền lệnh cho đại đội tám cử viện binh sang bên ấp ngay.
- Xin tuân lệnh, - Slyapkin đáp, bỏ tay ra khỏi vành mũ lưỡi trai với một động tác dứt khoát rồi quay ngoắt đi. Nhưng khi đi được hai bước anh ta đã dừng lại.
- Trung úy Slyapkin! - đại úy lại quát, giọng dữ tợn.
- Có.
- Trung úy thi hành mệnh lệnh cho.
- Vâng ạ. - Slyapkin đi thêm một quãng nữa rồi cúi đầu, cầm cái gậy vạch vạch lên mặt đất.
- Trung úy Slyapkin! - đại úy gào lên.
- Có.
- Trung úy có hiểu tiếng người không thế hả?
- Có hiểu đấy ạ.
- Hãy truyền lệnh ngay cho đại đội tám. Rồi nói riêng với họ là đừng thi hành. Bản thân họ cũng chẳng phải là đồ ngu đâu mà cho người sang bên ấy. Bảo họ cho mười lăm người đến chỗ qua sông để bắn chặn. Rồi báo ngay lên sư đoàn đại đội tám đã đánh một trận táo bạo khai thông được chỗ qua sông. Thương vong thì sẽ tính gộp vào đại đội sáu. Thôi đi đi. Còn cô, cô xéo ngay. - ông ta quay về phía Êlizaveta Kievna nói, - xéo ngay về nhà ma đi, chúng nó pháo kích vào đây, ngay bây giờ đây này.
Vừa lúc ấy một quả đạn đại bác bay xoèn xoẹt ngang đầu và rơi xuống nổ rất gần.

22

Jađôv nằm sát bên lỗ châu mai của ụ súng máy, mắt không rời ống nhòm, háo hức theo dõi trận đánh. Ụ súng được đắp trên sườn một quả đồi um tùm. Dưới chân đồi, con sông lượn thành một vòng cung rộng; bên phải, cái cầu mới bị bắn cháy đang bốc khói cuồn cuộn; bên kia cầu, trên một bãi cỏ lầy lội thấp thoáng những nét chữ chi của dãy chiến hào do đại đội của trung đoàn Uxôlki chiếm giữ, bên trái có một con suối ngoằn ngoèo trong đám sậy chảy ra sông; quá nữa sang bên trái, bên kia suối, ba ngôi nhà trong ấp bốc cháy ngùn ngụt, sau ba ngôi nhà ấy là những chiến hào hình mũi tên của đại đội sáu. Cách đấy ba trăm thước bắt đầu những chiến tuyến của quân Đức lùi xa dần sang bên phải, về phía dãy đồi phủ rừng.
Ánh lửa của hai đám cháy rọi xuống sông một màu đỏ bẩn, và nước sông sủi lên vì những loạt đạn đại bác tới tấp, phụt lên thành vòi, lấp đi trong những đám khói màu hung đỏ.
Hỏa lực của pháo binh địch tập trung mạnh nhất vào cái ấp. Bên trên mấy ngôi nhà đang bốc cháy phút phút lại lóe lên những ánh lửa của đạn bi, và hai bên cái góc nhọn của dãy chiến hào hình chữ chi phụt lên những cột lửa xù xì lẫn khói đen. Từ bên kia suối, trong các đám sậy và các bụi cỏ, phụt ra những tia lửa mảnh như kim của những phát súng trường.
Rrrầm! Rrrrầm! - những phát đạn trọng pháo làm rung chuyển không khí. Ppakh, ppakh! ppakh những quả đạn bi nổ yếu ớt trên mặt sông, trên những bãi cỏ và ở bên này sông, trên các chiến hào của đại đội hai, đại đội ba và đại đội bốn. Rrrrù, rrrù, - tiếng sấm rền từ sau dãy đồi nơi có mười hai đại đội pháo của Đức đang khạc lửa. Xxxxik, xxxik - những quả đạn bắn trả của ta xé không khí bay qua dãy đồi kia. Những âm thanh dữ dội ấy làm nhức cả tai, tức cả ngực, và truyền ngọn lửa tức giận vào lòng người.
Trận đấu pháo kéo dài rất lâu. Jađôv nhìn đồng hồ dạ quang: bây giờ là hai giờ rưỡi, trời đã sắp sáng và quân địch chắc sẽ tấn công.
Quả nhiên tiếng đạn nổ dồn dập hẳn lên, nước sông càng sôi sục, pháo địch bắn tới tấp vào những lối qua sông và những ngọn đồi ở bờ bên ta. Thỉnh thoảng mặt đất lại rung lên, đất đá trên trần vách ụ súng rơi lả tả. Nhưng trên khu ấp đã cháy trụi tiếng đạn nổ đã ngớt. Và đột nhiên, từ phía xa, làm thành một góc chéo với con sông, mấy chục quả pháo sáng bay vút lên, vẽ thành những đường lửa ngoằn ngoèo, và mặt đất sáng bừng lên như dưới ánh nắng. Khi loạt pháo sáng đã tắt ngấm, trong mấy phút liền trời tối mịt lại. Quân Đức lao ra khỏi hào và tiến lên tấn công.
Trong ánh sáng mờ mờ của buổi lê minh, Jađôv nhìn mãi mới thấy những bóng người di động ở xa xa trên đồng cỏ, khi thì nằm rạp xuống, khi thì thi nhau vượt lên trước. Từ khu ấp không có lấy một tia lửa nào đón chúng. Jađôv ngoảnh lại gọi:
- Băng đạn!
Khẩu súng máy rung lên như trong một cơn giận điên cuồng, hối hả phun chì ra đầu nòng, khói tỏa khét lẹt. Lập tức những bóng người trên bãi cỏ di chuyển nhanh hơn, một số nằm rạp xuống. Nhưng chỉ lát sau khắp cánh đồng đã đầy những cái chấm lố nhố. Những hàng đầu đã chạy đến các chiến hào bị bắn nát của đại đội sáu. Từ các chiến hào ấy nhô lên khoảng hai chục người. Quân địch lập túc xúm lại đông nghịt.
Trận đánh xung quanh ấp này chỉ là một bộ phận nhỏ của một trận rất lớn diễn ra trên một chiến tuyến, dài mấy trăm dặm và đã tốn của cả hai bên mấy mươi vạn sinh linh.
Quân Nga chiếm cái ấp này từ hai tuần trước để có được một bàn đạp phòng khi sẽ vượt qua sông tấn công địch. Quân Đức quyết định chiếm cái ấp này để dịch đài quan sát tới gần sông hơn. Cả hai mục đích này đều chỉ quan trọng đối với hai viên tư lệnh sư đoàn - Nga và Đức. Nó là một bộ phận của kế hoạch chiến lược mà hai viên tướng này đã suy tính rất kỹ đến từng chi tiết nhỏ nhặt để tiến hành chiến dịch mùa xuân.
Viên tư lệnh sư đoàn Nga là tướng Đôbrôv. Ông vốn có một tên khác, chẳng Nga chút nào, cho nên cách đây nửa năm, được hoàng thượng chuẩn y, ông đã đổi lấy cái tên Đôbrôv này. Ông đang đánh bài thì nhận được tin báo quân Đức tấn công vào khu vực của trung đoàn Uxolxki.
Viên tướng bỏ ván bài, rồi cùng với hai sĩ quan hành dinh của ông và mấy sĩ quan cấp tá đi sang đại sảnh, nơi các bản đồ được trải sẵn trên một cái bàn lớn. Từ chiến tuyến có tin báo về là cầu và những chỗ lội qua sông đang bị pháo kích. Viên tướng hiểu ngay rằng quân Đức có ý định chiếm lại cái ấp, nghĩa là chính cái điểm mà ông ta định dùng làm bàn đạp trong khi dựng cái kế hoạch tấn công trứ danh của ông, một kế hoạch đã được bộ tham mưu lữ đoàn duyệt và đã được đệ trình lên cho tướng tư lệnh quân đoàn phê chuẩn. Tấn công vào khu ấp, quân Đức đã làm cho cả cái kế hoạch đó sụp đổ tan tành.
Những tin điện thoại phút phút báo về đều xác nhận mối lo sợ của ông. Ông cất cái kính không gọng cặp trên cái mũi to, rồi vừa quay quay cái kính vừa nói, giọng điềm đạm nhưng rắn rỏi:
- Được, tôi sẽ không lùi một bước ra khỏi những vị trí đã chiếm lĩnh.
Ông lập tức cho gọi điện thoại ra lệnh thi hành những biện pháp thích hợp để phòng thủ khu ấp. Trung đoàn dự bị Kunđravinxki được lệnh đem hai tiểu đoàn đến chỗ qua sông tăng viện cho đại úy Tyôtkin. Vừa lúc ấy có báo cáo của viên chỉ huy trận địa pháo cho biết rằng số đạn quá ít, một khẩu pháo đã bị bắn hỏng và không thể nào đấu khẩu một cách đích đáng với hỏa lực vũ bão của địch. Nghe tin ấy, tướng Đôbrôv nghiêm khắc nhìn những người đứng xung quanh nói:
- Được. Khi nào hết đạn, ta sẽ đánh giáp lá cà. - Ông rút từ trong túi chiếc áo vạt màu xám có ve đỏ ra một chiếc khăn mùi xoa trắng như tuyết, rũ một cái, lau cặp kính rồi cúi mình trên bản đồ.
Bấy giờ ở ngưỡng cửa hiện ra viên sĩ quan phụ tá thứ hai của tướng Đôbrôv là thiếu úy bá tước Bôbruyxki, mặc bộ quân phục ka-ki màu nâu sẫm bó khít vào người như đi găng.
- Bẩm quan lớn, - hắn nói với một nụ cười kín đáo trên khóe đôi môi xinh đẹp và trẻ trung, - đại úy Tyôkin báo cáo là đại đội sáu, sau một cuộc tập kích gan dạ, đã khai thông được lối qua sông, bất chấp hỏa lực ác liệt của địch.
Tướng Đôbrôv nhìn viên thiếu úy qua vành trên cặp kính, cái miệng cạo nhẵn nhóp nhép mấy cái rồi nói:
- Rất tốt.
Nhưng mặc dầu lời lẽ rất can trường, những báo cáo từ chiến tuyến đưa về cứ mỗi lúc một thêm bi đát. Trung đoàn Kunđravinxki đã tiến đến chỗ qua sông, nằm xuống và đào công sự. Đại đội tám vẫn tiếp tục tập kích gan dạ, nhưng vẫn không qua sông được. Viên chỉ huy chi đội pháo cối, đại úy Ilambekôv, báo cáo lên là đơn vị ông có hai khẩu pháo bị bắn hỏng, và đang thiếu đạn. Viên chỉ huy tiểu đoàn một của trung đoàn Uxolxki là thượng tá Bôrôđin báo cáo rằng vị trí quá lộ liễu, đại đội hai, đại đội ba và đại đội bốn đã bị thương vong rất nhiều, và sư đoàn cho phép ông xuất kích đánh lùi quân địch láo xược, hoặc rút về phía ven rừng. Đại đội sáu, đơn vị chiếm giữ khu ấp, thì chẳng thấy báo cáo gì.
Hai giờ rưỡi sáng, một hội đồng quân sự được triệu tập. Tướng Đôbrôv tuyên bố rằng bản thân ông sẽ dẫn đầu các đạo quân đã được giao phó cho ông, chứ sẽ không chịu nhường một tấc đất nào trên vị trí đã chiếm được. Trong khi đó có tin báo về là khu ấp đã bị địch chiếm và đại đội sáu đã bị tiêu diệt gọn. Viên tướng siết chặt chiếc khăn mùi xoa trong nắm tay và nhắm mắt lại. Viên tham mưu trưởng, đại tá Xvetsin, so đôi vai mập mạp, khuôn mặt thịt có bộ râu đen đỏ bừng lên, cất cái giọng khàn khàn nói tách bạch từng tiếng:
- Thưa thiếu tướng, tôi đã mấy lần có hân hạnh báo cáo với ngài rằng chuyển vị trí sang bờ bên phải là một việc nguy hiểm. Ta sẽ phải mất ở chỗ qua sông này hai, ba hay bốn tiểu đoàn, và dù có chiếm lại được khu trại nữa thì cũng khó lòng có thể giữ nổi.
- Ta đang cần một bàn đạp, ta phải có bàn đạp, và ta nhất định sẽ có. - tướng Đôbrôv nói, mũi toát mồ hôi - vấn đề là ở chỗ nếu mất cái bàn đạp ấy thì kế hoạch tấn công của tôi sẽ thành con số không.
Đại tá Xvetsin bác lại, mặt còn đỏ hơn nữa:
- Thưa thiếu tướng, quân đội không tài nào có thể qua sông dưới một hỏa lực dữ dội như vậy nếu không được pháo binh yêm hộ thích đáng Và như ngài đã biết, pháo binh hiện nay không có gì để mà bắn yểm hộ cả.
Viên tướng đáp:
- Được. Nếu thế xin ông truyền đạt cho quân sĩ biết rằng bên kia sông, trên các hàng rào dây thép gai có treo huân chương thập tự Ghéorghi. Tôi hiểu rõ binh sĩ của tôi lắm chứ.
Sau những lời lẽ sẽ đi vào lịch sử này, viên tướng đứng dậy, mấy ngón tay ngắn quay quay cái kính cặp mũi sau lưng, nhìn ra cửa sổ. Trên bãi cỏ, trong làn sương sớm màu lam dìu dịu, một cây bạch dương ướt đầm đứng im phăng phắc. Một đàn chim sẻ đậu kín những cành dương màu xanh nhạt, đang cất tiếng kêu vội vã tíu tít, rồi bỗng bay vụt đi. Và bãi cỏ phủ sương mù, với những bóng cây hiện lên mờ mờ, đã bắt đầu ánh vàng lên dưới những tia nắng chiều xiên.
Trận đánh kết thúc lúc mặt trời mọc. Quân Đức chiếm khu ấp và bờ suối bên trái. Trong cả cái vị trí bàn đạp, quân Nga chỉ còn được khoảng đất trũng ở phía phải con suối, nơi đại đội một bố trí. Suốt ngày giữa hai bờ suối có những cuộc đọ súng uể oải, nhưng có thể thấy rõ rằng đại đội một đang có nguy cơ bị vây bọc - nó không liên lạc trực tiếp được với bờ sông bên này vì cầu đã cháy mất, và hợp lý hơn cả là rút khỏi bãi lầy ngay đêm nay.
Nhưng đến quá trưa viên chỉ huy tiểu đoàn một là thượng tá Bôrôđin được lệnh chuẩn bị lội qua sông đêm nay, đến bãi lầy củng cố vị trí của đại đội một. Đại úy Tyôtkin được lệnh tập trung đại đội năm và đại đội bảy ở phía dưới khu ấp và dùng cầu phao qua sông. Tiểu đoàn ba của trung đoàn Uxolxki thì được lệnh chiếm lĩnh vị trí của các đơn vị tấn công. Trung đoàn Kunđravinxki thì phải lựa chỗ cạn lội qua sông ở gần cầu cháy và đánh vỗ mặt vào quân địch.
Mệnh lệnh rất nghiêm túc, cách bố quân rất rõ ràng: khu ấp lọt vào giữa hai gọng kìm, bên phải là tiểu đoàn một, bên trái là tiểu đoàn hai. Trong khi đó trung đoàn dự bị Kunđravinxki có nhiệm vụ thu hút sự chú ý và hỏa lực của địch. Trận tấn công được dự tính là sẽ bắt đầu vào lúc nửa đêm.
Đến chập tối Jađôv cho đặt mấy khẩu súng máy ở chỗ qua sông, thân hành chở một khẩu lên thuyền rồi, với những biện pháp đề phòng hết sức cẩn thận, đưa nó ra đặt ở một hòn cù lao nhỏ, rộng khoảng vài chục thước vuông, mọc đầy lau cói, và ở lại luôn đấy.
Suốt ngày các đội pháo Nga duy trì một hỏa lực thưa thớt, uể oải bắn vào ấp và xa hơn một chút - Vào các vị trí Đức đã chuyển đến gần bờ sông. Đây đó dọc con sông có những phát súng trường nổ lẻ tẻ. Đến nửa đêm bắt đầu cuộc vượt sông lặng lẽ ở ba điểm trong cùng một lúc. Để làm xao lãng sự chú ý của địch, những đơn vị của trung đoàn Belôtxerkôvxki đóng trên bờ sông cách đấy khoảng năm dặm về phía thượng lưu, bắt đầu nổ súng giòn giã. Quân Đức chột dạ, im lặng đợi chờ.
Tay vạch mấy cành lau chăng đầy mạng nhện ra, Jađôv theo dõi cuộc vượt sông. Ở bên phải một ngôi sao vàng không nhấp nháy treo thấp trên dãy đồi phủ rừng, và ánh phản chiếu mờ mờ của nó lung linh trên nước sông tối sẫm. Những cái bóng đen lù lù bắt đầu cắt ngang cái dải sáng đó. Trên những hòn cù lao cát và những cồn cạn, những bóng người vượt nhau chạy lên, Cách Jađôv không xa, khoảng chục người lội qua, nước lút ngang ngực, tay cầm súng và bao đạn giơ cao lên cho khỏi uớt, quanh họ, nước sóng sánh phát ra một tiếng róc rách khe khẽ. Đó là lính của trung đoàn Kunđravinxki đang qua sông.
Bỗng rất xa ở phía bên kia sông nổi lên những tiếng đại bác bắn rất mau, những quả lựu đạn bắt đầu rít bay đến và pakh, pakh, pakh, những quả đạn bi nổ rất cao trên mặt sông, tiếng rất đanh. Mỗi ánh chớp lóe lên khi đạn nổ lại rọi sáng những khuôn mặt râu ria nhô lên trên mặt nước. Khắp cồn cát nhung nhúc những người đang chạy qua. Một loạt tiếng nổ nữa, kế tiếp theo nhau: pakh, pakh, pakh. Những tiếng la hét vang lên. Những quả pháo sáng bay vút lên khắp bầu trời và lả tả rụng xuống, tỏa ra một ánh sáng chói lòa. Những trận địa pháo Nga bắt đầu gầm lên. Một người đang vùng vẫy trôi theo dòng nước đến sát chân Jađôv. “Đầu bị xuyên thủng rồi, thủng rồi” - hắn nhắc đi nhắc lại, tay bíu lấy một bụi cói. Jađôv chạy sang mặt bên kia hòn cù lao. Xa xa, những chiếc phao cầu chở đầy người đang vượt qua sông, có thể thấy rõ những đơn vị đã lên bờ đang chạy trên cánh đồng. Bây giờ cũng như hôm qua, trên dòng sông, ở những chỗ lội và những ngọn đồi đang đổ xuống một trận mưa đạn long trời lở đất. Nước sông sủi lên sùng sục, và trông như thể lúc nhúc những dòi: qua những đám khói đen và vàng, giữa những cột nước, quân lính đang lội bì bõm, vùng vẫy quằn quại, kêu la í ới. Những người đã sang đến bên kia lóp ngóp bò lên bờ. Từ phía sau, mấy khẩu súng máy của Jađôv nhả đạn từng tràng. Những loạt đạn đại bác Nga nổ rền ở phía trước. Hai đại đội của đại úy Tyôtkin bắn chéo cánh sẻ vào cái ấp. Những đơn vị tiền duyên của trung đoàn Kunđravinxki toan xông lên đánh lưỡi lê thì bị hỏa lực của địch bắn rát phải nằm xuống dưới chân hàng rào dây thép gai (về sau mới biết là các đơn vị này đã mất mất một nửa quân số trong khi vượt sóng). Bên kia con suối, từ đám lau sậy nhô ra những đội xạ thủ dày đặc của tiểu đoàn một. Quân Đức rời chiến hào rút lui.
Jađôv nằm bên khẩu súng máy, hai tay xiết chặt cò súng đang rung lên như điên như dại, nhằm vào phía sau các chiến hào Đức, dệt thành một lưới lửa quét sát đỉnh gò đất dài mà quân Đức đang vượt từng tốp nhỏ, khi vài ba người, khi đông hơn để rút về phía sau. Tất cả những bóng người vượt qua gò đất đều loạng choạng như vấp phải vật gì rồi ngã nhào ra phía trước hay sang một bên.
“Năm mươi tám. Sáu mươi”, - Jađôv lẩm bẩm đếm. Một bóng người gầy gò đứng dậy, hai tay ôm đầu, tiến về phía gò. Jađôv chĩa nòng súng vào đấy. Cái bóng ngồi thụp xuống rồi ngã ra. “Sáu mươi mốt”. Bỗng một ánh sáng chói lòa, thiêu đốt, không sao chịu nổi lóe lên trước mắt. Jađôv cảm thấy mình bị hất tung lên trời, và cánh tay đau nhói lên như bị xé.
Cái ấp và tất cả các hàng chiến hào lân cận đều đã chiếm lại được: quân Nga bắt khoảng hai trăm tù binh. Đến tảng sáng hỏa lực pháo binh của cả hai bên đều im dần. Cuộc thu dọn chiến trường bắt đầu. Trong khi đi tìm trên mấy hòn cù lao, những người cứu thương thấy trong đám cói xơ xác một khẩu súng máy đổ kềnh ra, bên cạnh có một người lính nằm úp mặt xuống đất, gáy bị phạt đứt; cách đấy mươi thước, ở phía bên kia cù lao, Jađôv nằm sóng sượt, hai chân choãi xuống nước. Khi họ nhấc Jađôv lên, chàng rên một tiếng. Từ ống tay áo bê bết máu thòi ra một mẩu xương màu hồng.
Khi Jađôv đã được đưa về trạm cứu thương, bác sĩ quát gọi Êlizaveta Kievna: “Họ đưa cái anh chàng của cô về đây này. Cho lên bàn mổ ngay”. Jađôv lúc bấy giờ bất tỉnh nhân sự, mũi nhọn hoắt ra, môi đen xỉn lại, khi họ cởi áo sơ mi chàng ra, Êlizaveta Kievna trông thấy trên bộ ngực rộng và trắng của chàng có xâm hình hai con khỉ ngoặc đuôi vào nhau. Trong khi cưa tay, chàng nghiến răng, và những thớ thịt trên mặt co quắp lại.
Sau những phút cực hình ấy, khi đã được băng bó lại, Jađôv mở mắt ra. Êlizaveta Kievna cúi mình trên người chàng.
- Sáu mươi mốt, - chàng nói.
Jađôv mê sảng cho đến sáng rồi ngủ thiếp đi. Êlizaveta Kievna xin phép được tự mình đưa chàng về quân y viện lớn của bộ tham mưu sư đoàn.

23

Đasa bước vào phòng ăn. Nikôlai Ivanôvits và Đmitri Xtêpanôvits vừa ở Xamara lên được hai hôm nay sau khi nhận được điện khẩn, đang nói chuyện bỗng im bặt. Tay giữ hai múi khăn san dưới cằm, Đasa đưa mắt nhìn gương mặt đỏ bừng và mái tóc rối bù của ông cụ đang ngồi gập chân trên ghế, rồi lại nhìn sang Nikôlai Ivanôvits với bộ mặt hốc hác và đôi mi sưng húp. Đasa cũng ngồi xuống bên bàn. Ngoài cửa sổ, trong bóng hoàng hôn xanh lam nổi lên một mảnh trăng lưỡi liềm mỏng và trong.
Đmitri Xtêpanôvits hút thuốc, tàn rơi xuống chiếc áo gi-lê sổ lông xù xì. Nikôlai Ivanôvits chăm chỉ dồn dồn một dúm vụn bánh mì trên khăn trải bàn. Họ ngồi im lặng như thế một hồi lâu.
Cuối cùng Nikôlai Ivanôvits nói, giọng nghẹn ngào:
- Tại sao lại để Katya nằm một mình? Không thể được.
- Anh cứ ngồi đấy, em vào cho, - Đasa vừa đáp vừa đứng dậy. Nàng không còn thấy ê ẩm khắp người nữa, cũng không thấy mệt. - Ba ạ, ba tiêm cho chị ấy mũi nữa đi, - nàng nói, tay đưa múi khăn san lên che miệng, Đmitri Xtêpanôvits khịt mũi một tiếng rõ to rồi ném điếu thuốc hút gần hết qua vai. Xung quanh ông, sân nhà la liệt những mẩu thuốc lá.
- Ba ơi, ba tiêm thêm mũi nữa đi, con van ba.
Nikôlai Ivanôvits bực bội thốt lên, cũng với cái giọng nghe hơi kịch như ban nãy:
- Katya không thể sống mãi bằng dầu long não suông như thế được. Katya chết mất thôi Đasa ạ.
Đasa quay phắt lại.
- Anh không được nói thế! Không được! Chị ấy không chết đâu.
Những thớ thịt trên gương mặt vàng võ của Nikôlai Ivanôvits giật giật mấy cái. Ông quay mặt ra cửa sổ và cũng trông thấy mảnh trăng lưỡi liềm nhọn và mỏng giữa khoảng không vắng lặng màu lam.
- Khổ quá, - ông nói, - Katya mà có làm sao thì... anh không thể...
Đasa rón rén đi qua phòng khách, nhìn ra cửa sổ một lần nữa - ngoài trời, băng giá vẫn kéo dài vô tận - rồi lặng lẽ bước vào phòng ngủ của Katya sáng mờ mờ dưới ánh đèn chong leo lét.
Trong cùng, trên cái giường rộng và thấp, Katya vẫn nằm im lìm như ban nãy, khuôn mặt thanh tú với mái tóc đã khô đi, thẫm lại, đặt trên chồng gối, và phía dưới là một bàn tay mảnh dẻ. Đasa quỳ xuống bên giường. Tiếng thở yếu ớt của Katya nghe như từ rất xa vẳng lại. Một lát sau nàng nói khẽ, giọng đau đớn:
- Mấy giờ rồi?
- Tám giờ Katyusa ạ.
Thở được một lát, Katya lại hỏi, giọng vẫn thế, như than thở điều gì.
- Mấy giờ rồi?
Suốt ngày hôm nay nàng đã nhắc đi nhắc lại mãi câu hỏi này. Gương mặt trong trong của nàng thanh thản, đôi mắt nhắm nghiền... Đã lâu rồi, nàng bước đi trên một tấm thảm êm trải dọc một dãy hành lang dài màu vàng. Trần và vách dãy hành lang này đều một màu vàng đơn điệu. Bên phải, từ những khung cửa sổ cao bụi bặm chiếu vào một ánh sáng vàng chói chang. Bên trái có nhiều cánh cửa phẳng phiu. Nếu mở cửa ra, bên kia sẽ là nơi sơn cùng thủy tận, là vực thẳm. Katya bước chậm rãi, rất chậm rãi, như trong giấc chiêm bao, qua những cánh cửa, những khung cửa sổ này. Phía trước là dãy hành lang dài dằng dặc, phẳng lì, toàn màu vàng. Trong hành lang ngột ngạt quá, và từ mỗi cánh cửa tỏa ra một nỗi buồn chết chóc. Trời ơi, bao giờ mới hết? Dừng lại một chút nghe thử xem sao nhỉ... Không, chẳng nghe thấy gì... Sau mấy cánh cửa, trong bóng tối bắt đầu có tiếng rè rè như tiếng dây cót bật chuông trong đồng hồ quả lắc, một âm thanh chậm rãi, trầm trầm... Ôi, buồn quá!... Chỉ muốn thức dậy... Nói một câu gì giản dị, gần gũi với con người...
Rồi Katya khó nhọc nhắc lại như than thở:
- Mấy giờ rồi?
- Katyusa, chị hỏi gì mãi thế hở chị?
“Tốt quá, Đasa đang ở đây”. Và tấm thảm lót dọc hành lang lại trải dài ra dưới chân như một cơn buồn nôn dìu dịu, ánh sáng chói chang và ngột ngạt chiếu vào từ mấy khung cửa sổ bụi bậm, xa xa có tiếng dây cót kêu rè rè...
“Đừng nghe nữa... Đừng thấy, đừng cảm giác gì nữa... Nằm xuống, quên hết... Sao cho chóng hết đi... Nhưng Đasa cứ quấy rầy, không cho mình chìm vào quên lãng... Nó cầm tay, hôn mãi, nói thì thầm, thì thầm... Và tựa hồ như từ người nó có một sinh khí gì truyền sang tấm thân nhẹ tênh, trống rỗng này... Khó chịu quá... ước gì có cách giảng giải cho nó hiểu rằng chết đi rất dễ chịu, dễ chịu hơn cảm thấy cái sinh khí ấy tràn vào mình... Ước gì nó buông mình ra nhỉ...”
- Katyusa, em yêu chị, em yêu chị lắm, chị có nghe không?
“Nó không buông, nó thương xót... Thế thì mình không có quyền... Con bé sẽ ở lại một mình, côi cút...”
- Đasa!
- Gì đấy chị?
- Chị không chết đâu.
Chắc ba đã đến: có mùi thuốc lá. Ba cúi xuống lật chăn ra, và một mũi kim châm vào ngực, một cảm giác nhức buốt và ngọt ngào. Trong các mạch máu truyền đi chất cam lồ của niềm an ủi. Hai bức tường của dãy hành lang dao động rồi lùi rộng ra, một luồng hơi mát tràn vào. Đasa đang vuốt bàn tay đặt trên chăn, ép môi vào đấy, hơi thở của nó ấm áp quá. Chỉ một phút nữa, thân thể sẽ hòa tan trong bóng tối của giấc ngủ. Nhưng những nét vạch vàng vàng, cứng nhắc, lại trỗi lên từ bên cạnh, từ sau mắt, và cứ tự mãn, tự tồn, sinh sôi mãi ra, xây thành dãy hành lang khổ ải, ngột ngạt...
- Đasa, Đasa, chị không muốn đi về nơi ấy.
Đasa ôm lấy đầu chị, nằm xuống cạnh chị, áp sát vào người chị, khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, và như trút từ trong thân thể mình ra một sức mạnh thô bạo, nồng cháy: chị phải sống!
Nhưng dãy hành lang lại kéo dài, lại phải đứng dậy bước đi, lê đôi chân nặng trĩu như đeo hàng tạ sắt. Không sao nằm xuống được. Đasa cứ ôm lấy mình, vực dậy, bảo đi.
Ba ngày đêm, Katya đã vật lộn với cái chết như vậy. Nàng luôn luôn cảm thấy trong thân thể mình cái ý chí tha thiết, nồng nàn của Đasa. Giá không có Đasa, nàng đã buông mình chìm vào yên tĩnh từ lâu.
Đến ngày thứ ba, suốt buổi tối và suốt cả đêm Đasa không rời giường chị. Hai chị em dường như đã hòa làm một, cùng chung một nỗi đau thương vô cùng: chung một ý chí. Thế rồi đến gần sáng, Katya đã toát mồ hôi và nằm nghiêng lại. Hơi thở của nàng hầu như không nghe ra được. Đasa hoảng sợ gọi ông cụ vào. Họ quyết định chờ xem. Đến sáu giờ sáng Katya thở dài rồi trở mình nằm nghiêng sang bên kia. Cơn nguy kịch đã qua, quá trình trở về với sự sống bắt đầu.
Ngồi trong chiếc ghế bành lớn đặt cạnh giường chị, Đasa cũng thiếp đi - lần đầu tiên trong mấy ngày ấy. Khi được biết rằng Katya đã thoát nạn, Nikôlai Ivanôvits ôm chầm lấy cái áo gi lê sổ lông của Đmitri Xtêpanôvits mà khóc nức nở.
Một ngày tươi vui bắt đầu, trời nắng ấm, và mọi người đều thấy những người kia tốt bụng vô cùng. Họ mua ở cửa hàng hoa về một cây bạch đinh hương đem cắm trong phòng khách. Đasa cảm thấy rằng mình đã tự tay mình lôi Katya ra khỏi cái hố đen ngòm và lạnh buốt dẫn vào bóng tối vĩnh viễn. Không, không, trên thế gian này không còn có gì quý hơn sự sống - bây giờ nàng đã biết chắc như vậy.
Vào cuối tháng năm Nikôlai Ivanôvits đưa Êkatêrina Đmitrievna ra ngoại thành Moxkva, ở một ngôi biệt thự nhỏ bằng gỗ có hai hàng hiên, một trông ra khóm rừng bạch dương xanh tốt với những bóng rợp luôn luôn xao động che mấy con bê lang đi ăn cỏ thẩn thơ giữa các hàng cây, một nữa trông ra cánh đồng lượn sóng dốc thoai thoải.
Cứ chiều chiều Đasa và Nikôlai Ivanôvits lại từ chuyến tàu ngoại ô bước xuống sân ga xép và đi bộ qua bãi cỏ lầy. Trên đầu, những đàn muỗi nhỏ bay vo ve. Đi một quãng thì đến một cái dốc. Đến đây Nikôlai Ivanôvits thường dừng lại như để ngắm cảnh mặt trời lặn, rồi vừa thở vừa nói:
- Chao ôi đẹp quá, chết thật!
Bên kia cánh đồng lượn sóng đang tối dần, nơi những dải ruộng lúa mì xen kẽ với những khóm rừng hạt dẻ và bạch dương cành lá lăn tăn, bỏ lửng những đám mây thường gặp vào buổi hoàng hôn: tím ngắt, im lìm và cằn cỗi. Qua những kẽ hở dài giữa các tầng mây, ráng chiều tàn lụi dần trong một ánh sáng mờ đục, và ở phía dưới, chỗ dòng suối lượn thành hình bán nguyệt, một mảnh trời da cam chìm dưới đáy nước. Đó đây, ếch nhái cất tiếng ộp oạp đối đáp nhau. Trên cánh đồng bằng phẳng, những đụn rạ và những mái nhà thôn dã nổi lên thành những vệt tối sẫm. Giữa đồng có một đống lửa nhỏ đang cháy. Ở nơi này xưa kia tên cướp làng Tusinô đã từng cố thủ sau một lũy đất cắm rào gỗ cao. Một đoàn xe lửa từ sau cánh rừng nhú ra, kéo một hồi còi dài dằng dặc; nó đang chở lính về phía tây, phía chân trời còn sáng mờ mờ trong ánh tà dương đã tàn lụi.
Men theo ven rừng đi về biệt thự, Đasa và Nikôlai Ivanôvits nhìn qua cửa kính ngoài hàng hiên thấy bàn ăn đã dọn xong, trên đặt một ngọn đèn chao đục. Con chó Bi xinh xinh của biệt thự chạy ra đón họ với tiếng sủa lễ phép; chạy ra đến cạnh hai người, nó vẫy đuôi, rồi sợ nhỡ có thất thố gì chăng, nó vờ tạt ra đám bụi ngải ở đấy sủa mấy tiếng bâng quơ...
Êkatêrina Đmitrievna đang ngồi gõ gõ móng tay vào cửa kính hàng hiên - vào lúc chập tối nàng chưa được phép ra ngoài. Nikôlai Ivanôvits chốt cổng ngoài lại rồi nói: “Biệt thự này thích thật đấy em ạ”. Họ ngồi vào bàn ăn. Êkatêrina Đmitrievna kể lại những tin tức ở biệt thự: bên làng Tusinô có một con chó dại chạy sang cắn chết hai con gà con của nhà Kiskin; hôm nay vợ chồng Jilkin mới dọn về ở biệt thự đã bị lấy cắp mất chiếc xamovar; Matriôna, chị nấu bếp, lại đánh thằng con.
Đasa lẳng lặng ngồi ăn; sau một ngày làm việc trong thành phố, nàng thấy mệt chết người đi được. Nikôlai Ivanôvits rút trong cặp ra một tập báo, vừa xỉa răng vừa giở ra đọc. Mỗi khi đọc đến những tin không vui, ông lại bắt đầu chép chép cái miệng cho đến khi Katya phải nói: “Kìa Nikôlai, anh chép miệng gì mãi thế!” mới chịu thôi. Đasa ra thềm ngồi xuống, tay chống cằm và nhìn ra cánh đồng bằng đang chìm dần vào bóng tối, đây đó lác đác những đốm lửa, nhìn lên những ngôi sao mùa hè rải chi chít trên trời. Từ ngoài vườn đưa vào thoang thoảng mùi bồn hoa mới tưới.
Trên hàng hiên Nikôlai Ivanôvits giở báo loạt soạt nói:
- Chỉ riêng một điều này đã đủ làm cho chiến tranh không thể kéo dài được; các nước đồng minh và ta đều sẽ phá sản.
Katya hỏi:
- Anh ăn sữa chua nhé?
- Nhưng phải lạnh kia... Thật là bi đát, bi đát quá chừng! Ta đã mất Lvôv và Lublin. Có ma nó biết được đầu đuôi ra sao! Đánh nhau thế quái nào được khi có những thằng phản bội nó đâm sau lưng! Kỳ quái hết sức!
- Kìa Nikôlai, đừng chép miệng nữa anh!
- Thì cứ mặc tôi nào! Nếu ta để mất Varsava thì nhục đến chết mất. Quả cũng có khi đâm nghĩ quẩn: hay cứ ký bừa một hòa ước gì đấy rồi quay lưỡi lê chĩa vào Pêteburg?
Xa xa có tiếng còi tàu hỏa, - có thể nghe rõ tiếng bánh lăn ầm ầm qua con suối ban nãy in bóng trời chiều: chắc đó là chuyến tàu chở thương binh về Moxkva. Nikôlai Ivanôvits lại giở mấy tờ báo kêu loạt soạt:
- Người ta đưa lính ra mặt trận mà chẳng có súng ống gì: họ cầm gậy ngồi dưới chiến hào. Cứ năm người mới được một khẩu súng. Khi xung phong lên họ cũng cầm gậy như thế, chờ khi người bên cạnh ngã xuống thì cầm lấy súng. Chao ôi, thật chẳng còn ra cái thể thống gì nữa!
Đasa xuống thềm, ra đứng tựa khuỷu tay tay lên cánh cổng. Ánh đèn từ hàng hiên chiếu lên những tàu lá ngưu bàng óng ánh. Thằng Petka, con chị bếp Matriôna, suốt ngày đi trốn tận đâu bây giờ đã mò về. Đầu cúi gằm, hai chân quét bụi, nó miễn cưỡng đi ra sau bếp, lòng buồn tủi, vì chẳng còn biết cách nào hơn là về cho mẹ đánh một trận rồi đi ngủ.
Đasa ra cổng rồi thong thả đi ra sông Khimka.
Đứng trong bóng tối, bên bờ sông dốc đứng, nàng lắng tai nghe. Đâu đây có tiếng suối chảy róc rách khe khẽ, chỉ ban đêm mới nghe thấy. Thỉnh thoảng một hòn đất từ trên bờ khô nẻ lăn lịch kịch rồi rơi xuống nước đánh bủm một tiếng. Hai bên những bóng cây đen đứng im phăng phắc, rồi bỗng cành lá lao xao lên một lúc, giọng ngái ngủ, rồi lại im bặt. “Đến bao giờ đến bao giờ?” - Đasa nói khẽ, rồi bẻ ngón tay răng rắc.
Vào một ngày nghỉ đầu tháng sáu, Đasa dậy sớm, và để Katya khỏi thức giấc, nàng xuống bếp rửa mặt. Trên bàn có một đống rau và bên trên để một tấm bưu thiếp xanh xanh. Chắc người bán rau đã lấy nó ở bưu vụ về cùng với tập báo. Petka, thằng con chị bếp, ngồi trên ngưỡng cửa vừa thở phì phò vừa buộc một cái cẳng gà vào cái que. Matriôna đang phơi quần áo lên cây xiêm gai.
Đasa đổ vào cái chậu sành một ít nước thoảng mùi sông, tụt quai áo ra khỏi vai, rồi lại nhìn tấm bưu thiếp: thiếp nào mà lạ thế nhỉ? Nàng đưa hai đầu ngón tay ướt cặp ngoài tấm thiếp và đọc lướt qua. Trên thiếp có viết: “Đasa yêu dấu, anh lo quá, không hiểu tại sao anh viết bao nhiêu thư mà chẳng thấy trả lời lần nào, chẳng lẽ thư anh thất lạc hết?”.
Đasa vội vã ngồi xuống một chiếc ghế, mắt nàng hoa lên, chân nàng khuỵu xuống... “Vết thương của anh đã liền hẳn. Bây giờ anh tập thể dục hàng ngày, nói chung anh cố giữ mình cho vững. Anh còn học cả tiếng Anh và tiếng Pháp nữa. Anh ôm hôn em, Đasa ạ, nếu em còn nhớ anh. I. Telêghin”.
Đasa lồng quai áo lên vai và đọc lại một lần nữa:
“Nếu em còn nhớ anh!”... Nàng vùng dậy chạy vào buồng ngủ Katya, kéo tấm rèm bằng vải hoa trên cửa sổ ra.
- Katya, chị đọc to lên đi!
Nàng ngồi xuống cạnh giường trong khi Katya sợ cuống lên, và không đợi cho chị kịp đọc, nàng tự đọc lấy và đứng phắt dậy, chập hai tay vào nhau.
- Katya, Katya, khủng khiếp quá đi mất!
- Nhưng lạy Chúa, thế là anh ấy sống rồi, Đanyusa ạ!
- Em yêu anh ấy quá!... Trời ơi, biết làm thế nào bây giờ?... Em hỏi chị nhé: bao giờ mới hết chiến tranh?
Đasa giật lấy tấm bưu thiếp rồi chạy sang phòng Nikôlai Ivanôvits. Nàng vừa đọc thư cho ông ta nghe vừa hỏi cuống lên, bắt ông ta phải trả lời cho thật chính xác: bao giờ chiến tranh sẽ kết thúc?
- Nhưng em ạ, bây giờ có ai biết được điều đó đâu?
- Thế thì anh làm cái trò gì ở trong cái Liên minh thành thị ngu xuẩn ấy? Các anh chỉ tán nhảm suốt ngày từ sáng đến tối. Em đi ngay về Moxkva gặp tổng tư lệnh quân đội đây... Em sẽ bắt ông ta phải...
- Em bắt ông ta làm cái gì mới được chứ?... Chao ôi, Đasa, Đasa, phải đợi thôi.
Mấy ngày liền Đasa đứng ngồi không yên, nhưng rồi cũng lắng nguôi dần, như thể tàn lụi đi, tối tối nàng về buồng rất sớm, ngồi viết thư cho Ivan Ilyits, gói ghém các thứ quà lại rồi khâu vào vải bạt. Những khi Êkatêrina Đmitrievna sang nói chuyện Têlêghin với nàng, nàng thường im lặng, tối tối nàng không đi dạo nữa, ngồi với Katya nhiều hơn, khâu vá, đọc sách, dường như cố sao chôn thật sâu vào đáy lòng tất cả những tình cảm của mình, khoác lên mình một lớp da dày không sao xoi thủng được, làm bằng những công việc vặt vãnh hàng ngày.
Êkatêrina Đmitrievna tuy qua mùa hè đã bình phục hẳn, nhưng cũng giống Đasa, nàng như thể đã tàn lụi đi. Hai chị em hay nói với nhau rằng họ cảm thấy có một cái gì nặng trĩu như cái cối đá đè lên mình. Vả chăng bây giờ thì ai cũng có cái cảm giác ấy. Khi thức dậy, khi đi đứng, khi suy nghĩ, khi gặp gỡ người này người nọ, họ đều thấy khổ tâm. Họ chỉ nóng lòng chờ đến khi có thể ngả người ra giường, thân mỏi rã rời, và hưởng lấy niềm vui duy nhất mà bây giờ họ có thể hưởng - ngủ thiếp đi và quên hết. Hôm qua vợ chồng Jilkin mời khách đến nếm thử mẻ mứt mới, chủ và khách đang ngồi uống trà thì có người đưa báo đến: trong danh sách những người đã ngã xuống trên trường vinh quang có tên em trai ông Jilkin. Chủ nhà lui về buồng trong, khách ra ngồi một lát ngoài bao lơn rồi lặng lẽ bỏ về. Đâu đâu cũng có những chuyện như thế. Đời sống trở nên đắt đỏ. Tương lai mờ mịt, u buồn. Varsava đã bị bỏ ngỏ. Brext-Litôvxk bị nổ mìn, rồi thất thủ. Đâu đâu cũng bắt được gián điệp.
Trên sông Khimka, trong một khe núi, mới xuất hiện một toán cướp. Suốt một tuần không ai dám đi vào rừng - ai cũng sợ. Rồi dân vệ dồn được chúng ra khỏi khe núi, bắt được hai tên, còn một tên thứ ba trốn mất. Nghe nói hắn lẻn sang huyện Zvênigôrôđ cướp phá các trang viên.
Một buổi sáng, trên khoảng đất trống bên cạnh biệt thự gia đình Xmôkôvnikôv, một người xà ích đứng thẳng trên xe phi nước đại đến. Từ khắp mọi nẻo những bà nhà quê, những bà nấu bếp, những đứa trẻ chạy ra xem. Có một việc gì đã xẩy ra. Chị Matriôna vừa chùi tay vừa chạy qua vườn, nhập vào đám đông. Anh xà ích, mặt đỏ gay, người nóng bừng, đứng trên xe ngựa nói:
-... Họ lôi hắn ra ngoài cửa hiệu, lắng qua lẳng lại một lúc, rồi kéo xền xệt trên mặt đường, lôi ra sông Moxkva. Còn năm thằng Đức nữa trốn trong nhà máy... Họ tìm được hai đứa, may mà cảnh sát cướp lại được, chứ không thì cũng ra sông nốt... Còn khắp quảng trường Lubyan thì nhung, lụa bay tung tóe. Khắp thành phố họ đang cướp phá... Người đông như kiến...
Hắn quất mạnh dây cương vào lưng con ngựa giống đang tựa sườn vào đôi càng xe uốn cong, quát con ngựa mấy tiếng, rồi quất một lần nữa, con ngựa thở khò khè, mình sùi bọt mồ hôi, vùng lên phi nước đại, kéo theo chiếc xe lăn lộc cộc trên phố, về phía quán rượu.
Đasa và Nikôlai Ivanôvits lúc bấy giờ đang ở Moxkva. Từ thành phố bốc lên một cột khói đen, đọng lại thành một đám mây lớn trên bầu trời xam xám bị nắng nung đốt. Đám cháy có thể nhìn thấy rất rõ từ bãi đất ở giữa làng, nơi những người nhà quê đang tụm năm tụm bảy đứng xem. Khi những người ở biệt thự đến gần họ, những câu chuyện bàn tán im bặt: họ nhìn mấy người thượng lưu, không biết với ý ngạo nghễ hay với một thái độ chờ đợi kỳ lạ nào đấy. Một người béo tốt, đầu trần, sơ-mi rách toạc một miếng, vừa ở đâu hiện ra, đến cạnh ngôi nhà thờ nhỏ bằng gạch, nói to:
- Ở Moxkva họ đang giết bọn Đức đấy!
Hắn vừa dứt lời, một bà có mang gào tướng lên. Đám đông kéo về phía nhà thờ. Êkatêrina Đmitrievna cũng chạy ra đấy. Đám người khích động cứ nhao nhao lên.
- Nhà ga Varsava cháy rồi, bọn Đức nó đốt.
- Giết hết hai nghìn thằng Đức rồi.
- Hai đâu, sáu nghìn ấy, - vứt xuống sông hết.
- Lúc đầu thì chỉ có bọn Đức bị thôi. Nhưng sau đó họ cứ đà ấy mà cướp phá lung tung. Nghe nói phố Kuznetxki Môxt bị cướp sạch sành sanh.
- Cũng đáng đời. Chúng nó ăn béo mồ hôi chúng mình.
- Làm sao cản dân được. Dân là không có cản được đâu.
- Ở công viên Pêtrôvxki, người ta tìm thấy trong một biệt thự có cái máy đánh dây thép gió... thật đấy mà, chị tôi vừa ở đấy về xong... Bên máy có hai thằng gián điệp đeo râu giả. Dĩ nhiên là người ta giết chết tươi ngay cả hai thằng.
- Đi vét các biệt thự một vòng thì hay nhỉ!
Một lát sau thấy mấy người con gái, tay xách bị không, chạy xuống dốc, về phía cái đập, chỗ con đường cái Moxkva chạy ngang. Nhiều người quát với theo họ. Họ ngoảnh lại cười, tay huơ mấy cái bị. Êkatêrina Đmitrievna hỏi một cụ nông dân rất đẹp lão:
- Mấy cô ấy chạy đi đâu thế cụ?
- Đi hôi của đấy, bà ạ.
Mãi đến hơn năm giờ Đasa và Nikôlai Ivanôvits mới đi xe ngựa trên thành phố về. Cả hai đều đang xúc động, cướp lời nhau kể cho Katya nghe rằng khắp thành Moxkva dân tụ tập lại thành từng đám đông kéo đi phá nhà ở và cửa hiệu của kiều dân Đức. Cửa hàng bán áo quần may sẵn của nhà Manđel bị cướp sạch... Kho dương cầm Becker ở phố Kujnetxki bị phá tan hoang, họ bưng dương cầm đẩy từ cửa sổ tầng hai xuống vỉa hè, rồi dồn các mảnh vụn lại đốt. Quảng trường Lubyan ngổn ngang những thuốc men và chai lọ vỡ. Nghe nói có cả những vụ giết người. Quá trưa, những đội tuần tiễu đi giải tán các đám đông. Bây giờ thì khắp nơi đã yên tĩnh.
- Dĩ nhiên làm như thế là man rợ. - Nikôlai Ivanôvits nói, mắt nhấp nháy lia lịa vì khích động, - nhưng tôi rất thích cái khí thế hùng dũng của nhân dân trong những hành động ấy. Hôm nay họ phá các cửa hiệu Đức ra rồi ngày mai họ sẽ dựng ụ chiến đấu, mẹ kiếp. Chính phủ đã cố tình dung túng những vụ hành hung này. Phải, phải, anh có thể nói quả quyết như vậy, - ấy là để xả bớt nỗi căm hờn của nhân dân. Nhưng qua những trò như thế, nhân dân sẽ dần dần thấy thích những trò nghiêm trọng hơn.
Ngay đêm ấy hầm rượu nhà Jilkin bị vét sạch, còn nhà Xvetsikôv thì bị vơ hết chỗ áo quần cất trên gác xép. Ở quán rượu đèn sáng suốt đêm. Và một tuần sau nữa, người ta bắt đầu nhìn những người ở biệt thự với những khóe mắt kỳ dị, vừa nhìn vừa nói thì thầm những gì với nhau không rõ.
Vào đầu tháng tám gia đình Xmôkônikôv lại dọn về thành phố, và Êkatêrina Đmitrievna lại đi làm ở viện quân y. Mùa thu năm ấy thành Moxkva đầy những người lánh nạn ở Ba-lan sang. Trên các phố Kuznetxki, Petrôxka, Tverxkaia chen chân không lọt. Các cửa hàng, các tiệm giải khát, các nhà bắt đầu đông nghịt, và đâu đâu người ta cũng nghe cái câu xin lỗi mới thịnh hành: “Rất ân hận!”.
Tất cả cái cảnh rộn rịp, xa hoa này, những nhà hát và những khách sạn đầy ắp, những phố phường náo nhiệt sáng trưng ánh điện ấy được một bức tường sống bảo vệ khỏi mọi sự hiểm nghèo. Bức tường đó là đạo quân mười hai triệu người đang ộc máu ngoài mặt trận.
Tình hình chiến sự vẫn hết sức bi đát. Ở khắp nơi, ngoài tiền tuyến cũng như ở hậu phương, người ta đều bàn tán về cái ác tâm của Raxputin, về sự phản bội, về cái thế không tài nào gắng gượng lâu hơn được nữa, nếu ông phước lộc Nikôla không ban phép lạ cứu vớt nước Nga này.
Thế rồi giữa tình trạng chán nản và rã rời này, tướng Ruzxki đột nhiên chặn đứng được cuộc tấn công của quân Đức ngay giữa chiến trường bình địa.

24

Vào những buổi hoàng hôn mùa thu ở miền duyên hải, gió đông bắc uốn cong những cây phong dương trụi lá, rung chuyển những khung cửa kính của ngôi nhà cũ kỹ có cái tháp bằng gỗ xây trên ngọn đồi, gầm thét qua mái nhà một cách dữ dội đến nỗi tưởng chừng như có một người đang bước nặng nề trên mái sắt; nó thổi hun hút qua các ống khói, các khe cửa và tất cả những kẽ hở trên tường.
Từ những khung cửa sổ của ngôi nhà này nhìn ra có thể trông thấy những khóm hồng trơ trụi lắt lay trên những vồng đất nâu, những đám mây tơi tả bay trên mặt biển màu chì cuộn sóng. Rét mướt và buồn tẻ.
Arkadi Jađôv ngồi trên chiếc đi văng hẹp cũ kỹ ở tầng trên ngôi nhà, trong căn phòng duy nhất có người ở. Ống tay xẹp lép của chiếc áo vạt dài xưa kia rất trang nhã của chàng đút vào trong thắt lưng. Khuôn mặt có đôi mi húp cạo rất nhẵn, đường ngôi trên tóc rẽ rất cẩn thận, trên hai gò má có hai đường gân giật giật.
Mắt nheo nheo lại vì cay khói thuốc lá, Jađôv uống rượu vang đỏ lấy trong những thùng ton-nô hãy còn trữ dưới căn hầm của ngôi nhà cha chàng để lại. Ở đầu kia đi văng, Êlizaveta Kievna cũng ngồi uống rượu vang và hút thuốc, môi nở một nụ cười nhẫn nhục. Jađôv đã luyện cho nàng biết lặng thinh hết ngày này qua ngày khác, lặng thinh và nghe chàng tự bộc lộ sau khi nốc hết sáu chai Cabernet lâu năm. Qua cuộc chiến tranh, qua thời gian sống đói khổ trong “Lâu đài Cabernet”, ngôi nhà dột nát trên hai mẫu ruộng nho - cái gia sản duy nhất mà chàng được hưởng sau khi cha chàng chết đi, - trong trí óc Jađôv đã tích tụ lại cả một kho tàng những ý nghĩ độc địa.
Sáu tháng trước đây, trong một quân y viện ở hậu phương, vào một trong những đêm bứt rứt khó chịu mà cánh tay bị cưa cụt, cánh tay không còn tồn tại của Jađôv lên cơn nhức buốt, chàng đã nói với Êlizaveta Kievna bằng một giọng bực tức, hằn học và thù oán:
- Cái lối đâu lại cứ giương đôi mắt si mê nhìn người ta suốt đêm, không để cho người ta ngủ. Tốt hơn cả là mai đi gọi ngay một linh mục lại đây, để chấm dứt cái trò khỉ này đi.
Êlizveta Kievna tái mặt đi, rồi gật đầu, - thôi cũng được. Người ta làm lễ cưới cho họ trong viện quân y. Đến tháng mười hai Jađôv được đưa về Maxkva mổ một lần thứ hai nữa, và sang đầu mùa xuân hai người về Anapa ở trong “Lâu đài Cabernet”. Jađôv không có phương tiện gì sinh sống. Muốn có tiền chợ họ phải đem bán dần những đồ làm ruộng và bàn ghế cũ trong nhà. Nhưng rượu vang thì lại ê hề - loại rượu Cabernet tài tử để từ hồi trước chiến tranh.
Ở đây, trong ngôi nhà vắng vẻ và dột nát với cái tháp xây bên sườn, mái đầy những tổ chim, Jađôv bắt đầu sống một cuộc đời vô công rồi nghề kéo dài một cách vô hy vọng. Những chuyện có thể nói được đã nói hết từ lâu. Phía trước là một lỗ trống khổng lồ. Như thể một cánh cửa đã sập kín lại sau lưng hai vợ chồng Jađôv.
Êlizaveta Kievna cố gắng lấy mình ra lấp đầy sự trống trải của những ngày dài đằng đẵng, nhưng chẳng ăn thua gì. Muốn lấy lòng Jađôv, nàng đâm ra lố lăng, cẩu thả và vụng về. Jađôv chế nhạo nàng về chuyện này, và nàng tuyệt vọng nghĩ rằng mình tuy có tư tưởng rất rộng rãi, nhưng lại là một người đàn bà rất dễ trạnh lòng. Thế nhưng nàng sẽ không đời nào chịu đổi cuộc sống khốn khổ này lấy bất kỳ một cuộc sống nào khác, mặc dầu nó đầy tủi nhục, đầy một nỗi buồn chán da diết, không hề có một chút an ủi nào ngoài sự sùng bái mù quáng đối với chồng và những phút hoan lạc điên rồ rất hiếm hoi.
Trong thời gian gầy đây, khi gió thu bắt đầu thổi hun hút trên miền duyên hải trơ trọi này, Jađôv đâm ra cáu bẳn khác thường. Nàng không dám nhúc nhích nữa, chỉ cần động một tí là lập tức môi trên Jađôv cong lên để lộ hàm răng hung ác, và chàng bắt đầu rít qua kẽ răng nói những điều khủng khiếp vô cùng. Êlizaveta Kievna thỉnh thoảng chỉ rùng mình trong thâm tâm, da nàng nổi gai ốc lên vì những lời lăng nhục. Ấy thế nhưng nàng vẫn có thể ngồi hết giờ này sang giờ khác nhìn đăm đăm gương mặt tuấn tú của chàng đã hốc hác hẳn đi và lắng nghe tiếng nói mê sảng của chàng. Jađôv thường sai nàng xuống lấy rượu dưới gian hầm bằng gạch xây vòm cuốn, có những con nhện lớn chạy chạy qua lại. Ngồi ghé vào mặt thùng ton-nô và nhìn tia rượu Cabernet màu huyết dụ chảy vào miệng vò sành, Êlizaveta Kievna thả lỏng cho dòng tâm tư của mình tha hồ bay bổng. Với một nỗi chua xót say sưa, nàng nghĩ rằng một ngày kia Arkađi sẽ giết nàng ở đây, trong căn hầm này, và sẽ vùi xác nàng dưới một thùng rượu. Qua nhiều đêm đông dài đằng đẵng, chàng sẽ thắp ngọn nến lần từng bậc thang xuống đây với lũ nhện. Chàng sẽ ngồi trước cái thùng rồi cũng nhìn tia rượu đang rót vào vò như thế này, chàng se chợt nhớ ra và cất tiếng gọi: “Liza...”. Nhưng chỉ có tiếng nhện chạy sột soạt trên vách hầm đáp lại, và lần đầu tiên trên đời chàng sẽ khóc vì cô đơn, vì một nỗi buồn ghê gớm có thể chết đi được. Mơ tưởng như vậy. Êlizaveta Kievna chuộc lại tất cả những nỗi nhục nhằn: rốt cục không phải Jađôv, mà chính nàng sẽ đắc thắng.
Gió đã mạnh lên. Cửa kính rung lách cách dưới những trận gió ào ào. Trên cái tháp nổi lên một tiếng rú man rợ kéo dài, chắc rồi sẽ cứ thế mãi suốt đêm nay. Trên mặt biển không có lấy một vì sao.
Chiều hôm ấy Êlizaveta đã xuống hầm rượu đến ba lần, rót đầy vò đưa lên cho Jađôv. Chàng vẫn ngồi im lặng, không nhúc nhích. Đêm nay chắc lại phải nghe những câu chuyện rất đặc biệt.
- Chắc ở nhà ít nhất cũng còn được mấy củ khoai tây chứ? - Jađôv bỗng nói to - Lẽ ra cô cũng nên nhớ rằng từ hôm qua tôi chẳng ăn chút gì.
Êlizaveta Kievna lặng người đi. Khoai tây, khoai tây... Từ sáng nàng mải mê suy nghĩ về mối quan hệ giữa nàng với Arkađi đến nỗi quên khuấy mất bữa ăn tối. Nàng rời đi văng đứng phắt dậy.
- Ngồi xuống, đồ lọ lem, - Jađôv nói, giọng lạnh lùng - cô không nói tôi cũng biết thừa là khoai tây chẳng còn. Tôi phải nói cho cô biết rằng cô chẳng được cái tích sự gì ở đời này hết, chỉ được cái ngồi nghĩ đủ thứ chuyện nhảm nhí.
- Em chạy sang bên hàng xóm một chút. Đem rượu đổi lấy ít bánh mì và khoai tây.
- Để tôi nói hết đã, rồi hẵng đi. Ngồi xuống. Hôm nay tôi đã giải quyết dứt khoát được vấn đề quyền phạm tội ác - (nghe thấy mấy tiếng này, Êlizaveta Kievna siết chặt hai múi khăn san và ngồi lùi ra mép đi văng) - Vấn đề này đã làm tôi bận tâm từ thuở bé. Những người đàn bà mà tôi đã gặp đều cho rằng tôi là một tội phạm và đều hiến thân cho tôi một cách đặc biệt háo hức. Nhưng mãi đến hôm nay tôi mới giải quyết được vấn đề tội ác.
Chàng với lấy cốc rượu nốc ừng ực, rồi châm thuốc lá hút.
- Tôi ngồi trong chiến hào, cách quân địch ba trăm thước. Tại sao tôi lại không bò qua bờ hào, không lần vào chiến hào địch để giết những kẻ tôi cần giết, cướp lấy tiền bạc, áo quần, cà phê và thuốc lá? Ví thử tôi biết chắc rằng chúng nó sẽ không bắn tôi, hoặc sẽ bắn nhưng không trúng, thì dĩ nhiên là tôi sẽ đi, sẽ giết và lấy đồ đạc. Và tôi sẽ được in chân dung lên các báo như một trang anh hùng. Chắc nói như thế cũng đủ rõ ràng và lô-gích. Bây giờ nếu tôi ngồi không phải trong chiến hào, mà trong “Lâu đài Cabernet” cách Anapa sáu dặm, thì tại sao tôi không lên phố, không bẻ khóa cửa hiệu kim hoàn Muravêytsik, không lấy vàng bạc châu báu, và nếu gặp bản thân Muraveytsik đứng phất phơ đâu đấy, thì sẽ vui lòng cho luôn một mũi vào đây? - Chàng lấy ngón tay chỉ thẳng vào yết hầu. - Tại sao cho đến nay tôi vẫn chưa làm như thế? Cũng chỉ vì tôi sợ. Sợ bị bắt, sợ bị đưa ra tòa, sợ bị xử tử. Tôi nói như thế có lẽ cũng lô-gích đấy chứ? Vấn đề giết người và lấy cướp của quân địch đã được chính quyền nhà nước giải quyết theo hướng khẳng định, mà nhà nước là đại diện cho cái luân lý tối cao đã được xác lập, cho toàn bộ hình luật và dân luật. Như thế tức là vấn đề chung quy chỉ căn cứ vào cảm giác chủ quan của tôi; nó tùy ở chỗ tôi cho ai là kẻ thù của tôi.
- Một đằng là kẻ thù của quốc gia, còn đằng này lại chỉ là kẻ thù của riêng anh mà thôi, -Êlizaveta Kievna nói rất khẽ.
- Hay tuyệt! Rồi cô lại sẽ thuyết cho tôi nghe về một thứ chủ nghĩa xã hội nào nữa chứ gì? Nhảm nhí hết! Cơ sở của luân lý là quyền của cá nhân, chứ không phải là tập thể. Tôi khẳng định rằng cuộc trưng binh đã thành công rực rỡ ở tất cả các nước, và chiến tranh đã được tiến hành trôi chảy hơn hai năm nay rồi, bất chấp những lời phản kháng của Giáo hoàng La mã chẳng qua cũng vì tất cả chúng ta, mỗi cá nhân, đều sinh trưởng trong mớ tả lót trẻ con. Chúng ta vốn thích, và nếu không thích hẳn đi nữa, thì cũng không hề phản đối việc giết người và cướp của. Việc giết người và cướp của được nhà nước tổ chức. Những thằng ngốc và những thằng nhãi ranh vẫn tiếp tục gọi việc giết người và cướp của là giết người và cướp của. Nhưng tôi thì từ nay tôi sẽ gọi nó là sự thực hiện trọn vẹn của quyền cá nhân. Con hổ muốn ăn con gì thì tha hồ giết. Tôi còn cao hơn con hổ. Ai dám cả gan hạn chế quyền của tôi? Pháp luật à? Nó đã bị dòi bọ gậm hết rồi.
Jađôv thu hai chân lại, đứng dậy một cách nhẹ nhàng rồi đi đi lại lại dọc gian phòng sáng mờ mờ trong ánh hoàng hôn dọc qua những tấm kính bẩn.
- Một nghìn triệu con người đang sống trong tình trạng chiến tranh, năm mươi triệu người đàn ông đang đánh nhau trên các mặt trận. Họ được tổ chức và vũ trang. Hiện nay họ còn là hai tập thể thù địch. Nhưng không có gì cản trở họ một ngày kia sẽ ngừng bắn và sẽ liên kết lại. Đó là lúc có một người nào đấy đứng ra nói với cái tập thể năm mươi triệu người này: “Đồ ngu, chúng mày bắn sai mục tiêu rồi”. Cuộc chiến tranh phải kết thúc bằng một cuộc nổi loạn, một cuộc cách mạng, một vụ hỏa hoạn toàn cầu. Lưỡi lê sẽ chĩa hết vào trong nước. Tập thể sẽ là chủ nhân của cuộc sống. Người ta sẽ đặt lên ngai vàng một thằng ăn mày ghẻ lở và sẽ thờ phụng nó. Thôi thế cũng được. Nhưng tôi lại càng rộng tay để tranh đấu. Kia là luật của quần chúng, còn đây là luật của cá nhân, của cá nhân trần truồng được khai triển trọn vẹn. Các anh theo chủ nghĩa xã hội, còn chúng tôi tuân theo luật rừng, chúng tôi đi theo chủ nghĩa vô chính phủ thiêng liêng, được tổ chức bằng một kỷ luật sắt.
Tim Êlizaveta Kievna đập điên cuồng. Đó chính là cái “vực thẳm” mà trước đây nàng đã mơ ước hồi còn ở trọ nhà Têlêghin. Nhưng đây không còn là những trò đùa vui vui được trình bày thành mười sáu điểm “tự khiêu khích” như trên cái bảng mà các khách trọ của Têlêghin đã treo lên cửa phòng nàng... Bây giờ, trong bóng hoàng hôn, dọc theo mấy khung cửa sổ, một con người thực sự đáng sợ đang đi đi lại lại như con báo trong chuồng. Và sở dĩ con người đó nói chuyện cũng chỉ vì hắn không được tự do. Lắng nghe lời lẽ của Jađôv, Êlizaveta Kievna mường tượng trông thấy một cuộc phi ngựa điên cuồng trên những cánh thảo nguyên, trong ánh lửa đốt nhà... Nàng hầu như nghe rõ những tiếng quát tháo, những tiếng ầm ầm của chiến trận, những tiếng gào hấp hối, những tiếng hát man dại.

25

Vào đầu mùa đông 1916, giữa lúc mọi người đang chán nản và đợi chờ một cách vô hy vọng, thì quân đội Nga, sau khi đào những con đường hầm rất sâu trong tuyết đã vượt qua những dãy núi đá đóng băng và đột ngột xông lên đánh chiếm pháo đài Erzêrum. Đó là vào lúc quân Anh bị thất trận ở Lưỡng Hà và trước thành Conxtantinôpôl, vào lúc ở mặt trận phía tây đang diễn ra trận chiến đấu kiên trì nhằm giành giật ngôi nhà của người đưa phà trên sông Izer, khi mà hễ giành được mấy thước đất thấm máu thì người ta đã coi đó như một thắng lợi đáng cho tháp Eiffel hối hả ấp úng loan tin đi khắp thế giới.
Trên mặt trận Áo, các đạo quân Nga dưới quyền chỉ huy của tướng Bruxilôv, cũng đột ngột chuyển sang tấn công quyết liệt.
Cả thế giới sửng sốt, xôn xao lên. Ở Anh xuất bản một cuốn sách nói về cái tâm hồn bí hiểm của người Nga. Quả thật, trái với ý thức lô-gích, sau một năm rưỡi chiến tranh, tàn phá, mất mười tám tỉnh, tinh thần quân đội và nhân dân đều suy sụp, kinh tế thì phá sản, chính trị thì rã rời, nước Nga lại xông lên phản công dữ dội trên khắp các chiến tuyến dài ba nghìn dặm. Một luồng sóng ngầm, đầy một sức lực mới mẻ và tựa hồ không bao giờ cạn, đã cuộn lên mãnh liệt.
Hàng chục vạn tù binh kéo thành từng đoàn dài dằng dặc được đưa về nội địa nước Nga. Nước Áo đã bị giáng một đòn chí mạng: hai năm sau nó đã tan ra thành từng mảng một cách dễ dàng, như cái nồi đất. Nước Đức bí mật giảng hòa. Đồng rúp lên giá. Trong lòng dân chúng lại nhen nhóm lên niềm hy vọng có thể dùng một đòn quân sự sấm sét để kết thúc chiến tranh. “Cái tâm hồn Nga” trở thành một đề tài thời thượng bậc nhất. Những chuyến tàu biển lớn chở hàng sư đoàn lính Nga đi. Những đoàn mu-gích quê ở Orel, Tula, Ryazan hát bài dân ca “Con chim họa mi xinh xinh” trên các phố Xalônic, Mácxây, Pari và lao như điên vào những cuộc tấn công giáp lá cà để cứu nền văn minh Âu châu.
Cuộc tấn công tiếp diễn suốt mùa hè. Luôn luôn có thêm những lứa tuổi mới được gọi ra lính. Những người mu-gích bốn mươi ba tuổi phải rời bỏ công việc đồng áng. Trong khắp các thành phố người ta thành lập những đơn vị bổ sung. Số lính mộ đã lên đến hai mươi bốn triệu. Trên đầu nước Đức và toàn châu Âu treo lơ lửng mối hiểm họa cổ truyền của những đợt xâm lăng ào ạt của những đạo quân châu Á.
Qua mùa hè năm ấy Moxkva vắng đi rất nhiều: chiến tranh, như một cái máy bơm, đã hút hết số dân cư nam giới. Nikôlai Ivanôvits đã ra mặt trận, ở Minxk. Đasa và Katya sống trong thành phố một cách thầm lặng và cách biệt với bên ngoài: công việc của họ rất nhiều. Thỉnh thoảng họ lại nhận được những tấm bưu thiếp ngắn ngủn và buồn rầu của Têlêghin: họ được biết rằng chàng đã trốn khỏi trại tù binh, nhưng đã bị bắt lại và bị chuyển sang giam trong một pháo đài.
Trong một thời gian nào đấy có một người khách rất dễ có cảm tình năng lui tới nhà hai chị em: đó là đại úy Rôtsin, được phái về Moxkva để tiếp nhận quân trang quân dụng. Có một hôm Nikôlai Ivanôvits đã mời đại úy từ trụ sở Liên minh thành thị về nhà trong chiếc xe hơi của ông. Từ đấy Rôtsin thỉnh thoảng lại ghé nhà chơi.
Cứ tối tối, vào lúc nhá nhem, cái chuông ngoài cửa trước lại réo lên. Êkatêrina Đmitrievna thở dài khe khẽ rồi đến cạnh tủ chè, múc mứt ra chiếc lọ con hay cắt chanh ra từng lát mỏng để cho vào trà. Đasa để ý thấy rằng mỗi khi, kế theo tiếng chuông ngoài cửa, Rôtsin xuất hiện trong gian phòng ăn, Katya không ngoảnh mặt về phía chàng ngay, mà còn chần chừ trong giây lát, rồi trên môi nàng hiện lên nụ cười dịu dàng quen thuộc. Vađim Pêtrôvits Rôtsin lặng lẽ cúi đầu chào. Chàng hơi gầy, có đôi mắt màu sẫm buồn buồn, mái đầu cân đối cạo nhẵn... Ngồi vào bàn, chàng thong thả kể lại những tin tức chiến sự, giọng từ tốn. Katya ngồi yên bên cạnh chiếc xamôvar, nhìn thẳng vào mặt chàng, và trong đôi mắt nàng, với hai đồng tử mở rộng, có thể thấy rõ rằng nàng đang nghe chàng nói một cách chăm chú đặc biệt. Bắt gặp đôi mắt nàng, gương mặt Rôtsin như thể hơi sa sầm xuống. Đôi cựa giày của chàng khẽ rung lên ở dưới bàn. Đôi khi bên bàn ăn có những phút im lặng kéo dài, rồi Katya chợt thở dài, và mặt đỏ ửng, nàng mỉm cười ngượng nghịu như người có lỗi. Khoảng mười một giờ Rôtsin đứng dậy, hôn tay Katya một cách kính cẩn, rồi hôn tay Đasa một cách lơ đãng và ra về, xin hai chị em đừng tiễn mình ra phòng ngoài làm gì. Trên phố vắng một hồi lâu vẫn còn nghe những bước chân rắn rỏi của chàng. Katya tráng lại tách đĩa, đóng tủ chè lại, và vẫn thế, không nói một câu nào, nàng trở về buồng riêng khóa cửa lại.
Một hôm vào lúc mặt trời lặn, Đasa ngồi bên cửa sổ mở rộng. Phía trên đường phố, mấy con chim én liệng rất cao. Đasa lắng nghe những tiếng chim kêu thanh thanh như tiếng thủy tinh và nghĩ rằng én bay cao thế này thì ngày mai sẽ nóng nực và quang đãng, và lại tự nhủ rằng những con chim này sung sướng thật, vì chúng chẳng biết gì về chiến tranh.
Mặt trời đã lấp dưới chân trời, và trên thành phố lơ lửng một lớp bụi vàng óng. Trong bóng hoàng hôn, có mấy người ra ngồi ở trước cổng hay bên thềm nhà họ. Đasa thấy lòng buồn rười rượi, cứ khắc khoải chờ mong một cái gì. Gần đâu đây có tiếng phong cầm quay vẳng lại, đượm nỗi chán chường muôn thuở của những buổi chiều hôm phố phường. Đasa chống khuỷu tay lên bậu cửa sổ. Một giọng phụ nữ hát rất cao, dâng lên đến tận những gian gác xép: “Ngày ấy bánh khô và nước lạnh đã nuôi tôi sống qua ngày...”
Từ phía sau, Katya rón rén đến cạnh chiếc ghế bành của Đasa và hình như cũng yên lặng lắng nghe.
- Katyusa ạ, hát hay quá nhỉ.
- Chúng ta có tội tình gì? - Katya bỗng thốt lên, giọng rất trầm, có một âm sắc hoang dã lạ lùng. - Vì sao chúng ta phải chịu nông nỗi này? Vì tội gì? Đến khi xong xuôi thì chị đã già mất rồi, em hiểu chứ? Chị không chịu được nữa đâu, không thể chịu được!... - Nàng thở hổn hển đứng tựa vào tường, cạnh bức màn cửa, mặt xanh xao, hai bên mép hằn lên mấy nếp nhăn, và nhìn Đasa với đôi mắt khô khan đã tối xẩm lại.
- Chị không chịu được nữa đâu! - nàng nhắc lại khe khẽ, giọng khản đặc. - Nó sẽ không bao giờ kết thúc đâu!... Chúng ta sẽ chết... chúng ta sẽ không bao giờ biết đến một niềm vui nữa... Em có nghe mụ ấy than hờ không? Mụ ấy chôn sống chúng mình...
Đasa ôm lấy Katya, vuốt ve nàng, cố an ủi nàng, nhưng Katya giơ hai khuỷu tay ra phía trước vùng vằng.
Ở phòng ngoài có tiếng chuông. Katya ẩy em ra và nhìn ra cửa. Rôtsin bước vào, mình mặc chiếc áo sơ mi dạ thô, chân đi ủng mới đánh xi. Chàng mỉm cười chào Đasa, đưa cánh tay cho Katya vịn và bỗng ngạc nhiên nhìn nàng rồi cau mày. Đasa lập tức bỏ vào phòng ăn. Trong khi dọn đồ trà lên bàn nàng nghe thấy Katya hỏi Rôtsin một cách rụt rè, nhưng vẫn với cái giọng trầm khàn khàn như ban nãy:
- Ông đi đấy à?
Rôtsin ho mấy tiếng rồi đáp gọn:
- Vâng.
- Mai?
- Không ạ, một giờ mười lăm phút nữa.
- Đi đâu?
- Về đơn vị ứng chiến. - Rồi im lặng một lát, chàng nói tiếp: - Số là thế này, Êkatêrina Đmitrievna ạ, chắc chúng ta gặp nhau lần này là lần cuối cùng, cho nên tôi đã quyết định nói rõ...
Katya hấp tấp ngắt lời chàng:
- Đừng, đừng... Tôi biết hết rồi... Mà ông cũng biết tôi thế nào rồi...
- Êkatêrina Đmitrievna, thế ra bà...
Giọng tuyệt vọng, Katya kêu lên:
- Vâng, đúng thế, ông cũng thấy rồi!... Tôi van ông - ông đi đi...
Cái chén run lên trong tay Đasa. Ngoài phòng khách im lặng một hồi lâu. Cuối cùng Katya nói rất khẽ:
- Ông đi đi, Vađim Pêtrôvits ạ.
- Xin từ biệt. Chàng thở hắt ra một hơi ngắn. Đôi ủng da kêu cót két, rồi có tiếng cánh cửa trước đóng sập lại. Katya đi vào phòng ăn, ngồi xuống bên bàn, hai tay ép chặt lên mặt.
Từ đấy, nàng không nhắc một câu nào về người đã ra đi nữa. Katya can đảm chịu đựng nỗi đau thương, tuy sáng sáng nàng thức dậy với đôi mắt đỏ hoe, đôi môi sưng húp. Trên đường đi, Rôtsin có gửi về một tấm bưu thiếp với mấy lời vắn tắt từ biệt hai chị em. Tấm thiếp được để trên lò sưởi, mấy con ruồi bay qua thường thích đậu vào đấy.
Chiều nào hai chị em cũng ra đại lộ Tverxkôi nghe nhạc, ngồi trên ghế dài nhìn những cô thiếu nữ và những cô bé mới chớm dậy thì mặc áo trắng, áo hồng đi dạo dưới mấy hàng cây. Đàn bà và trẻ em rất đông; thỉnh thoảng lắm mới thấy một quân nhân đi ngang, tay treo băng, hay một thương binh chống nạng. Một dàn nhạc hơi chơi bài valse “Trên những ngọn đồi Mãn-châu-lý”. Tu, tu, tu - tiếng kèn buồn bã dâng lên trong bầu trời chiều. Đasa cầm lấy bàn tay gầy yếu của Katya.
- Katyusa, Katyusa, - nàng nói, mắt nhìn đăm đăm ra chân trời rực ánh tà dương qua những khoảng hở giữa các cành cây, - chị có nhớ không:
Ôi, mối tình tôi sao mà dang dở
Trong lòng tôi niềm trìu mến nguội dần...
em tin rằng nếu chúng mình can đảm, chúng mình sẽ sống đến cái ngày mà tình yêu không còn đem lại đau thương cho con người nữa... Vì bây giờ chúng mình đã hiểu rằng trên đời này không có gì cao quí hơn tình yêu. Đôi khi em cứ có cảm tưởng: Ivan Ilyits sẽ từ trại tù binh trở lại về và sẽ trở thành người khác hẳn, hoàn toàn mới. Bây giờ em yêu anh ấy một cách cô đơn, với một tình yêu không có hình hài. Và chúng em sẽ gặp nhau như thể đã từng yêu nhau trong một kiếp khác.
Tựa má vào vai em, Êkatêrina Đmitrievna nói
- Còn chị thì trong lòng thấy đau xót và tối tăm quá, tim chị già cỗi lắm rồi, Đanyusa ạ. Em sẽ được thấy những ngày êm đẹp, còn chị thì chẳng còn mong được thế, cho đên khi tàn héo chị vẫn là một đóa hoa không kết quả.
- Katyusa, chị nói thế mà không ngượng mồm ư?
- Không, em bé ạ, phải can đảm nhìn vào sự thật!
Vào một trong những buổi chiều như thế, có một quân nhân đến ngồi ở đầu bên kia ghế dài.
Dàn nhạc đang chơi một bài valse cũ. Sau những hàng cây đã thấy thắp lên những đốm sáng mờ mờ của dãy đèn đường. Người mới đến ngồi nhìn hai chị em một cách chăm chú đến nỗi Đasa có một cảm giác khó chịu sau cổ. Nàng ngoảnh lại và bỗng hoảng sợ kêu lên khe khẽ:
- Vô lý!
Người ngồi bên cạnh nàng là Bexxônôv, tiều tụy, hốc hác, mặc chiếc áo nhà binh rộng thùng thình như cái bị, đầu đội mũ lưỡi trai có phù hiệu hồng thập tự. Hắn đứng dậy và lặng lẽ cúi đầu chào. Đasa nói “Chào ông” và mím chặt môi. Êkatêrina Đmitrievna ngả hẳn người ra lưng ghế, dưới bóng chiếc mũ của Đasa, và nhắm mắt lại, Bexxônôv hình như người phủ đầy bụi, hay đã lâu không được tắm rửa gì thì không biết, nhưng trông hắn như xám xịt lại.
- Tôi trông thấy cô trên đại lộ từ hôm qua, hôm kia, - hắn giương cao đôi mày nói với Đasa
- nhưng không dám đến... Tôi sắp ra trận. Cô thấy đấy, đến tôi họ cũng bắt đi nốt.
- Ông sắp ra trận là thế nào? Ông ở Hồng thập tự kia mà. - Đasa nói, tự dưng nổi cáu lên một cách đột ngột.
- Thì cứ cho là tương đối ít nguy hiểm hơn, dĩ nhiên như thế. Vả chăng, có thể chết hay không, điều đó đối với tôi không có chút nghĩa lý gì... Chán lắm, chán lắm, Đarya Đmitrievna, - hắn ngẩng đầu lên và đưa đôi mắt đục nhìn vào môi Đasa. - Lúc nào cũng toàn những xác chết, xác chết chán lắm.
Katya hỏi, mắt vẫn nhắm nghiền:
- Ông thấy chán vì thế?
- Vâng, chán vô cùng, Êkatêrina Đmitrievna ạ. Trước kia còn ít nhiều hy vọng... nhưng sau những xác chết liên miên ấy, đêm tận thế đã đến với tôi... Xác người và máu me, một cách hỗn mang. Thế thì đây... Đarya Đmitrievna ạ, thật ra, tôi đến đây là để xin cô vui lòng dành cho tôi nửa tiếng đồng hồ.
- Để làm gì? - Đasa nhìn thẳng vào mặt Bexxônôv, một gương mặt xa lạ, ốm yếu, rồi nàng chợt có một cảm giác rõ rệt đến nỗi choáng váng cả người: đây là lần đầu tiên nàng trông thấy con người này.
- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về những việc đã xảy ra ở Krưm. - Bexxônôv nhăn mặt nói nhanh. - Tôi mong được nói chuyện với cô một chút, hắn chậm rãi thò tay vào túi áo lấy hộp thuốc lá, - tôi mong có dịp xua tan một ấn tượng không lấy gì làm tốt đẹp...
Đasa nheo mắt lại: trên gương mặt ghê tởm nay không còn lấy một dấu vết nào của cái ma lực trước kia. Và nàng nói, giọng rắn rỏi:
- Tôi thiết tưởng ông với tôi không có chuyện gì phải nói với nhau cả. - Nàng quay đi. - Thôi chào ông, Alekxêy Alekxêvits ạ.
Bexxônôv mỉm một nụ cười mếu máo, nhấc mũ chào rồi bỏ đi. Đasa nhìn tấm lưng yếu ớt, đôi ống quần quá rộng như chỉ chực tuột xuống, đôi ủng nặng phủ đầy bụi của hắn. Có thật đây là Bexxônôv, vị hung thần đã từng ám ảnh những đêm trường trinh bạch của nàng không?
- Katyusa, chị ngồi đợi một chút, em trở lại ngay. - nàng nói vội vàng, rồi chạy theo Bexxônôv. Hắn đã rẽ sang một lối ngang. Đasa hổn hển chạy tới và nắm lấy ống tay áo hắn. Hắn dừng bước, quay lại và đôi mi mắt mỏng của hắn từ từ hạ xuống như mắt một con chim ốm.
- Alekxêy Alekxêyêvits, ông đừng giận tôi.
- Tôi thì tôi có giận gì đâu. Chính cô không muốn nói chuyện với tôi đấy chứ.
- Không phải đâu, không phải đâu... Ông hiểu sai rồi... Tôi hết sức quý ông, tôi rất mong cho ông được gặp mọi sự tốt lành... Nhưng những việc đã qua thì không có gì đáng nhắc nhở nữa, những cái trước kia bây giờ không còn lại được một chút gì... Tôi cảm thấy tôi có lỗi, tôi rất thương ông...
Bexxônôv nhún vai, mỉm cười nhìn về phía những người đi dạo ở xa xa sau lưng nàng.
- Xin cảm ơn cô về tình thương ấy.
Đasa thở dài. Giá Bexxônôv là một thằng bé con, nàng sẽ dẫn về nhà, đun nước nóng tắm rửa cho nó, lấy kẹo cho nó ăn. Còn cứ như thế này thì nàng còn biết làm cách gì được? Bexxônôv đã tự đặt ra cho mình một nỗi đau khổ, rồi cứ thế mà tự dằn dặt, giận dỗi, oán hờn.
- Alekxêy Alekxêyêvits ạ, nếu ông muốn, ông cứ viết thư hàng ngày cho tôi, tôi sẽ trả lời, - Đasa vừa nhìn vào mặt hắn, cố nhìn sao cho thật dịu dàng nhân hậu. Bexxônôv hất đầu ra phía sau và cất tiếng cười khô khan, một giọng cười bằng gỗ.
- Xin đa tạ... Nhưng bây giờ tôi ghê tởm giấy và mực lắm rồi... - hắn nhăn nhó như thể ăn phải cái gì chua lắm. - Đarya Đmitrievna ạ, hoặc cô là một bà thánh, hoặc cô là một con ngốc... Cô là một sự đọa đày mà địa ngục đã gửi trước lên cho tôi phải chịu đựng ngay trong sinh thời. Cô đã hiểu chưa?
Hắn toan bỏ đi, nhưng tựa hồ như không sao nhắc chân lên được. Đasa đứng im, đầu cúi gằm: nàng đã hiểu hết, nàng buồn lắm, nhưng lòng nàng vẫn nguội lạnh, Bexxônôv nhìn cái cổ cúi xuống, khoảng ngực mịn màng trinh bạch lộ ra ngoài cái cổ áo trắng xẻ rộng, và nghĩ rằng đây dĩ nhiên chính là cái chết.
- Cô hãy rộng lòng tha thứ, - hắn nói khẽ bằng một giọng giản dị, giọng nói của một con người.
Đasa không ngẩng đầu lên, thì thầm đáp nhanh:
- Vâng, vâng, - đoạn quay gót bước đi giữa mấy hàng cây.
Lần cuối cùng Bexxônôv đưa mắt tìm mái tóc vàng nhạt của nàng giữa đám đông. Nàng không ngoảnh lại. Hắn tỳ tay lên một thân cây, móng bấu vào lớp vỏ rêu phủ xanh rì, - mặt đất, nơi trú ẩn cuối cùng, đang sụt lở dưới chân.

26

Vầng trăng như một quả cầu sáng đục treo trên những đầm lầy than bùn hoang vắng. Sương mù đọng thành từng đám cuồn cuộn dọc những dãy chiến hào bỏ không. Khắp mặt đất nhan nhản những gốc cây cụt, đây đó lác đác những cây thông còi cọc màu đen sẫm. Không khí ẩm ướt và yên tĩnh. Trên dải đường lát gỗ hẹp bắc qua đầm lầy, đoàn xe tải thương chậm chạp lăn bánh, ngựa đi thành hàng một. Chiến tuyến chỉ cách đây độ ba dặm, phía sau cánh rừng im phăng phắc với những ngọn cây lởm chởm in bóng trên chân trời. Trong một chiếc xe giàn đi giữa đoàn tải thương, Bexxônôv nằm ngửa trên đống rơm khô, mình đắp một tấm chăn lót yên sực mùi mồ hôi ngựa. Đêm nào cũng vậy, từ lúc mặt trời lặn chàng bắt đầu lên cơn sốt, người ớn lạnh run bắn lên, răng đánh vào nhau côm cốp, mình mảy như thể khô rang đi; và những ý nghĩ trong sáng, nhẹ nhàng, phong phú màu sắc, cuồn cuộn diễn qua trong tâm trí, sôi sục lên một cách lạnh lùng. Chàng có cái cảm giác kỳ dị là thân thể chàng mất hẳn trọng lượng.
Kéo tấm chăn ngựa lên đến tận cằm, Alekxêy Alekxêyêvits nhìn lên bầu trời mờ sương đang lên cơn sốt hầm hập. Nó đây rồi, điểm tận cùng của cuộc hành trình trên trần thế: màn sương, ánh trăng, và chiếc xe giàn đang lắc lư như cái nôi. Thế là sau khi đã vượt một vòng qua các thế kỷ, loài người lại trở về với những chiếc bánh xe kẽo kẹt của người Scyth cổ đại. Và tất cả những gì đã từng có đều là những giấc chiêm bao: những ánh đèn Pêterburg, vẻ đẹp tráng lệ và nghiêm khắc của các tòa kiến trúc, tiếng nhạc trong những gian phòng ấm áp và sáng trưng, sức thu hút của tấm màn hí viện gợn sóng, sức quyến rũ của những đêm tuyết phủ, của những cánh tay phụ nữ buông soãi trên gối, của những đôi đồng tử tối sẫm điên rồ... Sức khích động của danh vọng... Chất men nồng đượm của vinh quang... Ánh sáng mờ mờ của phòng làm việc, một nhịp tim đập hân hoan, chất say sưa của những ngôn từ đang nẩy nở... Cô gái có những đóa hoa mẫu cúc đang bước nhanh từ ánh sáng rực rỡ của gian phòng ngoài vào căn buồng tối tăm của chàng, vào đời chàng... Đều là chiêm bao hết... Chiếc xe giàn lắc lư... Một người mu-gich bước bên cạnh, mũ lưỡi trai đội sụp xuống tận mắt: đã hai nghìn năm nay hắn vẫn bước như thế bên cạnh chiếc xe giàn này... Và đây, mở rộng trong làn sương thấm ướt ánh trăng, cái không gian vô tận của thời gian... Từ trong đêm trường của các thế kỷ hiện ra những bóng đen; những chiếc xe giàn kêu cót két, vạch lên khắp trái đất những vết bánh xe đen ngòm. Và ngoài kia, trong làn sương mù trắng đục, là những cái ống lò sưởi nhô lên giữa đống hoang tàn, những cột khói cháy nhà đang dâng lên đến tận trời xanh, và tiếng bánh xe kêu kẽo kẹt, lăn lộc cộc trên đường. Và tiếng kẽo kẹt, tiếng lộc cộc to dần lên, tỏa rộng ra, và khắp bầu trời tràn đầy một tiếng ầm ầm dữ dội rung chuyển cả linh hồn...
Bỗng chiếc xe giàn đứng lại. Qua tiếng ầm ầm tràn đầy đêm trắng có thể nghe thấy những giọng nói hốt hoảng của mấy người đi áp tải. Bexxônôv nhổm người lên. Không cao lắm, ở phía trên khu rừng, dưới ánh trăng, một cái cột dài với những cạnh khế sáng loáng, đang từ từ trôi qua. Nó quay trở lại, sáng óng ánh, các động cơ rú lên, và từ dưới bụng nó chiếu ra một tia sáng mảnh màu trắng xanh rọi xuống đầm lầy, lướt qua những gốc cây cụt, những thân cây đổ, lướt qua khóm rừng thông và dừng lại trên con đường cái, trên đoàn xe.
Xen vào tiếng ầm ầm của động cơ có những âm thanh yếu ớt như tiếng một chiếc đồng hồ đánh nhịp chạy rất nhanh... Những người ngồi trên các xe giàn đều nhảy xuống đất. Một chiếc xe tải thương hai bánh tụt xuống đầm và đổ kềnh ra... Rồi cách Bexxônôv một trăm thước, trên đường cái bùng lên một chùm ánh sáng chói lòa, tung cao một chiếc xe và một con ngựa lên không trung thành một dúm đen đen, một cột khói lớn bốc lên; và cả đoàn xe tan tác đi dưới trận giông bão sấm sét. Mấy con ngựa kéo đầu xe phi tứ tung trên đầm lầy, người chạy tán loạn. Chiếc xe giàn Bexxônôv đang nằm bị xô nghiêng về một bên rồi đổ ụp xuống, và Bexxônôv lăn ra vệ đường, tụt xuống một cái rãnh, một cái bị nặng rơi đánh phịch một cái trên lưng, rơm phủ kín cả người chàng.
Chiếc khinh khí cầu Zeppelin ném thêm một quả bom nữa, rồi tiếng động cơ xa dần, và im hẳn. Bexxônôv hì hục rẽ đống rơm phủ trên người, khó nhọc trườn ra khỏi những đồ đạc lổng chổng ở phía trên, phủi sạch những rác rưởi bám trên người rồi leo lên đường cái. Ở đây có mấy chiếc xe giàn nằm nghiêng, phần phía trước đã bị ngựa kéo đi mất: trên đầm lầy một con ngựa nằm giữa hai cái càng xe không, đầu hất ngược ra phía sau; chân sau nó cứ giật giật từng đợt rất đều như cái máy đã lên dây cót.
Bexxônôv sờ lên mặt và lên đầu; ở chỗ gần tai thấy nhơm nhớp. Chàng lấy khăn mùi soa bịt chỗ bị xước và theo đường cái đi về phía khu rừng. Vì sợ và vì ngã đau, hai chân chàng run mạnh đến nỗi mới đi được mấy bước chàng đã phải ngồi xuống một đống đá dăm lởm chởm đổ bên đường. Chàng thấy thèm một hớp cô-nhắc, nhưng cái bình toong đã bị vướng vào các thứ đổ lổng chổng dưới rãnh rồi. Bexxônôv khó nhọc rút trong túi ra một cái tẩu, lấy que diêm và châm thuốc hút. Khói thuốc lá đắng nghét và lờm lợm. Lúc bấy giờ chàng mới nhớ là mình đang sốt. Gay go quá, bây giờ phải cố đi cho kỳ được đến khu rừng: nghe nói ở đấy có một trận địa pháo. Bexxônôv đứng dậy, nhưng chân đã tê dại hẳn như đi chân gỗ, chỉ có phần trên háng hơi cử động. Chàng lại ngồi xuống đất và bắt đầu xoa, bóp, kéo. Được một lát, cấu đã thấy đau chàng đứng dậy thất thểu bước đi.
Trăng bây giờ đã lên cao, con đường chạy ngoằn ngoèo trong sương mù qua khoảng đầm lầy hoang vắng, tưởng chừng như không bao giờ hết được. Hai tay vịn vào thắt lưng, khó nhọc nhấc từng chân một và kéo lê đôi ủng nặng hàng chục cân, Bexxônôv vừa loạng choạng bước đi vừa lẩm bẩm một mình:
“Lê đi, lê đi cho đến khi nào bị bánh xe nghiến nát... Mày làm mấy bài thơ rồi, mày quyến rũ mấy mụ đàn bà khờ khạo... Chúng nó tóm cổ mày vứt ra: lết về phía tây, cho đến khi nào gục xuống... Mày có muốn phản kháng, cứ tha hồ. Phản kháng đi, kêu gào đi... Cứ thử xem, thử xem, gào cho thật khiếp vào, gào to lên đi...”
Bexxônôv bỗng quay lại. Một cái bóng xám từ trên đường cái trườn xuống... Chàng thấy lạnh toát cả sống lưng. Chàng cười nhạt, rồi miệng nói to lên những câu đứt đoạn, vô nghĩa, chàng lại bước đi khệnh khạng ở giữa mặt đường... Được một lát chàng thận trọng ngoảnh lại nhìn; quả nhiên, cách chàng khoảng năm mươi bước, một con chó đầu to, chân dài đang đi theo chàng.
- Có ma nó biết thế là cái quái gì! - Bexxônôv lẩm bẩm. Chàng rảo bước đi nhanh hơn và lại ngoái cổ nhìn lại. Có cả thảy năm con đang nối đuôi nhau đi sau lưng chàng, mõm chúi xuống đất, màu lông xám xịt, mông oằn xuống, Bexxônôv nhặt một hòn đá ném chúng: - Này thì theo!... Cút đi, lũ quái vật!
Mấy con chó lẳng lặng nhảy xuống đầm lầy. Bexxônôv nhặt một nắm đất, thỉnh thoảng dừng lại ném vào đàn chó. Rồi chàng lại tiếp tục bước đi, chốc chốc lại huýt, gọi: “Êu, êu!” Đàn chó leo lên đường cái và lại nối đuôi nhau đi theo chàng.
Con đường cái bắt đầu đi qua một khóm rừng thông non. Đến một chỗ ngoặt, Bexxônôv trông thấy ở phía trước có một bóng người. Bóng người dừng lại nhìn về phía chàng một lát, rồi từ từ lùi vào trong bóng tối của khóm rừng thông.
- Quỷ quái! - Bexxônôv thì thầm, đoạn cũng lùi vào chỗ tối và đứng yên một hồi lâu, cố ghìm bớt trống ngực đang đập thình thình. Mấy con chó cũng đứng lại cách đấy một quãng. Con đi đầu nằm xuống, ghếch mõm lên hai chân trước. Người kia vẫn không thấy nhúc nhích. Bexxônôv trông thấy rất rõ nét một đám mây dài, trắng nhờ nhờ như một cái màng đang trườn vào mặt trăng. Rồi chợt nghe một tiếng động sắc nhọn nhói vào óc như một mũi kim: một cành khô gãy đánh rắc một tiếng, chắc là bị người kia dẫm lên. Bexxônôv liền ra chính giữa đường và bước tới, hai nắm tay giận dữ siết chặt lại. Cuối cùng, ở bên phải, chàng trông thấy hắn: đó là một người lính cao lớn, hơi gù, vai khoác áo ca-pốt. Khuôn mặt dài, không có lông mày của hắn trông như một xác chết -nước da xám ngoét, miệng hé mở. Bexxônôv quát:
- Ê, anh kia, trung đoàn nào?
- Pháo đội hai.
- Anh đưa tôi về đội pháo một chút.
Người lính lặng thinh, không nhúc nhích, đôi mắt đục lờ nhờ nhìn Bexxônôv, rồi hất đầu sang phía trái hỏi:
- Những con gì thế kia?
- Chó đấy mà, - Bexxônôv sốt ruột đáp.
- Không phải đâu, không phải chó...
- Nào đi thôi, anh quay trở lại, dẫn tôi đi.
- Không, tôi không đi, - người lính nói khẽ.
- Này anh, tôi bị sốt, anh làm ơn dẫn tôi đi một tí, tôi sẽ cho tiền.
- Không, tôi không về đấy đâu, - người lính to tiếng lên, - tôi đào ngũ rồi.
- Đồ ngu, người ta sẽ bắt anh lại.
- Cũng có thể.
Bexxônôv liếc nhìn qua vai: mấy con chó đã đi đâu mất, chắc là chạy vào rừng thông.
- Từ đây đến trận địa pháo có xa không?
Người lính không đáp. Bexxônôv quay lại toan đi thì người lính nắm ngay lấy khuỷu tay chàng: bàn tay hắn chắc như gọng kìm.
- Không được đâu, anh đừng đi đến đấy.
- Buông tay ra.
- Tôi không buông! - Vẫn giữ chắc lấy tay Bexxônôv, người lính nhìn về phía xa, qua khóm rừng thông. - Tôi không ăn đã ba hôm nay... Lúc nãy tôi ngồi ngủ gật duới rãnh, chợt nghe có tiếng bước... Tôi nghĩ bụng chắc đơn vị đang hành quân. Tôi nằm xuống. Họ đi đông lắm, bước đều nhịp trên đường cái. Lạ thật. Tôi ở dưới rãnh nhìn lên thì thấy cả đoàn đều quấn khăn liệm, kéo đi một lũ dài dằng dặc mãi không hết... Tràn trề như sương mù ấy.
- Nói cái gì thế hở? - Bexxônôv thét lên giọng man dại, và vùng ra.
- Tao nói là đúng, mày phải tin chứ, đồ khốn nạn!...
Bexxônôv giằng tay ra và bỏ chạy, nhưng chân cứ làm như bằng bông, chẳng phải chân mình nữa. Người lính ì ạch chạy theo, hơi thở nặng nhọc, và nắm lấy vai Bexxônôv. Chàng ngã xuống, lấy hai tay che kín cổ và che mặt. Người lính vừa thở phều phào vừa chồm lên người chàng, luồn mười ngón tay cứng đét quanh cổ chàng, bóp chặt lại và cứ trơ ra, giữ nguyên như thế một hồi lâu.
- Ra mày như thế đấy, mày là thế đấy! - người lính thì thào qua kẽ răng. Khi thân thể người nằm dưới đất rung lên một đợt dài, rướn thẳng ra, rồi rũ rượi như thể muốn xẹp xuống lớp bụi đường, người lính buông ra đứng dậy, nhặt chiếc mũ lưỡi trai và bỏ đi không ngoái lại nữa. Đi được mấy bước trên đường cái, hắn bỗng lảo đảo, lắc đầu rồi ngồi bệt ra đất, hai chân buông thõng xuống cái rãnh bên đường.
- Bây giờ biết làm thế nào, biết đi đâu? - người lính nói một mình. - Trời ơi, tôi chết mất!... Đến mà nhai tươi nuốt sống ta đi, quân khốn nạn!...

27

Ivan IIyits Têlêghin đã trốn ra khỏi trại tù binh, nhưng lại bị bắt. Họ chuyển chàng đến một pháo đài và giam chàng ở một buồng ngục riêng. Ở đấy chàng lại mưu đồ một cuộc vượt ngục thứ hai và suốt sáu tuần lễ đã ngấm ngầm cưa chấn song sắt ở cửa sổ buồng giam. Bất kỳ vào giữa mùa hè họ chuyển cả nhà ngục đi nơi khác, và Têlêghin, với tư cách là một tù binh nguy hiểm, bị giam vào một nơi mệnh danh là “Hố ruỗng”. Đó là một nơi tiêu điều và ghê sợ: giữa một khoảng đất rộng trũng thành lòng chảo, trên cánh đồng than bùn, dựng lên bốn dãy nhà lán có hàng rào dây thép gai bao bọc. Xa xa, cạnh một dãy đồi, nơi có mấy cái ống khói bằng gạch nhô lên, là điểm xuất phát của một con đường sắt hẹp. Hai đường ray han rỉ chạy dài suốt cánh đồng lầy và kết thúc cách mấy cái nhà lán không xa, bên cạnh cái hố sâu - công trường khai thác cũ, nơi mà năm ngoái đã có năm nghìn lính Nga bị chết vì thương hàn kiết lỵ. Ở phía bên kia cánh đồng mầu vàng hung, dãy Karpat tím ngắt nhấp nhô ở chân trời.
Phía bắc các nhà lán, rất xa trên cánh đồng lầy, lố nhố cả một rừng chữ thập bằng gỗ thông, Vào những ngày nồng nực hơi đất bốc nghi ngút trên cánh đồng, ruồi trâu bay vo ve, và mặt trời màu đỏ đùng đục gieo sự ruỗng mục xuống cái nơi vô vọng này. Ở đây tù binh phải chịu đựng một chế độ rất khắc nghiệt, đói khổ, hết một nửa đau dạ dày, sốt, mọc ung nhọt hay bị lở loét. Ấy thế nhưng tinh thần của họ vẫn phấn chấn: Bruxilôv đang tiến quân như vũ bão, quân Pháp đã thắng quân Đức ở Sampanh, Verđoong, quân Thổ-nhĩ-kỳ đã quét sạch vùng tiểu Á. Chiến tranh bây giờ hình như đã nhích gần đến chỗ kết thúc thật sự.
Nhưng mùa hè đã trôi qua, mùa mưa bắt đầu, Bruxilôv không chiếm được Krakôv cũng không giành lại được Lvôv. Những trận huyết chiến trên mặt trận Pháp im ắng dần. Hai khối đồng minh tham chiến đang ngừng tay để liếm vết thương. Có thể thấy rõ rằng cuộc chiến tranh lại sẽ kéo dài đến mùa thu sang năm. Lúc bấy giờ trong “Hố ruỗng” mới bắt đầu có tình trạng tuyệt vọng. Vixkôbôinikôv, người nằm sát cạnh Têlêghin, bỗng dưng không cạo râu, không tắm rửa gì hết, hết ngày này qua ngày khác cứ nằm dài trên cái giường ván bừa bộn, ai hỏi gì cũng không buồn trả lời. Thỉnh thoảng lắm anh ta mới đứng dậy, nhăn nhó, rồi hằn học gãi sồn sột khắp người. Trên người anh bắt đầu có những đám đo đỏ khi thì hiện lên, khi thì lại lặn đi. Có một lần đang đêm anh ta đánh thức Têlêghin dậy và nói, giọng trầm trầm.
- Têlêghin, anh có vợ chưa?
- Chưa.
- Tôi thì có vợ và con gái ở Tver. Sau này về được, nhờ anh đến thăm vợ con tôi một chút.
- Thôi, ngủ đi.
- Tôi sẽ ngủ say lắm đấy ông bạn ạ.
Sáng hôm sau, khi điểm danh, không thấy Vixkôbôinikôv trả lời. Người ta tìm thấy xác anh lủng lẳng ở chỗ đi ngoài, cổ thắt một sợi nịt da mảnh. Cả trại nhốn nháo lên. Tù binh chen chúc nhau quanh cái xác đặt nằm giữa sàn. Cây đèn lồng soi xuống gương mặt méo xệch đi vì đau đớn khủng khiếp và những vết gãi xước cả da trên ngực, dưới vạt áo sơ mi rách tả tơi. Cây đèn hắt ra một ánh sáng bẩn. Mặt những người đang sống cúi trên xác chết đều phù thủng vàng vọt, thiểu não. Một trong những người ấy, thượng tá Melsin, quay mặt vào phía trong lán và nói lớn:
- Thế nào, các bạn, ta cứ làm thinh mãi hay sao?
Trong đám tù binh, qua những dãy giường có tiếng lầm rầm truyền đi. Bỗng cánh cửa vào mở tung ra, và viên sĩ quan Áo chỉ huy trại bước vào lán. Đám đông giãn ra chừa lối cho hắn đi tới cạnh xác chết, rồi lập tức có những tiếng nói gay gắt vang lên:
- Không thể làm thinh được!
- Chúng nó hành hạ người ta đến nước này!
- Chúng nó có chủ trương như thế.
- Tôi nữa, tôi cũng đang mục ruỗng ra đây này!
- Chúng ta không phải là tù khổ sai.
- Chúng mày chưa no đòn đâu, quân chết tiệt...
Viên trại trưởng kiễng chân lên quát:
- Câm ngay! Tất cả về chỗ! Lũ chó Nga kia!
- Sao? nó nói cái gì?
- Chúng ta là lũ chó Nga à?
Lập tức có một người to ngang, râu ria xồm xoàm, lách đến trước mặt viên trại trưởng. Đó là thượng úy Jukôv. Giơ nắm tay dí vào tận mắt viên sĩ quan Áo, ngón tay cái thò ra, anh ta quát lớn, giọng như nấc lên:
- Mày đã bao giờ trông thấy cái thoi loi này của tao chưa đồ chó đẻ, đã trông thấy chưa? - Rồi lắc lư cái đầu bù xù Jukôv nắm lấy hai vai viên trại trưởng lay dữ dội làm cho hắn ngã ngửa ra, rồi cũng ngã sấp lên người hắn.
Các sĩ quan đang chen chúc quanh hai người đều im lặng. Nhưng vừa lúc ấy có tiếng giày chạy rầm rập trên sàn ván: lính Áo tới. Viên trại trưởng kêu lên “Cứu tôi với!”. Bấy giờ Têlêghin liền xô các bạn ra nói: “Các anh điên rồi sao, anh ấy bóp cổ hắn chết mất!”, đoạn nắm lấy hai vai Jukôv giằng ra khỏi viên sĩ quan Áo.
- Ông là một thằng khốn nạn! - chàng nói với hắn bằng tiếng Đức.
Jukôv thở hổn hển. Anh nói khẽ:
- Buông ra, tôi cho nó một trận - “chó Nga” phỏng?
Nhưng viên trại trưởng đã đứng dậy, đội cái mũ kê-pi nhàu nát lên, nhìn rất nhanh và rất chăm chú vào mặt Jukôv, Têlêghin, Melsin và hai ba người nữa đứng cạnh họ như để ghi nhớ lấy, rồi hùng dũng bước ra khỏi lán, cựa giầy kêu loảng xoảng. Cửa lán lập tức đóng chặt lại, và hai tên lính canh được đặt ở lối ra vào.
Sáng hôm ấy không có điểm danh, không có hồi trống tập hợp, không có cà phê hạt sồi. Vào khoảng giữa trưa có mấy người lính Áo đem cáng vào khiêng xác Vixkôbôinikôv đi. Cửa lại đóng kín. Mấy tù binh đi đi lại lại giữa cái giường ván, nhiều người nằm dài ra. Trong lán im phăng phắc. Sự tình đã rõ lắm rồi: nổi loạn, hành hung - thế nào cũng phải ra tòa án binh.
Ivan IIyits mở đầu ngày hôm ấy y như thường lệ, không vi phạm mảy may những quy tắc mà chàng đã tự đề ra và đã thực hiện trong hơn một năm nay: sáu giờ sáng chàng ra bơm một xô nước đỏ cạch ra dội, lấy khăn xát khắp người, tập một trăm linh một động tác thể dục, chú ý sao cho gân cốt kêu răng rắc lên, rồi mặc quần áo, cạo râu, và vì hôm nay không có bữa cà-phê, cho nên chàng đành bụng đói vào học ngữ pháp tiếng Đức.
Gay go nhất, có sức hủy hoại nhất trong cảnh giam cầm là tình trạng bế tắc về sinh dục. Nhiều người đã vì thế mà mất thăng bằng: có một anh bỗng dưng quay ra đánh phấn, tô mắt và tô lông mày, suốt ngày thủ thỉ với một anh khác cũng phấn sáp như thế, lại có một anh nữa tránh hết các bạn bè, nằm ườn ra, đầu rúc vào mớ giẻ rách, chẳng buồn rửa ráy giặt giũ gì nữa. Cũng có người quay ra nói tục, bạ ai cũng bíu lấy kể những chuyện dơ dáy và cuối cùng đã làm một việc dâm ô kỳ quái đến nỗi phải đưa anh ta đi bệnh xá.
Để đối phó với tình trạng đó chỉ có một cách cứu vãn: khổ hạnh. Qua một thời gian bị cầm tù Têlêghin đâm ra lầm lì; thân thể chàng với những bắp thịt rắn chắc như một bộ giáp, nay đã sắt lại, có những động tác gãy gọn, trong đôi mắt chàng hiện lên một ánh thép lạnh lùng, gan góc, vào những phút tức giận đôi mắt ấy rất đáng sợ.
Hôm nay Têlêghin ôn lại kỹ hơn mọi hôm những từ ngữ Đức chép từ hôm qua và giở cuốn sách nhàu nát của Spilhagen ra. Jukôv ngồi ghé vào giường chàng. Têlêghin không ngoảnh lại, tiếp tục đọc khe khẽ. Jukôv thở dài nói:
- Ivan IIyits ạ, tôi định ra tòa sẽ giả vờ điên.
Têlêghin đưa mắt nhìn Jukôv rất nhanh. Gương mặt hiền lành của Jukôv, với nước da hồng hồng, cái mũi tẹt, đôi môi mềm và ấm loáng thoáng sau bộ râu quăn rối bù, lúc bây giờ cúi gằm xuống, ngượng ngùng như người phạm lỗi; hai hàng lông mi vàng cứ chớp chớp.
- Tự nhiên đi dúi cái thoi loi vào mặt nó! Bây giờ chính tôi cũng chẳng biết lúc ấy tôi muốn chứng minh cái gì. Ivan IIyits ạ, tôi hiểu lắm: dĩ nhiên là tôi sai... Tôi đã nổi khùng lên, làm lụy đến các bạn... Bây giờ tôi định thế đấy: tôi sẽ giả vờ điên... Anh có tán thành không?
- Jukôv ạ, - Ivan IIyits vừa đáp vừa đút ngón tay vào giữa cuốn sách để khỏi lẫn trang, - đằng nào chúng nó cũng đem bắn vài người trong bọn ta... Anh có biết điều đó không?
- Có, tôi có hiểu.
- Thế thì ra tòa đừng giở trò gì cả là hơn... Anh thấy thế nào?
- Đúng thế thật, dĩ nhiên là đúng.
- Trong các bạn không ai buộc tội anh hết. Có điều cái thú được choảng vỡ mặt thằng Áo phải trả giá quá đắt.
- Ivan IIyits! Anh không biết chứ tôi rất khổ tâm vì đã làm liên lụy đến các bạn, tôi khổ tâm quá! - Jukôv lắc mái đầu bờm xờm - Ước gì chúng nó chỉ xử một mình tôi.
Anh ta còn nói đại loại như thế một hồi lâu, nhưng Têlêghin không nghe nữa, tiếp tục đọc Spilgahen. Rồi chàng đứng dậy vươn vai, khớp kêu răng rắc. Vừa lúc ấy cánh cửa ngoài vụt mở, và bốn tên lính Áo cầm súng cắm lưỡi lê bước vào đứng hai bên cửa sổ, lên cò lách cách. Một viên thượng sĩ, mặt hầm hầm, một bên mắt bịt băng đen, đưa con mắt kia nhìn khắp lán một lượt và cất cái giọng đanh ác gọi:
- Thượng úy Jukôv, thượng tá Melsin, thiếu tá Ivanôv, thiếu úy Ubêykô, chuẩn úy Têlêghin...
Những người bị gọi tên bước ra. Viên thượng sĩ chăm chú quan sát từng người một, bốn người lính vây xung quanh họ và đưa họ qua sân đến một ngôi nhà nhỏ bằng ván - văn phòng trại trưởng. Trước ngôi nhà có một chiếc xe hơi nhà binh đổ. Xe này vừa mới đến cách đây không lâu: mấy cái khung chằng dây thép gai vẫn còn mở rộng. Bên cạnh cái chòi canh sơn sọc chéo, một tên lính canh đứng im phăng phắc. Trong chiếc xe hơi, người tài xế trẻ măng, trông như con nít, có đôi mắt sưng húp, ngồi thưỡn người ra trên chiếc ghế. Têlêghin lấy khuỷu tay hích nhẹ vào thượng tá Melsin đang đứng cạnh chàng.
- Anh biết lái xe chứ?
- Biết, thì sao?
- Im!
Người ta đưa họ vào phòng chỉ huy. Sau cái bàn gỗ thông trải một tấm giấy thấm màu hồng, có ba viên sĩ quan Áo cấp tá mới đến đang ngồi đợi họ. Một viên sĩ quan cằm cạo nhẵn màu biêng biếc, đôi má núc ních có những cái vệt đỏ thẫm, đang hút điếu xì-gà. Têlêghin nhận thấy hắn cũng chẳng buồn nhìn những người mới vào nữa. Hai tay hắn đặt trên bàn, ngón tay đan vào nhau, múp míp và lông lá, mắt nheo nheo lại vì cay khói thuốc xì-gà, cổ áo chật ních bấm sâu vào da cổ.
“Tên này có sẵn bản tuyên án rồi” - Têlêghin nghĩ bụng.
Viên sĩ quan ngồi giữa, đóng vai chánh án, là một lão già gầy đét có khuôn mặt dài và buồn với những nếp nhăn thưa thớt được cọ rửa rất sạch, để bộ ria mép bạc trắng xốp như bông. Một bên lông mày lão giương cao lên vì cái kính một mắt. Lão chăm chú nhìn lần lượt mấy người bị cáo, và cuối cùng con mắt xám được cái kính phóng đại lên chuyển sang nhìn Têlêghin - một con mắt trong sáng, thông minh và hiền từ. Bộ ria của lão run run lên, một thoáng.
“Hỏng bét rồi” - Ivan IIyits nghĩ thầm rồi nhìn sang viên sĩ quan thứ ba có đôi kính đồi mồi để trước mặt, trên một tờ giấy đôi viết đầy những chữ nhỏ li ti. Đó là một người thấp lùn, nước da màu vàng xi xỉn, bộ tóc cứng húi bàn chải, hai tai to như hai cái bánh tai voi. Tướng mạo của hắn rõ ràng là tướng mạo một gã võ biền thâm niên bất đắc chí.
Khi mấy người bị cáo đứng xếp thành hàng trước mặt bàn, hắn thong thả đeo đôi kính mắt tròn lên, đưa lòng bàn tay khô đét vuốt vuốt lên mặt tờ giấy viết chi chít, và đột nhiên hắn há mồm đọc bản cáo trạng, để lộ hàng răng giả vàng khè.
Bên cạnh bàn, viên chỉ huy trại, nạn nhân vụ hành hung, ngồi cau mày, môi mím chặt. Têlêghin cố tập trung sức chú ý để nghe những lời cáo trạng, nhưng trái với ý muốn của chàng, trí óc của chàng, cứ làm việc rất căng, rất gấp theo một hướng khác.
“... Khi xác người tự tử được đưa vào lán, một số tên Nga đã lợi dụng dịp này để khích động các bạn tù, xúi giục họ công khai chống lại nhà chức trách và bắt đầu quát những câu thô lỗ và láo xược, vừa quát vừa vung quả đấm lên để hăm dọa. Trong tay tên thượng tá Melsin lúc bấy giờ có cầm một con dao nhíp mở sẵn...”.
Nhìn ra cửa sổ, Têlêghin trông thấy tên lái xe trẻ măng đang thò ngón tay vào ngoáy lỗ mũi, rồi quay nghiêng người trên ghế xe và kéo sụp cái lưỡi trai to tướng trên mũ xuống lấp cả mặt. Hai tên lính thấp bé vai khoác áo ca-pốt xanh đến tận chiếc xe hơi, đứng ngắm nghía một lúc. Một tên ngồi xổm xuống lấy ngón tay sờ chiếc lốp xe. Rồi cả hai quay ra: một chiếc xe bếp đang đẩy vào sân; từ cái ống khói, một làn khói thanh thản bốc lên. Chiếc xe bếp quay về phía trại lính, và những tên lính đứng ngoài sân cũng uể oải đi về phía ấy. Tên lái xe không ngẩng đầu lên, cũng không quay lại: hắn ngủ rồi. Têlêghin sốt ruột cắn môi, rồi lại lắng nghe tiếng nói như cưa gỗ của viên công tố:
“... Viên thượng úy Jukôv nói trên, vốn có ý định rõ ràng uy hiếp tính mạng của ngài trại trưởng, trước đó đã đưa ra trước mặt ngài năm ngón tay gấp lại thành quả đấm, trong đó ngón cài thò ra giữa ngón trỏ và ngón giữa; cái cử chỉ khả ố này rõ ràng là nhằm mục đích bôi nhọ danh dự của quân phục hoàng gia...”.
Nghe đến đây viên trại trưởng đứng dậy, và mặt nổi lên những đám đo đỏ, hắn bắt đầu cắt nghĩa cho các quan tòa nghe câu chuyện khó hiểu về năm ngón tay của viên thượng úy. Còn Jukôv, vốn nghe tiếng Đức không thạo, đem hết sức bình sinh ra cố nghe cho hiểu, cứ bứt rứt muốn chen vào một câu, mặt liếc nhìn các bạn với một nụ cười nhẫn nhục, ngượng nghịu trên môi, rồi cuối cùng không nén được nữa, anh ta thốt lên bằng tiếng Nga, nói với viên công tố:
- Thưa ngài đại tá, xin phép báo cáo với ngài, tôi muốn nói với trại trưởng: vì tội gì mà ông đối xử với chúng tôi như thế? Nhưng vì tôi không biết tiếng Đức cho nên tôi phải giơ ngón tay ra hiệu cho ông ta hiểu.
- Im đi Jukôv, - Têlêghin nói qua kẽ răng.
Viên chánh án gõ cây bút chì lên bàn. Viên công tố đọc tiếp.
Sau khi miêu tả cụ thể Jukôv đã túm lấy viên trại trưởng ở chỗ nào và “xô ngài ngã xuống, dùng hai ngón tay cái ấn vào họng ngài nhằm mục đích gây nên án mạng”, viên đại tá chuyển sang điểm tế nhị nhất của bản cáo trạng: “Tù binh Nga dùng cách xô đẩy và reo hò để xúi giục kẻ sát nhân: một trong bọn họ, cụ thể là chuẩn úy Johann Têlêghin, khi nghe tiếng chân của mấy người lính đang chạy đến, đã xông tới chỗ đang diễn ra sự biến, kéo Jukôv ra, và chỉ có một giây đồng hồ ngăn cách ngài trại trưởng với sự kết thúc bi đát thiệt đến tính mạng của ngài”, - Đọc đến chỗ này công tố viên ngừng lại nở một nụ cười hả hê tự mãn. - “Nhưng đúng vào khoảnh khắc này các chiến sĩ trực tinh đã xuất hiện, và chuẩn úy Têlêghin chỉ còn đủ thì giờ quát vào nạn nhân hai chữ “khốn nạn”.
Sau đó là một đoạn phân tích tâm lý học sắc sảo tài tình về hành động của Têlêghin “mà ta biết là đã hai lần mưu toan vượt ngục...”. Đại tá buộc tội một cách tuyệt đối Têlêghin, Jukôv và Melsin là kẻ đã xúi giục mưu sát bằng cách vung con dao nhíp lên. Để cho lời buộc tội thêm phần hiệu lực, đại tá còn thanh minh cho Ivanôv và Ubêykô “vốn hành động trong trạng thái mất tự chủ”. Sau khi nghe đọc, viên trại trưởng xác nhận rằng sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Họ hỏi cung mấy tên lính; chúng khai rằng ba người bị cáo nói trên quả đã phạm tội, còn về hai người kia thì chúng không biết được gì. Viên chánh án xoa xoa hai bàn tay gầy guộc đề nghị miễn buộc tội Ivanôv và Ubêykô vì không đủ tang chứng. Viên sĩ quan đỏ mặt, lúc bây giờ đã hút gần hết điếu xì gà, gật đầu; viên công tố, sau một phút phân vân, cũng đồng ý. Hai trong số bốn tên lính áp giải liền khoác súng lên vai. Têlêghin nói: “Vĩnh biệt các bạn”. Ivanôv cúi đầu. Ubêykô im lặng, kinh hãi nhìn chàng.
Lính đưa họ ra ngoài, và viên chánh án cho các bị cáo nhân phát biểu.
- Anh có nhận là đã phạm tội xúi giục nổi loạn và mưu sát trại trưởng không? - Lão hỏi Têlêghin.
- Không.
- Vậy thì cụ thể anh muốn nói gì về việc này?
- Bản cáo trạng từ đầu chí cuối chỉ là một lời vu khống hoàn toàn.
Viên trại trưởng nổi xung đứng bật dậy đòi phải chứng minh. Viên chánh án ra hiệu ngăn lại.
- Anh có gì bổ sung vào lời tuyên bố đó nữa không.
- Không.
Têlêghin lùi ra khỏi bàn và nhìn chằm chặp vào Jukôv. Jukôv đỏ mặt, thở phì phò, và khi bị hỏi thì nhắc lại lời Têlêghin đúng từng chữ. Melsin cũng trả lời như vậy. Viên chánh án nghe họ trả lời, hai mắt mệt mỏi nhắm lại. Cuối cùng ba viên quan tòa đứng dậy sang phòng bên. Khi đến cửa, viên sĩ quan mặt đỏ đi sau cùng nhổ mẩu xì gà đã cháy đến tận môi rồi giơ hai tay lên vươn vai một cách khoái chá.
- Xử bắn thôi: tôi hiểu ngay điều đó từ khi bước vào đây, - Têlêghin nói khẽ, đoạn quay sang nói với tên lính áp giải: - Xin cốc nước.
Tên lính vội vã đến cạnh bàn, rồi một tay cầm súng, một tay cầm cái bình đựng một ít nước đùng đục lên rót vào cốc. Têlêghin ghé sát tai Melsin nói thì thầm rất nhanh:
- Khi ra ngoài, anh cố mở máy.
- Rõ.
Một phút sau ba viên quan tòa trở về ngồi ở chỗ cũ. Viên chánh án thong thả tháo cái kính một mắt ra, rồi cầm sát vào mắt tờ giấy nhỏ rung rung, lão đọc một bản tuyên án vắn tắt trong đó Têlêghin, Jukôv, Melsin bị kết tội xử bắn.
Khi mấy từ này được đọc lên, Têlêghin, tuy đã biết chắc từ trước, cũng vẫn thấy tim thắt lại. Jukôv gục đầu xuống. Melsin, người chắc nịch, vạm vỡ, mũi diều hâu, từ từ liếm môi.
Viên chánh án xoa đôi mi mắt mỏi mệt rồi úp lòng bàn tay lên mắt, nói rành mạch nhưng rất khẽ:
- Ngài trại trưởng được ủy nhiệm thi hành ngay bản án.
Mấy viên quan tòa đứng dậy. Viên trại trưởng ngồi lại một giây nữa, người rướn thẳng đờ, mặt xanh như tàu lá. Hắn đứng dậy xốc chiếc áo quân phục sạch sẽ và cố lấy giọng thật đanh thép ra lệnh cho hai tên lính áp giải còn lại dẫn các tội nhân ra. Qua khung cửa hẹp, Têlêghin cố ý chần chừ để cho Melsin ra trước. Melsin bỗng như thể kiệt sức, nắm lấy cánh tay tên lính áp giải và nói lắp bắp, lưỡi líu lại:
- Dìu tôi ra ngoài kia một tí, một tí nữa thôi... Tôi đau bụng quá, không nhịn được nữa.
Tên lính băn khoăn nhìn Melsin, cố gỡ ra, hoảng hốt ngoảnh đi, không biết nên xử sự như thế nào trong cái trường hợp chưa hề được lường trước trong quy chế nhà binh này. Nhưng Melsin đã lôi hắn ra đến mũi xe hơi và ngồi xổm xuống, mặt nhăn nhó, miệng rên hừ hừ, mấy ngón tay run run cứ quờ quạng khi thì bấu lấy khuy áo mình, khi thì vịn vào ma-ni-ven. Gương mặt tên lính áp giải lộ vẻ thương hại và ghê tởm.
- Đau bụng thì ngồi xuống đấy, - hắn làu bàu, giọng cáu kỉnh. - Nhưng phải nhanh lên.
Nhưng Melsin bỗng lấy hết hơi sức quay cái ma-ni-ven. Tên lính hoảng hốt cúi xuống giằng ông ta ra. Tên lái xe trẻ măng choàng dậy, giận dữ quát tháo những gì không rõ, nhảy ra khỏi xe. Tất cả những việc kế theo chỉ diễn ra trong khoảng mấy giây đồng hồ. Têlêghin cố bám sát tên lính áp giải thứ hai, nhìn trộm theo những động tác của Melsin. Động cơ đã nổ lên phành phạch, và tim chàng đập rộn ràng theo nhịp những tiếng nổ gắt gỏng và kỳ diệu ấy.
- Jukôv, cầm lấy súng, - Têlêghin vừa quát vừa ôm ngang người tên lính áp giải đứng cạnh mình, nhấc bổng hắn lên rồi quật mạnh xuống đất và chỉ mấy bước đã nhảy ra đến sát chiếc xe hơi, nơi Melsin đang giằng khẩu súng trong tay tên lính. Têlêghin sẵn đà tống luôn một quả đấm vào cổ hắn - hắn kêu “ặc” một tiếng rồi ngồi phịch xuống. Melsin nhảy vào xe, kéo cần số và dận ga. Têlêghin trông thấy rất rõ Jukôv đang cầm khẩu súng leo lên xe, tên lái xe trẻ măng len lét men theo tường rồi chạy ù vào phòng trại trưởng, và trong khung cửa sổ là một khuôn mặt đeo kính một mắt rúm ró lại, bóng viên trại trưởng lao ra thềm, một khẩu súng lục nhảy bần bật trên tay... Một phát súng nổ, một phát nữa... “Trượt rồi. Trượt rồi!”. Có thể tưởng chiếc xe hơi đã bắt rễ xuống lớp than bùn. Nhưng trục xe đã rít lên, chiếc xe chồm về phía trước. Têlêghin bị giật mạnh ngã ngửa ra lưng ghế.
Gió phả mạnh vào mặt, cái chòi canh sơn sọc chéo và tên lính gác gần lại rất nhanh. Hắn giương súng lên ngắm. Đoành! Chiếc xe hơi phóng qua như một trận cuồng phong. Phía sau, sân trại đầy những lính đang chạy ra, quỳ xuống ngắm bắn. Đoành, đoành, đoành! - Những tiếng súng vang lên yếu ớt. Jukôv quay lại giơ quả đấm ra dọa. Nhưng cái hình vuông ảm đạm của bốn dãy nhà lán mỗi lúc một nhỏ lại, thấp xuống, và cả khu trại khuất đi sau một chỗ ngoặt. Những cái cọc, những bụi cây, những cột số lao vun vút về phía chiếc xe rồi bay xẹt qua một bên.
Melsin ngoảnh lại. Trán, mắt và má ông ta đều bê bết máu. Ông quát gọi Têlêghin:
- Cứ đi thẳng à?
- Đi thẳng, rồi qua cái cầu con, rẽ sang trái, đi vào núi.

28

Dãy Karpat vắng vẻ và ảm đạm lạ thường trong buổi chiều thu lộng gió. Ba người vượt ngục thấy lòng lo lắng và hoang mang khi xe họ men theo con đường màu trắng bàng bạc bị mưa gội sạch đến tận lòng đá, leo lên một ngọn đèo. Ba bốn cây thông cao vút đung đưa bên bờ vực. Từ phía dưới đưa lên tiếng xào xạc âm u của một cánh rừng gần lấp hẳn dướp lớp sương mù cuộn lên từng đám. Sâu hơn nữa, dưới đáy vực, một dòng thác ắp nước chảy ào ào, đá bị cuốn theo hòa vào tiếng nước chảy một âm thanh trầm trầm như tiếng sấm.
Nhìn qua những thân cây thông, rất xa sau những đỉnh núi phủ rừng vắng lặng, giữa những đám mây màu chì, có thể thấy ánh mặt trời lặn chiếu qua một khe hở dài. Gió thổi lồng lộng trên đèo cao, tấm da trên mui xe rung lên phần phật.
Ba người tù binh vượt ngục ngồi im lặng. Têlêghin xem địa đồ. Melsin tựa khuỷu tay vào bánh lái nhìn về phía mặt trời lặn. Đầu ông ta buộc một miếng giẻ.
- Bây giờ biết xử trí thế nào với chiếc xe này? - ông ta hỏi khẽ. - Xăng hết rồi.
- Không thể để nó nằm đây được, lạy Chúa. - Têlêghin đáp.
- Cho nó xuống vực, chỉ có thế thôi. - Nói đoạn Melsin rên lên một tiếng, nhảy xuống mặt đường, giẫm giẫm đôi chân cho đỡ chồn rồi đến cầm hai vai Jukôv lay mạnh. - Ê! Ông thượng úy, ngủ thế đủ rồi, đến nơi rồi!
Jukôv xuống xe, mắt vẫn nhắm. Anh ta vấp một cái và ngồi xuống một phiến đá. Têlêghin lôi trong xe ra mấy cái áo mưa bằng da và một giỏ thức ăn dành cho mấy ông quan tòa ăn chiều ở “Hố Ruỗng”. Họ chia nhau bỏ thức ăn vào túi, mặc áo mưa vào và tì lên mấy cái chắn bùn đẩy xe về phía vực.
- Mày giúp chúng tao được một phen đắc lực ra phết, xe ạ, - Melsin nói - nào thôi, lăn xuống!
Hai bánh trước lơ lửng trên vực. Chiếc xe dài màu xám bụi, ghế đệm da, gờ bịt đồng, ngoan ngoãn như một súc vật, nhún xuống, chúc về phía trước rồi lăn xuống vực, cuốn theo một mớ sỏi đá. Nó vướng phải một tảng đá nhô ra ngoài, gãy răng rắc, lộn đi một vòng, rồi trong tiếng ầm ầm mỗi lúc một to của sỏi đá và sắt vụn, nó rơi đánh ào một tiếng xuống dòng thác. Tiếng vang đưa lên bờ vực rồi truyền đi rất xa qua các khe núi mờ hơi sương.
Mấy người vượt ngục rẽ vào rừng và đi theo một đường song song với con đường cái. Họ nói rất ít, và chỉ thì thầm. Bấy giờ trời đã tối hẳn. Trên đầu, những ngọn thông cất tiếng vi vu trang trọng, nghe như tiếng thác đổ xa xa.
Thỉnh thoảng Têlêghin lại xuống đường cái xem cột cây số. Ở một chỗ dự đoán là có đồn binh, họ đi vòng một quãng xa, trèo qua mấy khe núi, trong bóng tối luôn vấp phải những thân cây đổ, sỉa chân xuống những con suối, ướt hết áo quần, cho nên càng thêm tỉnh táo. Họ cứ thế đi suốt đêm. Có một lần, vào lúc gần sáng, họ nghe thấy tiếng động cơ xe hơi, phải nằm ngay xuống một cái rãnh. Chiếc xe đi ngang rất gần, nghe cả tiếng người trên xe.
Đến sáng mấy người vượt ngục chọn chỗ nghỉ trong một khe núi rậm rạp và hiu quạnh, bên một con suối. Họ lấy thức ăn ra, uống hết một nửa chai cô-nhắc, và Jukôv nhờ hai bạn lấy con dao cạo rỉ tìm thấy trong xe hơi cạo râu cho anh ta. Khi râu quai nón và ria mép của anh ta đã cạo nhẵn mới biết là mặt anh có cái cằm múp míp như trẻ con và đôi môi dày sưng mọng. Bộ mặt mới ấy bất ngờ đến nỗi Têlêghin và Melsin cứ chỉ trỏ anh ta mà cười mãi. Jukôv cao hứng lắm, luôn mồm lắp bắp và kêu ư ử trong cổ: té ra anh ta say khướt rồi. Hai người vùi lá lên người anh ta và ra lệnh phải ngủ.
Sau đó Têlêghin và Melsin trải địa đồ trên cỏ, mỗi người chép lấy một bản đồ địa hình nho nhỏ. Họ quyết định là đến mai phải chia ra làm hai tốp mà đi: Melsin và Jukôv đi về phía Rumani, Têlêghin nhằm phía Galixi. Họ chôn tấm bản đồ lớn xuống đất, dồn lá lại thành đống rồi chui vào đấy nằm. Vừa đặt lưng xuống họ đã ngủ ngay.
Rất cao trên bờ vực, bên lề đường cái có một người đứng vịn lên khẩu súng trường: đó là tên lính gác cầu. Xung quanh, dưới chân hắn, trong khu rừng vắng vẻ không nghe lấy một tiếng động. Chỉ có một con gà gô nặng nề bay qua khoảng rừng thưa, cánh va vào những cành thông, và đâu đó có tiếng nước chảy đều đều. Tên lính canh đứng một lát rồi khoác súng lên bỏ đi nơi khác.
Khi Têlêghin mở mắt ra, đêm đã xuống từ lúc nào không biết; giữa những cành cây đen sẫm, im lìm, lấp lánh mấy vì sao sáng. Chàng bắt đầu ôn lại trong ký ức những sự việc xảy ra ngày hôm qua, nhưng cái cảm giác căng thẳng tinh thần trong khi xử án và trong chuyến vượt ngục làm cho chàng thấy nhức nhối đến nỗi chàng vội xua những hình ảnh ấy đi.
- Ivan Ilyits, anh không ngủ à? - có tiếng Melsin hỏi khẽ.
- Không, tôi thức giấc từ lâu rồi. Anh dậy đi, đánh thức cả Jukôv dậy.
Một giờ sau Têlêghin bước một mình dọc theo con đường cái hiện lên mờ mờ trong đêm tối.

29

Đến ngày thứ mười, Têlêghin đã tới khu vực mặt trận. Suốt mấy ngày ấy chàng chỉ đi vào ban đêm, hễ sắp sáng lại lẩn vào rừng, còn những khi phải đi qua đồng bằng, chàng chọn những chỗ thật xa làng mạc để nghỉ chân. Chàng ăn toàn rau sống hái trộm ở các vườm rau.
Đêm hôm ấy lạnh và mưa. Têlêghin đi trên đường cái, giữa những chiếc xe tải chở đầy thương binh, những chiếc xe giàn hở đồ gia dụng, những tốp phụ nữ và ông già bà cả, tay bế con hay xách tay nải và đồ đạc, đang kéo nhau đi về phía tây.
Đi ngược chiều phía họ, về phía đông, là những đoàn xe tải quân sự và những đơn vị quân đội. Người ta không khỏi lấy làm lạ rằng hai năm đã qua, và năm thứ ba, năm 1916, sắp kết thúc rồi mà trên những nẻo đường lầy lội này những đoàn xe tải vẫn lăn cót két, những người dân ở các làng bị thiêu hủy vẫn kéo đi trong một tâm trạng tuyệt vọng nhẫn nhục y như cũ. Chỉ có một chỗ khác là bây giờ những con ngựa trận chật vật lắm mới lê nổi chân, lính tráng thì rách rưới và bé nhỏ hẳn đi, còn những đám người vô gia cư thì trầm lặng và dửng dưng. Ở phía xa kia, miệt phương đông, nơi mà từ đấy một ngọn gió gay gắt xua những đám mây thấp về đây, những con người vẫn bắn giết những con người, mà mãi vẫn không tiêu diệt được nhau.
Ở một chỗ trũng đất lầy, trên cái cầu bắc qua con sông đầy nước lũ, có một đám rất đông người và xe đang lúc nhúc trong đêm tối. Bánh xe lăn ầm ầm, roi quất đen đét, tiếng hô lính í ới, rất nhiều đèn đóm qua lại, và ánh đèn leo lét chiếu xuống dòng nước đục đang xoáy tít quanh mấy cái cột cầu.
Chân trượt trên đường dốc, Têlêghin len tới cầu. Một đoàn xe tải quân sự đang kéo qua. Không thể nghĩ đến chuyện sang được đến bên kia sông trước khi trời sáng.
Khi lên cầu, ngựa cứ nghiêng ngả giữa hai càng xe, vó bấu vào những tấm ván cầu ướt sũng, cố giật mãi xe mới nhích lên được một chút. Ở đầu cầu có một người cưỡi ngựa đứng bên vệ đường, tà áo mưa bay phần phật trước gió, tay cầm cây đèn lồng, đang cất tiếng khàn khàn quát tháo. Một ông già đến cạnh hắn, cất mũ chào, rồi hình như nài xin hắn điều gì. Thay cho câu trả lời, người cưỡi ngựa lấy cây đèn sắt đánh vào giữa mặt ông cụ, và ông cụ ngã lăn xuống dưới mấy cái bánh xe.
Đầu cầu bên kia mất hút trong bóng tối xa xăm, nhưng cứ trông thấy những đốm lửa bên kia sông, có thể đoán rằng ở đấy có đến hàng nghìn người đi lánh nạn. Đoàn xe tiếp tục di chuyển một cách chậm chạp. Têlêghin bị ép vào một chiếc xe giàn, trên xe có một người đàn bà gầy gò người quấn tấm chăn, tóc xõa kín cả mắt. Một tay bà ta ôm một chiếc lồng chim, tay kia cầm cương ngựa. Bỗng chiếc xe dừng bánh. Người đàn bà hoảng hốt ngoảnh lại. Bên kia cầu tiếng xôn xao mỗi lúc một to lên, những đốm lửa di chuyển nhanh hơn, có chuyện gì xảy ra rồi. Con ngựa rít lên một tiếng man dại như tiếng dã thú. Có ai kêu lên bằng tiếng Ba-lan: “Chạy đi-i-i-i!”. Và ngay lúc ấy một loạt tiếng súng trường nổ xé không khí. Ngựa lồng lên, xe kêu răng rắc, đàn bà và trẻ con cất tiếng rú the thé.
Xa xa ở bên phải lóe lên những tia lửa thưa thớt, mấy tiếng súng bắn trả vọng lại. Têlêghin trèo lên một cái bánh xe nhìn cho rõ. Tim chàng đập thình thịch. Hình như khắp nơi, suốt dọc sông đều có tiếng súng. Người đàn bà cầm cái lồng chim đang xuống xe thì vướng chân vào gấu váy và ngã lên xuống. “Ối! Cứu tôi với!” - bà ta rống lên bằng cái giọng ồ ồ. Cái lồng chim lăn lông lốc xuống bờ đường đắp cao.
Giữa tiếng quát tháo và tiếng xe lăn, đoàn xe tải lại chuyển bánh chạy nước kiệu qua cầu. “Đứng lại! Đứng lại” - lập tức có những tiếng kêu thất thanh vang lên. Têlêghin trông thấy một chiếc xe lớn nghiêng ra phía cầu, lộn nhào xuống sông. Bấy giờ chàng rời cái bánh xe nhảy xuống bước qua những gói đồ vứt ngổn ngang giữa đất, đuổi kịp đoàn xe và nhảy sấp lên một chiếc xe giàn đang đi. Lập tức một mùi bánh mì nướng dễ chịu xông lên đầu chàng. Ivan Ilyits thò tay xuống tấm vải bạt, bẻ một miếng bánh và bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến, nuốt vội đến nỗi ngạt cả thở.
Trong cảnh ồn ào hỗn độn, giữa những tiếng súng đì đùng, cuối cùng đoàn xe tải cũng sang đến bên kia cầu. Têlêghin nhảy từ trên xe giàn xuống, len lỏi giữa chiếc xe ngựa của dân lánh nạn, ra đồng và đi dọc theo con đường cái. Qua những câu nói đứt đoạn nghe lõm bõm trong đêm tối, chàng hiểu rằng vừa rồi người ta bắn vào một đội tuần tiểu của địch, tức của quân Nga. Như thế nghĩa là chiến tuyến cách chỗ này chỉ độ mươi dặm, không hơn.
Mấy lần Têlêghin đứng lại thở. Đi ngược gió, dưới làn mưa quất vào mặt, rất vất vả. Đầu gối ê ẩm, mặt rát bỏng, mắt đỏ kè và sưng húp. Cuối cùng chàng ngồi xuống một ô đất bên cái rãnh và lấy hai tay ôm đầu. Sau cổ, những giọt nước mưa lạnh buốt cứ chảy ròng ròng, khắp người đau như dần.
Bỗng có một tiếng động ấm ức, tròn trĩnh như thể ở đâu rất xa có một mảnh đất sụt xuống. Một phút sau lại có một tiếng nữa, giống như một tiếng thở dài của đêm tối. Têlêghin ngẩng đầu lên nghe ngóng. Giữa những tiếng thở dài sâu thẳm này chàng nghe ra một tiếng gầm gừ khi thì lắng bớt, khi thì to dần lên thành những tiếng vang rền giận dữ. Những âm thanh này vẳng lại không phải từ phía Têlêghin đang đi tới, mà từ bên trái, hầu như sau lưng chàng.
Chàng ngồi sang bờ rãnh bên kia bây giờ đã có thể thấy rõ những đám mây rách tả tơi bay rất thấp trên bầu trời màu chì bẩn. Đó là bình minh đang đến. Đó là phương đông. Đó là nước Nga.
Têlêghin đứng dậy, thít chặt thắt lưng, rồi chân trượt trên bùn, chàng đi về phía ấy qua những đám ruộng rạ ướt sũng, những hầm hào năm ngoái nay đã sụt lở gần hết.
Khi trời đã sáng hẳn, Têlêghin lại trông thấy ở cuối cánh đồng một con đường đầy những người và xe cộ. Chàng đứng lại nhìn quanh. Chếch sang một bên, dưới một cây đại thụ gần trụi hết lá mọc trơ trọi giữa đồng có một ngôi nhà thờ nhỏ sơn trắng, cửa đã bị tháo ra, tấm mái tròn và mặt đất ở xung quanh đều phủ kín lá vàng.
Têlêghin quyết định đến đấy chờ trời tối. Chàng vào trong nhà thờ, nằm xuống tấm sàn phủ rêu xanh rì. Mùi lá úa dịu và nồng nồng xông lên đầu chàng như một chất men. Từ ngoài xa, tiếng bánh xe lăn lộc cộc và tiếng roi ngựa vẳng lại, nghe dễ chịu lạ lùng, rồi bỗng chìm đi đâu hết. Trên mi mắt chàng như có những ngón tay đè nặng xuống. Trong giấc ngủ nặng như chì dần dần xuất hiện một cái vệt nhỏ sinh động. Nó như thể cố sức trở thành một giấc chiêm bao, nhưng không được. Cảm giác mệt mỏi mạnh đến nỗi Têlêghin rên lên một tiếng và cố ngụp sâu hơn nữa vào giấc ngủ. Nhưng cái vệt cứ quấy rối chàng. Giấc ngủ mỗi lúc một thu hẹp lại, và xa xa lại có tiếng xe lăn lộc cộc. Têlêghin thở dài và ngồi dậy.
Trong khung cửa có thể trông thấy những đám mây đặc và phẳng kéo qua. Mặt trời đông xế bóng chiếu ra những tia sáng tỏa rộng ở phía dưới những đám mấy màu chì trơn tuột. Một vệt sáng loáng in lên trên những bức tường cũ kỹ của ngôi nhà thờ nhỏ, soi sáng khuôn mặt đang cúi xuống của bức tượng đức mẹ bằng gỗ với vòng hào quang thiếp vàng, màu sắc đã phải nhạt vì thời gian. Chúa hài đồng mặc chiếc áo vải hoa mục nát, nằm trên lòng đức mẹ. Cánh tay đức mẹ trước kia vẫn giơ ra ban phép nay đã gãy mất.
Têlêghin ra khỏi nhà thờ. Bên thềm, trên một bậc cấp bằng đá, có một người thiếu phụ đang ngồi ẵm đứa con trên đùi. Thiếu phụ mặc một chiếc áo dài trắng lấm bùn. Một tay nâng đỡ một bên má, tay kia đặt trên tấm chăn sặc sỡ của đứa bé. Nàng từ từ ngẩng đầu lên nhìn Têlêghin - đôi mắt nàng trong sáng và kỳ dị, trên khuôn mặt tiều tụy vì đã khóc nhiều, mấy thớ thịt cứ run run trông như mỉm cười và nói khẽ bằng tiếng Ruthêni:
- Thằng bé tôi chết rồi.
Đoạn lại tựa má lên bàn tay, Têlêghin cúi xuống, vuốt tóc nàng. Nàng thở hắt ra một tiếng não lòng.
- Ta đi đi. Để tôi bế cho. - chàng nói dịu dàng.
Người thiếu phụ lắc đầu.
- Tôi còn đi đâu nữa? Pan đi một mình đi, cám ơn lòng tốt của pan.
Têlêghin đứng lại một lát nữa, đội sụp mũ lưỡi trai xuống tận mắt và bỏ đi. Vừa lúc ấy từ phía sau nhà thờ hai viên hiến binh dã chiến Áo cưỡi ngựa phi nước kiệu qua, ủng ướt và bẩn, râu ria xồm xoàm, nước da xám xịt. Họ nhìn Têlêghin, kìm ngựa lại, và người đi trước cất tiếng khàn khàn gọi:
- Lại đây.
Têlêghin lại gần. Viên hiến binh cúi gập người xuống trên yên, đôi mắt nâu rạn tia máu và sưng húp vì gió và vì mất ngủ như sờ nắn khắp người chàng. Chợt đôi mắt ấy ánh lên:
- Một thằng Nga! - hắn reo lên, tay nắm lấy cổ áo Têlêghin. Chàng chẳng buồn giằng ra nữa, chỉ nhếch mép mỉm cười cay đắng.
Họ giam Têlêghin vào một căn nhà kho. Đêm đã khuya. Tiếng đại bác đổ dồn vẳng tới rõ mồn một. Qua một khe hở trên vách có thể thấy ánh lửa đỏ mờ mờ ở chân trời. Têlêghin ăn một mẩu bánh mì lấy từ đêm qua trên xe tải, đi đi lại lại dọc bức vách bằng ván, nhìn xem có chỗ nào chui lọt không, vấp phải một bó rơm ép chặt, ngáp dài rồi nằm xuống. Nhưng chàng chưa kịp ngủ thì tiếng đạn đại bác đã bắt đầu nổ cách đấy không xa. Lúc bấy giờ đã quá nửa đêm. Những ánh lửa bùng lên khi ngọn lửa chớp lòe qua các khe hở. Têlêghin nhổm dậy nghe ngóng, Khoảng cách giữa các loạt đạn cứ ngắn dần lại, vách nhà kho run lên bần bật, rồi bỗng có những tiếng súng trường bắn rất gần.
Rõ ràng là trận đánh đang nhích dần tới đây. Sau vách có những tiếng nói hốt hoảng, một chiếc xe hơi mở máy. Có nhiều tiếng chân chạy rầm rập. Một thân hình nặng nề từ bên ngoài xô vào vách. Và đến lúc ấy Têlêghin mới nghe ra những tiếng lộp bộp như có ai ném từng nắm đỗ vào vách. Chàng nằm ngay xuống đất.
Ngay trong nhà kho cũng có mùi khói thuốc súng. Tiếng súng không ngớt lấy một phút: chắc chắn quân Nga đang tiến đến với một tốc độ khủng khiếp. Nhưng trận bão âm thanh ghê rợn này không kéo dài bao lâu. Bây giờ đã có những tiếng nổ toang toác của lựu đạn, nghe như tiếng đập hạt dẻ. Ivan Ilyits đứng phắt dậy, bứt rứt đi đi lại lại dọc bức vách. Quân ta bị đánh lui rồi chăng? Cuối cùng chàng nghe vang lên một tiếng gầm khản và đanh, tiếng rít, tiếng vó ngựa. Tiếng súng im bặt ngay tức thì. Và trong một phút im lặng kéo dài chỉ nghe những tiếng phầm phập mềm mềm và tiếng kim loại lách cách. Rồi có mấy tiếng người hoảng hốt kêu lên: “Xin hàng bộ đội Nga! Xin hàng!”
Tháo được một mảnh ván trên cánh cửa. Têlêghin trông thấy những bóng người đang chạy, tay giơ lên che đầu. Từ bên phải có những bóng người ngựa khổng lồ lao vào họ, xông thẳng vào giữa đám đông, quay cuồng như cơn lốc. Ba người đi bộ chạy bạt về phía căn nhà kho. Một người cưỡi ngựa phóng theo họ, chiếc mũ áo khoác cô-dắc bay phấp phới sau lưng. Con ngựa cao lớn và hung dữ thở phì phì, nặng nề cất hai vó trước lên. Người cưỡi ngựa như say máu, vung cao thanh gươm, miệng mở rộng. Và khi con ngựa lại hạ chân trước xuống đất hắn chém xuống một nhát rất mạnh, nghe đánh vèo một tiếng. Thanh gươm vào sâu quá, gãy làm đôi ở chỗ sát đốc.
- Mở cho tôi ra! - Têlêghin vừa đập cửa vừa hét tướng lên, giọng lạc hẳn đi. Người kỵ binh kìm ngựa lại.
- Ai gọi đấy?
- Một tù binh. Sĩ quan Nga.
- Đợi tí! - Người kỵ binh vứt cái đốc gươm cụt đi, cúi xuống mở then cửa. Têlêghin đi ra ngoài, và người mở cửa, một sĩ quan của Sư đoàn Hung dã, cất tiếng nói, giọng ngạo nghễ:
- Thật là kỳ ngộ!
Têlêghin nhìn kỹ người kỵ binh.
- Tôi không nhận ra ông đấy.
- Xapôjkôv đây mà, Xerghêy Xêghêyêvits đây, - hắn cười lên lanh lảnh. - Không ngờ, phải không?... Chiến tranh là thế đấy, mẹ kiếp!

30

Trên chặng cuối cùng, khi chỉ còn cách Moxkva một tiếng đồng hồ nữa, đoàn tàu kéo một hồi còi dài chạy ngang qua những ngôi biệt thự vắng vẻ; đám khói trắng của nó lẫn vào đám lá thu, vào khóm rừng bạch dương màu vàng trong suốt, vào rặng phong dương màu tía, nơi có mùi nấm thoang thoảng đưa ra. Thỉnh thoảng, một cành phong dương xum xuê màu huyết dụ vươn ra đến tận đường sắt. Qua những bụi cây đã thưa thớt, đây đó thấp thoáng những quả cầu thủy tinh trên các vồng hoa, những cánh cửa sổ biệt thự bị đóng đinh lại, và những lối đi, những bậc thềm phủ đầy lá úa.
Một ga xép vút qua. Hai người lính mang bạc đà thản nhiên nhìn lên các cửa sổ trên đoàn tàu, và trên chiếc ghế dài, một thiếu nữ mặc chiếc áo khoác ngắn kẻ ca-rô, vẻ rầu rĩ và bơ vơ, đang lấy mũi dù vẽ những đường ngoằn ngoèo lên mấy tấm ván ướt lát sân ga. Qua một chỗ ngoặt, từ sau rặng cây hiện ra một tấm biển gỗ lớn có vẽ một chai rượu: “Rượu hoa thu Suxtôva không có gì sánh kịp”. Khóm rừng đã lùi về phía sau, nhường chỗ cho những hàng bắp cải dài màu trắng pha xanh chạy hai bên đường sắt. Tàu chạy qua chỗ ngáng đường: bên rào chắn có một chiếc xe chở rơm, trên xe là một bà nông dân mặc áo khoác ngắn của đàn ông cầm cương con ngựa bé nhỏ đang khịt mũi. Xa xa, dưới một đám mây dài, đã thấy rõ những ngọn tháp nhọn, và vươn cao lên trên phố là cái mái vòm sáng loáng của nhà thờ Chúa Cứu thế.
Têlêghin ngồi bên cửa sổ hít thở mùi hương đậm đà của tiết tháng chín, mùi lá, mùi nấm mốc, mùi khói đốt rơm và mùi đất phủ sương giá nhẹ buổi bình minh.
Chàng cảm thấy phía sau mình là quãng đường dài của hai năm thống khổ, và chặng kết thúc của nó là cái giờ chờ đợi diệu kỳ này. Ivan Ilyits trù tính: đúng hai giờ rưỡi chàng sẽ bấm nút chuông ở cánh cửa duy nhất ấy - chàng hình dung đó là một cánh cửa gỗ sồi màu nhạt, phía trên có hai ô kính nhỏ - cánh cửa mà dù chết rồi chàng cũng vẫn lê tới được.
Các vườn rau đã lùi lại phía sau, và hai bên đường sắt bắt đầu thấp thoáng những ngôi nhà nhỏ lấm bùn của khu ngoại ô, những dãy phố lát đá gồ ghề với những chiếc xe bò lăn lộc cộc, những dãy hàng rào bao quanh những khu vườn bồ đề cổ thụ cành vươn ra tận giữa lòng phố, những tấm biển cửa hiệu sặc sỡ, những người qua đường đang mải lo những công việc vặt vãnh gì chẳng biết mà không hề chú ý đến đoàn tàu đang ầm ầm kéo qua và đến Têlêghin đang nhìn ra cửa sổ. Ở phía dưới cuối dãy phố, một chiếc tàu điện đang chạy, xinh xẻo như đồ chơi: sau mấy dãy nhà nhô lên cái mái vòm khum của một ngôi nhà thờ nhỏ. Bánh xe của đoàn tàu gõ thình thình lên những đoạn rẽ đường ray. Và cuối cùng, sau hai năm dài đằng đẳng, mãi đến bây giờ mới lại thấy dãy sân ga Moxkva lát ván chạy dài dọc các toa tàu. Mấy cụ già sạch sẽ và thản nhiên mặc tạp dề trắng leo lên toa. Têlêghin thò hẳn đầu ra ngoài cửa sổ, háo hức tìm người quen. Thật là ngớ ngẩn; chàng có báo tin cho ai biết mà ra đón đâu?
Têlêghin bước ra ngoài thềm nhà ga, và không sao nhịn được cười: trước mặt chàng, cách chừng năm mươi bước, có một đoàn xe ngựa thuê xếp thành hàng ngang kéo dài trên quảng trường. Mấy anh xà ích đứng trên ghế xe vẫy vẫy cái bao tay, hò hét:
- Để tôi chở cho! Để tôi chở cho!
- Ngài dùng con ngựa ô này nhé!
- Xe tôi nhanh tuyệt, lại có lốp cao su!
Mấy con ngựa bị ghìm cương cừ giẫm chân, thở phì phò, hí lên lanh lảnh. Khắp quảng trường cứ nhao nhao lên. Tưởng chừng như chỉ trong khoảnh khắc cả đoàn xe ngựa sẽ lao thẳng vào chiếm nhà ga.
Têlêghin leo lên một cỗ xe rất cao, ghế hẹp; anh xà ích đẹp trai và ngang tàng hỏi địa chỉ chàng bằng một giọng dịu dàng có ý hạ cố, rồi để làm dáng, anh ta ngồi nghiêng hẳn người sang một bên, cầm bộ dây cương buông lỏng bằng tay trái và cho ngựa chạy nước kiệu cực nhanh. Đôi lốp căng hơi nẩy bần bật trên mặt đường lát đá.
- Ngài ở mặt trận về ạ?
- Tôi trốn từ trại tù binh về đây.
- Thật à? Thế bên ấy ra sao ạ? Nghe nói chẳng có gì ăn phải không? Ê, tránh ra bà già! Một anh hùng dân tộc!... Nhiều người trốn về lắm. Ê, xe bò, dẹp lại... chà, thằng mất dạy!... Ngài có quen Ivan Trifônyts không?
- Ivan Trifônyts nào?
- Người ở Razgulyai ấy mà, buôn dạ ấy!... Hôm qua ông ta đi xe tôi, suýt khóc. Chao ôi, đời thật lắm chuyện!... Ông ta thầu cho quân nhu, giầu lắm, tiền chẳng để đâu cho hết , thế mà bà vợ hôm kia bỏ đi trốn biệt với một gã Ba-lan. Bọn xà ích chúng tôi đi loan tin này khắp Moxkva. Ivan Trifônyts chuyến này đừng hòng vác mặt ra phố nữa... Ăn cắp cho lắm vào...
- Anh bạn làm ơn phóng nhanh cho một chút, - Têlêghin nói, tuy con ngựa giống đã phi nhanh như gió, cái mõm hung ác nghển cao lên theo một tật xấu đã quen thân.
- Thưa ngài đến nơi rồi: cổng thứ hai đây! Prrr, đứng lại, Vaxya!
Têlêghin hồi hộp đưa mắt thật nhanh nhìn lên sáu khung cửa sổ của tòa biệt thự trắng treo những bức rèm đăng ten nuột nà yên tĩnh, rồi nhảy xuống trước thềm. Cánh cửa ra vào cũ kỹ có chạm trổ hoa văn, ở giữa có hình đầu sư tử, chuông thì kéo bằng dây chứ không phải chuông điện. Ivan Ilyits đứng tần ngần một lát, không đủ sức giơ tay lên kéo chuông, tim đập từng nhịp chậm rãi và nhức nhối. “Thật ra chưa biết thế nào cả: có thể cả nhà đi vắng, cũng có thể họ không tiếp” - chàng nghĩ thầm, rồi kéo cái vòng đồng ở đầu dây chuông. Mãi tận một nơi nào rất sâu trong nhà có tiếng chuông lảnh lót vẳng ra. “Chắc hẳn không có ai ở nhà” Ngay lúc ấy có những tiếng chân phụ nữ bước nhanh, Ivan Ilyits bàng hoàng nhìn quanh, - bộ mặt vui vẻ của anh xà ích đang đợi trước cổng nháy nháy ra hiệu. Rồi có tiếng dây xích lẻng xẻng, cánh cửa hé mở và khuôn mặt rỗ hoa của chị hầu phòng ló ra.
- Đây có phải nhà Đarya Đmitrievna Bulavina không? - Têlêghin ho húng hắng rồi nói.
- Phải đấy ạ, cô tôi có nhà đấy, mời ngài vào, - người con gái rỗ hoa đáp niềm nở, giọng ngân nga như hát, - bà tôi và cô tôi đều có nhà đấy ạ.
Têlêghin, như trong giấc mộng, đi dọc dãy hành lang kiêm phòng mắc áo có bức tường thủy tinh đặt mấy cái sọt và thoang thoảng mùi áo khoác lông. Cô hầu phòng mở cánh cửa thứ hai ở bên phải, lót đệm da màu đen. Trong căn phòng lót nhỏ tối mờ mờ có treo mấy chiếc áo khoác phụ nữ, trước tấm kính có để một đôi găng tay, một chiếc khăn trùm của bệnh viện có phù hiệu hồng thập tự và một chiếc khăn len. Từ tất cả những vật hiền lành ấy thoang thoảng đưa lên một mùi nước hoa kỳ diệu.
Không hỏi tên khách, cô hầu buồng vào báo luôn. Ivan Ilyits lấy mấy ngón tay chạm lên chiếc khăn len và chợt cảm thấy không có mối liên quan nào giữa cuộc sống thanh khiết, tuyệt vời này với một người vừa từ nơi bùn và máu nhầy nhụa trở về như chàng. “Thưa cô, cô có khách ạ” - từ phòng trong có tiếng nói của cô hầu phòng đưa ra. Ivan Ilyits nhắm mắt lại. Sấm sắp vang dậy ngay bây giờ. Toàn thân run bắn lên, chàng nghe một tiếng nói nhanh và rõ:
- Tôi có khách à? Ai thế?
Ở phòng trong có tiếng chân bước. Những tiếng chân ấy đưa lên từ vực sâu thăm thẳm của hai năm mong đợi. Trong khung cửa phòng lót, từ luồng ánh sáng lọt qua các cửa sổ, Đasa hiện ra, mang theo một ánh vàng trên làn tóc nhẹ. Trông nàng cao hơn và mảnh dẻ hơn trước. Nàng mặc chiếc áo len đan và chiếc váy màu xanh.
- Ông cần gặp tôi ạ?
Đasa đang nói dở câu bỗng im bặt, nét mặt nàng run run, đôi mày giương cao lên, miệng hé mở, nhưng bóng tối của nỗi kinh hoàng trong chốc lát trên gương mặt nàng vụt biến đi, và mắt nàng ngời lên vì ngạc nhiên và mừng rỡ.
- Anh đấy ư? - nàng nói rất khẽ, rồi giang hai tay ôm chầm lấy cổ Ivan Ilyits và âu yếm hôn chàng với đôi môi run rẩy. Rồi nàng lùi ra.
- Ivan Ilyits, anh vào đây. - Đasa nói đoạn chạy vào phòng khách, ngồi phịch xuống ghế bành, gục đầu xuống và lấy hai tay bưng mặt.
- Ôi, chẳng ai ngốc như em, ai lại khóc kia chứ? - Đasa thầm thì, tay vội vàng chùi nước mắt. Ivan Ilyits đứng im trước mặt nàng. Bỗng Đasa nắm chặt lấy hai tay vịn, ngẩng đầu lên:
- Ivan Ilyits, anh vượt ngục đấy à?
- Vâng.
- Trời ơi! Thế rồi sao?
- Thế rồi... tôi đi thẳng về đây.
Chàng ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện, tay ép thật chặt chiếc mũ lưỡi trai vào ngực.
- Việc xảy ra như thế nào hở anh? - Đasa hỏi sau một phút ngập ngừng.
- Nói chung cũng bình thường.
- Có nguy hiểm không?
- Có... Nghĩa là cũng không đến nỗi nguy hiểm lắm.
Rồi họ cứ thế nói với nhau mấy câu vô nghĩa nữa. Rồi dần dần cả hai bắt đầu thấy e thẹn.
Đasa buông mắt nhìn xuống đất.
- Anh đến Moxkva đã lâu chưa?
- Tôi mới xuống ga xong.
- Tôi bảo pha cà phê nhé...
- Thôi, Đasa đừng bận tâm... Tôi về khách sạn ngay bây giờ.
Đasa nói rất khẽ:
- Tối nay anh đến nhé?
Ivan Ilyits mím môi, gật đầu. Chàng thấy không có đủ không khí mà thở nữa. Chàng đứng dậy.
- Vậy tôi sẽ đến. Tối nay tôi sẽ đến.
Đasa giơ tay ra cho chàng bắt. Chàng cầm lấy bàn tay mềm mại và khỏe mạnh của nàng, và sự tiếp xúc ấy truyền một luồng hơi ấm vào lòng chàng, khiến máu chàng dồn lên mặt. Chàng siết bàn tay ấy rồi đi ra phòng ngoài, nhưng ra đến cửa chàng ngoái lại. Đasa đứng quay lưng về phía ánh sáng, rụt rè nhìn theo chàng.
- Tôi đến lúc bảy giờ có được không. Đarya Đmitrievna?
Nàng gật đầu, Ivan Ilyits đi nhanh ra thềm, rồi bảo anh xà ích:
- Ra khách sạn. Khách sạn nào kha khá ấy, sang nhất ấy!
Ngồi tựa hẳn lưng vào ghế xe, hai tay đút vào ống áo khoác, chàng nhoẻn rộng miệng cười.
Có những cái bóng gì xanh xanh - người qua đường, cây cối, xe cộ - bay lượn trước mắt chàng. Một làn gió lành mạnh và đượm mùi thành phố Nga thổi hiu hiu vào mặt chàng mát rượi. Ivan Ilyits đưa tay lên mũi, bàn tay còn giữ hơi ấm của tay Đasa, và cười lớn: “Một phép thần thông!”.
Trong khi đó Đasa, sau khi tiễn chân Ivan Ilyits, trở về đứng bên khung cửa sổ trong gian phòng khách. Trong đầu nàng cứ có tiếng ong ong, không tài nào định thần lại được để nhận thức cho rõ sự việc vừa xảy ra là thế nào. Nàng nhắm nghiền mắt lại rồi bỗng kêu một tiếng, chạy vào phòng ngủ của chị.
Êkatêrina Đmitrievna ngồi bên cửa sổ khâu áo, vẻ trầm ngâm. Nghe tiếng chân Đasa, nàng hỏi, đầu vẫn không ngẩng lên:
- Đasa, có ai đến gặp em thế?
Rồi nàng nhìn em chăm chăm, và nét mặt nàng run run.
- Anh ấy... Chị không hiểu sao? Anh ấy đấy mà... Ivan Ilyits đấy.
Katya buông chiếc áo đang khâu xuống từ từ chấp hai tay lại.
- Katya, chị có thể tưởng tượng được không: em không thấy mừng mà chỉ thấy sợ, - Đasa nói, giọng trầm trầm.

31

Khi hoàng hôn đã xuống, hễ có một tiếng động khe khẽ là Đasa lại giật mình chạy ra phòng khách nghe ngóng... Đã mấy lần nàng lấy một cuốn sách - nàng cũng chẳng hề xem đó là cuốn gì - giở ra đọc, lần nào cũng giở đúng cái trang có câu: “Maruxya rất thích thỏi sô-cô-la mà chồng nàng mua ở hiệu Kraft về cho nàng...”. Trong bóng hoàng hôn giá lạnh, ở ngôi nhà trước mặt có hai khung cửa sổ sáng lên. Đó là nhà nữ diễn viên Tsarôđêyeva. Một chị hầu phòng đội mũ chụp dọn bàn ăn, rồi đích thân Tsarôđêyeva xuất hiện người gầy như bộ xương, vai khoác áo choàng nhung, ngồi vào bàn và ngáp dài, - chắc cô ta vừa ngủ một giấc trên đi-văng mới dậy, cô ta múc xúp vào đĩa rồi bỗng thừ người ra nhìn trân trân vào cái bình con cắm một bông hồng héo. “Maruxya rất thích thỏi sô-cô-la” - Đasa thì thầm nhắc lại. Bỗng có tiếng chuông gọi cửa, Nàng lặng người đi. Nhưng đó chỉ là người đưa báo buổi chiều. “Anh ấy không đến đâu” - Đasa tự nhủ, rồi đi sang phòng ăn, nơi chỉ có ngọn đèn con leo lét trên tấm khăn trải bàn trắng và cái đồng hồ kêu tích tắc. Bây giờ là bảy giờ kém năm. Đasa ngồi xuống cạnh bàn: “Và cứ thế, cuộc đời cứ từng giây phút một trôi đi...”.
Ở cửa trước lại có ai giật chuông. Đasa nín thở đứng phắt dậy, chạy ra ngoài... Đó là bác gác cổng ở bệnh viện mang tập giấy tờ đến. Chắc hẳn Ivan Ilyits không đến, mà không phải, vì nàng đã đợi hai năm ròng rã rồi đến khi gặp được mặt thì lại chẳng nói được một câu gì ra hồn.
Đasa rút chiếc khăn mùi soa ra, đưa góc khăn lên miệng cắn. Nàng đã linh cảm thấy thế, nàng đã biết trước là cơ sự sẽ diễn ra đúng như thế. Suốt hai năm ròng rã nàng đã yêu một Ivan Ilyits nào đấy của riêng nàng, do nàng tưởng tượng ra, thế rồi giờ đây người thật đã trở về... thì nàng lại bàng hoàng ngơ ngác.
“Thật là khủng khiếp, thật là khủng khiếp” - Đasa nghĩ thầm. Nàng không để ý thấy cánh cửa hé mở và khuôn mặt rỗ hoa của Liza ló ra.
- Thưa cô, cô có khách.
Đasa buông một tiếng thở dài và đi sang phòng ăn, người thấy nhẹ lâng lâng, như thể chân không chạm xuống sàn nhà nữa. Katya trông thấy Đasa trước và mỉm cười với nàng. Ivan Ilyits nhổm dậy, chớp mắt rồi đứng thẳng người lên.
Chàng mặc một chiếc áo vét dạ mới, vai quàng chiếc nịt da mới, râu cạo nhẵn, tóc cũng mới cắt. Bây giờ càng thấy rõ chàng cao lớn, rộng vai và gọn gàng trong bộ quân phục bó sát vào người. Dĩ nhiên đây là con người hoàn toàn mới. Đôi mắt trong sáng của chàng có cái nhìn cương nghị, miệng chàng thẳng và sắc nét, hai bên mép có hai nếp nhăn nhỏ và sâu. Tim Đasa bắt đầu đập mạnh: nàng biết rằng hai nếp nhăn ấy là vết tích của những ngày chết chóc, kinh hoàng và đau khổ. Bàn tay chàng rắn rỏi và mát lạnh.
Đasa lấy ghế ngồi bên cạnh Têlêghin. Chàng để hai tay trên khăn trải bàn, đan chặt mấy ngón tay vào nhau, rồi nhìn Đasa, chàng kể lại rất nhanh, rất vắn tắt về thời gian bị giam cầm và về cuộc tẩu thoát ra khỏi trại giam. Đasa ngồi sát bên chàng, nhìn chăm chăm vào mặt chàng, miệng hé mở.
Trong khi kể, Ivan Ilyits cảm thấy tiếng mình vang lên như tiếng người nào khác, từ rất xa, và bản thân chàng xúc động dữ dội. Và bên cạnh chàng, với vạt áo dài khẽ chạm vào đùi chàng, là một con người mà không lời nào có thể diễn tả được - một người con gái mà chàng không thể nào hiểu được, tỏa ra một cái gì ấm áp khiến chàng chóng mặt.
Ivan Ilyits kể chuyện suốt buổi tối, Đasa chốc chốc lại ngắt lời chàng, hỏi lại, chập hai tay vào nhau, đưa mắt nhìn sang chị.
- Katyusa, chị hiểu không - tuyên án xử bắn đấy!
Khi Têlêghin miêu tả lại cuộc vật lộn để chiếm lấy chiếc xe hơi, cái khoảng khắc ngắn ngủi ngăn chia giữa sống và chết, rồi lúc chiếc xe hơi chồm lên và gió phà vào mặt - tự do, cuộc sống đang ở trước mặt họ! - Đasa tái mặt đi, cầm chặt lấy tay chàng.
- Chúng em sẽ không bao giờ để cho anh đi đâu nữa!
Têlêghin cười.
- Nếu họ gọi lại thì chẳng còn có cách gì. Tôi chỉ hy vọng là họ sẽ cho tôi làm ở một xưởng máy quốc phòng nào đấy.
Chàng rụt rè siết tay nàng. Đasa nhìn đăm đăm vào mắt chàng, má hơi ửng hồng, rồi rụt tay lại.
- Sao anh không hút thuốc? Em lấy diêm nhé.
Nàng nhanh nhẹn đi sang phòng bên và trở lại với một hộp diêm, đến đứng trước mặt Ivan Ilyits rồi cầm đầu mút một que diêm đánh lên. Que diêm gãy. Que thứ hai cũng chịu cái số phận ấy - cái chị Liza nhà ta mua diêm ở đâu mà chán thế! - cuối cùng cũng có một que diêm cháy được. Đasa thận trọng đưa ngọn lửa vào đầu điếu thuốc lá của Ivan Ilyits. Ánh lửa diêm chập chờn trên cằm nàng. Têlêghin lim dim đôi mắt rít vài hơi cho thuốc cháy. Trước đây chàng không hề biết là người ta có thể vui sướng đến như vậy trong khi châm một điếu thuốc lá.
Trong suốt thời gian ấy Katya ngồi im ngắm Đasa và Têlêghin. Nàng rất mừng, rất mừng cho Đasa, nhưng lòng nàng vẫn buồn rười rượi. Hình ảnh Vađim Pêtrôvits Rôtsin vẫn không phai mờ trong ký ức nàng, nàng vẫn không quên nổi Rôtsin như nàng vẫn hy vọng, không quên được một chút nào: chàng cũng ngồi với hai chị em cạnh bàn ăn như thế này, và cũng có lần nàng lấy diêm cho chàng hút thuốc, cũng tự mình đánh lên cho chàng mà không gãy mất một que nào.
Đến mười hai giờ Têlêghin ra về.
Đasa ôm hôn chị rõ mạnh rồi về buồng đóng cửa lại. Nằm trên giường, gối đầu lên hai bàn tay, nàng thấy mình giờ đây đã ngoi được lên khỏi cái vực u minh buồn tẻ trong đó thời gian ngưng đọng hẳn lại. Xung quanh hãy còn hoang dã trống trải, lòng nàng còn khắc khoải lo âu, nhưng tất cả đều đã nhuốm đậm màu xanh của hạnh phúc.

32

Têlêghin về Moxkva được năm hôm thì nhận được một tờ công lệnh từ Pêtrôgrad gửi tới yêu cầu chàng đến trình diện ở nhà máy Baltic. Nỗi vui mừng khi nhận được lệnh này, buổi còn lại ngày hôm ấy mà chàng đã cùng Đasa đi mua sắm lăng xăng ở ngoài phố, những phút từ biệt vội vàng trên sân ga Nikôlaievxki, rồi sau đó là cái buồng hạng nhì trên xe hỏa với cái lò sưởi kêu lách tách tỏa ra một hơi ấm khô, và cái gói nhỏ buộc ruy-băng mà chàng tìm thấy trong túi, trong có hai quả táo, một tấm sô-cô-la và mấy cái bánh nướng - tất cả những cái đó đều như trong giấc mộng.
Ivan Ilyits cởi khuy áo dạ, duỗi thẳng chân ra, và không sao xóa được cái nụ cười hết sức ngu xuẩn cứ phảng phất trên gương mặt, chàng nhìn người hành khách cùng buồng ngồi đối diện - một cụ già lạ mặt, đeo kính, dáng nghiêm nghị...
- Ông từ Moxkva lên phải không ạ? - cụ già hỏi.
- Vâng, từ Moxkva.
“Moxkva”! Trời ơi, sao mấy tiếng ấy huyền diệu, đáng yêu đến thế!... Những đường phố tràn ngập nắng thu, những chiếc lá vàng sột soạt dưới chân, nàng Đasa nhẹ nhàng, thanh tú đang bước trên lớp lá vàng ấy, giọng nói thông minh, trong trẻo của nàng chàng chỉ nhớ giọng chứ lời lẽ thì chàng chẳng nhớ lấy một câu nào - và mùi hương của đóa hoa ấm áp luôn luôn phảng phất quanh người nàng mỗi khi chàng cúi xuống hôn tay nàng.
- Một thành phố cuồng loạn, đúng là một thành Xôđôm! - cụ già nói: - Tôi đã sống ba năm ở Moxkva... Tôi đã trông thấy đủ điều... - cụ chạng hai chân đi ủng có lớp bọc cao su rất cao và nhổ xuống sàn. - Ra đường thì cứ thấy người chạy đi chạy lại cuống cuồng... Ban đêm thì ánh đèn lóa mắt, biển quảng cáo lập lòe, tiếng ồn nhức óc, tất cả đều quay cuồng rối rít. Người đông như kiến... Thật là vô nghĩa! Phải, Moxkva là thế đấy... Cái rốn của đất nước là thế đấy... Tôi chỉ thấy một cảnh chạy vạy điên rồ, vô nghĩa lý. Anh bạn trẻ, anh có ra trận, có bị thương phải không?... Tôi nhìn qua một cái là biết ngay... anh thử nói cho già này nghe: chẳng lẽ máu dân ta phải đổ ngoài mặt trận vì những cuộc chạy vạy nhăng nhít đáng nguyền rủa này? Đâu là tổ quốc? Đâu là đức tin? Đâu là Sa hoàng? Anh thử chỉ tôi xem. Như tôi đây, hiện tôi đang đi Pêtrôgrad để mua chỉ... Cha đời chỉ với sợi!... Xì!... Tôi sẽ đem gì về Tyumen đây? Chỉ ư?... Không đâu, tôi chẳng đem chỉ về đâu. Về đến nơi, tôi sẽ nói: bà con ơi, chúng ta nguy đến nơi rồi, đến chết cả lũ thôi, đấy, tôi đem về cái ấy đấy... Anh nhớ lấy lời tôi, anh bạn trẻ ạ, ta sẽ phải đền tội, đền tội cho tất cả... Rồi sẽ phải gánh lấy hậu quả của những trò vô nghĩa này... - Cụ già chống gối đứng dậy buông bức rèm ở cửa sổ. Bên ngoài những chấm lửa ở đầu máy phun ra vẽ thành những đường kẻ đỏ rực trong đêm tối. - Người ta quên mất thượng đế, và thượng đế đã bỏ rơi chúng ta... Tôi nói cho ông biết... Sẽ phải đền tội, và đền tội một cách đau đớn vô cùng.
- Thế cụ nghĩ sao ạ: quân Đức sẽ thắng ta chăng? - Têlêghin hỏi.
- Ai biết được, kẻ nào được thượng đế phái đến trừng trị ta, thì ta sẽ chịu khổ vì tay kẻ ấy... Chẳng hạn như ở cửa hiệu nhà tôi, bọn thanh niên bắt đầu giở quẻ... Tôi sẽ chịu đựng, sẽ nhẫn nại ít lâu, rồi tôi sẽ trị cho chúng: đứa này thì tôi bớp lên đầu, đứa kia tôi nện vào gáy, đứa nữa tôi đuổi thẳng cánh... Nhưng nước Nga có phải là cửa hiệu nhà tôi đâu, đó là một cơ ngơi kếch xù! Chúa rất từ bi, nhưng khi người ta để cho con đường dẫn đến Chúa phủ đầy rác rưởi, thì phải dọn đi chứ không à, hả? Tôi muốn nói như thế đấy... Thượng đế đã bỏ rơi thế gian này rồi... Không có gì khủng khiếp hơn được nữa.
Cụ già chắp hai tay lên bụng, nhắm mắt lại. Đôi mục kỉnh ánh lên một cách nghiêm khắc, ông cụ cứ nhấp nhổm ở góc giường, Ivan Ilyits ra khỏi buồng và dừng bên cửa sổ hành lang, mặt gần chạm vào tấm kính. Qua khe hở nhỏ bên cửa, một làn không khí mát rượi, buôn buốt lùa vào toa xe. Ngoài cửa sổ, trong đêm tối, những đường kẻ đỏ rực bay lả tả, đan vào nhau, sa xuống đất. Bánh xe dưới toa ngoan ngoãn gõ đều đều lên những chỗ nối đường ray. Chiếc đầu máy cất tiếng huýt kéo dài, lượn vòng qua một chỗ ngoặt, lửa trong lò chiếu sáng những ngọn thông đen sẫm từ trong bóng tối nhô ra rồi lại chìm vào trong bóng tối.
Đoàn tàu hỏa dằn thình thình lên một đầu ghi, toa tàu khẽ đung đưa, một ngọn đèn xanh lướt qua, và những đường kẻ dài lại vút qua cửa sổ như một làn mưa lửa.
Nhìn những nét kẻ đỏ rực ấy, Ivan Ilyits chợt thấy lòng vui lên phơi phới, chàng thể nghiệm một cách mãnh liệt và trọn vẹn tất cả những sự việc đã xảy ra trong năm ngày vừa qua. Giá chàng có thể nói cho ai biết những cảm xúc của chàng lúc này, người ấy sẽ cho chàng là điên. Nhưng đối với chàng nó chẳng có gì là kỳ quặc hay điên rồ: tất cả đều minh bạch lạ thường.
Chàng cảm thấy trong đêm tối đang có hàng triệu triệu người đang sống, đang đau khổ, đang hấp hối. Nhưng họ chỉ sống một cách ước lệ, và tất cả những gì đang diễn ra trên thế gian cũng đều ước lệ hết, đó hầu như là những hiện tượng bề ngoài, vờ vĩnh, giả tạo đến nỗi chàng, Ivan Ilyits, cố thêm chút nữa, thì mọi thứ sẽ đổi thay, sẽ khác hẳn. Và ở giữa cái ấy có một cái lõi sống: đó là cái bóng dáng của chàng, Ivan Ilyits, đang nghiêng mình bên cửa sổ - Nó là một sinh vật mà chàng thiết tha yêu quí. Nó đã hiện ra từ thế giới của những bóng đen mờ ảo và đang lao nhanh giữa làn mưa lửa bay trên cõi trần thế tối tăm này.
Cái cảm giác tự yêu mình kỳ lạ ấy kéo dài vài giây. Chàng đi vào buồng, trèo lên giường trên, vừa cởi áo vừa nhìn đôi tay to lớn của mình và lần đầu tiên trên đời chàng nghĩ rằng đôi tay ấy đẹp. Chàng chắp đôi tay ấy ra sau gáy, nhắm mắt lại và trông thấy Đasa ngay.
Nàng âu yếm nhìn vào mắt chàng, vẻ bồi hồi xúc động. (Vừa hôm nay, trong phòng ăn nàng đã nhìn chàng như thế. Đasa đang nặn bột bọc thịt làm bánh rán. Ivan Ilyits đi vòng qua bàn đến cạnh nàng và hôn lên cái vai âm ấm của nàng. Nàng vụt ngoảnh lại. Chàng hỏi: “Đasa, em sẽ là vợ anh, được không?”. Nàng chỉ ngước mắt nhìn chàng).
Giờ đây, nằm trên ngăn giường hẹp, chàng nhìn mãi không chán mắt gương mặt Đasa hiện lên rõ mồn một trong ký ức, và cũng lần đầu tiên trên đời chàng thấy vui mừng hân hoan vì Đasa yêu chàng - con người có đôi tay to và đẹp.
Đến Pêterburg, Ivan Ilyits ngay hôm đầu đã ra nhà máy Baltic. Chàng được phân về một xưởng, làm ca đêm.
Ở nhà máy qua ba năm đã có nhiều thay đổi: số công nhân đông lên gấp ba, một phần là thợ trẻ, một phần là thợ ở Ural và ở các thành phố miền tây chuyển tới, một phần thì lấy từ quân đội thường trực về. Công nhân đọc báo, chửi chiến tranh, chửi Sa hoàng, chửi hoàng hậu, chửi Raxputin, chửi các tướng tá, rất căm giận, và đều tin chắc rằng sau chiến tranh “cách mạng sẽ bùng nổ”.
Họ căm giận nhất là vì ở các lò bánh mì trong thành phố người ta bắt đầu trộn vụn trấu vào bột, và vì ở các chợ búa đôi khi đến mấy ngày liền không có thịt, mà nếu có thì cũng hôi ình lên: khoai tây thì chở về toàn khoai bị giá rét làm hỏng, đường thì lẫn cả đất. Trong khi đó bọn chủ hiệu, bọn đầu cơ và những kẻ mới phát tài nhờ thầu cho quân nhu, trả đến năm mươi rúp để mua một hộp kẹo, hàng trăm rúp để mua một chai sâm-banh và không chịu nghe ai nhắc đến chuyện giảng hòa với Đức.
Têlêghin được nghỉ phép ba ngày để thu xếp việc riêng. Suốt ba ngày ấy chàng chạy khắp thành phố tìm nhà ở. Chàng đã xem đến mấy chục cái nhà mà vẫn không thấy nhà nào vừa ý cả. Nhưng đến ngày cuối cùng thì đột nhiên chàng tìm được đúng cái chỗ ăn ở mà chàng vẫn hình dung khi còn ngồi trên toa xe lửa: năm căn phòng xinh xắn với những cửa sổ chùi sạch bóng trông ra phía mặt trời lặn. Căn nhà này ở cuối phố Kamenny Oxtrôv, so với túi tiền Ivan Ilyits thì hơi đắt, nhưng chàng vẫn thuê ngay và viết thư báo cho Đasa biết.
Đến đêm thứ tư, Têlêghin ra nhà máy. Trên khoảng sân đen ngòm những bùn lẫn than, mấy ngọn đèn lồng cháy trên những cái cột cao. Khói nhà máy bị hơi ẩm và gió lùa xuống sát đất, không khí ngập ngụa một làn hơi than vàng vàng, ngột ngạt. Qua những khung cửa sổ to hình bán nguyệt bám đầy bụi của các xưởng, có thể thấy vô số những ròng rọc và dây cua-roa đang quay tít, những bàn gang trên các máy cái chuyển động qua lại, khoan, bào, đánh bóng thép và đồng. Những tấm đĩa cứng trên máy đột quay vù vù. Trên cao, những con lăn của cần trục chạy đi chạy lại, bay vào bóng tối. Các hầm lò cháy rừng rực hắt ra một ánh sáng hồng và trắng. Hình chữ thập khổng lồ của một máy búa chạy bằng hơi nước nện xuống ầm ầm làm rung chuyển cả mặt đất. Từ những ống khói thấp, những cột lửa phun lên nền trời xám xịt. Những bóng người đi đi lại lại giữa tiếng máy chạy ầm ầm.
Ivan Ilyits đi vào phân xưởng máy dập vỏ hạt bi. Kỹ sư Xtrukôv, một người quen cũ, đưa chàng đi một lượt qua phân xưởng, giảng giải cho chàng hiểu một số đặc điểm mới của công việc mà chàng chưa biết. Rồi Xtrukôv đưa Têlêghin vào một căn phòng bằng ván ở góc phân xưởng, chỉ cho chàng xem các sổ sách, các bảng số, giao chìa khóa cho chàng, rồi vừa mặc áo ngoài vừa nói:
- Tỷ lệ phế phẩm của xưởng hiện nay là hai mươi ba phần trăm. Cậu cố giữ nguyên con số đó.
Trong lời lẽ của Xtrukôv và trong thái độ của anh khi giao ca, Ivan Ilyits cảm thấy anh rất hững hờ với công việc. Ấy thế mà chàng biết trước kia Xtrukôv là một kỹ sư rất giỏi và là một con người rất nhiệt thành. Điều đó làm cho chàng thấy phiền lòng. Chàng hỏi:
- Theo anh, không thể giảm bớt tỉ lệ phế phẩm đi được à?
Xtrukôv ngáp dài, lắc đầu, úp cái mũ lưỡi trai lên mái đầu bù xù không chải và cùng Têlêghin trở ra phòng máy cái.
- Thôi nhổ toẹt vào, cậu ạ. Cậu cần gì? Ừ thì cứ cho là ở mặt trận ta để cho hai mươi ba phần trăm thằng Đức sống sót: đối với cậu cũng thế thôi mà. Vả lại cũng chẳng biết làm thế nào được: máy mòn lắm rồi. Thôi kệ mẹ nó!
Xtrukôv dừng lại bên một cái máy dập. Một ông thợ già chân ngắn, mặc tạp-dề da, đặt dưới cần dập một cục thép đỏ rực. Khung máy hạ xuống, cần dập ấn sâu vào cục thép hồng như ấn vào bơ, một ngọn lửa bùng ra, khung máy nâng lên và một vỏ đạn bi lăn ra đất. Lập tức ông già lại đưa một cục thép khác vào. Một người thợ khác, trẻ tuổi và cao lớn, có hàng ria đen, lúi húi ở bên lò. Xtrukôv nói với ông thợ già:
- Thế nào bác Rublyôv, vỏ đạn chuyến này có nhiều phế phẩm không?
Ông già cười nhạt hất bộ râu thưa thớt chỉ sang một bên, rồi liếc nhanh về phía Têlêghin, vẻ tinh quái:
- Đúng là có phế phẩm. Ông có thấy máy chạy thế nào không? - ông cụ để tay lên cái cột bôi mỡ xanh lè làm trục cho cái khung máy trượt lên trượt xuống, - Bắt đầu thấy có chấn động. Đáng lẽ phải loại từ lâu rồi mới phải.
Người thợ trẻ đứng bên lò. Vaxka Rublyôv, con trai ông thợ già, cười lớn:
- Lẽ ra còn phải loại nhiều, máy rỉ hết rồi.
- Thôi tôi xin, nhẹ tay tí chứ Vaxili ạ, - Xtrukôv vui vẻ nói.
- Nhẹ tay cũng chả được. - Vaxka lắc cái đầu xoăn tít và trên gương mặt gầy, có đôi lưỡng quyền hơi cao, hàng ria đen nhánh và đôi mắt nhìn trân trân, nở một nụ cười cay độc và đầy tự tin.
- Hai người thợ giỏi nhất xưởng đấy. - Xtrukôv nói nhỏ với Têlêghin khi hai người bỏ đi. - Thôi chào cậu nhé. Hôm nay tôi đến tiệm “Lục Lạc Đỏ” đây. Cậu chưa bao giờ đến đấy à? Tiệm khá lắm, lại có cả rượu vang nữa.
Têlêghin tò mò quan sát hai bố con Rublyôv. Lúc nãy chàng đã ngạc nhiên nhận thấy họ nói chuyện với Xtrukôv bằng một thứ ngôn ngữ gần như quy ước, kể từ lời lẽ cho đến nụ cười và khóe mắt, và cả ba dường như có ý dò xét Têlêghin: chàng là bạn hay là thù đây? Căn cứ vào cái vẻ thoải mái của hai cha con Rublyôv khi nói chuyện với chàng trong những ngày kế theo, chàng hiểu mình là “bạn”.
Cái cương vị “bạn” này có lẽ cũng chẳng có gì liên quan đến quan điểm chính trị của Têlêghin: cái quan điểm ấy rất mơ hồ vì chàng chẳng mấy khi nghĩ đến nó. Cái cương vị ấy có liên quan nhiều hơn đến cái cảm giác tin cậy mà bất cứ ai cũng đều thể nghiệm trước mặt chàng: chàng không nói gì và làm gì đặc biệt cả, nhưng ai cũng thấy rõ ràng chàng là một người hiền lành, trung thực, minh bạch từ đầu đến cuối, một người của mình.
Vào những phiên trực đêm Ivan Ilyits thường lại gần hai cha con Rublyôv nghe họ kiếm chuyện cãi nhau.
Vaxka Rublyôv đọc khá nhiều, và lúc nào cũng nói chuyện đấu tranh giai cấp với lại chuyên chính vô sản. Anh ta nói năng rất sách vở và lưu loát. Ông cụ Ivan Rublyôv lại là người theo cựu giáo, một ông già tinh khôn, không mộ đạo một cách sợ sệt. Ông cụ nói:
- Trong các khu rừng Perm ở quê ta có mấy tu viện rất nhiều sách thánh. Trong sách có nói đủ cả: cả cuộc chiến tranh này, cả tình trạng khánh kiệt sau chiến tranh: đất nước ta rồi sẽ tan hoang hết. Lại có nói rõ sẽ còn sống sót được bao nhiêu người: mươi phần cũng chỉ còn được một... Rồi sẽ có một người rời tu viện ra khỏi rừng, sẽ cai trị đất nước này, và sẽ cai trị bằng lời phán truyền khủng khiếp của thượng đế.
- Toàn chuyện thần bí, - Vaxka nói.
- Mày thì chỉ biết khoe chữ, đồ mất dạy, đồ ngu... Thế mà cũng tự xưng là người theo chủ nghĩa xã hội! Mày mà xã hội gì - làm kẻ cướp thì có! Hồi trước tao cũng thế đấy. Ấy, nó thì chỉ chực đội lệch cái mũ sang bên tai, nổi quáng gà lên rồi vừa chạy vừa la: “Hãy đứng lên tranh đấu...!”. Tranh đấu với ai, giành cái gì mới được chứ? Đồ ngu!
- Ông xem, ông cụ ăn nói thế đấy, - Vaxka vừa nói vừa giơ ngón tay cái chỉ vào bố - một tay vô chính phủ thuộc loại tai hại nhất, không hề biết đầu cua tai nheo về chủ nghĩa xã hội, thế mà tôi nói gì ông cụ cũng quát lấy được, chẳng cần lý lẽ gì.
- Không được đâu, các ngài ạ, - ông Ivan Rublyôv vừa ngắt lời con vừa cặp trong lò ra một cục thép lửa bắn tung tóe, chuyển nó sang phía máy thành một đường vòng cung, khéo léo đặt nó vào dưới cái bàn dập đang hạ xuống, - các ngài đọc lắm sách, nhưng lại không đọc đúng thứ sách cần đọc. Ngày nay chẳng ai có được đức nhẫn nại, các ngài có thèm nghĩ đến đâu... Các ngài không hề có chút ý thức rằng thời buổi này ai nấy đều phải là người thật thà khờ dại.
- Óc bố lộn tùng phèo hết rồi bố ạ, thế vừa qua ai quát tướng lên: tao là người cách mạng?
- Phải, tao quát đấy, Tao ấy à, có chuyện gì thì tao sẽ cầm cái nạng này đi lên trước ai hết. Việc gì tao lại đi bên Sa hoàng? Tao là mu-gích. Trong ba mươi năm cày cuốc, mày có biết tao đã lật xới bao nhiêu đất lên rồi không? Dĩ nhiên tao là người cách mạng; tao phải lo cứu rỗi phần hồn của tao chứ!
Têlêghin hôm nào cũng viết thư cho Đasa, còn Đasa thì viết thư cho chàng thưa hơn. Thư của nàng rất lạ, nghe như bọc một lớp băng, và mỗi khi đọc, Ivan Ilyits có một cảm giác gần như rờn rợn. Thường thường chàng ngồi cạnh cửa sổ đọc đi đọc lại mấy lần những dòng chữ to viết chật cả hai trang giấy, cứ sắp hết dòng thì lại cong dần xuống.
Rồi chàng nhìn ra khóm rừng màu tím mờ mờ trên khu đảo, nhìn lên bầu trời phủ mây, cũng đục nhờ nhờ như nước dưới dòng kênh, và nghĩ rằng chính phải thế mới đúng: thư của Đasa phải lạnh như thế, chứ không âu yếm như chàng vẫn mong đợi một cách không biết điều.
Nàng viết:
“Anh thân mến, anh thuê một căn nhà có đến năm phòng. Anh cứ nghĩ mà xem đã tự rước lấy bao nhiêu khoản tốn kém. Vì dù cho sau này anh không ở một mình chăng nữa thì như thế vẫn quá nhiều: những năm phòng! Còn người giúp việc thì phải thuê đến hai người: thời buổi này thì như thế tốn quá. Ở chỗ em, mùa thu Moxkva rất lạnh, mưa nhiều, trời không thấy hừng lên được chút nào. Ta sẽ đợi sang xuân...”
Nếu trước đây, hôm Têlêghin lên đường, chàng hỏi nàng có vui lòng lấy chàng không. Đasa chỉ trả lời bằng một cái nhìn, thì bây giờ trong thư từ nàng cũng không bao giờ trực tiếp nhắc tới việc cưới xin hay tới cuộc sống gia đình của hai người sau này. Phải đợi sang xuân.
Bây giờ mọi người đều đợi sang xuân và tuyệt vọng chờ mong một phép thần kỳ như vậy. Cuộc sống đã ngừng lại, đã mụ đi để chìm dần vào giấc ngủ mùa đông, sống bằng lượng mỡ dự trữ của mình. Hình như nếu cứ thức nữa thì người ta không còn đủ sức mà chịu đựng cảnh chờ đợi thêm một mùa xuân đẫm máu nữa.
Có lần Đasa viết:

“... Trước đây em không muốn nói hay viết thư cho anh biết về cái chết của Bexxônôv. Nhưng hôm qua lại có người kể cho em nghe chi tiết về cái chết khủng khiếp của hắn trên đại lộ Tverxkôi. Trông hắn rất tội nghiệp, và em vẫn có cảm giác là nếu hôm ấy em không hắt hủi hắn thì hắn đã không đến nỗi phải chết như vậy. Nhưng em đã hắt hủi hắn. Em không thể làm khác đi được, và ví thử phải sống lại quãng đời đã qua một lần nữa, em cũng sẽ làm như thế”.

Têlêghin đã ngồi suốt nửa ngày để trả lời bức thư ấy.

“Làm sao có thể nghĩ rằng anh sẽ không nhận một cái gì của Đasa đem lại cho anh - Chàng viết rất thong thả, nghĩ thật kỹ để đừng có lấy một từ ngữ nào quanh co. - Thỉnh thoảng anh vẫn tự kiểm nghiệm mình: dù Đasa có yêu một người nào khác chăng nữa, nghĩa là dù có xảy ra cái điều khủng khiếp nhất đối với anh... anh cũng sẽ nhận luôn cả điều đó nữa... Anh sẽ không thể nào quên đi được, không bao giờ: mặt trời của anh đã tắt... nhưng lẽ nào tình yêu của anh đối với em chỉ có trong niềm vui mà thôi? Tình yêu có thể sâu đến nỗi người ta muốn đem cho cả cuộc sống: anh đã biết cái cảm giác này... Chắc Bexxônôv cũng có cái cảm giác này khi lên đường ra mặt trận... Và Đasa ạ, em phải cảm thấy mình tự do hoàn toàn... Anh không xin gì ở em hết, kể cả tình yêu. Điều đó trong thời gian gần đây anh đã hiểu ra được...”.

Hai hôm sau Ivan Ilyits ở nhà máy về lúc rạng đông, tắm rửa rồi vào giường ngủ, nhưng vừa nằm xuống đã bị dựng dậy ngay: có điện.

“Mọi việc đều tốt lành. Em yêu anh quá. Đasa của anh”.

Vào một ngày chủ nhật kỹ sư Xtrukôv ghé nhà Têlêghin và rủ anh đến tiệm “Lục lạc đỏ”.
Tiệm dọn dưới căn nhà hầm. Cái trần xoay vòm cuốn và bốn bức tường đều được trang trí bằng những hình chim ngũ sắc, bằng những chú bé có gương mặt dâm đãng, và những đường lượn cong ngụ quá nhiều ý nghĩa.
Trong tiệm ồn ào và mù mịt khói thuốc lá. Trên một bục hòa nhạc có một người bé nhỏ, đầu hói, hai má đánh phấn hồng, đang cho mười ngón tay chạy trên phím đàn dương cầm. Mấy viên sĩ quan ngồi uống rượu punch hạng nặng và bô bô nhận xét về những người phụ nữ mới vào. Những ông bồi thẩm ham chuộng nghệ thuật đang tranh luận oang oang. Hoa hậu của căn hầm, một giai nhân tóc đen có đôi mắt húp, cất tiếng cười lanh lảnh. Antôska Arnôlđôv, tay vân vê bờm tóc, ngồi viết phóng sự về mặt trận. Sát tường, trên một cái bệ, vị thủy tổ của nghệ thuật vị lai, vốn là một bác sĩ thú y ho lao, mặt mày hốc hác, gục mái đầu say xuống bàn, hồn chìm trong giấc điệp. Ông chủ tiệm, xưa vốn là kép hát, tóc dài, dáng nhẫn nhục và nghiện ngập, thỉnh thoảng lại hiện ra ở khung cửa ngách, nhìn đám khách với đôi mắt điên rồ, rồi lại lùi vào nhà trong.
Xtrukôv bấy giờ, đã chuếch choáng vì cốc rượu punch, nói với Têlêghin:
- Tại sao tôi lại ưa cái tiệm này? là vì không nơi nào tìm được một cảnh thối nát trọn vẹn như ở đây: khoái vô cùng!... Cậu thử nghĩ mà xem: cái con mẹ gầy đét ngồi ở góc đàng kia kìa, trông kinh chưa, không nhúc nhích được nữa: loạn thần kinh đến mức tột cùng rồi - ấy thế mà họ cứ mê tít thò lò đi đấy.
Xtrukôv cười hô hố, nhấp một hớp rượu, rồi chẳng buồn lau đôi môi mềm nhũn điểm bộ ria Tatar, tiếp tục kể cho Têlêghin nghe tên các khách hàng, giơ ngón tay chỉ vào những bộ mặt thiếu ngủ, ốm yếu dở điên, dở tàng của họ...
- Đấy đều là những “người Môhican cuối cùng cả”... Những tàn dư của các phòng khách thẩm mỹ! Chao ôi! Meo mốc đến thế là cùng! Họ rút lui vào cố thủ ở đây, và làm ra cái vẻ như thể không hề có chiến tranh, mọi sự đều như cũ.
Têlêghin lắng nghe và quan sát... Vì nóng, vì khói thuốc lá và vì hơi men, mọi vật đều chập chờn như trong giấc mộng. Đầu chàng choáng váng. Chàng trông thấy mấy người đi ra phía cửa; ông bác sĩ thú y khó nhọc giương đôi mắt vàng dấp dính; bộ mặt điên rồ của ông chủ tiệm từ sau tường nhô ra; người đàn bà chết dở ngồi ở bàn bên nâng đôi mi mắt buồn ngủ lên, và đôi mắt bà ta tỉnh táo hẳn ra, bà ta ngồi thẳng dậy một cách linh hoạt lạ lùng, nhìn về phía mọi người đang nhìn...
Trong căn hầm đột nhiên im phăng phắc, một cái cốc rơi xuống sàn vỡ đánh choang một tiếng.
Ở cửa ra vào có một người đã đứng tuổi, dáng tầm thước, đang đứng nghiêng nghiêng, một bên vai đưa ra phía trước, hai tay đút vào túi chiếc áo ngoài bằng da. Khuôn mặt hẹp của hắn với bộ râu đen vuốt thẳng, đang mỉm cười vui vẻ, làm hằn lên hai nếp nhăn sâu quen thuộc ở hai bên mép. Nổi bật lên trên khuôn mặt ấy là hai con mắt chăm chú, thông minh, sắc sảo ném ra những tia xám xám. Người ấy đứng nhìn như vậy đã được khoảng một phút. Từ ngoài khung cửa tối om hiện ra một khuôn mặt khác, mặt một người công chức với nụ cười lo lắng, ghé sát tai người kia nói thầm thì một câu gì không rõ. Người kia nhăn cái mũi to, tỏ ý khó chịu.
- Anh lại mang cái đần độn của anh đến đây làm gì... Chà, anh làm ta phát ngấy lên rồi. - Hắn lại đưa mắt nhìn đám khách một cách còn vui vẻ hơn nữa, lắc bộ râu một cái và nói to, giọng ề à: - Thôi, chào các bạn vui nhộn nhé!
Nói đoạn hắn đi ngay. Cánh cửa đóng sập lại. Cả gian hầm nhốn nháo lên.
Xtrukôv bấm móng vào tay Têlêghin.
- Đã trông thấy chưa? Trông thấy chưa? - Anh ta vừa nói vừa thở hổn hển - Raxputin đấy.

33

Vào khoảng ba giờ sáng, Têlêghin đi bộ từ nhà máy về. Ấy là vào một đêm tháng chạp giá buốt. Không thấy có chiếc xe ngựa thuê nào. Độ rày ngay ở trung tâm thành phố cũng khó tìm được xe ngựa vào giờ này... Têlêghin rảo bước đi nhanh giữa lòng đường vắng vẻ, hơi thở của chàng đọng thành một làn hơi trắng đục phả vào cái cổ áo khoác xốc cao lên.
Dưới ánh sáng của những ngọn đèn đường thưa thớt, những hạt băng mảnh rơi xuyên qua làn không khí lấp lánh như những mũi kim. Tuyết kêu lạo sạo rất to dưới chân. Phía trước, trên một cái mặt nhà vàng và phẳng, lấp loáng những ánh phản chiếu đo đỏ. Rẽ ngoặt qua một góc phố, Têlêghin trông thấy ánh lửa của một cái lồng ấp bằng song sắt, và xung quanh là những bóng người co ro trùm áo khoác kín mít đang ngồi quây lại sưởi, hơi tỏa ra mù mịt ở quanh người. Cách đấy một quãng có độ một trăm người xếp thành hàng dài, đứng im phăng phắc - toàn đàn bà, cụ già và thiếu niên: họ đang đứng đợi trước cửa hàng thực phẩm. Cạnh đấy, một người gác đêm đang giẫm giẫm đôi ủng dạ xuống mặt đường và đập hai chiếc bao tay vào nhau cho đỡ rét.
Têlêghin đi dọc dãy người đang xếp hàng, nhìn những bóng người co quắp trùm khăn san và quàng chăn kín mít.
- Hôm qua ở phố Vyborxkaia có ba cửa hàng bị cướp sạch. - một người nói.
- Chỉ còn có cách ấy thôi.
- Hôm qua tôi hỏi mua nửa lít dầu hỏa: họ bảo không có, và từ nay sẽ không bán nữa, ấy thế mà mụ bếp nhà Đementyyev đến ngay lúc ấy, thì lại được mua những năm lít theo giá tự do, ngay trước mắt tôi.
- Bao nhiêu một lít ạ?
- Hai rúp rưỡi cô ạ.
- Dầu hỏa ấy à?
- Cái lão chủ hiệu ấy không phải cứ thế mà nuốt trôi được đâu, ta cứ nhớ lấy để bụng, rồi sẽ có lúc biết tay nhau.
- Chị tôi bảo là ở phố Ôkhta cũng có một lão chủ hiệu buôn bán cái kiểu ấy, thế rồi bị người ta bắt trói lại dìm vào thùng nước muối dưa, đầu xuống trước. Hắn van lạy mãi nhưng rốt cục cũng chết đuối trong thùng.
- Thế cũng chưa sướng, phải ác nữa kia mới đáng.
- Còn bây giờ thì chúng ta cứ chết cóng ở đây.
- Trong khi đó thì hắn tợp nước chè nóng.
- Ai tợp nước chè nóng? - Một giọng khàn khàn hỏi.
- Thì cả bọn chúng nó chứ ai. Bà tướng nhà tôi mười hai giờ trưa mới ngủ dậy, và từ đấy cứ ăn uống xì xụp suốt đêm. Sao không vỡ bụng ra nhỉ?
- Còn cô thì rét cóng, sinh lao ra mà chết.
- Ông nói đúng quá, tôi đã bắt đầu ho ít lâu nay rồi.
- Còn cô chủ tôi thì làm đĩ, các bác ạ. Tôi đi chợ về lúc nào cũng thấy phòng ăn đầy những khách đàn ông say rượu. Họ đòi trứng rán, bánh mì đen, vôđka, tóm lại họ thích ăn thật thô vào.
- Chúng nó nướng tiền của Anh đấy, - có một người nói, giọng quả quyết.
- Ông muốn nói thế nào?
- Chúng nó bán tất, tôi nói các bác cứ tin cho: các bác đứng đây chẳng hay biết gì, chứ chúng bán tất cả các bác, bán trước hàng năm chục năm kia. Cả quân đội cũng bị bán đứt.
- Lạy Chúa.
Một giọng ngạt mũi lại hỏi:
- Ông gác ôi, ông gác.
- Có chuyện gì đấy?
- Hôm nay họ có phát muối không ạ?
- Chắc là không.
- Chà quân chết tiệt!
- Thế là năm hôm nay chẳng có hạt muối nào.
- Chúng nó uống máu dân, quân khốn nạn.
- Thôi xin các bà. Kêu lắm rát họng, - người gác nói, giọng ồ ồ.
Têlêghin đã đi quá dãy xếp hàng. Tiếng xì xào im ắng dần, và những dãy phố thẳng lại vắng tanh, ngập trong sương giá mịt mùng.
Ivan Ilyits ra đến bờ sông, rẽ ngoặt lên cầu, và khi gió lật tung vạt áo khoác của chàng lên, chàng mới chợt nhớ ra rằng dù sao cũng phải thuê chiếc xe ngựa, nhưng rồi lại quên khuấy đi ngay.
Xa xa bên kia bờ, những ngọn đèn đường tù mù nhấp nháy. Dãy đèn treo đánh dấu lối đi bộ qua sông kéo dài thành một đường chéo mờ mờ trên mặt băng. Một ngọn gió lạnh buốt thổi lồng lộng trên dòng Nêva tối tăm, vắng vẻ và rộng mênh mông, tung những hạt tuyết lên rào rào, kêu vo vo trên những đường dây tàu điện, trên những chấn song của dãy lan can trên cầu.
Ivan Ilyits dừng lại nhìn xuống lòng sông tối tăm ảm đạm ấy, tâm trí chỉ nghĩ mãi đến cái điều ít lâu nay vẫn ám ảnh chàng: nghĩ đến Đasa, đến mình, đến cái giây phút chàng đứng trên toa tàu và hạnh phúc đã tràn vào lòng chàng như một ngọn lửa.
Quanh chàng tất cả đều mơ hồ, mù mịt, đều mâu thuẩn và thù nghịch đối với niềm hạnh phúc ấy. Cứ mỗi lần lại phải gắng sức mới có thể tự nhủ một cách thanh thản: “ta đang sống, ta đang hạnh phúc, đời ta sẽ sáng sủa và tốt đẹp vô cùng”. Dạo ấy, bên cửa sổ, giữa những tia lửa bay quanh toa tàu đang lao vun vút trong không gian, nói như thế rất dễ, nhưng bây giờ phải nỗ lực phi thường mới tách được mình ra khỏi những bóng người gần như tê dại đang xếp hàng dài dằng dặc, ra khỏi ngọn gió tháng chạp đang cất tiếng rú thảm thiết, ra khỏi cảnh sa đọa chung, ra khỏi cái chết đang treo lơ lửng trên đầu.
Têlêghin chỉ tin chắc có một điều: tình yêu của chàng đối với Đasa, vẻ kiều diễm duyên dáng tuyệt vời của Đasa và cái cảm giác xán lạn của chàng về bản thân, khi đứng trên toa xe lửa, và biết mình được Đasa yêu: cái tốt lành của cuộc sống là ở đấy. Ngôi đền cũ kỹ và ấm cúng của cuộc sống, có lẽ hơi chật chội nhưng rất diệu kỳ, đã lung lay và nứt rạn dưới những vố khủng khiếp của chiến tranh, các dãy cột đã rung rinh, cái mái vòm đã nứt suốt chiều ngang, những phiến đá cổ kính đã lở ra từng mảng, thế mà đây, giữa đám bụi vữa và giữa tiếng sụp đổ ầm ầm của ngôi đền, có hai người, Ivan Ilyits và Đasa, sống trong trạng thái điên rồ hoan hỉ của tình yêu, bất chấp tất cả, vẫn ước mong hạnh phúc. Ước mong như thế có phải lẽ không?
Nhìn sâu vào đêm tối ảm đạm, vào những đốm lửa lập lòe, nghe tiếng gió gào thê thiết, Ivan Ilyits nghĩ thầm: “Tự dối lòng mà làm gì: ước mong hạnh phúc là điều cao cả hơn hết. Ta bất chấp tất cả ư? Cứ cho là thế đi. Nhưng liệu ta có thể giải tán những người xếp hàng, nuôi những người đói, chặn chiến tranh lại không?
Không. Mà nếu đã không làm được, thì ta có phải chìm luôn vào bóng tối ấy, và từ bỏ hạnh phúc không? Không, không cần phải thế. Nhưng liệu ta có thể hạnh phúc không, liệu hạnh phúc có về với ta không?...”
Ivan Ilyits đi qua cầu và bước dọc theo bờ sông xây kè đá, không hề nhận thấy mình đang đi đâu. Ở đây những cột đèn điện cao và mảnh lắc lư trong gió, chiếu xuống đường một ánh sáng rực rỡ. Bụi tuyết bay là là trên lớp gỗ lát đường bị gió quét sạch, phát ra một tiếng reo khô khan. Những khung cửa sổ của cung điện mùa đông đều tối tăm và trống trải. Cạnh cái chòi canh sơn sọc chéo, giữa đống tuyết bị gió dồn lại, một người lính cao lớn mặc áo tulup đang đứng gác, súng áp vào ngực.
Đang đi Ivan Ilyits bỗng dừng lại, nhìn lên hàng cửa sổ rồi lại rảo bước đi nhanh hơn, lúc đầu đi ngược gió, nhưng rồi một lát sau lại thấy gió thổi sau lưng. Chàng có cảm giác là giờ đây chàng có thể nói với tất cả mọi người, tất cả, không trừ một ai, cái chân lý hiển nhiên, đơn giản này, và mọi người sẽ tin chàng: “Các bạn thấy đấy: không thể nào sống thế này được nữa. Các quốc gia được xây dựng trên lòng căm thù, các biên giới được vạch ra vì lòng căm thù, mỗi người trong các bạn đều là một khối căm thù, một pháo đài chĩa súng ra khắp bốn phía. Sống mà cứ thấy chật chội và sợ hãi. Cả thế giới đã ngạt thở trong căm thù, con người tàn sát nhau, máu chảy thành sông, như thế chưa đủ hay sao? Các bạn còn muốn rằng, ngay ở đây, từng nhà một, người ta cũng phải tiêu diệt lẫn nhau nữa hay sao? Hãy tỉnh ngộ, hãy vứt bỏ vũ khí, hãy xóa sạch các biên giới, hãy mở toang hết các cửa ra trước cuộc sống... Loài người có thừa đất để trồng lúa mì, thừa bãi cỏ cho gia súc ăn, thừa những sườn đồi để trồng nho... Những kho tàng trong lòng đất không bao giờ cạn: sẽ có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Chẳng lẽ các bạn không thấy rằng các bạn vẫn đang chìm đắm trong đêm tối của những thế kỷ đã qua từ lâu...”.
Ở khu vực này của thành phố không thấy có xe ngựa thuê. Ivan Ilyits lại qua sông Nêva và đi sâu vào những phố xép cong queo của khu Pêterburgxkaia Xtôrôna. Vừa đi vừa nói to những ý nghĩ của mình lên, rốt cuộc chàng lạc đường và cứ đi lang thang, hú họa trên những dãy phố tối tăm và vắng vẻ, mãi cho đến khi ra đến bờ kênh xây nào đấy.
“Một cuộc đi dạo phi thường!”, Ivan Ilyits đứng lại thở, cười một mình rồi xem đồng hồ. Đúng năm giờ sáng. Từ sau một góc phố gần đấy, một chiếc xe hơi lớn mui trần nhô ra, đèn không bật, bánh xe kêu kin kít trên tuyết. Ngồi ở tay lái là một viên sĩ quan mặc chiếc áo ca-pốt phanh ngực. Khuôn mặt xương xương của hắn tái mét, đôi mắt lờ đờ như mắt người say rượu rất nặng. Sau lưng hắn là một viên sĩ quan khác đội mũ lưỡi trai hất ngược ra sau gáy, hai tay giữ một cái bọc dài bằng cói che lấp cả mặt hắn.
Người thứ ba ngồi trên xe là một người mặc thường phục, cổ áo bành tô bẻ đứng lên, đầu đội mũ chụp cao bằng da hải ly. Hắn nhổm dậy nắm lấy vai người ngồi cầm lái. Chiếc xe hơi dừng lại gần cái cầu con. Ivan Ilyits trông thấy cả ba người nhảy xuống tuyết. lôi cái bọc ra, kéo lê nó mấy bước trên tuyết, rồi chật vật nhấc bổng nó lên, ì ạch khiêng ra giữa cầu, gác lên lan can và hất xuống kênh. Hai viên sĩ quan lập tức trở về xe, còn người mặc thường phục thì còn đứng lại một lát, cúi xuống nhìn, rồi bẻ lại cổ áo chạy theo người kia. Chiếc xe hơi mở hết tốc lực chạy biến đi.
- Hừ, lại chuyện ám muội gì thế này, - Ivan Ilyits lầm bầm.
Nãy giờ chàng vẫn đứng yên, nín thở nhìn những sự việc vừa xảy ra. Chàng đi lên cầu, nhưng chàng đã cố căng mắt ra nhìn xuống cái khoảng băng tan khá rộng, đen ngòm ở dưới cầu mà vẫn không thấy gì, chỉ có một dòng nước âm ấm, hôi hám từ trong cống chảy xuống đấy ồng ộc.
- Hừ, chuyện ám muội gì thế không biết, - Ivan Ilyits lại làu bàu, rồi nhăn mặt đi trên vỉa hè chạy dọc bờ kênh. Đến một góc phố, chàng trông thấy một chiếc xe trượt chở thuê, người đánh xe là một ông già lụ khụ người phủ đầy sương băng, cầm cương một con ngựa môi vều.
Khi đã ngồi lên xe và cài kín tấm diềm đóng băng cứng đét, Têlêghin nhắm mắt lại và thấy khắp người mỏi nhừ ra, “Ta yêu: đó là một chân lý, - chàng tự nhủ, - dù ta có làm điều gì chăng nữa, nhưng nếu đó là vì tình yêu thì điều đó cũng đều tốt đẹp”.

34

Cái vật bọc trong bao cói mà ba người lao từ trên cầu xuống dòng kênh là xác của Raxputin. Muốn giết chết gã mu-gích lực lưỡng và có sức sống dai phi thường này, họ đã phải phục cho hắn uống rượu vang có pha cyanur kali cho thật say, rồi bắn vào ngực, vào lưng, vào gáy hắn, và cuối cùng dùng chày sắt đập vỡ sọ hắn ra. Ấy thế nhưng khi người ta tìm ra xác hắn và lôi từ dưới kênh lên, người thầy thuốc xác định rằng Raxputin chỉ tắt thở khi đã chìm xuống dưới lớp băng.
Vụ ám sát này dường như là một hiệu lệnh mở rộng cửa cho tất cả những sự việc sẽ bắt đầu diễn ra hai tháng sau.
Raxputin trước kia đã từng nói nhiều lần rằng hắn chết đi thì ngai vàng sẽ sụp đổ và dòng họ Rômanôv sẽ diệt vong. Chắc hẳn trong con người hoang dã và hung ác này đã có được một linh cảm mơ hồ về tai họa sắp tới, giống như mối linh cảm của một con chó khi trong nhà sắp có người chết. Và cái chết của hắn - kẻ bảo vệ cuối cùng của ngai vàng, gã mu-gích đã bỏ làng đi ăn trộm ngựa, kẻ cuồng tín hung hãn điên cuồng - đã đến một cách khó khăn, gớm guốc.
Hắn chết đi, trong hoàng cung bắt đầu có một không khí thê lương, ghê rợn, trong khi cả nước hớn hở reo mừng. Gặp nhau, người ta cứ chúc mừng nhau nhân dịp này. Nikôlai Ivanôvits từ Minxk viết thư cho Katya:
“Đêm nhận được tin này, các sĩ quan ở bộ tham mưu của tổng tư lệnh sai mua về chiêu đãi sở tám tá sâm-banh, Khắp mặt trận binh sĩ reo “ura” vang dậy...”
Mấy hôm sau dân Nga đã quên vụ ám sát này, nhưng trong cung điện thì người ta chưa quên: ở đấy họ tin lời tiên đoán của Raxputin và hầm hè chuẩn bị đối phó với cách mạng, với một nỗi tuyệt vọng âm thầm. Thành Pêtrôgrad được bí mật chia ra thành từng khu vực: người ta yêu cầu đại công tước Xerghêy Mikhailôvits cung cấp súng máy, rồi đến khi bị đại công tước khước từ, người ta cho đưa súng máy từ Arkhangelxk về và đem bốn trăm hai mươi khẩu đặt trên các gác xép ở các ngã ba, ngã tư trong thành phố. Sức ép đối với báo chí được tăng cường, báo ra hàng ngày có những cột bị kiểm duyệt trắng xóa.
Hoàng hậu viết cho chồng những bức thư tuyệt vọng, cố gắng thức tỉnh ý chí và nghị lực trong lòng nhà vua. Nhưng Sa hoàng như người bị thôi miên, cứ ngồi lì ra ở Môghilev, với mười triệu tay súng vẫn trung thành với ngài - ngài không hề hoài nghi chút nào về lòng tận trung của họ. Những vụ nổi loạn của các bà nội trợ và những tiếng la ó trong những đám người xếp hàng được ngài cho là không đáng sợ bằng quân đội của ba đế quốc đang ép mạnh vào chiến tuyến Nga.
Trong khi đó ở Môghilev, tham mưu trưởng của tổng tư lệnh là tướng Alexêyêv chuẩn bị kế hoạch bắt giữ hoàng hậu và tiêu diệt phái quan lại người Đức mà không hề cho nhà vua biết.
Vào tháng giêng, để chuẩn bị cho chiến dịch mùa xuân, bộ chỉ huy ký lệnh tấn công trên mặt trận phía Bắc. Trận tấn công mở màn ở gần Riga, trong đêm giá lạnh. Vừa đúng khi pháo binh khai hỏa, trời nổi cơn bão tuyết. Binh sĩ tiến lên trên lớp tuyết dày, giữa tiếng gầm rú của cơn bão và những cột lửa của đạn đại bác nổ từng tràng long trời lở đất. Hàng chục máy bay cất cánh đi yểm hộ cho các đơn vị tiến công bị gió thổi bạt xuống đất: dưới bão tuyết mù mịt, phi công nổ đại liên quét vào cả quân địch lẫn quân ta.
Lần cuối cùng nước Nga đã cố gắng phá vỡ cái đai sắt đang siết vào nó, lần cuối cùng những người mu-gích Nga mặc khăn liệm trắng, bị gió bắc cực lùa đi, đã chiến đấu cho cái đế quốc bao gồm một phần sáu quả đất, cho chế độ quân chủ chuyên chế trước kia đã từng xây dựng nên đất nước này và đã được cả thế giới kiêng dè, nhưng ngày nay chỉ còn là tàn tích kéo dài quá lâu, một quái tượng của lịch sử. một chứng bệnh chết người đối với dất nước.
Trận đánh ác liệt tiếp tục diễn trong mười ngày, hàng nghìn sinh mạng bị chôn vùi dưới những đống tuyết. Cuộc tấn công bị chặn đứng. Mặt trận lại ngưng đọng trong lớp tuyết dày.

35

Têlêghin đã trù tính là sẽ về Moxkva trong dịp lễ giáng sinh, nhưng lại bị nhà máy cử đi công tác ở Thụy Điển mãi đến tháng hai mới về. Chàng lập tức xin nghỉ ba tuần và đánh điện cho Đasa là sẽ đến Moxkva vào ngày hai mươi sáu.
Trước khi lên đường chàng phải trực ở xưởng suốt một tuần. Ivan Ilyits rất ngạc nhiên về sự thay đổi đã diễn ra trong khi chàng vắng mặt: ban quản trị nhà máy bây giờ lễ độ và ân cần hơn bao giờ hết, còn thợ thuyền thì ai nấy đều sinh ra cáu bẳn đến nỗi chàng có cảm giác là chỉ một chút nữa thôi là sẽ có người ném cái lắc-lê xuống đất và quát lên: “Ngưng việc ngay, xuống đường...”.
Trong mấy ngày ấy, điều làm cho họ kích động nhất là những bản báo cáo tổng kết của viện Đuma Quốc gia, nơi đang diễn ra những cuộc tranh luận về vấn đề lương thực. Qua những bản báo cáo ấy có thể thấy rằng chính phủ chật vật lắm mới còn giữ được sự tỉnh táo và tư thế chững chạc, đang ráng hết sức để chống đỡ những lời công kích, và các bộ trưởng của Sa hoàng không còn nói cái giọng của những trang anh hùng thần thoại nữa, mà đã bắt đầu dùng ngôn ngữ của con người; lại có thể thấy rằng những bài diễn văn của các bộ trưởng và những lời lẽ của viện Đuma đều là man trá, còn sự thật thật sự thì đang ở trên cửa miệng mọi người: những tin đồn ầm ĩ và đầy những dấu hiệu bất thường, nói rằng chỉ trong một thời gian rất ngắn nữa mặt trận cũng như hậu phương sẽ lâm vào thảm họa vì đói rét và tàn phá.
Hôm trực cuối cùng Ivan Ilyits nhận thấy công nhân náo động khác thường. Phút phút họ lại bỏ máy đến hội ý với nhau - hình như họ đang chờ đợi những tin tức gì đấy. Khi chàng hỏi Vaxili Rublyôv xem thử công nhân đang bàn tán chuyện gì, hắn bỗng hầm hầm vắt chiếc áo bông lên vai và ra khỏi xưởng, xô cửa đánh sầm một tiếng.
- Khiếp thật, cái thằng Vaxili bấy giờ bẳn tính không chịu được. - cụ Ivan Rublyôv nói, - cái thằng khốn khiếp ấy đào đâu ra được một khẩu súng lục, suốt ngày cứ kè kè trong người.
Nhưng chỉ lát sau Vaxili lại vào, và công nhân bỏ hết máy chạy ra cuối xưởng vây quanh hắn.
- “Thông cáo chung của quan tư lệnh quân khu Pêterburg, trung tướng Khabalôv... - Vaxka bắt đầu gằn giọng đọc to một tờ yết thị in trên giấy trắng. - Trong mấy ngày vừa qua việc xuất bột cho các lò bánh mì và việc nướng bánh mì đều được tiến hành với số lượng như cũ...”.
- Nói láo, nói láo! - lập tức có nhiều tiếng quát lên - không có bánh mì đã ba hôm nay rồi...
- “Không thể có tình trạng thiếu hụt trong việc bán bánh mì”.
- Hắn ra lệnh như thế chắc?
- “Còn sở dĩ ở một số cửa hiệu không có đủ bánh mì bán là vì có nhiều người sợ thiếu bánh mì đã mua hết đem về sấy bánh khô để dành...”.
- Ai sấy bánh mì khô? Thử đưa chỗ bánh mì khô ấy ra đây xem. - có tiếng những nói oang oang - Tống vào họng cho hắn!
- Các bạn im cho! -Vaxka quát to. - Các bạn, ta phải xuống đường thôi... Từ nhà máy Ôbukhôvxki có bốn nghìn công nhân đang đi ra đại lộ Nevxki... Công nhân ở khu Vyborgxkaia cũng thế...
- Phải đấy, bắt chúng nó đưa chỗ bánh mì ấy ra xem!
- Bánh mì thì chẳng ai đưa ra cho các bạn xem đâu. Trong thành phố bây giờ chỉ dự trữ được ba ngày bột mì, sau đó thì bột mì và bánh đều hết sạch. Các đoàn xe chở bột mì vẫn đứng mãi bên kia dãy Ural... Bên ấy các kho đều đầy ắp lúa mì... Ở Tselyabinxk có ba triệu yến thịt để thối ra ở nhà ga... Ở Xibêri người ta lấy bơ bôi trục bánh xe.
Cả xưởng gầm lên. Vaxili giơ tay:
- Các bạn! Không có ai đưa bánh mì cho ta hết, chừng nào bản thân ta không cướp lấy... Ta hãy cùng các nhà máy khác xuống đường với khẩu hiệu: “Trao hết chính quyền cho các Xô viết”...
- Tắt máy!... Ngừng việc!... Dập lò đi!... - công nhân vừa chạy khắp xưởng vừa nói.
Vaxili Rublyôv đến cạnh Têlêghin. Hàng ria hắn run run.
- Xéo đi, - hắn nói rõ từng tiếng, - xéo đi trong khi hãy còn lành lặn.
Đêm hôm ấy Ivan Ilyits trằn trọc mãi ngủ không yên. Cuối cùng chàng thảng thốt choàng dậy. Trời đã sáng, một buổi sáng ảm đạm: bên ngoài, nước giọt tí tách trên cái gờ tường nẹp sắt... Ivan Ilyits nằm yên, cố định thần lại. Không được, nỗi lo âu không chịu buông chàng ra, và những giọt nước ngoài hiên vẫn rơi tí tách rất khó chịu, như thể rót vào đến tận óc. “Không thể đợi đến hăm sáu được, phải đi ngay ngày mai” - chàng nghĩ thầm, rồi bỏ áo ngủ và cứ trần truồng đi vào buồng tắm, vặn gương sen rồi đứng vào dưới những tia nước mảnh lạnh như băng.
Trước khi đi còn rất nhiều việc phải làm, Ivan Ilyits uống vội tách cà-phê, đi ra phố và nhảy lên một chiếc tàu điện chật ních những người, ở đây chàng lại lo lắng như ban nãy. Cũng như mọi hôm, khách đi tàu điện ngồi im lặng, vẻ mặt lầm lì hai chân thu lại, hằn học kéo cái vạt áo giắt dưới đít người ngồi bên cạnh. Dưới chân cứ thấy dinh dính, ngoài cửa sổ nước nhỏ xuống tong tong, cái chuông ở trước tàu vang lên lảnh lót khó chịu. Ngồi trước mặt Ivan Ilyits là một người viên chức của quân đội có khuôn mặt vàng vọt điểm những chấm đo đỏ, trên cái miệng cạo nhẵn của ông ta ngưng đọng lại một nụ cười mếu máo, đôi mắt nhìn với một vẻ linh hoạt mà hình như nó rất ít khi có được, và như muốn hỏi điều gì. Nhìn kỹ xung quanh, Ivan Ilyits nhận thấy tất cả các hành khách đều nhìn nhau y như thế: ngỡ ngàng và như muốn hỏi điều gì.
Ra đến đại lộ Bolsôi tàu điện dừng lại. Hành khách xôn xao hẳn lên, nhớn nhác đưa mắt nhìn quanh, có mấy người nhảy xuống. Người lái tàu rút chìa khóa ra khỏi ổ máy, đút nó vào trong vạt áo tu-lup xanh, rồi mở hé cánh cửa ngăn phía trước và nói, giọng lo lắng và bực tức:
- Tàu không chạy nữa đâu.
Trên phố Kamenny Oxtrôv và suốt đại lộ Bolsôi nhìn đến hết tầm mắt vẫn còn thấy những toa tàu điện đỗ san sát. Các vỉa hè đen nghịt những người đang nhốn nháo đi lại. Thỉnh thoảng lại nghe một tấm rèm sắt ở cửa kính một hiệu buôn sập xuống ầm ầm. Một làn tuyết mịn và ấm rơi lất phất.
Bỗng trên nóc một toa xe điện hiện ra một người mặc áo bành-tô hở khuy. Người ấy giật cái mũ chụp trên đầu xuống và hình như quát lên một câu gì không rõ. Trong đám đông có một tiếng rì rầm truyền đi, nghe như một tiếng thở dài: “ồ - ồ - ồ - ồ - ồ...”... Người kia bắt đầu buộc một sợi dây thừng vào nóc tàu điện; đoạn lại đứng thẳng lên và lại bỏ mũ. Tiếng “ồ - ồ ồ - ồ!” lại truyền qua đám đông. Người kia nhảy xuống đường. Đám đông giãn ra, và bấy giờ có thể trông rõ một tốp người đứng khít lại thành một hàng dài trên lớp tuyết màu vàng bẩn, ra sức kéo sợi dây thừng buộc vào xe điện. Toa xe bắt đầu nghiêng về một phía. Đám đông lùi ra xa, lũ trẻ huýt sáo inh ỏi. Nhưng toa xe chỉ lắc lư tại chỗ, và có thể nghe thấy tiếng bánh xe dập dình trên đường ray. Bấy giờ từ bốn phía đều có những người chạy vào nhập bọn vào tốp kia, lặng lẽ và sốt sắng cầm lấy sợi dây. Toa xe lại nghiêng về một bên rồi bỗng đổ kềnh ra, cửa kính vỡ loảng xoảng. Đám đông vẫn im lặng, xô tới toa xe đổ.
- Bây giờ thì dầu đã bén lửa rồi! - người viên chức mặt vàng ban nãy nói sau lưng Ivan Ilyits. Rồi ngay lúc ấy có mấy người cất tiếng hát không đều:
Các anh đã ngã xuống
Hy sinh trong trận đấu tranh oan nghiệt...
Trên đường đi đến đại lộ Nevxki, Ivan Ilyits vẫn thấy ở xung quanh những cái nhìn ngơ ngác, những gương mặt lo âu ban nãy. Đâu đâu cũng có những đám người quây quần như những luồng nước xoáy nhỏ chung quanh những người vừa nhặt được tin này tin nọ, háo hức nghe họ nói. Trong các khung cửa lớn, những người gác cửa béo tốt đứng nhìn ra. Một cô hầu phòng thò cái mũi dòm ra phố. Một ông xách cặp, có bộ râu chải chuốt, mình mặc áo khoác lót da chồn, hỏi một người gác cổng:
- Này anh bạn, họ làm gì ở đàng kia mà đông thế? Cụ thể có việc gì xảy ra thế?
- Thưa ông họ đòi bánh mì ạ, họ nổi loạn đấy ạ.
- À, ra thế.
Ở ngã tư có một người phụ nữ thượng lưu đứng nhìn về phía đám đông, mặt mày xanh xao tay bế một con chó nhỏ ốm yếu run lẩy bẫy, đuôi cụp xuống. Gặp ai đi qua, bà ta cũng hỏi:
- Đám đông đằng kia là thế nào?... Họ muốn gì thế?
- Cách mạng đến nơi rồi, bà ạ; - cái ông mặc áo khoác da chồn vừa đi qua vừa nói, giọng bây giờ đã vui hẳn lên.
Dọc vỉa hè, một người thợ bước đi rất nhanh, vạt áo khoác ngắn vung vẩy, khuôn mặt ốm yếu cứ giật giật lên từng đợt.
- Các bạn! - người thợ bỗng quay lại hét lên, giọng vỡ ra như khóc, - chúng nó còn uống máu chúng ta đến bao giờ nữa?...
Một viên sĩ quan trẻ măng có đôi má phính ngồi trên cỗ xe trượt tuyết bảo anh xà ích dừng xe lại, rồi tay nắm lấy thắt lưng anh ta, ngồi nhìn những tốp người đang xôn xao, như xem nhật thực.
Người thợ đi ngang cỗ xe nấc lên:
- Nhìn đi, nhìn cho kỹ vào.
Đám đông mỗi lúc một dày dặc, đến bây giờ đã choán hết cả lòng đường, nhốn nháo dữ dội và nhích dần về phía cầu. Ở ba nơi họ giương lên những ngọn cờ trắng nho nhỏ. Những người qua đường, giống như những mảnh vỏ bào, bị dòng thác người ấy cuốn theo.
Ivan Ilyits theo đám đông đi qua cầu. Trên quảng trường Chiến thần mờ hơi sương, phủ một lớp tuyết lỗ chỗ vết chân, mấy người kỵ binh phi qua. Trông thấy đám đông, họ quay ngựa lại và cho ngựa đi bước một về phía ấy. Một người trong bọn họ, một viên đại tá hồng hào có bộ râu rẽ đôi, cả cười và giơ tay lên vành mũ chào. Trong đám đông cất lên một tiếng hát lê thê và buồn bã.
Từ đám sương mù đọng lại trong Công viên mùa Hạ, những con quạ khoang lông lá lởm chởm đang đậu trên những cành cây trơ trụi - chính những con quạ xưa kia đã từng làm cho những kẻ ám sát vua Pavel hoảng sợ, - bỗng cất cánh bay lên.
Ivan Ilyits đi lên phía trước. Cổ chàng nghẹn ngào như có cái gì cuộn lên ở bên trong. Chàng đằng hắng một tiếng, nhưng nỗi xúc động lại dâng lên nghẹn ngào như cũ. Đi đến lâu đài kỹ sư, chàng rẽ ngoặt sang trái và đi lại đại lộ Litêyny.
Trên đại lộ Litêyny từ phía Pêterburgxkaia Xtôrôna đổ ra một đám đông thứ hai kéo dài ra đến tận cầu, sang cả bên kia sông. Dọc đường đi của đám đông, tất cả các cổng đều đứng chật những người hiếu kỳ, trên tất cả các cửa sổ đều ló ra những khuôn mặt nhớn nhác.
Ivan Ilyits dừng lại bên một cái cổng với một ông công chức già có đôi má xệ rung rung. Xa xa về bên tay phải, có một tốp lính đứng im chặn ngang đường, tay vịn lên nòng súng.
Đến gần tốp lính, đám đông đi chậm lại. Ở các hàng sau có tiếng kêu sợ sệt:
- Đứng lại, đứng lại!
Và lập tức vang lên tiếng gào thét của hàng nghìn giọng phụ nữ:
- Bánh mì, bánh mì!
- Không thể để như thế được. - người công chức nói đoạn đưa đôi mắt nghiêm khắc nhìn Ivan Ilyits qua vành kính.
Vừa lúc ấy trong cổng bước ra hai người gác cao lớn, giơ vai ẩy những người hiếu kỳ ra đường. Người công chức rung rung đôi má xệ. Một tiểu thư đeo kính cặp mũi kêu lên: “Sao mày dám thế, hở đồ ngu?”. Nhưng cánh cổng đóng lại. Trên suốt dãy phố, người ta bắt đầu đóng kín cổng và các cửa ra vào.
- Đừng, đừng! - những giọng sợ hãi vang lên. Đám đông vừa gào thét, vừa tiến lên. Một người trẻ tuổi, vẻ mặt kích động, má đỏ ửng, đầu đội chiếc mũ rộng vành, nhảy ra phía trước đám đông.
- Cho cờ ra phía trước, cờ đâu, đi lên trước! - có nhiều tiếng nói nhao nhao.
Cũng lúc ấy trước mặt đội hình xuất hiện một viên sĩ quan cao lớn, lưng thon, chiếc mũ lông cô-dắc đội lệch sang bên tai. Tay đặt lên bao súng lục đeo bên hông, hắn quát to, đứng ở đầu phố nghe vẫn rõ:
- Có lệnh bắn... Tôi không muốn gây đổ máu... Giải tán đi!
- Bánh mì, bánh mì, bánh mì! - những tiếng gào man dại lại nổi lên...
Và đám đông tiến về phía tốp lính... Hai bên Ivan Ilyits bắt đầu có những người ra sức chen lên, đôi mắt điên rồ long sòng sọc...
- Bánh mì!... Đả đảo!
- Quân khốn nạn!...
Một người ngã xuống đất, rồi ngẩng cái mặt nhăn nhó lên, cất tiếng gào như điên:
- Tao căm thù... tao căm thù!
Bỗng như có ai xé cả một tấm vải trúc bâu dọc dãy phố. Lập tức xung quanh im lặng hẳn đi. Một cậu học sinh giơ hai tay lên ôm lấy chiếc mũ lưỡi trai và chui vào giữa đám đông... người công chức giơ bàn tay gân guốc lên làm dấu chữ thập.
Loạt súng vừa rồi bắn chỉ thiên, và sau đó không bắn thêm một loạt nào nữa, nhưng đám đông cũng lùi lại, một phần tản đi, một phần có lá cờ đi ra quảng trường Znamenxki.
Trên lớp tuyết vàng phủ trên đại lộ Nevxki, Ivan Ilyits lại nghe thấy tiếng ồn ào của một đám người rất đông. Đó là đám thứ ba đang từ đảo Vaxilievxki vượt qua sông Nêva. Các vỉa hè đều tấp nập những thiếu phụ ăn mặc sang trọng, những quân nhân, những sinh viên, những người lạ mặt trông dáng dấp như người ngoại quốc. Một viên sĩ quan Anh có nước da mặt hồng hồng như da trẻ con, đứng thẳng đuột như cái cột. Mấy cô bán hàng bự phấn, tóc thắt nơ đen, đứng dán mặt vào cửa kính nhà hàng nhìn ra phố. Giữa lòng đường, tràn ra khắp chiều rộng mờ mờ của đại lộ, một đám công nhân nam nữ, vẻ mặt giận dữ, vừa đi vừa thét:
- Bánh mì, bánh mì, bánh mì!
Sát lề đường một anh xà ích, sườn tựa vào thành trước cỗ xe trượt, vui vẻ nói với một cô tiểu thư đang đỏ mặt tía tai lên vì kinh hãi:
- Cô thử nghĩ mà xem, tôi còn đánh xe đi đâu được? Thế này thì con ruồi cũng không qua lọt ấy chứ.
- Đánh xe đi, đồ ngu, ai cho phép mày nói chuyện với tao?
- Không, bây giờ tôi chẳng phải là đồ ngu nữa đâu... Cô xuống xe đi...
Những người đi trên vỉa hè xô đẩy nhau, ngửa cổ ra nghe ngóng, hồi hộp hỏi:
- Ở đại lộ Liteyny có một trăm người bị bắn chết à?
- Nói láo đấy... Chỉ có một bà có mang với một cụ già.
- Lạy Chúa, cụ già thì có tội gì mà bắn?
- Prôtôpopôv điều khiển mọi việc. Mà hắn ta thì lại điên, cô ạ...
- Thưa các ngài, có tin mới... Ghê quá! Tổng bãi công rồi!
- Sao, thế còn điện nước?
- Lạy Chúa, có thế chứ!
- Công nhân cừ lắm.
- Khoan mừng vội, họ sẽ đè bẹp các anh.
- Ông cứ liệu đừng để chết bẹp trước với cái bộ mặt trời đánh của ông.
Rất bực mình vì đã để mất nhiều thì giờ, Ivan Ilyits tìm đến các địa chỉ mà chàng đang cần, nhưng đến nhà nào người ta cũng đi vắng cả, chàng đành nuốt giận quay trở ra đại lộ Nevxki.
Trên phố, xe trượt tuyết lại qua lại, những người gác cổng lại ra cào tuyết, ở ngã tư lại xuất hiện bậc vĩ nhân mặc áo ca-pốt đen, tay giơ cao trên những mái đầu nhớn nhác, trên những ý nghĩ rối loạn của dân phố, chiếc gậy thần của trật tự an ninh: cái dùi cui trắng. Một người đang chạy qua đường quay lại nhìn người cảnh sát một cách hằn học, bụng nghĩ thầm: “cứ đợi đấy, em ạ, rồi sẽ có ngày biết nhau”. Nhưng không ai có thể thoáng có ý nghĩ rằng cái ngày ấy đã đến rồi, và cái con người cầm dùi cui đứng trơ như cái cột ấy chỉ còn là một bóng ma, và nay mai hắn sẽ biến đi khỏi ngã tư đường, khỏi cuộc sống, khỏi ký ức.
- Têlêghin, Têlêghin! Đứng lại, điếc đặc rồi hay sao thế hả.
Kỹ sư Xtrukôv chạy lại, mũ lưỡi trai hất ra sau gáy, hai mắt ánh lên một nỗi vui mừng hung hãn.
- Cậu đi đâu đấy? Ta vào hiệu cà phê đi...
Anh ta khoác tay Têlêghin lôi vào tiệm cà phê. Trong tiệm khói thuốc lá dày đặc, cay xè cả mắt. Những người đội mũ dạ tròn, mũ chụp lông hải ly, mặc áo khoác phanh rộng đang tranh luận, quát tháo, nhảy chồm chồm lên. Xtrukôv len về phía cửa sổ và ngồi xuống cạnh chiếc bàn con, đối diện với Ivan Ilyits.
- Đồng rúp đang sụt giá! - anh ta thốt lên, hai tay nắm lấy cạnh bàn - bao nhiêu ngân phiếu đi tong hết. Thế mới ghê chứ!... Cậu kể thử nghe, cậu đã trông thấy những gì?
- Vừa rồi tôi ở Lytêyny. Họ có bắn, nhưng hình như bắn chỉ thiên.
- Nói chung cậu thấy thế nào?
- Tôi không biết. Theo tôi thì bây giờ chính phủ phải nghiêm túc lo đến việc tiếp tế lương thực.
- Muộn rồi! - Xtrukôv quát lên , tay vỗ mạnh lên tấm kính lót bàn - Muộn rồi!... Ta đã chén hết ruột mình rồi... Chiến tranh thế là xong, đi đứt! Cậu có biết ở các nhà máy họ hò hét những gì không? Triệu tập xô-viết đại biểu công nhân - họ đòi thế đấy. Và không tin ai hết, ngoài các xô-viết!
- Cậu nói gì thế?
- Thế là xong! Thế là hết, hết thật rồi, cậu ạ! Nền quân chủ đã vỡ tung ra rồi... Dụi mắt đi mà nhìn... Đây cũng chẳng phải là nổi loạn... Cũng chẳng phải là cách mạng... Đây là sự khởi đầu của cảnh hỗn mang... Một cõi hỗn mang khủng khiếp... - Ngang trán Xtrukôv, dưới mấy giọt mồ hôi, hằn lên một đường gân xanh. - Ba ngày nữa là không còn Quốc gia, không còn quân đội, không còn tổng trấn, không còn cảnh sát gì nữa hết... Một trăm tám mươi triệu người ăn lông ở lỗ. Cậu có hiểu thế nào là người ăn lông ở lỗ không? Hổ và tê giác chỉ là trò chơi trẻ con. Một tế bào của cơ thể đang tan rữa - người ăn lông ở lỗ là thế đấy. Rất khủng khiếp. Cũng giống như khi trong một giọt nước có một lũ vi khuẩn ngốn lẫn nhau.
- Thôi tôi xin cậu, - Têlêghin nói - Không hề có một cái gì như thế, và sẽ không bao giờ như thế. Ừ thì cách mạng đấy. Càng hay chứ sao?
- Không phải đâu. Những điều cậu nhìn thấy hôm nay không phải là cách mạng. Đó là sự giải thể của vật chất. Cách mạng rồi cũng sẽ đến, sẽ đến thôi. Nhưng chúng mình chẳng sống được đến lúc ấy đâu.
- Cũng có thể như thế - Ivan Ilyits vừa nói vừa đứng dậy - Vaxka Rubalyôv: cách mạng ở đấy đấy... Còn cậu thì không phải đâu, Xtrukôv ạ. Cậu ồn ào quá, cậu nói nhiều quá.
Ivan Ilyits về nhà sớm và đi ngủ ngay. Nhưng chàng chỉ chợp mắt đi được một phút rồi thở dài, nặng nề trở mình nằm nghiêng lại, và mở mắt ra. Trong phòng phảng phất mùi da của chiếc va-ly mở nắp để trên ghế. Trong cái va-ly mua ở Xtôckhôlm này có một bộ đồ trang sức đi đường đựng trong chiếc hộp da bịt bạc rất đẹp - một món quà tặng Đasa.
Ivan Ilyits có một tình trìu mến đặc biệt đối với nó, và hàng ngày chàng cứ mở tấm giấy lụa gói chiếc hộp ra ngắm nghía. Chàng lại còn hình dung rõ rệt mình đang ngồi trên một buồng toa có cái cửa sổ rộng bề ngang như trên các toa xe lửa ngoại quốc, và ngồi trên cái giường trước mặt là Đasa, mình mặc y phục đi đường, trên đùi đặt cái hộp nhỏ thoảng mùi nước hoa và mùi da này - dấu hiệu của những chuyến đi du lịch kỳ diệu, không chút ưu tư.
Ivan Ilyits nhìn ra cửa sổ. Trên bầu trời mờ sương, ánh đèn thành phố hắt lên một cái ráng màu tím đục. Và chàng cảm thấy rõ rệt rằng những người sáng hôm nay gào lên đòi bánh mì chắc phải nhìn cái ráng ấy với một nỗi oán hờn sâu cay. Một thành phố vô tình, buồn tẻ, đáng ghét... Bộ óc và ý chí của cả nước... Thế mà nay đã lâm vào một bệnh chết người... Thành phố đang hấp hối...
Ivan Ilyits ra khỏi nhà vào khoảng mười hai giờ. Dãy đại lộ rộng thênh thang phủ mờ hơi sương và vắng tanh vắng ngắt. Sau tấm kính toát mồ hôi của nhà hàng bán hoa, trong một chiếc bình pha lê có cắm một bó hoa hồng đỏ lộng lẫy, trên đài hoa còn đọng những giọt nước long lanh. Ivan Ilyits trìu mến nhìn bó hoa qua làn tuyết đang buông xuống.
Từ một phố bên xuất hiện một đội tuần tiễu cô-dắc gồm năm người. Người đi ngoài cùng quay ngựa phóng nước kiệu về phía vỉa hè, nơi có ba người đội mũ lưỡi trai vừa đi vừa nói chuyện khe khẽ với nhau, vẻ rất sôi nổi. Mấy người này dừng lại và một người trong bọn họ vừa vui vẻ nói một câu gì vừa cầm lấy cương con ngựa cô-dắc. Cử chỉ này khác thường đến nỗi tim Ivan Ilyits giật đánh thót một cái. Người cô-dắc cười lớn, hất ngược đầu ra phía sau, rồi thúc con ngựa có bộ ngực gân guốc đang sốt ruột giậm chân xuống mặt đường, phi nhanh theo đồng đội, và cả năm người lính tuần tiễu phóng nước đại kiệu mất hút trong đám sương mù phủ trên đại lộ.
Ra đến gần bờ sông Ivan Ilyits bắt đầu gặp những tốp dân phố đi lại nhớn nhác. Hình như sau những sự việc hôm qua không ai có thể bình tâm lại được: họ bàn tán xôn xao, họ chuyền cho nhau những tin tức và những tiếng đồn đại. Rất nhiều người đi về phía bờ sông Nêva. Ở đây, dọc theo dãy bờ xây đá hoa cương, mấy nghìn người hiếu kỳ đi đi lại lại, trông như một tổ kiến đen. Sát đầu cầu một tốp người ba hoa đang hò hét om sòm: họ quát mắng những người lính dàn hàng ngang ở đầu cầu để chặn lối và đứng suốt dọc đầu cầu cho đến tận bờ bên kia, bóng mờ dần đi trong làn tuyết mịn buông xuống như sương mù...
- Sao lại chặn cầu lại? Để cho người ta đi!
- Chúng tôi cần vào phố.
- Chẳng ra cái thể thống gì: đi bắt nạt dân...
- Cầu để mà đi chứ có phải để cho các anh đứng thế à?
- Các anh có phải là những Nga nữa không? Để cho chúng tôi đi.
Một viên hạ sĩ quan cao lớn, ngực đeo bốn huân chương chữ thập Ghêorghi, đi đi lại lại từ thành cầu bên này sang thành cầu bên kia, đôi cựa giày to tướng kêu lẻng xẻng. Khi trong đám đông có tiếng chửi chõ về phía hắn, hắn quay về phía tốp người đang la ó ở đầu cầu một khuôn mặt vàng vọt cau có, đầy những nốt rỗ đậu mùa.
- Chà, thế mà lại là người thượng lưu kia đấy. Ăn nói tục tằn hết sức. - Đôi hàng ria uốn cong của hắn rung rung - Tôi không thể để các ông các bà đi qua cầu được... Trong trường hợp các ông các bà vi phạm lệnh trên, tôi buộc lòng phải dùng đến vũ lực.
- Binh sĩ không bắn vào chúng tôi đâu. - tốp ba hoa lại hét lên.
- Ai sai mày ra đây không biết, thằng quỷ rỗ, đồ chó...
Viên hạ sĩ quan lại quay về phía đám đông phân trần nữa, và tuy giọng hắn khàn khàn, giần giật - cái giọng đặc biệt của giới quân nhân, - trong lời lẽ của hắn cũng có cái âm sắc giống như của mọi người trong mấy ngày ấy: một âm sắc ngỡ ngàng và lo lắng. Tốp ba hoa cảm thấy điều đó, họ chửi vung lên và xô vào thanh gỗ chắn đường.
Một người gầy gò và cao lêu đêu, kính không gọng cặp lệch, cái cổ dài ngoẵng quấn mấy vòng khăn san, bỗng cất giọng trầm trầm nói lớn:
- Họ cản trở giao thông, đâu đâu cũng đặt rào chắn, các cầu đều bị lính chặn, thật là ngang ngược hết sức. Thử hỏi, chúng ta có quyền tự do đi lại trong thành phố không, hay là cả cái quyền ấy nữa cũng không có nốt? Thưa đồng bào, tôi đề nghị đừng để ý đến bọn lính này làm gì, cứ vượt băng sang bên kia sông.
- Đúng đấy! Vượt băng! Ura! ... - và lập tức có mấy người chạy xuống dãy tam cấp bằng đá hoa cương phủ tuyết dẫn xuống sông. Người cao lêu đêu quấn chiếc khăn san bay phất phới quả quyết bước trên băng dọc theo cầu. Mấy tên lính ở trên cầu cúi xuống quát:
- Ê! quay lại, nếu không chúng tôi sẽ bắn... quay lại đi, cái lão cao kều kia!
Nhưng lão cao kều vẫn điềm nhiên bước thẳng, không ngoái cổ lại. Sau lưng hắn mỗi lúc một có thêm nhiều người chạy theo thành hàng một. Họ từ trên kè đá buông người xuống mặt băng như những hạt đỗ, rồi người ta thấy những cái bóng đen đen của họ chạy lúp xúp trên tuyết.
Tên lính đứng trên cầu quát họ, họ vừa chạy vừa khum bàn tay hai bên miệng làm loa quát với lại. Một tên lính giơ súng lên toan ngắm bắn, nhưng một tên khác huých vào vai hắn, và hắn đành thôi.
Như về sau người ta được biết, trong số những người kéo nhau xuống đường không ai có một kế hoạch nhất định, nhưng khi dân phố trông thấy những thanh gỗ ngáng đường đặt ở các cầu và các ngã tư, thì mọi người, như thói thường xưa nay, đều muốn làm chính những việc đang bị cấm: đi qua các cầu và tụ tập lại thành đám. Trí tưởng tượng của họ vốn đã ở một trạng thái bệnh lý, nay lại càng bị kích động dữ dội. Khắp thành phố có tin đồn là có một người nào đấy điều khiển những cuộc nổi loạn này.
Cuối ngày thứ hai những đơn vị của trung đoàn Pavlôvxki bố trí trên đại lộ Nevxki và nổ súng vào những tốp người hiếu kỳ và những khách qua đường đi lẻ tẻ. Dân phố dần dần hiểu ra rằng đang bắt đầu một cái gì giống như một cuộc cách mạng.
Nhưng trung tâm của nó ở đâu và ai lãnh đạo nó thì không có người nào biết cả. Viên tư lệnh quân đội hay sở cảnh sát đều không hay biết gì về điều đó. Và Prôtopopôv, ông chủ xưởng da ở Ximbirxk, hiện nắm quyền độc tài và là sủng thần bậc nhất của hoàng cung lúc bấy giờ, lại càng không biết chút gì. Hồi trước, ở khách sạn Trôitxkaia ở Ximbirxk ngài đã bị một trang chủ tên là Naumôv xô vào cửa mạnh đến nỗi một tấm ván cửa vỡ toang và xương sọ của ngài cũng bị tổn thương nặng. Từ khi sọ não bị chấn thương như vậy, ngài mắc chứng đau đầu và thần kinh suy nhược, rồi về sau, khi được giao quyền cai trị nước Nga, ngài đã tỏ ra thiếu tỉnh trí một cách tai hại.
Trung tâm cách mạng ở khắp nơi, trong từng nhà, trong đầu óc của mỗi người dân phố đang bị kích động vì những mơ tưởng huyền hoặc, vì lòng căm uất và bất mãn. Không sao tìm ra được trung tâm cách mạng: đó là một điểm bất tường. Cảnh sát chạy theo những bóng ma. Thật ra họ phải bắt hai triệu bốn trăm nghìn người dân Pêtrôgrad mới đúng.
Suốt ngày hôm ấy Ivan Ilyits ở ngoài phố: chắc hẳn cũng như mọi người, chàng có một cảm giác choáng váng kỳ lạ. Chàng cảm thấy trong thành phố đang dần dần dấy lên một tình trạng kích động gần như điên rồ: mọi người đều như hòa tan vào một không khí bàng hoàng chung bao trùm lên dân chúng, và cái đám người này, trong khi đi lang thang và chạy nhốn nháo trên các phố phường, đều tìm kiếm và khát khao một dấu hiệu gì đấy, một tia chớp sẽ lóe lên và hòa tất cả lại thành một khối.
Loạt súng trên đại lộ Nevxki chẳng làm cho mấy ai hoảng sợ. Như loài thú vẫn xúm quanh thây đồng loại, dân chúng quây quần bên hai xác chết - một người đàn bà mặc váy vải hoa và một cụ già mặc áo khoác da chồn, nằm ở góc phố Vlađimirxkaia... Khi tiếng súng trở nên dồn dập, họ chạy tản ra rồi lại men theo các bờ tường mà đi.
Đến chập tối tiếng súng im hẳn. Một ngọn gió lạnh buốt quét sạch bầu trời và trong những đám mây ùn lại trên mặt biển bùng cháy lên một ánh tà dương ảm đạm, Liềm trăng nhọn hoắt treo rất thấp trên thành phố, giữa một khoảng trời đen xỉn như than.
Đêm hôm ấy không thắp đèn đường. Các khung cửa sổ đều tối om, những cánh cửa ra vào đều đóng im ỉm. Dọc đại lộ Nevxki vắng vẻ và tối tăm đều có những chùm súng gác chụm vào nhau. Ở các ngã tư thấp thoáng những bóng dáng cao lớn của lính canh. Ánh trăng thỉnh thoảng lại lấp loáng trên một tấm kính cửa sổ, trên dãy đường tàu điện hay trên thép lưỡi lê. Đô thành im lặng và yên tĩnh. Chỉ có bên trong mỗi nhà, máy điện thoại chốc chốc lại cất tiếng lè nhè như tiếng cừu, lắp bắp những lời lẽ điên rồ về các biến cố.
Sáng ngày 25 tháng giêng quảng trường Znamenxkaia đầy những quân lính và cảnh sát. Trước cửa khách sạn Phương bắc có một đội cảnh sát kỵ binh đứng trực, trên lưng những con ngựa hồng lông óng ánh, nhảy nhót trên những bộ giò thanh tú. Một đội cảnh sát bộ binh mặc áo ca-pốt đen bố trí xung quanh pho tượng Alekxandr Đệ Tam và đứng từng tốp nhỏ trên quãng trường. Quanh nhà ga có những người cô-dắc cưỡi ngựa đứng gác, gương mặt râu ria trông rất vui vẻ, mũ chụp lông đội lệch hẳn sang một bên, một bó rơm lủng lẳng ở bên yên. Phía đại lộ Nevxki thấp thoáng những chiếc áo ca-pốt màu xám bẩn của binh sĩ trung đoàn Pavlôvxki.
Ivan Ilyits xách chiếc va ly nhỏ bước lên thềm nhà ga. Từ đây có thể trông rõ suốt cả quãng trường.
Chính giữa quãng trường, trên một cái bệ đá hoa cương màu đỏ như máu, trên lưng một con ngựa to lớn đang gục cái đầu bằng đồng đen xuống vì sức nặng của người cưỡi, hoàng đế Alekxanđr ngồi yên, nặng nề như sức hút của trái đất, đôi vai lừ lừ và cái mũ chụp tròn phủ tuyết trắng xóa. Từ năm ngã phố, năm đám đông tiến về phía pho tượng đồng, mồm la hét, huýt sáo và chửi bới.
Cũng như hôm qua ở trên cầu, binh lính và nhất là những tên cô-dắc đang cưỡi ngựa đi sóng đôi về phía đám đông đang tiến lên từ khắp các ngã đường đều trao đổi với nhau dăm câu chửi rủa và bông lơn. Các nhóm cảnh sát, gồm toàn những người cao lớn và lầm lì, đều im lặng và có vẻ phân vân rõ rệt. Ivan Ilyits biết rất rõ cái không khí lo âu trong khi đợi lệnh xung trận: quân địch đã đến sát trước mặt, mọi người đều biết rõ phải làm gì, nhưng cấp trên vẫn chần chừ chưa ra lệnh, và những phút chờ đợi cứ kéo dài khắc khoải.
Bỗng cánh cửa nhà ga mở toang và một sĩ quan hiến binh mặc áo ca-pốt ngắn, đeo lon đại tá, mặt tái nhợt bước ra thềm. Hắn rướn thẳng người, đưa mắt nhìn qua quảng trường một lượt - đôi mắt màu sáng của hắn thoáng lướt qua mặt Ivan Ilyits.
Hắn bước nhẹ nhàng chạy xuống bậc cấp giữa đám cô-dắc đang rẽ ra hai bên, rồi nói mấy câu với viên đội trưởng cô-dắc, bộ râu cằm nghển nghển lên. Viên đội trưởng mỉm một nụ cười méo xệch nghe hắn nói, người ngả ngớn trên yên ngựa. Viên đại tá hất hàm về phía đại lộ Xtary Nevxki và đi qua quảng trường, bước nhún nhảy trên tuyết. Một viên cảnh sát trưởng chạy tới, chiếc thắt lưng nịt chặt ních trên cái bụng to tướng, bàn tay đặt ngang vành lưỡi trai cứ run bắn lên.
Trong khi đó từ phía Xtary Nevxki những tiếng la ó của đám đông đang kéo tới mỗi lúc một to thêm và cuối cùng có thể nghe rõ tiếng hát. Bỗng có ai bíu chặt lấy ống tay áo Ivan Ilyits và bên cạnh chàng một người lạ mặt lóp ngóp leo lên bậc cấp, vẻ nhớn nhác, đầu để trần, một vết sẹo màu đỏ thẫm chạy qua khuôn mặt bẩn thỉu.
- Anh em cô-dắc! - hắn hét lên, giọng lạc hẳn đi, nghe rợn cả người, cái giọng hét mà người ta thường nghe trước một cuộc giết chóc đẫm máu, một giọng man rợ, hoang dã, làm cho tim người ta lặng đi và mắt người ta mờ đi trong chất men điên rồ, - Anh em ơi, chúng nó giết tôi... Anh em che chở cho tôi... Chúng nó giết!
Mấy người cô-dắc quay người trên yên, im lặng nhìn hắn. Mặt họ tái đi, mắt họ mở rộng ra.
Trong khi đi trên đại lộ Xtary Nevxki một đám công nhân Kolpinô đang tiến tới, đầu nhấp nhô đen kịt cả một quãng đường. Một lá cờ đỏ ướt đẫm bay phần phật trước gió. Một đội cảnh binh kỵ mã tách ra khỏi mặt nhà Khách sạn Phương Bắc, và bỗng trên tay họ lóe lên những thanh kiếm rộng bản vừa tuốt trần. Một tiếng la ó phẫn nộ nổi lên trong đám đông. Ivan Ilyits lại trông thấy viên đại tá hiến binh chạy lên, một tay giữ bao súng, tay kia vẫy bọn cô-dắc.
Từ đám thợ Kolpinô, những hòn đá và những mảnh băng lao về phía viên đại tá và đội cảnh binh kỵ mã. Mấy con ngựa hồng lông óng chân thon càng nhảy nhót già. Những phát súng lục nổ yếu ớt, những đám khói nổi lên ở chân pho tượng, cảnh binh bắn vào đám thợ Kolpinô.
Ngay lúc ấy trong đội ngũ quân cô-dắc, cách Ivan Ilyits mươi bước, một con ngựa cái vùng sông Đôn lông tía bờm dài bỗng chồm đứng lên; người lính cô-dắc cúi rạp trên cổ ngựa thúc nó phi tới, chỉ mấy sải chân đã đến chỗ viên đại tá, và đang giữa đà phi, hắn rút gươm chém đánh sẹt một nhát, rồi lại kéo ngựa chồm đứng lên. Cả đội cô-dắc xô tới chỗ viên đại tá vừa bị giết. Đám dân chúng xô cái hàng rào tràn vào quãng trường... Đây đó tiếng súng nổ lẹt đẹt, ngập trong một tiếng hô ran từ khắp đám đông vang lên:
- Urra... urrraaa...
- Têlêghin, cậu làm gì ở đây?
- Tôi phải lên tàu ngay hôm nay bằng bất cứ giá nào. Đi toa đen, ngồi đầu máy cũng được...
- Thôi đi, bây giờ không thể đi được... cậu ạ, cách mạng rồi mà lại... - Antôska Arnolđôv. mặt không cạo, quần áo nhàu nát, mắt lờ đờ sau đôi mi đỏ, bám lấy vạt áo khoác của Ivan Ilyits - Cậu có thấy họ chém đứt phăng cái đầu lão hiến binh không?... Nó lăn lông lốc như quả bóng... thật ngoạn mục!... Cậu này ngốc quá, cậu chưa hiểu sao? Cách mạng rồi! - Antôska nói lảm nhảm như mê sảng. Họ đứng ở cửa ga, bị đám đông dồn vào một bên cửa. - Sáng nay hai trung đoàn Litôvxki và Vôlynvki không chịu bắn... Một đại đội của trung đoàn Pavlôvxki mang cả súng xuống đường biểu tình... Trong thành phố nháo nhào cả lên, chẳng còn ai hiểu được chút gì... Trên đại lộ Nevxki lính đông như kiến, họ cứ đi vất vưởng, không dám về trại.

36

Đasa và Katya, mặc áo khoác lông, đầu trùm khăn len xù rảo bước trên phố Malaia Nikixkaia sáng mờ mờ. Những mảnh băng mỏng lạo xạo dưới chân. Trên bầu trời giá lạnh màu lục nhờ nhờ, một mãnh trăng lưỡi liềm trong sáng đang trên đầu. Đâu đây có tiếng chó sủa sau các vòm cổng. Đasa cười khe khẽ trong tấm khăn xù lông, lắng nghe tiếng băng vỡ răng rắc.
- Katya ạ, giá bây giờ có ai phát minh ra được thứ máy gì đặt vào đây - Đasa để tay lên ngực- thì có thể ghi được lắm điều kỳ lạ... - Đasa cất tiếng hát khe khẽ.
Katya nắm lấy cánh tay em.
- Thôi, ta đi đi, đi đi.
Đi được mấy bước, Đasa lại dừng.
- Katya ạ, thế chị có tin là cách mạng rồi không?
Xa xa cái bóng đèn điện treo trên cổng Câu lạc bộ tư pháp sáng chói cả mắt. Chín giờ rưỡi tối nay, do ảnh hưởng của những tin đồn kỳ quặc ở Pêtrôgrad đưa về, một chi đảng Cađê có tổ chức ở đây một cuộc họp công khai để trao đổi cảm tưởng và bàn một công thức hành động những ngày giông tố này.
Hai chị em theo cầu thang gác chạy lên tầng hai, và không cởi áo khoác, chỉ bỏ khăn trùm đầu ra, họ bước vào gian phòng đông nghịt những người đang háo hức lắng nghe một ông to béo, mặt đỏ, râu ria xồm xoàm, vừa nói vừa giơ hai bàn tay phốp pháp làm những cử chỉ rất đẹp mắt.
-... Các biến cố đang phát triển với một tốc độ chớp nhoáng, - ông ta nói bằng một giọng barytôn rất êm tai - Ở Pêtrôgrad hôm qua quyền hành đã được giao phó hết cho tướng Khabalôv. Ông đã cho yết khắp thành phố bản tuyên cáo sau đây: “Trong những ngày gần đây ở Pêtrôgrađ đã xảy ra những vụ lộn xộn đi đôi với những vụ hành hung và sát hại tính mệnh của một số quan chức quân đội và cảnh binh. Nay tôi ra lệnh cấm mọi tụ tập trên đường phố. Tôi có lời cảnh cáo cư dân Pêtrôgrad rằng tôi đã chỉ thị cho các lực lượng vũ trang sử dụng vũ khí khi cần và dùng đủ mọi biện pháp để lập lại trật tự ở kinh đô...
- Quân đao phủ! - một giọng trầm kiểu thầy dòng từ cuối phòng đưa lên. - Bản tuyên cáo này, như ta có thể dự đoán, đã làm tràn cốc nước của lòng kiên nhẫn. Hai mươi lăm nghìn lính thuộc đủ các binh chủng đóng ở Pêtrôgrad đã đứng về phía những người khởi nghĩa...
Ông ta chưa kịp nói dứt lời thì gian phòng đã vang dội tiếng vỗ tay. Một số người đứng lên ghế vừa quát tháo vừa làm những cử chỉ như thể đâm toạc chế độ cũ. Diễn giả, miệng nhoẻn rộng ra cười đưa mắt một lượt qua gian phòng đang nhốn nháo. Rồi ông giơ tay lên và nói tiếp:
- Chúng tôi vừa nhận được một bức thông điệp điện thoại có tầm quan trọng đặc biệt. - Ông ta thọc tay vào túi chiếc áo vét tông ca-rô và lấy ra một tờ giấy nhỏ - Hôm nay chủ tịch viện Đuma là Pođzyankô đã gửi bức điện sau đây cho nhà vua theo đường dây trực tiếp: “Tình hình nghiêm trọng. Kinh đô đang lâm vào tình trạng hỗn loạn. Chính phủ bị tê liệt. Tổ chức giao thông, tiếp tế lương thực và nhiên liệu hoàn toàn đình đốn. Trên đường phố nổ súng loạn xạ. Một bộ phận quân đội bắn lẫn nhau. Cần ủy nhiệm ngay tức khắc cho một nhân vật được dân chúng trong nước tin cậy đứng ra lập chính phủ mới. Không thể trì hoãn được. Mỗi phút chần chừ là một bước tự sát. Tôi cầu nguyện Thượng đế, sao cho trong giờ phút này trách nhiệm không trút lên đầu Đấng đội hoàng miện”.
Ông mặt đỏ bỏ tờ giấy xuống và đưa đôi mắt sáng quắc nhìn khắp gian phòng một lượt. Người Moxkva chưa bao giờ được dự một buổi diễn thuyết hồi hộp như thế này.
- Thưa các ngài, chúng ta đang đứng trên ngưỡng cửa cái biến cố lớn lao nhất trong lịch sử nước ta; cái biến cố ấy đang sẵn sàng diễn ra, - ông ta nói tiếp bằng cái giọng bồ câu êm như nhung - Có lẽ trong giờ phút này, ở chốn kinh đô - ông giang thẳng cánh tay ra như tư thế tượng Đăng-tông - hoài bão của bao nhiêu thế hệ đã trở thành sự thật, và oan hồn của các chiến sĩ tháng Chạp đã được báo thù...
- Trời ơi! - một giọng phụ nữ xúc động thốt lên.
- Có lẽ mai đây cả nước Nga sẽ hòa lại thành một bản hợp xướng huynh đệ huy hoàng, - bản hợp xướng của nền tự do!
- Hoan hô tự do!... - Nhiều giọng hô lên.
Diễn giả buông mình xuống ghế và đưa mu bàn tay lên quệt trán. Ở góc bàn đứng dậy một người cao lớn có bộ tóc dài màu rơm, khuôn mặt hẹp, bộ râu hung hung đỏ cứng đờ. Không nhìn ai hết, người ấy bắt đầu nói, giọng ngạo nghễ:
- Tôi vừa nghe mấy đồng chí hô to: hoan hô tự do! Đúng. Còn gì hay hơn bắt cổ Nikôlai đệ nhị ở Moghilev, đưa bọn bộ trưởng ra tòa, tống cổ bọn tổng trấn, bọn cảnh sát đi... Giương cao lá cờ đỏ của cách mạng... Phần mở đầu rất đúng... Qua những thông báo đã nhận được, quá trình cách mạng đã mở đầu một cách đứng đắn, cương quyết. Chắc hẳn lần này sẽ không thất bại nữa đâu. Nhưng có điều là vừa rồi trước tôi có một vị nói rất hay ho; vị đó nói, hay tôi nghe nhầm thì không rõ, vị đó tỏ ý hài lòng về cuộc cách mạng đang được chuẩn bị thực hiện và dự đoán rằng trong một tương lai gần đây sẽ cùng với cả nước Nga hòa lại thành một bản hợp xướng huynh đệ...
Người có bộ tóc màu rơm rút khăn mù soa đưa lên miệng như cố che một nụ cười nhạo báng. Nhưng trên lưỡng quyền ông ta nổi lên những đám đo đỏ, ông ta ho khục khặc mấy tiếng, đôi vai xương xẩu nhô lên.
Sau chiếc ghế tựa của hai chị em Đasa ngồi chung có ai hỏi:
- Ai nói đấy?
- Đồng chí Kuzma, - có người thì thầm đáp nhanh - năm một ngàn chín trăm linh năm đồng chí có chân trong Xô-viết đại biểu công nhân. Mới đi đầy về được ít lâu.
- Giá ở địa vị ngài diễn giả vừa rồi, tôi sẽ chịu khó đợi ít nữa đã rồi hẵng hân hoan sau. - đồng chí Kuzma nói tiếp, và gương mặt màu sáp của ông trở nên dữ tợn và cương quyết - Mười hai triệu nông dân sắp bị đưa vào lò sát sinh, họ đang ở ngoài mặt trận... Hàng triệu công nhân đang chết ngạt trong các nhà hầm, đang đói meo ra trong khi đứng xếp hàng. Các ngài sẽ cất tiếng hát bản hợp xướng huynh đệ trên lưng công nhân và nông dân chứ?...
Có tiếng huýt sáo vang lên. Một giọng phẫn uất quát “như thế là khiêu khích!”. Ông mặt đỏ so vai và rung chuông. Đồng chí Kuzma nói tiếp:
- Bọn theo chủ nghĩa đế quốc đã ném châu Âu vào một cuộc chiến tranh hết sức quái đản, các giai cấp tư sản, từ trên xuống dưới, đều suy tôn nó lên thành một cuộc chiến tranh thần thánh, một cuộc chiến tranh giành thị trường thế giới, giành thắng lợi không tiền khoáng hậu cho tư bản... Bọn vô lại vàng, bọn xã hội dân chủ, giúp sức cho chủ chúng, lớn tiếng công nhận; đúng thế đấy ạ, đây là một cuộc chiến tranh dân tộc và thiêng liêng. Chúng lùa thợ thuyền và dân cày vào lò sát sinh... Tôi xin hỏi ai, ai đã lên tiếng trong những ngày đẫm máu ấy?
- Hắn nói gì?... Hắn là ai thế?... Bịt mồm hắn lại! - những giọng hằn học quát. Gian phòng ồn ào hẳn lên. Nhiều người bật dậy hoa chân múa tay.
- ... Giờ đã điểm... Ngọn lửa cách mạng phải lan ra, bừng dậy giữa đám quần chúng nông dân và công nhân...
Phần tiếp theo không thể nào nghe ra được giữa tiếng ồn ào vang dậy trong phòng. Có mấy người mặc lễ phục chạy lên phía bàn. Đồng chí Kuzma rời bục đi xuống và ra khỏi phòng. Thay chân cho ông ta là một bà nổi tiếng trong hoạt động giáo dục trẻ em.
- Lời lẽ của diễn giả vừa rồi thật đáng cho mọi người công phẫn...
Vừa lúc ấy như có ai ghé sát tai Đasa thì thầm, giọng xúc động và âu yếm:
- Chào em...
Đasa đứng phắt dậy ngay, không kịp ngoảnh lại nữa: trong khung cửa nàng nhìn thấy Têlêghin, Têlêghin, người đàn ông đẹp nhất đời, người của nàng!
Một lần nữa, chàng lại kinh ngạc vì thấy Đasa khác hẳn với người con gái mà chàng vẫn hình dung trong tâm trí, nhưng đẹp hơn không biết bao nhiêu mà kể: một màu hồng ấm áp bừng bừng trên má, đôi mắt màu xám xanh thăm thẳm như nước hồ sâu. Nàng hoàn mỹ quá, nàng không cần một chút gì nữa.
Đasa nói khẽ: “Chào anh”. - nàng vịn vào cánh tay Têlêghin, và hai người ra phố.
Trên phố, Đasa dừng lại và mỉm cười nhìn Ivan Ilyits. Nàng thở dài, đặt hai tay lên vai chàng và hôn lên môi chàng. Người nàng phảng phất mùi nước hoa nồng nồng của phụ nữ. Đasa lại lặng lẽ vịn lên cánh tay chàng, và hai người bước trên lớp băng dòn lấp lánh dưới ánh trăng lưỡi liềm treo rất thấp ở cuối phố.
- Ôi, anh Ivan, em yêu anh! Em mong anh quá!
- Anh không về được, em ạ...
- Em viết thư cho anh dở quá, anh đừng giận nhé! Em không biết viết thư...
Ivan Ilyits dừng lại nhìn gương mặt đang ngẩng lên nhìn chàng mỉm cười lặng lẽ. Đóng khung trong chiếc khăn len bông, mặt nàng trông càng giản dị và đáng yêu hơn nữa, hai đường lông mày trông thẫm lại. Chàng thận trọng kéo sát Đasa vào người. Nàng nhích nhích đôi chân đi giày cao cổ lại, nép vào người chàng, mắt vẫn nhìn đăm đăm vào mắt chàng. Chàng hôn nàng lần nữa, và hai người lại đi.
- Anh về có lâu không, Ivan?
- Anh cũng không biết nữa, tình hình thế này...
- Phải, anh cũng biết đấy: cách mạng kia mà.
- Em ạ, anh ngồi đầu máy về đây đấy...
- Anh ơi, bây giờ thế này nhé... - Đasa bước theo nhịp chân chàng và nhìn xuống mũi giày.
- Thế nào em?
- Lần này em sẽ lên trên ấy với anh... về nhà anh.
Ivan Ilyits không đáp. Đasa chỉ cảm thấy chàng mấy lần cố thở vào một hơi thật sâu. Nàng thấy yêu chàng và thương chàng quá.

37

Ngày kế theo có một điểm đặc sắc là nó xác nhận khái niệm tính tương đối của thời gian. Chẳng hạn, chiếc xe ngựa đưa Ivan Ilyits từ khách sạn ở phố Tvenxkaia đến phố Arbatxki mất khoảng một năm rưỡi. “Thưa ông, không dám ạ, cái thời đi xe mất năm mươi kôpek đã qua rồi, - anh xà ích nói - Ở Pêtrôgrad chúng tôi đã giành được tự do rồi, ở Moxkva nay mai chúng tôi cũng sẽ giành được. Ông thấy tên cảnh binh kia không? Chỉ muốn đánh xe lại quất cho nó một roi, cái thằng chó đẻ ấy. Ông hãy đợi đấy mà xem, rồi chúng tôi sẽ trừng trị hết lũ chúng nó”.
Đasa ra đón Ivan Ilyits ở cửa phòng ăn. Nàng mặc chiếc áo nội tẩm nhẹ, mái tóc màu tro cài vội. Người nàng thơm mùi nước mát. Chuông thời gian đã điểm, thời gian đã ngừng trôi. Nó tràn đầy những lời nói của Đasa, tiếng cười của nàng, mái tóc nhẹ của nàng óng ả trong nắng ban mai. Đasa chỉ đi ra cuối bàn thôi. Ivan Ilyits cũng đã thấy lo lo rồi. Đasa mở cửa tủ chè, giơ hai tay lên, và hai ống áo rộng tụt xuống, Ivan Ilyits không tin rằng người ta lại có thể có được hai cánh tay như thế; chỉ có hai cái sẹo chủng đậu ở phía trên khủy tay xác nhận rằng dù sao đây cũng là người trần. Đasa lấy cái chén và ngoảnh đầu lại nói một câu gì rất kỳ diệu rồi cười khanh khách.
Nàng bắt Ivan Ilyits uống mấy tách cà-phê liền. Nàng nói ra những từ ngữ, Ivan Ilyits cũng nói ra những từ ngữ, nhưng chắc hẳn những từ ngữ của loài người chỉ có nghĩa trong một thời gian chuyển động bình thường, chứ như hôm nay thì từ ngữ chẳng có ý nghĩa gì. Êkatêrina Đmitrievna, lúc bấy giờ cũng ngồi trong phòng ăn, lắng nghe Têlêghin và Đasa luôn luôn kinh ngạc, hân hoan nói những chuyện không đâu rồi lại quên ngay: nào cà phê ngon tuyệt trần, nào cái hộp da đựng đồ trang sức, nào cái thủ cấp bị chém ở Pêterburg, nào mái tóc của Đasa tự dưng biến sang màu hung đỏ - lạ thật! - khi có ánh nắng chiếu lên.
Chị hầu phòng đưa báo vào. Êkatêrina Đmitrievna dở tờ “Tin tức Nga” ra, à lên một tiếng rồi bắt đầu đọc to đạo dụ của hoàng đế ra lệnh giải tán viện Đuma nhà nước. Đasa và Têlêghin cũng tỏ vẻ ngạc nhiên lắm lắm về tin này, nhưng sau đó Êkatêrina Đmitrievna vẫn đọc tiếp tờ “Tin tức Nga” một mình. Đasa bảo Têlêghin: “Vào phòng em đi” và dẫn chàng đi qua dãy hành lang tối om, đến phòng nàng. Nàng vào trước, nói hấp tấp: “Khoan đã, anh đợi tí, đừng nhìn thế” và giấu một cái gì trăng trắng vào ngăn kéo tủ ngăn.
Lần đầu tiên trong đời Ivan Ilyits được trông thấy phòng Đasa: cái bàn trang điểm con con bầy rất nhiều thứ dụng cụ khó hiểu; cái giường trắng hẹp đặt hai chiếc gối, một to, một nhỏ: chiếc to thì Đasa gối đầu, còn chiếc nhỏ thì khi ngủ nàng kê dưới khủy tay; rồi bên cửa sổ là cái ghế bành vắt chiếc khăn len xù trên lưng tựa.
Đasa bảo Ivan Ilyits ngồi vào chiếc ghế bành ấy, dịch một chiếc ghế đẩu lại ngồi ngay trước mặt chàng, chống khủy tay lên đùi, tựa cằm lên hai bàn tay, rồi, nhìn không chớp vào mặt Ivan Ilyits, nàng ra lệnh cho chàng nói thử xem chàng yêu nàng như thế nào. Chuông thời gian điểm lần thứ hai.
Têlêghin nói:
- Đasa ạ, ví thử có ai cho anh tất cả trên đời này cả trái đất này, anh chẳng sẽ sướng hơn chút nào, em hiểu chứ? - Đasa gật đầu - Nếu anh chỉ có một mình, anh có làm được gì cho anh đâu, có phải không nào?... Anh có cần gì đến bản thân anh đâu? - Đasa gật đầu - Ăn, đi, ngủ: để làm gì? Tay này, chân này để làm gì?... Nói ví dụ nếu anh giàu như trong truyện cổ tích, thì phỏng có ích gì?... Nhưng em có tưởng tượng được sống một mình chán như thế nào không? - Đasa gật đầu - Nhưng bây giờ, khi em ngồi như thế này... Bây giờ không còn anh nữa... Anh chỉ cảm thấy có em, có hạnh phúc. Em là tất cả. Anh nhìn em cứ thấy ngờm ngợp: có thật là em đang thở, em đang sống, và đang là của anh đấy không?... Đasa em có hiểu được chút nào không?
- Em nhớ, - Đasa nói, - hôm chúng mình ngồi trên boong tàu, gió thổi nhè nhẹ, rượu nho óng ánh trong cốc: lúc bây giờ em chợt cảm thấy chúng mình đang trôi về hạnh phúc...
- Thế em có nhớ những cái bóng rợp màu thiên thanh hôm ấy không?
Đasa gật đầu, và lập tức nàng có cảm giác là nàng cũng nhớ có những cái bóng rợp xanh xanh rất đẹp ở đâu đấy. Nàng nhớ đàn hải âu bay theo chiếc tàu thủy, những dải bờ thâm thấp, vệt nắng loang loáng chạy dài xa tít trên sông, chỗ tận cùng trông như hòa lẫn vào biển hạnh phúc xanh biếc. Đasa còn nhớ cả chiếc áo nàng mặc hôm ấy... Từ bấy đến nay đã biết bao nhiêu năm trường trôi qua...
Tối hôm ấy Êkatêrina Đmitrievna ở câu lạc bộ Tư pháp chạy về, xúc động và vui mừng.
Nàng kể:
- Ở Pêtrôgrad chính quyền đã chuyển hết cho ủy ban Đuma; các bộ trưởng đã bị bắt, nhưng có những tin đồn rất đáng lo ngại: nghe đâu nhà vua đã rời khỏi đại bản doanh, và tướng Ivanôv đã đưa một lữ đoàn tiến về Pêtrôgrad để lập lại trật tự. Còn ở đây thì người ta dự định ngày mai sẽ tấn công chiếm thành Kremlin và kho quân giới... Ivan Ilyits ạ, sáng sớm mai hai chị em chúng tôi sẽ chạy đến chỗ anh xem cách mạng nhé...

38

Nhìn qua cửa sổ khách sạn có thể trông thấy ở phía dưới, trên dãy phố Tverxkaia, dân chúng đang kéo đi chầm chậm thành một dòng thác đen đen: lố nhố những cái đầu, những chiếc mũ lưỡi trai, những chiếc mũ lông, những chiếc khăn quàng, những khuôn mặt điểm thành những vệt vàng vàng. Trên các cửa sổ đều có những người hiếu kỳ ló cổ ra, trên các mái nhà đều có những chú bé trèo lên xem. Êkatêrina Đmitrievna, trong tấm mạng che mặt vén lên ngang mày, đứng bên cửa sổ, chốc chốc lại nắm tay Đasa hay Têlêghin nói:
- Khủng khiếp quá!... Khủng khiếp quá!
- Êkatêrina Đmitrievna, tôi xin quả quyết với chị rằng không khí trong thành phố rất ôn hòa. - Ivan Ilyits nói - Trước khi chị và Đasa đến, tôi có chạy đến thành Kremlin: ở đấy họ đang thương lượng, chắc là kho quân giới sẽ được trao lại mà không tốn một phát súng nào...
- Nhưng tại sao họ lại kéo đến đấy?... Anh xem: bao nhiêu là người... Họ muốn làm gì?
Đasa nhìn xuống dòng đầu người nhấp nhô, nhìn lên những đường viền của các mái nhà và các ngọn tháp. Sáng hôm ấy trời nhiều sương và dìu dịu ấm. Xa xa, phía trên những mái vòm thiếp vàng của mấy tòa nhà thờ trong thành Kremlin, phía trên những con chim ưng chạng chân giang cánh trên các tháp nhọn đỉnh, một đàn quạ nhỏ lượn vòng.
Đasa có cảm giác như có những con sông lớn nào đã dâng lên phá vỡ lớp băng đè nặng trên dòng, tràn khắp mặt đất, và nàng với người yêu đã bị dòng nước cuốn theo, bây giờ chỉ còn cách nắm chặt lấy tay chàng. Tim nàng đập rộn ràng vì lo âu và mừng rỡ, như tim của con chim đang bay vút lên những tầng cao.
- Tôi muốn xem cho thật đủ, ta ra đường đi, - Katya nói.
Trụ sở của Viện Đuma thành phố, nơi đặt bản doanh của cách mạng, là một tòa nhà gạch màu xin xỉn với dãy cột trông như một hàng chai, nhan nhản những bao lơn, những lan can và những ngọn tháp nhỏ ở các góc tường, bấy giờ đã được trang hoàng bằng những lá cờ đỏ. Những tấm vải đỏ thắm quấn chung quanh các cột nhà, buông từ trên mái hiên thềm chính. Trước thềm, trên mặt đường đá đóng băng có đặt bốn khẩu đại bác xam xám lắp bánh xe cao. Trên thềm, mấy người bắn súng máy đeo những chùm ruy-băng đỏ trên cầu vai đang ngồi cúi người xuống. Mấy đám người rất đông đứng nhìn với vẻ sợ sệt pha lẫn vui mừng những lá cờ đỏ, những cửa sổ ám bụi đen kịt của viện Đuma. Khi trên cái bao lơn nhỏ ở phía trên thềm xuất hiện một bóng người tí hon linh hoạt đang khua tay và quát một câu gì không hề nghe tiếng, trong đám đông nổi lên một tiếng râm ran vui mừng.
Khi đã nhìn chán chê mấy lá cờ và mấy khẩu đại bác, dân chúng bỏ đi, bước trên lớp tuyết bẩn đã bắt đầu tan nham nhở, chui qua những cổng tò vò sâu hoắm của nhà thờ Iverkaia đi ra quảng trường Đỏ: ở đây, cạnh hai cổng Xpaxxki và Nikôlxki, quân khởi nghĩa đang tiến hành đàm phán với đại biểu của trung đoàn dự bị cố thủ trong thành Kremlin.
Katya, Đasa và Têlêghin bị đám đông dồn đến sát thềm viện Đuma. Một tiếng la ó từ phố Tverxkaia lan ra khắp quảng trường, mỗi lúc một to.
- Các đồng chí tránh ra... Các đồng chí hãy tuân thủ nguyên tắc đấu tranh hợp pháp! - những giọng nói trẻ trung và xúc động vang lên.
Qua đám đông đang rẽ ra một cách miễn cưởng, bốn cậu học sinh, tay cầm súng trường khua khua trên đầu, và một cô thiếu nữ tóc xỏa tung, tay cầm thanh kiếm, len về phía thềm viện Đuma. Họ áp giải mười viên cảnh sát cao lớn, râu ria, hai tay trói sau lưng, khuôn mặt lầm lì cúi gằm. Đi trước là một viên cảnh sát trưởng không có mũ: trên cái đầu cạo trọc xanh xanh của hắn, ở gần thái dương có một vệt máu đọng đen đen; đôi mắt sáng màu hung của hắn lướt nhanh qua những gương mặt đang mỉm cười ngạo nghễ trong đám đông; lon vai của hắn đã bị lột, kéo rách cả một mảnh dạ trên áo khoác quân phục.
- Đến lúc biết tay nhau rồi các bố nhé! - trong đám đông có tiếng nói.
- Hết bắt nạt nhé...
- Hết thời oanh liệt rồi nhé!...
- Quân khốn kiếp!... Quân bạo chúa!
- Phải cho nếm nhục hình một mẻ.
- Anh em ơi, ta hè nhau vào...
- Các đồng chí, các đồng chí, tránh ra tí nào, phải tôn trọng trật tự cách mạng! - mấy cậu học sinh hét vỡ cả giọng; họ xua mấy viên cảnh sát lên thềm viện Đuma rồi mất hút, trong cửa lớn. Mấy người len vào theo họ, trong số đó có Katya, Đasa và Têlêghin.
Trong gian phòng đợi trống trải, trần cao, tối mờ mờ, có mấy người bắn súng máy ngồi xổm trên sàn ướt, bên cạnh vũ khí của họ. Một anh sinh viên má phính, hình như quá mệt mỏi và la ó quá nhiều nên đã mụ hẳn đi, hễ thấy có người vào là xông tới quát:
- Không lôi thôi gì hết, giấy đâu?
Có người cho anh ta xem giấy, nhưng có người chỉ khoát tay một cái và cứ thế đi thẳng lên cái cầu thang lớn dẫn lên tầng hai. Ở tầng hai, trong những dãy hành lang rộng, dọc tường có những người lính bụi bặm, ngái ngủ và lầm lì, kẻ ngồi người nằm, tay không rời khẩu súng. Có người đang nhai bánh mì, có người ngáy khò khò, đôi chân quấn giẻ co quắp lại. Cạnh đấy có một tốp người hiếu kỳ chen chúc nhau đứng đọc những dòng chữ kỳ quặc đề trên những mảnh giấy dán ở các cửa phòng, nhìn mấy ông chính ủy khản đặc, dây thần kinh căng thẳng đến cực độ, đang chạy từ phòng này sang phòng khác.
Katya, Đasa và Têlêghin, sau khi đã nhìn chán mắt những của lạ này, bèn chen vào một gian phòng cao có những khung cửa sổ rộng mênh mông chăng màn màu huyết dụ đã phai bạc, với những dãy ghế vòng cung bọc nhung màu huyết dụ quây lại thành hình bán nguyệt lên dần từng bậc. Trên bức tường phía trước có đặt những chiếc khung tranh thiếp vàng trống hoác - đó là những bức chân dung của các Sa hoàng đã tháo ruột đi - trông như những miếng vá lớn đen ngòm. Trước mấy cái khung tranh, một nữ hoàng Êkatêrina bằng cẩm thạch, với chiếc áo khoác bằng đồng hất ra sau lưng, đang mỉm cười niềm nở và ranh mãnh với thần dân.
Trên các dãy ghế vòng cung có nhiều người ngồi gục đầu xuống hai bàn tay, dáng mệt lừ, mặt xám đi, râu ria lởm chởm. Mấy người gục mặt xuống bàn viết mà ngủ. Mấy người nữa uể oải bóc lớp bì quanh mấy khoanh xúc xích, cặp vào bánh mì ăn. Phía dưới trước mặt vị nữ hoàng đang mỉm cười, mấy người thanh niên mặc sơ-mi đen, mặt mày hốc hác, ngồi trên cái bàn dài phủ tấm thảm xanh viền tua kim tuyến. Giữa bọn họ có một người tóc dài, râu màu hung đỏ.
- Đasa kìa! Thấy không: đồng chí Kuzma ngồi kia, ở bàn ấy - Katya nói.
Lúc bấy giờ có một thiếu nữ tóc cắt ngắn, mũi nhọn, đến cạnh đồng chí Kuzma nói thì thầm mấy câu. Đồng chí Kuzma ngồi nghe, không ngảnh lại, rồi đứng dậy nói:
- Thị trưởng Gretskôv tuyên bố lần thứ hai rằng vũ khí sẽ không được trao lại cho công nhân. Tôi đề nghị biểu quyết không thảo luận, thông qua bản tuyên bố phản kháng những hành động của Ủy ban cách mạng.
Têlêghin loay hoay mãi mới hỏi được một cậu học sinh thấp bé đang ngồi hút thuốc lá, vẻ ưu tư, và được cậu cho biết rằng, trong gian phòng mang tên nữ hoàng Êkatêrina này đang có cuộc họp của Xô-viết đại biểu công nhân. Cuộc họp đã kéo dài hai ngày hai đêm liên tục.
Đến giờ ăn trưa binh sĩ của trung đoàn dự bị đóng trong thành Kremlin trông thấy khói nấu bếp trên Quảng trường Đỏ, bèn mở cổng thành ra hàng. Khắp quảng trường tiếng reo hò vang dậy, mũ tung hết lên trời.
Trên pháp trường Lôbnôiê Mextô, nơi mà xưa kia xác Đmitri Mạo danh đã bị phơi trần truồng, đầu đeo mặt nạ đầu cừu, chiếc ống sáo của phường hát rong đặt trên bụng, nơi mà xưa kia người ta suy tôn và truất phế các Sa hoàng bằng tiếng reo hò và la ó, nơi mà xưa kia người ta ban bố và bãi bỏ mọi quyền tự do của dân Nga, trên cái gò đất con con đã bao lần mọc kín những ngưu bàng rồi sau đó lại đầm đìa máu tội nhân, chợt thấy một người lính bé nhỏ mặc chiếc áo ca-pốt tồi tàn, xơ xác, bước lên, cúi chào dân chúng rồi giơ cả hai tay lên kéo sụp cái mũ chụp cô-dắc xuống tận tai và bắt đầu nói những gì, ồn quá nghe không rõ. Người lính ấy rất gày gò, đến đợt trưng binh sau cùng mới được vét trong một thôn ổ hẻo lánh ra. Ấy thế nhưng cũng có một cô tiểu thư nào đấy, chiếc mũ cắm lông chim đội lệch sang một bên, bước lên hôn anh ta, sau đó người ta lôi anh xuống, khênh anh ta lên rồi vừa reo hò vừa rước đi.
Trong khi đó ở phố Tverkaia, trước mặt nhà viên tướng tổng đốc thành, một tay hảo hán nào đấy trong đám đông leo lên pho tượng của Xkôbêlev và buộc vào thanh gươm của ông ta một mảnh vải đỏ. Dân chúng reo “ura”.
Có mấy nhân vật bí hiểm nào đấy lẻn qua phố xép xông vào trụ sở vụ an ninh, và bên ngoài có thể nghe tiếng cửa kính vỡ loảng xoảng, rồi một lát sau thấy khói bốc lên. Dân chúng lại reo “ura!”.
Trên đại lộ Tverxkôi, bên tượng Puskin, một nữ văn sĩ có tiếng ứa nước mắt nói về buổi bình minh của cuộc đời mới rồi với sự giúp đỡ của một cậu học sinh nào đấy, đút vào tay nhà thi hào đang đứng trầm ngâm một lá cờ đỏ con con. Dân chúng lại reo “ura!”.
Suốt ngày hôm ấy cả thành phố đều như say rượu. Mãi đến khuya vẫn chưa có ai buồn về nhà, họ tụ họp lại thành từng tốp, nói chuyện, khóc vì vui mừng, ôm nhau hôn, chờ đợi những tin điện gì không rõ. Sau ba năm buồn nản, căm thù và máu me, ngọn trào tình cảm của dân phố đã dâng lên tràn trề như nước lũ.
Katya, Đasa và Têlêghin về nhà vào lúc choạng vạng. Liza, chị hầu phòng, đã ra đại lộ Prêtsixtenxki dự mít tinh, còn chị bếp thì khóa trái cửa bếp lại ngồi khóc ti tỉ. Katya gọi mãi chị ta mới chịu mở cửa.
- Chị làm sao thế hở Marfusa?
- Sa hoàng chúng ta bị giết rồ-ồ-ồ-i, - chị vừa nói vừa giơ bàn tay che đôi môi dày sưng mọng lên vì khóc. Hơi chị ta sặc mùi rượu.
- Chị nói gì mà vớ vẩn thế, - Katya bực mình nói, - có ai giết nhà vua đâu?
Nàng đặt ấm chè lên bếp hơi và đi dọn bàn ăn. Đasa nằm trên đi văng ở phòng khách, Têlê-ghin ngồi bên chân nàng. Đasa nói:
- Anh ơi, nếu em có ngủ thiếp đi thì khi nào dọn trà anh đánh thức em dậy nhé, - em thèm chén trà quá.
Nàng trở mình nằm nghiêng lại, kê hai bàn tay dưới má và nói giọng buồn ngủ:
- Em yêu anh lắm.
Trong bóng hoàng hôn, chiếc khăn len xù phủ trên người Đasa điểm một vệt trăng trắng. Không nghe thấy tiếng nàng thở. Ivan Ilyits ngồi yên không nhúc nhích, lòng chàng đang đầy tràn. Mãi cuối phòng, ở cửa phòng hiện lên một đường chỉ ánh sáng rồi cánh cửa mở ra, và Katya bước vào, ngồi xuống cạnh Ivan Ilyits trên cái đệm tròn của chiếc đi văng, hai tay bó gối. Sau một lát im lặng nàng hỏi:
- Đasa ngủ rồi à?
- Cô ấy dặn khi nào có trà thì đánh thức.
- Dưới bếp chị Marfusa cứ khóc lóc mãi là Sa hoàng đã bị giết. Ivan Ilyits ạ, rồi sẽ ra sao?... Cứ có cảm giác như bao nhiêu đê đập đều vỡ hết rồi... Lại đau lòng nữa: tôi lo cho Nikôlai Ivanôvits quá... Anh ạ, tôi nhờ anh nhé: anh gửi cho anh ấy một bức điện đi, càng sớm càng tốt, mai được không?... Thế còn... bao giờ anh định đưa Đasa về Pêtrôgrađ?
Ivan Ilyits không đáp, Katya quay đầu về phía chàng, chăm chú nhìn vào mặt chàng bằng đôi mắt to, giống hệt mắt Đasa, nhưng lại là đôi mắt nghiêm trang của một thiếu phụ, rồi mỉm cười kéo Ivan Ilyits lại và hôn lên trán chàng.
Sáng hôm sau cả thành phố đổ ra đường. Trên phố Tverxkaia, dưới những tiếng hoan hô không ngớt, những chiếc xe vận tải chở đầy lính len qua đám đông dày đặc, lưỡi lê và kiếm chĩa ra tua tủa. Những khẩu đại bác chở mấy chú bé con cưỡi trên nòng, lăn ầm ầm qua phố. Trên những đống tuyết bẩn dọc các vỉa hè, mấy cô tiểu thư trẻ măng tay cầm kiếm giơ cao, gương mặt căng thẳng, và những cậu học sinh vũ trang không biết khoan nhượng là gì, đang đứng giữ trật tự: đó là đội dân vệ tình nguyện. Mấy ông chủ bắc thang lên gỡ những phù hiệu chim ưng của hoàng đế trên biển xuống. Một tốp thiếu nữ ốm yếu, công nhân một nhà máy thuốc lá, rước chân dung Lev Tôlxtôi qua các phố, và nhà lão văn hào cau đôi mày nghiêm khắc nhìn tất cả những cảnh kỳ dị này. Tưởng chừng như từ nay không còn có thể có chiến tranh, không có hằn thù gì nữa, và chỉ cần treo thêm một ngọn cờ đỏ ở một nơi nào đấy, một tháp chuông thật cao nào đấy nữa, là cả thế giới sẽ hiểu rằng chúng ta đều là anh em, rằng không có một lực lượng nào khác trên thế giới: chỉ còn niềm vui sướng, nền tự do, tình yêu thương, cuộc sống...
Khi những điện tín cho biết cái tin sét đánh là Sa hoàng đã thoái vị, quyền trị quốc đã được trao lại cho Mikhail và vị thái tử hoàng đệ này đã từ chối ngai vàng, thì không ai lấy làm kinh ngạc cho lắm: hình như trong những ngày ấy người ta còn chờ đợi những điều kỳ lạ hơn nhiều.
Trên những đường viền gồ ghề lên xuống của các mái nhà, giữa vùng trời trong suốt thăm thẳm màu da cam ở phía mặt trời lặn, một vì sao lóng lánh đổi màu. Những cành bồ đề trụi lá vạch những đường đen sẫm im lìm trên nền trời. Ở phía dưới đã tối hẳn, những vũng nước đọng trên vỉa hè đã đông lại, kêu lạo xạo dưới chân. Đasa dừng lại, và hai bàn tay vẫn ôm lấy cánh tay Ivan Ilyits, nàng đưa mắt qua dãy hàng rào thấp nhìn ánh đèn leo lét trong khung cửa sổ sâu hoắm của nhà thờ Nikôla.
Ngôi nhà thờ nhỏ và khoảng sân của nó đều chìm trong bóng rợp của rặng bồ đề. Xa xa có tiếng cửa đóng sập lại, và một người thấp bé mặc chiếc áo dài quết đất, đầu đội cái mũ rộng vành trông như cây nấm, đi qua sân trong, đôi ủng dạ giẫm lạo xạo trên lớp băng mỏng. Có thể nghe thấy hắn khua chìa khóa lẻng xẻng và thong thả trèo lên gác chuông.
- Ông bõ lên đánh chuông đấy, - Đasa thì thầm và ngẩng đầu lên. Trên cái mái vòm nhỏ thiếp vàng của tháp chuông còn đọng lại một ánh phản chiếu của tà dương.
- “Boong!” - một tiếng ngân nga đưa ra từ quả chuông đã ba trăm năm nay vẫn kêu gọi dân cư tĩnh tâm lại trước giờ yên giấc.
Trong ký ức Ivan Ilyits vụt hiện lên ngôi nhà thờ nhỏ bên đường, và trên ngưỡng cửa nhà thờ là người thiếu phụ mặc áo dài trắng ôm xác đứa con trong lòng mà khóc lặng lẽ. Ivan Ilyits siết chặt bàn tay Đasa dưới cánh tay mình. Đasa nhìn chàng như muốn hỏi: gì thế anh?
- Anh có muốn không? - nàng thì thầm hỏi nhanh - Ta vào đi...
Ivan Ilyits nhoẻn miệng cười. Đasa cau mặt, giẫm mạnh đôi giày cao cổ xuống mặt đường đất.
- Sao anh lại cười nhỉ. Khi đang đi bên cạnh người mình yêu nhất đời, mà trông thấy ánh đèn trong cửa sổ nhà thờ, ai mà chẳng muốn vào làm lễ luôn? Có gì buồn cười đâu?... - Đasa lại vịn vào tay Ivan Ilyits - Anh có hiểu em không?

39

- Hỡi đồng bào, hỡi binh sĩ của quân đội Nga từ nay đã là một quân đội tự do, tôi có được cái vinh dự quý báu được chúc mừng các bạn nhân ngày hội huy hoàng của chúng ta: xiềng xích nô lệ đã bị đập tan. Trong ba ngày, không đổ lấy một giọt máu, nhân dân Nga đã hoàn thành cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử. Sa hoàng Nikôlai đã thoái vị, các bộ trưởng của Sa hoàng đã bị bắt, thái tử hoàng đệ Mikhail đã tự nguyện từ khước ngài vàng vì biết mình không đủ sức. Ngày nay toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân. Chính phủ lâm thời đã đứng ra cầm đầu quốc gia, đặng trong một thời hạn ngắn nhất sẽ tiến hành cuộc tuyển cử vào hội đồng lập hiến toàn Nga-la-lư trên cơ sở đầu phiếu trực tiếp, phổ thông, bình đẳng và bí mật... Vậy thì: Cách mạng Nga muôn năm, Hội đồng lập hiến muôn năm, chính phủ lâm thời muôn năm!
- Urra a-a! - hàng nghìn giọng lính hòa lại trong một tiếng hô kéo dài.
Nikôlai Ivanôvits Xmôkôvnikov rút trong túi áo da hươu ra một chiếc khăn mùi soa lớn màu ngụy trang, lau cổ, mặt và râu. Ông đang đứng trên một diễn đàn đóng bằng ván, phải bám vào các xà ngang mới leo lên được. Sau lưng ông là viên tiểu đoàn trưởng Tyôtkin vừa được thăng lên cấp thượng tá. Gương mặt dạn dày sương gió với bộ râu ngắn và cái mũi nung núc của ông ta biểu lộ một sự chú ý căng thẳng. Khi tiếng “ura” của binh sĩ vang lên, ông ta đưa lòng bàn tay lên lưỡi trai, vẻ lo lắng. Trước diễn đàn, trên cánh đồng bằng phẳng lổ đổ những khoảng tuyết tan để lộ mặt đất đen sì chen những vệt tuyết bẩn, một đám đông khoảng hai nghìn lính không cầm súng, đội mũ sắt, mặc những chiếc áo ca-pôt nhàu nát không thắt lưng, há hốc mồm đứng nghe những lời lẽ kỳ dị mà cái ông mặt đỏ như mặt gà tây kia đang nói với họ. Xa xa trong lớp sương xam xám, nhấp nhô những cái ống lò sưởi cháy đen của một làng bị thiêu hủy. Phía sau là phòng tuyến của quân Đức. Mấy con quạ xơ xác bay qua cánh đồng buồn tẻ ấy.
- Hỡi binh sĩ, - Nikôlai Ivanôvito nói tiếp, bàn tay xòe ngón giơ ra phía trước, cổ đỏ gay lên - Mới hôm qua anh em còn là những tên tốt đen, một bầy gia súc câm lặng mà tổng hành dinh của Sa hoàng lùa vào lò sát sinh. Người ta không hề hỏi xem anh em phải chết vì cái gì... Anh em phạm lỗi thì họ đánh đập và đem bắn không xét xử. (thượng tá Tyôtkin đằng hắng, đổi chân đứng vài lần, nhưng vẫn im lặng, và chỉ lát sau lại nghiêng nghiêng cái đầu chăm chú nghe). Tôi, chính ủy của các quân đoàn mặt trận miền tây do chính phủ lâm thời đề cử - Nikôlai Ivanôvits siết năm ngón tay lại như cầm lấy dây cương, - tuyên bố với anh em rằng ngày nay không còn tốt đen nữa. Cấp bậc đều bị bãi bỏ. Từ nay, anh em binh sĩ đều là những công dân bình quyền của quốc gia Nga-la-tư; không còn có sự phân biệt giữa binh sĩ và tổng tư lệnh nữa. Những cách xưng hô như “bẩm quan lớn”, “bẩm cụ lớn”, “bẩm đại nhân”. Từ nay anh em sẽ nói: “chào tướng quân” hay là “thưa tướng quân, vâng” hoặc “thưa tướng quân, không”. Những cách trả lời xúc phạm đến nhân phẩm như “lạy quan lớn quả có thế ạ” hay “bẩm quan lớn làm gì có ạ” đều bị bãi bỏ. Quy chế bắt binh sĩ phải đứng nghiêm chào bất cứ cấp sĩ quan nào đã bị bãi bỏ vĩnh viễn. Các bạn có thể bắt tay chào hỏi một vị tướng, nếu các bạn muốn...
- Hô-hô-hô! - có tiếng cười vui vẻ truyền đi trong đám lính. Tyôtkin cũng mỉm cười, trong khi mi mắt chớp chớp một cách thảng thốt.
- Và cuối cùng đây là điều chủ yếu nhất: anh em binh sĩ, trước đây chiến tranh là do chính phủ Sa hoàng tiến hành, còn ngày nay người tiến hành chiến tranh là nhân dân, là các bạn. Do đó, chính phủ lâm thời đề nghị các bạn thành lập trong tất cả các quân đoàn những ủy ban binh sĩ - ủy ban đại đội, ủy ban tiểu đoàn, ủy ban trung đoàn, vân vân, cho đến ủy ban quân đoàn... Hãy cử vào ủy ban những chiến hữu mà các bạn tin cậy!... Từ ngón tay người lính sẽ dạo chơi trên tấm bản đồ quân sự bên cạnh cây bút chì của đại tướng tổng tư lệnh... Hỡi binh sĩ, tôi xin chúc mừng các bạn về thành tựu đó, thành tựu vĩ đại nhất của cách mạng!
Khắp cánh đồng lại vang dội tiếng “ura-a-a”, Tyôtkin vẫn đứng thẳng đờ, tay đặt lên lưỡi trai. Mặt ông ta xám ngoét lại. Trong đám đông bắt đầu có những tiếng quát hỏi:
- Thế bao giờ thì mới giảng hòa với thằng Đức?
- Xà phòng sẽ phát mỗi người được bao nhiêu?
- Còn nghỉ phép thì thế nào?
- Thưa ông ủy viên thế bây giờ ở ta sẽ thế nào ạ? Sẽ bầu ra một ông vua chăng? Ai sẽ đánh giặc?
Để trả lời các câu hỏi cho thật sát, Nikôlai Ivanôvits leo xuống diễn đàn, và quanh ông có một tốp lính náo nức xúm lại. Thượng tá Tyôtkin, chống khủy tay lên lan can diễn đàn nhìn theo cái đầu trần húi ngắn và cái gáy béo phị của ông ủy viên quân sự di động giữa đám mũ sắt, đi xa dần ra, quay bên này bên nọ. Một người lính tóc hung đỏ, vẻ tinh quái, áo ca-pốt khoác hờ trên vai (Tyôtkin biết rõ mặt anh này: một tay ở đại đội điện thoại) nắm lấy cái nịt thắt ra ngoài áo da của Nikôlai Ivanôvits, và mắt đảo lia lịa, hắn cất tiếng hỏi:
- Ông ủy viên quân sự ơi, ông vừa nói với chúng tôi rất hay ho, và chúng tôi đã nghe ông nói một cách khoái chí lắm... Bây giờ ông cho tôi hỏi một câu.
Đám lính vui mừng nhao nhao lên và nhích lại gần hơn. Thượng tá Tyôtkin cau mày và lo lắng trèo xuống diễn đàn.
- Tôi xin hỏi ông, - người lính nói, một ngón tay giơ lên ngang mặt, cái móng đen thui gần chạm vào mũi Nikôlai Ivanôvits - Tôi vừa có thư ở quê gửi ra: con bò cái nhà tôi chết rồi, mà nhà tôi thì không có ngựa, thành thử vợ tôi phải dắt con đi ăn mày... Thế thì xin hỏi bây giờ nếu tôi đào ngũ thì ông có quyền xử bắn tôi không?
- Nếu anh coi trọng quyền lợi cá nhân hơn nền tự do thì anh cứ phản bội nó đi, cứ phản bội như Juđa đi, và nước Nga sẽ nói thẳng vào mặt anh: anh không xứng đáng làm người lính của quân đội cách mạng... Đi về nhà đi! - Nikôlai Ivanôvits quát lớn, giọng gay gắt.
- Này ông đừng có mà quát tôi nhé!
- Ông là cái thá gì mà dám quát vào mặt chúng tôi?
- Anh em binh sĩ - Nikôlai Ivanôvits kiễng chân lên - ở đây có sự hiểu lầm... Nguyên tắc thiêng liêng nhất của cách mạng là phải trung thành với các nước đồng minh của ta... Quân đội cách mạng tự do của nước Nga phải xông lên với một khí thế mới đánh tan kẻ thù hung ác nhất của tự do: nước Đức đế quốc chủ nghĩa.
- Thế anh đã bao giờ nuôi rận trong người dưới chiến hào chưa? - một giọng nói thô lỗ vang lên.
- Từ bé hắn đã trông thấy rận bao giờ đâu...
- Cho hắn vài con về mà làm giống...
- Anh đừng có nói chuyện tự do với chúng tôi làm gì, anh nói chuyện chiến tranh đi đã. Chúng tôi đã đánh nhau ba năm nay. Các anh thì ở hậu phương ngốn cho phưỡn bụng ra, sướng quá còn gì, còn chúng tôi đây thì lại cần biết làm thế nào để kết thúc được chiến tranh bây giờ đây này!
- Anh em binh sĩ, - Nikôlai Ivanôvits lại cất cao giọng, - ngọn cờ cách mạng đã giương cao, hãy vì tự do tiến lên, chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng!...
- Nói ngu bỏ mẹ...
- Chúng tôi đánh nhau ba năm nay rồi, có thấy thắng thiếc gì đâu...
- Thế thì lật đổ Sa hoàng làm cái gì?
- Chúng nó chủ tâm lật Sa hoàng vì Sa hoàng làm vướng tay chúng trong khi chúng muốn kéo dài chiến tranh...
- Anh em ơi, thằng này là đồ phản trắc...
Thượng tá Tôtkin dùng khủy tay gạt binh sĩ ra, cố len về phía Nikôlai Ivanôvits. Ông ta trông thấy một gã pháo binh to lớn, vai gù gù, tóc đen nhánh, thộp ngực ông ủy viên và vừa lay mạnh vừa quát vào mặt ông ta:
- Mày đến đây làm gì?... nói đi - đến đây định làm cái gì? Đến để định bán rẻ cái mạng chúng tao chứ gì, đồ chó đẻ?
Cái gáy tròn thu lu của Nikôlai Ivanôvits rụt sâu xuống cổ, bộ râu quai nón chải vuốt lên như vẽ trên má, nhích nhích một cách bất lực. Trong khi xô người lính ra, mấy ngón tay co quắp của ông xé rách cổ áo của hắn. Người lính nhăn mặt tháo cái mũ sắt nện mấy phát rất mạnh vào đầu, vào mặt Nikôlai Ivanôvits.

40

Trước cửa hiệu kim hoàn Muravêytsik, một người gác đêm và một người dân vệ đang ngồi nói chuyện khe khẽ. Dãy phố vắng tanh, các cửa hàng đều đã đóng cửa. Làn gió nhẹ tiết tháng ba thổi vi vu trong những cành xiêm gai hãy còn trụi lá, lồng vào tờ quảng cáo “quốc trái tự do” tróc hồ kêu loạt xoạt trên dãy hàng rào. Vầng trăng sáng lung linh như một con sứa, giống hệt trăng phương nam, đã lên cao trên thành phố.
- Lúc bấy giờ ông ta nghỉ mát trong ngôi biệt thự của ông ta ở Yalta, - người gác đêm thong thả kể chuyện - Ông ta ra ngoài đi dạo, như thường lệ, mặc quần trắng, bao nhiêu huân chương đeo hết lên. Thế rồi ngay giữa phố người ta đưa cho ông một bức điện: hoàng thượng đã thoái vị. Ông ta đọc bức điện rồi khóc sướt mướt trước mặt khách qua đường.
- Ái chà-chà-chà! - người dân vệ nói.
- Một tuần sau ông ta về hưu.
- Tại sao?
- Tại ông ta là tổng trấn, mà bây giờ thì chẳng còn cái chức ấy nữa.
- Ái chà-chà-chà! - người dân vệ vừa nói vừa nhìn con mèo gày còm đang đi đâu có việc, rón rén bước dưới bóng cây xiêm gai.
- ... Còn hoàng đế thì lúc bấy giờ đang ở Môghilev, giữa quân đội của ngài. Ừ thì thế cũng hay, ngài cứ ở yên, chẳng lo lắng gì. Ban ngày thì ngủ cho đẫy, ban đêm thì đọc điện tín, xem đã có trận nào xảy ra ở đâu.
- Nó khát, cái của nợ ấy, đang đi tìm nước uống đấy - người dân vệ nói.
- Cậu nói ai thế?
- Cái con mèo ở hiệu thuốc lá Ximphi ấy, nó đi rỏn đấy.
- Kệ nó. Thế rồi bỗng một hôm có người nói điện thoại trực tiếp với hoàng đế rằng thì là thế này thế nọ, dân Pêterburg nổi loạn rồi, lính tráng thì không chịu bắn vào dân, họ chỉ muốn chạy ù về nhà thôi. Nhà vua nghĩ bụng: như thế cũng chỉ mới tai hại một nửa thôi. Ngài bèn triệu tất cả các tướng đến, đeo huân chương, dây thao vào, ra gặp các tướng rồi nói: “Ở Pêterburg dân chúng nổi loạn, lính tráng thì không chịu bắn vào dân, chỉ muốn chạy ù về nhà thôi. Biết làm thế nào đây? Các tướng kết luận như thế nào, hãy nói ta nghe”. Cậu có tưởng tượng được không: ngài nhìn các tướng, còn các tướng chẳng nói ra được cái kết luận gì, ai nấy đều ngoảnh mặt đi.
- Ái chà-chà-chà, thế mới chết!
- Chỉ có một ông tướng không ngoảnh mặt đi: đó là một ông tướng già say rượu. “Tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng cứ ra lệnh, lão xin hiến dâng tính mạng vì hoàng thượng”. Nhà vua lắc đầu, mỉm cười cay đắng. “Trong tất cả các khanh tướng, các tôi trung của ta chỉ còn có một người trung thành cho đến bây giờ, mà lại là một người hôm nào cũng say bí tỉ suốt ngày. Thôi rõ ràng là triều đại ta đã cáo chung. Đưa một tờ giấy có quốc huy đây, để ta ký tờ chiếu thoái vị”.
- Thế rồi ngài ký à?
- Ái chà-chà-chà, thế mới chết!
Lúc bây giờ trên phố có người đi nhanh qua hiệu kim hoàn, đầu đội mũ cát két, cái lưỡi trai to tướng kéo sụp xuống tận mắt. Một ống tay áo của hắn lép kẹp, đút vào thắt lưng. Hắn quay mặt về phía hai người đang ngồi trước cửa hàng: có thể trông thấy rõ hàng răng hắn lấp lánh.
- Người kia đi qua đây lần này là lần thứ tư. - người gác đêm nói khẽ.
- Chắc là một tên cướp.
- Từ khi có cuộc chiến tranh này, kẻ cướp mọc như rươi, cậu ạ. Ở những nơi trước kia chưa hề có cướp bao giờ, bây giờ chúng cũng dẫn xác đến. Như các nghệ sĩ đi biểu diễn lưu động ấy.
Xa xa, trên một tháp chuông, đồng hồ điểm ba tiếng, và lập tức có tiếng gà gáy lần thứ hai. Trên phố lại thấy người cụt tay xuất hiện. Lần này hắn đi thẳng về phía hai người gác, về phía cửa hàng. Họ im lặng nhìn hắn. Bỗng người gác đêm thì thầm nói nhanh:
- Thôi, chúng mình bỏ mẹ rồi. Ivan, thổi còi đi.
Người dân vệ rút còi ra, nhưng người cụt tay đã lao đến đá một phát vào ngực anh ta và lấy báng súng lục đánh vào đầu người gác đêm. Ngay lúc ấy có một người nữa mặc áo khoác lính, người to ngang, ria cá trê, xông tới bẻ quặt hai tay người dân vệ ra sau lưng. Người cụt tay và người mặc áo khoác lính lặng lẽ bắt tay vào lần ổ khóa. Khi đã lọt được vào lần cửa hiệu Muravêytsik, họ lôi người gác đêm đang bất tỉnh và người dân vệ bị trói vào nhà và đóng cửa lại. Trong mấy phút công việc đã xong xuôi, ngọc và vàng đều đã gói hết vào hai cái bọc vải. Người mặc áo khoác lính nói:
- Thế còn bọn này? - đoạn lấy ủng hích vào người dân vệ đang nằm cong queo giữa sàn, bên cạnh cái quầy hàng.
- Ấy đừng. Hai ông bạn thân mến ơi, đừng giết chết tôi, - người dân vệ nói khe khẽ, - chờ đấy, hai ông bạn đáng mến ạ...
- Đi thôi, - người cụt tay nói xẵng.
- Rồi chúng nó đi báo đấy...
- Đi, đồ khốn kiếp! - Đoạn Arkađi Jađôv răng cắn lấy bọc hàng, cầm khẩu Mauzer chĩa vào tên đồng lõa. Tên này cười nhạt đi ra cửa. Phố vẫn vắng tanh như cũ. Cả hai điềm tĩnh bước ra rẽ ngoặt qua gốc phố và đi về phía “Lâu đài Cabernet”.
- Đồ khốn kiếp, đồ kẻ cướp, đồ đốn mạt, - dọc đường Jađov nói với người mặc áo khoác lính - Nếu mày muốn làm việc với tao thì từ rày đừng có giở cái trò ấy ra. Rõ chưa?
- Rõ.
- Bây giờ thì đưa cái bọc đây. Đi lo thuyền ngay. Tao về gọi vợ tao. Đến tảng sáng là phải ra bể.
- Về Yalta chứ?
- Không phải việc của mày. Về Yalta hay về Conxtantinôpol thì mặc tao thu xếp...

41

Katya ở lại một mình. Têlêghin và Đasa đã về Pêtrôgrad. Katya tiễn hai người ra ga - họ cứ ngơ ngác như người mê ngủ - và trở về nhà vào lúc hoàng hôn.
Trong nhà vắng ngắt, Marfusa và Liza đã đi dự buổi mít tinh của giới gia nhân. Trong gian phòng ăn vẫn còn phảng phất mùi thuốc lá và mùi hoa, giữa những bát đĩa chưa kịp dọn, có cắm một cành anh đào đang nở hoa. Katya rót nước trong bình thủy tinh ra tươi cho nó, dọn dẹp bát đĩa, và không bật đèn lên, nàng ngồi xuống cạnh bàn, mặt quay ra cửa sổ, bầu trời đã tối xẩm, mây giăng từng đường dài. Chiếc đồng hồ quả lắc kêu tích tắc. Dù lòng mình có tan nát đi vì buồn nhớ, nó vẫn cứ tích tắc đều đều như thế. Katya ngồi im một hồi lâu không nhúc nhích, rồi cầm chiếc khăn len xù vắt ở ghế bành lên, khoác vào vai đi sang phòng Đasa.
Trong bóng hoàng hôn hiện lên mờ mờ tấm nệm kẻ sọc của cái giường bỏ không, trên ghế có một cái hộp đựng mũ bằng bìa trống rỗng, trên sàn la liệt những mảnh giấy và những miếng giẻ. Khi Katya thấy rõ rằng Đasa đã đem hết đồ đạc riêng đi, không để lại một cái gì, không quên một vật gì, nàng tủi giận đến ứa nước mắt. Nàng ngồi lên tấm nệm kẻ sọc trần trụi ở trên giường, và lại lặng im không nhúc nhích như ban nãy ở phòng ăn.
Đồng hồ trong phòng ăn điểm mười tiếng vang dội. Katya sửa lại tấm khăn quàng trên vai và đi xuống bếp. Nàng đứng nghe ngóng một lát, lấy cuốn vở ghi tiền chợ trên giá xuống, xé ra một tờ giấy trắng và viết bằng bút chì: “Liza và Marfusa, hai chị bỏ nhà đi suốt từ sáng đến khuya như thế mà không biết xấu hổ sao?”. Một giọt nước mắt rơi xuống tờ giấy. Katya để tờ giấy trên bàn làm bếp và đi vào phòng ngủ.
Nàng hấp tấp cởi quần áo, lên giường nằm im phăng phắc.
Đến nửa đêm có tiếng mở cửa bếp, Liza và Marfusa đi vào, bước rất mạnh chân và nói chuyện oang oang, rồi bắt đầu đi đi lại lại trong nhà bếp. Họ tự dưng im bặt một lát, rồi cả hai bỗng cười phá lên: họ đã đọc mảnh giấy của Katya, Katya, chớp chớp đôi mắt, nhưng vẫn nằm im.
Cuối cùng dưới bếp cũng im ắng đi. Cái đồng hồ vẫn thao thức trong phòng ăn điểm một tiếng vang dội. Katya nằm ngửa ra, dùng chân hất tung tấm chăn, khó nhọc thở dài mấy lần như thiếu không khí. Rồi nàng nhảy từ trên giường xuống, bật đèn lên, và hai mắt nheo nheo vì chói, nàng đến đứng trước tấm gương lớn. Chiếc sơ mi mỏng mặc lót ban ngày của nàng dài không chấm gối. Katya đưa đôi mắt ưu tư nhìn rất nhanh qua dáng dấp của mình một lượt như nhìn một vật gì rất quen thuộc, cằm nàng run run, nàng nhích lại gần tấm gương hơn nữa, vén mái tóc bên phải lên - Phải, đúng, dĩ nhiên phải như thế: đây có một sợi, lại một sợi nữa... - Nàng nhìn kỹ khắp khuôn mặt mình - Đúng thật, tất nhiên... Chỉ một năm nữa, đầu sẽ bạc, rồi ta sẽ già - Nàng tắt đèn và lại nằm lên giường, cánh tay che lên mặt. “Suốt đời ta không có lấy một phút vui. Bây giờ thì hết rồi... Không còn có một đôi tay nào sẽ ôm ta, siết chặt ta vào lòng, không còn ai sẽ nói: em thân yêu, em của anh, niềm vui của anh nữa...”
Giữa những ý nghĩ đắng cay và hối tiếc, Katya chợt nhớ đến một con đường nhỏ rải cát ướt, xung quanh là một khoảng rừng thưa với những cây bồ đề cao lớn, mà cơn mưa vừa qua đã nhuộm lên một màu lam pha xám... Và nàng, Katya, mình mặc chiếc áo dài màu nâu thẫm và chiếc tạp dề nữ sinh màu đen, đang bước đi trên con đường ấy. Cát lạo xạo dưới đôi giầy vải. Katya cảm thấy mình nhẹ nhàng, thanh tú, tóc nàng bay lất phất trước gió, và cậu học sinh Aliôsa dắt xe đạp đi bên cạnh nàng - cậu ta không đi trên đường, mà lại đi trên lớp cỏ ướt. Katya ngoảnh mặt đi để khỏi phì cười. Aliôsa nói, giọng trầm trầm: “Tôi biết rằng tôi không thể hy vọng một sự đền đáp. Tôi đến đây chỉ để nói rõ điều đó với Katya. Tôi sẽ sống quãng đời còn lại của tôi trong một nhà ga xép, ở một vùng hẻo lánh nào đấy. Vĩnh biệt...”. Cậu ngồi lên xe đạp và đi trên bãi cỏ, bánh xe để lại trên lớp cỏ ướt một cái vết màu lam pha xám… Lưng cậu gù hẳn xuống trong chiếc áo va-rơi màu ghi, và chiếc mũ lưỡi trai trắng khuất dần sau dám lá xanh. Katya gọi: “Aliôsa, quay lại!”
... Có thật chính nàng, người thiếu phụ giơ đây trằn trọc khổ sở trong đêm mất ngủ, hổi ấy đã đứng trên con đường ướt đẫm, và làn gió mùa hè thoảng mùi nước mưa thổi tung chiếc tạp dề đen nho nhỏ của nàng? Katya ngồi lên giường, hai tay ôm đầu, khủy tay chống lên đùi, và trong ký ức nàng chập chờn những đốm sáng mờ mờ của dãy đèn đường, những hạt bụi tuyết bay lất phất, những cành cây khô lắt lay trước gió, tiếng kẽo kẹt da diết, chán chường, vô hy vọng của cỗ xe trượt tuyết, đôi mắt lạnh như băng của Bexxônôv, rất gần nàng, sát trên mắt nàng... Cái cảm giác khoái lạc của sự bất lực, của sự buông xuôi... Cái cảm giác rờn rợn tơm tởm của sự tò mò...
Katya lại nằm xuống. Trong ngôi nhà im lặng bỗng có tiếng chuông lanh lảnh vang lên. Katya lạnh toát người đi. Tiếng chuông lại réo lên. Rồi có tiếng bước ngái ngủ của Liza đang đi chân không qua hành lang, mũi thở phì phò giận dữ, sợi xích nhỏ ở cửa vào kêu lẻng xẻng, và một phút sau có tiếng gõ trên cửa buồng nàng:
- Bà ơi, bà có điện.
Katya nhăn mặt cầm lấy chiếc phong bì hẹp, xé chỗ dán, mở tờ giấy ra, và trước mắt nàng bỗng tối sầm lại.
- Liza, - Nàng nói, mắt thẫn thờ nhìn môi cô hầu gái bắt đầu run lên vì sợ hãi - Nikôlai Ivanôvits mất rồi.
Liza rú lên một tiếng và khóc òa lên. Katya bảo chị ta lui ra. Rồi nàng đọc lại một lần nữa những dòng chữ ghê tởm in trên băng giấy: “Nikôlai Ivanôvits từ trần do trọng thương khi thi hành nhiệm vụ vinh quang stop thi hài sẽ đưa về Moxkva Liên minh đài thọ stop...”
Katya thấy nôn nao ở phía dưới ngực, mắt nàng cứ tối sầm lại, nàng ngả đầu xuống và ngất đi.
Hôm sau công tước Kapuxtin-Unjexki đến thăm Katya. Đó chính là cái ông mặt đỏ râu xồm mà nàng đã nghe nói chuyện ở Câu lạc bộ tư pháp vào ngày đầu cách mạng - một nhà hoạt động chính trị nổi tiếng thuộc phái tự do. Công tước cầm cả hai tay nàng lên, ép chặt vào chiếc áo gi-lê xù lông của mình, và nói rằng thay mặt cho cái tổ chức trong đó ông ta đã từng làm việc chung sức với Nikôlai Ivanôvits, thay mặt cho thành Moxkva mà hiện nay ông ta là phó chính ủy, thay mặt cho nước Nga và cho cách mạng, ông đem lại cho Katya những lời chia buồn đau đớn nhất về cái chết quá sớm của một chiến sĩ quang vinh đã hy sinh vì lý tưởng.
Công tước Kapuxtin-Unjexki từ bản chất vốn là người tràn trề hạnh phúc, khỏe mạnh và vui tính mà giờ đây lại có thể đau đớn sầu não một cách chân thành như vậy, và bộ râu cũng như ngực áo gi-lê của ông phảng phất một mùi xì gà ấm cúng đến nỗi trong giây phút Katya cũng thấy nhẹ bớt lòng, nàng ngước đôi mắt sáng quắc vì mất ngủ lên nhìn ông và mở hé đôi môi khô héo ra nói:
- Cảm tạ công tước đã nói về Nikôlai Ivanôvits như vậy...
Công tước rút ra một chiếc khăn mù soa to tướng giơ lên lau mắt. Sau khi làm tròn bổn phận nặng nề của mình, ông cáo từ ra về, chiếc xe hơi của ông rú ga dữ tợn trong dãy phố nhỏ. Katya lại đi vật vờ trong phòng. Nàng dừng lại trước những bức ảnh của ông tướng lạ mặt dung mạo như sư tử, cầm một cuốn an-bom lên, rồi lại bỏ xuống để cầm cuốn sách con, rồi cầm cái hộp Trung quốc trên nắp có con cò đang bắt con ếch, rồi lại đi quanh quẩn, nhìn lên giấy hoa dán tường, lên rèm cửa... Đến bữa ăn chiều, nàng không động đến một món nào.
- Kìa bà, ít nhất cũng xơi lấy tí xúp chứ.
Chị hầu phòng Liza nói. Katya lắc đầu, không hé răng. Nàng viết cho Đasa một bức thư ngắn, nhưng rồi lại xé ngay.
Giá có thể nằm yên, ngủ thiếp đi! Nhưng sau một đêm như đêm qua, nằm vào giường nàng thấy sợ quá cứ như nằm vào một cỗ quan tài... Đau hơn cả là lòng thương xót vô hy vọng đối với Nikôlai Ivanôvits: sinh thời ông là một người tốt, đôn hậu, tào lao... Ông như thế nào thì phải cứ thế mà yêu ông... Đàng này nàng lại làm khổ ông. Cho nên ông mới bạc đầu sớm thế. Qua cửa sổ Katya nhìn lên bầu trời u ám, nhợt nhạt. Nàng bẻ ngón tay kêu răng rắc. 
Ngày hôm sau người ta làm lễ cầu hồn cho Nikolai Ivanôvits và sau là lễ an táng thi hài ông. Trên huyệt, họ đọc những bài điếu văn rất hay, họ so sánh người đã khuất với con chim hải vũ bỏ mình trên biển cả, gọi ông là người giương cao ngọn đuốc sáng bước qua một cuộc đời đẹp đẽ. Một đảng viên đảng xã hội cách mạng có tiếng tăm, người thâm thấp, đeo mục kỉnh, đến dự lễ an táng muộn, giận dữ gắt Katya: “Nào, xê ra cho người ta đi chứ bà!”, len lỏi đến tận huyệt và lớn tiếng nó rằng cái chết của Nikolai Ivanôvits xác nhận sự đúng đắn của chính sách ruộng đất do đảng của ông, tức diễn giả, chủ trương. Đất ở dưới đôi giày không đánh xi của ông sút ra một mảng, rơi bồm bộp xuống nắp quan tài. Katya thấy trong cổ như co thắt lại, nghẹn ngào và  lộn mửa. Nàng len lỏi ra khỏi đám đông và về nhà.
Nàng chỉ có một ước mong là tắm rửa và ngủ thiếp đi. Khi bước vào nhà một cảm giác kinh hoảng ngập vào lòng nàng, những tấm giấy dán kẻ sọc, những bức ảnh cái hộp có hình con cò, tấm khăn trải bàn nhàu nát trong phòng ăn, những khung cửa sổ phủ bụi, sao buồn tẻ quá chừng! Katya sai lấy nước và buông mình vào bồn nước ấm, miệng bật ra một tiếng rên. Mãi đến lúc bấy giờ khắp người nàng mới thấy mệt mỏi rã rời ra. Nàng chật vật lắm mới lê được đến giường. Rồi nàng thiếp đi, không buồn dở chăn ra nữa. Qua giấc ngủ nàng mường tượng như có những tiếng chuông, những tiếng bước, những tiếng người nói rồi có ai gõ cửa, nhưng nàng không đáp.
Katya thức giấc thì trời đã tối hẳn, Tim nàng cứ thắt lại đau nhói: “Cái gì nhỉ? Cái gì?”, nàng hoảng hốt tự hỏi trong tiếng thì thầm của ai oán. Nàng nhổm người dậy trên giường, trong giây phút nàng hy vọng rằng có lẽ tất cả những chuyện khủng khiếp vừa qua chỉ là một giấc chiêm bao. Rồi cũng trong giây phút, nàng cảm thấy tủi hờn, oan ức: tại sao họ đày đọa mình? Khi đã tỉnh hẳn, nàng sửa lại mái tóc, xỏ đôi chân không vào đôi giày vải nhỏ, rồi một ý nghĩ trong sáng, điềm tĩnh hiện lên trong trí nàng: “mình chẳng muốn sống làm gì nữa”.
Katya thong thả mở cái tủ thuốc con bằng gỗ đóng trên tường và bắt đầu đọc những cái nhãn dán trên các lọ thuốc. Nàng lấy lọ morphin, mở nắp ra ngửi, rồi cầm chặt trong nắm tay, đi sang phòng ăn tìm cái cốc, nhưng khi đi ngang phòng khách nàng dừng lại, trong phòng khách có ánh đèn.
“Liza đấy à?”, nàng hỏi khẽ, mở hé cánh cửa và trông thấy một người cao lớn mặc áo sơ mi bộ đội ngồi trên đi văng, đầu quấn băng đen. Người ấy hấp tấp đứng dậy. Hai đầu gối Katya bắt đầu run rẩy, tim nàng như tụt hẳn xuống. Người ấy giương to mắt nhìn nàng, một cái nhìn dễ sợ. Đôi môi thẳng tắp của người ấy mím chặt. Đó là Rotsin, Vadim Petrovits Rotsin. Katya đưa tay lên ngực. Rotsin, mắt vẫn nhìn thẳng vào mắt nàng, nói chậm rãi, giọng rắn rỏi:
- Tôi đến đây để trình lời chào kính cẩn của tôi với bà. Người hầu gái của bà có cho tôi biết cái tai họa đã đến với bà. Tôi đã ngồi ở đây vì tôi thấy cần nói với bà rằng từ nay bà có thể coi tôi như người thuộc quyền sử dụng của bà. Cả đời tôi từ nay thuộc về bà.
Giọng Rotsin run run khi chàng nói câu sau cùng, khuôn mặt xương xương của chàng ửng lên một màu nâu tía. Katya ép chặt hai bàn tay lên ngực. Nhìn mắt nàng, Rotsin biết rằng phải đến bên nàng, đỡ lấy nàng. Khi chàng đến sát cạnh nàng Katya nói, răng chạm vào nhau lập cập:
- Chào anh, Vadim Petrovits...
Rotsin bất giác đưa hai tay lên đỡ Katya, với lọ thuốc nắm chặt trong lòng bàn tay co quắp trông nàng thật yếu đuối và bất hạnh vô cùng. Nhưng rồi chàng lại buông tay xuống, gương mặt sa sầm. Với mẫn cảm của người phụ nữ, Katya chợt hiểu ra rằng, người đàn bà bất hạnh, nhỏ bé, tội lỗi, vụng dại, với tất cả những giọt nước mắt chưa khóc ra được, với cái lọ morphin thảm hại cầm trong tay, nàng đã thành một cái gì đó cần thiết và thân yêu đối với con người này, đang im lặng và khắc khổ đợi nàng cho phép mình được đón nhận tâm hồn nàng vào tâm hồn mình.
Cố ghìm nước mắt, không còn sức để hé môi ra nói lấy một câu nào, Katya cúi xuống cầm bàn tay Vadim Petrovits và áp chặt đôi môi và mặt mình vào đấy.

42

Chống khủy tay lên bậu cửa sổ bằng cẩm thạch, Đasa nhìn ra ngoài. Sau những khóm cây tối sẫm, ở cuối quảng trường Kamenny Oxtrôv, một nửa bầu trời đỏ rực ánh tà dương. Trên trời đang diễn ra những điều huyền diệu. Têlêghin ngồi cạnh Đasa nhìn nàng không cử động, tuy bây giờ, chàng có muốn cử động bao nhiêu cũng được: bây giờ thì Đasa không còn tan biến đi đâu nữa khỏi căn phòng này với ánh tà dương đỏ thẫm chiếu lên bức tường trắng.
- Buồn và êm dịu quá, - Đasa nói - Như thể chúng mình đang trôi lênh đênh trên một chiếc khinh khí cầu ấy...
Ivan Ilyits gật đầu. Đasa cất đôi tay trên bậu cửa sổ.
- Thèm tiếng nhạc quá - nàng nói - Đã bao nhiêu lâu em không được đánh đàn rồi nhỉ? Từ khi có chiến tranh đến bây giờ đấy... Anh thử nghĩ xem: vẫn cứ chiến tranh mãi... Thế mà chúng mình thì...
Ivan Ilyits cựa quậy. Đasa lập tức nói tiếp:
- Khi nào hết chiến tranh, chúng mình sẽ chơi nhạc... Ivan ơi, anh có nhớ dạo chúng mình nằm trên cát, sóng biển cứ tràn vào chân không? Anh còn nhớ màu nước biển hôm ấy chứ: một màu xanh phai bạc... Bấy giờ, em cứ tưởng như em đã yêu anh suốt đời - Ivan Ilyits cựa quậy, toan nói gì nhưng Đasa đã giật mình thốt lên:
- Ôi, ấm nước sôi quá rồi! - đoạn nàng chạy ra, nhưng vừa ra đến cửa đã dừng lại.
Trong bóng hoàng hôn chàng chỉ trông thấy mặt nàng, cánh tay nàng đang cầm lấy rèm cửa và một bàn chân đi bít tất màu xám. Đasa đã ra khuất. Ivan Ilyits chắp tay ra sau gáy và nhắm mắt lại.
Đasa và Têlêghin về đến đây từ hai giờ chiều. Tàu đông quá. Suốt đêm họ phải ngồi trên mấy chiếc valy để ngoài dãy hành lang của toa tàu chật ních. Về đến nhà, Đasa lập tức giở đồ đạc ra thu xếp, dòm vào tất cả các xó xỉnh, quét bụi, khen căn nhà nức nở và quyết định bày lại tất cả các thứ theo một kiểu khác hẳn. Mà phải làm ngay.
Họ gọi người gác cổng ở dưới nhà lên để cùng Ivan Ilyits khiêng các thứ giường tủ và đi văng từ phòng này sang phòng khác. Khi đã kê dọn xong xuôi, Đasa bảo Ivan Ilyits mở hết các cửa chớp ra, còn nàng thì đi tắm. Nàng bì bõm rất lâu trong bồn tắm, loay hoay làm gì mãi trước bàn trang điểm, và hết cấm Têlêghin vào phòng này lại cấm chàng vào phòng khác, mặc dù nhiệm vụ chủ yếu của chàng trong suốt ngày hôm ấy là phải luôn luôn gặp Đasa và ngắm nghía nàng.
Mãi đến chập tối Đasa mới chịu yên cho. Ivan Ilyits, tắm rửa sạch sẽ, râu ria cạo nhẵn, bước vào phòng khách và ngồi xuống cạnh Đasa. Lần đầu tiên kể từ khi ở Moxkva ra đi họ mới được ngồi lại một mình, trong cảnh im lặng. Như thể sợ cảnh im lặng này, Đasa cứ nói luôn mồm. Như về sau nàng có thú nhận với Ivan Ilyits, nàng tự dưng cứ sợ chàng sẽ nói với nàng bằng một giọng đặc biệt “Bây giờ thì thế nào đây hở Đasa?...”
Nàng đứng dậy ra xem ấm nước đã sôi chưa. Ivan Ilyits ngồi yên, hai mắt nhắm nghiền. Nàng đã ra ngoài, mà không khí vẫn tràn đầy hơi thở của nàng. Ngoài nhà bếp, tiếng gót giày của Đasa đi lại trên sàn vang vào đây đáng yêu lạ lùng. Bỗng có một vật gì rơi vỡ loảng xoảng, rồi có tiếng Đasa kêu lên thảm thiết: “Cái chén!”. Một niềm vui bồng bột tràn vào lòng Ivan Ilyits: “Ngày mai, khi mình thức dậy, sẽ không phải là một buổi sáng bình thường: sẽ có Đasa”. Chàng nhanh nhẹn đứng dậy, Đasa hiện ra trên ngưỡng cửa.
- Em đánh vỡ mất cái chén... Ivan, anh muốn uống nước chè thật à?
- Không...
Nàng đến cạnh Ivan Ilyits, và vì trong phòng đã tối hẳn, nàng đặt tay lên vai chàng.
- Vừa rồi anh nghĩ gì? - nàng hỏi khẽ.
- Nghĩ đến em.
- Em biết rồi. Nhưng anh nghĩ gì về em?
Khuôn mặt nàng sáng mờ mờ trong bóng hoàng hôn trông như sa sầm lại, nhưng thật ra nàng đang mỉm cười. Ngực nàng phập phồng nhè nhẹ, tiếng nàng thở đều đều.
- Anh nghĩ đến một điều mà anh thấy khó quan niệm quá: em là em, nhưng em lại là vợ anh nữa - sao lại có thể như thế nhỉ? Nhưng rồi anh chợt hiểu ra, và anh định ra nói với em, nhưng bây giờ lại quên mất rồi.
- Thế cơ à? - Đasa nói, - anh ngồi xuống đây, còn em sẽ ngồi bên anh. - Ivan Ilyits ngồi xuống ghế bành, Đasa ngồi một bên tay vịn, - Thế anh nghĩ những gì nữa nào?
- Anh ngồi đây trong khi em ở ngoài bếp, anh nghĩ: “Có một sinh vật kỳ diệu đã đến ở trong nhà anh...”. Thế có bậy bạ không?
- Có, - Đasa đáp, vẻ trầm tư, - rất bậy bạ.
- Em có yêu anh không, Đasa?
- Có, có chứ, - nàng gật đầu, - em yêu mãi đến tận cây liễu nhỏ!
- Cây liễu nào?
- Anh không biết à: đến cuối đời mỗi người sẽ nằm xuống dưới một nấm đất, và ở phía trên là một cây lệ liễu.
Ivan Ilyits nắm lấy hai vai Đasa. Nàng âu yếm để yên cho chàng ôm chặt. Cũng như hồi nảo hồi nào trên bờ biển, cái hôn của họ kéo dài mãi đến hết cả hơi. Đasa nói: “Ôi, anh Ivan!” và ôm lấy cổ chàng. Nàng nghe tiếng tim chàng đập dồn dập, nặng nề, và thấy thương chàng. Nàng thở dài, rồi vịn ghế bành đứng dậy và chỉ nói:
- Vào đây anh.
Năm hôm sau khi lên Pêtrôgrađ, Đasa nhận được bức thư của chị. Katya báo cho nàng biết tin Nikôlai Ivanôvits đã từ trần.

“... Chị đã phải trải qua một thời gian buồn nản và tuyệt vọng. chị đã cảm thấy rõ ràng rằng từ nay chị sẽ vĩnh viễn cô đơn. Ôi thật khủng khiếp!... Khủng khiếp đến nỗi chị đã quyết định thoát ly càng sớm càng tốt... Em có hiểu không?... Một phép mầu đã cứu chị... Có lẽ đó là một sự tình cờ... Không, không phải, đúng như một phép nhiệm màu... Chị không thể viết ra được... Khi nào gặp em chị sẽ kể...”

Tin anh rể chết và lời lẽ trong thư Katya đã làm cho Đasa xúc động rất mạnh. Nàng lập tức chuẩn bị đi Moxkva, nhưng hôm sau lại nhận được một bức thư nữa của Katya, cho biết rằng nàng đang thu xếp hành lý để đi Pêtrôgrađ, và nhờ vợ chồng Đasa tìm hộ cho một căn phòng không đắt lắm. Cuối thư có đoạn tái bút như sau:

“Vađim Pêtrôvits Rôtsin sẽ ghé thăm hai vợ chồng em. Anh ấy sẽ kể tỉ mỉ về chị. Anh ấy bây giờ như một người anh, một người cha, một người bạn đời của chị”.

Đasa và Têlêghin bước trên một dải đường hai bên có trồng cây. Hôm ấy là một ngày chủ nhật, một ngày tháng tư quang đãng. Trên bầu trời mát mẻ hãy còn nhuốm màu xanh biêng biếc của mùa xuân, trôi lơ lững những mảnh vụn mỏng manh của một đám mây đang tan dần trong nắng. Ánh nắng như chiếu qua một lớp nước dọi xuống lối đi, tuôn trên chiếc áo dài trắng của Đasa. Phía trước là những cây thông thẳng tắp một màu nâu đỏ khô khô, ngọn reo vi vút, lá chạm vào nhau xào xạc.
Đasa đưa mắt nhìn Ivan Ilyits. Chàng bỏ mũ ra và nhìn xuống đất mỉm cười. Nàng thấy tâm hồn thanh thản và tràn đầy vẻ đẹp huyền diệu của ngày hôm nay, lòng nàng vui phơi phới vì được hít thở không khí trong lành, được bước đi một cách nhẹ nhõm, và được hiến dâng tâm hồn mình cho ngày hôm nay và cho người đi cạnh nàng.
- Ivan, - Đasa nói rồi cười khúc khích.
Chàng mỉm cười hỏi:
- Gì em?
- Không, em vừa nghĩ một điều...
- Điều gì thế?
- Thôi để sau hẵng nói.
- Anh biết rồi.
Đasa quay phắt lại:
- Em thề là anh không biết đâu...
Họ đi đến một cây thông lớn. Ivan Ilyits gỡ một mảnh vỏ thông bám đầy những giọt nhựa mềm mềm, bẻ vụn ra và âu yếm liếc nhìn Đasa:
- Không, anh biết mà.
Tay Đasa run lên.
- Anh có hiểu không - nàng nói thì thầm - em cảm thấy em phải hoàn toàn hòa tan vào một niềm vui còn lớn lao hơn nữa... Cả người em cứ tràn trề...
Ivan Ilyits gật đầu. Họ đi ra một khoảng rừng thưa phủ một lớp cỏ xanh mơn mởn rải rác những khóm hoa kim điệp vàng lung linh trong gió. Gió lồng vào vạt áo Đasa. Đang đi, nàng mấy lần cúi xuống giữ lấy váy, miệng lẩm bẩm:
- Gió quái gió quỷ ở đâu thế này!
Cuối khoảng rừng thưa là dãy rào sắt của cung điện, với những chấn song thưa hình mũi dáo thiếp vàng đã hoen rỉ vì thời gian. Một hòn sỏi lọt vào giày Đasa. Ivan Ilyits ngồi thụp xuống cởi chiếc giày ra khỏi bàn chân âm ấm đi bít tất trắng của Đasa và hôn vào mu bàn chân ở chỗ gần ngón. Đasa đi giày vào, giẫm chân xuống đất và nói:
- Em muốn có một đứa con với anh, thế đấy...

43

Êkatêrina Đmitrievna dọn đến ở trọ trong một ngôi nhà gỗ của hai bà già gần nhà Đasa. Một trong hai bà già là Klavdya Ivanôvna, ngày xưa là một danh ca, còn bà kia là Xôfôtska vốn là tùy nữ của bà. Sáng sáng, Klavđya Ivanôvna kẻ lông mày và đội bộ tóc giả màu cánh quạ. Rồi ngồi vào bàn xếp bài. Xôfôtska lo việc nội trợ và nói chuyện với cái giọng ồm ồm như giọng đàn ông. Trong nhà sạch sẽ tinh tươm, đồ đạc kê chật chội theo kiểu ngày xưa: đi đâu cũng vấp phải những tấm thảm thêu trải bàn ghế, những tấm bình phong, những bức chân dung đã vàng ố, kỷ niệm của thời thanh xuân không bao giờ trở lại nữa.
Sáng sáng trong nhà thơm phức mùi cà-phê ngon; mỗi khi bắt đầu nấu nướng, Klavđya Ivanôvna lại kêu khổ kêu sở vì mùi thức ăn, phải lấy lọ muối thuốc ra ngửi, còn Xofôtska thì dưới bếp ồm ồm quát lên: “Tôi còn biết nhét cái mùi này vào đâu nữa! Chả nhẽ rán khoai tây bằng ô-đơ-cô-lôn?”
Tối tối họ thắp những cây đèn dầu hỏa bóng mờ. Hai bà già đối đãi rất ân cần với Katya.
Katya sống bình lặng trong cái cảnh ấm cúng và cổ kính này, một ốc đảo vẫn yên lành qua những dông bão của thời gian. Ngày nay, nàng dậy sớm tự dọn lấy buồng và ra ngồi cửa sổ vá áo quần, mạng bít tất hay chữa các bộ trang phục lộng lẫy ngày xưa lại thành một cái gì giản dị hơn.
Sau bữa ăn sáng Katya thường đi ra khu đảo, cầm theo một cuốn sách hay một chiếc áo để khâu vá, ngồi xuống cái chỗ quen thuộc mà nàng rất thích - một phiến đá bên cạnh một cái hồ con, và ngắm mấy đứa bé đang chơi trên gò cát, hay đọc sách, khâu vá, nghĩ ngợi. Đến sáu giờ nàng về nhà Đasa ăn bữa tối. Đến mười một giờ Đasa và Têlêghin đưa nàng về nhà: hai chị em khoác tay nhau đi trước, còn Ivan Ilyits thì đi sau một quãng, mũ lưỡi trai đội hất ra sau gáy, mồm huýt sáo khe khẽ: chàng làm nhiệm vụ “án ngữ hậu tuyến” vì bây giờ trên đường phố vào buổi tối không phải không có phần nguy hiểm.
Hàng ngày Katya viết thư cho Vađim Pêtrôvits Rôtsin bấy giờ đang đi công tác ở mặt trận. Trong thư nàng kể tỉ mỉ và thực thà những việc nàng đã làm trong ngày và những ý nghĩ của nàng. Rôtsin xin nàng làm như vậy và trong những bức thư trả lời chàng thường nhắc lại lời xin ấy:

“Êkatêrina Đmitrievna ạ, khi cô viết cho tôi rằng hôm nay cô đi qua cầu Êlaghin thì trời đổ hột mưa, cô lại không mang dù, đành phải nấp dưới bóng cây đợi cho tạnh, tôi thấy những điều đó đối với mình sao thân thiết quá. Tôi thấy thiết tha yêu quý tất cả những nét nhỏ nhặt của đời cô, hơn nữa tôi còn thấy rằng từ nay tôi không thể sống thiếu những nét ấy nữa”.

Katya cũng hiểu rằng Rôtsin có nói quá và dĩ nhiên không có những chuyện vặt vãnh của nàng thì chàng cũng vẫn sống được, nhưng khi nghĩ mình lại phải sống cô đơn một mình, dù chỉ một ngày thôi, nàng thấy sợ hãi đến nỗi phải cố gắng đừng nghĩ ngợi gì nữa, và cố tin rằng cả cuộc đời nàng cần thiết và quý giá đối với Vađim Pêtrôvits. Vì vậy tất cả những việc nàng làm bây giờ đều có được một ý nghĩa mới.
Nàng để cái đê ở đâu tìm suốt một tiếng đồng hồ chẳng thấy, trong khi nó vẫn đeo trên ngón tay nàng: chắc Vađim Pêtrôvits sẽ cười nàng sao bây giờ sinh ra đãng trí thế.
Bây giờ Katya nhìn bản thân như một cái gì không hẳn là của mình. Có một hôm ngồi ở cửa sổ vừa khâu vá vừa suy nghĩ, nàng nhận thấy mấy ngón tay run run; nàng ngẩng đầu lên, rồi cài kim lên vạt áo ở trên đùi, nàng nhìn trân trân một hồi lâu về phía trước, rồi cuối cùng, ở nơi vẫn đặt chiếc tủ gương, mắt nàng thấy hiện rõ dần một khuôn mặt gầy gò với đôi mắt to buồn rười rượi, dưới mái tóc chải giản dị, búi lại sau gáy... Katya bâng khuâng nghĩ thầm: “Mình đấy ư?”. Nàng cụp mắt xuống và tiếp tục khâu, nhưng tim nàng đập mạnh, nàng chích phải ngón tay, đưa lên miệng rồi lại nhìn vào gương: bây giờ thì đúng là nàng rồi, nhưng còn xấu hơn người lúc nãy...
Tối hôm ấy nàng viết thư cho Vađim Pêtrôvits:

“Suốt ngày hôm nay tôi nghĩ đến anh. Tôi nhớ anh lắm, người bạn thân yêu của tôi ạ. Tôi ngồi bên cửa sổ và đợi anh. Trong tôi đang diễn ra một cái gì đã quên lãng từ lâu, tôi đang sống lại những tâm trạng của thời con gái”.

Đến như Đasa, lơ đãng vì đang mải mê với những mối quan hệ phức tạp - nàng nghĩ thế - giữa nàng và Ivan Ilyits, những mối quan hệ độc nhất vô song kể từ khi khai thiên lập địa cho đến nay, mà cũng nhận thấy Katya có sự thay đổi, và một hôm đang ngồi uống chén trà buổi tối nàng quay ra nói tràng giang đại hải để chứng minh rằng bây giờ Katya phải thường xuyên mặc áo dài hàng trơn màu đen cài kín cổ. “Em xin quả quyết với chị rằng chị không nhìn thấy rõ mình đấy Katyusa ạ, chứ trông chị chỉ khoảng ... mười chín là cùng... Anh Ivan, có phải không nào, chị ấy trẻ hơn cả em nữa ấy, nhỉ!”
- Phải, ờ... nghĩa là cũng không hẳn thế, nhưng có lẽ...
- Ồ, anh chẳng hiểu gì hết - Đasa nói, - cái trẻ trung của phụ nữ tuyệt nhiên không phải do ở tuổi, mà hoàn toàn do những nguyên nhân khác. Ở đấy tuổi tác không hề có chút tác dụng gì...
Số tiền ít ỏi mà Katya còn để dành được sau khi Nikôlai Ivanôvits qua đời nay đã sắp hết. Têlêghin bàn với nàng là nên bán căn nhà cũ ở phố Pantêlêmonôvxkaia, bỏ không từ dạo tháng ba. Katya khen phải và đi với Đasa về nhà cũ lấy một ít đồ đạc đáng quý vì gắn liền với những kỷ niệm cũ.
Khi đã lên đến gác hai và nhìn lên cánh cửa gỗ sồi quen thuộc với tấm biển đồng đề “N.I.Xmônkôvnikov”, - Katya cảm thấy đời mình đã sắp khép vòng lại. Bác gác cổng già quen thuộc ngày xưa thỉnh thoảng vẫn phải ra mở cửa trước cho nàng vào lúc quá nửa đêm, mặt ngái ngủ, mũi thở phì phò có chiều giận dữ, tay kéo cổ chiếc áo ngoài khoác hờ trên vai lên che cổ, vào bao giờ cũng tắt đèn cầu thang trong khi Katya chưa kịp lên đến nơi, - vẫn bác gác cổng già ấy ra mở cửa cho hai chị em, cất mũ chào họ rồi vừa theo vào vừa nói:
- Bà cứ yên tâm, Êkatêrina Đmitrievna ạ, không mất mát một chút gì, ngày đêm tôi vẫn chú ý giữ cho bà. Hai ông bà thuê nhà có đứa con trai mới chết ở mặt trận, chứ không thì bây giờ họ vẫn còn ở đây đấy, họ rất bằng lòng căn nhà của bà...
Gian phòng mắc áo tối om, thoang thoảng mùi mốc; trong các phòng ở, rèm cửa sổ đều buông kín. Katya đi vào phòng ăn, bật điện. Chùm đèn pha lê sáng rực lên trên cái bàn trải da xám. Ở giữa bàn vẫn bày cái lẵng hoa bằng sứ, trong có cắm một cánh kim hợp đã khô héo từ lâu. Những đồ đạc đã thờ ơ chứng kiến cuộc sống vui vẻ náo nhiệt xưa kia trong nhà này, những chiếc ghế lưng cao và những chiếc ghế bành đệm da - vẫn đứng dọc mấy bức tường. Trên cái tủ chè bằng gỗ chạm to như cái đại phong cầm, một cánh cửa hé mở, để lộ một dãy cốc úp ngược. Tấm gương Vênixi hình bầu dục phủ một lớp bụi, và ở bên trên vẫn có chú bé con thiếp vàng nằm ngủ, tay gác lên mẫu hoa chạm thiếp vàng.
Katya đứng yên trên ngưỡng cửa.
- Đasa, - nàng nói khẽ, - em có nhớ không! Thế mà bây giờ chẳng còn có ai ở đây nữa...
Rồi nàng đi sang phòng khách, bật sáng chùm đèn lớn lên, nhìn quanh phòng một lượt rồi nhún vai. Những bức tranh lập thể và vị lai trước kia có vẻ táo bạo và ghê gớm là thế mà bây giờ trông thật thảm hại phai mờ, giống như những bộ y phục cải trang đã bị vứt bỏ sau đêm vũ hội trá hình.
- Katya, chị có nhớ bức này không? - Đasa chỉ người đàn bà giang chân ngồi trong cái xó màu vàng: bức “Vệ nữ hiện đại” - Hồi ấy em cứ có cảm giác là mọi tai vạ đều do nó gây ra cả.
Đasa cười lớn và đến cạnh chiếc dương cầm lần giở tập vở nhạc. Katya đi vào căn buồng ngủ cũ của nàng. Ở đây mọi vật đều y nguyên như ba năm về trước, khi nàng đã mặc y phục đi đường, mặt che mạng, chạy vào phòng này lần cuối cùng để lấy đôi găng tay trên bàn trang điểm.
Bây giờ mọi vật đều như bị phủ dưới một lớp sương mờ mờ, cái gì cũng như nhỏ lại. Katya mở cái tủ còn đựng đầy những mẩu đăng ten và tơ lụa, những chiếc tất, những chiếc giày vải. Những vật nhỏ này, xưa kia vốn được nàng coi là cần thiết, đều hãy còn thoang thoảng mùi nước hoa. Katya thẫn thờ mân mê từng cái một - mỗi vật đều gắn bó với một kỷ niệm của cuộc sống đã vĩnh viễn trôi qua.
Bỗng không khí im lặng trong khắp nhà rung lên và tràn đầy tiếng nhạc: Đasa đang chơi bản sonata mà ba năm về trước nàng đã tập trong khi chuẩn bị kỳ sát hạch. Katya đóng sập cửa lại, đi sang phòng khách và ngồi xuống cạnh em.
- Katya, tuyệt quá chị nhỉ? - Đasa ngoảnh sang phía chị nói.
Nàng đánh thêm mấy phách nữa rồi lấy một tập nhạc khác ở dưới sàn lên. Katya nói:
- Ta đi thôi, đầu chị tự nhiên thấy nhức quá.
- Thế còn đồ đạc thì sao?
- Chị chẳng muốn lấy gì ở đây đâu. Chỉ riêng cây đàn này chị sẽ cho chở đến nhà em, còn những thứ khác thì thôi, cứ để đấy...
Katya đến ăn tối, vẻ khích động vì vừa đi nhanh. Nàng rất vui, đầu đội chiếc mũ chụp mới xinh xinh, có tấm mạng màu xanh.
- Đi vội quá - Nàng vừa nói vừa chạm đôi môi ấm ấm lên má Đasa - ướt mất giày rồi. Em cho chị mượn đôi khác chị thay một tí - Nàng vừa rút găng tay vừa đi ra cửa sổ.
Cơn mưa lúc nãy đã ướm thử mấy giọt, bây giờ đổ xuống như trút, chăng thành một tấm màn xám xịt, xoay lông lốc những khi nổi gió, chảy ồ ồ trong ống máng. Xa xa ở dưới đường những chiếc ô chạy lúp xúp. Trước cửa sổ lóe lên một ánh sáng lòa mắt. Tiếng sét to đến nỗi Đasa kêu lên một tiếng.
- Em có biết tối hôm nay sẽ có ai đến không? - Katya hỏi, miệng cười chúm chím.
Đasa vừa hỏi xem ai thì ngoài phòng mắc áo đã có tiếng chuông, nàng liền chạy ra mở cửa. Có tiếng cười của Ivan Ilyits, tiếng giày chàng sột soạt trên tấm thảm chùi chân, rồi chàng và Đasa vừa nói cười rôm rả vừa đi vào phòng trong.
Katya đã tháo găng tay ra. Nàng bỏ mũ, sửa lại mái tóc, miệng vẫn cười chúm chím.
Trong bữa ăn tối, Ivan Ilyits hồng hào vui vẻ, mái tóc còn ướt nước mưa, ngồi kể lại những sự việc vừa xảy ra. Ở nhà máy Baltic, cũng như ở khắp các xí nghiệp và công xưởng khác, công nhân đang sôi sục lên. Các Xô-viết một mực ủng hộ những yêu sách của họ. Các xí nghiệp tư nhân bắt đầu đóng cửa lần lượt, các xí nghiệp của nhà nước thì lỗ vốn, nhưng bây giờ đang chiến tranh, đang cách mạng, chẳng còn ai chú ý gì đến lỗ lãi.
- Hôm nay ở nhà máy lại có cuộc mít tinh. Có mấy người bolsêvik lên phát biểu, và cả đám công nhân đều đồng thanh hô to: “Phải chấm dứt chiến tranh, không nhượng bộ gì với chính phủ tư sản hết, không thỏa hiệp gì với chủ nhà máy hết, giao hết quyền hành cho các xô-viết!” - Rồi họ sẽ lập lại trật tự hẳn hoi cho mà xem!... Tôi cũng lên phát biểu. Nhưng vừa nói được dăm câu đã bị họ lôi xuống. Vaxka Rublyôv lao tới: “Tôi biết anh không phải là kẻ thù của chúng tôi, anh ta nói thế, vậy thì tại sao anh lại đi nói bậy? Trong đầu anh toàn rác rưởi thôi”. Tôi bảo anh ta: “Vaxili ạ, nửa năm nữa các nhà máy sẽ ngừng sản xuất hết, chẳng biết lấy gì mà ăn đâu”. Anh ta liền nói: “Anh bạn ơi, sang năm mới, bao nhiêu đất đai, bao nhiêu nhà máy đều sẽ về tay nhân dân lao động, chúng ta không để lại một thằng tư sản nào trong nước cộng hòa, dù chỉ để làm giống thôi cũng vậy. Tiền tệ cũng sẽ không còn nữa. Tha hồ làm việc, tha hồ sống: tất cả đều là của mình. Anh phải hiểu, đây là cách mạng xã hội kia mà!”. Cái gì anh ta cũng hứa sang năm mới cả.
Ivan Ilyits cất tiếng cười khe khẽ, lắc lắc đầu rồi tẩn mẩn lấy ngón tay vun vun mẩu vụn bánh mì trên tấm khăn trải bàn lại. Đasa thở dài:
- Sẽ có những thử thách lớn, em cảm thấy thế!
- Đúng, - Ivan Ilyits nói, - chiến tranh chưa kết thúc: vấn đề ở đấy cả. Thật ra, kể từ tháng hai đã có gì thay đổi? Vua bị truất ngôi, nhưng tình hình chỉ thêm lộn xộn. Cái dúm trạng sư và giáo sư lên cầm quyền chắc chắn là người có học thức cả, thế mà họ lại đi kêu gọi cả nước là hãy kiên nhẫn, cứ đánh nhau nữa đi, rồi họ sẽ ban cho dân một hiến pháp kiểu Anh hay còn hơn thế nữa. Mấy cái ông giáo sư không hiểu biết nước Nga chút nào. Họ đọc sử Nga không kỹ. Dân Nga không phải là thứ người tư biện. Đó là một thứ dân tộc dũng mãnh, tài năng, đầy nhiệt tình. Không phải ngẫu nhiên mà người mu-gich Nga đi dép cỏ xông xáo đến tận Thái bình dương. Dân Đức thì có thể kiên nhẫn ngồi yên chờ hàng trăm năm cho đến khi ý muốn của mình thực hiện. Chứ dân ta thì không nhẫn nại như thế đâu. Với một ước mơ đẹp, có thể lôi cuốn họ đi chinh phục cả vũ trụ. Và họ sẽ đi, mình mặc vải thô, chân đi giày cỏ, lưng giắt cây rìu... Thế mà mấy ông giáo sư ấy lại muốn đóng khung cái đại dương cuộn sóng của nhân dân trong một hiến pháp ôn hòa. Phải, chắc rồi sẽ được chứng kiến những biến cố rất nghiêm trọng.
Đasa đứng cạnh bàn rót cà-phê vào mấy cái chén. Bỗng nàng bỏ bình cà-phê xuống và đến nép sát vào người Ivan Ilyits, đầu gục vào ngực chàng.
- Kìa, Đasa, đừng sợ em, - chàng vừa nói nói vừa vuốt tóc nàng - Hiện nay thì chưa có chuyện gì khủng khiếp cả... Bọn anh dạo trước còn gay hơn nhiều... Anh còn nhớ - em có nghe không đấy? - anh còn nhớ một hôm bọn anh đến một chỗ gọi là “Bồ đề mục”...
Chàng bắt đầu nhắc nhở những nỗi gian truân ngoài mặt trận. Katya nhìn lên đồng hồ quả lắc rồi ra khỏi phòng ăn. Đasa nhìn gương mặt điềm đạm, rắn rỏi của chồng và dần dần bình tâm lại: với một người như thế có thể yên lòng. Nghe xong câu chuyện cây bồ đề mục, nàng đi sang phòng ngủ định đánh phấn lại một chút thì thấy Katya đang ngồi trước gương trang điểm.
- Đanyusa, - nàng nói, giọng thanh thanh - em có còn thứ nước hoa dạo trước không? Em có chứ, nước hoa chị mua ở Pari ấy mà?
Đasa ngồi xuống sàn nhà, bên chân Katya và kinh ngạc nhìn nàng, rồi hỏi thầm thì:
- Katyusa, chị rỉa lông đấy à?
Katya đỏ mặt gật đầu.
- Lúc nãy chị đã định nói nhưng em chưa nghe hết đấy chứ. Tối nay Vađim Pêtrôvits sẽ đến Pêterburg và khi xuống ga anh ấy sẽ đến thẳng đây... Vì đến đằng chị không tiện... khuya rồi...
Đến chín rưỡi có tiếng chuông gọi cửa Katya, Đasa và Têlêghin chạy ra phòng ngoài. Têlêghin mở cửa, Rôtsin bước vào, mình khoác chiếc áo ca-pốt nhàu, mũ lưỡi trai đội sụp xuống tận mắt.
Khi chàng trông thấy Katya, khuôn mặt gày gò, lầm lì và rám nắng của chàng dịu hẳn đi trong một nụ cười. Katya bàng hoàng và mừng rỡ nhìn chàng. Khi chàng bỏ chiếc áo khoác và mũ lưỡi trai xuống ghế, chào hỏi mọi người rồi nói, giọng rắn rỏi và trầm trầm: 
“Tôi đến khuya khoắt thế này, xin các bạn thứ lỗi cho: số là tôi muốn được gặp Êkatêrina Đmitrievna ngay hôm nay, và cả cô nữa, Đarya Đmitrievna ạ”.
Đôi mắt Katya sáng lên long lanh.
- Tôi rất mừng là anh đã đến, Vađim Pêtrôvits ạ - nàng nói, và khi chàng cúi xuống hôn tay nàng, nàng đặt đôi môi run run lên đầu chàng.
- Anh không đưa luôn hành lý đây thì lạ thật - Têlêghin nói, - đằng nào chúng tôi cũng giữ anh nghỉ lại đêm nay kia mà...
- Anh sẽ nghỉ lại ở phòng khách, trên chiếc đi-văng Thổ-nhĩ-kỳ, nếu ngắn quá thì chúng em sẽ kê thêm chiếc ghế bành, - Đasa nói.
Như trong giấc mơ màng, Rôtsin lắng nghe lời nói của những con người niềm nở và thanh lịch ấy. Chàng đã bước vào đây, người còn xơ xác bơ phờ sau những đêm đi đường mất ngủ, phải leo vào các toa tàu qua khung cửa sổ, luôn luôn phải vật lộn để giành lấy mấy tấc chỗ ngồi trong buồng toa, tai nhức nhối vì những câu chửi vang lên không ngớt ở chung quanh.
Chàng vẫn ngỡ ngàng gần như kinh dị khi thấy ba con người sạch sẽ, thơm tho và thanh tú đến mức gần như không thể tưởng tượng được đứng trên tấm sàn gỗ bóng lộn như gương ấy lại có thể vui mừng chính vì thấy chàng, Rôtsin, đến với họ...
Như trong giấc mộng, chàng nhìn thấy đôi mắt tuyệt vời của Katya đang nói với chàng: em mừng quá, mừng quá...
Chàng xốc lại thắt lưng, ưỡn thẳng đôi vai ra và thở một hơi dài.
- Cảm ơn, - chàng nói, - bây giờ các bạn cho tôi vào đâu đây?
Họ đưa chàng vào phòng tắm, rồi đưa chàng sang phòng ăn. Chàng ăn hết những món họ dọn ra cho chàng mà chẳng biết mình ăn những gì, chỉ một lát đã no. Chàng ẩy đĩa ra và châm thuốc lá hút. Gương mặt khắc khổ, gày gò của chàng đã làm cho Katya hoảng sợ khi chàng mới đến, nay đã dịu lại và trông càng mệt mỏi hơn nữa. Đôi bàn tay lực lưỡng của chàng run run dưới ánh sáng của chiếc chao đèn màu da cam khi chàng đánh que diêm lên. Katya ngồi trong bóng chiếc chao đèn nhìn Vađim Pêtrôvits đăm đăm và cảm thấy mình yêu đến từng sợi tơ nhỏ trên bàn tay chàng, từng chiếc cúc nhỏ trên tấm áo quân phục màu nâu thẫm đã nhàu nát của chàng. Nàng cũng nhận thấy rằng trong khi trò chuyện chàng thỉnh thoảng lại nghiến răng lại và nói qua kẽ răng. Những câu chàng nói thường đứt quãng và lộn xộn. Có thể thấy rõ là chàng cũng cảm thấy thế, và cố trấn áp trong lòng mình một nỗi căm uất đã nung nấu chàng từ lâu...
Đasa đưa mắt nhìn chị và chồng, rồi nói với Rôtsin rằng có lẽ chàng mệt, cần đi nằm chăng?
Chàng bỗng đỏ mặt, ngồi thẳng người lên chiếc ghế.
- Thật tình, tôi đến đây không phải để ngủ... Không... không... - Rồi chàng ra bao lơn, đứng dưới làn mưa đêm lất phất.
Đasa đưa mắt chỉ ra bao lơn và lắc đầu. Rôtsin đứng đấy nói vọng vào:
- Cô tha thứ cho tôi, Đarya Đmitrievna ạ... chẳng qua cũng vì bốn cái đêm mất ngủ ấy cả...
Chàng trở vào, tay vuốt vuốt lớp tóc ngắn trên đỉnh đầu, và ngồi xuống chỗ cũ.
- Tôi từ tổng hành dinh về thẳng đây, - chàng nói - mang về cho ông bộ trưởng bộ chiến tranh những tin tức rất đáng buồn... Khi nhìn thấy các bạn, tôi thấy đau lòng quá... Xin các bạn cho phép tôi được nói thẳng: ngoài Êkatênina Đmitrievana ra, trên đời này tôi không có người nào thân thiết hơn nữa.
Katya tái mặt đi. Ivan Ilyits đứng bên tường, hai tay chắp sau lưng. Đasa đưa đôi mắt kinh hãi nhìn Rôtsin. Chàng ho mấy tiếng rồi nói:
- Trừ phi có một chuyện thần diệu nào xảy ra, chứ cứ thế này thì chúng ta nguy to rồi. Quân đội không còn nữa... Mặt trận đã tan rã... Binh sĩ leo lên mái toa xe lửa bỏ về... Sức người trần không tài nào ngăn cản được sự tan rã của mặt trận... Đó là một đợt thủy triều của đại dương... Người lính Nga không còn hình dung được mình chiến đấu vì cái gì nữa, họ đã mất lòng kính trọng đối với chiến tranh, đối với những gì có liên quan đến cuộc chiến tranh này: đối với nhà nước, đối với nước Nga. Họ đinh ninh rằng chỉ cần thét lên: “hòa bình!” thế là chiến tranh sẽ kết thúc ngay ngày hôm ấy... Và chỉ có chúng ta - những ông chủ - là không muốn giảng hòa mà thôi... Các bạn có hiểu không: người lính đã chán tột bực cái nơi mà người ta đã lừa dối họ suốt ba năm nay, họ đã vứt súng, và không thể nào bắt họ đánh nhau được nữa... Đến mùa thu, khi cả mười triệu binh sĩ sẽ ào ra... Thì nước Nga sẽ cáo chung với tính cách là một quốc gia có chủ quyền...
Chàng nghiến răng chặt đến nỗi những thớ thịt bên quai hàm cuộn lên. Mọi người im lặng.
Chàng nói tiếp, giọng trầm trầm:
- Tôi đưa một bản kế hoạch về cho bộ trưởng bộ chiến tranh. Có mấy vị tướng đã vạch kế hoạch cứu vãn mặt trận... Độc đáo lắm. Dù sao thì rồi đây các nước đồng minh cũng sẽ không thể trách cứ các tướng tá của ta là không muốn tiếp tục chiến tranh. Bản kế hoạch ấy như thế này: tuyên bố bãi binh hoàn toàn trong những thời hạn rất ngắn, nghĩa là tổ chức cuộc tẩu thoát của quân đội, và dùng cách đó để cứu vãn các đường sắt, pháo binh và các kho dự trữ đạn dược và lương thực. Tuyên bố một cách quả quyết với đồng minh rằng ta không chấm dứt chiến tranh. Đồng thời bố trí trên đồng bằng sông Volga một lực lương ngăn chặn gồm những đơn vị còn trung thành - sẽ tìm được những đơn vị như thế; ở các vùng bên kia sông Volga sẽ tiến hành xây dựng một đạo quân hoàn toàn mới mà nòng cốt là những đơn vị tình nguyện; đồng thời nâng đỡ và thành lập thêm những đội du kích... Dựa vào các công xưởng vùng Ural, vào than và lúa mì vùng Xibêri, bắt đầu tiến hành lại một cuộc chiến tranh khác...
- Mở hậu tuyến cho quân Đức ư?... Để mặc cho Tổ quốc bị cướp phá ư?... - Têlêghin thốt lên.
- Bây giờ các bạn với tôi không còn có Tổ quốc nữa: chỉ còn cái nơi mà trước kia vốn là Tổ quốc của chúng ta. - Rôtsin siết chặt đôi bàn tay đặt trên bàn. - Nước Nga vĩ đại đã thôi tồn tại từ cái phút mà nhân dân quẳng vũ khí xuống... Sao các bạn không hiểu là điều đó đã bắt đầu rồi nhỉ?... Bây giờ ông phước lộc Nikôlai sẽ cứu giúp ta chắc? Nhưng người ta quên cả cầu nguyện ông thánh ấy nữa rồi còn gì?... Nước đại Nga bây giờ là đống phân dành cho những mùa cày sau. Mọi thứ đều phải làm lại hết: quân đội, nhà nước, linh hồn. Phải nhồi nhét một linh hồn khác vào xác chúng ta...
Chàng hít mạnh không khí vào mũi, gục đầu xuống hai bàn tay để trên bàn và khóc, tiếng khóc nghẹn ngào ấm ức trong lồng ngực.
Tối hôm ấy Katya không về nhà. Hai chị em nằm chung một giường. Ivan Ilyits ngủ trong phòng làm việc. Rôtsin, sau cái cảnh vừa rồi khiến cho mọi người khổ tâm, bỏ ra bao lơn một lát ướt hết cả áo quần.
Trở vào phòng ăn, chàng xin mọi người thứ lỗi. Quả bây giờ chỉ có cách đi ngủ là phải hơn cả. Vừa kịp cởi quần áo xong, Rôtsin nằm ngửa trên đi văng, hai bàn tay úp lên nhau đặt trên ngực; khuôn mặt gầy với đôi mắt nhắm nghiền, với những nếp nhăn hằn rõ dưới ánh lê minh màu xanh, là khuôn mặt của một người đang cố trấn áp một cơn đau.
Katya và Đasa đắp chung chăn nằm nói chuyện thì thầm rất lâu. Đasa chốc chốc lại lắng tai nghe ngóng.
Trong phòng làm việc, Ivan Iyits vẫn không sao bình tâm lại được.
Đasa nói: “Anh ấy vẫn cứ đi đi lại lại mãi, thế mà bảy giờ đã phải ra nhà máy rồi...”.
Nàng trườn ra khỏi tấm chăn và đi chân không chạy sang phòng chồng, Ivan Ilyits mình chỉ mặc áo lót, dải treo quần buông thõng xuống, đang ngồi trên chiếc đi văng trải chăn đọc một cuốn sách dày cộm đặt trên đùi.
- Em chưa ngủ à? - chàng hỏi, đôi mắt sáng quắc nhìn Đasa mà như thể không hề thấy nàng. - Em ngồi xuống đây... Anh tìm ra rồi... để anh đọc cho mà nghe... - Chàng giở ngược trang sách và bắt đầu đọc khe khẽ:
- “Ba trăm năm về trước, gió tha hồ lang bạt qua những khu rừng và những cánh thảo nguyên, qua khu nghĩa địa mênh mông được gọi là Đất Nga. Trên cái xứ sở này là những thành quách cháy đen của các đô thị, những đống tro tàn của các làng mạc, những cây thánh giá và những mẩu xương bên các nẻo đường thiên lý cỏ mọc xanh rì, những đàn quạ và tiếng sói tru trong những đêm dài. Đó đây trên những dải đường mòn sơn cước, những toán cướp cuối cùng thất thểu lê chân: họ đã nướng hết từ lâu trong các quán rượu những bộ áo khoác lông của quý tộc, những bộ chén quý, những viên ngọc giát trên tượng thành mà họ đã cướp được trong mười năm qua. Bây giờ trên đất Nga mọi thứ đã bị cướp sạch sành sanh rồi.
“Nước Nga bây giờ thật là hoang tàn và vắng vẻ. Ngay đến người Tatar ở vùng Krưm cũng không còn buồn đột nhập vào cánh thảo nguyên hoang dã này, bởi vì ở đấy chẳng còn gì mà cướp bóc. Qua mười năm Đại loạn những kẻ mạo danh, lũ trộm cướp và bọn phỉ Ba-lan đã đem gươm và lửa gieo rắc thảm họa lên khắp đất nước này. Dân Nga trải qua một nạn đói khủng khiếp; họ phải ăn cả phân ngựa và thịt người ướp muối. Bệnh dịch hạch lan tràn khắp nơi. Những người dân sống sót kéo nhau tản về phương bắc, về vùng Ural, vùng Xibêri.
Vào những ngày thê thảm ấy, trên con đường thiên lý lầy lội của tiết tan băng tháng ba, có một cỗ xe trượt tuyết đi về phía những thành quách cháy sém của kinh đô Moxkva hoang vu và tàn tạ mà người ta đã phải trải qua muôn vàn cay cực mới giải phóng được ra khỏi ách quân Ba-lan, và nay chỉ còn là một đống tro khổng lồ. Ngồi trên xe là một cậu bé hoảng sợ mà những nhà quý tộc phá sản, những nhà buôn khánh kiệt và những đám mu-gich thô lỗ của các vùng Bắc Nga và lưu vực sông Volga đã tôn lên làm Sa hoàng xứ Moxkva theo lời khuyên của các tộc trưởng. Vị Sa hoàng mới chỉ biết khóc và cầu nguyện. Cho nên ngài đã khóc và cầu nguyện trong khi sợ hãi và chán chường đưa mắt qua cửa xe nhìn những đám dân Nga rách rưới, man rợ đã ra ngoại thành Moxkva đón ngài.
Dân Nga không có một niềm tin lớn lao gì đối với Sa hoàng mới. Nhưng sống thì vẫn phải sống. Thế là họ bắt tay vào cuộc sống. Họ vay tiền của dòng họ nhà buôn Xtrôganôv. Thị dân bắt đầu xây dựng nhà cửa, nông dân bắt đầu cày xới lại những khoảng đất bỏ hoang. Người ta bắt đầu phái những đội kị binh và bộ binh đi tiễu trừ giặc cướp trên các nẻo đường trường. Dân sống nghèo nàn và khắc khổ. Họ nhẫn nhục cúi đầu tỏ lòng kính cẩn đối với Krưm, đối với nước Litva và nước Thụy điển. Họ gìn giữ lòng tin. Họ biết rằng chỉ có một sức mạnh duy nhất: đó là nhân dân cường tráng, tháo vát, nhanh nhẹn. Họ hy vọng sẽ có đủ kiên nhẫn để vượt qua gian khổ, và họ đã có kiên nhẫn. Và những dải đất hoang mọc đầy cỏ dại bắt đầu trù phú dần lên...”
Ivan Ilyits khép cuốn sách lại:
- Em thấy không... Bây giờ chúng ta cũng sẽ không lâm vào thảm họa... Nước Nga vĩ đại đã tiêu vong! Nhưng rồi chính cháu chắt của những người mu-gich rách rưới đã cầm gậy nhọn đến giải vây Moxkva, chính họ đã đánh bại Karl XII và Napolêông... Và đứa cháu nội của cậu bé mà người ta đã cưỡng bức đưa về Moxkva, đã dựng lên thành Pêterburg... Nước Nga vĩ đại đã tiêu vong!... Dù ta chỉ giữ được một huyện thôi, thì cả nước Nga cũng sẽ từ đấy mà nẩy nở...
Chàng thở mạnh một tiếng rồi nhìn ra cửa sổ: một ánh bình minh xam xám đã hửng lên ở phía ngoài. Đasa tựa đầu lên vai chàng. Chàng vuốt tóc Đasa và hôn lên đầu nàng:
- Em đi ngủ đi, cô bé nhút nhát của anh.
Đasa cười, tạm biệt chồng, rồi khi ra đến cửa, nàng quya lại:
- Anh Ivan ạ, chị Katya yêu anh ấy lắm!
- Thế là phải, anh ấy rất tốt em ạ.
Tối hôm ấy trời lặng gió và nóng nực. Không khí sực mùi xăng cháy và mùi hắc in trát trên ván lát đường. Trên đại lộ Nevxki những đám người pha tạp đi lại lộn xộn giữa những đám khói thuốc lạ pha lẫn hơi người và bụi bặm. Mấy chiếc xe hơi của nhà nước chạy qua, máy nổ phành phạch, cờ bay phấp phới. Mấy người bán báo cất tiếng lanh lảnh như tiếng trẻ con rao to những tin tức giật gân mà chẳng ai buồn tin nữa. Những người bán thuốc lá, diêm và đồ lấy cắp lủi qua lủi lại trong đám đông. Trên những công viên nhỏ ở các ngã tư đường, những người lính nằm lăn lóc trên bãi cỏ, giữa vồng hoa, mồm nhấm hạt dưa.
Katya từ đại lộ Nevxki trở về một mình. Rôtsin có hẹn với nàng là khoảng tám giờ sẽ đợi nàng trên bờ sông.
Katya rẽ về Quảng trường Cung điện. Trong những khung cửa sổ đen ngòm ở tầng hai tòa cung điện âm u màu đỏ như máu, leo lét mấy ngọn đèn con vàng vàng. Ở thềm chính có mấy chiếc xe hơi đỗ, binh lính và tài xế đi đi lại lại dưới thềm, cười nói rôm rả. Một người liên lạc trẻ măng cưỡi bình bịch phóng qua, đầu đội mũ da lắp kính, lưng áo phồng ra. Trên bao lơn ở góc cung điện, một cụ già râu dài và bạc đứng im phăng phắc, khuỷu tay chống lan can.
Đi vòng qua cung điện, Katya ngoái lại: trên vòm cung của tòa Tổng hành dinh, những con tuấn mã bằng đồng đen vẫn nhẹ nhàng cất vó phi về phía mặt trời lặn. Katya đi suốt bờ sông xây và ngồi xuống một chiếc ghế dài bằng đá hoa cương đặt ngay mé nước. Trên dòng sông Nêva đang chảy lờ đờ, những chiếc cầu vẽ thành những nét màu lam trong suốt. Ngọn tháp nhọn và mảnh của nhà thờ Pêtrôpavlov phản chiếu xuống dòng nước thành một nét vàng ống ánh. Một con thuyền mỏng manh dập dềnh trên những đợt sóng gợn lăn tăn. Bên kia khu Pêterburgxkaia Xôtôrôna, sau các mái nhà, sau các làn khói, mặt trời sắp tắt chìm dần vào một khoảng trời sáng rực màu da cam.
Hai tay đặt trên đầu gối, Katya yên lặng nhìn cảnh tàn tạ này và ngoan ngoãn, kiên nhẫn chờ Vađim Pêtrôvits đến.
Chàng lặng lẽ tới gần nàng từ phía sau, rồi vịn tay lên lưng ghế hoa cương nhìn xuống Katya.
Nàng cảm biết được sự có mặt của chàng, ngoảnh mặt lại, mỉm cười đứng dậy. Chàng nhìn nàng với đôi mắt lạ lùng, bỡ ngỡ. Nàng bước lên mấy bậc cấp đưa lên bờ xây, vịn vào cánh tay Rôtsin. Hai người bước cạnh nhau. Katya hỏi khẽ:
- Thế nào anh?
Miệng chàng mím lại, chàng nhún vai, không đáp.
Họ đi qua cầu Troitxki và khi bước vào đại lộ Kamenny Oxtrôv, Rôtsin hất hàm về phía một tòa dinh thự lớn, mặt nhà lát đá tráng men nâu. Những khung cửa sổ rộng trông ra khu vườn mùa đông đều sáng rực ánh đèn. Bên thềm có mấy chiếc xe bình bịch đỗ, Đó là tòa biệt thự của một vũ nữ ba-lê nổi tiếng, hiện nay là đại bản doanh của đảng Bolsêvik. Ở đây đêm ngày đều có tiếng máy chữ thi nhau khua rào rào. Ngày nào trước tòa biệt thự cũng có một đám đông thợ thuyền, binh sĩ, thủy thủ tụ tập lại: người đứng đầu đảng Bolsêvik ra bao lơn nói với họ rằng công nhân và nông dân phải dùng vũ lực giành lấy chính quyền, chấm dứt chiến tranh ngay lập tức và lập nên một chế độ mới, công bằng, ở nước mình và trên khắp thế giới.
- Vừa rồi anh đứng trong đám đông lắng nghe thử, - Rôtsin nói qua kẽ răng. - Từ trên bao lơn lời lẽ người ấy quát xuống như những ngọn roi lửa và đám đông lắng nghe ngươi ấy nói... Ồ, họ như nuốt lấy từng lời!... Bây giờ anh không hiểu ai là người lạ trong thành phố này nữa - chúng ta hay là họ? (chàng hất hàm về phía biệt thự). Dân chúng không thèm nghe chúng ta nữa... Chúng ta chỉ lắp bắp những câu hoàn toàn vô nghĩa... Khi anh mới đến đây, anh còn biết rằng mình là người Nga. Chứ bây giờ thì anh chỉ là một người lạ ở đây... Anh không hiểu, không sao hiểu nổi...
Họ vẫn bước trên đại lộ Kamenny Ôxtrôv. Một người mặc áo khoác rách đội mũ rơm, vượt qua mặt họ, một tay cầm cái xô con, tay kia cầm một tập giấy yết thị...
- Anh chỉ biết có một điều - Rôtsin nói khẽ, giọng trầm trầm, ngoảnh đi để Katya khỏi thấy gương mặt mình đã biến sắc, - là trong cõi hỗn mang này có một điểm sáng chói và đầy sinh lực: đó là tấm lòng em, Katya ạ... Chúng mình không thể chia ly được.
Katya đáp khẽ:
- Ban nãy em không dám nói với anh điều đó... Anh! Tại sao anh lại nghĩ chúng mình có thể xa nhau?
Họ đã đi tới chỗ người xách cái xô con vừa dán lên tường một tờ yết thị nhỏ trăng trắng. Vì cả hai đều đang xúc động nên họ dừng chân lại một lát. Dưới ánh đèn đường có thể đọc được mấy dòng chữ lớn ở phía trên tờ yết thị:
“Hỡi toàn thể nhân dân! Cách mạng đang lâm nguy!...”
- Êkatêrina Đmitrievna, - Rôtsin vừa nói vừa cầm lấy bàn tay mảnh khảnh của nàng và bước chầm chậm trên đại lộ rộng thênh thang đang lắng dần trong buổi hoàng hôn. Ở cuối đại lộ, ráng chiều vẫn còn vấn vương, chưa tàn lụi hẳn đi được. - Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét, và chỉ còn lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại, dịu dàng và chan chứa tình yêu thương...
Từ những khung cửa sổ mở rộng của những tòa nhà lớn vẳng lại những tiếng đàn và tiếng nói cười vui vẻ. Người cầm cái xô nhỏ với dáng đi gù gù đã lại vượt qua mặt Katya và Rôtsin. Trong khi dán thêm một tờ yết thị nữa, hắn ngoảnh mặt lại. Từ dưới vành mũ rơm rách nát, hai con mắt đăm đăm nhìn họ, hừng hực căm thù.
------------
Hết Tập I

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét