Gió Qua Rặng Liễu
Tác giả: Kenneth Grahame
Dịch giả: Nguyên Tâm
Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn - 2006
Chương 5 - Tổ Ấm
Bầy cừu túm tụm với nhau chạy xô vào bờ
rào, phì phò thở qua những lỗ mũi nhỏ xíu và giậm giậm đôi chân trước mảnh khảnh
xuống đất, đầu chúng ngửa về phía sau và một làn hơi nước nhè nhẹ từ các bãi nhốt
cừu chật chội tỏa lên không trung lạnh giá khi hai đứa hối hả bước ngang qua, vừa
đi vừa vui vẻ chuyện gẫu và cười đùa. Bọn chúng đang băng qua vùng nông thôn để
trở về nhà sau một ngày dài rong chơi cùng Rái Cá, vừa săn bắn vừa khảo sát những
vùng cao rộng lớn, tại đó một số chi lưu nhỏ của dòng sông của chúng mới chỉ bắt
đầu có nước.
Bóng đêm của ngày đông ngắn ngủi sắp buông xuống mà bọn chúng còn
phải đi một quãng nữa. Sau khi tình cờ lê bước qua một khoảnh đất đã cày, hai đứa
nghe thấy tiếng bầy cừu và đi về phía chúng; và giờ đây, từ bãi nhốt cừu chúng
tìm thấy một lối hẻm khiến cho việc đi bộ bớt hẳn khó nhọc, hơn nữa lối hẻm ấy
còn đáp lời cho cái câu hỏi thăm thông thường mà tất cả các con vật đều để bụng,
nó nói rõ mồn một, “Đúng, hoàn toàn đúng; lối hẻm này dẫn về nhà!”
- Có vẻ như bọn mình sắp sửa đến một ngôi
làng, - Chuột Chũi nói, vừa hơi do dự vừa bước chậm lại đúng vào lúc lối hẻm ấy
trở thành một đường mòn và rồi lại phát triển thành một con đường nhỏ. Và giờ
đây con đường ấy đã chuyển giao chúng cho một con đường trải đá. Hai đứa không
tới các làng mạc và đường cái vì chúng đã thường xuyên qua lại những nơi đó, mà
theo một con đường độc lập, chẳng đếm xỉa gì đến nhà thờ, nhà bưu điện hoặc
quán rượu.
- Ồ, cứ yên tâm đi! - Chuột Nước nói, - Vào
mùa này trong năm, giờ này họ đã an vị trong nhà, đang ngồi quanh lò sưởi cả rồi;
đàn ông, đàn bà và trẻ con, chó và mèo, tất tần tật. Bọn mình cứ lỏn qua được
thôi, chẳng có gì phiền toái hoặc khó chịu cả đâu, và bọn mình có thể ghé nhìn
họ qua các cửa sổ, nếu cậu thích, để xem họ đang làm gì.
Đêm trung tuần tháng Chạp buông nhanh, bao
trùm toàn bộ ngôi làng nhỏ bé khi chúng nhẹ nhàng tới gần, trên lớp bụi tuyết mới
rơi. Chúng chẳng nhìn thấy gì ngoài những ô vuông ánh đèn từ các cửa sổ của từng
nếp nhà tranh tràn ra thế giới tối đen bên ngoài. Hầu hết các cửa sổ thấp căng
lưới mắt cáo đều không có rèm, và đối với những kẻ đứng bên ngoài nhòm vào thì
những người trong nhà đang quây quần quanh bàn trà mà mải mê làm các công việc
thủ công hoặc vừa cười nói vừa khua chân múa tay, mỗi người đều có một vẻ duyên
dáng hạnh phúc mà một diễn viên lành nghề cùng lắm mới có thể đạt được - cái vẻ
duyên dáng tự nhiên chỉ có được khi hoàn toàn không biết là mình đang bị theo
dõi. Tha hồ chuyển từ nhà hát này đến nhà hát khác, hai vị khán giả, bản thân
đang rất xa nhà, ánh mắt thoáng vẻ khao khát khi thấy một con mèo được vuốt ve,
một đứa trẻ buồn ngủ được bế lên và đặt vào giường ngủ, hoặc một ông già nằm
dài mà gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi vào đầu một khúc gỗ đang âm ỉ cháy.
Nhưng chính từ một khuôn cửa sổ nhỏ bé có bức
rèm rủ xuống, chỉ là một bức tranh đèn chiếu về ban đêm, mà cái ý nghĩa về tổ ấm
và thế giới kín đáo trong gia đình mới thật rộn ràng - nó khiến cho cái thế giới
rộng lớn và đầy căng thẳng của Thiên Nhiên bên ngoài bị loại trừ và lãng quên.
Sát bên bức rèm trắng có treo một chiếc lồng chim chênh chếch in bóng thật rõ
nét, từng chiếc nan lồng bằng dây thép, cành cây để chim đậu và các món lặt vặt
đều rõ ràng đến mức thậm chí một kẻ đần độn cũng có thể nhận ra. Kẻ cư ngụ
trong lồng mình đầy lông tơ đang vắt vẻo ở trên cành cây, đầu rúc sâu vào bộ
lông, dường như ở gần đến mức nếu cố thì chúng có thể dễ dàng vuốt ve. Thậm chí
đầu mút thanh mảnh của những cái lông đã rụng của nó cũng vạch thành những nét
rõ ràng trên bức rèm được chiếu sáng. Trong lúc hai đứa ngắm nhìn, anh chàng bé
nhỏ đang ngái ngủ kia cựa quậy có vẻ lo lắng, tỉnh giấc, lắc lắc mình và ngẩng
đầu lên. Chúng có thể nhìn thấy nó há cái mỏ nhỏ xíu mà ngáp một cách mệt mỏi,
nhìn quanh và lại rúc đầu vào lưng, trong khi đó những đám lông vừa xù ra lại
trở lại trạng thái hoàn toàn yên tĩnh. Rồi một trận gió rét buốt thổi vào gáy
chúng, một cảm giác tê buốt trên da vì mưa tuyết khiến chúng sực tỉnh như từ một
giấc mơ, và chúng biết là các ngón chân chúng đã lạnh cóng và đôi chân chúng đã
mệt mỏi, mà ngôi nhà của chúng vẫn còn cách một chặng đường tẻ ngắt xa vời.
Ngay khi vượt khỏi ngôi làng, nơi mà những
nếp nhà tranh bỗng nhiên mất dạng, qua màn đêm hai đứa lại có thể ngửi thấy mùi
của những cánh đồng thân thiện ở hai bên đường; và chúng gắng hết sức để đi nốt
chặng đường dài cuối cùng, chặng đường mà chúng ta biết là nhất định sẽ phải kết
thúc vào một lúc nào đó, trong tiếng lạch cạch của cái chốt cửa, ánh lửa lò sưởi
bất chợt hiện ra và hình ảnh của những đồ vật quen thuộc chào đón chúng ta như
những người đi du lịch trở về từ hải ngoại xa xôi sau một thời gian dài vắng
nhà. Chúng cứ lê bước đều đều và lặng lẽ, mỗi đứa theo đuổi những ý nghĩ riêng
của mình. Chuột Chũi nghĩ rất nhiều về bữa ăn tồi, vì trời tối đen như mực, và
theo chỗ nó biết thì miền đất này hoàn toàn xa lạ với nó nên nó cứ ngoan ngoãn
theo gót Chuột Nước, mặc cho bạn mình dẫn đi đâu thì đi. Còn về Chuột Nước, nó
đi vượt lên trước một chút, theo thói quen, hai vai khom xuống, đôi mắt dồn vào
con đường thẳng màu xám ở trước mặt, vì vậy nó chẳng để ý gì đến anh chàng Chuột
Chũi khốn khổ. Bỗng nhiên Chuột Chũi nhận được lệnh triệu hồi và nó cảm thấy
như bị điện giật.
Chúng ta là những kẻ khác, từ lâu đã mất đi
những giác quan tinh tế hơn của cơ thể, thậm chí chưa từng có những thuật ngữ
xác đáng để diễn đạt sự thông tin của một con vật với môi trường xung quanh nó,
dù là với vật sống hay vật vô tri giác, mà chỉ có mỗi cái từ “mùi”, chẳng hạn,
để bao gồm cả một loạt những rung động suốt ngày đêm thì thầm trong mũi con vật
- kêu gọi, cảnh giác, xúi giục, xua đuổi... Chính là một trong những tiếng gọi
thần bí từ khoảng trống ấy đã bỗng nhiên đến với Chuột Chũi trong đêm tối và sức
lôi cuốn của nó khiến cu cậu náo nức rộn cả người dù vẫn chưa nhớ rõ được đó là
cái gì. Nó đứng khựng lại trên đường, mũi nó ra sức tìm kiếm chỗ nọ chỗ kia để
cố bắt lại cái sợi tóc thanh mảnh, cái luồng điện báo đã khiến nó xúc động mạnh
mẽ đến thế. Một khoảnh khắc, và nó đã bắt lại được thông điệp đó, và cùng với
nó lần này là cả một ký ức dạt dào.
Tổ ấm! Đó là ý nghĩa của chúng, của những
tiếng gọi thân thương, những cái vuốt ve trìu mến được truyền đi trong không
gian, những bàn tay vô hình nhỏ bé níu kéo, tất cả về một hướng! Chà, nơi đó hẳn
phải rất gần nó vào lúc này, chốn quê cũ mà nó đã vội từ bỏ và chưa bao giờ tìm
lại từ cái ngày đầu tiên nó tìm thấy dòng sông! Và giờ đây tổ ấm ấy đang phái
các trinh sát và sứ giả của mình đi bắt và đưa nó trở về. Kể từ khi nó trốn đi
vào cái buổi sáng rực rỡ ấy, nó hầu như chẳng bao giờ nghĩ đến tổ ấm nữa, nó đã
quá mải mê với cuộc đời mới của mình, với những thú vui, những điều bất ngờ, và
những nếm trải mới mẻ và quyến rũ của cuộc sống đó. Giờ đây, cùng với dòng ký ức
ào ạt, cái tổ ấm ấy hiện ra trước mắt nó mới rõ ràng làm sao, trong đêm tối! Quả
là tồi tàn, nhỏ bé và đồ đạc sơ sài, nhưng là của nó, cái tổ ấm mà nó đã tạo dựng
cho bản thân mình, cái tổ ấm nơi nó đã từng sung sướng trở về sau mỗi ngày làm
việc. Và hiển nhiên, cái tổ ấm ấy cũng đã từng hạnh phúc với nó và lúc này đang
nhớ mong nó, muốn nó trở về, đang nói với nó như vậy, qua mũi của nó, bằng giọng
nói buồn rầu, oán trách nhưng không chút cay độc hoặc cáu giận, mà chỉ rầu rĩ
nhắc nó rằng tổ ấm của nó vẫn ở đó và đang cần đến nó.
Tiếng gọi thật rõ ràng, lệnh triệu hồi thật
đơn giản. Nó phải chấp hành lệnh đó ngay, và đi.
- Chuột Nước ơi! - nó gọi, tràn ngập niềm
vui náo nức, - Dừng lại! Quay lại đây! Tớ cần cậu, nhanh lên!
- Ồ, cứ đi tiếp đi nào, Chuột Chũi! - Chuột
Nước vui vẻ trả lời, vẫn tiếp tục nặng nhọc lê bước.
- Làm ơn dừng lại đi, Chuột Nước! - Chuột
Chũi tội nghiệp van vỉ đến não lòng. - Cậu không hiểu gì cả! Đó là tổ ấm của tớ,
tổ ấm thân yêu của tớ! Tớ vừa bắt gặp cái mùi của nó, mà nó ở quanh đây, thực sự
rất gần. Và tớ phải đến đó, tớ phải đến, tớ phải đến! Ồ, quay lại đi, Chuột Nước!
Làm ơn, làm ơn quay lại đi!
Lúc này Chuột Nước đã vượt rất xa về phía
trước, quá xa nên không thể nghe rõ Chuột Chũi nói gì, quá xa nên không thể cảm
nhận được vẻ cầu xin đau đớn dữ dội trong giọng nói của nó. Và Chuột Nước rất mẫn
cảm với thời tiết, bởi vì nó cũng ngửi thấy một cái gì đó - một cái gì đó ngờ
ngợ như là tuyết rơi.
- Chuột Chũi à, bọn mình không được dừng lại
lúc này, thật đấy! - nó gọi vọng trở lại. - Chúng mình sẽ đến lấy cái đó vào
ngày mai, dù cái mà cậu tìm được là cái gì đi nữa. Nhưng tớ không dám dừng lại
bây giờ - đêm đã khuya mà tuyết lại sắp rơi và tớ không thuộc đường lắm! Và tớ
cần đến cái mũi của cậu, Chuột Chũi à, cậu lại đây nhanh lên, cậu vẫn là một thằng
bạn tốt mà!
Và Chuột Nước tiếp tục hối hả rảo bước trên
con đường của mình, không chờ nhận được câu trả lời.
Anh chàng Chuột Chũi tội nghiệp đứng một
mình trên đường, lòng tan nát và một cơn nức nở dữ dội đang từ từ ngưng tụ tại
một nơi nào đó sâu thẳm trong người nó để giây lát sau sẽ vọt lên bề mặt, nó biết,
để mà òa ra thống thiết. Nhưng thậm chí trong một cuộc thử thách đến như vậy,
lòng trung thành với bạn của nó vẫn đứng vững. Chưa bao giờ nó nghĩ đến chuyện
bỏ rơi bạn mình. Trong lúc đó, những làn gió thoảng từ tổ ấm thân yêu của nó cứ
nài nỉ, thì thấm, kêu gọi khẩn thiết và cuối cùng thì yêu cầu nó thật cấp bách.
Nó không dám nấn ná lâu hơn trong cái vòng tròn đầy ma lực của chúng. Với một nỗi
đau đến xé lòng, nó ngoảnh mặt nhìn dọc con đường và ngoan ngoãn bước theo con
đường của Chuột Nước trong khi cái mùi thoang thoảng nhè nhẹ và mờ nhạt kia vẫn
cứ lẵng nhẵng theo đuổi cái mũi đang tháo chạy của nó, quở trách nó về cái tình
bạn mới mẻ kia và cái tính hay quên của nó.
Bằng một nỗ lực, nó đuổi kịp anh bạn Chuột
Nước không chút ngờ vực lúc này đã bắt đầu huyên thuyên vui vẻ về những việc
chúng sẽ làm khi trở về, về cái lò sưởi đốt củi gỗ trong phòng khách sẽ dễ chịu
biết bao, và về cái bữa tối thịnh soạn mà nó dự định sẽ ăn, chẳng để ý gì đến sự
yên lặng và tâm trạng đau buồn của ông bạn.
Tuy nhiên, cuối cùng, khi đã đi thêm một
quãng khá xa vào lúc ngang qua vài gốc cây trên một bãi cây nhỏ tiếp giáp với
con đường, nó dừng lại và ân cần nói:
- Nghe này, bạn Chuột Chũi thân mến, cậu dường
như đã mệt rã rời rồi. Chúng mình ngồi xuống đây nghỉ một chút đã. Tuyết đã ngừng
rơi và chúng mình đã hoàn thành được phần lớn cuộc hành trình rồi.
Chuột Chũi đau khổ ngồi xuống một gốc cây
và cố gắng kiềm chế cảm xúc, bởi nó biết nhất định điều đó sắp sửa xảy ra. Cái
cơn nức nở mà suốt từ nãy nó đã chiến đấu chống lại vẫn cứ không chịu thua. Nó
cứ dâng lên, dâng lên, và dùng sức mạnh mở đường thoát ra ngoài, và rồi một cơn
nữa và lại một cơn nữa và những cơn khác, vừa dày đặc vừa nhanh chóng, cho tới
khi Chuột Chũi khốn khổ cuối cùng phải từ bỏ cuộc chiến mà khóc lấy khóc để, chẳng
hề giấu giếm, vì nó biết tất cả thế là hết và nó đã mất cái mà hầu như không thể
bảo rằng nó vừa tìm thấy.
Chuột Nước, vừa kinh ngạc vừa hốt hoảng vì
cơn kịch phát đau buồn dữ dội của Chuột Chũi, cũng chẳng dám nói gì một hồi
lâu. Cuối cùng, nó nói, giọng rất nhẹ nhàng và cảm thông:
- Chuyện gì thế, anh bạn thân mến? Cậu có
thể gặp chuyện gì cơ chứ? Hãy kể tớ nghe về điều phiền muộn của cậu để tớ xem
có thể giúp được gì.
Chuột Chũi khốn khổ cảm thấy khó mà nói được
thành lời, ngực nó cứ phập phồng vừa nhanh vừa liên tục hết đợt này đến đợt
khác khiến lời nói bị kìm nén và tắc nghẹn không thoát ra được...
- Tớ biết đó là một - căn nhà nhỏ bé tồi
tàn, - cuối cùng nó vừa nức nở vừa ấp úng nói, - không giống như - ngôi nhà ấm
cúng của cậu - hay cái lâu đài đẹp đẽ của thằng Cóc - hay tòa nhà đồ sộ của bác
Lửng - nhưng đó là nhà riêng của tớ - và tớ ưa thích nó - mà tớ đã bỏ đi và
quên bẵng nó đi - và rồi tớ bỗng ngửi thấy mùi nó - ở trên đường, lúc tớ gọi mà
cậu chẳng chịu nghe - Chuột Nước à - và mọi thứ cứ ào ạt trở về với tớ - và tớ
cần căn nhà đó! - Trời ơi, trời ơi! - và khi cậu không chịu quay trở lại, Chuột
Nước à - tớ đã phải xa rời nó, dù rằng tớ vẫn cứ ngửi thấy nó hoài - Tớ đã nghĩ
là trái tim mình sẽ vỡ tung ra. Lẽ ra chúng mình đã có thể đi mà nhìn nó một
cái, Chuột Nước à - chỉ nhìn một cái thôi - nó ở rất gần - nhưng cậu không chịu
quay lại, Chuột Nước à, cậu đã không chịu quay lại! Trời ơi! Trời ơi!
Sự hồi tưởng ấy lại đem đến những làn sóng
đau buồn, và những cơn nức nở lại hoàn toàn chế ngự nó khiến nó không nói thêm
được gì nữa.
Chuột Nước nhìn chằm chằm về phía trước, lặng
thinh, chỉ nhẹ nhàng vỗ về lên vai Chuột Chũi. Một lát sau, nó buồn rầu lẩm bẩm:
- Bây giờ tớ hiểu tất cả rồi! Tớ thật là đồ
con lợn. Một con lợn - đó là tớ! Chỉ là một con lợn, rõ ràng là một con lợn!
Nó đợi cho đến khi những cơn nức nở của Chuột
Chũi dần dần bớt mãnh liệt và hơi thở của cu cậu nhịp nhàng hơn; nó đợi cho đến
khi những nhịp hít vào của cu cậu cuối cùng đã đều đặn hơn và tiếng nức nở chỉ
còn lúc có lúc không. Sau đó, nó đứng dậy khỏi chỗ ngồi và vừa nói thật vô tư:
- Chà, bây giờ thật sự là chúng mình tiếp tục
đi thì hơn, anh bạn thân mến à! - vừa khởi hành trở lại con đường cực nhọc mà
chúng đã đi qua.
- Cậu đang (híc) đi đâu đấy (híc), hả Chuột
Nước? - Chuột Chũi đang đầm đìa nước mắt kêu lên và hoảng hốt ngước nhìn.
- Chúng mình đang đi tìm căn nhà ấy của cậu,
anh bạn thân mến ạ, - Chuột Nước vui vẻ trả lời, - vì vậy cậu cần phải đi ngay,
vì sẽ phải mất công tìm kiếm, và chúng mình sẽ cần đến cái mũi của cậu!
- Ồ, hãy quay lại, Chuột Nước, quay lại đi!
- Chuột Chũi vừa kêu lên vừa đứng dậy hối hả chạy theo bạn. “Như thế không hay đâu,
tớ bảo cậu đấy! Khuya quá rồi, trời lại tối quá, mà nơi ấy thì lại quá xa, và
tuyết lại sắp rơi nữa! Và - tớ không hề có ý định cho cậu biết tình cảm của tớ
đối với nó là như thế nào đâu - chỉ là một sự tình cờ, một sai lầm thôi mà! Cậu
hãy nghĩ đến Bờ Sông và bữa ăn tối của cậu ấy!
- Bờ Sông cái chết tiệt, và cả bữa ăn tối!
- Chuột Nước hồ hởi nói. - Tớ bảo này, tớ sẽ tìm thấy căn nhà ấy bây giờ, nếu tớ
ở ngoài trời cả đêm. Vậy thì, hãy vui lên nào, anh bạn thân mến, và hãy khoác
tay tớ, và chẳng mấy chốc chúng mình sẽ lại có mặt tại đó.
Dù vẫn còn đang sụt sịt biện bạch và không
sẵn lòng, Chuột Chũi vẫn chịu để cho người bạn độc đoán của mình kéo trở lại dọc
lối cũ. Bằng cách kể hàng tràng những chuyện vui và giai thoại, Chuột Nước cố
làm cho nó phấn chấn trở lại và khiến cho con đường tẻ ngắt dường như ngắn hơn.
Cuối cùng, khi Chuột Nước thấy chúng có vẻ đã sắp tới đoạn đường khi nãy bạn
mình “bị chặn lại” thì nó nói:
- Nào, không nói chuyện nữa. Nghiêm túc đấy!
Hãy sử dụng cái mũi của cậu, và hãy chú tâm vào.
Hai đứa tiếp tục đi một quãng ngắn trong
yên lặng, rồi bỗng Chuột Nước thấy rõ một cảm giác rùng mình như thể thoáng bị
điện giật truyền qua cái cánh tay của mình đang khoác vào tay Chuột Chũi, cảm
giác này truyền khắp cơ thể nó. Lập tức, nó gỡ tay mình ra, lùi lại một bước và
chờ đợi, rất chăm chú.
Các tín hiệu ấy đang truyền tới!
Chuột Chũi đứng đờ ra một lát, trong khi đó
cái mũi hếch lên và hơi run rẩy của nó đánh hơi trong không khí.
Sau đó nó chạy nhanh về phía trước một đoạn
ngắn - sai mất rồi - kiểm tra lại - thử lại lần nữa; và rồi nó chậm rãi tiến bước
đều đều một cách đầy tự tin.
Rất hồi hộp, Chuột Nước theo sát gót thằng
bạn lúc này đang hơi có vẻ một kẻ mộng du. Cu cậu băng qua một con mương cạn
khô, chui qua một bờ giậu và đánh hơi tìm đường trên một thửa đất trống không
có đường mòn và trơ trụi dưới ánh sao mờ.
Bỗng nhiên, không báo trước gì cả, nó chúi
đầu xuống; nhưng Chuột Nước đã cảnh giác và nhanh chóng bước theo xuống con đường
hầm mà cái mũi không lầm lẫn của cu cậu đã dẫn đường một cách đáng tin cậy.
Đường hầm ẩm ướt, thiếu không khí, đầy mùi
đất và Chuột Nước có cảm giác phải mất một lúc lâu mới đi hết để nó có thể đứng
thẳng người lên mà vươn vai và giũ bụi khỏi người. Chuột Chũi đánh một que
diêm, và nhờ ánh sáng đó Chuột Nước nhận ra là chúng đang đứng trong một khoảng
trống được quét dọn tử tế và có trải cát dưới chân, và ngay trước mặt chúng là
cái cửa trước nhỏ bé của Chuột Chũi, trên có sơn dòng chữ “Nhà Chuột Chũi” bằng
tự dạng Gô-tích [Gothic:
theo phong cách của người Goth, phổ biến ở Tây Âu], phía trên sợi
dây chuông ở bên cạnh.
Chuột Chũi với tay lấy chiếc đèn lồng treo
trên một cái đinh trên tường rồi thắp đèn, còn Chuột Nước nhìn quanh, nhận ra
là chúng đang ở trong một cái sân trước. Một chiếc ghế ngồi chơi được đặt một
bên cửa và ở phía bên kia là một cỗ xe lăn đường; bởi Chuột Chũi vốn là một con
vật ngăn nắp ở nhà mình, nó không chịu được cảnh nền đất của mình bị những con
vật khác bới thành những cái rãnh nhỏ và tạo ra những đống đất. Trên các bức tường
có treo những giỏ bằng dây kim loại bên trong trồng các loại dương xỉ, xen kẽ với
những giá thước thợ đỡ những pho tượng thạch cao - Garibaldi [Giuseppe
Garibaldi 1807 - 1882, một nhà lãnh đạo quân sự người Italia có công trong việc
thống nhất đất nước này - ND], ấu
chúa Samuel [con
trai của nữ hoàng Anh Victoria] và Nữ hoàng Victoria [1819 - 1907, trị
vì nước Anh từ năm 1837 cho tới khi mất - ND]
và các vị anh hùng khác của nước Ý hiện đại. Suốt dọc một bên sân là một lối hẹp
dành để chơi ky [Skittle:
con ky là một đoạn gỗ hình cái chai trong trò chơi ky. Những người chơi lăn một
quả bóng để làm đổ các con ky], có kê những chiếc ghế dài dành cho
khán giả và những chiếc bàn gỗ nhỏ trên mặt có những vết tròn, chắc là đã từng
có những vại bia đặt ở đó. Giữa sân là một cái ao tròn nhỏ nuôi cá vàng, xung
quanh được kè bằng vỏ sò. Một công trình kiến trúc kì lạ vút lên ở giữa ao,
cũng được bao bằng vỏ sò và trên đỉnh là một quả cầu lớn bằng kính tráng thủy,
nó cho những hình ảnh phản chiếu hoàn toàn sai sự thật và gây một ấn tượng thú
vị.
Gương mặt Chuột Chũi rạng rỡ lên khi nó
nhìn thấy tất cả những thứ vô cúng thân yêu với nó đó, và nó giục Chuột Nước đi
gấp qua cửa, thắp một ngọn đèn trong phòng lớn và đảo mắt nhìn quanh căn nhà của
mình một lượt. Nó thấy bụi phủ dày lên tất cả mọi vật, thấy cái vẻ buồn tẻ,
hoang vắng của căn nhà bị bỏ mặc đã lâu, cái quy mô nhỏ hẹp và xoàng xĩnh của
nó cùng những đồ đạc sờn cũ bên trong - và lại ngồi gục xuống một cái ghế, hai
tay ôm lấy cái mũi của mình.
- Ồ, Chuột Nước à! - nó kêu lên buồn thảm, -
Sao mà tớ lại làm điều đó cơ chứ? Sao tớ lại đưa cậu đến căn nhà nhỏ bé, tồi
tàn và lạnh lẽo này, vào một đêm như thế này, khi mà cậu lẽ ra lúc này có thể
đã đang có mặt ở Bờ Sông, đang ngồi hơ chân trên một lò sưởi cháy rừng rực, và
uống rượu mừng, cùng với tất cả các đồ đạc đẹp đẽ xung quanh!
Chuột Nước chẳng bận tâm tới những lời tự
thán sầu thảm của bạn mình. Nó chạy loanh quanh, hết mở các cửa ra vào lại xem
xét các phòng và những cái tủ, rồi thắp đèn nến lên và đặt chúng ngay ngắn khắp
nhà.
- Căn nhà nhỏ bé này thật tuyệt vời! - nó
hào hứng kêu to. - Rất chắc chắn. Tính toán thật là đâu ra đấy! Nơi nào thứ nấy,
hoàn toàn đúng chỗ! Chúng mình sẽ khiến nó đêm nay thật vui. Thứ đầu tiên chúng
mình cần là một bếp lò thật tốt, tớ sẽ lo liệu việc này - tớ bao giờ cũng biết
tìm các thứ ở chỗ nào. Vậy ra chỗ này là phòng khách? Tuyệt vời! Những chiếc
giường ngủ nhỏ bé đặt trong tường kia là ý tưởng riêng của cậu à? Tuyệt! Bây giờ
tớ sẽ kiếm củi và than, còn cậu đi kiếm cái khăn lau, Chuột Chũi à - cậu sẽ thấy
trong ngăn kéo bàn dưới bếp có một cái đấy - và hãy cố mà lau chùi cho các thứ
đồ đạc sáng bóng lên một chút. Nhanh tay nhanh chân lên nào, anh bạn thân mến!
Được bạn mình vui vẻ động viên, Chuột Chũi
vụt đứng dậy và hăm hở dùng hết sức lực mà lau chùi, trong lúc đó Chuột Nước chạy
loanh quanh, tay ôm những bó nhiên liệu và chẳng mấy chốc đã có một ngọn lửa dễ
chịu cháy rực rỡ bốc lên ống khói. Nó gọi Chuột Chũi đến sưởi ấm nhưng lúc này
cu cậu đã lại nhanh chóng rơi vào một trận buồn ghê gớm, vừa gieo mình xuống một
chiếc tràng kỷ vừa úp mặt vào cái khăn lau.
- Chuột Nước ơi, - nó rên rỉ, - Biết lấy gì
để cậu ăn tối đây hả con vật khốn khổ, đang vừa lạnh vừa đói và mệt mỏi kia? Tớ
chẳng có gì đãi cậu - chẳng có gì - một mẩu bánh mì cũng không!
- Cứ bó tay đành chịu thì cậu thật là một
thằng tồi! - Chuột Nước nói, vẻ trách móc. - Mà tớ vừa nhìn thấy một cái mở hộp
cá mòi trên cái chạn ở nhà bếp, rất rõ ràng; và mọi người đều biết như vậy
nghĩa là có cá mòi đâu đó quanh chỗ ấy. Cậu đứng dậy đi, thật bình tĩnh vào và
hãy cùng đi tìm với tớ.
Thế là hai đứa đi tìm, lục lọi khắp các tủ
và dốc sạch các ngăn kéo. Cuối cùng thì kết quả cũng không đến nỗi đáng thất vọng:
một hộp cá mòi, một hộp bánh bích quy còn gần đầy và một cái xúc xích Đức được
bọc bằng giấy bạc.
- Cả một bữa tiệc dành cho cậu đấy! - Chuột
Nước nhận xét trong lúc nó bày bàn. - Tớ biết là có vài con vật cũng mong được
mời ngồi ăn tối với chúng mình đêm nay đấy!
- Không bánh mỳ! - Chuột Chũi đau buồn rên
rỉ, - không bơ, không...
- Không pa-tê gan, không rượu sâm banh! -
Chuột Nước vừa tiếp lời vừa toét miệng cười. - Và điều này khiến tớ nhớ đến -
cái cửa nhỏ ở cuối đường hầm là cái gì ấy nhỉ? Cố nhiên là hầm chứa của cậu rồi!
Mọi thứ đồ xa xỉ trong cái nhà này! Cậu hãy chờ tớ một chút.
Nó tiến về phía cửa hầm chứa và một lát sau
đã quay lại, người hơi bị dính bụi, mỗi tay cầm một chai bia và mỗi nách kẹp một
chai nữa.
- Xem ra cậu là một gã ăn mày chơi sang,
Chuột Chũi à, - nó nhận xét. - Cậu chẳng chịu nhịn thứ gì cả. Nơi này thực sự
là căn nhà xinh xắn và vui nhộn nhất mà tớ từng có mặt. Mà này, cậu kiếm đâu ra
những bức ảnh kia thế? Chúng quả khiến căn phòng nom có vẻ rất đầm ấm. Hiển
nhiên là cậu rất thích căn phòng này, Chuột Chũi à. Hãy kể tớ nghe về nó đi, và
bằng cách nào mà cậu đã khiến cho nó đẹp như bây giờ.
Sau đó, trong lúc Chuột Nước bận rộn đi lấy
bát đĩa, thìa dĩa và lấy mù tạt khuấy lên trong một cái chén nhỏ, thì Chuột
Chũi, ngực vẫn còn phập phồng trong tâm trạng căng thẳng vì xúc động vừa qua,
thuật lại - thoạt đầu còn hơi rụt rè nhưng khi đã thích chủ đề này thì lại trôi
chảy hơn - nó đã dự kiến việc làm nhà ra sao, trù tính như thế nào và thực hiện
được việc đó nhờ một di sản bất ngờ của một bà dì, và khu đất này là một phát
hiện tuyệt vời và một món hời, còn những thứ còn lại đã mua được nhờ dành dụm vất
vả và một “mức độ bóp mồm bóp miệng” nhất định. Cuối cùng, đã vui vẻ phấn chấn
trở lại, nó thấy cần phải đi mà vuốt ve những món tài sản của mình và nó xách
cái đèn soi cho người bạn đến thăm nhìn rõ những đặc điểm của chúng và giải
thích thật chi tiết về những món đồ đó, quên khuấy đi mất bữa ăn tối mà cả hai
đứa đều đang rất cần đến. Chuột Nước lúc này đã đói lả nhưng vẫn cố không để lộ
ra ngoài mặt, vừa gật gật đầu bằng một vẻ nghiêm túc vừa cau mày xem xét và chốc
chốc lại nói, “Tuyệt vời”, và “Rất phi thường” mỗi khi nó có cơ hội đưa ra một
lời bình phẩm.
Cuối cùng, Chuột Nước cũng thành công trong
việc dụ bạn mình tới bàn ăn, và vừa mới bắt đầu thực sự sử dụng cái mở hộp cá
thì những tiếng động từ cái sân trước ở bên ngoài vọng vào - những âm thanh
nghe như tiếng những bàn chân nhỏ tí tẹo đang khua loạn xạ trên đá sỏi và tiếng
rì rầm lộn xộn. Một vài câu đứt quãng lọt đến tai hai đứa - “Mà này, tất cả xếp
hàng một - giơ cái đèn lồng cao lên một chút, Tommy - trước hết các cậu phải hằng
giọng đã - không được ho sau khi tớ đếm một, hai, ba - Thằng nhóc Bill đâu rồi
nhỉ? - Này, nhanh chân lên nào, tất cả bọn tớ đang chờ...”...
- Có chuyện gì thế nhỉ? - Chuột Nước vừa hỏi
vừa ngừng công việc của mình.
- Tớ nghĩ chắc là bọn chuột đồng, - Chuột
Chũi nói, thái độ thoáng vẻ tự hào. - Bọn chúng vẫn thường đến khắp các nhà để
hát mừng vào thời gian này hàng năm [Hát mừng (carol-singing), việc một tốp người đến các gia
đình hát về Lễ Giáng sinh hoặc các bài ca vui vẻ để chúc mừng, theo tập quán của
người dân nông thôn nước Anh - ND].
Chúng là một cơ sở từ thiện ra trò ở vùng này. Và chúng không bao giờ bỏ sót tớ
- bao giờ chúng cũng tới Nhà Chuột Chũi cuối cùng; và trước kia tớ vẫn thường
đãi rượu chúng, và đôi khi cả bữa ăn tối nữa, khi mà tớ có điều kiện. Nghe bọn
chúng hát lần nữa là tớ lại thấy như trở lại thuở nào.
- Bọn mình thử ra gặp chúng xem sao! - Chuột
Nước vừa nói vừa đứng phắt dậy và chạy ra cửa.
Khi mở toang cánh cửa ra, hai đứa thấy ngay
một cảnh tượng đẹp đẽ và phù hợp. Khoảng chín mười chú chuột đồng nhỏ bé, cổ
quàng khăn len đỏ, đứng thành hình bán nguyệt trong cái sân trước được những
tia sáng yếu ớt của một chiếc đèn lồng bằng sừng chiếu sáng, chúng thọc sâu hai
tay vào túi quần, còn hai chân thì nhảy tung tăng cho ấm. Chúng rụt rè liếc
nhìn nhau bằng đôi mắt tròn nhỏ sáng lấp lánh, vừa hơi cười khẩy vừa khụt khịt
và cứ rúc đầu hoài vào ống tay áo khoác của mình. Khi cửa mở ra, một trong số
các chú chuột đồng lớn tuổi hơn, tay xách chiếc đèn lồng, vội nói ngay, “Nghe
này, một, hai, ba!” và lập tức những cái giọng chí chóe nhè nhẹ của chúng vút
lên không gian, ca vang lên một trong những bài hát mừng Lễ Giáng sinh cổ lỗ mà
tổ tiên chúng đã sáng tác trên những cánh đồng hoang đầy băng giá, hoặc vào những
lúc không đi đâu được vì tuyết rơi, phải ngồi lại bên lò sưởi, và truyền lại để
hát trên những con phố lầy lội, trước những ô cửa sổ có ánh sáng đèn vào mùa
Giáng sinh.
Bài Hát Mừng
Hỡi tất cả dân làng,
Hãy mở toang cửa nhà mình,
Vào dịp lễ Giáng sinh đầy sương giá.
Dù gió có thể vào theo, và còn thêm tuyết nữa.
Vẫn mời chúng tôi nhé vào bên lò sưởi,
Để tá túc đợi chờ;
Và đến sáng là bạn sẽ có niềm vui!
Chúng tôi đứng đây trong mưa tuyết lạnh,
Miệng thổi những ngón tay và giậm giậm chân.
Từ chốn xa xôi chúng tôi đến chào các bạn
Các bạn bên lò sưởi còn chúng tôi ngoài đường phố
Chúc các bạn niềm vui vào buổi sáng!
Vì trước lúc nửa đêm trôi qua,
Bỗng một ngôi sao dẫn đường chỉ lối,
Cho niềm vui và ân huệ rơi xuống như mưa
Ban phúc cho ngày mai và mãi mãi,
Niềm vui cho mọi buổi sáng!
Chàng Joseph lặn lội nhọc nhằn qua dặm tuyết
Nhìn thấy ngôi sao trên một chuồng ngựa thấp tè,
Nàng Mary thì không thể đi xa hơn nữa
Được lũ ngựa đón vào ngay dưới mái tranh kia.
Niềm vui thuộc về nàng vào buổi sáng.
Và khi các thiên thần lên tiếng hỏi
Ai là người đầu tiên nhìn thấy Chúa Hài Đồng?
Hóa ra lại chính là những con vật đó,
Trong cái chuồng hai vị đã qua đêm.
Niềm vui sẽ thuộc về chúng vào buổi sáng!
[Theo kinh thánh, Joseph và Mary là hai vợ chồng; và Mary
đã sinh ra Jesus trong chuồng gia súc -
ND]
Các giọng hát ngừng lại, còn các ca sĩ thì
rụt rè nhưng tươi cười và cứ liếc trộm nhau, sau đó tất cả trở lại yên tĩnh -
nhưng chỉ là trong khoảnh khắc. Rồi chúng bỗng nghe từ tít trên cao và mãi tít
xa, dọc con đường hầm mà chúng vừa đi qua, âm thanh nhè nhẹ thánh thót của một
hồi chuông rung lên hân hoan gióng giả.
- Các cậu hát hay lắm! - Chuột Nước kêu to,
vẻ nồng nhiệt. - Bây giờ tất cả các cậu hãy vào trong này sưởi ấm bên lò sưởi
và dùng một chút gì thật nóng!
- Phải đấy, nhanh lên, các chú chuột đồng,
- Chuột Chũi hăm hở kêu lên. - Thật vui y như ngày xưa ấy! Vào rồi thì đóng cửa
lại. Kéo cái tràng kỷ kia đến gần lò sưởi đi. Giờ thì các cậu chỉ đợi bọn tớ một
chút thôi, trong lúc bọn tớ - Ồ, Chuột Nước! - nó tuyệt vọng kêu lên và gieo
mình xuống một chiếc ghế, nước mắt vòng quanh. - Chúng mình đang làm cái quái
gì thế nhỉ? Chúng mình chẳng có gì mà đãi bọn chúng!
- Cậu cứ để tớ lo liệu toàn bộ việc đó, -
Chuột Nước oai vệ nói. - Nào, cậu xách đèn lồng kia! Lại đây tôi bảo. Tôi cần
bàn với cậu. Mà này, cậu hãy nói cho tôi biết quanh đây có cửa hàng nào còn mở
cửa vào cái giơ khuya khoắt này không?
- Sao, nhất định là có, thưa ông, - chú chuột
đồng kính cẩn trả lời. - Vào dịp này trong năm các cửa hàng của chúng cháu giờ
nào cũng mở cửa.
- Vậy hãy nghe đây! - Chuột Nước nói. - Cậu
hãy đi ngay lập tức - cậu và cái đèn lồng của cậu, và mua cho tôi...
Tiếp theo đó, hai bên nhỏ to thì thầm với
nhau, và Chuột Chũi chỉ nghe được câu được câu chăng, chẳng hạn - “Chú ý là phải tươi! - không, món ấy một cân
là được rồi - bảo đảm mua đúng nhãn hiệu Buggins đấy, vì tôi không dùng bất kỳ
loại nào khác - không, chỉ lấy thứ ngon nhất thôi - nếu không mua được ở đó thì
cậu cố mà kiếm ở một nơi nào khác nhé - phải, cố nhiên rồi, hàng nội, không
dùng đồ hộp đâu - được rồi, cậu cố làm cho thật tốt nhé!”.
Cuối cùng, có tiếng xủng xoẻng của những đồng
kim loại trao tay, chú chuột đồng được cấp một cái rổ lớn để đựng các thứ sẽ
mua và nó hối hả chạy ù đi, nó và cái đèn lồng của nó.
Những chú chuột đồng còn lại ngồi thành một
hàng vắt vẻo trên chiếc tràng kỷ, vừa đu đưa những đôi chân nhỏ bé vừa tha hồ
sưởi ấm bên lò sưởi và hơ những chỗ bị sưng vì lạnh cho tới khi chúng nóng ran
lên. Trong khi đó, do không thể dễ dàng bắt chuyện với bọn chúng, Chuột Chũi
chuyển sang hỏi chuyện gia đình và bắt mỗi đứa đọc tên cả một lô các em trai,
có lẽ còn quá bé nên năm nay không được phép đi hát mừng nhưng mong sẽ rất sớm
được cha mẹ đồng ý.
Trong khi đó Chuột Nước đang bận xem xét
cái nhãn trên một trong những chai bia.
- Tớ nghĩ đây là của hãng Old Burton, - nó
nhận xét, vẻ đồng tình. - Cậu sành thật, Chuột Chũi à! Của độc đấy! Bây giờ
chúng mình có thể hâm một chút bia được rồi. Cậu dọn các món ra đi, Chuột Chũi,
trong khi chờ tớ mở nút chai.
Việc chuẩn bị đồ uống và ấn sâu cái nồi hâm
bằng thiếc vào giữa lò sưởi rực hồng chẳng mất mấy thời gian; và chẳng mấy chốc
mỗi chú chuột đồng đã vừa nhấm nháp vừa ho và nghẹt thở (vì chỉ một chút rượu
bia hâm nóng đã đủ say), rồi vừa dụi mắt và cười to, quên hết cả những lần mình
đã lạnh trong đời.
- Mấy anh bạn này còn diễn được kịch nữa đấy,
- Chuột Chũi nói với Chuột Nước. - Tự sáng tác và rồi đem diễn. Mà các cậu ấy
diễn cũng rất hay! Năm ngoái các cậu ấy đãi bọn tớ một vở tuyệt vời, về một anh
chàng chuột đồng bị một tên cướp biển tàn bạo bắt và buộc phải đẩy mái chèo khổ
sai trên một chiếc thuyền Galê; và
khi anh chàng trốn thoát trở về nhà thì cô người yêu đã vào một tu viện. Mà
này, cậu kia, cậu có chân trong vở ấy, tôi nhớ mà. Hãy đứng lên mà kể một chút
đi nào!
[Galley: thuyền dài, nông lòng, thường do nô lệ hay tội phạm
chèo, trong thời cổ Hy Lạp hay La Mã -
ND]
Chú chuột đồng được nhắc tới liền đứng dậy,
bẽn lẽn cười rúc rích rồi nhìn khắp quanh phòng nhưng vẫn câm như hến. Các bạn
nó động viên nó, Chuột Chũi dỗ ngon dỗ ngọt và khích lệ nó nhưng chẳng gì có thể
khiến nó vượt qua được nỗi sợ phải đứng trước khán giả. Tất cả mọi người còn
đang bận tíu tít với nó như những người lái đò đang áp dụng các quy định của Hội
Nhân đạo Hoàng gia đối với một trường hợp bị ngập nước quá lâu thì cái then cửa
bỗng “xạch” một cái, cánh cửa mở ra và chú chuột đồng cùng cái đèn lồng lại xuất
hiện, đang lảo đảo vì sức nặng của cái rổ.
Chẳng ai còn tiếp tục nói chuyện về việc diễn
kịch nữa khi mà những món thực sự hấp dẫn trong cái rổ đã được đổ tung trên
bàn. Dưới sự điều khiển của Chuột Nước, mỗi người đều phải làm một việc gì đó
hoặc đi kiếm một cái gì đó. Sau đó ít phút, bữa ăn tối đã sẵn sàng, và Chuột
Chũi trong lúc ngồi xuống ghế ở đầu bàn, cảm thấy lơ mơ như nằm mộng. Nó thấy
cái mặt bàn lúc nãy còn trống trơn giờ đây đã xếp đầy những món ăn ngon, thấy
gương mặt các bạn nhỏ của mình rạng rỡ lên khi chúng lao vào đánh chén ngay lập
tức. Rồi, vì bản thân mình quả đã đói mèm, nó cũng ăn lấy ăn để những món ăn được
cung cấp như thể bởi một phép màu kia và nghĩ suy cho cùng thì chuyến về nhà lần
này hóa ra lại hạnh phúc biết bao. Chúng vừa ăn vừa trò chuyện về ngày xưa, còn
những chú chuột đồng kể cho Chuột Chũi nghe những chuyện tầm phào mới nhất ở
vùng sở tại và trả lời thật rành mạch cả trăm câu hỏi mà nó cần phải hỏi. Chuột
Nước hầu như chẳng nói năng gì mà chỉ quan tâm sao cho từng vị khách ăn và ăn
thật nhiều cái món mà mình thích và Chuột Chũi không phải lo phiền về bất cứ điều
gì.
Cuối cùng, lũ chuột đồng lục tục ra về, cảm
ơn và rối rít chúc mừng Giáng sinh, túi áo chúng căng phồng những món quà kỷ niệm
dành cho các em trai, em gái ở nhà. Khi cánh cửa đã đóng lại sau đứa cuối cùng
trong bọn chúng và tiếng lách cách của những chiếc đèn lồng đã chìm hẳn, Chuột
Chũi và Chuột Nước khơi lại bếp lò, dọn những cái ghế, pha cho mình ly rượu bia
hâm nóng trước khi đi ngủ, và trao đổi với nhau về các sự kiện trong một ngày
dài dằng dặc vừa qua. Cuối cùng, Chuột Nước vừa ngáp dài vừa nói:
- Chuột Chũi thân mến ơi, tớ sắp gục đây
này. Đơn giản vì từ “buồn ngủ” không thật đúng. Giường của cậu ở phía bên kia hả?
Hay lắm, vậy tớ sẽ ngủ giường này. Ngôi nhà nhỏ bé này mới tuyệt làm sao! Mọi
thứ đều rất là tiện lợi!
Nó trèo lên giường, quấn chặt chăn vào người
và giấc ngủ gom lấy nó ngay tức khắc, như một vạt lúa mạch được đặt vào vòng
tay của chiếc máy gặt.
Anh chàng Chuột Chũi mệt mỏi cũng vui mừng
được đi ngủ ngay, và chỉ một loáng nó đã gối đầu lên cái gối của mình, rất vui
sướng và mãn nguyện. Nhưng trước khi nhắm mắt lại, nó còn nhìn quanh gian phòng
cũ kĩ của mình, êm ái trong ánh lửa lò sưởi rực rỡ đang lung linh hoặc ngưng đọng
trên những đồ vật thân quen đã vô tình trở thành một bộ phận của đời nó, và giờ
đây đang tươi cười đón nó trở về, không chút oán hận. Lúc này nó đang ở trong
đúng cái tâm trạng mà cậu bạn Chuột Nước lịch thiệp đã lặng lẽ hành động để đem
đến cho nó. Nó nhận thấy rõ ràng cái căn phòng này mới mộc mạc, bình dị và thậm
chí nhỏ hẹp làm sao, mà cũng nhận thấy rõ ràng căn phòng ấy ý nghĩa biết bao đối
với nó, và thấy được cái giá trị đặc biệt của một bến đậu như thế trong cuộc sống
của mỗi người. Nó chẳng muốn từ bỏ cuộc sống mới cùng những khoảng không gian rực
rỡ ở đó chút nào, chẳng muốn quay lưng lại với ánh nắng và không khí cùng tất cả
những gì mà chúng dâng tặng cho nó để mà bò về nhà và ở lì tại đây. Cái thế giới
ở trên kia thật là quá mạnh mẽ, vẫn mời gọi nó, thậm chí ngay cả tận dưới này,
và nó biết là mình phải trở lại cái sân khấu lớn hơn ấy. Nhưng thực cũng tốt
khi nghĩ rằng nó có căn nhà này để mà trở về, nơi này hoàn toàn là của riêng
nó, những đồ đạc này đã rất vui mừng được gặp lại nó và nó có thể tin chắc rằng
chúng lúc nào cũng chào đón mình một cách bình dị như thế.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét