Gia Đình Dưới Chân Cầu
Tác giả: Natalie Savage Carlson
Dịch giả: Trịnh
Huy Ninh
NXB Thời Đại - 2009
Chương 1
Xưa có một lão lang thang tên là Armand,
lão chẳng chịu ở đâu khác ngoài Paris. Thế nên đó chính là nơi lão sống.
Toàn bộ tài sản của mình, lão chất cả lên một
chiếc xe nôi cũ kĩ không mui mà kéo đi khắp nơi, khỏi lo gì chuyện tiền nhà hay
bị đào tường khoét ngạch. Toàn bộ số quần áo rách rưới mà lão có cũng đều ở cả
trên người rồi nên cũng chả cần đến rương hòm hay máy giặt khô.
Với lão Armand thì chuyện chuyển từ xó này
sang xó kia thật dễ ợt, thế nên buổi sáng muộn tháng Chạp ấy lão nhổ giò lên đường.
Trời lạnh, bầu trời xám sà xuống tận các chóp ống khói của Paris nhưng lão
Armand chẳng để ý vì trong lòng lão đang nhoi nhói một cảm giác, rằng có một điều
gì đó mới mẻ đầy háo hức sắp sửa xảy đến với mình hôm nay.
Lão ư ử trong mồm một giai điệu vui và đẩy
xe qua chợ hoa bên hông nhà thờ Ðức Bà. Những bông hoa nhắc lão nhớ rằng rồi
mùa xuân sẽ về, dù mùa đông cũng không hẳn đã tệ.
Những chậu dạ lan hương mỏng manh cùng
tulip chen chúc nhau trên giá phía trước các dãy kệ. Những bông cẩm chướng và
trúc đào hồng đựng trong mấy cái xô thiếc lớn. Ở đây nhiều nhất là những bó hoa
nhựa ruồi chấm đỏ, những chùm tầm gửi trân châu và những cây thông non bé nhỏ,
sắp Giáng sinh rồi mà.
Cặp mắt còn tinh tường của lão Armand nhận
ra một đống cành gãy với hoa héo vứt lỏng chỏng gần cái kệ có đề chữ “Anabel”.
Thế là lão bèn đưa tay lên chiếc mũ bê rê
đen của mình, hướng về phía người đàn bà mập mạp mặc tạp dề xanh bên ngoài áo
len.
- Xin phép bà và hết sức biết ơn lòng tốt của
bà, thưa bà, - lão nói với cái bà chắc hẳn tên là Anabel ấy, đoạn nhặt những
cành gãy xếp lên đống đồ của mình trên chiếc xe nôi. Sau đó lão lựa một nhánh
nhựa ruồi héo và luồn vào khuyết áo rách bươm của mình. Lão muốn phải trông thật
tươm tất cho điều bất ngờ vui vẻ sắp đến với mình hôm nay.
Cái bà chắc hẳn tên là Anabel chỉ sầm mặt
ngó lão đẩy chiếc xe nôi về hướng Rue de Corse. Lão lê bước đẩy chiếc xe qua những
tòa nhà cổ, hướng ra bờ bên kia sông Seine.
Nhưng vừa ra đến quảng trường trước nhà thờ
Ðức Bà thì lão đã bị một bàn tay từ phía sau túm lấy.
- Xem tương lai đi, thưa ông, - một giọng
véo von cất lên. - Hôm nay ông sẽ có một chuyến phiêu lưu đấy.
Lão Armand buông tay nắm chiếc xe nôi và
quay lại giáp mặt với một phụ nữ gypsy mặc áo lông ngắn và chiếc váy hoa dài
quét đất.
Lão nhe hàm răng lưa thưa cười với bà kia.
- A, cô Mireli, - lão chào. - Bọn cô trở lại
Paris trú đông rồi cơ à?
Khuôn mặt đen đúa của bà gypsy sáng lên bên
dưới tấm khăn choàng xanh.
- Còn có người chẳng phải bao nhiêu mùa
đông rồi vẫn bám lấy Paris đó sao? - bà hỏi, cứ như một mệnh phụ. - Nhưng có việc
gì mà ông ra ngoài sớm thế?
Lão Armand nhún đôi vai bên dưới chiếc áo
choàng dài gần chấm gót.
- Tôi lại ra chân cầu đây, - lão đáp. - Chịu
hết nổi mấy cái góc đường nhốn nháo với mấy con hẻm chật chội ở Place Maubert rồi.
Cả trò lượm rác bán ve chai cũng phát mệt. Tôi đã sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu
mà cô hứa hẹn rồi đây.
Bà Mireli thông cảm lắm.
- Sau những chuyến đi tự do thoải mái trên
những chặng đường dài quanh co thì cái sân mà bọn tôi ở đậu đúng thật chẳng
khác nào cái chuồng, - bà nói, - nhưng được cái cánh đàn ông kiếm được nhiều việc
để làm trong mùa đông. Một thành phố có lắm tiệm ăn như Paris thì chả thiếu gì
xoong nồi cần sửa sang. Mặc dù vậy, tất nhiên, bọn trẻ chẳng nói chuyện gì khác
ngoài những cánh đồng với những cánh rừng mùa xuân.
- Tôi không tài nào chịu nổi cái bọn nhóc ấy,
- lão Armand lầu bầu. - Một lũ sáo đá. Một lũ chim con ngốc nghếch, ríu rít
luôn mồm.
Bà Mireli giơ ngón tay chĩa vào lão mà lắc
lắc.
- Ông nghĩ mình ghét trẻ con, - bà nói, - nhưng
chẳng qua là ông sợ chúng đó thôi. Ông sợ bọn nhóc láu lỉnh đó sẽ thó mất trái
tim của ông nếu chúng biết ông có một trái tim.
Lão Armand càu nhàu nắm lấy tay đẩy của chiếc
xe nôi. Bà Mireli vẫy tay chào lão, nhún nhẩy đôi chân trần xỏ dép sandal màu bạc
đã sờn cũ.
- Nếu ông nghĩ lại về chuyện chân cầu thì cứ
đến sống với chúng tôi, - bà mời. - Bọn tôi ở phía sau Halles - ngay chỗ người
ta đang phá mấy cái nhà cạnh điện Thần Diệu cũ ấy mà.
Lão Armand nặng nề lách dưới một thân cây
đen thui trơ trụi và vòng qua nhà thờ về phía bờ sông mà không thèm liếc nhìn
nó lấy một cái.
Trong cái công viên xanh đằng sau hàng cột
chống có mấy đứa trẻ đường phố đang tha thẩn. Hai đứa trong bọn đang chơi đấu
kiếm, trong khi đứa thứ ba nhỏ hơn thì nhấm nháp một quả táo đỏ ngồi xem. Hai
tay kiếm lăm lăm thanh kiếm tưởng tượng mà vờn quanh nhau. Những bàn tay chém mỗi
lúc một gần, rồi cả hai cùng quên luôn thanh kiếm tưởng tượng mà cứ thế thụi
nhau huỳnh huỵch.
Chúng ngừng chơi lúc lão Armand đi ngang
qua.
- Nhìn ông già ăn mày buồn cười chưa kìa! -
một trong hai kiếm sĩ hét tướng lên.
Lão Armand ngó quanh, lão cũng muốn xem cái
ông già ăn mày buồn cười kia. Hẳn lại lão hề Louis với cái mũ đen cao ngất ngưởng
và cái quần rộng thùng thình đây mà. Rồi thì lão nhận ra mình chính là ông già
ăn mày buồn cười mà thằng bé đang nói đến.
- Liệu hồn mà ăn nói cho đàng hoàng, đồ sáo
đá, - lão đe, đưa tay sờ nhánh nhựa ruồi trên ve áo. - Không ta mách lão Cha
Giáng sinh bạn ta về thói hư của chúng bay bây giờ. Lúc đó đừng có kêu là không
được quà gì ngoài một bó roi giống như bó trên xe ta đây.
Bọn nhóc có vẻ hoảng. Ở bên Pháp người ta gọi
Santa Claus là Cha Giáng sinh. Ông cưỡi một con lừa xám nhỏ từ phương bắc xuống
và phát quà cho những trẻ ngoan.
Ðứa bé nhất chìa cho lão quả táo đang ăn dở.
- Ông ơi, ông có đói không? - nó hỏi. - Ông
có muốn ăn chỗ táo này không ạ?
Nhưng thằng lớn nhất trong bọn đã đấm tay
lên trời, vẻ nhạo báng.
- Dào ôi! - nó dè bỉu. - Làm gì có Cha
Giáng sinh. Toàn chuyện bịa.
- Nếu không tin lời ta, - lão Armand nghiêm
giọng nói, - thì cứ vào cửa hàng Louvre mà xem. Ở ngay gác lửng ấy.
Lão nhăn nhở cười, trông như một trong những
quái vật nhăn nhở trên mấy cái đầu máng xối nhà thờ Ðức Bà. Ở đó đúng là có một
Cha Giáng sinh, và đó là ông bạn Camille của lão, người vẫn thường ngứa ngáy muốn
làm việc mỗi khi trời trở rét.
- Cháu tin ông ạ, thưa ông, - thằng bé có
quả táo nói. - Hôm qua cháu đã thấy Cha Giáng sinh bên ngoài cửa hàng. Ông ấy
đang ăn hạt dẻ rang ngoài đường.
Lão Armand nhún vai rồi vội vã quay lưng rảo
bước về phía cầu. Mireli nói đúng. Trái tim lão, không lo mà giấu đi cho kỹ thì
lũ sáo đá sẽ thó mất. Lão chả muốn dây dưa gì với bọn chúng. Trẻ con đồng nghĩa
với nhà cửa, trách nhiệm cùng một công việc ổn định... tất cả những gì lão đã
quay lưng lại từ lâu. Mà lão thì đang mong phiêu lưu.
Xuôi xuống vài dãy nhà nữa là đến cây cầu
nơi lão sống khi thời tiết không quá khắc nghiệt. Và nhiều người trong số những
kẻ vô gia cư của Paris mà lão thường bù khú trong mùa hè đều đã xí chỗ này chỗ
kia cho mình.
- Nhưng trước tiên phải ăn tối cái đã, -
lão Armand tự nhủ, mắt nhìn sang nhà hàng bên kia đường. Lão liếm ngón tay cái
và giơ lên trời. “Ðúng gió rồi”, lão nghĩ.
Thế là lão tấp cái xe nôi của mình vào cạnh
bức tường thấp và ngồi xuống đón làn hơi thoảng đến từ phía nhà hàng. Lão hít
thật đầy vào phổi tất cả hương vị của nhà bếp.
- Chà, thịt bò nướng than củi, - lão thốt
lên thèm thuồng. - Nước sốt cũng đúng điệu đấy. Nhưng khoai tây quá lửa mất rồi.
Lão Armand cứ ngồi trên vỉa hè như vậy hai
giờ liền để thưởng thức mùi đồ ăn, vì đó là khoảng thời gian mà một người đàn
ông Pháp cho phép mình dùng để ăn trưa.
Rồi lão điệu đàng vén tay áo lau cái miệng
râu ria và đứng dậy trên đôi giầy u u của mình.
- Cứ giữ tiền lẻ đi, chú bồi, - lão hào
phóng nói mặc dù chả có anh bồi bàn mặc đồng phục trắng nào ở đấy cả. - Chú sẽ
cần để tiêu Giáng sinh đấy.
Lão theo bậc cấp từ mặt đường dẫn xuống mép
sông Seine, thả hai bánh sau chiếc xe nôi nảy tưng tưng trên mỗi bậc.
- Hơi bị no, - lão tự nhủ, - nhưng giá mình
cứ lấy quáo lúc nãy thì hay. Ðó sẽ là một món tráng miệng đúng điệu sau cái thứ
nước sốt ngậy như vừa rồi.
Xuống mép sông, lão đẩy chiếc xe nôi về
phía vòm gầm cầu chạy dọc bờ sông. Trên bờ sỏi có một ông đang rửa xe bằng nước
miễn phí của sông Seine. Một bà mặc áo lông đang cho con chó xù nòi Pháp hóng
gió. Một chiếc xà lan dài bóng nhẫy như con hải cẩu đang trôi trên sông. Ðúng là như được về quê sau một thời gian
dài đi xa, lão Armand nghĩ bụng. Mà dưới một cây cầu Paris lại chẳng có thiếu
gì chuyện hồi hộp nữa chứ.
Khi đến gần lão mới trợn mắt vì ngạc nhiên
và tức giận. Một cái lều bạt màu xám nằm chình ình ở hốc tường xưa nay vốn là của
lão. Và một cái xe đẩy kiểu trong chợ dựng ngay bên cây cột.
Lão đẩy xe nôi chạy vội trên lớp sỏi đến hốc
vòm. Ðến nơi, lão hùng hổ thò tay giật tung cái lều. Thế rồi hoảng hốt nhảy
lui.
- Ô là la! - lão hét toáng lên. - Lũ sáo
đá! Cả ổ sáo đá!
Bởi vì có ba đứa trẻ đang khiếp vía rúc vào
cái mền rách, ngước nhìn lên bằng ánh mắt thảng thốt chẳng kém gì lão. Một con
bé và một thằng bé nhủi sâu trong mền. Còn con bé lớn hơn liền nhảy phắt dậy.
Nó có cặp mắt xanh ngay thẳng, rất hợp với cái cằm quyết đoán, cái mũi hếch
cùng mái tóc đỏ hoe.
- Ông không được bắt chúng tôi đi, - nó hét
lên, nắm tay vung vẩy. - Chúng tôi sẽ ở lại với nhau vì chúng tôi là một gia
đình, mà gia đình thì phải gắn bó với nhau. Mẹ chúng tôi dặn thế.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét